You are on page 1of 13

Các tư tưởng biện chứng tiêu biểu trong lịch sử triết học và giá trị của chúng

(tư tưởng biện chứng Phật giáo nguyên thủy, Đạo gia và Lão Tử, của lý thuyết âm
dương - ngũ hành, của các nhà biện chứng Hy lạp cổ, của Hê ghen)

Bài làm

TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo lớn của nền văn hóa Ấn Độ cổ đại.
Nó có ảnh hưởng rộng rãi và lâu dài đến đời sống tinh thần của nhiều dân tộc trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Đức Phật
Thích Ca, tức Thái tử Xítđácta Gôtama (Siddhartha Gautama, 563 - 483 TCN) . Tư tưởng
triết học của Phật giáo nguyên thủy thể hiện trong thế giới quan và nhân sinh quan của
Phật Thích Ca, chúng được trình bày trong tạng Kinh, một trong Tam tạng – kinh điển
của Phật giáo. 

Thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy được phản ánh trong thuyết duyên khởi
và được làm sáng tỏ qua phạm trù vô ngã và vô thường. 

+ Duyên khởi là nói tắt câu “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi”, có nghĩa là các
pháp, - vạn vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần, kể cả giáo lý, - đều do nhân duyên mà
có. Còn nhân duyên là nguyên nhân và điều kiện. Duyên giúp cho nhân biến thành quả…
Phật giáo cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Duyên
khởi từ tâm mà ra. Tâm là cội nguồn của vạn vật. Từ đây, Phật giáo nguyên thủy chủ
trương vô tạo giả, tức không có vị thần linh tối cao nào tạo ra thế giới… Quan niệm vô
tạo giả gắn liền với quan niệm vô ngã, vô thường. 

+ Vô ngã là không có một thực thể tối thượng tồn tại vĩnh hằng nào cả. Trong thế
giới, vạn vật và con người được cấu tạo từ các yếu tố sắc (vật chất như đất, nước, lửa,
gió) và danh (tinh thần như thụ, tưởng, hành, thức) mà không có đại ngã hay tiểu ngã gì
cả. 
+ Vô thường là không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu cả. Trong thế giới, sự xuất
hiện của vạn vật, kể cả con người cũng chỉ là kết quả hội tụ tạm thời giữa sắc và danh;
khi sắc và danh tan ra, chúng sẽ mất đi. Điều này có nghĩa là, vạn vật luôn nằm trong chu
trình sinh – trụ – dị – diệt; chúng luôn bị cuốn vào dòng biến hóa hư ảo vô cùng theo luật
nhân quả. Nhân nhờ duyên mới sinh ra quả, quả nhờ duyên mà thành nhân mới, nhân mới
lại nhờ duyên mà thành quả mới...; cứ như thế, vạn vật biến đổi, hợp – tan, tan – hợp mà
không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng nào cả.

Như vậy, thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính vô thần, nhị nguyên
luận ngả về phía duy tâm chủ quan và có chứa những tư tưởng biện chứng chất phác.

ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH

  Âm dương - Ngũ hành là những phạm trù cơ bản trong tư tưởng của người Trung
Quốc cổ đại. Đó cũng là những khái niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa để giải thích
sự sinh thành, biến hóa của vũ trụ. Việc sử dụng phạm trù Âm dương - Ngũ hành đánh
dấu bước phát triển đầu tiên của tư duy khoa học phương Đông nhằm đưa con người
thoát khỏi sự khống chế về tư tưởng của các khái niệm thượng đế, quỷ thần truyền thống.
Hai học thuyết âm dương ngũ hành được hết hợp làm một từ rất sớm. Nhân vật nổi tiếng
nhất trong việc kết hợp hai học thuyết trên là âm dương gia Trâu Diễn. Ông đã dùng hệ
thống lý luận âm dương ngũ hành "tương khắc, tương sinh" để giải thích mọi vật trong
trời đất và giữa nhân gian. Trâu Diễn là người đầu tiên vận dụng thuyết âm dương ngũ
hành vào giải thích các hiện tượng xã hội nói chung. Biểu hiện cụ thể của Âm – Dương là
ngũ hành. Ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Thuyết Ngũ hành cho rằng các yếu tố
vật chất nguyên thủy ấy không phải ở trạng thái tĩnh mà là động, không phải cô lập với
nhau mà là có quan hệ mật thiết, hơn nữa còn biện chứng với nhau, cái này chuyển hóa
thành cái kia. Mối quan hệ giữa các hành trong ngũ hành được làm rõ qua các quy luật
sau: Ngũ hành tương sinh: “Sinh” có nghĩa là tương tác, nuôi dưỡng, giúp đỡ. Giữa các
hành trong ngũ hành đều có quan hệ nuôi dưỡng lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát
sinh và phát triển. Quan hệ tương sinh của ngũ hành là mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ
sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc. Ngoài quy luật tương sinh còn có quy luật tương
khắc. "Khắc" có nghĩa là chế ước, ngăn trở, loại trừ. Thứ tự của ngũ hành tương khắc là:
mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc. Hai học thuyết
Âm dương – Ngũ hành luôn phối hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau. Muốn nhìn nhận sự vật
một cách chỉnh thể, đòi hỏi phải vận dụng kết hợp cả hai học thuyết. Vì học thuyết âm
dương mang tính tổng hợp, thể hiện tính đối lập thống nhất, tính thiên lệch và cân bằng
của sự vật, còn học thuyết ngũ hành nói lên mối quan hệ phức tạp, đa dạng giữa các yếu
tố, các bộ phận. Có thể khẳng định, trên cơ bản, Âm dương - Ngũ hành là có mối quan hệ
mật thiết, không thể tách rời.

Lý luận Âm dương – Ngũ hành được các trường phái, các nhà tư tưởng vận dụng
khá phổ biến khi họ đề cập đến lịch sử xã hội và làm mất đi tính duy vật tự nhiên ban đầu
của nó. Mạnh Tử đã vận dụng thuyết Ngũ hành, xuyên tạc nó để xây dựng thuyết đạo đức
có tính chất thần bí. Ông cho rằng năm đức của con người ta là từ năm hành mà ra, có
quan hệ chế ước (khắc), bồi đắp (sinh) theo luật của Ngũ hành. Quan niệm có tính biện
chứng về luật Âm dương đắp đổi là cơ sở triết học quan trọng trong nhân sinh quan mang
màu sắc tiêu cực thụ động của Đạo gia, đặc biệt là ở Lão Tử và Trang Tử (như quan
niệm: Trong Họa có Phúc; trong Lợi có Hại…). Trong quá trình thống nhất quốc gia thời
Tần – Hán sau này, lý luận Âm dương – Ngũ hành đã được giai cấp địa chủ phong kiến
khai thác triệt để, được sử dụng làm căn cứ lý luận để chứng minh “Tính hợp lý” của sự
ra đời chính quyền thống nhất, của trật tự xã hội mới.

TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG CỦA LÃO TỬ

Lão Tử là người sáng lập nên Đạo gia, là người viết nên Đạo đức kinh – một trong
những cuốn sách đáng chú ý nhất trong lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại. Trong tác
phẩm Đạo Đức Kinh, Lão Tử đã xây dựng nên tư tưởng về phép biện chứng về quá trình
vận động, phát triển của vạn vật trong xã hội, tự nhiên và cả trong nhận thức. Sự vận
động biến đổi của vạn vật tuân theo sự vận động biến đổi của Đạo. Đạo luôn tuân theo
luật quân bình và luật phản phục. Luật quân bình đã được ông nâng lên thành một nghệ
thuật sống của con người; lối sống hoà hợp, nhân ái; hoà hợp với tự nhiên, hoà hợp với xã
hội, hoà hợp với mọi người xung quanh, hoà hợp giữa tâm hồn và thể xác con người. Đây
cũng là bài học đáng quý cho con người ngày nay khi muốn nâng cao chất lượng cuộc
sống của mình.

