You are on page 1of 774

HAI CHÂN LÝ VỚI

BÁT KHÔNG HOÀN ĐẠO

1
2
HOÀNG VĂN TRƯỜNG
(Nhật Sư Hoàn Đạo)

HAI CHÂN LÝ VỚI


BÁT KHÔNG HOÀN ĐẠO
(TRIẾT HỌC VỀ ĐẠO HỢP NHẤT CỦA VŨ TRỤ)

3
4
GIỚI THIỆU:

Cuốn “Hai Chân Lý Với Bát Không Hoàn Đạo” là cuốn


triết học về Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Đây là hệ thống tri thức
của hai Chân lý, đó là Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ,
những tri thức đã nâng tầm giá trị vô lượng của hai Chân lý.
Những tri thức trong cuốn này là ánh sáng trí tuệ siêu việt để
giải mã, soi sáng toàn bộ sự thật về cội nguồn Vũ trụ, cội
nguồn nhân loại, bản chất của tất cả vạn vật trong và ngoài
Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Đặc biệt, những tri thức của
hai Chân lý đã hợp nhất giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa
duy tâm, cho thấy duy vật và duy tâm là một, tất cả đều là vật
chất, có chăng mức độ rung động trong sợi mã sóng của hạt
năng lượng khác nhau nên cấu tạo thành các nhóm vật chất
khác nhau.
Hai Chân lý với Bát Không Hoàn Đạo đã trở thành Đạo
hợp nhất của Vũ trụ thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân
gian và con đường giác ngộ, chuyển sinh Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng. Đây là kết quả tất yếu của sự vận động, của
kế hoạch tu hành của vị Tuệ linh đầu tiên cùng dạng sống
Tuệ linh đã đạt được. Cuốn “Hai Chân Lý Với Bát Không Hoàn
Đạo” bao gồm những nội dung sau:
- Cội nguồn sự tồn tại và phát triển của Vũ trụ;
- Cội nguồn của nhân loại;
- Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ;
- Bát Không Hoàn Đạo;
- Cõi trời Địa phủ – Cõi tạm của nhân gian tu hành.
***************

5
6
ĐẠO HỢP NHẤT CỦA VŨ TRỤ:

Đạo hợp nhất của Vũ trụ là Vũ trụ quan xung quanh


Tuệ linh và con người, Tuệ linh và con người phải dùng chân
tâm để thấu hiểu và cải tạo Vũ trụ, Tuệ linh và con người trở
nên phát triển bền vững. Con người là hóa thân của Tuệ linh
để truy tìm Đạo hợp nhất của Vũ trụ, do đó, con người chính
là trung tâm của Đạo.
Đạo hợp nhất của Vũ trụ có hình tướng và tâm tướng.
Hình tướng là bốn biểu hiện của Đạo, đó là Đạo đời, Đạo lễ,
Đạo đường, Đạo Đế vương. Tâm tướng của Đạo chính là việc
Tuệ linh và con người thấu hiểu, thực hành giác ngộ triệt để,
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Thông qua việc Tuệ linh hóa thân làm con người để
tương tác với bốn hình tướng Đạo trong tất cả các kịch bản
tương tác, Tuệ linh và con người sẽ thấu hiểu Chân lý Vạn
vật, từ đó sẽ giác ngộ được Chân lý Giác ngộ. Hai Chân lý sẽ
giúp cho Tuệ linh và con người chuyển hóa Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng. Bộ lọc năng lượng chính là Đạo hợp nhất của
Vũ trụ, Đạo hợp nhất của Vũ trụ là con đường duy nhất giúp
Tuệ linh, con người, vạn vật chuyển sinh bền vững và chấm
dứt triệt để khổ đau.
Trong cuốn “Hai Chân Lý Với Bát Không Hoàn Đạo”
này, chúng ta sẽ thấu hiểu chính xác về Đạo, về Đạo hợp nhất
của Vũ trụ. Từ đó, chúng ta nhìn thấy sự sai lệch, nhầm lẫn
của các tôn giáo, các hệ phái từ cổ xưa tới nay khi nói về Đạo.
Chúng ta sẽ hiểu tôn giáo chỉ là một biểu hiện của Đạo, Đạo
bao trùm tất cả, trong đó có tôn giáo, bao trùm toàn bộ trong
và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Chúng ta sẽ biết thế

7
nào là tu Đạo đúng, tu đúng chính là cải tạo chính ta và vạn
vật phát triển bền vững. Phải biết chính xác về Đạo để tu
đúng mới thành Đạo được.
***************

8
ĐẠO GIÁC NGỘ:

Đạo Giác Ngộ là quá trình vận động để trí tuệ của Tuệ
linh, con người thấu hiểu tận cùng, triệt để về Vũ trụ quan
trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người; tiếp đến là cải
tạo chính Tuệ linh, con người cùng vạn vật trong và ngoài Vũ
trụ trở nên phát triển bền vững.
Đạo Giác Ngộ được thể hiện rõ qua hai nội dung:
- Thấu hiểu tận cùng, triệt để về cội nguồn, căn nguyên
của sự tồn tại, phát triển, sinh diệt, bản chất của vạn vật, sự
việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
- Tự thân vận động để thấu hiểu tất cả các khổ đau của
Tuệ linh, con người, vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Thấu hiểu
căn nguyên tận cùng của tất cả các khổ đau. Truy tìm và thực
hành con đường giải thoát khổ đau đó. Thấu hiểu cảnh giới
sau khi giải thoát khổ đau. Cuối cùng là lan tỏa sự thấu hiểu
tận cùng đó đến với toàn bộ Tuệ linh, con người cùng thực
hành theo.
Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ là phương thuốc,
là con đường, là ánh sáng mặt trời duy nhất để Tuệ linh, con
người đạt được trí tuệ Giác Ngộ viên mãn. Có thể nói Đạo
Giác Ngộ chính là dùng hai Chân lý để có được trí tuệ Giác
Ngộ viên mãn nhất, để cải tạo và phát triển Tuệ linh và con
người, vạn vật trong và ngoài Vũ trụ trở nên bền vững nhất.
Như vậy, Đạo Giác Ngộ chính là cơ chế chuyển sinh, là con
đường đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ.
***************

9
10
PHẦN 1
CỘI NGUỒN SỰ TỒN TẠI VÀ
PHÁT TRIỂN CỦA VŨ TRỤ

11
12
Giới thiệu:

Vũ trụ với vô số khối thiên hà, mỗi khối thiên hà có


nhiều dải thiên hà, mỗi dải thiên hà lại có vô số mặt trời, mỗi
mặt trời lại có nhiều hành tinh vệ tinh quay xung quanh. Các
khối thiên hà được sắp xếp từ tâm của không gian Vũ trụ, các
khối thiên hà cứ tầng tầng, lớp lớp bao bọc từ tâm ra ngoài
tạo thành một Vũ trụ thống nhất. Vũ trụ nhìn giống như một
tinh cầu khổng lồ với vô lượng khối dải thiên hà, đó là toàn
bộ không gian bên trong Vũ trụ.
Ngoài ra còn có không gian bên ngoài Vũ trụ. Đó là
không gian không có sự tồn tại của vật chất và không có sự
tồn tại của hạt năng lượng cấu tạo thành các dạng sống như
bên trong không gian Vũ trụ. Đó là không gian chỉ tồn tại hạt
sóng và năng lượng hoại diệt.
Bí mật của không gian trong và ngoài Vũ trụ là bí mật
vô cùng không chỉ đối với nhân loại trên Trái đất, nó còn là bí
mật to lớn đối với dạng sống Tuệ linh (dạng sống trí tuệ siêu
việt nhất Vũ trụ). Tôi với trí tuệ siêu việt của Tuệ linh đã và
đang mang sứ mệnh giúp nhân loại thấu hiểu cội nguồn, bí
mật của trong và ngoài Vũ trụ, giúp cho nhân loại hiểu rõ cội
nguồn nhân loại và nhiệm vụ tu hành của con người ở nhân
gian là gì. Thấu hiểu được cội nguồn sự hình thành sự sống
của Vũ trụ chính là khai mở cội nguồn quá khứ để đi đến
tương lai trong sự hoàn thành viên mãn nhiệm vụ tu hành
nơi nhân gian này.
***************

13
14
Bài 1:
Hạt sóng dã chiến – Cội nguồn của vụ nổ
siêu năng lượng hình thành Vũ trụ


Hạt sóng dã chiến là những chiến binh:


Hạt sóng dã chiến cũng giống như những chiến binh dã
chiến, họ có sứ mệnh thực hiện từ một cho đến nhiều nhiệm
vụ, họ độc lập tác chiến trong môi trường nhất định để thực
hiện và hoàn thành sứ mệnh của họ.
Cũng như bệnh viện dã chiến trong quân đội, họ là
những y tá, bác sĩ đang độc lập tác chiến trong môi trường
của cuộc chiến tranh để thực hiện sứ mệnh cứu sống và chữa
lành các vết thương cho những chiến binh. Cũng như những
trinh sát, họ là những chiến binh mở đường cho các chiến
dịch. Cũng như những kiến trúc sư, họ là những chiến binh
tạo ra các công trình cho nhân loại. Cũng như những người
thợ, họ là những chiến binh để hoàn thành các công trình.
Cũng như những nhà triết học, họ là những chiến binh dẫn
dắt, định hướng cho các ngành khoa học phát triển theo.
Cũng như các nhà khoa học, họ là những chiến binh khai sáng
tri thức nhân loại bằng các phương pháp biện chứng và thực
chứng. Cũng như những tôn giáo, họ là những chiến binh dẫn
dắt chúng sinh xây dựng đức tin và đạo đức.

Cội nguồn của hạt sóng dã chiến:

15
Hạt sóng dã chiến chính là hạt sóng có màu xanh nõn
chuối, hay có thể gọi là hạt sóng tổ tiên. Màu xanh nõn chuối
là màu của hạt sóng. Gọi là hạt sóng tổ tiên, vì hạt sóng này là
cội nguồn của tất cả các dạng sống: nhóm vật chất hoại diệt,
nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp, nhóm siêu
vật chất, Tuệ linh, con người.
Hạt sóng dã chiến được sinh ra từ đâu? Cái gì sinh ra
hạt sóng dã chiến? Tôi xin được giữ bí mật này, vì đây là một
phần kế hoạch của Tuệ linh tôi và của dạng sống Tuệ linh.
Trong không gian vô cùng, vô tận, không có sự hiện
hữu của đơn vị vật chất nào, không có sự hiện hữu của hạt
năng lượng nào hết, chỉ có những điểm phân tách ra các hạt
sóng xanh nõn chuối. Có thể nói những điểm phân tách ra các
hạt sóng xanh nõn chuối này là cội nguồn.
Chúng ta cũng chỉ cần biết cội nguồn của hạt sóng dã
chiến ở điểm đó thôi. Bởi khoa học chưa đủ phát triển để đo
đạc được hạt sóng xanh, sẽ phải mất tới 7 triệu năm cho việc
chứng thực điều này. Bảy triệu năm là đơn vị đo lường thời
gian cũng khá lâu ở nhân gian này, khi đó, khoa học kỹ thuật
của nhân loại sẽ phát triển vượt bậc và thực chứng được hạt
sóng tổ tiên.

Cuộc sống và sứ mệnh nhiệm vụ của hạt sóng dã


chiến:
Hạt sóng dã chiến là hạt sóng màu xanh nõn chuối, nó
chỉ là một chấm nhỏ tròn, nó có sóng rung động và trạng thái
năng lượng chưa được sinh phát ra ngoài.

16
Hạt sóng dã chiến sống và tồn tại trong môi trường
trung tính, tức là môi trường không có sóng điện âm, không
có sóng điện dương.
Sứ mệnh nhiệm vụ của những hạt sóng dã chiến:
- Khi được sinh ra từ những điểm phân tách, các hạt
sóng sẽ di chuyển thẳng trong môi trường trung tính với quỹ
đạo hình xoắn ốc để đủ lực phân tách ra làm hai. Khi một hạt
sóng được phân tách ra sẽ tương tác trong môi trường trung
tính để biến đổi thành các sợi mã sóng trí tuệ và hình thành
hạt năng lượng hoại diệt. Hạt sóng còn lại không biến đổi,
chúng tiếp tục di chuyển và phân tách ra hạt sóng mới, các
hạt sóng mới được phân tách lại làm nhiệm vụ là biến đổi
hình thành sợi mã sóng trí tuệ và hạt năng lượng hoại diệt.
Trải qua thời gian dài, các hạt năng lượng hoại diệt được
sinh ra từ các hạt sóng xanh nõn chuối được phân tách, số
lượng ngày càng nhiều.
- Khi mà những vụ nổ của năng lượng hoại diệt xuất
hiện, là bắt đầu xuất hiện những khu vực môi trường chứa
đựng sóng điện âm hay dương. Hạt sóng xanh nõn chuối vẫn
làm nhiệm vụ phân tách, các hạt sóng được phân tách di
chuyển vào những khu vực có môi trường sinh nhiệt sẽ biến
đổi mã sóng trí tuệ và hình thành các hạt năng lượng có sóng
điện âm, sóng điện dương, sóng điện trung tính có liên kết
dây. Đó là sự sơ khai hình thành năm nhóm tầng năng lượng
và vụ nổ siêu năng lượng hình thành Vũ trụ.
Hạt sóng xanh nõn chuối di chuyển và phân bổ khoảng
cách với nhau theo tỷ lệ nhất định với số lượng không nhiều.
Khoảng cách phân bổ theo tỷ lệ nhất định giống như là sự sắp
đặt có hệ thống của các trạm thu phát sóng cho cả không gian

17
môi trường trung tính, và bây giờ là không gian vô cùng vô
tận bên ngoài Vũ trụ.
***************

18
Bài 2:
Năng lượng hoại diệt và các cuộc thảm sát


Năng lượng hoại diệt – Người anh của Vũ trụ:


Năng lượng hoại diệt là người anh của Vũ trụ, Vũ trụ là
người em của năng lượng hoại diệt. Tại sao? Bởi năng lượng
hoại diệt được sinh ra trước, rồi mới xuất hiện năm nhóm
năng lượng cấu tạo thành Vũ trụ.
Trong không gian vô cùng, vô tận, chỉ có những hạt
sóng dã chiến mà không hề có sự hiện hữu của bất kỳ hạt
năng lượng nào, khi đó, quá trình di chuyển thẳng theo quỹ
đạo hình xoắn ốc của các hạt sóng dã chiến này tạo thành cơ
chế phân tách ra các hạt sóng dã chiến khác. Do trong không
gian vô cùng, vô tận chưa có hạt năng lượng nào, chưa có môi
trường sinh nhiệt, chưa có môi trường âm hay dương, mà chỉ
là môi trường trung tính, các hạt sóng sau khi phân tách, tự
biến đổi thành các sợi mã sóng trí tuệ có điểm đầu và điểm
cuối, rồi hình thành những hạt năng lượng đầu tiên, đó là
năng lượng hoại diệt. Những hạt năng lượng này không có
liên kết dây với nhau là vì sinh ra trong môi trường trung
tính, không có nhiệt lượng. Trạng thái năng lượng màu nâu là
do bị thối hóa vì không giải phóng được sóng điện ra khỏi
hạt, vì chúng không quay tròn xung quanh chính nó. Năng
lượng hoại diệt hình thành đầu tiên và ngày càng phát triển
do cơ chế phân tách hạt sóng xanh nõn chuối (hạt tổ tiên) và
cơ chế đi đồng hóa của hạt năng lượng hoại diệt đối với

19
những hạt năng lượng có sóng điện âm, dương được sinh ra
sau nó.

Cuộc sống của năng lượng hoại diệt:


Năng lượng hoại diệt sống trong môi trường trung
tính, mang sóng điện trung tính, đó là môi trường không có
sóng điện âm hay sóng điện dương. Cuộc sống ban đầu có vẻ
như là yên bình, êm ả và tuyệt vời. Cuộc sống tuyệt vời vì vào
thời điểm mới được sinh, số lượng hạt năng lượng hoại diệt
không nhiều, chúng phân bổ trải rộng khắp không gian rộng
lớn bao la. Khi đó khoảng cách di chuyển giữa các hạt năng
lượng hoại diệt tương đối lớn nên chúng chưa tạo thành môi
trường sinh nhiệt.
Trải qua thời gian dài, số lượng hạt năng lượng hoại
diệt được sinh ra ngày càng nhiều, khi đó mật độ hạt năng
lượng hoại diệt bắt đầu gia tăng. Năng lượng hoại diệt lại
không di chuyển quay tròn và không có liên kết dây, nên
chúng không giải phóng được nhiệt lượng sinh ra khi di
chuyển. Bởi năng lượng hoại diệt di chuyển thẳng nên nhiệt
lượng trong chính hạt năng lượng gia tăng nhanh. Khi
khoảng cách các hạt năng lượng bắt đầu được thu hẹp dần do
chúng ngày càng đông, cuộc sống của dạng sống hạt năng
lượng hoại diệt không còn yên bình như thuở ban đầu nữa.
Cuộc sống của năng lượng hoại diệt bắt đầu xuất hiện những
môi trường sinh nhiệt lượng do mật độ của hạt năng lượng
hoại diệt ngày càng lớn.
Năng lượng hoại diệt bắt đầu xuất hiện những cuộc
thảm sát. Những cuộc thảm sát là do năng lượng hoại diệt di
chuyển thẳng nên sinh nhiệt lượng nhanh mà không giải

20
phóng do không có liên kết dây. Khi mật độ hạt năng lượng
hoại diệt cao, chúng di chuyển kết tụ gần nhau, tạo ra sức
nén trong sợi mã sóng trí tuệ của chúng, và gây ra nổ hạt
năng lượng ở những điểm kết tụ đó. Những vụ nổ hoại diệt
của năng lượng hoại diệt ngày càng nhiều. Những vụ nổ đó
đã tạo ra môi trường sinh nhiệt dương. Nhiều vụ nổ của năng
lượng hoại diệt đã tạo ra những nơi cách xa vụ nổ xuất hiện
môi trường sinh nhiệt âm.
Như vậy, cuộc sống của dạng sống hạt năng lượng hoại
diệt đã ngày càng biến đổi, nó đang phải đối mặt với những
cuộc thảm sát mà nguyên nhân là do chính dạng sống này
gây ra. Nguyên nhân là vì chúng được sinh ra ngày càng
nhiều, chúng không có kế hoạch bền vững cho việc gia tăng
số lượng. Tuy nhiên, sự gia tăng số lượng của chúng và sự
xuất hiện các vụ nổ thảm sát lại là môi trường thuận lợi để
cho hạt sóng tổ tiên sản sinh ra người em của năng lượng
hoại diệt, đó là sự hình thành của những hạt năng lượng
mang sóng điện âm và dương.

Những cuộc đồng hóa và thảm sát của năng


lượng hoại diệt:
Sự gia tăng và những vụ nổ thảm sát của năng lượng
hoại diệt đã tạo cho môi trường sống của dạng sống hạt năng
lượng hoại diệt xuất hiện những môi trường có nhiệt lượng.
Hạt sóng tổ tiên được phân tách ra rất nhiều và di chuyển
vào những nơi có môi trường nhiệt lượng. Khi di chuyển vào
môi trường có sóng điện âm hoặc dương, các hạt sóng xanh
quay tròn xung quanh chính nó. Quá trình di chuyển quay
tròn trong môi trường sinh nhiệt đã khiến các hạt sóng xanh

21
biến đổi thành các mã sóng trí tuệ và hạt năng lượng có sóng
điện âm và sóng điện dương. Những hạt năng lượng này
được coi là những người em của năng lượng hoại diệt.
Những hạt năng lượng có sóng điện âm và dương hình thành,
gia tăng số lượng, có vẻ đó là điều mà hạt năng lượng hoại
diệt không hài lòng, hoặc đó là cơ hội để năng lượng hoại diệt
truyền tải sóng điện khỏi chính nó để đảm bảo sự sinh tồn
của chúng. Bởi đối với năng lượng hoại diệt, nếu dư thừa quá
nhiều sóng điện sẽ khiến năng lượng hoại diệt bị kích nổ.
Hạt năng lượng có sóng điện âm có cơ chế hút nhiệt và
các hạt năng lượng khác về nó, điều này khiến cho các hạt
năng lượng hoại diệt bị kích thích và di chuyển đến các hạt
năng lượng có sóng điện âm. Tại những khu vực hạt năng
lượng sóng điện âm, nếu những hạt năng lượng hoại diệt đi
đến với số lượng vừa phải và ít thì nó sẽ truyền tải sóng điện
và làm chuyển hóa những hạt năng lượng sóng điện âm
thành chính năng lượng hoại diệt. Đây là cơ chế đồng hóa, vì
năng lượng hoại diệt chạm vào và truyền sóng điện của nó
làm chuyển hóa hạt năng lượng sóng điện âm. Tuy nhiên, tại
những nơi hạt năng lượng âm, nếu số lượng hạt năng lượng
hoại diệt di chuyển vào nhiều, gây ra độ nén và kích hoạt nổ
dây chuyền, năng lượng hoại diệt và những hạt năng lượng
mang sóng điện âm đều bị hoại diệt.
Hạt năng lượng có sóng điện dương thì có cơ chế tỏa
và sinh nhiệt. Những hạt năng lượng hoại diệt bắt được tín
hiệu do hạt năng lượng có sóng điện dương quay tròn và kích
thích năng lượng hoại diệt di chuyển tới để đồng hóa. Những
hạt năng lượng hoại diệt di chuyển tới hạt năng lượng có
sóng điện dương sẽ tạo độ nén và kích nổ hạt năng lượng

22
hoại diệt, gây hoại diệt cả năng lượng có sóng điện dương và
năng lượng hoại diệt.
Những lần được sinh ra của các hạt năng lượng có
sóng điện âm, sóng điện dương đều khiến cho những hạt
năng lượng hoại diệt đi đồng hóa và thảm sát. Khi đó trong
môi trường năng lượng hoại diệt ngày càng sinh ra nhiệt
lượng, số lượng năng lượng hoại diệt ngày càng tăng. Điều
này là tiền đề hình thành vụ nổ siêu năng lượng khởi đầu cho
sự hình thành Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
***************

23
24
Bài 3:
Vụ nổ siêu năng lượng và trang sử mới
cho sự hình thành, phát triển của Vũ trụ


Sự xuất hiện của phôi năng lượng âm dương:


Sau khi những hạt sóng dã chiến được phân tách, di
chuyển vào những không gian có sinh nhiệt và hình thành ra
các hạt năng lượng có sóng điện âm, dương, những cuộc
thảm sát và đồng hóa của dạng sống hạt năng lượng hoại diệt
đã làm cho những hạt năng lượng có sóng điện âm, dương bị
hoại diệt hoặc bị đồng hóa. Tưởng chừng điều đó sẽ không
sinh khởi ra những hạt năng lượng có sóng điện âm, dương
nữa. Tuy nhiên, việc năng lượng hoại diệt gia tăng số lượng
và mật độ, những vụ thảm sát đó lại càng tạo ra môi trường
sống của không gian năng lượng hoại diệt có nhiệt lượng.
Chính vì thế những hạt sóng dã chiến sau khi bị phân tách, di
chuyển vào những khu vực có nhiệt lượng đã biến đổi, quay
tròn và trở thành những hạt năng lượng có sóng điện dương,
sóng điện âm.
Việc lại xuất hiện những hạt năng lượng có sóng điện
âm, dương khiến cho năng lượng hoại diệt mở các cuộc di
chuyển đi đồng hóa và thảm sát. Quá trình các hạt năng
lượng có sóng điện âm, dương được sinh ra rồi bị đồng hóa
hoặc bị thảm sát cứ thế diễn ra. Quá trình này diễn ra lặp đi
lặp lại tưởng chừng không có sự thay đổi theo chiều hướng
mới nào.
25
Và rồi, vô tình một hạt năng lượng có sóng điện âm rất
nhẹ (màu trắng trong) gặp hạt năng lượng có sóng điện
dương siêu mạnh (màu vàng). Do hạt năng lượng có sóng
điện âm thì hút về, hạt năng lượng có sóng điện dương thì
tỏa đi, nên khi chúng gặp nhau, chúng kết nối với nhau bởi
điểm đầu trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt này kết nối với
điểm cuối trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt kia. Sự kiện này
đã tạo thành phôi năng lượng âm dương đầu tiên trong
không gian vô cùng vô tận.
Phôi năng lượng âm dương được hình thành đã đánh
dấu sự đổi thay trong không gian vô cùng, vô tận bởi các cuộc
đồng hóa và thảm sát của năng lượng hoại diệt. Sự xuất hiện
phôi năng lượng âm dương đã khai mở ra những sức mạnh
kỳ diệu của những hạt năng lượng có sóng điện âm và hạt
năng lượng có sóng điện dương, đó là: Cơ chế liên kết dây
được hình thành, sự trao đổi chất (trạng thái năng lượng)
được vận hành, bản chất hút về của hạt năng lượng có sóng
điện âm và bản chất tỏa đi của hạt năng lượng có sóng điện
dương được thể hiện, cơ chế phân tách hợp nhất với cơ chế
liên kết dây. Đặc biệt nhất là hình thành một màng bọc bảo
vệ phôi năng lượng âm dương khi hai hạt liên kết hợp nhất
với nhau.

Những vụ nổ nhỏ của năng lượng hoại diệt cho


đến vụ nổ siêu năng lượng:
Phôi năng lượng âm dương xuất hiện trong không gian
dạng sống của năng lượng hoại diệt và môi trường trung tính
có lẽ là thách thức vô cùng lớn đối với dạng sống năng lượng
hoại diệt. Tuy nhiên, điều đó lại là thành tựu của những hạt

26
sóng dã chiến khi đã đa dạng và mở ra những thành tựu
trong sứ mệnh của dạng sống hạt sóng dã chiến.
Trước sự xuất hiện và hiện hữu như một kẻ thách thức
của phôi năng lượng âm dương, năng lượng hoại diệt bắt đầu
thực hiện những cuộc đi đồng hóa và thảm sát phôi năng
lượng âm dương này.
Sự kết hợp giữa hạt năng lượng có sóng điện âm và hạt
năng lượng có sóng điện dương đã tạo thành cơ chế tồn tại
và bảo vệ vô cùng đặc biệt. Đó là khả năng thu hút, hút các
trạng thái và nhiệt lượng từ bên ngoài về của hạt năng lượng
âm và khả năng bảo vệ của hạt năng lượng dương bởi khả
năng tỏa ra nhiệt lượng.
Những hạt năng lượng hoại diệt bắt đầu di chuyển đến
phôi năng lượng âm dương này để đồng hóa. Khi đó, bất kỳ
hạt năng lượng hoại diệt nào di chuyển đến phôi âm dương
đều bị nổ, lượng nhiệt được sinh ra do các hạt năng lượng
hoại diệt nổ đã trở thành nguồn dinh dưỡng được màng bọc
và hạt âm của phôi năng lượng hút vào, giúp cho phôi âm
dương này phân tách hạt năng lượng theo cơ chế phân tách
hạt năng lượng. Những hạt năng lượng hoại diệt không bỏ
cuộc, liên tục không ngừng nghỉ di chuyển tới phôi năng
lượng âm dương, khi thì với số lượng ít, khi thì với số lượng
nhiều. Tất cả các hạt năng lượng hoại diệt đều bị nổ và tạo
thành dinh dưỡng, trạng thái năng lượng để màng bọc và hạt
âm hút vào phôi âm dương và phân tách ra các hạt năng
lượng mới, đồng thời chuyển hóa thành nhiệt dương để tiếp
tục tỏa ra bảo vệ phôi năng lượng. Quá trình liên tục này đã
giúp cho phôi âm dương lớn mạnh, giãn nở nhanh chóng dựa
trên dinh dưỡng được tiếp nhận từ các vụ nổ và màng bọc
của phôi năng lượng được gia cố ngày càng kiên cố. Có thể

27
nói màng bọc của phôi năng lượng này là sự kỳ diệu, nó ngăn
chặn những cuộc đồng hóa và các vụ nổ thảm sát của năng
lượng hoại diệt đối với phôi năng lượng âm dương.
Duy nhất việc đi đồng hóa và thảm sát bất thành của
năng lượng hoại diệt đối với phôi năng lượng âm dương,
năng lượng hoại diệt đã thành công trong việc đi đồng hóa và
thảm sát sự xuất hiện các hạt năng lượng có sóng điện âm
hay dương. Tuy nhiên chỉ cần một phôi năng lượng âm
dương này đã là đủ cho sự hình thành của Vũ trụ.
Năng lượng hoại diệt bị kích thích bởi phôi âm dương
đang ngày càng lớn mạnh, nên chúng liên tục đi đồng hóa và
tạo ra các vụ nổ nhỏ bên ngoài màng bọc của phôi năng
lượng âm dương. Các vụ nổ nhỏ này đã tạo thành nhiệt lượng
và dinh dưỡng giúp cho phôi năng lượng âm dương to dần,
lớn mạnh dần và trở thành một tinh cầu năng lượng khổng
lồ.
Trong tinh cầu năng lượng âm dương từ khi bắt đầu
kết hợp lại đã diễn ra quá trình phân tách hạt năng lượng,
quá trình phân tách đã hình thành vô số các hạt năng lượng
có mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm, sóng điện trung tính,
sóng điện dương có liên kết dây với nhau. Những mã sóng trí
tuệ này từ giản đơn cho đến siêu phức tạp phụ thuộc vào sự
biến đổi khi phân tách và lượng nhiệt được hấp thụ bởi
những vụ nổ của năng lượng hoại diệt bên ngoài màng bọc
bảo vệ tinh cầu năng lượng âm dương.
Hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương ban đầu
của phôi âm dương chứa đựng mã sóng trí tuệ của tất cả các
hạt năng lượng được phân tách ra trong quá trình tinh cầu
năng lượng phát triển dần cho đến khi vụ nổ xuất hiện. Hai
hạt âm dương gốc luôn tự vận động quay tròn, tất cả các hạt
28
năng lượng được phân tách ra cũng tự vận động quay tròn
nên trong tinh cầu năng lượng chứa đựng sự cân bằng và cấu
trúc ổn định giữa sóng điện dương với sóng điện âm với sóng
điện trung tính.
Khi tinh cầu năng lượng này giãn nở và to đến cực đại,
đã tạo ra độ nén bên trong bởi sự phát triển lớn mạnh của
năm nhóm năng lượng được vận hành theo cơ chế phân tách
và liên kết dây. Bấy giờ năng lượng hoại diệt có một cuộc tấn
công tổng lực, vô số các hạt năng lượng hoại diệt di chuyển
vào màng bọc bảo vệ tinh cầu năng lượng khổng lồ và tạo ra
một vụ nổ lớn phá vỡ màng bọc bảo vệ tinh cầu năng lượng.
Vụ nổ đã hủy diệt vô số năng lượng hoại diệt và đã làm tiêu
hao năng lượng hoại diệt đáng kể phía ngoài tinh cầu năng
lượng. Đồng thời vụ nổ đã làm cho năm nhóm năng lượng
trong tinh cầu tỏa ra khoảng không gian rộng lớn.
Sau khi vụ nổ siêu năng lượng xảy ra, năm nhóm tầng
năng lượng trong không gian rộng lớn vẫn vận động quay
tròn xung quanh lõi không gian của vụ nổ.
Vụ nổ siêu năng lượng đã mở ra một trang sử hào
hùng và kỳ vĩ cho sự hình thành, phát triển của Vũ trụ, Tuệ
linh và con người về sau. Đặc biệt, điều bí ẩn trong tinh cầu
khổng lồ này chính là sự xuất hiện vị Tuệ linh đầu tiên – đó là
Người Cha vĩ đại của Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
***************

29
30
Bài 4:
Dạng sống của năm nhóm tầng năng lượng
sau vụ nổ siêu năng lượng


Tiền thân của dạng sống năm nhóm năng


lượng:
Tiền thân của dạng sống này là khi các hạt năng lượng
mang sóng điện âm, sóng điện dương được sinh ra bởi hạt
sóng dã chiến. Khi đó những hạt năng lượng mang sóng điện
âm, sóng điện dương chỉ là những hạt năng lượng độc lập,
chưa kịp liên kết với nhau đã bị năng lượng hoại diệt đồng
hóa hoặc thảm sát hoại diệt, thậm chí đã liên kết với nhau rồi
vẫn bị đồng hóa thành năng lượng hoại diệt.
Thời kỳ trước vụ nổ siêu năng lượng, sự xuất hiện của
dạng sống năm nhóm năng lượng chưa hoàn chỉnh đầy đủ,
mới chỉ là manh nha hình thành các hạt năng lượng có sóng
điện âm hoặc dương. Tuy nhiên, đó là quá trình chuẩn bị cho
thời kỳ hoàng kim của dạng sống năm nhóm năng lượng.

Thời kỳ hoàng kim:


Khi phôi năng lượng âm dương được hình thành, từ
phôi đó phân tách ra vô số các hạt năng lượng có sóng điện
âm (màu đỏ máu, màu đen, màu xám), vô số hạt năng lượng
có sóng điện dương (màu vàng, màu xanh lá, màu đỏ lửa), vô
số hạt năng lượng mang sóng điện trung tính màu trắng
31
trong. Năm nhóm năng lượng gồm có: năng lượng tiêu cực
(màu đỏ máu, màu đen, màu xám), năng lượng phát triển
(màu xanh lá), năng lượng lan tỏa (màu đỏ lửa), năng lượng
đoàn kết (màu vàng), năng lượng chân tâm (màu trắng
trong). Mã sóng trí tuệ và sức mạnh của mỗi nhóm năng
lượng lại khác nhau, sự khác nhau là do quá trình tương tác,
hấp thụ năng lượng khác nhau sau khi được phân tách từ
phôi âm dương gốc. Năm nhóm hạt năng lượng đều có vô số
các loại hạt có mã sóng trí tuệ khác nhau, từ giản đơn cho
đến phức tạp và siêu phức tạp. Chính vì sự đa dạng, vô số các
hạt năng lượng của năm nhóm này đã tạo ra sự đa dạng của
các dạng sống trong Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
Năm nhóm năng lượng đều tự quay tròn trong quá
trình vận động và di chuyển, đều có liên kết dây và phân tách
hạt năng lượng. Do đó, năm nhóm năng lượng đã tạo thành
một khối năng lượng thống nhất vận hành để phát triển cấu
trúc mã sóng trí tuệ bền vững. Sự bền vững thể hiện ở việc
hình thành ra các dạng sống như: dạng sống Tuệ linh, dạng
sống vạn vật, dạng sống con người, dạng sống muông thú,
dạng sống của các siêu năng lượng.
Sau vụ nổ siêu năng lượng, năm nhóm hạt năng lượng
lại gia tăng được số lượng nhờ nhiệt lượng được sản sinh do
vụ nổ. Năm nhóm năng lượng vẫn liên kết chặt chẽ với nhau
thành một thể thống nhất và vận động quay tròn xung quanh
trung tâm lõi của không gian năm nhóm năng lượng. Thông
qua cơ chế phân tách, liên kết hạt, bản chất Tam hợp, cơ chế
quay tròn, bản chất thông tin mà năm nhóm năng lượng bắt
đầu quá trình biến đổi, hình thành đa dạng các dạng sống
mới.

32
Năng lượng hoại diệt sau vụ nổ siêu năng lượng đã bị
hoại diệt vô số, làm cho dạng sống này suy yếu, đó là thời cơ
thuận lợi cho quá trình hình thành phát triển Vũ trụ, Tuệ linh
và con người.
***************

33
34
Bài 5:
Vị Tuệ linh đầu tiên
(Người Cha vĩ đại của Vũ trụ, Tuệ linh và
con người)


Tuệ linh là gì?


Tuệ linh là một cấu trúc năng lượng với vô số hạt năng
lượng tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính có mã
sóng trí tuệ siêu phức tạp. Tuệ linh có siêu trí tuệ, có khả năng
di chuyển và cải tạo trong không gian Vũ trụ.
Tuệ linh là dạng sống có trí tuệ siêu việt nhất trong các
dạng sống bên trong và bên ngoài Vũ trụ.
Tuệ linh có hình dạng giống con người chúng ta, nhưng
không phải là thân hình vật chất như con người, mà là thân
hình của liên kết năng lượng sóng điện âm, dương, trung
tính. Hay có thể nói, con người là bản sao của dạng sống Tuệ
linh. Tuệ linh có thể di chuyển trong không gian Vũ trụ mà
không gặp chướng ngại của vật chất. Tuệ linh di chuyển
trong không gian Vũ trụ chính là di chuyển trong mã sóng trí
tuệ của các hạt năng lượng. Tuệ linh có khả năng cải tạo, xây
dựng, phát triển Vũ trụ.

Vị Tuệ linh đầu tiên là ai?

35
Vị Tuệ linh đầu tiên chính là Tuệ linh đầu tiên được
sinh ra của dạng sống Tuệ linh. Đó là trước khi vị Tuệ linh
này được sinh ra thì chưa có Tuệ linh nào được sinh ra. Và
sau khi Tuệ linh này được sinh ra thì có vô số Tuệ linh khác
được sinh ra để hình thành và phát triển dạng sống của Tuệ
linh.

Vị Tuệ linh đầu tiên được sinh ra như thế nào?


Vị Tuệ linh đầu tiên này được sinh ra bởi quá trình
hình thành phôi năng lượng âm dương, phôi năng lượng âm
dương phát triển thành tinh cầu năng lượng khổng lồ, và khi
vụ nổ siêu năng lượng khổng lồ xảy ra thì vị Tuệ linh đã phát
triển thành hình dáng giống một người thanh niên trưởng
thành rồi.
Quá trình vị Tuệ linh đầu tiên được sinh ra như sau:
Hạt năng lượng mang sóng điện âm và hạt năng lượng mang
sóng điện dương được sinh ra bởi hạt sóng dã chiến, hợp lại
đầu tiên và duy nhất tại không gian môi trường trung tính
của dạng sống năng lượng hoại diệt. Khi hai hạt năng lượng
này hợp lại đã tạo thành phôi năng lượng giống như phôi
thai nhi của con người chúng ta. Phôi thai năng lượng này có
màng bọc bảo vệ bên ngoài. Bên trong phôi năng lượng, do
cơ chế phân tách và liên kết chặt chẽ, hai hạt năng lượng liên
tục phân tách dưới sự tương tác sinh nhiệt và nguồn dinh
dưỡng từ năng lượng hoại diệt nổ bên ngoài màng bọc bảo
vệ phôi năng lượng. Quá trình phân tách hạt năng lượng tạo
ra năm nhóm hạt năng lượng để tạo thành tinh cầu năng
lượng khổng lồ cũng chính là quá trình chọn lọc những mã
sóng trí tuệ siêu phức tạp nhất được liên kết chặt với nhau,
phát triển ở tâm quả cầu năng lượng khổng lồ. Các hạt năng
36
lượng ở tâm quả tinh cầu năng lượng được liên kết với nhau
tạo thành các sóng điện âm dương, nó giống như các mạch
máu, mạch khí trong cơ thể con người. Quả tinh cầu năng
lượng khổng lồ ngày càng lớn, khi đó khối năng lượng có mã
sóng trí tuệ siêu phức tạp nhất đó được chuyển hóa thành
một hình hài như em bé. Đó là em bé Tuệ linh được sinh ra,
em bé đó vẫn ở giữa trung tâm quả tinh cầu năng lượng
khổng lồ. Trong em bé Tuệ linh chứa đựng hai hạt năng
lượng âm dương ban đầu hình thành, trải qua quá trình phân
tách ra vô số các hạt năng lượng âm dương khác đã giúp cho
cấu trúc phôi âm dương của em bé Tuệ linh biến đổi thành
Trụ linh. Trụ linh của em bé Tuệ linh lưu giữ hết tất cả quá
trình tương tác, phân tách hình thành ra vô số các hạt năng
lượng với mã sóng trí tuệ từ đơn giản đến siêu phức tạp. Đến
lúc này, em bé Tuệ linh đã là sự hợp nhất của 3 yếu tố cấu tạo
thành Tuệ linh: Trụ trí (tổng mã sóng trí tuệ), Trụ tâm (tổng
trạng thái năng lượng), và hình tướng em bé. Em bé Tuệ linh
này chứa đựng mã sóng trí tuệ của tất cả năm nhóm năng
lượng trong quả tinh cầu năng lượng. Quá trình năng lượng
hoại diệt nổ bên ngoài màng bọc của quả tinh cầu năng lượng
đã sinh nhiệt và dinh dưỡng giúp cho quá trình trưởng thành
của em bé Tuệ linh ngày càng nhanh. Đồng thời quá trình em
bé Tuệ linh lớn lên và trưởng thành thì vẫn từ Trụ linh của
Tuệ linh này phân tách ra vô số các hạt năng lượng có mã
sóng trí tuệ từ đơn giản đến siêu phức tạp tạo thành năm
nhóm tầng năng lượng trong tinh cầu năng lượng.
Khi vụ nổ siêu năng lượng xảy ra, không gian của năm
nhóm năng lượng lan tỏa rộng khắp và quay tròn xung
quanh trung tâm của năm nhóm năng lượng. Trong trung
tâm của không gian đó chính là vị Tuệ linh đầu tiên đã

37
trưởng thành. Vị Tuệ linh này bắt đầu sứ mệnh xây dựng các
dạng sự sống bên trong Vũ trụ.