- Theo Lão Tử, mỗi sự vật đều là sự thống nhất của hai mặt vừa thống nhất, vừa
đối lập, vừa ràng buộc, bao hàm lẫn nhau tiến tới thống nhất với nhau. Ông viết: “trong
vạn vật không có vật nào không cõng âm, bồng dương nhân chỗ sung nhau mà hòa vào
nhau” (chương 42). Sự đối lập và thống nhất này theo Lão Tử chúng luôn tuân theo luật
quân bình để điều hòa nhau. Cũng giống như nguyên lý âm - dương, quy luật mâu thuẫn
có những đặc tính đối lập nhau như cương - nhu, nóng - lạnh, sáng - tối… Tuy nghịch
nhau, nhưng để mà bổ sung nhau, chứ không phải để triệt tiêu lẫn nhau. Hễ âm cực thì
dương sinh, dương cực thì âm sinh, “vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản”. - Theo Lão tử,
nguồn gốc của mọi sự phát triển đó là mối quan hệ giữa “động” và “tĩnh”, giữa “thống
nhất” và “đấu tranh” của các mặt đối lập. Ông cũng vạch ra được mối quan hệ biện chứng
của các mặt đối lập là nguồn gốc của mọi sự vận động và biến đổi vì chúng có thể chuyển
hóa cho nhau. Chương 22, 23 ông viết: “họa là tựa của phúc, phúc là chỗ náu của họa,
khuyết thì toàn vẹn, cong lại ngay, trũng lại đầy, cũ lại mới... "... có và không sinh lẫn
nhau; dễ và khó tạo nên lẫn nhau;… ngắn và dài làm rõ lẫn nhau; cao thấp dựa vào nhau;
âm và thanh hoà lẫn nhau; trước và sau theo nhau"[4]. “Làm việc khó, bắt nơi chỗ dễ;
làm việc lớn, bắt nơi chỗ nhỏ; việc khó trong đời khởi nơi chỗ dễ; việc lớn trong đời khởi
nơi chỗ nhỏ; bởi vậy thánh nhân, suốt đời không làm chi lớn, nên mới thành được việc
lớn, kẻ hứa dễ, ít tin được” (chương 62). 

Giá trị và hạn chế của tư tưởng biện chứng trong tác phẩm Đạo đức kinh của Lão
Tử: 

- Giá trị: Phép biện chứng của Lão Tử có những giá trị nhất định mà cho đến nay
vẫn phù hợp. Đó là, ông đã xây dựng được một loạt các mâu thuẫn trong các lĩnh vực tự
nhiên, xã hội, đạo đức, các quan hệ xã hội tuy để giải quyết theo chủ trương điều hòa của
ông nhưng lại được nâng lên như một nghệ thuật sống: “động - tĩnh”, “nóng - lạnh”,
“thấp - cao”, “mềm - cứng”, “hữu - vô”, “mất - còn”, “thọ - yểu”, “thiện - ác”, “tốt - xấu”,
“hưng - vong”,… Ông chỉ ra rằng muốn phế bỏ hãy làm cho hướng lên, muốn đoạt lấy
hãy cho đi thế gọi là sâu kín mà sáng sủa. 

- Hạn chế: Quan điểm về phát triển của Lão Tử không theo hướng ra đời cái mới
mà theo vòng tuần hoàn của luật phản, phục. Mặt khác, ông không chủ trương giải quyết
mâu thuẫn bằng chuyển hóa giữa các mặt đối lập mà ông chú trọng lấy cái “tĩnh”, cái “vô
vi” để điều hòa, để làm sự vật phát triển. Sự chuyển hóa của “các mặt đối lập” ở Lão Tử
chính là sự điều hòa theo luật quân bình. Chính vì thế làm mất đi sinh khí trong phép biện
chứng của Lão Tử.

TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG CỦA HEGEL

Phương pháp biện chứng của Hegel là phương pháp suy ngẫm về thế giới. Kết quả
của phương pháp này là hình ảnh suy tư chỉnh thể về thế giới chứ không phải là bức tranh
thế giới thu được nhờ kết quả của khoa học cụ thể.

Thành tựu lớn nhất của nền triết học cổ điển Đức là phép biện chứng. Phép biện
chứng duy tâm khách quan của triết học cổ điển Đức bắt đầu từ Kant, qua Fichte,
Schelling và đỉnh cao là Hegel.

Theo Hegel, triết học là sự xem xét đối tượng một cách có suy nghĩ. Đối tượng của
triết học, theo ông, là trùng với đối tượng của tôn giáo, đó là khách thể tuyệt đối vô hạn
Thượng đế. Còn tư duy nói chung là cái làm cho con người khác động vật. Thành tựu
quan trọng về triết học Hegel là phương pháp biện chứng mà hạt nhân hợp lý của nó là tư
tưởng về sự phát triển.

Phương pháp biện chứng của Hegel là phương pháp suy ngẫm về thế giới. Kết quả
của phương pháp này là hình ảnh suy tư chỉnh thể về thế giới chứ không phải là bức tranh
thế giới thu được nhờ kết quả của khoa học cụ thể. Để suy ngẫm về thế giới, Hegel đã
bao trùm lên nó một hệ thống phạm trù hay đúng hơn là quan niệm lý trí về thế giới.
Phương pháp biện chứng được thể hiện xuyên qua toàn bộ hệ thống triết học của ông từ
logic học, triết học tự nhiên đến triết học tinh thần.
Trong tác phẩm Logic học, khi trình bày “ý niệm tuyệt đối” vận động và phát
triển, Hegel cho rằng đó là sự tự vận động nội tại của “ý niệm tuyêt đối”. Tự vận động
tức là sự thay đổi các hình thức khác nhau của “ý niệm tuyệt đối”. Lenin tìm thấy hạt
nhân hợp lý trong phương pháp biện chứng của Hegel là sự tự vận động. Nội dung hợp lý
sâu sắc trong quan điểm trên của Hegel là mối liên hệ tất yếu, là nguồn gốc nội tại của
những sự khác nhau. Khi trình bày “ý niệm tuyệt đối” phát triển, Hegel thừa nhận tồn tại,
bản chất, khái niệm là ba sự quy định, ba hình thức chủ yếu trong quá trình phát triển ở
lĩnh vực logic. Hạt nhân hợp lý trong logic của Hegel là sự phù hợp với quá trình suy
nghĩ của con người: mới nhìn vào sự vật thấy tồn tại, đi sâu vào sự vật tìm ra bản chất,
khi nắm bản chất ta rút ra khái niệm.

Trong Logic học, ở phần tồn tại, Hegel cũng đã diễn đạt các phạm trù chất, lượng,
độ và tư tưởng biện chứng về sự chuyển hóa lượng – chất. Ở phần bản chất, Hegel diễn
đạt các phạm trù bản chất, hiện tượng, quy luật, khả năng và hiện thực, nguyên nhân và
kết quả, trình bày học thuyết mâu thuẫn nguồn gốc của sự phát triển.

Ở phần khái niệm, Hegel đã diễn đạt các phạm trù cái chung và cái riêng, quy nạp
và diễn dịch, phân tích và tổng hợp, đã diễn đạt các nguyên lý sự hoạt động có mục đích
của con người, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng hợp lại quan niệm phát triển
với tư cách là phủ định của phủ định.

Sự biện chứng của Hegel còn được thể hiện ở chỗ ông đã đặt ra vấn đề sự thống
nhất của quá trình logic với quá trình lịch sử; logic học, nhận thức luận đều là sự tổng
hợp của quá trình lịch sử; ông nêu lên tính hạn chế của logic hình thức và đòi hình thành
một logic nội dung thực tế, sinh động; ông nêu lên tư tưởng thống nhất giữa phép biện
chứng, logic học và lý luận nhận thức.