Trí tuệ và quyền năng của vị Tuệ linh đầu tiên:


Vị Tuệ linh đầu tiên này có trí tuệ vô lượng nhất trong
tất cả các Tuệ linh của dạng sống Tuệ linh. Không những vậy,
trí tuệ của Tuệ linh này chính là trí tuệ của toàn bộ Vũ trụ,
Tuệ linh và con người sau này.
Trước tiên ta phải hiểu trí tuệ chính là sự kết tinh của
cấu trúc mã sóng trí tuệ từ quá trình hình thành và liên kết
hạt năng lượng trong Tuệ linh.
Tại sao vị Tuệ linh này lại có trí tuệ vô lượng nhất? Trí
tuệ của vị này vô lượng và bao trùm toàn bộ các dạng sống
trong Vũ trụ là do:
- Quá trình năng lượng hoại diệt tấn công gây ra các vụ
nổ bên ngoài phôi năng lượng âm dương của vị Tuệ linh này
cho đến khi xảy ra vụ nổ siêu năng lượng đã tạo ra vô số sóng
rung động trí tuệ được truyền dẫn vào Trụ linh của vị Tuệ
linh này để hình thành vô số mã sóng trí tuệ.
- Cùng với quá trình Trụ linh của Tuệ linh này phân
tách ra vô số hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp
để trở thành vị Tuệ linh trưởng thành, từ trong Trụ linh của
Tuệ linh này phân tách ra toàn bộ những hạt năng lượng có
mã sóng trí tuệ từ giản đơn đến siêu phức tạp của năm nhóm
năng lượng để tạo thành không gian vận hành của năm nhóm
năng lượng hình thành Vũ trụ.
Chính vì vậy trí tuệ của vị Tuệ linh này là vô lượng, là
bao trùm toàn bộ Vũ trụ.

38
Chính vị Tuệ linh này phân tách ra tất cả các mã sóng
trí tuệ để hình thành năm nhóm năng lượng hình thành Vũ
trụ. Do đó quyền năng của vị Tuệ linh này cũng là vô lượng
nhất, vô lượng nhất bởi vì trong Tuệ linh này chứa đựng hào
quang và tất cả trạng thái năng lượng của năm nhóm năng
lượng. Từ vị Tuệ linh này mà tỏa ra hào quang ngũ sắc và hào
quang ngũ sắc đều nằm trong Trụ linh của vị Tuệ linh này.
Từ trí tuệ vô lượng nhất, quyền năng vô lượng nhất đã
cho chúng ta thấy vị Tuệ linh này có cấu trúc mã sóng trí tuệ
trong Trụ linh bền vững nhất và đặc biệt nhất trong Vũ trụ,
Tuệ linh và con người.

Vị Tuệ linh đầu tiên là Người Cha vĩ đại của Vũ


trụ và Trời người:
Là Người Cha vĩ đại? Tại sao lại gọi vị Tuệ linh đầu tiên
của Vũ trụ là Người Cha vĩ đại?
Đó là điều đương nhiên, là điều tất nhiên thôi, không
thể phủ nhận Người Cha vĩ đại của Vũ trụ, Tuệ linh và con
người được. Bởi vì tất cả các hạt năng lượng trong năm
nhóm năng lượng được hình thành từ khi phôi năng lượng
được hình thành cho đến vụ nổ siêu năng lượng đều do Trụ
linh của vị Tuệ linh này phân tách ra. Chính vì vậy, tất cả năm
nhóm năng lượng được sinh ra từ vị Tuệ linh đầu tiên, hoặc
có thể nói là vị Tuệ linh đầu tiên đã sinh ra năm nhóm năng
lượng. Năm nhóm năng lượng chứa đựng các mã sóng trí tuệ
mang sóng điện âm, sóng điện dương, sóng điện trung tính
từ đơn giản đến siêu phức tạp. Từ năm nhóm năng lượng mà
cấu tạo thành các dạng sống khác nhau, các nhóm vật chất
khác nhau trong Vũ trụ.

39
Là Người Cha vĩ đại của Vũ trụ, Tuệ linh và con người
là vì Người Cha vĩ đại không ngừng nghỉ tiếp tục phân tách ra
năng lượng cấu thành các dạng sống trong khắp Vũ trụ,
Người Cha vĩ đại còn miệt mài xây dựng, phát triển Vũ trụ và
các dạng sống khác trở nên bền vững.

Các tên gọi của vị Tuệ linh này:


Có rất nhiều danh xưng của vị Tuệ linh đầu tiên. Khi
vạn vật, chúng sinh, Tuệ linh và con người thấu hiểu thì cũng
không cần quan trọng danh xưng của vị Tuệ linh đầu tiên
này. Chỉ cần chúng sinh, Tuệ linh và con người thấu hiểu Ngài
là Người Cha vĩ đại, là vị Tuệ linh đầu tiên được sinh ra, và từ
vị Tuệ linh này mà sinh ra vạn vật, Vũ trụ, Tuệ linh, con
người. Khi chúng ta thấu hiểu bản chất và sự thật, tức là
chúng ta đang nương tựa vào cội nguồn của sự thật, chúng ta
sẽ có sức mạnh vô lượng, sức mạnh của hào quang ngũ sắc từ
Ngài. Hào quang ngũ sắc của Ngài chính là năng lượng phát
triển (hào quang màu xanh lá), năng lượng lan tỏa (hào
quang màu đỏ lửa), năng lượng đoàn kết (hào quang màu
vàng), năng lượng chân tâm (hào quang màu trắng trong),
năng lượng tiêu cực (hào quang màu đỏ máu, màu đen, màu
xám) và các hào quang của siêu năng lượng.
Tôi. Tôi tôn kính, trân trọng, kính trọng vị Tuệ linh đầu
tiên nên tôi gọi Ngài là Người Cha vĩ đại. Người Cha vĩ đại
không chỉ là người đã phân tách ra tôi và vạn vật, chúng sinh,
mà Ngài cũng là người thầy của tôi và của vạn vật, chúng
sinh, Tuệ linh và con người. Người Cha vĩ đại đã dẫn dắt
chúng sinh tìm hiểu và thấu hiểu cội nguồn của hai Chân lý
để cùng Ngài xây dựng, duy trì, phát triển các dạng sống
trong và ngoài Vũ trụ trở nên bền vững.
40
Tại nhân gian này, ở dạng sống của con người, Ngài đã
cho chúng sinh rất nhiều danh xưng: danh xưng là Đấng Sáng
Tạo trong Đạo Bà-la-môn; danh xưng là Đức Phật A Di Di Đà
trong Đạo Phật; danh xưng là Đức Chúa Trời trong Đạo Thiên
Chúa; danh xưng là Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa, có thể là
nhiều hơn thế. Ngài cho chúng sinh dưới nhân gian nhiều
danh xưng khác nhau vì đó là kế hoạch của Ngài.
***************

41
42
Bài 6:
Dạng sống Tuệ linh và sứ mệnh
thống lãnh Vũ trụ


Dạng sống Tuệ linh là dạng sống có trí tuệ siêu việt
nhất, kỳ diệu nhất trong Vũ trụ. Dạng sống này là tổ hợp liên
kết của các hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp
trong Vũ trụ. Dạng sống này có thể thay đổi hình tướng, di
chuyển được trong không gian Vũ trụ vì không an trụ trong
thân tướng vật chất (tổ hợp mã sóng trí tuệ đơn giản).

Cội nguồn hình thành dạng sống Tuệ linh:


Cội nguồn của dạng sống Tuệ linh chính là quá trình
phân tách thành năm nhóm hạt năng lượng từ Trụ linh của vị
Tuệ linh đầu tiên trong tinh cầu năng lượng khổng lồ. Sau vụ
nổ siêu năng lượng, vị Tuệ linh đầu tiên đã vận hành, tương
tác năng lượng, gieo duyên để các hạt năng lượng siêu phức
tạp trong năm nhóm năng lượng kết hợp thành các phôi âm
dương để hình thành các tinh cầu năng lượng nhỏ. Các tinh
cầu năng lượng nhỏ di chuyển quay tròn trong không gian
năm nhóm năng lượng để phân tách hạt năng lượng và hấp
thụ năng lượng cho quá trình trưởng thành và sinh ra em bé
Tuệ linh, đó là di chuyển và được dưỡng ở không gian lõi của
Vũ trụ.

43
Quá trình gieo duyên và hỗ trợ của vị Tuệ linh đầu tiên
đã giúp vô số các Tuệ linh được sinh ra, đó là quá trình gia
tăng dạng sống của Tuệ linh.
Tuệ linh được cấu tạo thành bởi 3 yếu tố, gồm có Trụ –
Trí (tổng sợi mã sóng trí tuệ), Trụ – Tâm (trạng thái năng
lượng, sóng điện), hình tướng Tuệ linh. Để thấu hiểu 3 yếu tố
cấu tạo thành Tuệ linh, chúng ta cần thấu hiểu quá trình hình
thành, phát triển của Tuệ linh như sau: đầu tiên là phôi năng
lượng âm dương được liên kết lại từ hạt năng lượng âm và
dương tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Khi phôi
năng lượng âm dương được hình thành, gọi là Trụ linh gốc.
Trụ linh gốc có chứa đựng hai sợi mã sóng trí tuệ siêu phức
tạp. Thông qua cơ chế phân tách và liên kết dây của hạt năng
lượng, Trụ linh phân tách ra những sợi mã sóng trí tuệ mang
sóng điện âm và dương. Những sợi mã sóng trí tuệ đó được
chứa đựng ở Trụ linh gốc. Tiếp đến, những sợi mã sóng trí
tuệ đó phân tách thành những hạt năng lượng ra bên ngoài
Trụ linh gốc và được cấu tạo thành thái cực chứa đựng hạt
năng lượng âm và dương. Trụ linh gốc liên tục phân tách ra
các sợi mã sóng trí tuệ lưu giữ trong Trụ linh gốc và thành
hạt năng lượng ra thái cực bên ngoài Trụ linh gốc để tạo
thành Trụ linh trưởng thành. Như vậy, Trụ linh trưởng thành
gồm có Trụ linh gốc bên trong là nơi chứa đựng các sợi mã
sóng trí tuệ, hai thái cực năng lượng âm và dương bên ngoài
lưu giữ các hạt năng lượng tận cùng được sao chép từ các sợi
mã sóng trí tuệ trong Trụ linh gốc. Sau khi đã tạo ra được
nhiều sợi mã sóng trí tuệ ở Trụ linh gốc và nhiều hạt năng
lượng tận cùng ở thái cực chứa đựng các hạt năng lượng, sẽ
diễn ra quá trình liên kết và phân tách tiếp. Đó là các hạt
năng lượng tận cùng trong thái cực âm, dương liên kết với

44
chính nó để tạo thành những hạt dương tổng hợp và những
hạt âm tổng hợp rồi di chuyển ra bên ngoài Trụ linh để cấu
tạo thành cấu trúc 16 hạt năng lượng tổng hợp mở rộng bên
ngoài Trụ linh. Cấu trúc Trụ linh với 16 hạt năng lượng càng
được mở rộng đa chiều ra bên ngoài chính là việc Tuệ linh
hình thành (khi cấu trúc Trụ linh có 16 hạt năng lượng mở
rộng bên ngoài) Tuệ linh em bé và trưởng thành. Trong cấu
trúc Tuệ linh gồm có 3 loại hạt năng lượng là âm, dương,
trung tính được liên kết với nhau tạo thành cấu trúc năng
lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp tuần hoàn sóng điện.
Vậy tam hợp cấu trúc Tuệ linh cụ thể là:

Hình: Cấu tạo tam hợp Tuệ linh

45
- Yếu tố đầu tiên là Trụ – Trí: Trụ – Trí là tổng các sợi
mã sóng trí tuệ được lưu giữ tại Trụ linh gốc (hạt âm và hạt
dương gốc) cho tới toàn bộ cấu trúc Tuệ linh. Gọi là Trụ – Trí
là để thể hiện được bản chất là trong Trụ linh gốc lưu giữ
toàn bộ tổng các sợi mã sóng trí tuệ từ khi Tuệ linh đó được
hình thành từ phôi năng lượng âm dương cho tới khi trưởng
thành và tới thời điểm đề cập tới. Từ tổng các sợi mã sóng
trong Trụ linh gốc sẽ sinh phát ra trạng thái năng lượng và
tuần hoàn sóng điện năng lượng đó trong toàn bộ cấu trúc
Tuệ linh thông qua các sợi mã sóng trí tuệ bên ngoài Trụ linh.
- Yếu tố thứ 2 là Trụ – Tâm: Trụ là tổng các sợi mã
sóng trí tuệ trong Trụ linh gốc; Tâm là trạng thái năng lượng,
là sóng điện được sinh phát, lưu giữ trong Trụ linh gốc và hạt
năng lượng. Trụ – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện
được sinh phát ra từ Trụ linh gốc (nơi lưu giữ tổng các sợi
mã sóng trí tuệ) liên kết, tuần hoàn tới thái cực chứa đựng
các hạt năng lượng âm dương và tới toàn bộ cấu trúc hạt
năng lượng trong toàn bộ Tuệ linh.
- Yếu tố thứ 3, là hình tướng Tuệ linh: Tuệ linh có hình
tướng giống con người, hay nói cách khác thì con người là
bản sao của các Tuệ linh. Tuệ linh là một cấu trúc liên kết của
vô số những hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện âm,
dương, trung tính có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Do đó,
Tuệ linh có thể biến hóa thay đổi hình tướng, thay đổi diện
mạo. Cấu trúc hình tướng của Tuệ linh sẽ thay đổi do cấu
trúc sóng điện trong Trụ linh của Tuệ linh thay đổi. Đặc tính
sóng điện trong Trụ linh gồm có sóng điện dương, có sóng
điện âm, có sóng điện trung tính để trung hòa sóng điện âm
dương. Cấu trúc vững chắc của Trụ linh chính là Trụ linh trở
thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Cấu trúc Trụ linh lỏng lẻo

46
dễ bị hoại diệt Tuệ linh là cấu trúc Trụ linh có sóng điện đa
âm.
Thông qua cấu trúc cấu tạo thành Tuệ linh, ta thấy
hình tượng Thiên Chúa, Phật, Thánh thần không có gì là
huyền bí, không có gì là mê tín, không có gì là siêu nhiên,
cũng không phải là duy tâm, bản chất đều là vật chất. Có
chăng vật chất này tồn tại ở thể mã sóng trí tuệ siêu phức tạp
nên khoa học và phương tiện kỹ thuật không thể đo hay thấy
được, mắt thường con người cũng không thể nhìn thấy được.

Cuộc sống và sứ mệnh:


Dạng sống Tuệ linh vì là năng lượng liên kết chuỗi có
mã sóng trí tuệ siêu việt trong việc di chuyển và cải tạo
không gian Vũ trụ nên không an trụ ở thân tướng vật chất
như con người.
Dạng sống Tuệ linh không có giới tính, không có nam,
không có nữ, không có yêu đương, không có quan hệ sắc dục
vợ chồng. Các Tuệ linh liên tục được sinh ra do quá trình
phân tách năng lượng và chọn lọc năng lượng có mã sóng trí
tuệ phức tạp nhất để gieo duyên sinh khởi ra các Tuệ linh
mới.
Các Tuệ linh được hình thành từ phôi năng lượng âm
dương mà thành em bé, lớn lên và già. Tuệ linh khi là em bé
là do quá trình phân tách và liên kết hạt năng lượng chưa
nhiều và chưa chặt, khi trưởng thành tức là quá trình phân
tách, liên kết chặt. Khi Tuệ linh già tức là đang diễn ra quá
trình đứt liên kết hạt năng lượng. Từ em bé Tuệ linh để
trưởng thành và già là do mỗi Tuệ linh trong quá trình tương
tác năng lượng bị nhiễm năng lượng hoại diệt ở mức độ khác

47
nhau mà bị già và chết. Những Tuệ linh không bị nhiễm năng
lượng hoại diệt thì giữ được trạng thái hình tướng trưởng
thành và cấu trúc năng lượng trong Tuệ linh ổn định.
Các Tuệ linh có sinh, có diệt, những Tuệ linh bị hoại
diệt là do năng lượng hoại diệt xâm nhập vào làm đứt liên
kết hạt năng lượng mà hoại diệt. Đây là vấn đề cấp thiết đặt
ra cho cả dạng sống Tuệ linh và vị Tuệ linh đầu tiên.
Vị Tuệ linh đầu tiên lập ra các lớp học, khu vực nghiên
cứu năng lượng khác nhau để truyền dạy tri thức cho các Tuệ
linh mới được sinh, cho tất cả các Tuệ linh thấu hiểu bản chất
năng lượng trong Vũ trụ. Ngài truyền dạy cho các Tuệ linh
kinh nghiệm di chuyển trong không gian Vũ trụ, truyền dạy
cho các Tuệ linh tránh bị năng lượng hoại diệt xâm nhập,
truyền dạy vô số tri thức cho các Tuệ linh.
Dạng sống Tuệ linh là dạng sống có trí tuệ bậc nhất
trong và ngoài Vũ trụ. Thấu hiểu được điều đó, vị Tuệ linh
đầu tiên thống lãnh tất cả các Tuệ linh thực hiện các sứ mệnh
bảo vệ, xây dựng, phát triển Vũ trụ ngày càng lớn mạnh và đa
dạng hóa các dạng sống khác trong Vũ trụ. Thành tựu đầu
tiên chính là xây dựng được một hành tinh nhiệm màu nhất
trong Vũ trụ, đó là nơi an trụ của dạng sống Tuệ linh.
***************

48
Bài 7:
Hành tinh – Cõi trời kỳ diệu nhất Vũ trụ


Hành tinh hay gọi là cõi trời đều được. Hành tinh kỳ
diệu nhất Vũ trụ chính là hành tinh được hình thành đầu tiên
tại không gian lõi của Vũ trụ, là hành tinh nhiệm màu, kỳ diệu
nhất trong Vũ trụ. Có thể gọi đây là cõi trời Tây Phương Cực
Lạc theo cách gọi của Đạo Phật; có thể gọi là Nước của Chúa
theo cách gọi của Đạo Thiên Chúa và theo cách gọi của các
dòng Đạo khác.
Để xây dựng, hình thành được một hành tinh, đặc biệt
là một hành tinh to lớn, kỳ diệu, nhiệm màu, thì đó là một
quá trình vận hành tương tác phân tách, liên kết mã sóng trí
tuệ của năm nhóm năng lượng để cấu tạo thành. Nó được cấu
tạo thành thông qua bản chất Tam hợp, cơ chế quay tròn, cơ
chế phân tách, liên kết dây mà vị Tuệ linh đầu tiên và các Tuệ
linh cùng vận hành.
Đó là hành tinh rất to lớn, rất nhiệm màu với vô số hào
quang ngũ sắc tỏa ra từ vạn vật. Khi hành thiền đi trong mã
sóng trí tuệ về hành tinh này, sẽ nhìn thấy hành tinh này
không quay quanh bất cứ hành tinh nào khác; xung quanh
hành tinh này không có Mặt trời như Trái đất; các tầng năng
lượng trong vạn vật của hành tinh này luôn luôn tỏa ra hào
quang rực rỡ chiếu sáng cho nhiều hành tinh khác xung
quanh nó. Những năng lượng tại hành tinh này đã tạo ra sự
sống với vô số nhiệm màu khiến cho chúng sinh, người tu

49
hành dưới nhân gian ngày nay phải mơ ước, thậm chí cầu
nguyện sau khi hoại diệt thân xác được vãng sinh về.
Hành tinh này có đồi núi, cỏ cây hoa lá, hồ nước rộng
lớn bao la. Núi đá là những loại đá quý phát ra ánh sáng màu
trắng, xanh, tím, hồng, vàng. Cỏ cây hoa lá cũng tỏa ra ánh
sáng ngũ sắc rực rỡ. Mặt hồ nước phản chiếu ánh sáng màu
xanh lưu ly từ đáy hồ, dưới đáy hồ đều là đá quý lưu ly với
những hạt đá nhỏ bé, kích cỡ to nhỏ như hạt cát hoặc viên sỏi
cuội. Tất cả đồi núi, cỏ cây hoa lá, hồ nước ở hành tinh được
hình thành từ quá trình phân tách hạt năng lượng, liên kết
dây và tam hợp cấu tạo mà thành. Hành tinh này là những
tinh hoa nhất của năm nhóm năng lượng kết tụ thành sự
nhiệm màu, nên chính vạn vật của hành tinh này đều tỏa ra
những ánh sáng rực rỡ, nhẹ nhàng và an lạc tự tại.
Ở cõi này, vạn vật đều thanh tịnh và tự tại như các Tuệ
linh tại hành tinh này vậy. Khi ta nhìn vào hồ nước thì không
thấy một gợn sóng, khi ta ném một viên đá bẹt trên mặt nước
cũng không thấy có gợn sóng nào, khi ta xuống tắm cũng
không làm cho mặt nước gợn sóng. Quả thực đó là điều thú vị
và tuyệt vời, vì khi ta quan sát, cảm thọ, hòa mình vào mặt
nước mới thấy được sự thanh tịnh tự tại của vạn vật, nó
khiến cho tâm của ta an vui theo mà quên đi cõi trần nhân
sinh đầy rẫy khổ đau. Hiện tượng mặt nước không có gợn
sóng cũng hiểu thêm là không có Mặt trời và Mặt trăng ở
xung quanh hành tinh này như Trái đất, cũng có thể như vậy
đã góp phần tạo ra hành tinh an lạc. Chưa dừng lại ở đó, khi
ta ngồi, đi trên mặt đất, đồi núi với vô số châu báu đá quý tỏa
năng lượng, thì cái ta cảm thấy tuyệt vời nữa là những làn gió
mát mang theo những ánh sáng màu sắc nhẹ nhàng lan tỏa
khắp hành tinh, khiến cho tâm ta an lạc mát mẻ, đó là cái mát

50
mẻ không chỉ cảm nhận được bằng xúc giác mà còn cảm
nhận được tâm an lạc.
Muông thú hay còn gọi là linh vật của hành tinh này rất
đa dạng, từ to lớn cho đến nhỏ bé, có rồng, sư tử, phượng
hoàng, trâu, công, chim muông… Khi nhìn vào linh vật rồng
thì thấy nó cũng có thể thi triển sự biến hóa từ to lớn uốn
lượn như bao phủ cả bầu trời cho đến hóa thành một Tuệ
linh. Các linh vật đều có thể biến hóa bởi họ được hình thành
từ liên kết năng lượng có mã sóng trí tuệ phức tạp; họ đã
được tu tập, luyện tập tương tác năng lượng mang sóng điện
âm dương có trong chính họ và của cả các hành tinh nên điều
này là điều dễ hiểu khi chứng kiến sự nhiệm màu đó.
Kiến trúc tại hành tinh này rất đồ sộ bởi các cung điện
nguy nga được làm bằng các vật liệu của hành tinh này, đó là
châu báu, vàng bạc, đá quý. Khi đi tham quan các cung điện
đó, không khỏi choáng ngợp bởi ánh sáng rực rỡ cổ kính tỏa
ra từ các kim loại vàng và đá quý. Những cung điện đó là nơi
các Tuệ linh được phân chia nhiệm vụ nghiên cứu, tu luyện
xử lý năng lượng của hành tinh này, và sự tương tác ở nhiều
cõi trời khác trong Vũ trụ.
Các Tuệ linh của hành tinh này luôn cải tạo, xây dựng
cho hành tinh có được sự an lạc, tự tại, thanh tịnh, luôn luôn
tỏa ra nhiều tầng năng lượng tốt cho sự sống của chính hành
tinh đó và tiếp tục tỏa ra những tầng năng lượng tốt cho sự
duy trì được trạng thái cân bằng âm dương của các hành tinh
khác. Chính vì vậy thế giới quan của cõi trời này là nhiệm
màu nhất, tốt đẹp nhất trong Vũ trụ. Nó tốt đẹp, nhiệm màu
ở chỗ là làm cho vạn vật, Tuệ linh, muông thú được hòa theo
sự an lạc tự tại, sự thanh tịnh mà không có sân, không có
hận, không có chấp ngã.

51
Cõi trời nhiệm màu này chính là trung tâm, là lõi của
Vũ trụ. Nó cung cấp năng lượng đã được xử lý của Hội đồng
Tuệ linh đến khắp các dải thiên hà, hết thảy các hành tinh
trong toàn bộ Vũ trụ. Việc cung cấp năng lượng đó để tạo sự
liên kết bền vững giúp cho Vũ trụ luôn luôn quay xung
quanh chính trung tâm của Vũ trụ. Việc đó sẽ giúp Vũ trụ
không ngừng phát triển và mang tính bền vững, gắn kết tất
cả các dạng sống trong Vũ trụ thành một thể thống nhất bền
vững.
***************

52
Bài 8:
Hành trình kiến thiết, xây dựng Vũ trụ của
dạng sống Tuệ linh


Để có được một hành tinh kỳ diệu, nhiệm màu nhất Vũ


trụ, để dạng sống Tuệ linh được hình thành và phát triển,
chúng ta đều không biết vị Tuệ linh đầu tiên và sau đó các
Tuệ linh khác đã làm thế nào? Làm thế nào và làm như thế
nào để xây dựng được các dạng sống, xây dựng và phát triển
Vũ trụ từ sau vụ nổ siêu năng lượng?
Dạng sống Tuệ linh, các dạng sống khác và toàn bộ Vũ
trụ, Tuệ linh, con người được xây dựng, phát triển bởi vị Tuệ
linh đầu tiên. Thông qua cơ chế phân tách liên kết dây của
hạt năng lượng tận cùng, bản chất Tam hợp, cơ chế quay tròn
mà vị Tuệ linh đầu tiên và dạng sống Tuệ linh đã gieo duyên
vận hành để kiến thiết và xây dựng vạn vật, Vũ trụ.
Sau vụ nổ siêu năng lượng đã tạo ra năm nhóm năng
lượng vận hành quay tròn xung quanh lõi của không gian
năm nhóm năng lượng. Trong hạt năng lượng của năm nhóm
năng lượng đều có sợi mã sóng trí tuệ có khả năng liên kết
dây. Sợi mã sóng trí tuệ của mỗi hạt năng lượng trong mỗi
nhóm có sức mạnh và hào quang của sóng điện cũng khác
nhau, điều này đã tạo ra sự đa dạng trong trí tuệ của năm
nhóm năng lượng. Sự đa dạng thể hiện ở các hạt năng lượng
có mã sóng trí tuệ từ giản đơn đến siêu phức tạp. Hạt năng
lượng có mã sóng trí tuệ giản đơn sẽ có sóng điện yếu, hạt
53
năng lượng có mã sóng trí tuệ phức tạp sẽ có sóng điện
mạnh, hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp sẽ có
sóng điện siêu mạnh. Nhóm năng lượng có mã sóng trí tuệ
giản đơn sẽ cấu tạo thành nhóm vật chất giản đơn, nhóm
năng lượng có mã sóng trí tuệ phức tạp sẽ cấu tạo thành vật
chất phức tạp, nhóm năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức
tạp sẽ cấu tạo thành nhóm siêu vật chất.
Chính vì có sự phân hóa mã sóng trí tuệ trong năm
nhóm năng lượng mà vị Tuệ linh đầu tiên đã phân loại quá
trình kiến thiết, xây dựng Vũ trụ theo các hướng. Những hạt
năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp sẽ được gieo
duyên để hình thành các Tuệ linh và dạng sống Tuệ linh;
những hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ đơn giản được cấu
tạo thành thành các hành tinh, các dải thiên hà, khối thiên hà;
những hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ phức tạp sẽ được
cấu tạo thành năm nhóm năng lượng vận hành Vũ trụ. Ngoài
ra để vận hành được vật chất trong toàn bộ Vũ trụ tồn tại và
vận động thì cần có năng lượng vận hành, loại năng lượng
này tôi sẽ đề cập sau.

Xây dựng dạng sống Tuệ linh:


Vị Tuệ linh đầu tiên đã chọn lọc các hạt năng lượng có
mã sóng trí tuệ siêu phức tạp của năm nhóm năng lượng, tức
là những hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ tốt nhất của năm
nhóm hạt năng lượng. Ngài bắt đầu gieo duyên để cho các hạt
năng lượng mang sóng điện âm kết hợp với các hạt năng
lượng mang sóng điện dương tạo thành các phôi năng lượng
âm dương. Các phôi năng lượng âm dương được dưỡng tại
những nơi có năng lượng cân bằng âm dương để giúp cho
quá trình phân tách hạt năng lượng trong phôi năng lượng
54
được thuận lợi. Đây chính là quá trình sản sinh tạo ra các Tuệ
linh.
Sự đa dạng trong việc cấy ghép các hạt năng lượng có
sóng điện âm dương khác nhau đã tạo ra các Tuệ linh có trí
tuệ khác nhau:
- Kết hợp các hạt năng lượng phát triển màu xanh lá
(sóng điện dương) với các hạt năng lượng màu đỏ máu (sóng
điện âm) đã tạo ra một dạng Tuệ linh có cấu trúc mã sóng trí
tuệ giống nhau sau khi được sinh ra, đó là trí tuệ có thiên
hướng phát triển lý luận và phương pháp tiêu cực mạnh.
- Kết hợp các hạt năng lượng phát triển màu xanh lá
(sóng điện dương) với các hạt năng lượng màu đen (sóng
điện âm) đã tạo ra một dạng Tuệ linh có cấu trúc mã sóng trí
tuệ giống nhau sau khi được sinh ra, đó là trí tuệ có thiên
hướng phát triển lợi ích cho chính mình mà gây tổn hại vạn
vật khác.
- Kết hợp các hạt năng lượng phát triển màu xanh lá
(sóng điện dương) với các hạt năng lượng màu xám (sóng
điện âm) đã tạo ra một dạng sống Tuệ linh có cấu trúc mã
sóng trí tuệ giống nhau sau khi được sinh ra, đó là trí tuệ có
thiên hướng phát triển theo ý của chính mình mà không
quan tâm tới những chỉ dạy, chỉ dẫn của Tuệ linh khác.
- Kết hợp các hạt năng lượng phát triển màu xanh lá
(sóng điện dương) với các hạt năng lượng màu trắng trong
có thiên hướng sóng điện âm đã tạo ra một dạng sống Tuệ
linh có cấu trúc mã sóng trí tuệ giống nhau sau khi được sinh
ra, đó là trí tuệ có thiên hướng phát triển vì lợi ích của vạn
vật, Vũ trụ bằng chân tâm, và không vì lợi ích của chính mình.

55
- Kết hợp các hạt năng lượng lan tỏa màu đỏ lửa (sóng
điện dương) với các hạt năng lượng màu đỏ máu (sóng điện
âm) đã tạo ra một dạng sống Tuệ linh có cấu trúc mã sóng trí
tuệ giống nhau sau khi được sinh ra, đó là trí tuệ có thiên
hướng lan tỏa những giá trị tiêu cực, lan tỏa những phương
pháp u mê gây hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
- Kết hợp các hạt năng lượng lan tỏa màu đỏ lửa (sóng
điện dương) với các hạt năng lượng màu đen (sóng điện âm)
đã tạo ra một dạng sống Tuệ linh có cấu trúc mã sóng trí tuệ
giống nhau sau khi được sinh ra, đó là trí tuệ có thiên hướng
lan tỏa hành động tiêu cực gây tổn hại vạn vật, Tuệ linh và
con người.
- Kết hợp các hạt năng lượng lan tỏa màu đỏ lửa (sóng
điện dương) với các hạt năng lượng màu xám (sóng điện âm)
đã tạo ra một dạng Tuệ linh có cấu trúc mã sóng trí tuệ giống
nhau sau khi được sinh ra, đó là trí tuệ có thiên hướng lan
tỏa u mê tới Tuệ linh và con người.
- Kết hợp các hạt năng lượng lan tỏa màu đỏ lửa (sóng
điện dương) với các hạt năng lượng màu trắng trong có thiên
hướng sóng điện âm đã tạo ra một dạng Tuệ linh có cấu trúc
mã sóng trí tuệ giống nhau khi được sinh ra, đó là trí tuệ có
thiên hướng lan tỏa giá trị lợi ích tới Tuệ linh, con người và
vạn vật bằng chân tâm mà không vì lợi ích của mình.
- Kết hợp các hạt năng lượng đoàn kết màu vàng (sóng
điện dương) với các hạt năng lượng màu đỏ máu (sóng điện
âm) đã tạo ra một dạng sống Tuệ linh có cấu trúc mã sóng trí
tuệ giống nhau sau khi được sinh ra, đó là trí tuệ có thiên
hướng đoàn kết, bảo vệ những giá trị, những phương pháp
gây hại cho vạn vật, Tuệ linh và con người.

56
- Kết hợp các hạt năng lượng đoàn kết màu vàng (sóng
điện dương) với các hạt năng lượng màu đen (sóng điện âm)
đã tạo ra một dạng sống Tuệ linh có cấu trúc mã sóng trí tuệ
giống nhau sau khi được sinh ra, đó là trí tuệ có thiên hướng
đoàn kết, bảo vệ những hành động gây tổn hại tới vạn vật,
Tuệ linh và con người.
- Kết hợp các hạt năng lượng đoàn kết màu vàng (sóng
điện dương) với các hạt năng lượng màu xám (sóng điện âm)
đã tạo ra một dạng sống Tuệ linh có cấu trúc mã sóng trí tuệ
giống nhau sau khi được sinh ra, đó là trí tuệ có thiên hướng
bảo vệ, đoàn kết những u mê lạc lối gây tổn thương tới vạn
vật, Tuệ linh và con người.
- Kết hợp các hạt năng lượng đoàn kết màu vàng (sóng
điện dương) với các hạt năng lượng màu trắng trong có thiên
hướng sóng điện âm đã tạo ra một dạng sống Tuệ linh có cấu
trúc mã sóng trí tuệ giống nhau sau khi được sinh ra, đó là trí
tuệ có thiên hướng bảo vệ, đoàn kết vạn vật, Tuệ linh, con
người cùng lan tỏa và phát triển những giá trị, các phương
pháp mang lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh, con người mà không
màng đến lợi ích của mình.
- Kết hợp các hạt năng lượng có sóng điện âm (màu đỏ
máu, màu đen, màu xám) với các hạt năng lượng trắng trong
có thiên hướng sóng điện dương đã tạo các dạng Tuệ linh
chuyên tạo ra các giá trị, phương pháp, hành động, dẫn
đường u mê lạc lối, gây tổn hại lợi ích của vạn vật, Tuệ linh và
con người.
Sự cấy ghép giữa các hạt năng lượng có sóng điện âm
dương khác nhau đã làm đa dạng trí tuệ của dạng sống Tuệ
linh. Trí tuệ của các Tuệ linh do đặc tính sóng điện âm dương
của hai hạt năng lượng hợp thành phôi năng lượng gốc (Trụ
57
linh) chi phối và quyết định, đó là bản chất trí tuệ của dạng
sống Tuệ linh. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ và tu luyện cải tạo
thì cấu trúc mã sóng trí tuệ trong Trụ linh của các Tuệ linh
cũng sẽ thay đổi từ không tốt thành tốt.
Khi các Tuệ linh được sinh ra, vị Tuệ linh đầu tiên sẽ
dạy dỗ tri thức và các phương pháp di chuyển, cải tạo, phát
triển Vũ trụ. Sau đó, vị Tuệ linh đầu tiên thành lập các hội
đồng nghiên cứu, truyền dạy về tương tác và xử lý năng
lượng.
Dạng sống Tuệ linh sống tại cõi trời nhiệm màu, kỳ
diệu nhất trong Vũ trụ. Sau này, các Tuệ linh di chuyển và
sống ở các hành tinh khác nhau để phát triển các dạng sống
mới. Việc các Tuệ linh di chuyển đến các hành tinh khác để
xây dựng và phát triển các dạng sống khác chính là lý do xuất
hiện dạng sống muông thú và dạng sống con người ở Trái đất
này.

Xây dựng các hành tinh:


Cũng như việc gieo duyên tạo ra các Tuệ linh, vị Tuệ
linh đầu tiên và dạng sống Tuệ linh đã gieo duyên để xây
dựng Vũ trụ và các dạng sống khác. Những hạt năng lượng có
mã sóng trí tuệ từ đơn giản đến phức tạp trong năm nhóm
khi được kết hợp bởi những hạt năng lượng có sóng điện âm
với những hạt năng lượng có sóng điện dương khác nhau đã
tạo ra sự đa dạng của vật chất. Sự kết hợp đa dạng đã hình
thành các hành tinh khác nhau bởi tính chất sóng điện âm
hay dương. Sự kết hợp đa dạng đã hình thành những vật chất
có tính chất sóng điện âm dương khác nhau. Điều này đã tạo
ra kỳ quan của Vũ trụ là từ không gian năm nhóm năng

58
lượng sau vụ nổ siêu năng lượng đã dần hình thành và phát
triển thành Vũ trụ rộng lớn bao la như ngày nay.
Hành tinh đầu tiên được xây dựng chính là hành tinh
kỳ diệu, nhiệm màu nhất ở tâm của không gian Vũ trụ. Nơi
này chính là nơi an trụ của dạng sống Tuệ linh.
Sự đa dạng của cấu trúc chỉnh thể các hành tinh mang
sóng điện âm dương khác nhau đã tạo thành các hệ mặt trời.
Các hệ mặt trời có cấu trúc vận động ổn định bởi sự tự quay
tròn và các hành tinh, vệ tinh, quay tròn xung quanh các mặt
trời. Sự ổn định cấu trúc quay của các hệ mặt trời đã tạo cho
các hành tinh trở thành dạng sống có sự trật tự và ổn định
phát triển.
Quá trình xây dựng của dạng sống Tuệ linh đã hình
thành ra vô số khối thiên hà, mỗi một khối thiên hà có nhiều
dải thiên hà, trong mỗi dải thiên hà có vô số hệ mặt trời. Đến
ngày nay, Vũ trụ đã phát triển thành vô số khối thiên hà, các
khối thiên hà bao bọc tại không gian lõi và tầng tầng lớp lớp
bao phủ ra bên ngoài thành tinh cầu Vũ trụ khổng lồ.
Tinh cầu Vũ trụ khổng lồ được hình thành từ tinh cầu
năm nhóm tầng năng lượng sau vụ nổ siêu năng lượng vẫn
quay tròn. Việc Vũ trụ hình thành và phát triển đến ngày nay
và sẽ còn giãn nở rộng lớn hơn nữa trong tương lai là minh
chứng cho cơ chế phân tách liên kết hạt năng lượng, bản chất
Tam hợp, cơ chế quay tròn đã và đang vận hành Vũ trụ.
Sự miệt mài của vị Tuệ linh đầu tiên và dạng sống Tuệ
linh đã xây dựng ra được nhiều dạng sống trong tiến trình
phát triển của Vũ trụ. Không chỉ vậy, Vũ trụ đã ngày càng to
lớn và kỳ vĩ, đó là thành quả của quá trình kiến thiết và xây
dựng phát triển Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Thành quả vô

59
cùng to lớn này đã cho thấy sự thống lãnh của dạng sống Tuệ
linh trong toàn bộ Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
Tính theo đơn vị đo lường thời gian của Trái đất, đó là
đơn vị đo lường thời gian theo năm để quy ra thời gian từ
thời khắc hai hạt năng lượng âm dương hợp thành phôi âm
dương (phôi năng lượng khởi đầu cho vụ nổ lớn), đến thời
điểm này đã được 20 tỷ năm. Và phải mất 7 triệu năm nữa để
nhân loại chứng thực được hạt sóng xanh nõn chuối bên
ngoài Vũ trụ. Bởi bảy triệu năm nữa thì khoa học nhân loại
mới phát triển vượt bậc để có được các phương tiện di
chuyển cũng như đo đạc được những điều, những thứ mà từ
xưa tới nay đều coi là tâm linh huyền bí.
Hành trình kiến thiết và xây dựng Vũ trụ của dạng
sống Tuệ linh vẫn đang tiếp tục diễn ra trên hành trình bất
tận và sẽ có được những thành tựu kỳ diệu trong tương lai.
***************

60
Bài 9:
Cuộc chiến tranh không hồi kết giữa
dạng sống của năng lượng hoại diệt với
các dạng sống bên trong Vũ trụ


Vụ nổ siêu năng lượng đã làm cho dạng sống năng


lượng hoại diệt bị suy giảm nhiều. Việc dạng sống của năng
lượng hoại diệt bị suy giảm đã là thời cơ vàng cho vị Tuệ linh
đầu tiên xây dựng các dạng sống và phát triển Vũ trụ được
lớn mạnh. Thành tựu của vị Tuệ linh đầu tiên này là đã tạo và
xây dựng được dạng sống Tuệ linh, xây dựng được dạng sống
năm nhóm tầng năng lượng, xây dựng được các dạng sống
vật chất giản đơn là vô số dải thiên hà được hình thành.
Song song với quá trình hình thành các dạng sống và
sự phát triển vượt bậc của Vũ trụ, dạng sống năng lượng hoại
diệt bắt đầu hồi phục và lớn mạnh. Năng lượng hoại diệt
ngày càng gia tăng số lượng vì luôn luôn được những điểm
phát ra hạt sóng dã chiến phân tách để hình thành những hạt
năng lượng hoại diệt, và những lần đồng hóa các hạt năng
lượng có sóng điện âm dương được sinh ra trong môi trường
sống trung tính của năng lượng hoại diệt. Do đó mật độ và số
lượng của dạng sống này ngày càng phát triển vượt bậc.
Các dạng sống trong Vũ trụ được coi là người em, dạng
sống năng lượng hoại diệt được coi như là người anh. Cũng
có thể coi hai dạng sống này như hai thái cực âm và dương.