Trong triết học tự nhiên, hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của Hegel là tư
tưởng về sự thống nhất giữa vật chất với vận động, dự đoán không gian, thời gian và vận
động có mâu thuẫn bên trong, ở đó thể hiện tính thống nhất giữa tính gián đoạn và tính
liên tục; là tư tưởng cho rằng sự khác biệt hóa học về chất bị phụ thuộc vào những thay
đổi về lượng, là sự biện chứng của quá trình hóa học; là mối liên hệ hữu cơ giữa hóa học
và vật lý, quá trình hóa học là khâu chuẩn bị cuối cùng cho đời sống hữu cơ.

Trong triết học tinh thần, hạt nhân hợp lý trong phép viện chứng của Hegel thể
hiện ở chỗ ông coi sự phát triển của lịch sử là hợp quy luật; sự phát triển của lịch sử
không tuần hoàn mà đi lên, mỗi thời đại lịch sử đều có đặc điểm riêng và quá trình phát
triển của lịch sử là có tính kế thừa.

TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG CỦA CÁC NHÀ BIỆN CHỨNG HY LẠP CỔ ĐẠI

1. Tư tưởng và giá trị về tính thống nhất của vạn vật trong vũ trụ, về sự vận
động biến đổi của thế giới trong triết học Hy lạp cổ đại

1.1. Tư tưởng về sự thống nhất vật chất của thế giới ở cái đơn nhất và sự vận
động, biến đổi của thế giới

Tư tưởng này đã thể hiện rõ ngay ở những nhà triết học đầu tiên, như Nước của
Talét. Đặc tính vốn có của nước được nâng lên cấp độ thần linh. Các thần là những lực
lượng vận động trong thế giới, chúng đóng vai trò là nguồn gốc của vận động, biến đổi
hữu hình.

Anaximanđrơ đã phát triển một cách sâu sắc hơn nguyên lý về sự thống nhất của
vật chất. Nếu như yếu tố cảm tính trực tiếp đã chiếm ưu thế ở Talét, thì ở Anaximanđrơ
yếu tố ấy đã trở nên trừu tượng hơn, mặc dù về thực chất, nó vẫn còn ở trình độ tính đơn
nhất. Có thể nói, nếu Talét không giải thích chi tiết làm sao chất liệu sơ đẳng hoá thành
nhiều sự vật khác nhau, nhưng Anaximanđrơ tự đặt cho mình câu hỏi này.

Anaximen đã trở lại quan niệm về khởi nguyên đầu tiên với tư cách là một dạng
vật chất xác định - không khi. Không khi của Anaximen là sự kết hợp khái niệm về một
thực thể nhất định của Talét với khái niệm mới của Anaximanđro về cái vô hạn trong
trạng thái chuyển động liên tục.

Vũ trụ xét về tổng thể, theo Heraclit là cái Đơn, nhưng cái Đơn đó phải là tổng thể
của sự thống nhất của vạn vật, trong vũ trụ đơn lẻ này những sự vật hiện tượng nội tại tự
nó biến đổi đa dạng, vận động. chuyển hoá, biến đổi sang những mức độ khác nhau mà
cơ sở của chúng là ngọn lửa. Theo Heraclit mọi cái trôi đi không ngừng, vận động không
ngừng, bởi vì các mặt đối lập chuyển hoá cho nhau không ngừng. Tuy nhiên, Heraclit
bằng mọi cách nhấn mạnh sự lưu lại trong quá trình thay thế, sự ổn định trong quá trình
biến đổi.

1.2. Tư tưởng về sự thống nhất thế giới ở cái đặc thù và sự vận động, biến đổi
của thế giới

Empêđốclơ đồng ý với Pácmênit rằng cái hiện hữu là tự có và không thể huỷ diệt,
đơn giản là nó tồn tại. Nhưng ông không đồng ý rằng cái hiện hữu chỉ đơn thuần bao gồm
cái một. Theo ông, mặc dù các sự vật có thể thay đổi, như Heraclit đã nói, nhưng những
phần tử cấu thành chúng thì không thay đổi. Các phần tử vật chất ấy là: đất, nước, lửa và
không khí. Empêđốclo đã cho rằng sự vận động của bốn căn nguyên này diễn ra dưới sự
tác động của hai lực đối lập nhau là Tình yêu (Philia) và Căm thủ (Neikos).