61
Dạng sống trong Vũ trụ là thái cực dương, dạng sống của
năng lượng hoại diệt được coi là thái cực âm. Âm dương luôn
xoay vần và vận động tương tác trong nhau. Trong âm có
dương, trong dương có âm. Điều này là minh chứng bởi
trong môi trường sống của năng lượng hoại diệt có mầm
mống sự hình thành của năng lượng có sóng điện âm dương;
trong môi trường sống của Vũ trụ xuất hiện dạng sống năng
lượng hoại diệt. Sự tồn tại và đấu tranh sinh tồn trong nhau
đã tạo thành cuộc chiến tranh không hồi kết giữa hai người
anh em này, giữa hai thái cực âm dương này.
Các dạng sống trong Vũ trụ, ta gọi chung là dạng sống
của Vũ trụ, và một bên là dạng sống của năng lượng hoại diệt.

Các chiến dịch xâm chiếm đồng hóa của năng


lượng hoại diệt vào dạng sống của Vũ trụ:
Trong học thuyết Hạt năng lượng, tôi có phân tích về
sức mạnh và điểm yếu của năng lượng hoại diệt. Sức mạnh
của năng lượng hoại diệt là không có liên kết dây, nên dạng
sống này di chuyển xuyên qua mọi vật chất bên trong Vũ trụ.
Sức mạnh di chuyển của năng lượng hoại diệt là môi trường
có sóng điện âm và sự tấn công tổng lực. Chính vì những sức
mạnh này mà dạng sống năng lượng hoại diệt đã mở các
chiến dịch đi xâm chiếm và đồng hóa dạng sống của Vũ trụ.
Khi dạng sống Tuệ linh hình thành, khi các hành tinh
cũng bắt đầu hình thành, năng lượng hoại diệt bắt đầu các
cuộc di chuyển vào trong Vũ trụ. Vì trong Vũ trụ có nhóm
năng lượng tiêu cực mang sóng điện âm, nên những hạt năng
lượng hoại diệt di chuyển ở môi trường có năng lượng sóng
điện âm. Khi di chuyển vào trong Vũ trụ, năng lượng hoại

62
diệt bắt đầu đồng hóa các hạt năng lượng âm bằng cách là
chạm đuôi của chúng vào điểm liên kết sợi trí tuệ giữa các
hạt năng lượng, sau đó truyền sóng điện dư thừa của chúng
vào rồi làm đứt liên kết giữa các hạt, khi bị đứt liên kết giữa
các hạt năng lượng sẽ dẫn đến thối hóa trạng thái năng lượng
trong hạt. Và cuối cùng hạt năng lượng sóng điện âm, hoặc
dương hoặc chân tâm chuyển thành hạt năng lượng hoại diệt
có sợi mã sóng trí tuệ màu xanh nõn chuối và trạng thái năng
lượng màu nâu. Những chiến dịch đồng hóa ngày càng được
đẩy mạnh, làm cho năm nhóm hạt năng lượng bị tổn hao.
Tại những cấu trúc vật chất bên trong Vũ trụ đều có
liên kết của nhóm năng lượng có sóng điện dương với sóng
điện âm và sóng điện trung tính. Những hạt năng lượng hoại
diệt di chuyển vào nhóm hạt năng lượng âm và đồng hóa rồi
làm thay đổi cấu trúc liên kết của vật chất, khiến cho cấu trúc
vật chất đó bị mất liên kết và phân rã.
Những hạt năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu
những Tuệ linh có trí tuệ thiên hướng tiêu cực, tức là những
Tuệ linh có cấu trúc sóng điện âm mạnh trong Trụ linh. Sau
đó những hạt năng lượng hoại diệt di chuyển vào để đồng
hóa và làm phân rã cấu trúc sóng điện âm dương trong Trụ
linh và Tuệ linh. Khi lượng hạt năng lượng hoại diệt di
chuyển vào Trụ linh của Tuệ linh có sóng điện đa âm với số
lượng lớn sẽ làm cho Trụ linh và Tuệ linh đó nhanh bị phân
rã mà chuyển thành những hạt năng lượng hoại diệt.
Những chiến dịch đi đồng hóa của dạng sống năng
lượng hoại diệt đã làm cho nhiều Tuệ linh bị hoại diệt, làm
cho nhiều cấu trúc vật chất bị phân rã, làm tổn hao lớn năm
nhóm năng lượng. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển dạng sống của Vũ trụ.

63
Quá trình đi đồng hóa xâm chiếm của dạng sống năng
lượng hoại diệt đã khiến cho bên trong Vũ trụ hình thành các
khu vực lớn chứa đựng dạng sống năng lượng hoại diệt, đó là
những cơn bão năng lượng hoại diệt, nó chính là những hố
đen trong Vũ trụ mà khoa học ngày nay đang gọi. Những cơn
bão năng lượng hoại diệt được hình thành trong Vũ trụ đã
trở thành nỗi khiếp sợ đối với dạng sống Tuệ linh. Những
cơn bão năng lượng hoại diệt này đã làm phân rã và đồng
hóa được vô số Tuệ linh, vô số các hành tinh có sóng điện đa
âm.

Các chiến dịch mở mang bờ cõi của dạng sống


Vũ trụ:
Những cuộc xâm chiếm đồng hóa của năng lượng hoại
diệt vào Vũ trụ đã tạo thành vô số cơn bão năng lượng hoại
diệt, điều này đã trở thành nguy cơ khiến Vũ trụ bị hoại diệt
từ bên trong. Tuy năng lượng hoại diệt là nguy cơ hoại diệt
dạng sống của Vũ trụ, nhưng nó lại là nguồn năng lượng sống
không thể không có đối với Vũ trụ. Năng lượng hoại diệt
cung cấp nguồn năng lượng, dinh dưỡng vô tận cho sự phát
triển dạng sống của Vũ trụ. Điểm yếu của năng lượng hoại
diệt đã được vị Tuệ linh đầu tiên quan sát và thấu hiểu, đó là
nếu năng lượng hoại diệt tập trung và nén lại ở mật độ cao sẽ
bị kích nổ, nếu năng lượng hoại diệt gặp môi trường nhiệt
lượng dương lớn cũng sẽ bị kích nổ. Do đó vị Tuệ linh này đã
phát động những cuộc mở mang bờ cõi để mở rộng và gia
tăng năng lượng vận hành Vũ trụ.
Những điểm kích động bằng sóng điện âm ở phía bên
ngoài Vũ trụ, nơi giáp ranh với không gian năng lượng hoại

64
diệt được tạo ra. Khi đó năng lượng hoại diệt di chuyển
thẳng và tập trung tại những điểm bị kích động bởi sóng điện
âm, khi đó sóng điện dương được đẩy tới để tạo ra các vụ nổ.
Những vụ nổ bên ngoài giáp không gian Vũ trụ và không gian
năng lượng hoại diệt đã tạo ra không gian mới chứa đựng
dinh dưỡng và nhiệt lượng để giúp Vũ trụ phân tách và giãn
nở lớn hơn. Những cuộc mở mang bờ cõi cho Vũ trụ liên tục
được diễn ra và đã giúp cho Vũ trụ phát triển lớn mạnh như
hiện tại.
Những cuộc mở mang bờ cõi giúp cho Vũ trụ giãn nở
và phát triển lớn mạnh hơn ở phía bên ngoài Vũ trụ. Tuy
nhiên ở trong Vũ trụ thì những cơn bão năng lượng hoại diệt
vẫn được hình thành và lớn mạnh. Những cơn bão năng
lượng hoại diệt bên trong Vũ trụ đã làm suy yếu và cạn kiệt
năng lượng của Vũ trụ nhanh chóng. Hơn thế nữa, những
năng lượng hoại diệt ẩn giấu trong vật chất, trong Tuệ linh
của Vũ trụ thì vô số. Điều này dẫn đến nguy cơ Vũ trụ bị hoại
diệt từ bên trong. Bên ngoài không gian năng lượng hoại diệt
cũng có nguy cơ nổ dây chuyền do bị nén lại bởi cả năng
lượng hoại diệt và Vũ trụ đều phát triển quá nhanh. Cuộc
chiến giữa hai dạng sống không hồi kết đã và đang trở thành
nguy cơ hoại diệt toàn bộ các dạng sống bên trong và bên
ngoài Vũ trụ.
***************

65
66
Bài 10:
Nguy cơ và nguyên nhân hoại diệt dạng
sống của Vũ trụ và dạng sống
năng lượng hoại diệt


Vũ trụ đã phát triển lớn mạnh, trở thành một thể


thống nhất như tinh cầu khổng lồ bởi vô số khối thiên hà. Vũ
trụ đã phát triển, giãn nở rộng lớn, kín hết và vượt ra khỏi cả
không gian của năm nhóm năng lượng sau vụ nổ siêu năng
lượng. Năng lượng hoại diệt cũng phát triển lớn mạnh đến
mức có thể bị kích nổ dây chuyền. Do đó vị Tuệ linh đầu tiên
đã nhìn thấy thời điểm cả hai dạng sống này bị hoại diệt.

Nguy cơ hoại diệt cả hai dạng sống:


Bản chất cuộc chiến không hồi kết giữa dạng sống
năng lượng hoại diệt và dạng sống của Vũ trụ không phải là
để giành thắng lợi, không phải là để trở thành bá chủ. Dạng
sống năng lượng hoại diệt cần phải xả được sóng điện dư
thừa ra khỏi hạt năng lượng, vì năng lượng hoại diệt không
có liên kết dây nên chúng không truyền tải giải phóng để cân
bằng được. Năng lượng hoại diệt lại di chuyển thẳng và
không quay tròn nên đây lại là nguy cơ sinh nhiệt lượng quá
nhanh và hủy diệt của năng lượng hoại diệt. Dạng sống của
Vũ trụ thì cạn kiệt năm nhóm năng lượng cho sự phát triển
và vận hành Vũ trụ quay, vận hành sự sống của Vũ trụ.

67
Nguồn năng lượng vô tận giúp Vũ trụ tồn tại và phát triển
chính là năng lượng hoại diệt. Nhưng dạng sống Tuệ linh
đang không có phương pháp và cơ chế vận hành an toàn cho
cả hai dạng sống. Do đó, bản chất của cuộc chiến giữa hai
dạng sống là để duy trì sự tồn tại của cả hai dạng sống.
Nguy cơ hủy diệt của Vũ trụ là cạn kiệt năng lượng, tức
là không còn năm nhóm năng lượng để vận hành sự sống.
Khi đó năng lượng hoại diệt sẽ tấn công tổng lực làm cho Vũ
trụ phân rã trở thành năng lượng hoại diệt. Vũ trụ khi bị
phân rã sẽ biến tan thành làn khói màu nâu.
Nguy cơ hủy diệt dạng sống năng lượng hoại diệt
chính là năng lượng này phát triển lớn mạnh, nhiệt lượng
sinh ra không giải phóng được, mật độ giữa các hạt quá lớn
nên bị nén lại và nổ dây chuyền. Khi nổ dây chuyền sẽ hủy
diệt toàn bộ năng lượng hoại diệt. Khi năng lượng hoại diệt
bị nổ dây chuyền hủy diệt thì cũng là dấu chấm hết cho sự
sống của Vũ trụ, bởi ảnh hưởng vụ nổ sẽ khiến một phần lớn
Vũ trụ hủy diệt theo và phần còn lại sẽ không còn nguồn
cung năng lượng để duy trì và vận hành sự sống nữa.
Như vậy, nguy cơ hoại diệt của cả hai dạng sống đã
được vị Tuệ linh đầu tiên tiên lượng được thời gian xảy ra.
Ngài quan sát tốc độ quay tròn của Vũ trụ và sự tiêu hao
nhiên liệu, Ngài thấy tốc độ lớn mạnh và sẽ nổ dây chuyền
của năng lượng hoại diệt. Do đó đây là nguy cơ hiện hữu
trước mắt của vị Tuệ linh đầu tiên và của cả hai dạng sống.

Nguyên nhân hoại diệt:

68
Từ nguy cơ hoại diệt của cả hai dạng sống, vị Tuệ linh
đầu tiên phân tích nguyên nhân và tìm ra phương pháp, cơ
chế cứu lại sự sống của cả hai dạng sống.
Nguyên nhân năng lượng hoại diệt bị hoại diệt:
- Hạt năng lượng hoại diệt không có liên kết dây để
truyền tải giải phóng nhiệt lượng nên bị nén lại mà kích nổ.
- Hạt năng lượng hoại diệt khi di chuyển không quay
tròn nên nhiệt lượng sinh ra rất lớn.
- Việc năng lượng hoại diệt đi đồng hóa lại càng làm gia
tăng số lượng và mật độ năng lượng hoại diệt.
- Năng lượng hoại diệt sẽ bị kích động và di chuyển
đồng loạt khi bắt được tín hiệu sóng điện âm.
Với 4 nguyên nhân này, năng lượng hoại diệt sẽ dễ bị
kích nổ dây chuyền và hoại diệt toàn bộ. Do đó, năng lượng
hoại diệt cần giảm tải quá trình sinh nhiệt khi di chuyển và
giảm tải sự gia tăng mật độ dân số của dạng sống, ngăn ngừa
bị kích động bởi năng lượng có sóng điện âm. Để ngăn ngừa
được sự hoại diệt thì năng lượng hoại diệt cần có cơ chế ngủ
ấm hay còn gọi là ngủ đông, nhưng năng lượng hoại diệt
không thể tự làm được điều này. Khi năng lượng hoại diệt
không bị hoại diệt thì Vũ trụ sẽ không bị hoại diệt.
Nguyên nhân dạng sống của Vũ trụ hoại diệt:
- Dạng sống năm nhóm năng lượng hoại diệt: một
phần là do năng lượng hoại diệt thông qua năng lượng sóng
điện âm di chuyển vào làm đứt liên kết dây và đồng hóa năm
nhóm năng lượng. Một phần là năm nhóm năng lượng đã cạn
kiệt do phải chuyển hóa để cấu thành các cấu trúc vật chất,
các hành tinh, các dạng sống khác. Một phần năm nhóm năng

69
lượng phải vận hành Vũ trụ quay nên cạn kiệt năng lượng.
Đó là nguyên nhân khiến năm nhóm năng lượng sẽ hoại diệt.
- Dạng sống là vật chất, các hành tinh bị hoại diệt: là do
không còn đủ năng lượng của năm nhóm năng lượng vận
hành, duy trì cấu trúc quay ổn định; là do bị năng lượng hoại
diệt di chuyển vào làm đứt liên kết hạt và phân rã cấu trúc
vật chất cũng như các hành tinh. Đó là nguyên nhân hoại diệt
của dạng sống vật chất và các hành tinh.
- Dạng sống Tuệ linh bị hoại diệt: những phôi năng
lượng đang được dưỡng để trở thành Tuệ linh bị hoại diệt là
do trong phôi có sóng điện âm chiếm đa số nên sẽ kích thích
hạt năng lượng hoại diệt di chuyển vào để phân rã và đồng
hóa. Những Tuệ linh bị hoại diệt là do cấu trúc Trụ linh trong
Tuệ linh có đa sóng điện âm nên sẽ kích thích năng lượng
hoại diệt di chuyển vào làm phân rã cấu trúc Trụ linh và hoại
diệt Tuệ linh.
Một câu hỏi đặt ra là tại sao phôi năng lượng của vị
Tuệ linh đầu tiên lại không bị năng lượng hoại diệt phân rã?
Tôi trả lời là phôi năng lượng của quả tinh cầu năng lượng
tạo thành vụ nổ siêu năng lượng được cấu tạo bởi một hạt
năng lượng dương có sóng điện dương siêu mạnh màu vàng
và một hạt năng lượng âm có sóng điện âm rất nhẹ màu
trắng trong. Chính vì điều này mà năng lượng hoại diệt
không xâm chiếm, đồng hóa được phôi năng lượng và quả
tinh cầu năng lượng đó.
Phân tích nguyên nhân hoại diệt của các dạng sống
trong Vũ trụ, vị Tuệ linh đầu tiên thấy dạng sống Tuệ linh
thiếu một cơ chế tạo ra cấu trúc Trụ linh như là một bộ lọc
năng lượng. Bộ lọc sẽ có cơ chế hút năng lượng hoại diệt về
đúng liều lượng và chuyển hóa thành những năng lượng tốt
70
hơn. Các dạng sống khác thiếu những năng lượng mới để duy
trì và phát triển sự sống tốt hơn, đó có thể là các siêu năng
lượng.
Để cứu được dạng sống năng lượng hoại diệt thì dạng
sống Tuệ linh phải cứu mình trước, đó là tạo ra bộ lọc năng
lượng của Trụ linh có cấu trúc mã sóng trí tuệ bền vững và
siêu việt. Khi tự cứu được dạng sống của mình thì sẽ dễ dàng
chuyển hóa ra các siêu năng lượng và cơ chế cứu lại tất cả
các dạng sống khác.
***************

71
72
PHẦN 2
CỘI NGUỒN NHÂN LOẠI

73
74
Giới thiệu:

Bấy giờ, tại các điểm tập kết khắp nơi trên Trái đất, tại
ven sông, tại ven biển, tại ven núi, tại trên núi, tại trong
rừng…, tất cả đều hào hứng nghe những lời truyền dạy được
coi là luật tu hành nơi nhân gian từ Ngài (vị Tuệ linh đầu
tiên).
Ngài truyền dạy tại các điểm tập kết lịch sử, Ngài nói
với các cặp gia đình là: “Ta đưa các ngươi xuống đây bằng
chân tâm thì về cũng phải bằng chân tâm”. Ngài nói với các
cặp bố mẹ: “Ta giao sứ mệnh cho các ngươi phải gả con cái
cho nhau để xây dựng nhân loại”. Ngài nói với các cặp gia
đình: “Các ngươi sẽ phải trải qua nhiều kiếp, trải qua hết các
khổ đau và kiếp nạn; lấy kinh nghiệm trải qua đó để cải tạo
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, khi chưa cải tạo được thì
chưa được trở về”. Ngài nói với các hộ gia đình và muông
thú: “Ta giao cho các ngươi nhiệm vụ thuần hóa muông thú
để chúng cũng làm người và cùng xây dựng nhân loại”. Ngài
nói với tất cả các hộ gia đình và muông thú: “Ta cho các
ngươi biết, để nhanh cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng thì các ngươi hãy tìm kiếm Chân lý Vạn vật và chuyển
hóa giác ngộ trong khổ đau và kiếp nạn”.
***************

75
76
Bài 1:
Kế hoạch táo bạo của vị Tuệ linh đầu tiên


Đứng trước nguy cơ hoại diệt của cả dạng sống của Vũ


trụ và dạng sống của năng lượng hoại diệt, thấy rõ nguyên
nhân hoại diệt của cả hai dạng sống, vị Tuệ linh đầu tiên đã
cho lập ra các hội đồng nghiên cứu về tương tác xử lý năng
lượng tại chính hành tinh kỳ diệu và nhiệm màu của Ngài.
Các hội đồng sau khi được thành lập đã bắt tay vào
nghiên cứu. Các phương pháp được nghiên cứu và đưa vào
thử nghiệm để tìm ra phương pháp cải tạo Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng, ngủ đông năng lượng hoại diệt đều bất
thành, thậm chí quá trình nghiên cứu và thử nghiệm không
đưa đến được thành tựu nào. Tuy nhiên điều này lại là một
dấu mốc đặc biệt để vị Tuệ linh đầu tiên phân tích nguyên
nhân và đưa ra một kế hoạch táo bạo nhất trong Vũ trụ. Kế
hoạch này đã tạo ra sự sống ở Trái đất.

1. Tuệ linh đầu tiên phân tích các nguyên nhân


thất bại của các hội đồng nghiên cứu về năng
lượng
Các Tuệ linh của dạng sống Tuệ linh không an trụ
trong thân tướng vật chất giản đơn nên không có chướng
ngại và sự trói buộc.

77
Các Tuệ linh của dạng sống Tuệ linh không thấy khổ
đau, các Tuệ luôn thấy an lạc tự tại, bởi dạng sống Tuệ linh
không có giới tính, không có sắc dục, không có quan hệ và
ràng buộc bởi mối quan hệ gia đình, không có mưu cầu vật
chất, cần gì có thể biến hóa được. Tuy nhiên, sự hoại diệt lại
không ngăn ngừa được.
Các Tuệ linh không giải mã được sự thật, toàn diện về
bản chất Trụ linh của mình, do đó không biết độc Tâm và
thiện Tâm sẽ bộc phát trong các kịch bản tương tác nào.
Các Tuệ linh không thấu hiểu, không giải mã được sự
thật, toàn diện về dạng sống năng lượng hoại diệt, nên không
có cơ chế phòng thủ cũng như chuyển hóa được năng lượng
hoại diệt.
Các Tuệ linh không thấu hiểu, không giải mã được sự
thật, toàn diện của tất cả các nhóm năng lượng, vật chất
trong Vũ trụ, lại không thấu hiểu việc tất cả vạn vật trong Vũ
trụ bị biến đổi do nhiễm năng lượng hoại diệt. Những điều
này làm cho dạng sống Tuệ linh trong quá trình tương tác,
xây dựng, phát triển Vũ trụ dễ bị năng lượng hoại diệt đồng
hóa mà không có cơ chế chuyển hóa.
Vị Tuệ linh đầu tiên thấy việc năng lượng hoại diệt bị
nổ và chuyển hóa thành dinh dưỡng và năng lượng sống cho
Vũ trụ là vì dạng sống đó bị nén lại ở mật độ lớn và bị năng
lượng dương kích nổ.
Các Tuệ linh nghiên cứu năng lượng không thành công
vì thiếu khổ đau, bí bách, thiếu sự tương tác dồn nén ở mật
độ cao, thiếu sự ràng buộc và trách nhiệm. Chính điều này
mà vị Tuệ linh đầu tiên đã lập ra kế hoạch táo bạo cho dạng
sống Tuệ linh. Có thể đến bây giờ thì kế hoạch này được coi

78
là kế hoạch vĩ đại nhất của sự sống Vũ trụ, Tuệ linh và con
người.

2. Kế hoạch táo bạo – Kế hoạch vĩ đại của vị Tuệ


linh đầu tiên
Kế hoạch táo bạo này được chia làm hai kế hoạch:
Kế hoạch 1:
Kế hoạch đầu tiên của vị Tuệ linh này là tạo ra một môi
trường sống và tu luyện ưu việt cho các Tuệ linh, đó là môi
trường sinh sống và tu luyện trong khổ đau, trong sự khắc
nghiệt về thiên nhiên, về đấu tranh sinh tồn, về tương tác giữa
các Tuệ linh với nhau, vì Ngài nhận thấy rằng ở cõi trời của
Ngài, vạn vật thanh tịnh và nhiệm màu, các Tuệ linh sống
trong cảnh thanh tịnh đó không phải là môi trường tốt để rèn
giũa và cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Ngài nhận
thấy chỉ có môi trường khắc nghiệt có tất cả các kịch bản
tương tác trong tất cả các môi trường sóng điện khác nhau
mới là cơ hội để cho các Tuệ linh cải tạo và luyện thành công
Trụ linh có bộ lọc năng lượng. Bộ lọc năng lượng có thể hiểu
nó như một nhà máy lọc nước sạch hoặc như nhà máy phát
điện hiện nay tại nhân gian. Nếu các Tuệ linh luyện được bộ
lọc năng lượng trong Trụ linh thì các Tuệ linh đó sẽ tránh
được sự hoại diệt, và lan tỏa phương pháp tu luyện đó cho các
Tuệ linh khác cùng luyện đạt được, để tiếp tục duy trì và cải
tạo sự sống trong khắp Vũ trụ. Khi các Tuệ linh hoàn thành
được kế hoạch 1 này, trong Trụ linh sẽ chuyển hóa thành bộ
lọc kép. Siêu hạt năng lượng âm sẽ hấp thụ nhiệt lượng, năm
nhóm năng lượng, năng lượng hoại diệt, sau đó kích nổ năng
lượng hoại diệt. Khi đó siêu hạt năng lượng âm và siêu hạt

79
năng lượng dương đều phân tách ra các siêu năng lượng để
duy trì, bảo vệ, phát triển sự sống của chính mình và Vũ trụ.

Hình: Cấu trúc bộ lọc năng lượng kép trong


Trụ linh của Tuệ linh

80
Không dừng lại ở việc tu luyện cải tạo Trụ linh của Tuệ
linh thành bộ lọc năng lượng, mà còn phải tìm ra cơ chế sản
sinh ra các siêu năng lượng mới, cũng như cơ chế để cứu
được tất cả các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ không bị
hoại diệt.
Kế hoạch 2:
Là các Tuệ linh sau khi hoàn thành được kế hoạch 1 sẽ
phải đi đến khắp Vũ trụ để duy trì, bảo vệ sự sống của tất cả
các dạng sống, tiếp đó là xây dựng, phát triển đa dạng các
dạng sống mới có cấu trúc mã sóng trí tuệ bền vững. Để thực
hiện được kế hoạch 2, Ngài cần có nhiều và tất cả các Tuệ
linh hoàn thành được kế hoạch 1 của Ngài.
Để thực hiện được hai kế hoạch này, vị Tuệ linh đầu
tiên đã gieo ra vô lượng phôi năng lượng âm dương đến
khắp các hành tinh trong Vũ trụ để tìm ra hành tinh có môi
trường lý tưởng nhất cho các Tuệ linh đến đó tu hành. Điều
này được hiểu như việc Ngài xây dựng ra một trường học với
tất cả các điều kiện, yếu tố tương tác khắc nghiệt nhất để
giúp các Tuệ linh học tập, tu luyện thành công trong môi
trường đó.
***************

81
82
Bài 2:
Cuộc di cư lịch sử của dạng sống Tuệ linh
và dạng sống con người xuất hiện


Để tạo được môi trường sinh sống và tu luyện cải tạo


luyện Trụ linh của các Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng,
Người Cha vĩ đại sẽ phải tìm một hành tinh có chứa đựng đầy
đủ các điều kiện khắc nghiệt nhất, sự khắc nghiệt của thiên
nhiên, khắc nghiệt trong đấu tranh sinh tồn, sự phức tạp hóa
trong cuộc sống và cuộc sống không có gì ngoài khổ đau. Bởi
cõi trời của Ngài đã quá nhiệm màu và thanh tịnh từ vạn vật
đến các Tuệ linh, điều đó đã làm cho các Tuệ linh không thể
luyện được Trụ linh có khả năng hấp thụ được năng lượng
của khổ đau, năng lượng hoại diệt, để chuyển hóa thành năng
lượng tốt. Chính vì thế chỉ có tạo ra một môi trường sống
ngược lại với sự thanh tịnh và nhiệm màu, đó là không có gì
ngoài khổ và sự khắc nghiệt cùng cực thì mới khiến cho các
Tuệ linh tu luyện cải tạo Trụ linh thành công.
Để thực hiện được kế hoạch 1 – kế hoạch xây dựng
nhân loại, Ngài đã gieo vô số phôi năng lượng âm dương.
Phôi âm dương chính là duyên. Ngài gieo duyên đến khắp các
hành tinh trong Vũ trụ để tìm ra hành tinh có đủ điều kiện
sống khắc nghiệt mà vẫn duy trì được sự sống cho các Tuệ
linh. Ngài đã tìm ra được hành tinh phù hợp, đó là Trái đất.
Tại sao Trái đất lại là điều kiện lý tưởng để Ngài xây dựng
nhân loại và là môi trường tu hành cho các Tuệ linh? Bởi Trái

83
đất quay xung quanh Mặt trời, Mặt trăng quay xung quanh
Trái đất, các hành tinh khác cũng theo đó mà quay xung
quanh nhau tạo thành quỹ đạo di chuyển có sự cân bằng về
năng lượng âm dương, đó là lực đẩy và lực hút giữa các hành
tinh mà tạo ra sự duy trì cân bằng năng lượng âm dương.
Đây là điều kiện lý tưởng để các hành tinh không bị va đập
vào nhau gây hủy diệt môi trường tu hành. Quỹ đạo di
chuyển của Trái đất và các hành tinh làm cho thiên nhiên
trên Trái đất có sự khắc nghiệt, đó là môi trường lý tưởng
nhất cho các Tuệ linh sinh sống và tu luyện.
Kế hoạch xây dựng nhân loại làm môi trường tu hành
được Ngài chia ra làm 4 kế hoạch, 4 kế hoạch này sẽ giúp cho
các Tuệ linh luyện được cấu trúc mã sóng trí tuệ trong Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất:

1. Kế hoạch 1, vị Tuệ linh đầu tiên (Người Cha vĩ


đại) sáng tạo và quan sát sự sống trên Trái đất
Ngài gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương
để tạo ra hoạt động phun trào nham thạch, tạo thành núi cao
và những vùng trũng khuyết, hố sâu. Ngài quan sát quá trình
thay đổi của Trái đất để tạo ra nơi cao và nơi thấp.
Ngài gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương
đến Trái đất để tạo ra các tầng năng lượng, các tầng năng
lượng di chuyển tạo ra sự tương tác phản ứng tạo thành bầu
khí quyển có oxy và các yếu tố khác. Từ đó hình thành các
đám mây gây ra mưa, nước chảy từ nơi cao xuống nơi thấp,
từ núi cao xuống nơi hố sâu, quá trình này tạo thành sông,
hồ, biển. Ngài quan sát quá trình nước mưa rơi từng hạt
xuống, tụ lại và chảy về nơi thấp hơn để kết tụ lại thành một

84
chỉnh thể nước lớn. Ngài quan sát nước chảy từ trên cao
xuống nơi thấp mà hình thành sông ngòi, ao hồ và biển lớn.
Ngài tiếp tục gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm
dương để tạo ra thảm thực vật, cỏ, cây. Ngài quan sát thấy cỏ
cây hút nước để nuôi dưỡng và trưởng thành. Ngài quan sát
hạt mầm Ngài gieo ra nảy mầm, phát triển và to lớn, ra hoa,
ra quả và hạt của quả lại rơi xuống đất và một cây con lại
hình thành.
Ngài tiếp tục gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm
dương để tạo ra các loại vi khuẩn, vi sinh vật, côn trùng để
tương tác với nước, thảm thực vật, cỏ cây để tạo ra sự tương
tác hỗ trợ cho sự sống phát triển, bước tiếp theo là hỗ trợ
cho sự sống mới ở Trái đất.
Ngài tiếp tục gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm
dương để tạo ra chim muông, Ngài quan sát những con chim
ăn quả chín trên cây, thả hạt vương vãi ra xung quanh hoặc
mang quả đi nơi khác ăn, rồi những hạt cây rơi xuống, nảy
mầm và mọc thành cây, quá trình này tạo thành rừng cây.
Ngài lại quan sát chim muông ăn những thức ăn và mang
hạt đi gieo sự sống khắp nơi.
Ngài tiếp tục gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm
dương để tạo ra muông thú, các loài thú dữ, các loài thú lành,
loài bò sát. Ngài quan sát những muông thú giao phối giữa
giống đực và giống cái để sinh con và phát triển loài. Ngài
quan sát từng loài sống bầy đàn với nhau, chúng không tách
rời mà sống xung quanh và bảo vệ nhau trước sự tấn công
của các loài khác. Ngài quan sát các loài thú lớn đi săn, ăn thịt
những loài thú bé và yếu hơn để sinh tồn. Ngài quan sát các
loài thú lành ăn cỏ cây hoa lá để sinh tồn. Ngài quan sát

85
trong bầy đàn muông thú sẽ có con làm thủ lĩnh và những
con khác phải thuận theo mệnh lệnh của con thủ lĩnh.
Ngài gieo vô số duyên có phôi năng lượng âm dương
để tạo ra vô số loài sống dưới nước (các loài cá) và trên
không (chim muông). Ngài quan sát chúng sống như những
con thú trên mặt đất.
Ngài quan sát sự tác động, tương tác của Mặt trời, Mặt
trăng mà tạo ra gió bão, sóng biển, thủy triều, mưa, sấm sét
dẫn đến trên Trái đất có khu vực thì mưa bão, có khu vực thì
lạnh giá đóng băng, có khu vực nóng và hỏa hoạn.
Ngài quan sát thấy tất cả vạn vật từ cỏ cây, hoa lá, đến
nước, muông thú đều sinh ra và chết. Nước thì bốc hơi mà
cạn kiệt, rồi hơi nước kết tụ thành mây mà gây mưa. Muông
thú không ăn thịt nhau thì do già mà hết vòng sinh tử. Cỏ cây
không bị muông thú ăn thì cũng già khô mà chết. Vạn vật
không tự hoại diệt hay ăn nhau mà chết thì sự khắc nghiệt
của thiên nhiên cũng làm cho vạn vật hoại diệt.
Quá trình gieo duyên tạo ra sự sống phải trải qua thời
gian dài để hoàn thiện môi trường sống khắc nghiệt, lý
tưởng, để cho các Tuệ linh xuống sinh sống và tu hành. Trong
quá trình gieo duyên tạo ra sự sống, Ngài đã quan sát và thấy
bản chất quy luật tự nhiên của vạn vật như sau: Đó là sự kết
tụ của tính âm, là sự tỏa ra của tính dương, là sự cân bằng
giữa thừa và thiếu, là sự cân bằng của âm và dương, là sự
sinh, sự tồn tại, sự hoại diệt, sự lan tỏa, sự đoàn kết, sự phát
triển duy trì loài, sự gieo duyên, sự xây dựng phát triển, sự phá
hủy, sự thống lĩnh, sự tuân theo, sự gieo nhân và gặt quả, sự
khổ và khổ đau. Quá trình quan sát sự sống và vận hành của
vạn vật đã giúp cho Ngài thiết lập giáo luật công bằng dựa
trên cơ chế phân tách liên kết hạt năng lượng, đó là luật
86
Nhân quả. Luật Nhân quả để cho vạn vật và các Tuệ linh sinh
sống tại Trái đất phải tuân theo để đảm bảo quá trình tu
luyện cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng được thành
công.

2. Kế hoạch 2, vị Tuệ linh đầu tiên đưa các Tuệ


linh xuống Trái đất và nhân loại được hình
thành
Sau khi Ngài đã tạo dựng được môi trường sống tại
Trái đất đạt được điều kiện lý tưởng nhất, đó là sự khắc
nghiệt về điều kiện sống, về sự sinh diệt, về khổ đau mà vẫn
đảm bảo được điều kiện duy trì sự sống và cân bằng, Ngài
tiếp tục thực hiện kế hoạch thứ 2 để xây dựng loài người và
nhân loại:
Ngài gieo duyên bằng vô số các phôi năng lượng âm
dương để tạo ra sự sàng lọc các loài thú nguy hiểm đến sự
tồn tại và sinh sống của các Tuệ linh khi xuống nhân gian. Đó
là các thời kỳ núi lửa phun trào, thời kỳ băng hà đã làm cho
nhiều loài động vật nguy hiểm to lớn bị hoại diệt và tuyệt
chủng, chỉ còn lại những loài động vật đủ tương tác, giúp cho
các Tuệ linh tránh bị hoại diệt và vẫn đảm bảo các điều kiện
tu hành.
Vị Tuệ linh đầu tiên tập kết đại hội thống nhất phương
pháp tu học cho dạng sống Tuệ linh. Đại hội tập kết diễn ra
như sau: Trong cuộc triệu tập Hội đồng của chư vị Tuệ linh tại
cõi trời nhiệm màu nhất Vũ trụ, vị Tuệ linh đầu tiên trầm
ngâm nhìn vào một đĩa thức ăn trắng trên bàn. Trong suy nghĩ
lúc đó của vị Tuệ linh đầu tiên và Hội đồng Tuệ linh đều nghĩ là
làm sao việc đưa các Tuệ linh xuống làm con người phải đạt

87
được thành tựu là tìm ra được phương thuốc cứu lại các Tuệ
linh và Vũ trụ. Sự suy tư mang theo tâm trạng trầm ngâm khi
nhìn vào đĩa thức ăn trắng trên bàn (tất nhiên thức ăn đó là
do năng lượng tạo ra). Suy tư một lúc lâu, vị Tuệ linh đầu tiên
liền nói với một Tuệ linh khác: “Hãy mang những con rắn độc
ra đây”. Sau đó có một Tuệ linh mang ra những con rắn độc, có
nhiều con nhỏ và một con to. Vị Tuệ linh đầu tiên lấy những
con rắn nhỏ trộn vào đĩa thức ăn đó, tiếp đến thả hai con rắn,
trong đó có một con to xuống nền đất. Hai con rắn đó trườn
vào những bụi cây xung quanh đó. Vị Tuệ linh đầu tiên nhìn
vào đĩa thức ăn đã trộn với rắn độc mà nói: “Để cứu được các
Tuệ linh và Vũ trụ, chỉ có thể lấy độc trộn vào chân tâm (thức
ăn trắng) mới tìm ra phương thuốc cứu lại Tuệ linh và Vũ
trụ”. Vị Tuệ linh đầu tiên tiếp tục nói rằng: “Ngoài những độc
tố lẫn trong chính chân tâm, ác tâm xen kẽ thiện tâm thì cần
phải có thế lực ác tâm bên ngoài tác động vào; Môi trường tu
hành nơi nhân gian sẽ như vậy”. “Để tìm được Đạo hợp nhất
của Vũ trụ, dạng sống Tuệ linh phải thông qua bốn hình tướng
Đạo ở nhân gian”. Đó là câu nói của vị Tuệ linh đầu tiên.
Như vậy, tại đại hội tập kết Tuệ linh về phương pháp
tu học ở nhân gian, vị Tuệ linh đầu tiên đã quán triệt phương
pháp tu học thông qua 3 hình ảnh về những con rắn độc. Cụ
thể như sau:
- Những con rắn độc nhỏ được trộn vào đĩa thức ăn
trắng là những độc tâm của mỗi Tuệ linh. Hình ảnh đó tượng
trưng các độc tâm đang bị ẩn giấu trong mỗi Tuệ linh và chưa
được bộc phát ra.
- Một con rắn nhỏ bên ngoài được thả ra là tượng
trưng cho độc tâm có trong vạn vật, trong tất cả các cấu trúc
vật chất. Độc tâm đó cũng đang bị ẩn giấu.

88
- Con rắn to được thả ra tượng trưng cho năng lượng
hoại diệt. Đó là độc tâm to nhất đối với tất cả các nhóm vật
chất trong Vũ trụ và cả dạng sống Tuệ linh.
Thông qua 3 hình ảnh về những con rắn độc: Tất cả các
Tuệ linh sẽ phải tương tác với nhau trong tất cả các kịch bản
trong các điều kiện môi trường sóng điện khác nhau để bộc
phát hết độc tâm của chính mình, của vạn vật và của năng
lượng hoại diệt. Khi bộc phát được hết độc tâm chính là quá
trình Tuệ linh sẽ giải mã được thông tin toàn diện nhất về tất
cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Sau khi giải mã được thông
tin toàn diện, vị Tuệ linh đầu tiên sẽ nghiên cứu, tìm được
được Đạo hợp nhất của Vũ trụ để cứu Vũ trụ và dạng sống
Tuệ linh. Để bộc phát hết độc tâm cũng như tìm được Đạo
hợp nhất của Vũ trụ, tất cả Tuệ linh sẽ phải thông qua bốn
hình tướng Đạo ở nhân gian.
Như vậy, kết quả của đại hội thống nhất phương pháp
tu học của dạng sống Tuệ linh ở nhân gian gồm có 2 điều:
- Tuệ linh thông qua thân tướng con người phải tương
tác với nhau trong tất cả các kịch bản, trong tất cả các môi
trường sóng điện khác nhau để bộc phát hết độc tâm của
mình, của vạn vật và của năng lượng hoại diệt.
- Phải thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian mới
tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Đạo hợp nhất chính là bộ
lọc sản sinh năng lượng viên mãn để sản sinh ra các siêu hạt
năng lượng cứu Vũ trụ và dạng sống Tuệ linh.
Sau đại hội tập kết thống nhất phương pháp tu học ở
nhân gian, những Tuệ linh đầu tiên đã phát nguyện tiên
phong đi xây dựng nhân loại.

89
Vị Tuệ linh đầu tiên đã dùng đến sự nhiệm màu về hào
quang của các tầng năng lượng mà đưa các Tuệ linh xuống
Trái đất, biến họ thành những con người có da, có thịt, có
xương, có đầy đủ và hoàn chỉnh. Đây là điều đặc biệt duy
nhất, chỉ có thế hệ đầu tiên của các Tuệ linh xuống Trái đất tu
hành thì mới được chuyển hóa thành thân tướng. Để sự
chuyển hóa này được thành công thì các Tuệ linh phải dùng
toàn bộ năng lượng trong chính các Tuệ linh và sự trợ giúp
của vị Tuệ linh đầu tiên. Sau khi chuyển hóa thành con người
xong thì các Tuệ linh không còn các pháp nhiệm màu, không
thể bay hay di chuyển trong Vũ trụ được nữa, mà phải sống
như những muông thú đã được tạo trước đó, phải đi, phải leo
trèo, bơi lội. Các Tuệ linh hóa thân thành con người được bắt
đầu tại các cuộc tập kết ở Trái đất. Vậy Tuệ linh làm thế nào
để hóa thành con người?
- Các Tuệ linh được tuyển chọn sẽ đều tới Trái đất
trong ngày hội chuyển sinh này. Họ vận hành, di chuyển các
hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ giản đơn của năm
nhóm hạt năng lượng kết tụ vào cấu trúc Tuệ linh của họ.
Những nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ
khác nhau được cấu tạo và mã hóa thành những tế bào chức
năng khác nhau trong cơ thể con người. Cơ thể con người đã
được hợp nhất bởi cấu trúc năng lượng siêu phức tạp của
Tuệ linh và cấu trúc năng lượng giản đơn trong Vũ trụ hợp
lại. Để cấu tạo thành một con người hoàn chỉnh thì cần vô số
năm nhóm hạt năng lượng tận cùng giản đơn kết tụ lại. Đây
là lần duy nhất dùng phương pháp này. Sau lần tập kết nhân
loại đó, các Tuệ linh luân hồi làm con người sẽ tuân thủ
thông qua cơ chế sinh sản của con người.

90
- Các muông thú từ trước và sau khi xuất hiện con
người đều được hình thành như con người cho từng giống
loài. Tuy nhiên, muông thú thay vì Tuệ linh an trụ sẽ là linh
hồn (cấu trúc năng lượng phức tạp) an trụ để hợp nhất với
các năng lượng giản đơn cấu tạo thành. Sau đó, chúng cũng
sẽ tuân thủ sinh sản giống con người để phát triển giống loài
đó.
- Sau này, khi linh hồn các con thú đã phát triển đạt
được khả năng làm người bởi quá trình giải mã và mã hóa
thông tin, họ sẽ được hóa thân làm con người thông qua quá
trình luân hồi và sinh sản.
Cuộc tập kết lịch sử khởi đầu cho sự hình thành loài
người tại nhiều nơi trên Trái đất như ven sông, ven biển,
đồng bằng, trên núi, trong rừng, những nơi đó có vô số các
điểm tập kết lịch sử. Tại các điểm tập kết lịch sử đó, vị Tuệ
linh đầu tiên đã dùng quyền năng của mình để triệu tập tất cả
muông thú về nghe Ngài truyền dạy về luật Nhân quả mà tất
cả muông thú cùng với các Tuệ linh sống tại Trái đất phải
tuân theo. Tại mỗi điểm tập kết sẽ có các Tuệ linh được hóa
thành từng cặp vợ chồng với hai con nhỏ, có một con gái và
một con trai. Mỗi điểm tập kết sẽ có hai đến nhiều hộ gia
đình và muông thú đến nghe Ngài truyền dạy. Đây là cơ sở để
loài người hình thành các bộ lạc, bộ tộc và ngày nay là quốc
gia.
Ngài truyền dạy tại các điểm tập kết lịch sử, Ngài nói
với các cặp gia đình là: “Ta đưa các ngươi xuống đây bằng
chân tâm thì về cũng phải bằng chân tâm”. Ngài nói với các
cặp bố mẹ: “Ta giao sứ mệnh cho các ngươi phải gả con cái
cho nhau để xây dựng nhân loại”. Ngài nói với các cặp gia
đình: “Các ngươi sẽ phải trải qua nhiều kiếp, trải qua hết các

91
khổ đau và kiếp nạn; lấy kinh nghiệm trải qua đó để cải tạo
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, khi chưa cải tạo được thì
chưa được trở về”. Ngài nói với các hộ gia đình và muông
thú: “Ta giao cho các ngươi nhiệm vụ thuần hóa muông thú
để chúng cũng làm người và cùng xây dựng nhân loại”. Ngài
nói với tất cả các hộ gia đình và muông thú: “Ta cho các
ngươi biết, để nhanh cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng thì các ngươi hãy tìm kiếm Chân lý Vạn vật và chuyển
hóa giác ngộ trong khổ đau và kiếp nạn”.
Trong các cuộc tập kết lịch sử này, Người Cha vĩ đại đã
sắp đặt và gợi ý về luật Nhân quả. Luật Nhân quả chính là
Chân lý Vạn vật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, mà tất cả
các dạng sống dưới nhân gian sẽ phải thông qua khổ đau
kiếp nạn để tìm và thấu hiểu. Không những Ngài gợi ý việc
thông qua khổ đau kiếp nạn để tìm được Chân lý Vạn vật mà
còn gợi lý luôn là phải tìm ra Chân lý Giác ngộ để giải thoát
hết các khổ đau đó thì mới luyện được bộ lọc năng lượng
trong Trụ linh của Tuệ linh. Luật Nhân quả là luật công bằng
đã được Ngài chuyển hóa từ Chân lý Vạn vật sau quá trình
quan sát sự vận hành của vạn vật, Vũ trụ và xây dựng nó
hoàn chỉnh nhằm tạo ra môi trường tu hành cho Tuệ linh
khắp Vũ trụ tại Trái đất này.
Như vậy, Ngài cũng cần giải mã, thấu hiểu triệt để về
tất cả các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ, đặc biệt là năng
lượng hoại diệt và bản chất của các Tuệ linh. Thấu hiểu được
tất cả bản chất của vạn vật chính là thấu hiểu Chân lý Vạn vật,
tìm ra được cơ chế chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng chính là Chân lý Giác ngộ. Để dẫn dắt dạng sống Tuệ
linh làm được điều đó, Ngài cùng tu hành với họ trong nhiều

92
kiếp ở nhân gian, đó là những kiếp quan trọng cho việc dẫn
dắt cũng như chuyển hóa Trụ linh.

3. Kế hoạch 3, vị Tuệ linh đầu tiên gia tăng sự


phát triển và phức tạp môi trường tu hành
Ngài tiếp tục đưa các Tuệ linh xuống Trái đất để gia
tăng dân số cho dạng sống con người. Sự đặc biệt của sự
chuyển hóa từ Tuệ linh thành con người chỉ được thực hiện
ở lần đầu tiên khi đưa các Tuệ linh xuống. Bắt đầu từ lần thứ
hai cho đến ngày nay và về sau sẽ phải tuân thủ theo luật
luân hồi. Luật luân hồi thể hiện ở chỗ: khi các cặp vợ chồng
giao phối, tinh trùng mang sóng điện dương của người nam
và trứng mang sóng điện âm của người nữ hợp lại thành phôi
thai; phôi thai phát triển trong bụng người nữ đến khi sinh
ra thì các Tuệ linh mới thiết nhập vào em bé và cất tiếng khóc
chào đời, đó chính là đánh dấu mốc Tuệ linh đã thiết nhập
vào; khi Tuệ linh thiết nhập vào em bé sẽ quên đi hết quá
khứ, trí tuệ của Tuệ linh, quên đi mình là ai, mình phải làm gì
và chết sẽ đi về đâu cũng không được biết. Ở những thế hệ
đầu tiên thì con người vẫn được mở nhãn thần nên vẫn nhìn
được về với các Tuệ linh, biết mình từ đâu đến, đến đây để
làm gì. Do đó con người thời đó sau mỗi lần thu hoạch mùa
màng đã biết dâng tế với các Tuệ linh và Ngài vì Ngài đã giúp
đỡ họ phát triển nhân loại. Mỗi một em bé được sinh ra thì
lại có một Tuệ linh được xuống luân hồi hoặc Linh hồn
muông thú đã được thuần hóa đầu thai vào để tu hành. Ngày
nay để khai mở được nhãn thần thì con người phải tu tập
mới nhìn được các Ngài và tìm hiểu được tổ tiên của loài
người là ai, do đó hiểu được tổ tiên của loài người là các Tuệ
linh từ dạng sống Tuệ linh hóa thân xuống chứ không phải là
93
muông thú tiến hóa thành, thấu hiểu là do nguyện lực để
xuống đây tu luyện chứ không phải là bị đọa xuống đây.
Tại cõi trời của dạng sống Tuệ linh, sau khi các Tuệ
linh hóa thân xuống nhân gian tu hành, thì các hội đồng
nghiên cứu, các hội đồng tu luyện được gia tăng về số lượng.
Sự hình thành này nhằm nghiên cứu các phương pháp, sáng
chế ra các công cụ để giúp cho con người biết cách sản xuất
nông nghiệp, biết cách làm nhà để ở, biết cách đoàn kết để tổ
chức thành hình thái bộ tộc, bộ lạc nhằm bảo vệ nhau trước
những bộ tộc, bộ lạc khác. Tại các hội đồng này, khi nghiên
cứu xong, các Tuệ linh sẽ phải phát nguyện với Ngài để luân
hồi xuống nhân gian và khi lớn lên sẽ có trí tuệ hoàn thành
phát minh đó để áp dụng cho con người cải tạo cuộc sống
dưới nhân gian. Các hội đồng này tiếp tục nghiên cứu các
phương pháp, kỹ thuật thu phục muông thú, thuần hóa
muông thú, thâm canh sản xuất, phát triển nền nông nghiệp,
phát triển hình thái quốc gia, phát minh ra các công trình
phát triển nền công nghiệp, y học, lý số, toán học, hóa học, du
hành không gian, hàng không, công nghệ…, mục đích là giúp
dạng sống nhân loại ở Trái đất ngày càng phát triển và làm
cho mức độ tu hành không ngừng được nâng cao.
Vị Tuệ linh đầu tiên đã tạo ra cuộc sống ở Trái đất
ngày càng phát triển, khoa học kỹ thuật không ngừng tìm
hiểu sự sống ngoài Trái đất. Hình thái cuộc sống từ bộ tộc, bộ
lạc đã chuyển thành quốc gia và hướng đến sự thống nhất
của toàn Thế giới như việc hình thành các tổ chức liên minh
đoàn kết của nhiều quốc gia và Thế giới. Mức độ phức tạp
nhiều giai đoạn được đẩy mạnh thành các cuộc chiến tranh
giữa các bộ tộc, bộ lạc, giữa các dân tộc với nhau và toàn Thế
giới với nhau. Liệu đây có phải là kế hoạch của Ngài không?

94
Đây không phải, đây là bản chất độc Tâm của các Tuệ linh đã
bộc phát và mất kiểm soát. Vị Tuệ linh đầu tiên thấu hiểu căn
nguyên vì sao độc Tâm của họ bộc phát và mất kiểm soát nên
Ngài dự liệu được những việc làm của họ nơi Trái đất, từ đó
Ngài sẽ có những kế hoạch cân bằng và cứu lại môi trường tu
hành không bị hoại diệt. Những con người nghiên cứu, tu
luyện thần thông, truy tìm giải thoát khổ đau, tu luyện về tâm
linh đã tiếp dẫn đến với các Tuệ linh, và cuộc sống dưới Trái
đất đã hình thành rất nhiều môn phái, trường phái, dòng đạo
khác nhau, làm cho sự mong cầu về sự giải thoát, tìm ra con
đường giải thoát hơn bao giờ hết. Các dòng đạo, tôn giáo,
môn phái, trường phái, hình tướng đạo đã góp phần làm cho
mức độ tu luyện dưới nhân gian trở nên căng thẳng và phức
tạp vô cùng. Con người đã không biết đâu là đúng đâu là sai,
đâu là con đường họ cần đi theo. Đặc biệt đến nay, con người
không biết sự thật về tổ tiên loài người, mình là ai, ai là mình,
mình phải làm gì ở dưới nhân gian. Chính vì thế con người
ngày càng trở nên tha hóa trong cuộc sống, sự hưởng lạc,
mưu hại, giết hại nhau không ngừng, đạo đức xã hội bị biến
đổi đi xuống trầm trọng, các giá trị nhân văn được thay thế
bằng giá trị của mê tín dị đoan. Điều này lại đẩy đến cao trào
của sự hoại diệt môi trường tu hành của nhân loại mà vị Tuệ
linh đầu tiên đã tạo ra. Sau mỗi lần như vậy, dưới nhân gian
lại xuất hiện các bậc giác ngộ để dẫn dắt và cứu rỗi cho cả
nhân loại.

4. Kế hoạch 4, sự dẫn dắt và tìm ra hai Chân lý


cải tạo Trụ linh
Cuộc sống ở nhân gian ngày càng phức tạp và phát
triển, chiến tranh liên miên giữa các bộ tộc, giữa các quốc gia
95
đã đẩy con người đến tận cùng của khổ đau, tận cùng của sân
hận, tận cùng của toan tính, tận cùng của sự hoại diệt. Con
người không cần biết và quan tâm về cội nguồn của loài
người, mình là ai, mình phải làm gì ở cõi trần nhân gian này.
Vì thế con người chỉ mải mê kiếm tìm sự hưởng lạc, trụy lạc,
mưu mô trục lợi về mình. Các Tuệ linh đã luân hồi xuống Trái
đất này vô số, cứ đi xuống mà chưa tìm ra được hai Chân lý
để cải tạo Trụ linh nên chưa thể được về. Cứ thế, dân số ở
Trái đất này không ngừng được gia tăng do nhiều muông thú
sau khi được thuần hóa thành thú lành đã được luân hồi đầu
thai thành người để sống cuộc sống kiếp người với những
con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh. Họ sống hỗn
độn với nhau và chính hóa thân của các Tuệ linh không thể
nhận biết, họ mưu hại, giết hại, lừa hại nhau, con người giết
hại muông thú, linh hồn các con thú dữ báo thù giết hại lại
con người, con người giết hại lẫn nhau. Tất cả tạo ra vô số
khổ đau dưới nhân gian, vô số kiếp nạn trong nhân gian, đó
cũng là cơ hội cho những sứ giả của vị Tuệ linh đầu tiên, cho
những hóa thân của Tuệ linh thôi thúc việc đi tìm ra Chân lý
giải thoát khỏi khổ đau.
Vị Tuệ linh đầu tiên đã gieo duyên, trợ nhân duyên cho
vô số các Tuệ linh, chân tu ở dưới nhân gian, giúp họ được
thôi thúc từ tâm để tìm tòi, nghiên cứu và tìm ra Chân lý Vạn
vật và Chân lý giải thoát. Trong lịch sử nhân loại đã chứng
kiến sự hình thành vô số tín ngưỡng thờ các vị thần, vị thánh,
hình tướng các đạo phái ra đời để giúp cho con người xây
dựng được đức tin và giá trị đạo đức. Đó là đức tin của sự tin
theo, phụng sự, tu theo để được giải thoát khỏi khổ đau nơi
nhân gian. Nhưng cuối cùng tất cả các tín ngưỡng đó vẫn
chưa dẫn dắt được con người đến với sự hiểu biết về tổ tiên

96
của loài người. Con người vì u mê, vì tham lam, sân hận mà
tạo vô số nghiệp lực và rồi để nghiệp lực đã tạo thành tầng
năng lượng khí xấu bám chặt vào Tuệ linh trong các kiếp kế
tiếp. Điều này đã làm cho loài người ngày càng mê lầm, họ
mải mê tìm sự giải thoát khỏi cuộc sống này bằng lễ nghi,
nghi thức cúng cầu đến các vị thần để được giải thoát. Có quá
nhiều tín ngưỡng và hình tướng đạo đã dẫn dụ chúng sinh
đến với các nghi lễ để cầu xin với các đấng, các thần, các
Thánh thần nhằm giúp họ cầu được công danh, địa vị, tiền
tài, giúp họ vãng sinh về cõi trời của các vị thần vị thánh đó.
Như vậy, việc hình thành các tín ngưỡng, các hình tướng đạo
đã giúp cho chúng sinh tìm tòi để nhận thấy Chân lý Vạn vật
và đi tìm sự giải thoát là điều rất tốt. Nhưng nó chỉ tốt bởi
hình tướng là có xuất hiện nhóm, tổ chức nghiên cứu. Tuy
nhiên nó lại vô tình đẩy chúng sinh đi vào con đường lầm
than, mê lầm bởi việc đi ngược với sứ mệnh là sống trong
khổ đau kiếp nạn để tìm ra Chân lý Vạn vật và Giác ngộ nhằm
cải tạo Trụ linh chứ không phải cầu nguyện, niệm danh hiệu
để được sinh về các cõi trời của các vị Thần, vị Chúa hay vị
Phật nào cả. Như vậy, Ngài gieo duyên vô số và hình thành vô
số tín ngưỡng, môn phái, hình tướng đạo nhưng cuối cùng
cũng không tìm ra con đường cải tạo Trụ linh mà lại còn đi
vào mê lầm của những nghiệp lực và lừa lọc hại nhau.
Ngài vẫn không ngừng nghỉ việc gieo duyên trợ giúp
những hóa thân của các Tuệ linh đang mải miết tìm con
đường giác ngộ để cải tạo Trụ linh và các cơ chế cứu lại các
dạng sống trong và ngoài Vũ trụ. Đó là những con người
được thôi thúc từ trong Tâm họ để họ xa rời với lợi ích, ích
kỷ cá nhân, xa rời dục vọng, với phù du giả tướng, để trải
qua, thấm nhuần các khổ đau, các kiếp nạn. Điều đó đã giúp

97
họ có kinh nghiệm vượt qua khổ đau kiếp nạn, kinh nghiệm
này được tích lũy trong nhiều kiếp, khi nó lớn mạnh thì
những con người đó đã trở thành những bậc giác ngộ của
nhân loại. Trong lịch sử nhân loại có thể kể đến những bậc
giác ngộ, đặc biệt đầu tiên là Đức Phật Thích Ca đã tìm ra
Chân lý Vạn vật và chuyển hóa giác ngộ được thành Chân lý
Giác ngộ để đạo Phật được hình thành và dẫn dắt chúng sinh
tu đạo giải thoát. Tiếp sau đó là giáo chủ của các tôn giáo lớn.
Họ là những lãnh tụ tinh thần dưới nhân gian, họ đã trải qua
nhiều đời nhiều kiếp tu hành trong khổ đau, lấy kinh nghiệm
khổ đau để giác ngộ và cải tạo được Trụ linh thành những bộ
lọc năng lượng để trở về và duy trì sự sống ở khắp Vũ trụ.
Vị Tuệ linh đầu tiên vẫn đang gieo vô số duyên để 4 kế
hoạch tiếp tục diễn ra, tiếp tục tạo ra môi trường tu hành
khắc nghiệt hơn, tiếp tục có các công trình nghiên cứu từ các
hội đồng của dạng sống Tuệ linh được đưa xuống Trái đất để
xây dựng nhân loại. Ngài tiếp tục gieo vô số duyên để giúp
cho hóa thân của các Tuệ linh tìm ra con đường cải tạo Trụ
linh viên mãn nhất, giúp cho tất cả các Tuệ linh đạt được sự
cải tạo đó để trở về thực hiện kế hoạch 2 là đi duy trì, bảo vệ,
phát triển sự sống trong và ngoài Vũ trụ.
Như vậy, môi trường tu hành của dạng sống Tuệ linh ở
nhân gian đã hội tụ đủ sự tương tác của tất cả 3 nhóm vật
chất cấu tạo thành Vũ trụ (giản đơn, phức tạp và siêu vật
chất) với nhóm năng lượng hoại diệt. Đặc biệt khi dạng sống
Tuệ linh bị trói buộc trong thân xác con người, trong tương
tác với tất cả các kịch bản của bốn hình tướng Đạo, đã tạo ra
tột cùng của khổ đau kiếp nạn, tột cùng của an vui hạnh phúc.
Tất cả sự tương tác trong bốn hình tướng Đạo với tất cả các
kịch bản tương tác xảy ra đã giúp cho vị Tuệ linh đầu tiên

98
thấu hiểu tận cùng về bản chất của Tuệ linh, bản chất của vạn
vật trong và ngoài Vũ trụ.
Sau hành trình vị Tuệ linh đầu tiên cùng vô số Tuệ linh
tu hành ở nhân gian, Ngài đã giải mã, thấu hiểu tận cùng bản
chất của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, tiếp đó là Ngài đã tìm
được cơ chế chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng
viên mãn. Vào đúng thời khắc cuối cùng của sự hoại diệt toàn
bộ Vũ trụ bởi năng lượng hoại diệt đồng hóa, việc Ngài tìm ra
và chuyển hóa thành công Trụ linh thành bộ lọc năng lượng
để sản sinh ra các siêu hạt năng lượng được coi là ánh sáng
nơi cuối con đường. Đó là ánh sáng trí tuệ của hai Chân lý để
dẫn dắt Tuệ linh và con người cùng nhau thực hành chuyển
hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, đó là đắc được Đạo
hợp nhất của Vũ trụ. Đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ
chính là việc các Tuệ linh cứu được mình và trở nên bất tử,
đồng thời giúp vạn vật trong và ngoài Vũ trụ phát triển bền
vững.
***************

99
100
PHẦN 3
CHÂN LÝ VẠN VẬT VÀ
CHÂN LÝ GIÁC NGỘ
(TRÍ TUỆ BAO TRÙM VẠN VẬT VŨ TRỤ)

101
102
Ánh sáng hai Chân lý nơi cuối con đường:

Ánh sáng hai Chân lý nơi cuối con đường có hai ý


nghĩa: đó là một hành trình dài trong vô lượng kiếp, trải qua
vô số khổ đau kiếp nạn để thấu hiểu tận cùng tri thức của hai
Chân lý với phương pháp cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng; đó là vào đúng thời khắc mà tất cả các dạng sống
trong và ngoài Vũ trụ đều sắp hoại diệt thì ánh sáng của hai
Chân lý lại được thắp sáng để chuyển sinh vạn vật, Tuệ linh
và con người trở nên bền vững. Khi tới cuối con đường của
sự hoại diệt thì xuất hiện ánh sáng của hai Chân lý, đó là
Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, hai Chân lý được vận
hành bởi cơ chế phân tách và liên kết dây để chuyển hóa
năng lượng hoại diệt thành các siêu năng lượng phát triển
vạn vật Vũ trụ trở nên bền vững.
Một hành trình dài trong vô lượng kiếp Tôi đã đi tìm
và thấu hiểu tận cùng về hai Chân lý, đã chuyển hóa thành
phương pháp cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên
mãn. Khi đến thời khắc quan trọng cho sự tồn vong của Vũ
trụ và Tuệ linh, con người, Tôi lại được xuất hiện ở nhân gian
với các kế hoạch của Người Cha vĩ đại. Kế hoạch của Ngài có
tất cả các Tuệ linh, đặc biệt là các vị Tuệ linh ưu tú nhất của
Vũ trụ cùng xuống nhân gian. Việc hoàn lại và phát triển
thành sự giác ngộ triệt để về hai Chân lý, về phương pháp cải
tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn là niềm hạnh
phúc vô cùng của Tôi. Điều hạnh phúc nhất là Trụ linh của
Tuệ linh đã chuyển sinh thành bộ lọc kép để sản sinh ra thêm
được siêu năng lượng xanh ngọc lưu ly (năng lượng bảo vệ
Vũ trụ khỏi sự xâm nhập ồ ạt của năng lượng hoại diệt); tìm
và sản sinh ra được hạt bóng hỏa; tiếp đến là hoàn thành cơ
103
chế ngủ đông cho năng lượng hoại diệt (hạt bóng hỏa); tạo ra
siêu hạt Nhật Sư (là hợp nhất của năng lượng chân tâm cực
đại với siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly, siêu hạt năng
lượng vàng óng ánh, hạt bóng hỏa). Có thể nói là kế hoạch đã
hoàn thành viên mãn. Điều mà tôi cần làm tiếp theo ở nhân
gian là lan tỏa tri thức của hai Chân lý, con đường cải tạo Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn đến với tất cả nhân
loại, đó chính là Đạo hợp nhất của Vũ trụ.
Ánh sáng trí tuệ của hai Chân lý đã hoàn lại và phát
triển viên mãn, việc mang ánh sáng trí tuệ của hai Chân lý tới
toàn nhân loại là nhiệm vụ, là sứ mệnh không những của tôi
mà là của toàn bộ Tuệ linh và con người. Chính vì vậy, cả đời
tôi nguyện giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc, đoàn kết
tôn giáo, đoàn kết nhân loại, đoàn kết Tuệ linh và con người
bằng ánh sáng trí tuệ của hai Chân lý. Đó chính là sự an lạc tự
tại và hạnh phúc vô lượng của chân tu và của Tuệ linh tôi tại
kiếp này.

Hai Chân lý:


Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ: Đây là hai sự thật
duy nhất, là hai di sản để vận hành cho sự tồn tại và phát
triển bền vững của Vũ trụ, Tuệ linh và con người; là báu vật
vô giá của Vũ trụ và Tuệ linh, con người; là con đường, là
phương pháp, là bài thuốc duy nhất để luyện Trụ linh của
Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn; là con đường
duy nhất để duy trì sự tồn tại và phát triển bền vững không
những của Vũ trụ mà của cả dạng sống bên ngoài Vũ trụ, đó
là năng lượng hoại diệt. Đặc biệt, hai Chân lý được vận hành
bởi cơ chế “Phân tách, liên kết dây” chính là chìa khóa giải

104
mã cơ chế vận hành của Nhân quả, của vạn vật, sự việc, hiện
tượng trong và ngoài Vũ trụ.
Chính vì vậy, hai Chân lý với cơ chế vận hành “Phân
tách, liên kết dây” là chìa khóa, là di sản vô giá cho hết thảy
vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh, con người. Hai Chân
lý sẽ trường tồn bất tử và không hoại diệt cho đến vô lượng
thời gian về tương lai. Hậu thế đón nhận, nắm bắt, nghiên
cứu, thực hành hai Chân lý sẽ đạt được giác ngộ viên mãn, sẽ
hoàn thành sứ mệnh tu hành nơi nhân gian để trở về quê
hương, trở về với bao nhiệm vụ đang chờ đón.
***************

105
106
Bài 1:
Chân lý Vạn vật


I. Khái niệm về Chân lý Vạn vật


“Vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ trụ
không tự nó sinh ra, không tự nó mất đi, khổ đau không tự
đến, khổ đau không tự đi, tất cả do duyên và nghiệp, hay còn
gọi là nhân và quả. Cơ chế vận hành là phân tách và liên kết
dây của hạt năng lượng tận cùng”.

II. Bản chất của Chân lý Vạn vật


Trước tiên, ta phải hiểu bản chất của Chân lý: Chân lý
chính là lý luận gốc nhất, lý luận chân thật nhất, là sự thật
không thể sai.
Vạn vật bên trong và bên ngoài Vũ trụ: đó là từ các yếu
tố cấu tạo thành hạt năng lượng tận cùng (hạt sóng, hạt năng
lượng tận cùng, các cấu trúc lớn hơn hạt năng lượng tận
cùng, môi trường sóng điện, sự vận động và tương tác) cho
đến sự hiện hữu của tất cả vật chất bao trùm trong và ngoài
Vũ trụ; đó là nhóm vật chất cội nguồn, nhóm vật chất hoại
diệt, nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp, nhóm
siêu vật chất.
Chân lý Vạn vật còn được gọi là Chân lý Nhân quả.
Chân lý Vạn vật chính là lý luận gốc nhất, thật nhất, đúng
nhất của tất cả vạn vật bao trùm bên trong và bên ngoài Vũ

107
trụ, tức là không có đơn vị vật chất nào dù bên trong hay bên
ngoài Vũ trụ nằm ngoài Chân lý Vạn vật, tất cả đều nằm trong
Chân lý Vạn vật. Hay có thể nói, Chân lý Vạn vật nằm trong
chính mỗi đơn vị vật chất của tất cả vạn vật, trong mỗi sự
việc của tất cả sự việc, trong mỗi hiện tượng của tất cả hiện
tượng bên trong và bên ngoài Vũ trụ.
Chân lý Vạn vật là của vạn vật chứ không phải của một
ai hay của tôn giáo nào, cũng như của kinh kệ nào. Chân lý
Vạn vật là cái có sẵn, là cơ chế, bản chất vận hành của vạn vật
bên trong và bên ngoài Vũ trụ. Do đó, chỉ có Tuệ linh hay con
người thấu hiểu cơ chế, bản chất vận hành trong vạn vật, sự
việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài Vũ trụ mà phân tách,
liên kết, tổng hợp thành Chân lý. Chân lý luôn luôn phải đúng
khi áp dụng và kiểm chứng với mỗi vật trong vạn vật, với mỗi
sự việc trong tất cả sự việc, với mỗi hiện tượng trong tất cả
hiện tượng của bên trong và bên ngoài Vũ trụ.
Chân lý Vạn vật cho thấy tất cả vạn vật, sự việc, hiện
tượng bên trong và bên ngoài Vũ trụ đều không tự nó sinh ra,
mà là do cơ chế phân tách, liên kết dây để sinh ra vạn vật, sự
việc, hiện tượng mới. Phải có điều kiện môi trường cho quá
trình phân tách, liên kết để sinh ra vạn vật, sự việc, hiện
tượng bên trong và bên ngoài Vũ trụ. Đó là điều kiện môi
trường có sự tương tác giữa các chỉnh thể, có áp lực, sức nén
của năng lượng từ các chỉnh thể, có sự truyền dẫn dinh
dưỡng (năng lượng) vào chỉnh thể, có liên kết dây giữa các
chỉnh thể bằng sợi mã sóng trí tuệ, phải có môi trường sinh
nhiệt (sóng điện âm hay dương hay trung tính có liên kết
dây). Như vậy, vạn vật, sự việc, hiện tượng không tự nó sinh
ra, mà phải có cơ chế phân tách, liên kết dây và điều kiện môi
trường tương tác giữa các chỉnh thể.

108
Vạn vật, sự việc, hiện tượng cũng không tự nó mất đi.
Sự mất đi cần phải được hiểu là từ sự chuyển hóa từ hình
tướng này sang hình tướng khác (chuyển hóa này không gọi
là chết, vì nó vẫn còn mã sóng trí tuệ trong chỉnh thể) cho
đến cái chết vĩnh viễn của chỉnh thể là không còn mã sóng trí
tuệ trong hạt năng lượng. Chỉnh thể mất đi là do quá trình
đứt liên kết dây và phân rã của vạn vật, sự việc, hiện tượng
trong quá trình tương tác. Vạn vật, sự việc, hiện tượng chỉ
hoại diệt (chết vĩnh viễn) khi bị số lượng hạt năng lượng hoại
diệt xâm nhập gây nổ hủy diệt hoàn toàn và không còn mã
sóng trí tuệ. Vạn vật, sự việc, hiện tượng, chuyển hóa hình
tướng mà vẫn còn mã sóng trí tuệ thì chưa được gọi là cái
chết.
Bản chất về khổ đau của vạn vật, sự việc, hiện tượng
bên trong và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người là quá
trình bí bách, đấu tranh, xung đột duy trì sự tồn tại của mã
sóng trí tuệ. Khổ đau từ việc thay đổi cấu trúc mã sóng trí tuệ
và trạng thái năng lượng cho đến cái chết vĩnh viễn. Cái chết
vĩnh viễn là không còn sự tồn tại của mã sóng trí tuệ, dù là
hạt năng lượng hoại diệt cũng là chết khi không còn mã sóng
trí tuệ do bị nổ tan.
Khổ đau đến là do thực hành cơ chế phân tách và liên
kết theo hướng phân rã hoại diệt. Khổ đau đi là do thực hành
cơ chế phân tách và liên kết theo hướng chuyển sinh bền
vững của Tuệ linh, con người, vạn vật trong và ngoài Vũ trụ.
Bản chất của duyên – nghiệp, nhân – quả hay bản chất
chung của Chân lý Vạn vật được kết tinh gọn thành một chữ,
đó là chữ “Duyên”. Cơ chế vận hành chữ Duyên (Chân lý Vạn
vật) chính là cơ chế phân tách, liên kết dây. Duyên có Duyên
trong Duyên, Duyên ngoại Duyên.

109
1. Duyên là gì?
Duyên chính là sự hợp mà thành.
Duyên là quá trình hợp nhất của các yếu tố để cấu tạo
thành chỉnh thể từ hạt năng lượng tận cùng cho đến vạn vật,
sự việc, hiện tượng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con
người.
Sự hợp chính là bản chất Tam hợp và cơ chế phân tách,
liên kết dây. Hợp chính là khả năng liên kết dây giữa các
chỉnh thể có cùng sóng điện (sóng điện âm với sóng điện âm,
sóng điện dương với sóng điện dương, sóng điện trung tính
với sóng điện trung tính) và không cùng sóng điện (sóng điện
âm với sóng điện dương, sóng điện âm với sóng điện trung
tính, sóng điện dương với sóng điện trung tính). Hợp còn là
sự cấu tạo thành hạt năng lượng hoại diệt, dù hạt năng lượng
hoại diệt không có liên kết dây để cấu tạo thành vật chất lớn
hơn, nhưng có cơ chế phân tách và được vận hành bởi sóng
rung và chỉnh thể hạt năng lượng hoại diệt cũng là sự hợp
bởi 3 yếu tố mà cấu tạo thành nó. Như vậy, hợp chính là bản
chất Tam hợp và cơ chế phân tách, liên kết dây.

2. Duyên trong Duyên


Duyên trong Duyên là việc ta biết vạn vật ở hiện tại,
chỉnh thể hiện tại, sự việc hiện tại, hiện tượng hiện tại, con
người hiện tại, bên trong và bên ngoài Vũ trụ hiện tại. Khi
biết cái hiện tại rồi, ta sẽ đi tìm cái ở quá khứ, đó là những cái
gì đã cấu tạo thành cái hiện tại. Ta lại tiếp tục truy tìm những
cái ở quá khứ của quá khứ cho đến tận cùng. Để tìm được
Duyên trong Duyên thì trước tiên ta phải thấu hiểu bản chất
của cái hiện tại, bản chất hiện tại sẽ biểu hiện ra các hiện

110
tượng, thấu hiểu các hiện tượng cũng chính là thấu hiểu bản
chất hiện tại. Tiếp đến là ta phải thấu hiểu cơ chế phân tách
liên kết dây, cơ chế quay tròn, bản chất Tam hợp và nếu có
khả năng thiền định nữa thì sẽ khám phá và thấu hiểu thế
giới quan Vũ trụ, Tuệ linh, con người từ tận cùng sự hình
thành cho đến nay.
Ví dụ: Ta thấy ta, ta chính là một người, ta là hiện tại.
Ta sẽ tìm hiểu cái gì sinh ra ta, ta tìm hiểu và ta biết là cha mẹ
ta sinh ra ta, ta tìm hiểu cha mẹ sinh ra ta như thế nào và ta
biết được điều đó. Ta lại tìm hiểu ta là ai? Tâm ta như thế
nào? Kiếp trước ta là ai? Muốn biết được thì ta phải thấu hiểu
bản chất của ta thông qua những biểu hiện và hành động
hiện tại để thấy tâm ta, ta phải thấu hiểu cơ chế phân tách
liên kết dây, thiền quán được thì ta sẽ thấu hiểu ta là ai, kiếp
trước ta là ai. Cứ áp dụng phân tích chữ Duyên bằng cơ chế
phân tách liên kết dây, cơ chế quay tròn, bản chất Tam hợp,
ta sẽ thấu hiểu Duyên trong Duyên của ta. Đó chính là thấu
hiểu cái hiện tại để biết cái quá khứ của cái hiện tại.
Tất cả vạn vật, sự việc, hiện tượng, cần thông qua cơ
chế phân tách liên kết dây, bản chất Tam hợp, cơ chế quay
tròn sẽ thấu hiểu được tận cùng về quá khứ.

3. Duyên ngoại Duyên


Duyên ngoại Duyên là việc ta biết, thấu hiểu bản chất
thông qua hiện tượng được biểu hiện ra và quá trình đang
hành động tương tác của vạn vật, sự việc, hiện tượng, Tuệ
linh và con người, trong và ngoài Vũ trụ tại hiện tại; khi ta
thấu hiểu cái hiện tại thì ta sẽ thấy cái tương lai, đó là biết cái
Duyên tương lai của cái Duyên hiện tại. Cái duyên chính là

111
chỉnh thể của vạn vật, sự việc, hiện tượng. Cái Duyên tương
lai là cái hình tướng mới, chỉnh thể mới, vạn vật mới, hiện
tượng mới, sự việc mới thông qua cơ chế phân tách liên kết
dây, tam hợp, quay tròn.
Như vậy, bản chất của Chân lý Vạn vật là đi truy tìm
quá khứ và tương lai của vạn vật, sự việc, hiện tượng thông
qua việc giải mã cơ chế vận hành của nó. Đó là dùng cơ chế
“Phân tách, liên kết dây”, bản chất Tam hợp, cơ chế quay tròn
để giải mã tận cùng vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và
ngoài Vũ trụ, từ hiện tại về tới quá khứ và cho đến tương lai.
Đây chính là giác ngộ về vạn vật, sự việc, hiện tượng trong và
ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
Vận hành Chân lý Vạn vật chính là cơ chế phân tách và
liên kết dây. Trong cơ chế phân tách và liên kết dây của Chân
lý Vạn vật có hai con đường chuyển sinh: đó là chuyển sinh
theo hướng phân rã hoại diệt và chuyển sinh theo hướng bền
vững an lạc.