Anaxago đã coi quá trình biến đổi là quá trình kết hợp và phân tách theo lỗi cơ học
của các phần tử vật chất mà mắt thường không nhận thấy được. Bản nguyên vô hạn về số
lượng và tràn ngập khắp nơi, thảm nhập vào mọi thứ, và từ mọi thứ mà ra. Ông thấy thế
giới và mọi vật thể trong đó có một cấu trúc trật tự và phức tạp, đòi hỏi một cái tồn tại có
tri thức và năng lực làm nguyên lý giải thích. Một nguyên lý lý tri như thế được ông đưa
ra là khái niệm tinh thần (Nous).

1.3. Tin tưởng về sự thống nhất của thế giới ở cái phổ biến và sự vận động, biến
đổi của thế giới

Loxip, Đệmôcrit cho rằng “Bản nguyên của vũ trụ - đó là nguyên tử và khoảng
không". Loxip và Đêmôcrit không thừa nhận có sự khác biệt về chất giữa các nguyên tử.
Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, không thể phân chia được. Nguyên tử là vĩnh
viễn, bắt biển. Nguyên tử khác nhau về hình dạng, trật tự, vị trí. Đêmôcrít còn đưa ra một
quan niệm độc đáo về sự tồn tại của cái gọi là “nguyên tử hình học” hay “nguyên tử toán
học”. Vũ trụ hay thế giới này, trong quan niệm của Lexip và Đêmöcrit, là vật chất đang
vận động, đó là sự vận động của các nguyên tử trong chân không, vận động là vốn có
trong nguyên tử, không gian là điều kiện chứ không phải nguyên nhân của vận động.

1.4. Giá trị của tư tưởng về pha trông về tinh thống nhất của vạn vật trong vũ
trụ

Tư tưởng về tính thống nhất của vạn vật trong thế giới của các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại ra đời đã xoá đi vết tích của thần thoại; là cơ sở, là nguồn cho học thuyết của
các nhà triết học thế hệ sau; đặt cơ sở cho các ngành khoa học cụ thể sau này phát triển.

1.5. Giá trị của tư tưởng về sự vận động, biến đổi vĩnh viễn của thế giới

Người có đóng góp to lớn trong quan niệm vật chất vận động thuộc về Heraclit.
Lần đầu tiên Heraclit trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại
không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều
không ngừng phát sinh và tiêu vong. Đặc biệt, Heraclit còn nhấn mạnh sự lưu lại trong
quá trình thay thế, sự ổn định trong quá trình biến đổi. Ông còn nhận rõ nguồn gốc biến
hoá của tự nhiên là mâu thuẫn nội tại trong mỗi một sự vật và ở sự tranh đấu nội tại của
các mâu thuẫn đó.

2. Tư tưởng về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong thế giới
vật chất

2.1. Tư tưởng về sự thống nhất của các mặt đối lập

Ngay từ Talét, tư duy của nhà triết học này đã muốn hướng vào việc xem xét các
mặt đối lập trong sự thống nhất của chúng. Vấn đề về sự thống nhất của các thuộc tỉnh
đối lập đã trở thành đối tượng quan tâm sâu sắc của học trò của Talét là Anaximandre.
Anaximen - nhà triết học Milê thứ ba cũng giữ lại học thuyết về các mặt đối lập nhưng có
sửa đổi.

Khẳng định tỉnh thống nhất của thế giới, của Vũ trụ ở ngọn lửa sống duy nhất,
vĩnh hằng, Heraclit cho rằng thế giới hiện thực hay Vũ trụ đang tồn tại ấy là cái duy nhất,
đồng thời cũng là cái bội đa. Quan niệm này đã đưa Heraclit đến một trình độ khái quát
triết học cao hơn, trừu tượng hơn về sự thống nhất của các mặt đối lập trong Vũ trụ.