III. Cội nguồn của Chân lý Vạn vật


Cội nguồn của Chân lý Vạn vật không phải là thời điểm
con người hay Tuệ linh tìm ra nó. Cội nguồn của Chân lý Vạn
vật chính là sự khởi đầu và vận hành của cơ chế vận hành
Chân lý Vạn vật. Cơ chế đó chính là cơ chế phân tách, liên kết
dây.
Cội nguồn của Chân lý Vạn vật được sinh khởi từ hạt
sóng tổ tiên màu xanh nõn chuối. Hạt sóng này phân tách
trong điều kiện môi trường di chuyển, vận động để đủ lực
phân tách ra nhiều hạt sóng xanh nõn chuối khác; tiếp đến,
do tương tác trong môi trường không sinh nhiệt và môi

112
trường sinh nhiệt khác nhau mà hình thành hạt năng lượng
hoại diệt không có liên kết dây, năm nhóm hạt năng lượng có
liên kết dây; sau đó mới hình thành ra vụ nổ siêu năng lượng
(Big Bang) để hình thành ra Vũ trụ ngày nay.
Từ khi hạt sóng tổ tiên phân tách cho đến khi hình
thành các hạt năng lượng (hạt năng lượng hoại diệt, năm
nhóm hạt năng lượng có liên kết dây) thì đó là do cơ chế
phân tách, liên kết dây mà cấu thành ra Vũ trụ. Cơ chế phân
tách, liên kết dây chính là cơ chế vận hành của Chân lý Vạn
vật (Nhân quả). Xuất hiện hạt sóng xanh phân tách chính là
điểm khởi sinh ra Chân lý Vạn vật.
Câu hỏi là, vậy trước khi có hạt sóng xanh nõn chuối
thì cái gì sinh ra nó? Đó là câu hỏi sẽ không có điểm dừng khi
vận dụng Chân lý Vạn vật để truy tìm cội nguồn. Tôi xin trả
lời: có lẽ tôi chưa tìm ra là cái gì sinh ra hạt sóng xanh hoặc
đó là bí mật, bởi có khi đó cũng là kế hoạch. Tại sao tôi khẳng
định Chân lý Vạn vật được sinh khởi từ thời điểm đó? Vì các
hạt năng lượng tận cùng được sinh ra từ hạt sóng tổ tiên, mà
trong các hạt năng lượng lại có sợi mã sóng trí tuệ lưu giữ
toàn bộ sóng rung, thông tin, hình ảnh, nội dung của quá
trình tương tác sinh ra nó; bởi cơ chế phân tách được vận
hành khi hạt sóng tổ tiên màu xanh nõn chuối phân tách, cơ
chế liên kết dây được vận hành khi hình thành năm nhóm
hạt năng lượng có liên kết dây. Chính vì dựa trên chính Chân
lý Vạn vật thông qua cơ chế phân tách, liên kết dây với thiền
định mà tôi thấy được cội nguồn của Chân lý Vạn vật ở thời
điểm đó.
Như vậy, Chân lý Vạn vật đã được vận hành từ khi hình
thành các hạt sóng tổ tiên màu xanh nõn chuối, sau đó là các
hạt năng lượng tận cùng, sau nữa là Vũ trụ hình thành, và

113
bây giờ. Thậm chí, mãi mãi về sau, Chân lý Vạn vật vẫn là như
vậy, nó vẫn vận hành vạn vật, Vũ trụ và Tuệ linh, con người.
Nó sẽ biến mất vĩnh viễn khi không còn sự sống bên trong và
bên ngoài Vũ trụ nữa.
***************

114
Bài 2:
Chân lý Giác ngộ


I. Khái niệm về Chân lý Giác ngộ


“À, đời là bể khổ. Chúng sinh, Tuệ linh và con người phải
dùng chân tâm đối mặt, giác ngộ, giải thoát hết tất cả các khổ
đau trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Cơ chế vận
hành là phân tách và liên kết dây”.

II. Bản chất của Chân lý Giác ngộ


Chân lý Giác ngộ là lý luận thật nhất, đúng nhất, là con
đường duy nhất để giải thoát hết tất cả các khổ đau của vạn
vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ
linh và con người.
Giác ngộ chính là quá trình tự thân vận động để thấu
hiểu tất cả khổ đau của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong
và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người; thấu hiểu nguyên
nhân của khổ đau; tìm kiếm để thấu hiểu và hành theo
phương pháp diệt khổ; thấu cảnh giới sau khi diệt được khổ;
tiếp tục đoàn kết và lan tỏa các thấu hiểu đó đến Tuệ linh và
con người. Đó là quá trình giác ngộ.
Bản chất của khổ đau của vạn vật, sự việc, hiện tượng
bên trong và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người là quá
trình bí bách, đấu tranh, xung đột duy trì sự tồn tại của mã
sóng trí tuệ. Khổ đau từ việc thay đổi cấu trúc mã sóng trí tuệ

115
và trạng thái năng lượng cho đến cái chết vĩnh viễn. Cái chết
vĩnh viễn là không còn sự tồn tại của mã sóng trí tuệ, dù là
hạt năng lượng hoại diệt cũng là chết khi không còn mã sóng
trí tuệ do bị nổ tan.
Trong Chân lý Giác ngộ, ta thấy đời là bể khổ, tức là sự
hiện hữu của vạn vật, sự việc, hiện tượng bên trong và bên
ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người có mã sóng trí tuệ đều là
bể khổ. Sẽ không có gì là không khổ, không khổ chỉ tồn tại khi
không còn sự hiện hữu của mã sóng trí tuệ từ hạt năng lượng
tận cùng cho đến Vũ trụ và Tuệ linh, con người, đó là hoại
diệt vĩnh viễn thì sẽ không có khổ.
Đã là bể khổ rồi, khổ luôn luôn tồn tại, hiện hữu trong
tất cả Tuệ linh và con người, toàn bộ bên trong và ngoài Vũ
trụ bởi sự tồn tại của mã sóng trí tuệ. Vậy cần giác ngộ, giải
thoát khổ để làm gì trong khi chỉ có hoại diệt thật sự mới
không khổ?
- Không có khổ trong trường hợp không tồn tại chỉnh
thể có mã sóng trí tuệ, hay không tồn tại ở hạt sóng thì chính
là không tồn tại sự sống. Không tồn tại sự sống thì không còn
ý niệm, không còn sự giới hạn, không còn sự ràng buộc bởi
không gian và thời gian. Đã là không còn tồn tại sự sống thì
đó không phải là con đường để giác ngộ, không phải là sự giải
thoát khổ đau, mà đó chỉ là sự hoại diệt, là sự buông xuôi bỏ
chạy, là chấp nhận cái hoại diệt.
- Giác ngộ, giải thoát khổ chính là con đường, phương
pháp duy trì sự tồn tại của sự sống. Sự sống phải có ý nghĩa.
Ý nghĩa của sự sống chính là sự an lạc, hạnh phúc trong việc
lan tỏa, đoàn kết giúp vạn vật bên trong và bên ngoài Vũ trụ,
Tuệ linh và con người cùng duy trì sự sống có ý nghĩa. Bản
chất của sự sống có ý nghĩa chính là duy trì và phát triển cấu
116
trúc mã sóng trí tuệ và trạng thái năng lượng trong tất cả
chỉnh thể của bên trong và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con
người trở nên bền vững trong sự đoàn kết và lan tỏa giá trị
lợi ích mà không màng đến chỉnh thể của ta.
Chúng sinh, Tuệ linh và con người phải được hiểu là
tất cả sự sống có mã sóng trí tuệ ở bên trong và bên ngoài Vũ
trụ. Tiên phong sẽ là các Tuệ linh và con người.
Phải giác ngộ hết tất cả các khổ đau. Các khổ đau là các
hình tướng biểu hiện khác nhau do sự thay đổi cấu trúc mã
sóng trí tuệ và trạng thái năng lượng. Đó có thể được hiểu là
con người khổ đau, muông thú khổ đau, cỏ cây khổ đau, Tuệ
linh khổ đau, hành tinh khổ đau, Vũ trụ khổ đau, năng lượng
hoại diệt cũng khổ đau. Dù tồn tại trong hình tướng nào thì
cũng phải tạo ra được cấu trúc mã sóng trí tuệ sinh phát ra
năng lượng tạo ra được lợi ích cho hình tướng khác và toàn
bộ Tuệ linh, con người, bên trong và bên ngoài Vũ trụ. Do đó
phải giác ngộ hết các khổ đau cho chính ta và vạn vật Vũ trụ,
Tuệ linh và con người bằng việc tương tác, lan tỏa giá trị, lợi
ích của sự sống có ý nghĩa.
Để giác ngộ, giải thoát khổ đau phải dùng chân tâm.
Chân tâm được hiểu là trạng thái năng lượng có sóng điện
trung tính có liên kết dây. Phải là sóng điện trung tính có liên
kết dây vì trạng thái năng lượng của sóng điện trung tính
mới có thể trung hòa được tất cả các trạng thái năng lượng
có sóng điện dương và sóng điện âm của vạn vật, sự việc,
hiện tượng bên trong và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con
người, thậm chí cả năng lượng hoại diệt để đồng cảm, thấu
hiểu, và lan tỏa giá trị lợi ích ý nghĩa của sự sống. Từ chân
tâm ban đầu trải qua quá trình thấu hiểu, vận hành Chân lý
Nhân quả và Chân lý Giác ngộ, lan tỏa, dẫn dắt chúng sinh,

117
Tuệ linh và con người, bên trong và bên ngoài Vũ trụ thấu và
hành theo thì sẽ chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng viên
mãn trong Trụ linh của Tuệ linh, con người.
Như vậy sứ mệnh của Tuệ linh và con người phải là
tiên phong, quyết định cho sự tồn tại, duy trì, phát triển sự
sống bền vững và có ý nghĩa của chúng sinh, Tuệ linh và con
người, vạn vật bên trong và bên ngoài Vũ trụ.
Chân lý Giác ngộ cho thấy, chỉ có hai con đường trong
sự tồn tại và phát triển của vạn vật, sự việc, hiện tượng trong
và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người, đó là giác ngộ hoặc u
mê hoại diệt. Đó là hai sự lựa chọn cho quá trình sinh khởi
rung động để gieo duyên, hành theo hướng nào để mà đón
nhận kết quả của Tuệ linh và con người. Trong hai con
đường lựa chọn đó thì con đường giác ngộ là con đường duy
nhất để tồn tại, phát triển bền vững, là con đường hành thiện,
là con đường để an lạc, là con đường để đắc niết bàn, là con
đường đắc bộ lọc năng lượng, là con đường bất tử của Tuệ
linh. Con đường u mê chính là con đường đi đến khổ đau, con
đường đi đến những nghiệp ác, là con đường đi đến hoại diệt
của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
Vận hành Chân lý Giác ngộ chính là cơ chế phân tách
và liên kết dây theo hướng chuyển sinh bền vững và an lạc.
Thực hành và quyết tâm đi trên con đường giác ngộ sẽ giúp
cho mỗi Tuệ linh, con người nhanh chóng đắc được bộ lọc
năng lượng trong Trụ linh, đó là đắc được Đạo hợp nhất của
Vũ trụ.

III. Cội nguồn của Chân lý Giác ngộ

118
Cội nguồn của Chân lý Giác ngộ luôn gắn liền với cội
nguồn của Chân lý Vạn vật, bởi giác ngộ là quá trình chuyển
hóa và gia tăng sự bền vững của sự sống có ý nghĩa. Chân lý
Giác ngộ cùng với Chân lý Vạn vật được vận hành bởi cơ chế
phân tách, liên kết dây.
Tôi, mà chẳng phải là tôi, đó là Tuệ linh của tôi đã trải
qua vô số kiếp trong nhân gian, và đã tìm ra hai Chân lý của
vạn vật ở các kiếp trước. Kiếp này, chỉ là Tuệ linh tôi xuống
nhân gian để thông qua tương tác khổ đau mà trau dồi thêm
các mã sóng trí tuệ, chuyển hóa hai Chân lý thành cơ chế, bản
chất, để Tuệ linh, con người cùng thấu hiểu và hành động
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, để duy trì, phát
triển sự sống có ý nghĩa ở trong và ngoài Vũ trụ. Do đó cần
thiết phải chuyển hóa lý luận hai Chân lý tương hợp với sự
tiến bộ, phát triển tư duy và khoa học kỹ thuật của nhân gian
ngày nay.
Trí tuệ siêu việt của hai Chân lý sẽ được phân tích
chuyên sâu trong hệ thống tri thức của Bát Không Hoàn Đạo,
trong Quy luật Nhân quả, trong Vòng tròn sản sinh hạt năng
lượng. Đặc biệt, trí tuệ siêu việt của hai Chân lý được vận
hành bởi cơ chế phân tách liên kết dây, cơ chế quay tròn, bản
chất Tam hợp, bản chất thông tin đã chứng minh được sự
chuyển sinh vĩ đại của Tuệ linh, con người, Vũ trụ khi thực
hành tri thức của hai Chân lý. Tất cả những điều đó đã giúp
cho trí tuệ siêu việt của hai Chân lý tạo thành Đạo hợp nhất
của Vũ trụ.
***************

119
120
PHẦN 4
BÁT KHÔNG HOÀN ĐẠO
(CON ĐƯỜNG CHUYỂN SINH BỀN VỮNG)

121
122
Hình: Sơ đồ Bát Không Hoàn Đạo

123
Giới thiệu về Bát Không Hoàn Đạo:

“Để tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ, dạng sống Tuệ
linh phải thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian”. Đó là
câu nói của vị Tuệ linh đầu tiên.
Bát Không Hoàn Đạo chính là Đạo hợp nhất của Vũ trụ.
Đạo hợp nhất của Vũ trụ chính là kết quả của quá trình dạng
sống Tuệ linh tu hành ở nhân gian thông qua bốn hình tướng
Đạo. Kết quả đó là việc tìm ra được phương pháp và thực
hành chuyển sinh thành công Trụ linh của Tuệ linh thành bộ
lọc năng lượng viên mãn thông qua khổ đau kiếp nạn trong
bốn hình tướng Đạo.
Bát Không Hoàn Đạo là gì?
- Đạo là Vũ trụ quan xung quanh Tuệ linh/ con người.
Con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh. Con người/
Tuệ linh phải dùng Trụ linh để giải mã, thấu hiểu và cải tạo
tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ phát triển bền vững.
- Hoàn Đạo là sự hòa nhập viên mãn, là sự liên kết
hoàn hảo mã sóng trí tuệ từ Trụ linh của Tuệ linh/ con người
tới toàn bộ vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, từ đó thúc đẩy, cải
tạo vạn vật trong và ngoài Vũ trụ phát triển bền vững.
- Bát Không gồm tám bài: Tướng, Trụ – Trí, Trụ – Tâm,
Hành, Đạo, Tuệ, Quả Không (bộ lọc), Nguyện. Tám bài là tám
bức tranh, là tám sự thật vĩ đại bao trùm tất cả vạn vật trong
và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và người. Tám sự thật này thông
qua cơ chế “Phân tách, liên kết dây" của Chân lý Vạn vật và
Chân lý Giác ngộ đã mổ xẻ, giải mã tận cùng về vạn vật trong
và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và người. Đó là giải mã và mổ xẻ về
cội nguồn, bản chất, con đường chuyển sinh của các dạng vật

124
chất (Tướng). Đó là giải mã và mổ xẻ về cội nguồn, bản chất,
con đường chuyển sinh của các cấu trúc trí tuệ (Trụ – Trí).
Đó là giải mã và mổ xẻ về cội nguồn, bản chất, con đường
chuyển sinh của các cấu trúc Trụ linh (Trụ – Tâm). Đó là giải
mã và mổ xẻ về cội nguồn, bản chất, con đường hành động
(Hành). Đó là giải mã và mổ xẻ về sự thật của khổ đau,
nguyên nhân của khổ đau, phương pháp diệt khổ, cảnh giới
sau khi diệt được khổ đau, con đường chuyển sinh bền vững
duy nhất của vạn vật, Tuệ linh và người (Đạo). Đó là giải mã
và mổ xẻ về cội nguồn, bản chất, con đường chuyển sinh của
các Tuệ linh và con người (Tuệ). Đó là giải mã và mổ xẻ về cội
nguồn, bản chất, con đường chuyển sinh Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng viên mãn (Quả Không). Đó là giải mã và thấu
hiểu bản chất của việc phát nguyện và việc phải thực hiện
được nguyện lực (Nguyện) giải cứu Tuệ linh và Vũ trụ.
Như vậy:
- Bát Không Hoàn Đạo là hệ thống siêu trí tuệ của hai
Chân lý. Đó là siêu trí tuệ phân tích, giải mã về cội nguồn, bản
chất, con đường (phương pháp) chuyển sinh bền vững của
tất cả các dạng vật chất trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con
người. Để thực hiện được việc chuyển sinh bền vững đó,
dạng sống Tuệ linh phải tu hành (hóa thân làm con người)
thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian, và phải chuyển
sinh được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Việc
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn
chính là sự hòa nhập viên mãn, là sự liên kết hoàn hảo mã
sóng trí tuệ từ Trụ linh của Tuệ linh/ con người tới toàn bộ
vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Việc hòa nhập, liên kết mã
sóng trí tuệ viên mãn từ Trụ linh tới vạn vật trong và ngoài
Vũ trụ sẽ giúp cho Tuệ linh và Vũ trụ trở thành một thể hợp

125
nhất bởi quá trình phân tách liên kết theo hướng bền vững.
Đó chính là Đạo hợp nhất của Vũ trụ thông qua bốn hình
tướng Đạo ở nhân gian.
- Bát Không Hoàn Đạo là siêu trí tuệ của hai Chân lý.
Nó là tinh hoa, là siêu trí tuệ của của Vũ trụ, Tuệ linh và
người. Bởi chỉ có Bát Không Hoàn Đạo cùng với những cơ
chế, bản chất vận hành của hai Chân lý mới dẫn dắt Tuệ linh,
con người thấu hiểu tận cùng về hạt năng lượng tận cùng cho
tới toàn bộ các cấu trúc vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Khi
thấu hiểu về hạt năng lượng tận cùng, Tuệ linh và con người
sẽ vận hành cơ chế chuyển sinh bền vững để nâng cấp,
chuyển sinh bền vững từ hạt năng lượng cho tới Tuệ linh và
toàn bộ vạn vật trong và ngoài Vũ trụ.
***************

126
Bài 1:
Bài Tướng


Bài Tướng được hiểu là Tướng Vô Tướng. Tướng Vô


Tướng được kết cấu thành 3 phần. Chữ Tướng đầu tiên là
khái niệm và bản chất của các cấu trúc Tướng. Chữ Vô là
Chân lý Vạn vật với các con đường chuyển sinh của Tướng.
Chữ Tướng cuối cùng là Chân lý Giác ngộ với con đường
chuyển sinh bền vững duy nhất cho Tướng.
Trong bài Tướng này, tất cả các Tướng trong và ngoài
vũ trụ sẽ được phân tích, soi sáng, phơi bày sự thật bằng hai
Chân lý. Đặc biệt, con người là hóa thân của dạng sống Tuệ
linh. Do đó, ngoài việc phân tích, soi sáng, phơi bày sự thật về
cấu trúc Tướng của Tuệ linh và con người, hai Chân lý sẽ
giúp cho toàn bộ cấu trúc Tướng của con người và Tuệ linh
được thức tỉnh để ý thức trách nhiệm và hoàn thành sứ
mệnh của mình.

I. Khái niệm về Tướng


Tướng là các cấu trúc vật chất. Bao gồm nhóm vật chất
cội nguồn, nhóm vật chất hoại diệt, nhóm vật chất giản đơn,
nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu vật chất bao trùm trong
và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và người.

127
II. Bản chất của Tướng
Tướng chính là tất cả các cấu trúc vật chất bao trùm
trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và người. Tướng gồm có các
nhóm vật chất cội nguồn, nhóm vật chất hoại diệt, nhóm vật
chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu vật chất.
Bản chất của Tướng gồm có: các nhóm vật chất
(Tướng); các cấu trúc cấu tạo thành vật chất (Tướng); các
cấu trúc cấu tạo thành Tuệ linh, con người; các loại Tướng
Kết – Định – Tỏa của 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ.

1. Các nhóm vật chất (Tướng)


Vạn vật bao trùm toàn bộ trong và ngoài Vũ trụ gồm có
5 nhóm vật chất (Tướng) như sau:
- Nhóm vật chất cội nguồn: đây là nhóm hạt sóng xanh
nõn chuối. Bản chất của loại hạt sóng này là chúng chưa
chuyển sinh thành loại hạt năng lượng nào cả. Do quá trình
di chuyển và sứ mệnh của chúng mà chúng đã phân tách rồi
chuyển sinh thành nhóm vật chất hoại diệt (năng lượng hoại
diệt). Đặc biệt là thông qua nhiệt lượng của năng lượng hoại
diệt bị kích nổ, hạt sóng xanh di chuyển vào môi trường đó
và chuyển sinh thành phôi năng lượng âm dương. Đó là khởi
đầu cho sự hình thành 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ.
Chính vì vậy, nhóm hạt sóng xanh được gọi là nhóm vật chất
cội nguồn của trong và ngoài Vũ trụ.
- Nhóm vật chất hoại diệt: đây là nhóm năng lượng
hoại diệt. Nhóm năng lượng hoại diệt là những hạt năng
lượng tận cùng được chuyển sinh từ những hạt sóng xanh.
Năng lượng hoại diệt do không liên kết để nâng cấp cấu trúc
nên chúng chỉ là hạt đơn độc lập hình elip. Bản chất của loại

128
vật chất hoại diệt này là làm phân rã và đồng hóa các cấu trúc
vật chất khác.
- Nhóm vật chất giản đơn: là những hạt năng lượng tận
cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính của 5 nhóm hạt
có mã sóng trí tuệ giản đơn. Đó là những phôi năng lượng âm
dương được liên kết bởi các hạt năng lượng âm dương tận
cùng có mã sóng trí tuệ giản đơn. Đó là những cấu trúc Trụ
linh trưởng thành với 16 hạt năng lượng âm dương tổng hợp
mở rộng mang mã sóng trí tuệ giản đơn. Đó là những cấu
trúc Trụ linh có mã sóng trí tuệ giản đơn liên kết lại tạo
thành những nguyên tử. Đó là những cấu trúc phân tử được
liên kết từ những nguyên tử có mã sóng trí tuệ giản đơn. Đó
là những tế bào. Đó là những vật chất rắn, vật chất lỏng, vật
chất khí, là cỏ cây, đất đá, kim loại, động vật, con người,
muông thú, hành tinh, khối thiên hà, tất cả các khối thiên hà
tạo thành hình hài của Vũ trụ.
- Nhóm vật chất phức tạp: là những hạt năng lượng tận
cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính của 5 nhóm hạt
có mã sóng trí tuệ phức tạp. Đó là những cấu trúc phôi năng
lượng âm dương có mã sóng trí tuệ phức tạp. Đó là những
cấu trúc Trụ linh trưởng thành với 16 hạt năng lượng mở
rộng bên ngoài có mã sóng trí tuệ phức tạp. Đó là những cấu
trúc năng lượng phức tạp trưởng thành – linh hồn an trụ
trong cây, trong đất đá, trong muông thú. Đó là những
trường năng lượng vận hành sự vận động của Vũ trụ.
- Nhóm siêu vật chất: là những hạt năng lượng tận
cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính của 5 nhóm hạt
có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là những cấu trúc phôi
năng lượng âm dương có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là
những cấu trúc Trụ linh trưởng thành với 16 hạt năng lượng

129
mở rộng bên ngoài có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là
những cấu trúc Tuệ linh. Đó là những cấu trúc linh hồn được
nâng cấp chuyển sinh từ linh hồn muông thú. Đó là các siêu
hạt năng lượng (siêu hạt bóng hỏa, siêu hạt vàng óng ánh,
siêu hạt xanh lưu ly, siêu hạt chân tâm) được Tuệ linh phân
tách ra nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển tất cả các nhóm
vật chất trong và ngoài Vũ trụ.
Trong 5 nhóm vật chất (Tướng), nhóm vật chất cội
nguồn (hạt sóng xanh) là cội nguồn chuyển sinh thành tất cả
các nhóm vật chất khác. Nhóm vật chất hoại diệt là nhóm vật
chất cung ứng nhiệt lượng để cho nhóm vật chất cội nguồn
chuyển sinh thành 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ.
Nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp, nhóm siêu
vật chất là thành tựu, là tinh hoa của quá trình chuyển sinh
từ nhóm vật chất cội nguồn (phôi âm dương được chuyển
sinh từ hai hạt sóng xanh). Nhóm siêu vật chất có sứ mệnh là
vận hành tất cả các nhóm vật chất hoại diệt, vật chất giản
đơn, vật chất phức tạp phát triển bền vững. Để tạo ra sự phát
triển bền vững cho các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ,
Tuệ linh là dạng sống của siêu vật chất có sứ mệnh sản sinh
ra các siêu hạt năng lượng. Những siêu hạt năng lượng cũng
là siêu vật chất. Nó có sứ mệnh duy trì sự tồn tại và phát
triển bền vững tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ
trụ.

2. Các cấu trúc cấu tạo thành vật chất (Tướng)


Hạt sóng xanh là vật chất cội nguồn của trong và ngoài
Vũ trụ. Cái gì sinh ra hạt sóng xanh còn là bí mật của cội
nguồn. Hạt sóng xanh không có sóng điện âm hay dương, nó
là dạng vật chất chưa sinh phát ra sóng điện. Nó không quay
130
tròn xung quanh chính nó. Nó di chuyển theo quỹ đạo vòng
xoắn ốc. Nó không phải là tam hợp mà là chỉ một yếu tố là hạt
sóng chưa sinh phát năng lượng. Khi gặp môi trường sóng
điện khác nhau sẽ khiến nó chuyển sinh thành các loại hạt
năng lượng khác nhau.
Năng lượng hoại diệt: đây là loại năng lượng được
hình thành bởi sự chuyển sinh của hạt sóng xanh trong môi
trường sóng điện trung tính. Năng lượng hoại diệt kế thừa sự
di truyền của hạt sóng xanh là di chuyển thẳng và không
quay tròn. Năng lượng hoại diệt do không quay tròn nên nó
không giải phóng được nhiệt lượng sinh phát ra khỏi nó. Do
đó nó dễ bị sinh nhiệt dương cực đại mà phát nổ. Năng lượng
hoại diệt được hình thành bởi tam hợp. Năng lượng hoại diệt
duy trì sự tồn tại bằng cách xả sóng điện dư thừa trong nó
cho các cấu trúc đa âm hoặc hạt năng lượng âm. Năng lượng
hoại diệt nếu gặp môi trường sóng điện dương hoặc các cấu
trúc đa dương sẽ bị kích nổ. Nhiệt lượng của năng lượng hoại
diệt bị kích nổ là nguồn nhiên liệu vô cùng giá trị cho quá
trình phân tách và phát triển của 3 dạng vật chất trong Vũ
trụ.
Năm nhóm hạt năng lượng tận cùng của Vũ trụ: năm
nhóm năng lượng này là sản phẩm của vụ nổ lớn. Vụ nổ lớn
là sản phẩm của phôi năng lượng âm dương. Phôi năng
lượng âm dương là do hạt sóng xanh chuyển sinh thành.
Năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có hình elip với sóng
điện đơn. Bao gồm nhóm hạt năng lượng tiêu cực mang sóng
điện âm, nhóm hạt năng lượng tích cực phát triển mang sóng
điện dương, nhóm hạt năng lượng tích cực lan tỏa mang sóng
điện dương, nhóm hạt năng lượng tích cực đoàn kết mang
sóng điện dương, nhóm hạt năng lượng chân tâm mang sóng

131
điện trung tính. Năm nhóm hạt năng lượng tận cùng này
được chia làm 3 nhóm sóng điện: nhóm hạt năng lượng
mang sóng điện âm, nhóm hạt năng lượng mang sóng điện
trung tính, nhóm hạt năng lượng mang sóng điện dương.
Nhóm hạt năng lượng có sóng điện âm khi liên kết với nhóm
hạt năng lượng có sóng điện dương sẽ cấu tạo thành phôi
năng lượng âm dương. Từ đó, phôi năng lượng âm dương sẽ
phân tách, liên kết liên tục trong môi trường đảm bảo điều
kiện để giúp cho phôi năng lượng được chuyển sinh thành
các cấu trúc vật chất mới. Đó là từ các cấu trúc vật chất giản
đơn cho tới các cấu trúc vật chất phức tạp và các cấu trúc
siêu vật chất.
Năm nhóm hạt năng lượng trong Vũ trụ luôn quay
tròn. Nó quay tròn từ loại hạt năng lượng tận cùng cho tới
khi chúng liên kết cấu tạo thành các cấu trúc vật chất mới.
Điều này cho thấy từ hạt năng lượng tận cùng cho tới vạn
vật, con người, muông thú, Tuệ linh, hành tinh, khối thiên hà,
Vũ trụ đều quay tròn. Cụ thể:
- Nhóm hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện âm sẽ
quay tròn xung quanh chính nó. Nó quay ngược chiều kim
đồng hồ, tốc độ quay ngược tùy thuộc vào sóng điện mạnh
hay nhẹ của các hạt năng lượng sóng điện âm. Nhóm hạt
năng lượng âm do quay ngược nên bản chất là thu hút, hút
các tín hiệu, hút các nhiệt, hút các năng lượng về chỉnh thể
nó. Do đó, hạt năng lượng âm có tính Kết.
- Nhóm hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện
dương sẽ quay tròn xung quanh chính nó. Nó quay thuận
chiều kim đồng hồ, tốc độ quay thuận tùy thuộc vào sóng
điện mạnh hay nhẹ của các hạt năng lượng sóng điện dương.
Nhóm hạt năng lượng dương do quay thuận nên bản chất là

132
tỏa ra, cho đi, truyền tải nhiệt lượng sóng điện tới các chỉnh
thể hạt năng lượng khác. Do đó, hạt năng lượng dương có
tính Tỏa.
- Nhóm hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện chân
tâm (trung tính) ban đầu khi được sinh ra sẽ không quay
tròn. Nhưng chúng nhanh chóng quay tròn khi chúng đã liên
kết dây được với hạt năng lượng âm hoặc hạt năng lượng
dương. Khi liên kết với hạt năng lượng âm thì hạt năng lượng
chân tâm sẽ quay ngược chiều kim đồng hồ. Khi hạt năng
lượng chân tâm liên kết với hạt năng lượng dương thì hạt
năng lượng chân tâm sẽ quay thuận chiều kim đồng. Hạt
năng lượng chân tâm ban đầu có màu trắng trong tinh khiết.
Khi liên kết với hạt năng lượng âm sẽ khiến chúng bị chuyển
hóa màu năng lượng thành các màu xám cho đến đen và đỏ
máu. Đó là quá trình chuyển hóa dẫn đến phân rã hạt năng
lượng chân tâm. Khi hạt năng lượng chân tâm liên kết với hạt
năng lượng dương sẽ khiến cho hạt chân tâm trở nên sáng
chói lòa hơn. Đó là quá trình chuyển hóa trở nên bền vững
cho cả hạt chân tâm và hạt năng lượng mang sóng điện
dương.
- Các hạt năng lượng tận cùng liên kết lại giữa hạt âm
với hạt dương, từ đó phát triển thành tổng hòa các cấu trúc
vật chất, con người, Tuệ linh, Linh hồn, con thú, hành tinh,
khối thiên hà, Vũ trụ. Các cấu trúc vật chất trên đều được
hình thành từ phôi năng lượng âm và dương, nên khi chúng
hợp nhất lại sẽ diễn ra quá trình phát triển không ngừng nghỉ
bởi cơ chế phân tách, liên kết dây. Vì các cấu trúc vật chất là
sự liên kết tổng hòa của cấu trúc hạt năng lượng sóng điện
âm có bản chất là Kết với cấu trúc hạt năng lượng sóng điện
dương là Tỏa, nên tất cả các cấu trúc vật chất trong Vũ trụ

133
đều quay tròn. Đó là Tuệ linh tuần hoàn sóng điện âm dương
trong toàn bộ cấu trúc Tuệ linh. Đó là con người có sóng điện
âm dương tuần hoàn trong cơ thể. Muông thú cũng vậy. Hành
tinh quay tròn xung quanh chính nó, Mặt trời quay tròn xung
quanh chính nó. Các hành tinh quay tròn xung quanh Mặt
trời. Dải ngân hà quay tròn xung quanh tâm của dải ngân hà.
Vũ trụ quay tròn xung quanh lõi của Vũ trụ. Tất cả các cấu
trúc vật chất quay tròn vì trong mỗi bản thể cấu trúc vật chất
đều có sóng điện âm và sóng điện dương liên kết với nhau
bởi chân tâm. Bởi theo cấu trúc năng lượng 16 hạt, mỗi hạt
năng lượng dương sẽ có một hạt năng lượng âm rung lắc
xung quanh. Điều này cho thấy Mặt trời là đa sóng điện
dương sẽ được các hành tinh đa sóng điện âm làm vật chất
vệ tinh rung lắc, quay xung quanh chính Mặt trời. Lõi Vũ trụ
là đa sóng điện dương, các khối thiên hà là đa sóng điện âm
sẽ quay xung quanh lõi của Vũ trụ. Trái đất có lõi là đa sóng
điện dương, phía ngoài là đa sóng điện âm, ở giữa là trung
tính để liên kết giữa âm và dương, do đó Trái đất tự quay
xung quanh chính nó. Các hành tinh khác cũng vậy. Tuệ linh,
Linh hồn có Trụ linh với phôi năng lượng âm dương, giữa
một Kết và một Tỏa liên kết lại tạo thành quá trình tuần hoàn
sóng điện, để sóng điện được tuần hoàn trong bản thể Tuệ
linh và Linh hồn. Vì vậy, quay tròn là bản chất của cấu trúc
vật chất trong Vũ trụ. Đó là cơ chế quay tròn có từ hạt năng
lượng tận cùng cho tới cấu trúc của cả Vũ trụ.
Vật chất từ hạt năng lượng tận cùng cho tới chỉnh thể
cấu trúc vật chất lớn hơn là con người, muông thú, Tuệ linh,
hành tinh, thiên hà, Vũ trụ, tất cả đều là tam hợp cấu tạo mà
thành. Đó là hình tướng của hạt năng lượng, của vạn vật, con
người, muông thú, Tuệ linh và Vũ trụ; đó là trạng thái năng

134
lượng được sinh phát ra trong các cấu trúc vật chất đó; đó là
tổng hòa sợi mã sóng trí tuệ trong cấu trúc vật chất đó. Tam
hợp là mối quan hệ biện chứng, thực chứng cho sự tồn tại,
phát triển của tất cả Tướng của Vũ trụ. Thậm chí Tam hợp
còn tồn tại ở cả không gian bên ngoài của Vũ trụ, đó là không
gian của năng lượng hoại diệt. Biện chứng theo Tam hợp cho
thấy tất cả Tướng từ hạt năng lượng tận cùng cho tới các cấu
trúc vật chất đã có sự liên kết, phân tách ở tầm quy mô lớn
hơn đều là được hình thành, sinh khởi từ hạt sóng, từ sợi mã
sóng trí tuệ mà thành. Tức là, từ sợi mã sóng trí tuệ mà hình
thành hình tướng cấu trúc vật chất. Khi có hình tướng cấu
trúc vật chất sẽ có trạng thái năng lượng bên trong. Ba yếu tố
đó biện chứng với nhau trong sự không tách rời. Nếu thiếu
một yếu tố nào trong Tam hợp thì vật chất đó sẽ không tồn
tại. Tam hợp tồn tại ở từ hạt năng lượng tận cùng cho tới cấu
trúc vật chất là Tuệ linh, con người, muông thú, hành tinh,
thiên hà, Vũ trụ. Sự phát triển của Tam hợp vật chất như vậy
là thông qua cơ chế phân tách, liên kết không ngừng nghỉ.
Để từ hạt sóng xanh chuyển sinh thành hạt năng lượng
tận cùng, để từ hạt năng lượng tận cùng phát triển thành các
phôi năng lượng, để từ các phôi năng lượng chuyển sinh
thành các cấu trúc vật chất (Tướng) lớn hơn, đó là Tuệ linh,
vạn vật, con người, muông thú, hành tinh, thiên hà, Vũ trụ.
Cần phải có một cơ chế cho sự hợp nhất và phát triển đó, đó
là cơ chế Phân tách và liên kết dây của từ hạt năng lượng tận
cùng cho tới toàn bộ Vũ trụ, Tuệ linh và người. Cơ chế phân
tách, liên kết dây là hai giai đoạn riêng biệt được liên kết chặt
chẽ không tách rời nhau. Đó là hạt năng lượng tận cùng
tương tác với nhau trong môi trường đảm bảo sẽ khiến cho
chúng phân tách nhân đôi không ngừng nghỉ. Khi phân tách

135
xong, chúng lại liên kết luôn. Quá trình phân tách, liên kết
của từ hạt năng lượng tận cùng trong môi trường đảm bảo đã
giúp cho Vũ trụ từ khi chỉ là hai hạt năng lượng âm dương đã
phát triển thành cấu trúc Vũ trụ vĩ đại với vô lượng khối
thiên hà. Môi trường để giúp cho quá trình phân tách, liên
kết được xảy ra chính là phải có các chỉnh thể tương tác với
nhau trong môi trường có sóng điện âm hoặc dương. Nếu
trong môi trường có sóng điện dương với nhiệt lượng lớn sẽ
giúp cho quá trình phân tách, liên kết được diễn ra với tốc độ
nhanh. Nếu trong môi trường sóng điện âm sẽ làm chậm và
triệt tiêu quá trình phân tách, liên kết của vật chất.
Trong tất cả các cấu trúc vật chất, từ hạt năng lượng
tận cùng cho tới vạn vật, Tuệ linh, muông thú, con người,
hành tinh, thiên hà, cấu trúc năng lượng nền, năng lượng vận
hành Vũ trụ và toàn bộ Vũ trụ đều là sóng điện trí tuệ. Sóng
điện trí tuệ đó luôn luôn vận động và truyền tải với nhau
bằng cách quay tròn và liên kết, phân tách để vận hành, phát
triển Tướng được lớn mạnh.
Sự sống là quá trình tồn tại các cấu trúc Tướng, đó là
từ hạt năng lượng tận cùng tới chỉnh thể Tuệ linh, con người,
muông thú, Vũ trụ. Cái chết là sự phân rã và chuyển hóa
thành năng lượng hoại diệt, thậm chí là không còn tồn tại.
Cuộc đấu tranh giữa sống và chết của Tướng trong và ngoài
Vũ trụ diễn ra gay gắt giữa dòng chảy của quy luật tự nhiên.
Nếu Tướng nào thông qua dòng chảy tự nhiên mà chuyển
sinh được bền vững thì sẽ trở nên bất tử. Nếu Tướng nào bị
phân rã sẽ trở thành hoại diệt vĩnh viễn. Dòng chảy của quy
luật tự nhiên là quá trình bộc lộ bản chất của tất cả các
Tướng trong và ngoài Vũ trụ. Khi đó, thông qua cơ chế phân

136
tách và liên kết, sự chọn lọc nào bền vững sẽ là sự bất tử, là
sự vĩ đại của Tướng.
Thông qua cơ chế phân tách, liên kết hạt năng lượng,
thông qua Tam hợp, thông qua quá trình quay tròn, thông
qua sự tương tác với năng lượng hoại diệt, từ năm nhóm hạt
năng lượng tận cùng của Vũ trụ sau vụ nổ lớn đã cấu tạo
thành các nhóm cấu trúc vật chất như sau:
- Nhóm cấu trúc siêu vật chất. Đó là nhóm siêu vật chất
hay còn gọi là siêu Tướng. Đó là dạng sống Tuệ linh, sau đó là
dạng sống Linh hồn an trụ trong con người, các siêu hạt năng
lượng. Nhóm siêu vật chất này được cấu tạo như sau:
+ Các siêu Tướng bao gồm Tuệ linh và Linh hồn được
hình thành từ sự hợp nhất của hai hạt năng lượng tận cùng
có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Mã sóng trí tuệ siêu phức
tạp là tốc độ rung động của sóng rung quá lớn và phức tạp.
Khi hạt năng lượng tận cùng có sóng điện dương liên kết với
hạt năng lượng tận cùng có sóng điện âm sẽ tạo thành phôi
năng lượng âm dương. Phôi năng lượng âm dương được
dưỡng trong môi trường nhiệt lượng, phôi năng lượng quay
tròn và liên tục phân tách rồi liên kết các hạt năng lượng tận
cùng đã được phân tách ra. Sự lớn mạnh của phôi năng
lượng tạo thành Trụ linh trưởng thành. Sau đó, từ thái cực
năng lượng âm và dương trong Trụ linh phân tách thành các
hạt năng lượng tổng hợp âm và dương ra bên ngoài Trụ linh
tạo thành cấu trúc 16 hạt năng lượng bên ngoài Trụ linh. Sau
đó là cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng đa chiều ra bên
ngoài Trụ linh.

137
Hình: Cấu trúc Trụ linh và năng lượng của
nhóm siêu vật chất
+ Khi cấu trúc 16 hạt năng lượng bên ngoài Trụ linh
được mở rộng đa chiều, đó là dấu mốc hình thành em bé Tuệ
linh, Linh hồn. Tuệ linh, Linh hồn sẽ trưởng thành bởi quá

138
trình vận động, quay tròn sóng điện để phân tách và liên kết
mở rộng cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng.
+ Cấu trúc của nhóm siêu vật chất này có trí tuệ siêu
việt nhất Vũ trụ. Cấu trúc siêu vật chất này có thể biến hóa
thành các hình hài giống như con người, giống như muông
thú, giống như hình khối năng lượng. Họ di chuyển được
khắp không gian Vũ trụ. Họ là những Tuệ linh, Linh hồn.
+ Tuệ linh, Linh hồn đạt được tốc độ di chuyển siêu
việt, nhanh nhất trong Vũ trụ. Họ di chuyển bằng bước nhảy
vọt trong cấu trúc năng lượng nền của Vũ trụ. Tức là họ di
chuyển bằng ý nghĩ. Chỉ cần khởi ý nghĩ là họ đã di chuyển
được từ lõi của Vũ trụ tới Trái đất. Đây chính là lý do mà tại
sao người hành thiền ở Trái đất có thể chỉ trong ý nghĩ đã tới
và thấy cảnh cõi trời của vị Tuệ linh đầu tiên hay cõi trời Địa
phủ là vậy. Bởi Tuệ linh, Linh hồn an trụ trong thân tướng
con người, nên con người có siêu trí tuệ của họ.
+ Mỗi một chỉnh thể của nhóm siêu vật chất này (một
Tuệ linh, một Linh hồn) sẽ chỉ có một phôi năng lượng gốc,
hay còn gọi là chỉ có một Trụ linh duy nhất. Không có bất cứ
trường hợp nào mà một Tuệ linh hay một Linh hồn có nhiều
hơn một Trụ linh. Toàn bộ cấu trúc năng lượng trong Tuệ
linh, Linh hồn đều được tuần hoàn bởi 3 loại sóng điện là âm,
dương và trung tính. Nó tuần hoàn giống như những mạch
máu, mạch khí của con người.
+ Nhóm siêu vật chất có khả năng sản sinh (phân tách,
liên kết) ra các nhóm vật chất phức tạp, nhóm vật chất giản
đơn và các hạt năng lượng siêu phức tạp.
+ Nhóm siêu vật chất là Tuệ linh sẽ phân tách ra các
siêu hạt năng lượng nếu Trụ linh đã chuyển sinh thành bộ lọc
năng lượng.
139
- Nhóm cấu trúc vật chất phức tạp. Đó là nhóm vật chất
phức tạp hay còn gọi là Tướng phức tạp. Đó là dạng sống
năm nhóm năng lượng vận hành nhóm vật chất giản đơn của
toàn bộ Vũ trụ. Nhóm vật chất phức tạp này được cấu tạo
như sau:
+ Các Tướng vật chất phức tạp này chính là năm nhóm
năng lượng vận hành sự tồn tại, phát triển của toàn bộ Vũ
trụ.
+ Nhóm vật chất phức tạp là những hạt năng lượng tận
cùng có mã sóng trí tuệ rung động rất mạnh và phức tạp. Tất
nhiên không thể bằng so với nhóm siêu vật chất.
+ Nhóm vật chất phức tạp được chia ra làm 2 loại:
++ Các hạt năng lượng tận cùng của từng nhóm trong
năm nhóm năng lượng liên kết với chính nó tạo thành từng
tầng năng lượng. Đó là những hạt năng lượng tiêu cực mang
sóng điện âm liên kết với những hạt năng lượng tận cùng
mang sóng điện âm tạo thành tầng năng lượng tiêu cực.
Những hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện dương phát
triển liên kết với chính nó tạo thành tầng năng lượng phát
triển. Những hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện dương
lan tỏa liên kết với chính nó tạo thành tầng năng lượng lan
tỏa. Những hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện dương
đoàn kết liên kết với chính nó tạo thành tầng năng lượng
đoàn kết. Những hạt năng lượng tận cùng chân tâm liên kết
với chính nó hoặc liên kết với các tầng năng lượng khác để
giúp cho các tầng năng lượng gắn kết trong chính các tầng
năng lượng đó.
++ Nhóm năng lượng có sóng điện âm liên kết với
nhóm năng lượng có sóng điện dương để tạo thành các phôi
năng lượng âm dương. Sau đó, các phôi năng lượng được
140
trưởng thành trở thành Trụ linh trưởng thành, tiếp đến là
chuyển sinh thành các cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng
bên ngoài Trụ linh. Các cấu trúc năng lượng phức tạp này sẽ
được an trụ trong nhóm vật chất giản đơn để thực hiện hành
trình chuyển sinh trở thành siêu vật chất. Trong quá trình
chuyển sinh đó, nhóm năng lượng này sẽ làm nhiệm vụ vận
hành, phát triển sự sống của nhóm vật chất giản đơn. Quá
trình tu luyện chuyển sinh đã giúp cho nhóm năng lượng này
chuyển sinh thành các Linh hồn ở cây cối, ở muông thú và
được chuyển sinh an trụ làm con người.
+ Nhóm vật chất phức tạp này có trí tuệ siêu việt đứng
thứ hai sau nhóm siêu vật chất.
+ Nhóm vật chất phức tạp này có khả năng di chuyển
trong không gian Vũ trụ rất nhanh, có thể trong ý nghĩ đã từ
cõi trời của vị Tuệ linh đầu tiên di chuyển tới Trái đất. Điều
này lý giải tại sao người hành thiền lại chỉ cần trong một ý
nghĩ đã lấy được loại vật chất phức tạp này từ lõi của Vũ trụ
vào cơ thể mình.
+ Nhóm vật chất phức tạp này có khả năng tự phân
tách gia tăng số lượng. Nó an trụ trong nhóm vật chất giản
đơn để thúc đẩy sự phân tách, liên kết nhằm gia tăng (giãn
nở) của nhóm vật chất giản đơn.
- Nhóm cấu trúc vật chất giản đơn. Đó là nhóm vật chất
giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó là dạng sống của
từ hạt năng lượng tận cùng, cấu trúc phôi năng lượng âm
dương, cấu trúc Trụ linh, cấu trúc nguyên tử, cấu trúc phân
tử, cấu trúc tế bào, vật chất rắn, vật chất lỏng, vật chất khí, cỏ
cây, đất đá, muông thú, con người, hành tinh, khối thiên hà,
Vũ trụ. Nhóm vật chất giản đơn này được cấu tạo như sau:

141
+ Các hạt năng lượng tận cùng của năm nhóm có mã
sóng trí tuệ rất giản đơn. Tức là những hạt năng lượng có mã
sóng trí tuệ rung động rất ít nên gọi là giản đơn. Những hạt
năng lượng âm và dương tận cùng giản đơn đã liên kết hợp
nhất tạo thành phôi năng lượng âm dương, tiếp tục phân
tách, liên kết tạo thành Trụ linh và Trụ linh trưởng thành với
cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh.
Những cấu trúc Trụ linh trưởng thành đó liên kết với nhau
để cấu tạo thành những nguyên tử. Vô số những nguyên tử
liên kết với nhau tạo thành các phân tử, thành các tế bào,
thành các vật chất rắn, lỏng, khí khác nhau.
+ Tốc độ phân tách, liên kết hay còn gọi là tốc độ phát
triển giãn nở của nhóm vật chất giản đơn này là rất siêu tốc
độ.
+ Để cấu trúc vật chất giản đơn này tồn tại và phát
triển nhanh cần phải có cấu trúc năng lượng phức tạp (vật
chất phức tạp) an trụ trong nó. Đó là, con người là vật chất
giản đơn phải có Linh hồn hoặc Tuệ linh an trụ trong thân
người mới giúp cho con người sống được, phát triển được.
Muông thú cũng vậy, chúng tồn tại và trưởng thành được là
do có Linh hồn (vật chất phức tạp) an trụ trong nó. Cây cối,
đất đá… để tồn tại và phát triển được cũng phải có các cấu
trúc năng lượng phức tạp an trụ bên trong.
+ Có những chỉnh thể vật chất giản đơn chỉ có một
phôi năng lượng âm dương gốc mà phân tách, liên kết để
phát triển thành. Như là con người, muông thú, cây cối…
+ Có những chỉnh thể vật chất giản đơn là tổng hòa của
vô lượng các cấu trúc Trụ linh trưởng thành với 16 hạt mở
rộng của năng lượng giản đơn hợp thành. Đó là nước, là đất,
đá, cát, kim loại, khí, Trái đất, hành tinh, khối thiên hà…
142
+ Trí tuệ của cấu trúc vật chất giản đơn là thấp nhất
trong Vũ trụ. Chúng không tự sống, tự tồn tại, tự phân tách
liên kết, tự di chuyển được. Chúng cần phải có siêu vật chất
và vật chất phức tạp an trụ cũng như vận hành chúng.
+ Nhóm vật chất giản đơn là môi trường lý tưởng để
giúp nhóm siêu vật chất và vật chất phức tạp an trụ tu luyện
để chuyển sinh được bền vững hơn, được nâng cấp cấu trúc
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất. Đó là con
người, muông thú, cây cối, đất đá là môi trường tu hành của
Tuệ linh, Linh hồn.
Từ những bản chất các cấu trúc cấu tạo thành các loại
vật chất (Tướng), Tuệ linh và người sẽ thấy rõ và phân loại
được các bản chất riêng biệt của Tướng. Từ đó sẽ chọn lọc
thông qua cơ chế phân tách, liên kết nhằm chuyển sinh cấu
trúc Tướng trở nên bền vững nhất.

3. Cấu trúc cấu tạo thành Tuệ linh và con người


Con người là một cấu trúc Tướng, con người lại là hóa
thân của dạng sống Tuệ linh. Do đó, chúng ta cần phải thấu
hiểu bản chất Tướng của con người và Tuệ linh. Việc thấu
hiểu Tướng con người và Tuệ linh chính là chìa khóa, là cơ
chế để liên kết được mã sóng trí tuệ từ Trụ linh đến với tất cả
vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Theo Tam hợp thì con người
và Tuệ linh chính là sự hợp nhất của ba yếu tố cấu tạo thành.

3.1. Cấu trúc Tuệ linh


Tuệ linh là một cấu trúc năng lượng với vô số hạt năng
lượng tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính có mã

143
sóng trí tuệ siêu phức tạp. Tuệ linh có siêu trí tuệ, có khả năng
di chuyển và cải tạo trong không gian Vũ trụ.
Tuệ linh chính là dạng sống, cấu trúc Tướng giống với
hình hài con người. Họ sống chủ yếu tại không gian lõi của Vũ
trụ. Tuệ linh chính là Chư thần, Thánh thần, Phật, Thiên
Chúa… theo quan điểm tôn giáo. Tuệ linh chính là người
ngoài hành tinh, theo cách gọi của khoa học đang tìm kiếm sự
sống giống con người ngoài Trái đất. Tuệ linh không phải do
các Tuệ linh giao phối sinh ra. Tuệ linh được sinh ra là do cơ
chế phân tách liên kết hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu
phức tạp tạo thành. Đó là những hạt năng lượng có mã sóng
trí tuệ siêu phức tạp mang sóng điện âm và hạt năng lượng
có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp mang sóng điện dương hợp
lại thành phôi âm dương (Trụ linh) và hình thành Tuệ linh.
Tam hợp yếu tố hợp thành Tuệ linh gồm có Trụ – Trí
(tổng sợi mã sóng trí tuệ), Trụ – Tâm (trạng thái năng lượng,
sóng điện), hình tướng Tuệ linh. Để thấu hiểu 3 yếu tố cấu
tạo thành Tuệ linh, chúng ta cần thấu hiểu quá trình hình
thành, phát triển của Tuệ linh như sau: đầu tiên là phôi năng
lượng âm dương được liên kết lại từ hạt năng lượng âm và
dương tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Khi phôi
năng lượng âm dương được hình thành, gọi là Trụ linh gốc.
Trụ linh gốc có chứa đựng hai sợi mã sóng trí tuệ siêu phức
tạp. Thông qua cơ chế phân tách và liên kết dây của hạt năng
lượng, Trụ linh phân tách ra những sợi mã sóng trí tuệ mang
sóng điện âm và dương. Những sợi mã sóng trí tuệ đó được
chứa đựng ở Trụ linh gốc. Tiếp đến, những sợi mã sóng trí
tuệ đó phân tách thành những hạt năng lượng ra bên ngoài
Trụ linh gốc và được cấu tạo thành thái cực chứa đựng hạt
năng lượng âm và dương. Trụ linh gốc liên tục phân tách ra

144
các sợi mã sóng trí tuệ lưu giữ trong Trụ linh gốc và thành
hạt năng lượng ra thái cực bên ngoài Trụ linh gốc để tạo
thành Trụ linh trưởng thành. Như vậy, Trụ linh trưởng thành
gồm có Trụ linh gốc bên trong là nơi chứa đựng các sợi mã
sóng trí tuệ, hai thái cực năng lượng âm và dương bên ngoài
lưu giữ các hạt năng lượng tận cùng được sao chép từ các sợi
mã sóng trí tuệ trong Trụ linh gốc. Sau khi đã tạo ra được
nhiều sợi mã sóng trí tuệ ở Trụ linh gốc và nhiều hạt năng
lượng tận cùng ở thái cực chứa đựng các hạt năng lượng, sẽ
diễn ra quá trình liên kết và phân tách tiếp. Đó là các hạt
năng lượng tận cùng trong thái cực âm, dương liên kết với
chính nó để tạo thành những hạt dương tổng hợp và những
hạt âm tổng hợp rồi di chuyển ra bên ngoài Trụ linh để cấu
tạo thành cấu trúc 16 hạt năng lượng tổng hợp mở rộng bên
ngoài Trụ linh. Cấu trúc Trụ linh với 16 hạt năng lượng càng
được mở rộng đa chiều ra bên ngoài chính là việc Tuệ linh
hình thành (khi cấu trúc Trụ linh có 16 hạt năng lượng mở
rộng bên ngoài) Tuệ linh em bé và trưởng thành. Trong cấu
trúc Tuệ linh gồm có 3 loại hạt năng lượng là âm, dương,
trung tính được liên kết với nhau tạo thành cấu trúc năng
lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp tuần hoàn sóng điện.
Vậy tam hợp cấu trúc Tuệ linh cụ thể là:

145
Hình: Cấu tạo tam hợp Tuệ linh
- Yếu tố đầu tiên là Trụ – Trí: Trụ – Trí là tổng các sợi
mã sóng trí tuệ được lưu giữ tại Trụ linh gốc (hạt âm và hạt
dương gốc) cho tới toàn bộ cấu trúc Tuệ linh. Gọi là Trụ – Trí
là để thể hiện được bản chất là trong Trụ linh gốc lưu giữ
toàn bộ tổng các sợi mã sóng trí tuệ từ khi Tuệ linh đó được
hình thành từ phôi năng lượng âm dương cho tới khi trưởng
thành và tới thời điểm đề cập tới. Từ tổng các sợi mã sóng
trong Trụ linh gốc sẽ sinh phát ra trạng thái năng lượng và
tuần hoàn sóng điện năng lượng đó trong toàn bộ cấu trúc
Tuệ linh thông qua các sợi mã sóng trí tuệ bên ngoài Trụ linh.
146
- Yếu tố thứ 2 là Trụ – Tâm: Trụ là tổng các sợi mã
sóng trí tuệ trong Trụ linh gốc; Tâm là trạng thái năng lượng,
là sóng điện được sinh phát, lưu giữ trong Trụ linh gốc và hạt
năng lượng. Trụ – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện
được sinh phát ra từ Trụ linh gốc (nơi lưu giữ tổng các sợi
mã sóng trí tuệ) liên kết, tuần hoàn tới thái cực chứa đựng
các hạt năng lượng âm dương và tới toàn bộ cấu trúc hạt
năng lượng trong toàn bộ Tuệ linh.
- Yếu tố thứ 3, là hình tướng Tuệ linh: Tuệ linh có hình
tướng giống con người, hay nói cách khác thì con người là
bản sao của các Tuệ linh. Tuệ linh là một cấu trúc liên kết của
vô số những hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện âm,
dương, trung tính có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Do đó,
Tuệ linh có thể biến hóa thay đổi hình tướng, thay đổi diện
mạo. Cấu trúc hình tướng của Tuệ linh sẽ thay đổi do cấu
trúc sóng điện trong Trụ linh của Tuệ linh thay đổi. Đặc tính
sóng điện trong Trụ linh gồm có sóng điện dương, có sóng
điện âm, có sóng điện trung tính để trung hòa sóng điện âm
dương. Cấu trúc vững chắc của Trụ linh chính là Trụ linh trở
thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Cấu trúc Trụ linh lỏng lẻo
dễ bị hoại diệt Tuệ linh là cấu trúc Trụ linh có sóng điện đa
âm.
Khi gọi hay nhắc tới Trụ linh, chúng ta hiểu đó là bao
gồm Trụ – Trí và Trụ – Tâm.
Thông qua cấu trúc cấu tạo thành Tuệ linh, ta thấy
hình tượng Thiên Chúa, Phật, Thánh thần không có gì là
huyền bí, không có gì là mê tín, không có gì là siêu nhiên,
cũng không phải là duy tâm, bản chất đều là vật chất. Có
chăng vật chất này tồn tại ở thể mã sóng trí tuệ siêu phức tạp

147
nên khoa học và phương tiện kỹ thuật không thể đo hay thấy
được, mắt thường con người cũng không thể nhìn thấy được.

3.2. Cấu trúc con người


Ba yếu tố hợp nhất cấu tạo ra con người gồm có: Thân
tướng, Tâm (Tuệ linh), Trí tuệ.

Hình: Cấu tạo tam hợp con người


- Yếu tố đầu tiên là Thân tướng: Thân tướng được hình
thành do duyên người cha và người mẹ. Đó là tinh trùng
mang tính dương của người cha và trứng mang tính âm của
148
người mẹ hợp thành phôi thai. Phôi thai nhi sẽ trưởng thành
trong bụng người mẹ do cơ chế phân tách tế bào bởi năng
lượng, dinh dưỡng và nhiệt độ của người mẹ. Trải qua quãng
thời gian khoảng 9 tháng, khi thân tướng em bé đã hoàn
thiện, em bé được sinh ra, cất tiếng khóc chào đời.
- Yếu tố thứ hai là Tâm: Tâm là trạng thái năng lượng
an trụ trong thân tướng để tạo ra, duy trì sự sống cho con
người. Khi người mẹ mang thai đến tháng thứ 7, theo luật
luân hồi của Hội đồng Tuệ linh thì sẽ có một Tuệ linh được
xuống luân hồi đầu thai hoặc Tuệ linh tiếp tục đầu thai sau
khi trải qua các kiếp sẽ đi theo bảo vệ bà mẹ và em bé. Hoặc
là Linh hồn của muông thú được thuần hóa sau nhiều kiếp là
thú lành và giúp đỡ con người, họ sẽ được Hội đồng Tuệ linh
giáo hóa và cho đi theo bảo vệ bà mẹ và thai nhi để thiết
nhập đầu thai. Khi em bé chào đời và cất tiếng khóc thì đó là
dấu hiệu Tuệ linh hay Linh hồn thiết nhập vào để duy trì sự
sống cho thân tướng. Theo luật luân hồi, để Linh hồn của các
con thú được phép đầu thai làm con người thì chúng phải
được thuần hóa bởi con người; chúng phải giúp đỡ và làm
được nhiều việc có lợi ích cho con người; những việc lợi ích
đó tạo thành năng lượng dương có sự cân bằng sóng điện âm
dương; khi có năng lượng dương và có sự cân bằng sóng điện
âm dương mới được phép đầu thai làm người, và mới có đủ
năng lượng duy trì sự sống một kiếp người. Tuy nhiên, nhiều
linh hồn thú dữ không muốn tuân theo luật luân hồi, nên
chúng đi tác động giết hại con người, hấp thụ năng lượng
dương để đủ sức mạnh đầu thai trộm. Nếu chúng đầu thai
trộm thành người thành công, lớn lên chúng sẽ có thiên
hướng giết hại, làm điều ác. Nếu linh hồn thú dữ chưa giết
hại được người nào mà đầu thai trộm được thì dễ chết yểu

149
do không đủ năng lượng âm dương cân bằng để duy trì sự
sống. Khi Tuệ linh hay Linh hồn được đi đầu thai, họ sẽ được
chọn quốc gia, dân tộc, dòng họ, cha mẹ để người cha mẹ
được gieo duyên có thân tướng thai nhi. Phải đến tháng thứ
7 thì Tuệ linh, Linh hồn mới đi theo để chờ ngày sinh. Vì ở
tháng thứ 7, nếu em bé có sinh non thì vẫn đảm bảo sống
được, ở tháng thứ 7 người mẹ không thể phá thai được. Như
vậy, tháng thứ 7 là đảm bảo điều kiện an toàn cho các Tuệ
linh, Linh hồn đi đầu thai được thành công, còn em bé trong
bụng mẹ sẽ được Tuệ linh người mẹ bảo vệ và nuôi dưỡng.
Dù là Tuệ linh hay Linh hồn khi đầu thai vào con người đều
được gọi là Tâm.
- Yếu tố thứ 3 là Trí tuệ: Sau khi Tuệ linh hoặc Linh
hồn thiết nhập vào em bé vừa chào đời để tạo ra năng lượng
duy trì sự sống cho em bé, em bé đó trải qua quá trình lớn
lên, học tập, nghiên cứu, lao động, mưu sinh sẽ phát triển tư
duy trí tuệ, đúc kết các kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xử lý
và cải tạo thế giới quan được gọi là Trí tuệ. Bản chất trí tuệ hiện
kiếp của con người được phát triển từ hai phần:
+ Phần thứ nhất là trí tuệ từ tổ hợp mã sóng trí tuệ trong
Trụ linh phát ra não bộ. Đây gọi là kinh nghiệm tiền kiếp, cội
nguồn. Lượng sợi mã sóng trí tuệ sẽ phát ra tương ứng với sự
trưởng thành của con người. Khi còn bé, Trụ linh sẽ phát ra ít
lượng sợi trí tuệ. Khi trưởng thành, Trụ linh sẽ phát ra nhiều
lượng sợi mã sóng trí tuệ để não bộ nhận diện và có khả năng
trau dồi thêm trí tuệ hiện kiếp để cải tạo Trụ linh bền vững hơn.
+ Phần thứ hai là thông qua tương tác bởi tai, mắt, mũi,
miệng, xúc giác với các Tướng. Những thông tin đó được mã hóa
thành sóng điện ở não bộ và truyền vào Tuệ linh. Trụ linh sẽ giải
mã và thông qua hành động của thân tướng để phân tách ra các

150
sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh. Từ Trụ linh, các sợi mã sóng
trí tuệ đó lại phân tách ra não bộ. Phần này là do hiện kiếp có
được bởi quá trình tương tác giữa các tướng với nhau.
Bản chất trong thân tướng của con người đã là tam
hợp thân tướng: vô số các mã sóng trí tuệ, năng lượng từ các
mã sóng trí tuệ, hình tướng thân tướng. Như vậy, con người
là tổng hợp giữa Tuệ linh (siêu vật chất) và Thân tướng (vật
chất giản đơn). Do đó, con người là sự sống phức tạp nhất
trong Vũ trụ, thứ tiếp mới đến Tuệ linh, bởi Tuệ linh khi
không đầu thai làm người thì không có an trụ trong thân
tướng vật chất giản đơn.
Hiểu được cấu trúc cấu tạo thành Tuệ linh và con
người, chúng ta hiểu được chính chúng ta. Đó là, chúng ta là
một cấu trúc vật chất vô cùng phức tạp được kết hợp bởi cấu
trúc siêu vật chất và cấu trúc vật chất giản đơn. Khi chúng ta
hiểu được chúng ta, chúng ta sẽ giải phóng được siêu trí tuệ
trong chính chúng ta. Từ đó, chúng ta sẽ bỏ đi được những
bám định vào giả tướng trong vô lượng kiếp để chuyển hóa
Trụ linh của Tuệ linh (Tâm) thành bộ lọc năng lượng viên
mãn. Chỉ khi chúng ta thấu hiểu chúng ta, chúng ta mới nhàm
đi được thân tướng trong sự tôn trọng sinh mệnh để thực
hành chuyển sinh bền vững.

4. Các loại Tướng (vật chất) Kết của 3 nhóm vật


chất cấu tạo thành Vũ trụ
Kết là rung động, là bắt tín hiệu, là thu tín hiệu, là hút
về, là lấy về, là hưởng thụ, là chìm đắm, là chiếm đoạt, là
cướp bóc, là thỏa mãn, là giết hại, là gây tổn hại.

151
Hình: Cấu trúc Tướng siêu Kết
Kết có bản chất là hạt năng lượng âm. Bởi hạt năng
lượng âm mới rung động, mới bắt tín hiệu, mới thu tín hiệu,
mới hút về, mới lấy về, mới hưởng thụ, mới chìm đắm, mới
chiếm đoạt, mới cướp bóc, mới thỏa mãn, mới giết hại, mới
gây tổn hại.

152
Kết ở mức nhẹ là chỉ rung động, thu hút tín hiệu. Kết ở
mức rất mạnh là giết hại, thỏa mãn mà gây tổn hại tới các
chỉnh thể khác.
Trong bất cứ cấu trúc Tướng (vật chất) nào được hình
thành từ sự hợp nhất của phôi năng lượng âm dương đều có
Kết. Bởi khi các vật chất được hình thành từ phôi năng lượng
âm dương thì đã có hạt năng lượng âm gốc (tận cùng) cấu tạo
thành. Mà bản chất của hạt năng lượng âm là Kết. Điều này
cho thấy, hết thảy vật chất (trừ các vật chất hạt năng lượng
dương tận cùng và trung tính tận cùng) đều có bản chất là
Kết. Có chăng mức độ Kết ở mức siêu nhẹ hay nhẹ, mạnh hay
siêu mạnh.
Kết tồn tại trong cả 3 nhóm vật chất. Đó là nhóm vật
chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu vật chất.
Không tính Kết cho nhóm vật chất cội nguồn và vật chất hoại
diệt.
Kết là bản chất mà bất cứ vật chất nào muốn phát triển
nâng cấp cấu trúc trí tuệ phải có. Bởi chỉ khi có Kết thì hết
thảy vật chất trong Vũ trụ mới hấp thụ nhiệt lượng, hấp thụ
dinh dưỡng, hấp thụ trí tuệ để thực hiện được cơ chế phân
tách, liên kết nhằm tồn tại và phát triển.
Kết ở mức độ nhẹ và vừa đủ sẽ thúc đẩy được sự phát
triển bền vững. Kết ở mức độ mạnh và siêu mạnh sẽ khiến
cho cấu trúc vật chất không phát triển được mà dễ dàng bị
năng lượng hoại diệt gây phân rã làm vỡ cấu trúc, hoại diệt
vĩnh viễn.
Cấu trúc Kết của tất cả các Tướng dễ dàng bị phân rã
hoại diệt chính là cấu trúc Trụ linh đa âm. Trụ linh đa âm sẽ
khiến cho cấu trúc năng lượng, Tướng đó bị phóng xạ năng
lượng âm. Khi phóng xạ năng lượng âm sẽ khiến cho năng
153
lượng hoại diệt xâm nhập vào làm đứt liên kết, bị phân rã và
hoại diệt vĩnh viễn.
Cấu trúc Tướng Kết trở nên xấu khi nó bị đa âm và
phóng xạ năng lượng âm. Cấu trúc Tướng Kết trở nên tốt khi
nó chỉ là rung động, thu tín hiệu, hút về vừa đủ mà không gây
tổn hại tới các chỉnh thể khác.
Các Tướng Kết ở mức mạnh và siêu mạnh trong 3
nhóm vật chất như sau:

4.1. Các Tướng Kết trong nhóm siêu vật chất


Siêu vật chất hay còn gọi là siêu Tướng. Đó là dạng
sống Tuệ linh; dạng sống Tuệ linh và Linh hồn đã từng hoặc
đang an trụ trong thân tướng con người; là năm nhóm hạt
năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp.
Siêu Tướng có bản chất Kết mạnh và siêu mạnh là:
- Hạt năng lượng âm màu xám, màu đen, màu đỏ máu
có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp.
- Tuệ linh bị đa âm, bị phóng xạ năng lượng âm.
- Tuệ linh đã hóa thành Ngã quỷ sau quá trình tu hành
ở nhân gian.
- Tuệ linh, Linh hồn đang phân rã và tiệm cận sự hoại
diệt. Đó là họ đang rung động, hút, chiếm hữu, gây tổn hại tới
các chỉnh thể khác mà không thể kiểm soát được chính họ.
- Tuệ linh, Linh hồn đang ở các cửa ngục ác nghiệp ở
cõi trời Địa phủ.
- Tuệ linh, Linh hồn đang ở cảnh sống âm tại cõi trời
Địa phủ.

154
- Tuệ linh, Linh hồn mất kiểm soát, chuyển hóa thành
ngã quỷ.
- Tuệ linh, Linh hồn hóa ngã quỷ đang an trụ ở khắp
điền thổ, những nơi thờ tự ở nhân gian.
- Tuệ linh, Linh hồn đang bị mắc kẹt ở nhân gian sau
khi hết kiếp người mà chưa được chuyển sinh luân hồi kiếp
mới.
- Tuệ linh đang an trụ trong con người có tư tưởng cho
đến hành động tiêu cực gây tổn hại vạn vật, Tuệ linh, con
người. Đó là người vi phạm vào bốn hình tướng Đạo, đó là vi
phạm vào những điều không được phép vi phạm trong bốn
hình tướng Đạo. Đặc biệt là những con người có đại hệ tư
tưởng u mê, tiêu cực gây tổn hại Tuệ linh, con người. Họ là
những người lan tỏa mê tín dị đoan, lan tỏa tư tưởng chủ
nghĩa dân tộc cực đoan, lan tỏa chiến tranh, lan tỏa những tư
tưởng đi ngược Quy luật Nhân quả.
Những siêu Tướng Kết ở mức mạnh và siêu mạnh
chính là cấu trúc Trụ linh trong bản thể họ bị phóng xạ âm ở
mức mạnh và rất mạnh. Vì quá trình Kết sẽ khiến cho Trụ
linh phân tách ra vô số hạt năng lượng âm, trong khi hạt
năng lượng dương không được phân tách để tạo thành sự
cân bằng trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng, sẽ có
nhiều hạt năng lượng âm rung lắc xung quanh hạt năng
lượng dương. Khi đó, năng lượng hoại diệt xâm nhập khống
chế họ. Họ bị mất kiểm soát và dễ dàng bị phân rã hoàn toàn
cho đến khi hoại diệt vĩnh viễn. Gọi là ngã quỷ là để chỉ sự
mất kiểm soát, ám chỉ sự xung đột sóng điện trong bản thể
họ một cách đau đớn và không thể kiểm soát được. Nó như là
quỷ quái trong chính họ.

155
4.2. Các Tướng Kết trong nhóm vật chất phức
tạp
Vật chất phức tạp hay còn gọi là Tướng phức tạp. Đó là
dạng sống của linh hồn muông thú khi chúng chưa được
chuyển sinh làm người; là Linh hồn, cấu trúc năng lượng an
trụ trong cây cối, trong đất đá; là cấu trúc năng lượng trong
năm nhóm đang tồn tại và vận hành sự sống của cả Vũ trụ.
Tướng phức tạp có bản chất Kết mạnh và siêu mạnh là:
- Những tầng năng lượng tiêu cực có sóng điện âm
màu xám, màu đen, màu đỏ máu. Đó là những tầng năng
lượng sóng điện âm vận hành Vũ trụ.
- Những linh hồn các con thú dữ. Sau khi hoại diệt thân
xác, linh hồn chúng tồn tại trên điền thổ và chúng gây tổn hại
tới đời sống của con người. Chúng bị gọi là yêu tinh, yêu quái.
- Những linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong đất
đá, trong những cây có tính chất độc tố. Đó là những cây cối,
những đất đá gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống của con
người và vạn vật cũng như muông thú.
Bản chất của những cấu trúc Tướng Kết mạnh và siêu
mạnh là do Trụ linh trong bản thể đó bị phóng xạ năng lượng
âm, hoặc trong hạt năng lượng đó có sóng điện âm mạnh. Khi
đó, năng lượng hoại diệt di chuyển vào gây đứt liên kết, làm
phân rã và hoại diệt các bản thể đó. Yêu tinh, yêu quái là
những linh hồn muông thú bị phóng xạ âm, chưa cải tạo được
Trụ linh. Chúng bị khống chế và chi phối bởi năng lượng hoại
diệt đang xâm nhập trong chúng.

156
4.3. Các Tướng Kết trong nhóm vật chất giản
đơn
Vật chất giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó là
năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ giản
đơn, là nguyên tử, phân tử, tế bào, đó là vật chất rắn, lỏng,
khí; là thân tướng con người, thân tướng muông thú, thân
tướng cỏ cây, đất đá, nước…; là các hành tinh trong toàn bộ
Vũ trụ.
Tướng giản đơn có bản chất Kết mạnh và siêu mạnh là:
- Thân tướng con người:
+ Những con người có thân bệnh. Thân bệnh là năng
lượng âm quá nhiều, dư thừa, khiến cho sóng điện âm dương
trong cơ thể không tuần hoàn. Khi đó, năng lượng hoại diệt
xâm nhập làm biến đổi cấu trúc tế bào và gây ra những bệnh
lý hiểm nghèo.
+ Những con người có trí tuệ bám định, u mê không tin
vào Quy luật Nhân quả, vào cội nguồn nhân loại, vào con
đường và sứ mệnh tu hành cải tạo Tuệ linh.
+ Những con người có trí tuệ bám định vào các giả
tướng mà không hành thiện cứu giúp con người, vạn vật và
muông thú.
+ Những con người có những hành động gây tổn hại
tới vạn vật, con người, muông thú để thỏa mãn cho bản thể
họ.
+ Những con người có đại hệ tư tưởng tiêu cực đi
ngược lại Quy luật Nhân quả.
+ Những con người sống và lan tỏa những đại hệ tư
tưởng: u mê, mê tín dị đoan, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tôn

157
giáo cực đoan, phân chia dân tộc, phân chia sắc tộc, chiến
tranh…
+ Những con người sống và thực hành, lan tỏa vi phạm
bốn hình tướng Đạo.
- Thân tướng muông thú. Đó là những con thú ăn thịt
đồng loại, những con thú ăn thịt các con thú khác, những con
thú không cứu giúp và bảo vệ đồng loại của chúng. Những
con thú không cứu giúp muông thú khác, không giúp đỡ con
người, không cứu giúp vạn vật.
- Những cỏ cây hút nước, hút dinh dưỡng để tồn tại và
phát triển.
- Những hang sâu trong lòng đất núi. Những vật chất
đá không sinh phát ra năng lượng tốt cho vạn vật. Những kim
loại, hóa chất, chất độc trong thiên nhiên, trong lòng đất.
- Nước trung hòa tất cả vạn vật.
- Những hành tinh có sóng âm mạnh như Trái đất, như
Mặt trăng và các hành tinh không phải là Mặt trời.
- Những cấu trúc tế bào, phân tử, nguyên tử đa sóng
điện âm.
- Những hạt năng lượng âm tận cùng màu xám, đen, đỏ
máu.
- Những hành tinh có lực hút mạnh.

5. Các loại Tướng (vật chất) Định của 3 nhóm


vật chất cấu tạo thành Vũ trụ
Định là đứng im, là bất động, là tĩnh lặng, là thanh tịnh,
là an lạc, là thanh lọc. Định có nghĩa là không Kết cũng không
Tỏa.

158
Hình: Cấu trúc Trụ linh trong Tướng Định

Định có bản chất là hạt năng lượng chân tâm, là cấu


trúc năng lượng cân bằng. Là chân tâm, là cấu trúc cân bằng
nên mới đứng im, nên mới bất động, nên mới tĩnh lặng, nên
mới thanh tịnh, nên mới an lạc, nên mới thanh lọc.
Trong bất cứ cấu trúc Tướng (vật chất) nào được hình
thành từ sự hợp nhất của phôi năng lượng âm dương đều có
Định. Bởi trong bản thể các hạt năng lượng dương tận cùng
có màng bọc chân tâm rất mạnh. Không những vậy, ở hạt
năng lượng âm cũng có màng bọc năng lượng chân tâm ở
mức nhẹ hoặc yếu.

159
Định tồn tại trong cả 3 nhóm vật chất. Đó là nhóm vật
chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp, nhóm siêu vật chất.
Không tính Định cho nhóm vật chất cội nguồn và vật chất
hoại diệt.
Định là bản chất mà bất cứ vật chất nào muốn phát
triển nâng cấp cấu trúc trí tuệ phải có. Bởi chỉ khi có Định thì
hết thảy vật chất trong Vũ trụ mới cân bằng, thanh lọc được
năng lượng sau khi Kết. Chỉ có Định mới giúp cho hết thảy
vật chất Tỏa được năng lượng tới vạn vật trong và ngoài Vũ
trụ.
Định có nhiều mức độ. Tức là Định có nhiều mức độ
cân bằng. Từ mức độ cân bằng ban đầu gọi là chân tâm ban
đầu cho tới các mức độ cân bằng ở mức độ cao hơn, lớn hơn.
Định là bản chất vô cùng cần thiết cho hành trình
chuyển sinh nâng cấp cấu trúc Trụ linh và bản thể vật chất.
Định luôn luôn hiện hữu trong từng tích tắc của thời gian,
của quá trình vận động của hết thảy các dạng vật chất. Định
sẽ được phát huy hết giá trị nếu nó được vận hành thành quy
trình tự động cho quá trình Kết và Tỏa. Tức là nó phải nằm
trong toàn bộ quy trình có Kết và có Tỏa. Nếu nó tách riêng
ra, nó sẽ không có được sức mạnh siêu việt.
Các Tướng Định từ cân bằng nhẹ cho tới siêu mạnh ở
trong 3 nhóm vật chất như sau:

5.1. Các Tướng Định trong nhóm siêu vật chất


Siêu vật chất hay còn gọi là siêu Tướng. Đó là dạng
sống Tuệ linh, dạng sống Tuệ linh và Linh hồn đã từng hoặc
đang an trụ trong thân tướng con người và năm nhóm hạt
năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp.