Tư tưởng về sự thống nhất của các mặt đối lập đã được tiếp tục thể hiện trong học
thuyết của các nhà triết học khác, sau ông, nhưng nói chung, ở họ không có sự phát triển
gì thêm, nếu không nói là thụt lùi.

2.2. Tư tưởng về sự đấu tranh của các mặt đối lập

Anaximandrơ là nhà triết học đầu tiên trong triết học Hy Lạp cổ đại dưới hình thức
chung, đã đưa ra tư tưởng về sự đấu tranh với tư cách nguồn gốc của mọi thứ đang diễn
ra. Ông xem đấu tranh là sự xâm nhập của một vật này vào lĩnh vực của một vật khác, là
một loạt hành vi bất công được các sự vật tiến hành trong quan hệ với nhau, là "sự đến
bừ” tất yếu cho sự bắt công đó. Tư tưởng về sự đấu tranh của các mặt đối lập trong triết
học Hy Lạp cổ đại, đã được Heraclit phát triển đến đỉnh cao. Cái làm nên nét độc đáo, sự
khác biệt rõ ràng nhất giữa Heraclit và các nhà triết học Hy Lạp cổ đại khác chính là quan
niệm về sự hài hòa và đấu tranh của các mặt đối lập - quan niệm được coi như là một
phỏng đoán thiên tải của Heraclit về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.

2.3. Giá trị của tư tưởng về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
trong thế giới

Cũng như Talét, Anaximanđro đã đưa ra phỏng đoán về sự thống nhất của các mặt
đối lập dưới hình thức thô thiển. Vấn đề về các mặt đối lập ở các nhà triết học Milê chủ
yếu có liên quan với vấn đề về chất lượng của các hiện tượng tự nhiên. Dưới hình thức
ngây thơ các nhà triết học này đã đưa ra tư tưởng về sự phản đối của sự thống nhất giữa
các mặt đối lập.

Những suy luận của các nhà triết học Milê được phát triển sâu sác trong triết học
của Hêraclít. Hêraclít đưa ra cách trình bày đầu tiên về quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập.

3. Tư tưởng biện chứng về quá trình nhận thức


3.1. Nội dung tư tưởng biện chứng về quá trình nhận thức

Mặc dù rất đề cao vai trò của lý tỉnh trong nhận thức, Heraclit vẫn đánh giá cao vai
trò của các dữ liệu cảm tính do các giác quan của con người mang lại. Ông đã phân biệt
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, đã thấy sự tương tác giữa hai giai đoạn nhận
thức này.

Trường phái Êlê đã góp phần thúc đẩy đáng kể sự phát triển của các vấn đề nhận
thức luận. Tuy nhiên, có thể nói, tất cả các đại biểu của trường phái này đều tách rời nhận
thức lý tính và nhận thức cảm tính, đem đối lập nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính,
thậm chí, phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính.

Đêmôcrit đã chia nhận thức của con người thành hai dạng Nhận thức mở tối và
nhận thức chân lý. Đêmôcrit, một mặt, khẳng định vai trò quan trọng và ý nghĩa không
thể thiếu của nhận thức cảm tính; mặt khác, lại tỏ ra nghi ngờ, hoài nghi tính xác thực
tuyệt đối của những hiện tượng, những bằng chứng có được nhờ trực quan cảm tính. Để
luận chứng cho quan niệm của mình về sự nan giải và những trở ngại trên con đường
nhận thức chân lý, Đêmôcrit đã đưa ra khái niệm giới hạn của cảm giác. “Iđôlơ” hay
“hình tượng” đóng vai trò rất quan trọng trong lý luận nhận thức của Đêmôcrit. Theo ông,
nhờ có Iđôlơ người ta mới có cảm giác.

Arixtốt cho rằng loài người có thể nhận thức được thế giới chung quanh, có thể đạt
tới khoa học. Arixtốt phản đối việc coi quá trình nhận thức là quá trình bị động thuần tuý
và khẳng định rằng rằng, nhận thức của con người không thể tách rời xã hội, không thể
tách rời sự quan sát tự nhiên. Theo Arixtốt, quá trình nhận thức diễn ra như sau: trước
tiên sự vật bên ngoài tác động vào cảm thụ của con người mà dẫn tới cảm giác, ký ức lại
dành được kinh nghiệm qua cảm giác, sau cùng từ kinh nghiệm lên tới khái niệm của
nghệ thuật và khoa học. Trong lĩnh vực lý tinh, việc Arixtốt bơm to tác dụng của lý tính,
tư duy thì lại đi gần với chủ nghĩa Platôn. Hơn nữa, Arixtốt không hề nói tới sự chuyển
hóa từ biểu tượng sang khái niệm.

3.2. Giá trị trong tư tưởng biện chứng của quá trình nhận thức
Cái làm nên sự độc đáo trong học thuyết về nhận thức của Heraclit là ở lối tư duy
suy luận theo kiểu trực giác trí tuệ, nhưng đó cũng chính là cái làm nên sự hạn chế trong
triết học của ông.

Đêmocrit đã khắc phục được tính chất hạn chế trong chủ nghĩa hiện thực ngây thơ
ở các nhà triết học thuộc trường phải lôni. Và, đặc biệt, Đêmôcrit đã đưa ra khái niệm
Idôlơ (hình ảnh, hình tượng) để lý giải sự tác động của khách thể nhận thức đến chủ thể
nhận thức.

Sự thừa nhận của Arixtốt về tính khách quan của cảm giác và cảm giác là nguồn
gốc của mọi nhận thức, nhận thức lý tính cần phải dựa vào nhận thức cảm tính, phản đối
tri thức lý tính do trời phú sẵn, nhấn mạnh ý nghĩa kinh nghiệm trong thực tiễn - đó là
những tinh hoa trong nhận thức luận của Arixtốt.

4. Tư tưởng biện chứng của khái niệm triết học Hy Lạp cổ đại

4.1. Nội dung tư tưởng biện chứng của khái niệm triết học Hy Lạp cổ đại

Theo Xôcrát, sự nghiên cứu biện chứng về đối tượng trước hết là ở sự xác định
khái niệm về đối tượng đó. Phép biện chứng của Xôcrất là sự phát hiện cái chung trong
cái khác biệt, cái thống nhất trong cái đa dạng, loài trong giống, bản chất trong các biểu
hiện của

nó.

Vấn đề cơ bản trong phép biện chứng của Platôn là vấn đề xác định vai trò của các
khái niệm chung trong việc nhận thức chân lý. Ở cái mà Platon gọi là phép biện chứng có
các cách tiếp cận thật sự với phép biện chứng duy tâm của các khái niệm (thông qua sự
thâm nhập lẫn nhau của chúng).

4.2. Giá trị trong tư tưởng biện chứng của khái niệm

Xôcrất đã có công thúc đẩy việc phát triển các khái niệm chung trong triết học.
Platôn đã luận chứng tinh chân lý của các nguyên tắc lôgic sơ đẳng, sự luận chứng
được ông để chống lại phép nguỵ biện. Platôn đã xây dựng cơ sở cho học thuyết về phạm
trù, về chủng loại và tiểu loại của các khái niệm, về sự thống nhất quy nạp – suy diễn như
phương pháp tiếp cận chân lý, về sự phát triển thông qua các mặt đối lập. Quan điểm của
ông về sự thống nhất hiện chứng của tồn tại và không tồn tại, của cái đơn và cái đa, của
cái đồng nhất và cái khác biệt, của đứng yên và vận động có một ý nghĩa rất lớn trong sự
phát triển nhận thức con người, nó có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển tư tưởng
của các nhà biện chứng lỗi lạc Arixtốt và Hêghen.

You might also like