160
Siêu Tướng có bản chất Định là:
- Hạt năng lượng chân tâm tận cùng có sóng điện trung
tính.
- Tuệ linh mới được chuyển sinh từ phôi năng lượng
âm dương thành Tuệ linh em bé.
- Tuệ linh có cấu trúc năng lượng cân bằng âm dương
trong Trụ linh. Đó là tại Trụ linh, có hạt năng lượng âm gốc
có sóng điện âm nhẹ, và hạt năng lượng dương gốc có sóng
điện dương nhẹ. Đây là Định ở cảnh giới thấp.
- Tuệ linh có cấu trúc năng lượng đa dương trong Trụ
linh. Trụ linh đa dương sẽ giúp cho Tuệ linh có Định ở cảnh
giới cao và rất cao.
- Các Tuệ linh không thiện cũng không ác. Đó là Định ở
mức thấp.
- Các Tuệ linh luôn luôn làm những việc thiện vì vạn
vật và Tuệ linh, con người. Đó là các Tuệ linh đã đạt được các
thành tựu trên hành trình chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng, đó là những bậc cứu nhân độ thế, các bậc hiền
triết.
- Định ở cảnh giới tối thượng là Người Cha – Người
Thầy vĩ đại của Vũ trụ và Tuệ linh, con người. Đó là bộ lọc
năng lượng viên mãn.
- Các Tuệ linh, Linh hồn đang sống ở cảnh giới tu
dưỡng, cân bằng năng lượng ở cõi trời Địa phủ.
- Những con người đang sống. Họ không thiện cũng
không ác, đó là Định ở mức thấp. Những con người luôn vì
vạn vật, Tuệ linh, con người, đó là Định ở mức cao.

161
- Những con người thông qua bốn hình tướng Đạo mà
vẫn cân bằng, không vi phạm làm tổn hại bốn hình tướng
Đạo, từng bước lan tỏa giá trị tới mọi người, đó là Định.

5.2. Các Tướng Định trong nhóm vật chất phức


tạp
Vật chất phức tạp hay còn gọi là Tướng phức tạp. Đó là
dạng sống của linh hồn muông thú khi chúng chưa được
chuyển sinh làm người; là linh hồn, cấu trúc năng lượng an
trụ trong cây cối, trong đất đá; là cấu trúc năng lượng trong
năm nhóm đang tồn tại và vận hành sự sống của cả Vũ trụ.
Tướng phức tạp có bản chất Định là:
- Tầng năng lượng chân tâm có mã sóng trí tuệ phức
tạp. Đó là tầng năng lượng vận hành sự sống của cả Vũ trụ.
Nó giúp gắn kết giữa các tầng năng lượng tạo thành sự phát
triển mạnh mẽ và lớn mạnh cho Vũ trụ.
- Những tầng năng lượng tích cực mang sóng điện
dương có mã sóng trí tuệ phức tạp. Những tầng năng lượng
này có Định ở mức cao. Nó là màng bọc chân tâm bao bọc
những hạt năng lượng có sóng điện dương. Nó chính là quá
trình Định ở mức cao để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn
nữa.
- Những linh hồn các con thú lành hiền. Đó là những
con thú không giết hại các con thú khác. Những con thú
không ăn thịt thân tướng các con thú khác.
- Những linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong đất
đá, trong những cây có tính thanh lọc. Đó là cây cối, là những
loại đá bán quý, đá quý.

162
5.3. Các Tướng Định trong nhóm vật chất giản
đơn
Vật chất giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó là
năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ giản
đơn, là nguyên tử, phân tử, tế bào; đó là vật chất rắn, lỏng,
khí; là thân tướng con người, thân tướng muông thú, thân
tướng cỏ cây, đất đá, nước…; là các hành tinh trong toàn bộ
Vũ trụ.
Tướng giản đơn có bản chất Định là:
- Thân tướng con người:
+ Những con người có thân tướng mạnh khỏe, không
bệnh tật.
+ Những con người không thiện cũng không ác. Đó là
có tư tưởng cho đến hành động không thiện cũng không ác.
+ Những cháu bé với chân tâm ban đầu chưa thiện
cũng chưa ác.
+ Những con người cân bằng được cuộc sống trong
bốn hình tướng Đạo. Họ không vi phạm vào bốn hình tướng
Đạo. Họ từng bước thực hành lan tỏa giá trị đạo đức tới mọi
người và vạn vật, muông thú.
+ Những con người có Định ở mức cao cho tới rất cao
là họ sống như bản năng. Bản năng đó là luôn có tư tưởng
cho đến hành động không vì mình, luôn vì vạn vật, Tuệ linh,
con người.
+ Người có bộ lọc năng lượng là người có Định ở mức
độ cao nhất. Họ luôn cân bằng, luôn thanh lọc, luôn an lạc,
luôn chuyển hóa tuần hoàn một cách kỳ diệu.

163
- Thân tướng muông thú. Đó là những con thú không
ăn thịt, không giết hại con thú khác; đó là những con thú lành
hiền; đó là những con thú giúp đỡ những con thú khác;
những con thú biết giúp đỡ con người. Những con thú biết
giúp đỡ muông thú và con người là Định ở mức rất cao.
- Những cỏ cây cân bằng năng lượng. Định ở mức cao.
- Nước trung hòa tất cả vạn vật. Định ở mức rất cao.
- Những hành tinh quay xung quanh chính nó có mức
Định cao.
- Trong mỗi hành tinh đều có khu vực giao nhau giữa
tầng địa chất sóng điện dương và tầng địa chất sóng điện âm
là khu vực có mức Định rất cao. Đó là năng lượng chân tâm
gắn kết chỉnh thể hành tinh đó được bền chặt, được tồn tại
và vận động để phát triển.
- Các hạt năng lượng chân tâm. Các tế bào, phân tử,
nguyên tử có cấu trúc năng lượng cân bằng.

6. Các loại Tướng (vật chất) Tỏa của 3 nhóm vật


chất cấu tạo thành Vũ trụ
Tỏa là truyền đi, lan tỏa, đẩy đi, cho đi, cứu giúp, soi
sáng, dẫn đường, chỉ dẫn.
Tỏa có bản chất là hạt năng lượng dương. Bởi hạt năng
lượng dương mới truyền đi, mới lan tỏa, mới cho đi, mới cứu
giúp, mới soi sáng, mới dẫn đường, mới chỉ dẫn.
Tỏa ở mức nhẹ là soi sáng, chỉ dẫn, truyền tải, cho đi,
đẩy đi. Tỏa ở mức mạnh và siêu mạnh hy sinh vì vạn vật, Tuệ
linh, con người mà không màng tới bản thể mình.

164
Trong bất cứ cấu trúc Tướng (vật chất) nào được hình
thành từ sự hợp nhất của phôi năng lượng âm dương đều có
Tỏa. Bởi khi các vật chất được hình thành từ phôi năng lượng
âm dương thì đã có hạt năng lượng dương gốc (tận cùng) cấu
tạo thành. Mà bản chất của hạt năng lượng dương là Tỏa.
Điều này cho thấy, hết thảy vật chất (trừ các vật chất hạt
năng lượng âm tận cùng và trung tính tận cùng) đều có bản
chất là Tỏa. Có chăng mức độ Tỏa ở mức siêu nhẹ hay nhẹ,
mạnh hay siêu mạnh.
Tỏa tồn tại trong cả 3 nhóm vật chất. Đó là nhóm vật
chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp, nhóm siêu vật chất.
Không tính Tỏa cho nhóm vật chất cội nguồn và vật chất hoại
diệt.
Tỏa là bản chất mà bất cứ vật chất nào muốn phát
triển nâng cấp cấu trúc trí tuệ phải có. Bởi chỉ khi có Tỏa thì
hết thảy vật chất trong Vũ trụ mới phân tách các hạt năng
lượng dương có liên kết bền vững, để mở rộng cấu trúc hạt
năng lượng bên ngoài Trụ linh. Đó là cấu trúc 16 hạt năng
lượng tổng hợp được mở rộng và bền vững.
Tỏa càng ở mức độ mạnh và siêu mạnh sẽ giúp sự phát
triển của bản thể cấu trúc vật chất ngày càng lớn mạnh. Bởi,
để Tỏa được cần phải trải qua quá trình Kết và Định. Do đó,
Tỏa là hoàn chỉnh của một quy trình Kết – Định – Tỏa một
cách tuần hoàn và viên mãn.

165
Hình: Cấu trúc Tướng Tỏa
Cấu trúc Tỏa của tất cả vật chất sẽ giúp cho các vật
chất liên kết với nhau bền chặt bởi năng lượng chân tâm.
Càng tỏa nhiều sẽ càng liên kết chặt chẽ. Khi đó, những hạt
năng lượng dương được phân tách ra rất nhiều, điều này sẽ
khiến cho các hạt năng lượng âm bị giảm sóng điện, không

166
còn rung lắc mạnh. Bên cạnh mỗi hạt năng lượng dương có
sóng điện mạnh chỉ có một hạt năng lượng âm có sóng điện
âm nhẹ. Lan tỏa mạnh sẽ giúp cho cấu trúc Trụ linh kích nổ
được năng lượng hoại diệt, không bị năng lượng hoại diệt
gây phân rã hoặc đồng hóa.
Cấu trúc của Tướng mà chuyển sinh theo hướng Tỏa
sẽ nhanh chóng đạt được chuyển hóa thành bộ lọc năng
lượng. Đó là Kết – Định – Tỏa một cách kỳ diệu.
Các Tướng Tỏa ở mức mạnh và siêu mạnh trong 3
nhóm vật chất như sau:

6.1. Các Tướng Tỏa trong nhóm siêu vật chất


Siêu vật chất hay còn gọi là siêu Tướng. Đó là dạng
sống Tuệ linh; dạng sống Tuệ linh và Linh hồn đã từng hoặc
đang an trụ trong thân tướng con người; năm nhóm hạt năng
lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp.
Siêu Tướng có bản chất Tỏa mạnh và siêu mạnh là:
- Những hạt năng lượng dương màu xanh lá, màu đỏ
lửa, màu vàng, vàng óng ánh.
- Tuệ linh có Trụ linh đa dương từ mạnh tới siêu mạnh.
- Tuệ linh đang trên con đường chuyển hóa để đạt
được bộ lọc. Đó là những Tuệ linh đã đạt được nhiều thành
tựu trong việc cứu nhân độ thế, tạo ra được những triết lý
sống đạo đức ở nhân gian.
- Tuệ linh đã đắc được bộ lọc năng lượng có khả năng
Tỏa ra vô lượng các siêu hạt năng lượng.
- Tuệ linh đang an trụ trong con người có tư tưởng cho
đến hành động tích cực luôn vì vạn vật, Tuệ linh, con người,

167
là người không vi phạm vào bốn hình tướng Đạo. Họ là
những con người luôn có tư tưởng cho đến hành động lan
tỏa những giá trị đạo đức, tuân thủ Quy luật Nhân quả, thực
hành cải tạo đời sống viên mãn tới vạn vật, Tuệ linh, con
người. Những người đạt đến siêu Tỏa mạnh nhất chính là
những con người luôn luôn Phổ độ chúng sinh, Tuệ linh, con
người. vì họ lan tỏa đại hệ tư tưởng giác ngộ tới hết thảy Tuệ
linh, con người cùng nhau chuyển sinh bền vững nhất cho
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Những siêu Tướng Tỏa ở mức mạnh và siêu mạnh sẽ
giúp cho Trụ linh của họ phân tách ra vô số những siêu hạt
năng lượng. Từ những siêu hạt năng lượng đó sẽ cấu tạo và
phát triển Tuệ linh họ trở thành liên kết được chặt chẽ, bền
vững với tất cả Vũ trụ, Tuệ linh, con người. Tuệ linh họ trở
nên bất tử. Tuệ linh họ có cấu trúc bộ lọc năng lượng viên
mãn bởi họ đi theo hướng chuyển sinh là Tỏa những giá trị
giác ngộ tới tất cả Tuệ linh, con người. Họ sẽ hấp thụ và
chuyển hóa được năng lượng hoại diệt thành siêu hạt năng
lượng thông qua bộ lọc trong Trụ linh của họ.

6.2. Các Tướng Tỏa trong nhóm vật chất phức


tạp
Vật chất phức tạp hay còn gọi là Tướng phức tạp. Đó là
dạng sống của linh hồn muông thú khi chúng chưa được
chuyển sinh làm người; là linh hồn, cấu trúc năng lượng an
trụ trong cây cối, trong đất đá; là cấu trúc năng lượng trong
năm nhóm đang tồn tại và vận hành sự sống của cả Vũ trụ.
Tướng phức tạp có bản chất Tỏa mạnh và siêu mạnh
là:

168
- Những tầng năng lượng tích cực có sóng điện dương
màu xanh lá, màu đỏ lửa, màu vàng. Đó là những tầng năng
lượng sóng điện dương vận hành Vũ trụ.
- Những linh hồn các con thú xả thân cứu giúp con
người, xả thân cứu giúp những con thú đồng loại hoặc những
con thú khác.
- Những linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong đá.
Đó là những dòng đá luôn tỏa những năng lượng mang lại sự
sống trong lành và an lạc cho con người, muông thú, cỏ cây
xung quanh đó.
- Những linh hồn của cây cối luôn tỏa năng lượng sự
sống ra môi trường xung quanh.
Bản chất của những cấu trúc Tướng Tỏa mạnh sẽ giúp
cho các cấu trúc năng lượng đó nhanh được chuyển sinh bền
vững và nâng cấp cao hơn.

6.3. Các Tướng Tỏa trong nhóm vật chất giản


đơn
Vật chất giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó là
năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ giản
đơn, là nguyên tử, phân tử, tế bào; đó là vật chất rắn, lỏng,
khí; là thân tướng con người, thân tướng muông thú, thân
tướng cỏ cây, đất đá, nước…; là các hành tinh trong toàn bộ
Vũ trụ.
Tướng giản đơn có bản chất Tỏa mạnh và siêu mạnh
là:
- Thân tướng con người:

169
+ Những con người không có bệnh về thân tướng. Họ
khỏe mạnh vì sự vận động lan tỏa.
+ Những người luôn miệt mài lao động sản xuất, không
ngừng nghỉ nghiên cứu các công trình, các phương pháp, các
cấu trúc phát triển sự sống tốt đẹp và bền vững tới vạn vật
và Tuệ linh, con người. Họ là những công nhân, những nông
dân, những thương nhân, những nhà nghiên cứu, những nhà
sản xuất, những nhà sáng chế, những nhà phát minh.
+ Những người luôn luôn lan tỏa các giá trị thúc đẩy
phát triển bền vững và an lạc cho con người và vạn vật. Họ là
những nhà giáo, là những người lan truyền tri thức tới Tuệ
linh, con người.
+ Những người luôn luôn đoàn kết tất cả Tuệ linh, con
người, vạn vật, muông thú trong sự cảm thông, sẻ chia, giúp
đỡ cùng nhau lan tỏa những giá trị, công trình phát triển bền
vững tới Tuệ linh, con người.
+ Những người có hệ tư tưởng cho đến hành động luôn
vì lợi ích mọi người, vạn vật và muông thú mà không màng
tới bản thân họ.
+ Những người hành thiện cứu giúp Tuệ linh, con
người, vạn vật và muông thú.
+ Những người thực hành phổ độ lan tỏa giá trị của
giáo lý giác ngộ tới hết thảy Tuệ linh, con người.
- Thân tướng muông thú. Đó là những con thú không
giết hại hay làm tổn hại những con thú khác. Nó xả thân cứu
giúp các con thú khác, nó bảo vệ và cứu giúp đồng loại của nó
trong sự không gây tổn hại tới con người và muông thú khác.
- Những cỏ cây luôn tỏa oxy làm trong lành và an lạc
môi trường sống xung quanh.

170
- Nước lan tỏa giá trị làm mát và nuôi dưỡng vạn vật
thế gian. Nó bốc hơi để tạo thành mưa rồi tưới mát cho vạn
vật cùng phát triển. Nó là sự sống luôn cho đi để ngày càng
lớn mạnh. Sự lớn mạnh bởi nó có trong tất cả vạn vật thế
gian.
- Những loại đá quý, bán quý có giá trị tỏa ra những
năng lượng tốt nhằm tạo ra môi trường sống trong lành và
an lạc.
- Lửa, ánh sáng để soi sáng và làm ấm các dạng sống ở
thế gian.
- Những hành tinh có tính tỏa mạnh là các mặt trời
trong Vũ trụ.
- Là những cấu trúc địa chất nóng chảy, là nham thạch
trong các hành tinh. Nhiệt lượng được tỏa ra để soi sáng, tạo
ra sự phân tách liên kết cho vạn vật, Vũ trụ được phát triển.
- Là những hạt năng lượng dương màu xanh lá, đỏ lửa,
vàng. Là nguyên tử, phân tử, tế bào đa sóng điện dương.

III. Chân lý Vạn vật với các con đường chuyển


sinh của Tướng
Chân lý Vạn vật trong Tướng sẽ là: Tướng không tự
sinh ra, Tướng không tự mất đi, khổ đau của Tướng không tự
đến và không tự đi, tất cả do duyên nghiệp hay còn gọi là nhân
quả. Cơ chế chuyển sinh của Tướng chính là cơ chế “Phân tách
và liên kết dây”.
Chân lý Vạn vật chính là Quy luật Nhân quả, chính là
chữ Vô. Vô là tướng không. Tướng không là không bất tử,
không vĩnh cửu, không trường tồn. Nó chỉ tồn tại trong
khoảng thời gian nhất định rồi lại chuyển hóa sang tướng
171
khác do duyên. Do đó, Chân lý Vạn vật, Quy luật Nhân quả
được đúc kết thành chữ Duyên. Duyên chính là tướng không.
Thấu hiểu chữ Duyên thì ta sẽ thấu hiểu được quá khứ, hiện
tại và tương lai.
Để thấu hiểu được quá khứ thì ta phải truy tìm Duyên
trong Duyên. Muốn tìm được Duyên trong Duyên tức là ta
phải thấu hiểu bản chất, cấu tạo, cơ chế phân tách liên kết
của Duyên hiện tại. Tiếp đến ta lại tìm hiểu những duyên nào
liên kết thành duyên đó. Cứ tiếp tục, liên tục như vậy sẽ giúp
ta truy tìm được tận cùng của quá khứ. Để truy tìm được
Duyên trong Duyên cần phải thông qua cơ chế phân tách liên
kết hạt năng lượng và môi trường có điều kiện.
Để thấu hiểu được tương lai thì ta phải truy tìm Duyên
ngoại Duyên. Muốn thấu hiểu, biết được Duyên nào sẽ hình
thành trong tương lai thì ta phải thấu hiểu bản chất và sự
hợp của các Duyên hiện tại. Đó là thông qua cơ chế phân tách
liên kết hạt năng lượng và môi trường có điều kiện hiện tại
sẽ cho ta thấy được kết quả trong tương lai.
Vận hành Chân lý Vạn vật của Tướng chính là cơ chế
phân tách và liên kết hạt năng lượng. Cơ chế phân tách và
liên kết sẽ được xảy ra trong môi trường có điều kiện. Đó là
môi trường có tương tác giữa các chỉnh thể, trong một quy
trình thời gian nhất định, môi trường có sóng điện âm hoặc
dương hoặc trung tính, có nhiệt lượng của năng lượng hoại
diệt được kích nổ hoặc chưa kích nổ. Tất cả các nhóm vật
chất từ giản đơn cho tới phức tạp và siêu vật chất để xảy ra
phân tách và liên kết thì đều phải tồn tại trong môi trường có
điều kiện.
Con người tồn tại, hiện hữu ở kiếp người này cần phải
trả lời được 3 câu hỏi: 1- Ta là ai? Hoặc: Ai là ta? Trả lời được
172
câu hỏi này sẽ giúp ta thấu hiểu quá khứ trong vô lượng kiếp,
ta đến từ đâu, thành tựu đã đạt được là những gì, thiệt hại đã
gây ra là những gì. 2- Sứ mệnh của ta ở kiếp này là gì? Khi
thấu hiểu được ta là ai, các kiếp tu hành trong quá khứ và
thành tựu hay thiệt hại đã có thì ta sẽ biết sứ mệnh của ta tại
kiếp này, đó là hiện tại. 3- Chết xong ta đi về đâu? Làm được
sứ mệnh hay không làm được sứ mệnh thì ta đã trả lời được
tương lai của ta sẽ phải luân hồi đảo kiếp hay đọa thành súc
sinh, ngã quỷ, địa ngục hay được trở về quê hương. Ta không
những phải trả lời được và làm tốt nhiệm vụ ở 3 câu hỏi trên
cho ta, mà còn phải trả lời được 3 câu hỏi đó cho tất cả các
nhóm vật chất: Vạn vật là gì? Sứ mệnh của vạn vật? Chết xong
vạn vật đi về đâu? Để trả lời được 3 câu hỏi trên chúng ta
phải thấu hiểu cơ chế vận hành của Chân lý Vạn vật và Chân
lý Giác ngộ. Đó là cơ chế phân tách và liên kết hạt năng
lượng. Để thấu hiểu cơ chế vận hành của hai Chân lý thì
chúng ta phải thấu hiểu cơ chế quay tròn, tam hợp, thông tin,
hạt năng lượng tận cùng.
Khi chúng ta thấu hiểu hai Chân lý và các cơ chế vận
hành của hai Chân lý, chúng ta sẽ thấu hiểu và giải mã được
vạn vật (Tướng) được sinh ra như thế nào, vạn vật mất đi do
nguyên nhân nào, khổ đau của vạn vật như thế nào, vạn vật
hết khổ đau khi nào, các con đường chuyển sinh của vạn vật.
Thấu hiểu và giải mã được vạn vật, chúng ta sẽ trả lời được 3
câu hỏi cho chính con người và vạn vật. Từ đó, con người và
vạn vật sẽ lựa chọn được con đường chuyển sinh bền vững.

1. Tướng không tự sinh ra


Tướng bao gồm có 5 nhóm vật chất trong và ngoài Vũ
trụ. Bên ngoài tinh cầu Vũ trụ có 2 nhóm vật chất. Bên trong
173
và bao trùm toàn bộ Vũ trụ có 3 nhóm vật chất. Con người là
dạng sống hóa thân của Tuệ linh, do đó chúng ta phải thấu
hiểu được con người và Tuệ linh được sinh ra như thế nào.
Để thấu hiểu và giải mã được Tướng (5 nhóm vật chất)
sinh ra như thế nào, chúng ta phải thấu hiểu “Duyên trong
Duyên" của Chân lý Vạn vật. Để thấu hiểu Duyên trong Duyên
của Chân lý Vạn vật thì phải thông qua bản chất, cấu tạo, cơ
chế phân tách và liên kết hạt năng lượng trong môi trường có
điều kiện. Như vậy, thông qua bản chất, cấu tạo, cơ chế phân
tách và liên kết, chúng ta sẽ thấu hiểu Tướng được sinh ra
như thế nào. Thấu hiểu Tướng được sinh ra như thế nào
chính là chúng ta thấu hiểu bản chất của Tướng ở hiện tại và
thấu hiểu tận cùng quá khứ của Tướng. Điều này cũng có
nghĩa là chúng ta sẽ trả lời được 2 câu hỏi cho chúng ta và tất
cả vạn vật: 1- Ta là ai? Và 2- Sứ mệnh của ta là gì?
Tất cả 5 nhóm vật chất được sinh ra đều do cơ chế
“Phân tách và liên kết". Tuy nhiên, tùy từng nhóm vật chất
mà có thêm các cơ chế, bản chất khác cho quá trình sinh ra
Tướng.
Năm nhóm vật chất được sinh ra như sau:

1.1. Nhóm vật chất cội nguồn


Nhóm vật chất cội nguồn là nhóm hạt sóng xanh. Đây
là nhóm vật chất tồn tại bên ngoài không gian tinh cầu Vũ
trụ.
Bản chất của hạt sóng xanh chỉ là hạt sóng chưa sinh
phát ra trạng thái năng lượng. Tuy nhiên hạt sóng xanh chứa
đựng lượng nhiệt vô cùng lớn.

174
Cấu tạo của hạt sóng xanh không phải là tam hợp yếu
tố tạo thành. Hạt sóng xanh chỉ là một yếu tố cấu tạo thành.
Hạt sóng xanh di chuyển thẳng và theo quỹ đạo hình
xoắn ốc. Khi di chuyển sẽ phân tách thành hai cho tới nhiều
hơn hạt sóng xanh khác.
Hạt sóng xanh được sinh ra từ những điểm kỳ dị trong
không gian. Những điểm đó giống như những cái hang vô
hình sinh ra các hạt sóng xanh.
Hạt sóng xanh di chuyển và chuyển sinh thành những
hạt hoại diệt trong môi trường trung tính. Sau đó những hạt
sóng xanh di chuyển và chuyển sinh thành hạt năng lượng
âm và dương trong môi trường có sóng điện âm, dương. Từ
hai hạt năng lượng âm dương liên kết lại mà tạo thành phôi
năng lượng, tinh cầu năng lượng khổng lồ để rồi có vụ nổ lớn
và kiến tạo thành Vũ trụ như ngày nay.
Như vậy, hạt sóng xanh (vật chất cội nguồn) được sinh
ra từ những điểm kỳ dị, được hình thành và chuyển sinh
thông qua cơ chế phân tách, di chuyển không quay tròn,
thông qua môi trường trung tính để chuyển sinh thành năng
lượng hoại diệt, thông qua môi trường sóng điện âm dương
để chuyển sinh thành hạt năng lượng âm, dương. Do đó, hạt
sóng xanh là Duyên (Tướng) hiện tại; Duyên trong Duyên là
những yếu tố quá khứ cấu tạo, phân tách liên kết tạo ra hạt
sóng xanh hiện tại; quá khứ chính là những điểm kỳ dị sinh
ra với môi trường trung tính cấu tạo thành hạt sóng xanh
hiện tại.
Từ những bản chất, cơ chế, cội nguồn, sự chuyển sinh
của hạt sóng xanh, chúng ta đã trả lời được 2 câu hỏi cho
nhóm vật chất này. Đó là:

175
- Hạt sóng xanh là gì? – Nó là vật chất cội nguồn. Nó là
chỉnh thể một yếu tố chưa sinh phát ra trạng thái năng
lượng.
- Sứ mệnh của hạt sóng xanh? – Sứ mệnh là chuyển
sinh ra nhóm vật chất hoại diệt và 3 dạng vật chất trong Vũ
trụ. Như vậy, sứ mệnh của nó là sinh ra Vũ trụ và nguồn vật
chất (vật chất hoại diệt) để duy trì sự tồn tại và phát triển Vũ
trụ.

1.2. Nhóm vật chất hoại diệt


Nhóm vật chất hoại diệt là nhóm năng lượng hoại diệt.
Nhóm vật chất hoại diệt xuất hiện trước cả sự xuất hiện của
Vũ trụ. Hiện tại nó tồn tại cả trong và ngoài Vũ trụ.
Bản chất của hạt năng lượng hoại diệt là hạt sóng xanh
chuyển sinh thành hạt năng lượng chưa giải phóng hết nhiệt
lượng ra ngoài. Do đó, hạt năng lượng hoại diệt còn một
lượng lớn nhiệt lượng chưa sinh phát ra ngoài. Hạt năng
lượng hoại diệt được chuyển sinh, hình thành trong môi
trường trung tính nên không có cơ chế liên kết với nhau để
truyền tải sóng điện. Vì vậy, hạt năng lượng hoại diệt dễ bị
sinh nhiệt dư thừa trong hạt và dễ bị kích nổ khi bị năng
lượng dương tác động. Năng lượng hoại diệt sẽ giảm tải sóng
điện và an toàn khi xả được sóng điện dư thừa trong hạt sang
hạt năng lượng âm. Khi xả sóng điện sang hạt năng lượng âm
sẽ khiến cho những hạt năng lượng âm chuyển hóa thành hạt
năng lượng hoại diệt. Khi hạt năng lượng hoại diệt bị kích nổ
sẽ cung cấp nhiệt lượng lớn cho các vật chất trong Vũ trụ xảy
ra quá trình phân tách liên kết bền vững.

176
Hạt năng lượng hoại diệt được cấu tạo hợp thành từ 3
yếu tố: sợi mã sóng trí tuệ được chuyển sinh từ hạt sóng
xanh, hình tướng hạt (hình elip), trạng thái năng lượng được
sinh phát trong hạt.
Hạt năng lượng hoại diệt di chuyển thẳng, nó không
quay tròn xung quanh chính nó, lại không liên kết để truyền
tải sóng điện dư thừa. Chính vì điều này làm cho hạt năng
lượng hoại diệt bị sinh nhiệt dư thừa nhanh và dễ bị kích nổ.
Hạt năng lượng hoại diệt được hình thành từ quá trình
chuyển sinh của hạt sóng xanh trong môi trường trung tính.
Do đó, cội nguồn của năng lượng hoại diệt là hạt sóng xanh
và môi trường trung tính.
Hạt năng lượng hoại diệt chỉ tồn tại cơ chế phân tách
và xả sóng điện dư thừa. Tức là năng lượng hoại diệt không
có cơ chế liên kết.
Như vậy, thông qua cội nguồn, bản chất, cấu tạo, cơ chế
tồn tại của năng lượng hoại diệt, chúng ta sẽ trả lời được
những câu hỏi cho năng lượng hoại diệt. Cụ thể:
- Duyên trong Duyên của năng lượng hoại diệt:
+ Hạt năng lượng hoại diệt là Tướng được hình thành
trước Vũ trụ. Năng lượng hoại diệt là hạt năng lượng được
cấu tạo thành từ tam hợp yếu tố.
+ Duyên trong Duyên là các yếu tố quá khứ cấu tạo
thành hạt năng lượng hoại diệt. Các yếu tố quá khứ cấu tạo
thành hạt năng lượng hoại diệt là hạt sóng xanh và môi
trường trung tính.
+ Cơ chế để tạo thành Duyên trong Duyên của hạt năng
lượng hoại diệt là cơ chế phân tách trong môi trường trung
tính.

177
- Hạt năng lượng hoại diệt là gì? – Hạt năng lượng hoại
diệt là nhóm Tướng hoại diệt. Thông qua bản chất biểu hiện
và cơ chế vận hành của hạt năng lượng hoại diệt, chúng ta
thấy rằng năng lượng hoại diệt là vật chất làm phân rã các
cấu trúc vật chất có đa sóng âm.
- Sứ mệnh của năng lượng hoại diệt? – Hạt năng lượng
hoại diệt có sứ mệnh cung cấp nhiệt lượng và dinh dưỡng
cho các nhóm vật chất trong Vũ trụ chuyển sinh bền vững. Để
kích hoạt được sứ mệnh của năng lượng hoại diệt, dạng sống
Tuệ linh (siêu vật chất) cần phải vận hành nhóm vật chất
giản đơn và phức tạp kích nổ được năng lượng hoại diệt.

1.3. Nhóm siêu vật chất


Nhóm siêu vật chất gồm có: năm nhóm hạt năng lượng
tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính có mã sóng
trí tuệ siêu phức tạp; Tuệ linh và linh hồn muông thú đã
được an trụ trong thân tướng con người; những siêu hạt
năng lượng.
Cội nguồn của nhóm siêu vật chất là đều được hình
thành sau vụ nổ lớn cấu tạo thành Vũ trụ. Đó là từ hai hạt
sóng xanh chuyển sinh thành hai hạt âm dương trong môi
trường sóng điện âm và dương. Hai hạt năng lượng liên kết
lại tạo thành phôi năng lượng. Từ phôi năng lượng chuyển
sinh thành Trụ linh và tinh cầu năng lượng khổng lồ bởi cơ
chế phân tách và liên kết dây. Khi đó, tinh cầu năng lượng
khổng lồ phát nổ và bắt đầu cho quá trình chuyển sinh từ
năm nhóm hạt siêu phức tạp thành các Tuệ linh. Từ Tuệ linh
tu luyện Trụ linh để sản sinh ra các siêu hạt năng lượng.

178
Bản chất của nhóm siêu vật chất được coi là trí tuệ của
Vũ trụ. Nhóm siêu vật chất sẽ vận hành và thúc đẩy cả Vũ trụ
phát triển bền vững.
Cấu tạo của nhóm siêu vật chất là tam hợp yếu tố mà
hình thành. Năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng
trí tuệ siêu phức tạp đều được hình thành từ sợi mã sóng trí
tuệ, hình tướng của hạt, trạng thái năng lượng trong hạt. Tuệ
linh được cấu tạo từ 3 yếu tố, đó là Trụ – Trí (tổng mã sóng
trí tuệ), Trụ – Tâm (trạng thái năng lượng), hình tướng Tuệ
linh. Các siêu hạt năng lượng cũng được hình thành từ 3 yếu
tố là siêu sợi mã sóng trí tuệ, hình tướng của hạt siêu năng
lượng, siêu trạng thái năng lượng.
Nhóm siêu vật chất có cơ chế vận động là quay tròn.
Năm nhóm hạt năng lượng tận cùng quay tròn xung quanh
chính nó theo đặc tính sóng điện, hạt năng lượng âm quay
ngược chiều kim đồng hồ, hạt năng lượng dương quay thuận
chiều kim đồng hồ, hạt trung tính quay thuận hay ngược tùy
theo việc nó liên kết với hạt năng lượng nào. Tuệ linh sẽ có
sự tuần hoàn sóng điện âm, dương, trung tính trong bản thể
của họ. Siêu hạt năng lượng cũng quay tròn xung quanh
chính siêu hạt, siêu hạt vàng óng ánh quay thuận, siêu hạt
xanh lưu ly quay ngược, siêu hạt chân tâm liên kết và quay
tròn theo siêu hạt vàng óng ánh.
Nhóm siêu vật chất được hình thành và chuyển sinh
bởi cơ chế phân tách và liên kết hạt năng lượng. Cụ thể nhóm
vật chất này được phân tách ra từ phôi năng lượng âm
dương gốc của tinh cầu Vũ trụ. Khi có năm nhóm năng lượng
với mã sóng siêu phức tạp, lại được dưỡng trong môi trường
có nhiệt lượng sóng điện đảm bảo, các hạt năng lượng siêu
phức tạp này liên kết với nhau để tạo thành phôi âm dương.

179
Tiếp tục quá trình phân tách và liên kết liên tục đã tạo thành
Trụ linh và Tuệ linh. Từ Tuệ linh, cũng thông qua cơ chế
phân tách liên kết mà cải tạo Trụ linh thành bộ lọc để sản
sinh (phân tách) ra các siêu hạt năng lượng.
Như vậy, thông qua cội nguồn, bản chất, cấu tạo, cơ chế
quay tròn, cơ chế hình thành và chuyển sinh của nhóm siêu
vật chất, chúng ta sẽ trả lời được những câu hỏi cho nhóm
siêu vật chất. Cụ thể:
- Duyên trong Duyên của nhóm siêu vật chất:
+ Duyên (Tướng) hiện tại của nhóm siêu vật chất chính
là bản chất đang bộc phát: nhóm siêu vật chất là nhóm vật
chất tinh hoa nhất trong và ngoài Vũ trụ; nhóm siêu vật chất
có sự tuần hoàn sóng điện âm, dương, trung tính bởi cơ chế
liên kết dây; nhóm siêu vật chất có khả năng di chuyển và cải
tạo Vũ trụ.
+ Duyên trong Duyên của nhóm siêu vật chất là các yếu
tố cấu tạo, chuyển sinh thành. Đó là tìm hiểu quá khứ của
nhóm siêu vật chất. Đó là: các siêu hạt năng lượng có 3 yếu tố
cấu tạo thành và được phân tách từ Trụ linh của Tuệ linh;
Tuệ linh được cấu tạo từ 3 yếu tố và được chuyển sinh từ
phôi năng lượng âm dương có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp
thông qua cơ chế phân tách và liên kết; phôi năng lượng âm
dương được liên kết từ những hạt năng lượng âm dương tận
cùng bởi phôi âm dương gốc của Vũ trụ phân tách ra.
- Nhóm siêu vật chất là gì? – Là dạng sống siêu việt
nhất của trong và ngoài Vũ trụ. Bởi họ là dạng năng lượng
siêu phức tạp.
- Sứ mệnh của nhóm siêu vật chất? – Sứ mệnh là duy
trì tự tồn tại, phát triển bền vững của tất cả các nhóm vật

180
chất trong và ngoài Vũ trụ. Dạng sống Tuệ linh là dạng sống
thực hiện sứ mệnh đó.

1.4. Nhóm vật chất phức tạp


Nhóm vật chất phức tạp gồm có năm nhóm hạt năng
lượng tận cùng mang mã sóng trí tuệ phức tạp và những cấu
trúc năng lượng linh hồn an trụ trong cỏ cây, đất đá, muông
thú.
Cội nguồn của nhóm vật chất phức tạp là đều được
hình thành sau vụ nổ lớn cấu tạo thành Vũ trụ. Đó là từ hai
hạt sóng xanh chuyển sinh thành hai hạt âm dương trong
môi trường sóng điện âm và dương. Hai hạt năng lượng liên
kết lại tạo thành phôi năng lượng. Từ phôi năng lượng
chuyển sinh thành Trụ linh và tinh cầu năng lượng khổng lồ
bởi cơ chế phân tách và liên kết dây. Khi đó, tinh cầu năng
lượng khổng lồ phát nổ và bắt đầu cho quá trình chuyển sinh
từ năm nhóm hạt năng lượng phức tạp thành các trường
năng lượng, thành linh hồn cỏ cây, linh hồn đất đá, linh hồn
muông thú.
Bản chất của nhóm vật chất phức tạp là được nhóm
siêu vật chất vận hành để an trụ trong nhóm vật chất giản
đơn, để vận hành nhóm vật chất giản đơn. Sự vận hành này
giúp cho cả 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ nương tựa nhau để
xảy ra các cơ chế và quá trình phân tách liên kết mang tính
phát triển bền vững.
Cấu tạo của nhóm vật chất phức tạp đều được hình
thành từ 3 yếu tố, gọi là tam hợp. Năm nhóm hạt năng lượng
tận cùng gồm có sợi mã sóng trí tuệ, hình tướng hạt năng
lượng, trạng thái năng lượng sinh phát. Linh hồn của cỏ cây,

181
đất đá, muông thú gồm có Trụ – Trí, Trụ – Tâm, hình tướng
linh hồn.
Nhóm vật chất phức tạp có cơ chế quay tròn và tuần
hoàn sóng điện giống như cấu trúc của siêu vật chất. Đó là
các hạt năng lượng tận cùng quay tròn xung quanh chính nó
theo đặc tính sóng điện âm, dương. Sóng điện âm, dương sẽ
tuần hoàn trong cấu trúc linh hồn.
Nhóm vật chất phức tạp có cơ chế phân tách, liên kết
để hình thành và chuyển sinh nâng cấp cấu trúc cũng giống
như nhóm siêu vật chất. Đó là thông qua môi trường có sóng
điện âm, dương, trung tính sẽ xảy ra quá trình phân tách và
liên kết.
Như vậy, thông qua cội nguồn, bản chất, cấu tạo, cơ chế
quay tròn, cơ chế hình thành và chuyển sinh của nhóm vật
chất phức tạp, chúng ta sẽ trả lời được những câu hỏi cho
nhóm vật chất phức tạp. Cụ thể:
- Duyên trong Duyên của nhóm vật chất phức tạp:
+ Duyên (Tướng) hiện tại là những trường năng lượng
âm dương khác nhau để vận hành Vũ trụ quay tròn; là các
cấu trúc năng lượng an trụ trong đất đá, cỏ cây ở khắp các
hành tinh để thúc đẩy quá trình phân tách của vật chất giản
đơn.
+ Duyên trong Duyên là những cấu trúc quá khứ cấu
tạo thành Duyên hiện tại. Đó là thông qua cơ chế phân tách,
liên kết hạt năng lượng trong môi trường sóng điện âm hoặc
dương mà tạo thành trường năng lượng vận hành Vũ trụ, và
tạo thành các cấu trúc linh hồn. Đó là từ các hạt năng lượng
âm dương tận cùng mà liên kết và phân tách để cấu tạo
thành.

182
- Nhóm vật chất phức tạp là gì? – Là nhóm năng lượng
vận hành Vũ trụ (các khối thiên hà) quay tròn; là các cấu trúc
linh hồn an trụ trong vật chất giản đơn để giúp vật chất giản
đơn xảy ra quá trình phân tách liên kết.
- Sứ mệnh của nhóm vật chất phức tạp? – Là nhóm vật
chất (năng lượng) duy trì và phát triển sự sống của nhóm vật
chất giản đơn (tinh cầu Vũ trụ với vô số các khối thiên hà).

1.5. Nhóm vật chất giản đơn


Nhóm vật chất giản đơn gồm có các khối thiên hà, các
hành tinh, trái đất, cỏ, cây, đất, đá, kim loại, nước, khí, phân
tử, nguyên tử, tế bào, muông thú, con người… Trong đó, đặc
biệt nhất là con người và muông thú. Con người và muông
thú không đơn thuần là nhóm vật chất giản đơn. Con người
được coi là siêu phức tạp, tiếp đến là muông thú.
Cội nguồn của nhóm vật chất giản đơn là đều được
hình thành sau vụ nổ lớn cấu tạo thành Vũ trụ. Đó là từ hai
hạt sóng xanh chuyển sinh thành hai hạt âm dương trong
môi trường sóng điện âm và dương. Hai hạt năng lượng liên
kết lại tạo thành phôi năng lượng. Từ phôi năng lượng
chuyển sinh thành Trụ linh và tinh cầu năng lượng khổng lồ
bởi cơ chế phân tách và liên kết dây. Khi đó, tinh cầu năng
lượng khổng lồ phát nổ và bắt đầu cho quá trình chuyển sinh
từ năm nhóm hạt năng lượng giản đơn thành các cấu trúc vật
chất giản đơn.
Bản chất của nhóm vật chất giản đơn là được nhóm vật
chất phức tạp an trụ bên trong để xảy ra quá trình phân tách
liên kết. Đặc biệt con người được Tuệ linh an trụ để tu tập và

183
sản sinh ra các siêu hạt năng lượng phục vụ cho việc phát
triển Vũ trụ bền vững.
Cấu tạo của nhóm vật chất giản đơn đều được hình
thành từ 3 yếu tố, gọi là tam hợp. Có mã sóng trí tuệ, hình
tướng và trạng thái năng lượng trong mỗi cấu trúc vật chất
giản đơn từ hạt năng lượng tận cùng cho tới cả Vũ trụ.
Nhóm vật chất giản đơn có cơ chế quay tròn để tuần
hoàn sóng điện trong bản thể cấu trúc vật chất giản đơn. Việc
quay tròn sẽ sinh nhiệt ấm để cấu trúc giản đơn xảy ra quá
trình phân tách và liên kết hạt năng lượng.
Nhóm vật chất giản đơn có cơ chế phân tách, liên kết
dây. Cơ chế này giúp cho nhóm vật chất giản đơn được vận
động và không ngừng nghỉ phát triển. Thông qua cơ chế này
sẽ giúp cho nhóm vật chất phức tạp an trụ bên trong được
chuyển sinh nâng cấp. Cũng thông qua cơ chế này sẽ giúp cho
Tuệ linh an trụ trong con người để chuyển sinh nâng cấp.
Như vậy, thông qua cội nguồn, bản chất, cấu tạo, cơ chế
quay tròn, cơ chế hình thành và chuyển sinh của nhóm vật
chất giản đơn, chúng ta sẽ trả lời được những câu hỏi cho
nhóm vật chất giản đơn. Cụ thể:
- Duyên trong Duyên của nhóm vật chất giản đơn:
+ Những cấu trúc vật chất giản đơn hiện tại là hạt năng
lượng tận cùng, Trụ linh, nguyên tử, phân tử, tế bào, kim loại,
khí, nước, cỏ cây, đất đá, hành tinh, thiên hà, Vũ trụ. Duyên
trong Duyên là các cấu trúc, yếu tố cấu tạo thành vật chất
hiện tại. Đó là do tam hợp, do có nhóm siêu vật chất vận
hành, do có nhóm vật chất phức tạp an trụ. Những yếu tố cấu
tạo và vận hành nhóm vật chất giản đơn là để tất cả cùng
nương tựa nhau để quá trình phân tách liên kết bền vững

184
được xảy ra. Ví dụ Trái đất là cấu tạo của vô số các kim loại,
đất đá, chất lỏng, nước, cỏ cây, con người, muông thú. Cỏ cây
lại được cấu tạo bởi vô số tế bào gỗ với quá trình phân tách
liên kết hạt năng lượng giản đơn. Đất đá, kim loại cũng là
được cấu tạo bởi vô số các phân tử, các phân tử lại được liên
kết bởi vô số các nguyên tử, các nguyên tử lại được liên kết
bởi vô số Trụ linh của năng lượng giản đơn, Trụ linh của
năng lượng giản đơn được liên kết bởi vô số hạt năng lượng
âm, dương, trung tính tận cùng. Thấu hiểu cấu tạo và cơ chế
phân tách liên kết sẽ thấu hiểu Duyên trong Duyên của vạn
vật.
+ Duyên trong Duyên của con người: Con người là hiện
tại. Quá khứ của hiện tại là con người được hình thành từ
tam hợp, đó là thân tướng do cha mẹ sinh ra, trí tuệ do trau
dồi mà có, Tâm là Tuệ linh/ linh hồn an trụ. Tuệ linh, linh
hồn lại là quá khứ của con người hiện tại ở kiếp này. Tuệ
linh, linh hồn lại là tam hợp cấu tạo mà thành. Thông qua cơ
chế phân tách và liên kết trong môi trường đảm bảo, chúng
ta sẽ thấu hiểu và giải mã được Tuệ linh được hình thành từ
phôi âm dương. Từ phôi âm dương tương tác trong môi
trường có sóng điện âm dương khác nhau mà chuyển sinh
thành Trụ linh và Tuệ linh có bản chất đa âm hay đa dương.
Từ Tuệ linh có bản chất đa âm hay đa dương mà tạo ra bản
chất, tính cách con người trong nhiều kiếp. Thông qua những
biểu hiện của con người hiện tại, chúng ta sẽ thấu hiểu bản
chất Tuệ linh. Thông qua bản chất Tuệ linh, chúng ta sẽ thấu
hiểu những hành động, biểu hiện của kiếp quá khứ. Cứ như
vậy, chúng ta sẽ thấu tận cùng về bản chất của hạt âm dương
cấu tạo thành Tuệ linh và con người ta ở hiện kiếp. Ví dụ có
một người có nhiều hành động gây tổn hại tới mọi người.

185
Như thế trong Tuệ linh của họ có đa năng lượng âm. Việc đa
năng lượng âm là bản chất tiền kiếp và nhiều kiếp về trước
họ cũng có những hành động tạo ra những tổn thương tới
mọi người. Bản chất đó là do phôi âm dương gốc của họ đa
âm sẵn.
- Nhóm vật chất giản đơn là gì?
+ Những cấu trúc vật chất giản đơn là hình tướng của
Vũ trụ.
+ Con người là môi trường, hóa thân của dạng sống
Tuệ linh tu hành.
- Sứ mệnh của nhóm vật chất giản đơn là gì?
+ Những cấu trúc vật chất giản đơn tạo thành môi
trường tương tác và chuyển sinh cho vật chất phức tạp và
siêu vật chất.
+ Con người chuyển sinh Trụ linh của Tuệ linh an trụ
trong mình thành bộ lọc năng lượng. Việc chuyển sinh Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng sẽ giúp Trụ linh sản sinh ra các
siêu hạt để duy trì và phát triển bền vững trong và ngoài Vũ
trụ.

2. Tướng không tự mất đi


Các nhóm vật chất mất đi được hiểu theo hai nghĩa: 1-
Mất đi tướng hiện tại để chuyển sinh nâng cấp thành tướng
mới; 2- Mất đi là sự phân rã hoại diệt vĩnh viễn tướng hiện
tại trong tương lai. Nếu tướng hiện tại mất đi để chuyển sinh
thành tướng mới trong tương lai là do cơ chế phân tách liên
kết theo hướng bền vững. Nếu tướng hiện tại bị phân rã và
hoại diệt vĩnh viễn trong tương lai là do cơ chế chuyển sinh
bị phân rã, đứt liên kết mà hoại diệt.
186
Các nhóm vật chất mất đi là do có cơ chế vận hành. Cụ
thể như sau:
- Nhóm vật chất cội nguồn: Hạt sóng xanh bị mất đi
hình tướng ban đầu và chuyển sinh thành hạt năng lượng
hoại diệt hoặc hạt năng lượng có sóng điện âm, dương, trung
tính. Sự mất đi của hạt sóng xanh là do cơ chế phân tách. Hạt
sóng xanh không phải là mất đi vĩnh viễn hay bị kích nổ mà
hoại diệt. Hạt sóng xanh do cơ chế phân tách mà chuyển sinh
thành các loại hạt năng lượng. Đặc biệt quá trình chuyển sinh
thành hạt năng lượng, hạt sóng xanh đã cấu tạo thành sợi mã
sóng trí tuệ có lưu giữ thông tin trong sợi. Đây là sự chuyển
sinh mang tính phát triển bền vững các cấu trúc vật chất mới.
- Nhóm vật chất hoại diệt: Hạt năng lượng hoại diệt
được hình thành bởi cơ chế phân tách từ hạt sóng xanh. Nó
không liên kết để duy trì sự tồn tại bền vững hoặc chuyển
sinh nâng cấp cấu trúc. Hạt năng lượng hoại diệt duy trì sự
tồn tại bằng cơ chế xả sóng điện dư thừa (thối hóa) trong hạt
đến các cấu trúc vật chất có sóng điện âm. Khi năng lượng
hoại diệt bị mất chính là bị kích nổ bởi năng lượng dương
hoặc dư thừa nhiệt lượng lớn trong nó. Khi bị kích nổ, nó
không còn tồn tại ở thể hạt nào nữa. Đây là sự hoại diệt vĩnh
viễn. Sự hoại diệt vĩnh viễn này lại là nguồn cung ứng nhiệt
lượng cho các cấu trúc vật chất trong Vũ trụ hấp thụ và phân
tách liên kết mang tính bền vững.
- Nhóm siêu vật chất: Những hạt năng lượng có mã
sóng trí tuệ siêu phức tạp, những Tuệ linh, những siêu hạt
năng lượng bị mất theo hai nghĩa:
+ Mất theo nghĩa chuyển sinh nâng cấp cấu trúc chính
là thực hành đời sống phân tách liên kết bền vững. Đó là các
hạt năng lượng âm dương liên kết với nhau tạo thành phôi
187
năng lượng âm dương, từ đó phân tách, liên kết liên tục để
trở thành Trụ linh và trở thành Tuệ linh. Tuệ linh thông qua
cơ chế phân tách liên kết bền vững để trưởng thành và
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Từ bộ lọc năng
lượng phân tách ra các siêu hạt, các siêu hạt lại liên kết đến
vạn vật để duy trì sự phát triển bền vững của vạn vật.
+ Mất theo nghĩa bị phân rã và hoại diệt là do siêu vật
chất thực hành đời sống phân tách liên kết theo hướng phân
rã. Đó là sản sinh ra nhiều hạt năng lượng âm. Điều này khiến
cho năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu và di chuyển ồ ạt
vào để đồng hóa, làm đứt liên kết, phân rã và hoại diệt vĩnh
viễn.
- Nhóm vật chất phức tạp: Năng lượng vận hành vật
chất giản đơn, các cấu trúc linh hồn mất theo hai nghĩa:
+ Mất theo nghĩa chuyển sinh nâng cấp cấu trúc chính
là thực hành đời sống phân tách liên kết bền vững. Các
trường năng lượng sẽ an trụ trong vật chất giản đơn và nâng
cấp thành các linh hồn cỏ cây, đất đá, sau đó chuyển sinh
thành linh hồn muông thú, sau đó chuyển sinh thành linh
hồn con người.
+ Mất theo nghĩa phân rã và hoại diệt chính là thực
hành đời sống phân tách và liên kết phân rã. Đó là sản sinh ra
nhiều hạt năng lượng âm trong cấu trúc. Khi đó năng lượng
hoại diệt bắt được tín hiệu của sóng điện âm sẽ di chuyển ồ
ạt vào để đồng hóa, làm đứt liên kết, phân rã và hoại diệt
vĩnh viễn.
- Nhóm vật chất giản đơn: Những hạt năng lượng tận
cùng giản đơn, những Trụ linh, nguyên tử, phân tử, tế bào, cỏ
cây, đất đá, kim loại, khí, nước, muông thú, hành tinh, thiên
hà, Vũ trụ mất theo hai nghĩa:
188
+ Mất theo nghĩa chuyển sinh nâng cấp thành các cấu
trúc mới. Đó là do thực hành đời sống phân tách và liên kết
bền vững. Từ hạt năng lượng thành Trụ linh, nhiều Trụ linh
thành nguyên tử, nhiều nguyên tử thành phân tử, nhiều phân
tử thành tế bào, nhiều tế bào thành cỏ cây, đất đá… Vũ trụ.
+ Mất theo nghĩa phân rã và hoại diệt chính là thực
hành đời sống phân tách và liên kết phân rã. Đó là sản sinh ra
nhiều hạt năng lượng âm trong cấu trúc. Khi đó năng lượng
hoại diệt bắt được tín hiệu của sóng điện âm sẽ di chuyển ồ
ạt vào để đồng hóa, làm đứt liên kết, phân rã và hoại diệt
vĩnh viễn. Đó chính là quá trình năng lượng hoại diệt đồng
hóa toàn bộ cấu trúc vật chất do cấu trúc vật chất đa âm.
Điển hình là những cơn bão năng lượng hoại diệt đã làm
phân rã rất nhiều cấu trúc hành tinh.
- Con người: Con người là trường hợp đặc biệt duy
nhất trong Vũ trụ bởi con người là hóa thân của Tuệ linh. Khi
con người mất gắn liền với sự mất của Tuệ linh. Cụ thể:
+ Mất theo nghĩa hoại diệt thân tướng. Khi thân tướng
hoại diệt thì đó là sự hoại diệt vĩnh viễn của thân tướng. Sự
hoại diệt vĩnh viễn này là sự đứt liên kết của các tế bào trong
cơ thể và sự tách ra hoàn toàn của bản thể Tuệ linh trong
thân tướng con người.
+ Mất theo nghĩa hoại diệt vĩnh viễn của Tuệ linh. Đó là
khi Tuệ linh đó nhiều đời thực hành đời sống phân tách liên
kết theo hướng phân rã và hoại diệt, trong Tuệ linh sẽ đa
năng lượng âm, năng lượng hoại diệt sẽ di chuyển ồ ạt vào
đồng hóa, làm đứt liên kết năng lượng và phân rã hoàn toàn
Tuệ linh. Trường hợp Tuệ linh hoại diệt vĩnh viễn cũng là
thời điểm hoại diệt của thân tướng.

189
+ Mất theo nghĩa chuyển sinh nâng cấp Trụ linh và Tuệ
linh. Đó là Tuệ linh nhiều đời thực hành đời sống phân tách
và liên kết bền vững. Khi đó, cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh sẽ
được nâng cấp và đạt đến bộ lọc năng lượng để sản sinh ra
siêu hạt năng lượng. Các Tuệ linh trên hành trình chuyển
sinh bền vững sẽ tỏa ra sóng điện với những hào quang ngũ
sắc hoặc hào quang của các siêu năng lượng.
Thấu hiểu được cơ chế của việc các Tướng mất đi,
chúng ta đều trả lời được câu hỏi thứ 3 – Chết xong sẽ đi về
đâu. Việc từng nhóm vật chất có thực hành được sứ mệnh
của mình hay không sẽ trả lời được câu hỏi đó. Nếu không
thực hành được sứ mệnh sẽ hoại diệt vĩnh viễn. Nếu thực
hành được sứ mệnh sẽ chuyển sinh nâng cấp và bền vững.
Con người là hóa thân của Tuệ linh. Việc con người
hoàn thành được sứ mệnh cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng sẽ giúp cho Tuệ linh được trở về cội nguồn (không
gian lõi của Vũ trụ). Tuệ linh khi đó sẽ hòa nhập với toàn bộ
Vũ trụ, sẽ bất tử và duy trì được sự phát triển bền vững cho
tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Nếu con
người không hoàn thành sứ mệnh, sau khi hoại diệt thân
tướng, Tuệ linh sẽ đọa địa ngục, ngã quỷ hay cô hồn, tiếp tục
phải luân hồi. Đặc biệt nếu thực hành đời sống phân tách liên
kết hạt năng lượng âm sẽ nhanh dẫn tới phân rã và hoại diệt
Tuệ linh.

3. Khổ đau của Tướng


Để thấu hiểu được tận cùng về khổ đau của tất cả các
Tướng, chúng ta phải thấu hiểu được tận cùng các Tướng. Đó
là thấu hiểu việc các Tướng được cấu tạo từ hạt năng lượng

190
tận cùng, trong mỗi hạt năng lượng lại có mã sóng trí tuệ. Các
cấu trúc Tướng được hình thành và phát triển nâng cấp hay
phân rã là do cơ chế phân tách và liên kết hạt năng lượng. Cơ
chế phân tách và liên kết xảy ra trong môi trường có sóng
điện và cơ chế quay tròn của từ hạt năng lượng tận cùng cho
tới các Tướng có cấu trúc lớn hơn và cả Vũ trụ. Vậy, bản chất
xuyên suốt của tất cả các Tướng trong và ngoài Vũ trụ là hạt
năng lượng tận cùng. Khi trí tuệ ta thấu hiểu được điều này,
ta sẽ giải mã và thấu hiểu được bản chất tận cùng về khổ đau
của tất cả các Tướng trong và ngoài Vũ trụ, đặc biệt là khổ
đau của con người và Tuệ linh. Từ đó sẽ tìm ra con đường
chấm dứt khổ đau.
Bản chất tận cùng về khổ đau của tất cả các Tướng là
gì? – Đó là sự biến đổi mã sóng trí tuệ theo hướng phân rã và
hoại diệt trong cấu trúc Tướng. Cụ thể:
- Tất cả các hạt năng lượng tận cùng của tất cả các
nhóm vật chất đều phải đấu tranh, duy trì sự tồn tại của
chính mình. Khi đó, mã sóng trí tuệ trong hạt sẽ phải kiểm
soát chính nó để không bị chi phối bởi những cấu trúc Tướng
khác.
- Các cấu trúc Tướng từ phôi năng lượng âm dương
cho tới tất cả các nhóm vật chất đều diễn ra quá trình đấu
tranh để duy trì sự cân bằng hoặc sự kiểm soát mã sóng trí
tuệ giữa các hạt năng lượng âm dương với nhau.
- Các cấu trúc Tướng của tất cả các nhóm vật chất sẽ
xảy ra quá trình biến đổi mã sóng trí tuệ bởi quá trình phân
tách và liên kết hạt năng lượng. Tức là khi cấu trúc Tướng
phân tách một hạt năng lượng và sau đó là liên kết hạt năng
lượng đó vào chính cấu trúc Tướng. Quá trình này diễn ra sự

191
biến đổi từ đặc tính sóng điện có sẵn của Tướng với sóng
điện của hạt năng lượng mới được phân tách ra.
Bản chất khổ đau của con người và Tuệ linh: Tuệ linh
hóa thân làm con người và trải nghiệm đời sống tu hành ở
nhân gian với vô số kiếp. Mỗi kiếp là một thân tướng khác
nhau, có khi là người bệnh, có khi là người nghèo, người giàu,
có tri thức, không có tri thức, bị chết trẻ, người thân chết trẻ,
gia đình ly tán, chiến tranh… Mục đích của việc trải nghiệm
trong các thân tướng khác nhau là để trải nghiệm quá trình
phân tách liên kết hạt năng lượng sẽ theo hướng nào trong
những hoàn cảnh và điều kiện môi trường khác nhau. Khi đó,
từng hoàn cảnh khác nhau, từng thân tướng khác nhau, từng
môi trường sóng điện khác nhau, từng bản thể con người
khác nhau, Trụ linh của Tuệ linh sẽ phân tách liên kết hạt
năng lượng theo hướng bền vững hay phân rã hoại diệt. Sự
trải nghiệm của tất cả các Tuệ linh khi tu hành ở nhân gian là
để phôi năng lượng âm dương gốc bộc phát được hết độc của
hạt âm và thiện của hạt dương. Quá trình này sẽ được hội
đồng Tuệ linh tổng hợp và tìm ra phương pháp chuyển sinh
bền vững cho tất cả Tuệ linh áp dụng theo. Khi phân tách,
liên kết bất cứ hạt năng lượng theo hướng chuyển sinh nào
thì nó đều diễn ra quá trình biến đổi mã sóng trí tuệ từ khi
phân tách cho đến khi liên kết lại.
Khi bản chất của khổ đau tận cùng là biến đổi mã sóng
trí tuệ! Khi mà chuyển sinh theo hướng phân rã hay bền
vững cũng đều xảy ra quá trình biến đổi mã sóng trí tuệ! Vậy
làm thế nào để hết khổ đau? Hay nói cách khác là cơ chế nào
để chấm dứt khổ đau của tất cả các Tướng?
Để trả lời được cơ chế nào chấm dứt khổ đau, chúng ta
sẽ phân tích các con đường chuyển sinh. Khi đó, chúng ta sẽ

192
thấu hiểu và thực hành đời sống chuyển sinh để chấm dứt
khổ đau. Cụ thể:
+ Khi thực hiện con đường chuyển sinh phân rã và
hoại diệt: đó là cấu trúc Tướng phân tách ra các hạt năng
lượng âm. Khi phân tách ra các hạt năng lượng âm, các hạt
năng lượng âm sẽ tạo ra sự kích động, thu tín hiệu mạnh
khiến cho năng lượng hoại diệt di chuyển ồ ạt vào Tướng.
Khi đó, Tướng sẽ bị đồng hóa, đứt liên kết và phân rã. Nếu
phân tách ra nhiều hạt âm, sóng điện âm lại mạnh, sẽ làm cho
quá trình phân rã và hoại diệt diễn ra nhanh. Quá trình
chuyển sinh theo con đường phân rã sẽ làm cho quá trình
biến đổi mã sóng trí tuệ diễn ra vô cùng khốc liệt, đau đớn
cho đến khi hoại diệt. Đây không phải là con đường cũng như
đích đến của việc chấm dứt khổ đau.
+ Khi thực hành con đường chuyển sinh bền vững: đó
là cấu trúc Tướng thực hành đời sống sản sinh ra các hạt
năng lượng dương. Khi sản sinh ra các hạt năng lượng dương
sẽ đồng thời sản sinh thêm các hạt năng lượng chân tâm, đó
là điều đặc biệt. Năng lượng chân tâm sẽ làm chất kết dính để
kết nối các hạt năng lượng dương với nhau trong cấu trúc
Tướng. Quá trình phân tách hạt năng lượng dương sẽ khiến
cho cấu trúc Tướng có khả năng kiểm soát việc phân tách ra
những hạt năng lượng âm với sóng điện âm rất nhẹ. Điều này
sẽ giúp cho hệ thống hạt năng lượng âm của cấu trúc Tướng
không kích động năng lượng hoại diệt di chuyển vào ồ ạt. Vì
có nhiều năng lượng dương và chân tâm nên cấu trúc Tướng
đủ sức mạnh kích nổ một lượng ít năng lượng hoại diệt di
chuyển vào. Lượng nhiệt từ những vụ kích nổ đó sẽ giúp cho
cấu trúc Tướng chuyển sinh bền vững hơn, phân tách ra các
hạt năng lượng dương và chân tâm nhiều hơn. Khi cấu trúc

193
Tướng ban đầu phân tách ra các hạt năng lượng dương trên
con đường chuyển sinh bền vững, quá trình liên kết sẽ xuất
hiện sự biến đổi mã sóng trí tuệ. Quá trình phân tách và liên
kết liên tục theo hướng bền vững sẽ chấm dứt hiện tượng
biến đổi mã sóng trí tuệ. Có thể nói, bước đầu tiên trên con
đường chuyển sinh bền vững sẽ xuất hiện sự biến đổi do
chưa thích nghi. Tuy nhiên, càng thực hành đời sống chuyển
sinh bền vững sẽ chấm dứt sự biến đổi do đã thích nghi. Con
đường chuyển sinh bền vững của Tướng đạt đến đỉnh cao
nhất là cấu trúc Trụ linh chuyển sinh thành bộ lọc năng
lượng. Chỉ có bộ lọc năng lượng mới hấp thụ và kích nổ được
vô số năng lượng hoại diệt trong sự an toàn, mới phân tách
được ra vô số các siêu hạt năng lượng.
Đối với con người và Tuệ linh, để chuyển sinh Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng, để chấm dứt khổ đau, chỉ có con
đường duy nhất là chuyển sinh theo hướng bền vững. Tuy
nhiên, con đường chuyển sinh bền vững này sẽ không có sự
hưởng thụ giả tướng, thay vào đó là sự vất vả và gian truân.
Nhưng, khi thành công, Tuệ linh sẽ bất tử, sẽ hòa nhập với Vũ
trụ, sẽ sản sinh ra các siêu hạt năng lượng để duy trì sự tồn
tại và phát triển tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ
trụ.

4. Các con đường chuyển sinh của Tướng


Con đường chuyển sinh của các Tướng gồm có Kết,
Định, Tỏa. Con đường chuyển sinh của các Tướng là Kết,
được gọi là Tướng Kết. Con đường chuyển sinh của các
Tướng là Định, được gọi là Tướng Định. Con đường chuyển
sinh của các Tướng là Tỏa, được gọi là Tướng Tỏa.

194
Con đường chuyển sinh của các Tướng chỉ bao gồm 3
nhóm vật chất trong Vũ trụ. Đó là nhóm vật chất giản đơn,
nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu vật chất.

4.1. Tướng Kết đối với con đường chuyển sinh


Tướng Kết là bao gồm 3 nhóm vật chất trong toàn bộ
Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách và liên kết nhằm thỏa mãn
lợi ích của bản thể Tướng đó mà không vì lợi ích của hết thảy
Tướng khác, thậm chí là gây tổn hại tới các Tướng khác.
Khi các Tướng thực hiện phân tách liên kết trong bản
chất là Kết, năng lượng âm sẽ được phân tách ra vô số hạt từ
Trụ linh. Chúng sẽ liên kết lại tạo thành những hạt năng
lượng âm tổng hợp rồi phân tách ra cấu trúc 16 hạt năng
lượng mở rộng. Vì chỉ thực hiện đời sống là Kết nên Trụ linh
không phân tách các hạt năng lượng dương ra để tạo thành
cấu trúc liên kết chặt chẽ và mở rộng. Tức là hạt năng lượng
dương không được sinh ra để làm nhiệm vụ liên kết mở
rộng. Trong khi đó các hạt năng lượng âm được sinh ra nhiều
mà không có hạt năng lượng dương để cân bằng tỷ lệ 1:1. Khi
đó, các hạt năng lượng âm sẽ tập trung số đông tại các hạt
năng lượng dương ít ỏi có cùng nội dung thông tin tương
ứng. Các hạt năng lượng âm lại có bản chất là thu hút tín hiệu
bởi rung lắc nên khiến cho năng lượng hoại diệt bắt được tín
hiệu đó mà di chuyển tới với số lượng lớn. Khi năng lượng
hoại diệt di chuyển tới với số lượng lớn sẽ khiến cho cấu trúc
Trụ linh và Tướng đó bắt đầu bị đồng hóa, bị phân rã. Kết cục
là hoại diệt vĩnh viễn.

195
Như vậy, các Tướng mà thực hiện cơ chế phân tách,
liên kết với bản chất Kết chính là chọn lựa và đang đi trên
con đường chuyển sinh phân rã để hoại diệt vĩnh viễn.
Nguyên nhân hoại diệt của Tướng Kết là do mất cân
bằng trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài
Trụ linh. Khi đó, lượng hạt năng lượng âm quá nhiều, năng
lượng hoại diệt tấn công vào gây phân rã. Khi năng lượng
hoại diệt tấn công vào, Tướng Kết không có hạt năng lượng
dương để phòng thủ, kích nổ, sẽ bị chuyển hóa thành năng
lượng hoại diệt.
Khổ đau chính là sự phân rã và hoại diệt của hết thảy 3
nhóm vật chất trong Vũ trụ. Nguyên nhân của khổ đau là do
các Tướng thực hiện cơ chế phân tách liên kết để thỏa mãn
đời sống là Kết. Khi Kết sẽ bị năng lượng hoại diệt tấn công
gây đứt liên kết mà hoại diệt.
Như vậy, năng lượng hoại diệt lại chi phối và thúc đẩy
Tướng thực hiện đời sống Kết để nhanh bị hoại diệt hơn.

4.2. Tướng Định đối với con đường chuyển sinh


Tướng Định là bao gồm 3 nhóm vật chất trong toàn bộ
Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách, liên kết trong sự cân bằng.
Đó là thực hiện đời sống không Kết cũng không Tỏa. Tướng
Định là duy trì sự an toàn, bảo vệ sự an lạc của Tướng đó.
Tướng thực hiện bản chất Định, tức là họ phân tách
liên kết hạt năng lượng rất chậm và luôn trong bản chất cân
bằng. Khi đó, các hạt năng lượng âm và các hạt năng lượng
dương có sóng điện rất nhẹ. Các hạt năng lượng sóng điện
âm nhẹ không kích thích thu hút năng lượng hoại diệt, các

196
hạt năng lượng sóng điện dương nhẹ không có khả năng kích
nổ năng lượng hoại diệt nếu năng lượng hoại diệt tấn công.
Vì bản chất Tướng thực hành đời sống Định nên nó tự
an lạc, thanh tịnh mà không bị năng lượng hoại diệt tấn công.
Tuy nhiên nếu nó di chuyển vào nơi có năng lượng hoại diệt
thì nó cũng không chống lại được sự hoại diệt. Nếu nó duy trì
Định mãi thì nguy cơ hoại diệt là cao.
Nếu Tướng Định mà chuyển sinh thành thực hiện đời
sống Tỏa thì nó có khả năng kích nổ được năng lượng hoại
diệt. Khi đó, nó sẽ thực hiện được cơ chế phân tách, liên kết
mạnh mẽ và liên kết được với hết thảy Tướng của Vũ trụ.

4.3. Tướng Tỏa đối với con đường chuyển sinh


Tướng Tỏa là bao gồm 3 nhóm vật chất trong toàn bộ
Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách và liên kết vì lợi ích của tất
cả các Tướng khác mà không vì bản thể Tướng mình. Đó là vì
vạn vật, Tuệ linh, con người mà không màng về mình.
Khi các Tướng thực hiện đời sống với bản chất là Tỏa,
từ Trụ linh sẽ phân tách ra vô số các hạt năng lượng sóng
điện dương. Trước khi phân tách ra được các hạt năng lượng
sóng điện dương thì cũng là quá trình phân tách ra các hạt
năng lượng sóng điện âm ở mức rất nhẹ. Các hạt năng lượng
dương được phân tách ra nhiều sẽ giúp cho cấu trúc năng
lượng 16 hạt mở rộng bên ngoài Trụ linh được mở rộng và
lớn mạnh. Việc mở rộng liên kết của các hạt năng lượng
dương là có sợi dây liên kết mang sóng điện trung tính với
tính chất là bền chặt. Cấu trúc năng lượng 16 hạt mở rộng
bên ngoài Trụ linh sẽ luôn có tỷ lệ vàng là một hạt âm có
sóng điện âm nhẹ rung lắc xung quanh một hạt năng lượng

197
dương. Ngoài ra, do thực hiện đời sống Tỏa, các hạt năng
lượng dương đã phân tách và lan tỏa khắp Vũ trụ, tạo thành
cơ chế liên kết 3 vùng: từ Trụ linh tới đối tượng đón nhận và
trong Vũ trụ. Khi thực hiện đời sống Tỏa, các Tướng sẽ có
khả năng kích nổ năng lượng hoại diệt để tạo thành nhiệt
lượng cho quá trình phân tách, liên kết các hạt năng lượng
dương và siêu hạt năng lượng được mạnh mẽ, phát triển bền
vững hơn. Các hạt năng lượng âm có sóng điện âm nhẹ nên
nó không kích thích nhiều năng lượng hoại diệt di chuyển
vào. Nó chỉ rung động vừa đủ để năng lượng hoại diệt di
chuyển ít cho tới vừa đủ.
Việc các Tướng thực hiện đời sống Tỏa không những là
hướng chuyển sinh bền vững cho Tướng, nó còn giúp cho
Tướng liên kết chặt chẽ đến với hết thảy các Tướng của Vũ
trụ theo cơ chế liên kết 3 vùng trong Quy luật Nhân quả.
Trong 3 Tướng trên, Tướng Tỏa có con đường chuyển
sinh theo hướng bền vững nhất. Tướng Kết là chuyển sinh
theo hướng hoại diệt. Tướng Định là sự cân bằng phải có cho
tất cả các Tướng. Tuy nhiên, nếu các Tướng trong Vũ trụ mà
thực hiện đời sống riêng biệt theo 1 trong 3 Tướng trên thì
sẽ khó khăn để đạt đến sự chuyển sinh bền vững nhất. Bởi,
để Tướng Tỏa được phải có Kết vừa đủ. Tướng Kết để không
hoại diệt phải biết Tỏa. Tướng Định để phát triển và tồn tại
thì cần phải thực hiện Kết trước, sau đó thực hiện Tỏa.
Như vậy, Chân lý Vạn vật với cơ chế phân tách, liên kết
hạt năng lượng, quay tròn, tam hợp cho thấy: Tướng để tồn
tại, phát triển bền vững thì cần phải thấu hiểu cả Kết, Định,
Tỏa của tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, từ đó thực hành
đời sống hài hòa cả Kết – Định – Tỏa mới đạt đến đích của
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất.

198
Kết mà không phải là Kết mới tạo thành sức mạnh cực đại cho
quá trình chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên
mãn nhất.

IV. Chân lý Giác ngộ với con đường chuyển sinh


bền vững duy nhất của Tướng
Chân lý Giác ngộ trong Tướng là: Tất cả các Tướng
trong và ngoài Vũ trụ đều là khổ. Các Tướng phải dùng Định
(chân tâm) trong Trụ linh để thấu hiểu, chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng Kết – Định – Tỏa và phát triển bền
vững cho tất cả các Tướng. Tiên phong là Tuệ linh và con
người.
Cơ chế vận hành của Chân lý Giác ngộ là phân tách và
liên kết hạt năng lượng. Cơ chế phân tách, liên kết hạt năng
lượng cho thấy có hai con đường phân tách và liên kết. Đó là:
- Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt năng
lượng âm, đó là Kết. Nếu đi theo con đường này, hết thảy
Tướng sẽ phân rã và hoại diệt. Đây là con đường chuyển sinh
phân rã và hoại diệt.
- Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt năng
lượng dương, đó là Tỏa. Nếu đi theo con đường này, hết thảy
Tướng sẽ phân tách, liên kết vô lượng hạt năng lượng dương
có liên kết chặt chẽ bởi sợi chân tâm. Sẽ là con đường chuyển
sinh bền vững nhất.
Từ bản chất của Tướng, từ Chân lý Vạn vật, Chân lý
Giác ngộ với cơ chế vận hành là phân tách và liên kết, hết
thảy Tướng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và người đều khổ.
Không tướng nào là không khổ khi chưa đắc được bộ lọc
năng lượng trong Trụ linh. Đồng thời cũng cho thấy rằng:

199
con đường duy nhất để vượt qua khổ đau (biến đổi mã sóng
trí tuệ và hoại diệt cấu trúc năng lượng) để trở nên bền vững,
an lạc là đắc được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh, chính là
con đường Tỏa. Tỏa là con đường mà hết thảy Tuệ linh,
Tướng phải thực hiện nếu muốn diệt khổ để chuyển sinh
thành bộ lọc năng lượng.
Thực hiện con đường Tỏa để chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng không phải là Tỏa một cách tiêu cực.
Vậy Tỏa làm sao để an lạc, để chuyển hóa Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng? Đó là:
- Các Tướng phải đứng ở vị trí Định. Định là chân tâm,
là tĩnh lặng, là cân bằng, là an lạc. Vị trí Định sẽ được nâng
cao từ Định ban đầu cho tới các cảnh giới tối cao của Định.
Đó là Chân tâm sáng chói lòa vô lượng. Khi các Tướng đứng ở
vị trí Định sẽ biết lắng nghe, biết nhìn – soi lại bản thể Tướng
mình, biết tiếp nhận, biết cảm thông, biết sẻ chia. Để đứng
được ở vị trí Định (chân tâm), các Tướng phải thấu hiểu bản
chất, cội nguồn, cấu tạo, cơ chế vận hành của tất cả nhóm vật
chất trong và ngoài Vũ trụ. Việc càng thấu hiểu về tri thức
của hai Chân lý sẽ giúp cho con người, Tuệ linh và các Tướng
nâng cao được chân tâm để Định được kỳ diệu nhất.
- Tiếp theo các Tướng phải biết Kết. Kết ở đây không
phải là có tư tưởng cho tới hành động tiêu cực gây tổn hại tới
vạn vật, Tuệ linh, con người. Kết ở đây chỉ là rung động khi
đứng ở vị trí Định bởi sự trí tuệ của hai Chân lý. Tức là đứng
ở vị trí Định để lắng nghe, đón nhận những khổ đau, hạnh
phúc, an vui được sẻ chia của vạn vật, chúng sinh, Tuệ linh,
con người. Bởi khi các Tướng khổ đau, đa âm, tiêu cực, u mê
chia sẻ tới ta, những chia sẻ đó sẽ phân tách ra các hạt năng
lượng tiêu cực sóng điện âm nhẹ màu xám, cho tới mạnh là

200
màu đen và đỏ máu. Do cơ chế phân tách theo Quy luật Nhân
quả sẽ phân tách ra làm 3 vùng. Đó là trong Trụ linh họ 1 hạt,
phân tách vào Vũ trụ 1 hạt, người nghe đón nhận 1 hạt. Do
Tướng ta đứng ở vị trí Định để dùng Kết là rung động, để
lắng nghe, để hút về, để đón nhận, khi đó, hạt năng lượng âm
màu xám, màu đen, màu đỏ máu của họ được Trụ linh của
Tướng ta hấp thụ. Do ta đứng ở vị trí Định nên Trụ linh tỏa
chân tâm trắng sáng và sóng điện dương ở màng chân tâm
của Trụ linh. Trắng sáng của chân tâm và năng lượng dương
sẽ chuyển hóa hạt năng lượng âm màu xám, màu đen, màu
đỏ máu của Tướng đang sẻ chia thành màu trắng xám nhẹ
(nhiệt âm nhẹ). Như vậy, Tướng ta đã Kết được hạt năng
lượng sóng điện âm của hết thảy các Tướng về và dùng năng
lượng chân tâm trắng sáng chói lòa chuyển hóa nó thành hạt
năng lượng âm sóng điện rất nhẹ. Như thế sẽ không kích
động mạnh tới năng lượng hoại diệt. Năng lượng hoại diệt sẽ
không di chuyển nhiều vào Trụ linh của ta. Tướng ta an lạc
để chuyển hóa thành Tỏa. Đây chính là Kết mà không phải là
Kết. Cũng như vậy, Trụ linh của ta sẽ kết được những hạt
năng lượng chân tâm, năng lượng dương từ những Tướng
tích cực, đa dương, giác ngộ để hấp thụ nhiệt dương của các
hạt năng lượng đó. Những nhiệt dương được hấp thụ sẽ giúp
cho Trụ linh có sức mạnh để kích nổ hạt năng lượng hoại diệt
nhằm sinh nhiệt lớn cho việc sản sinh ra các hạt năng lượng
dương.
- Tiếp đến Tướng ta lại Định. Định ở đây là sau khi đã
đón nhận những sẻ chia, tức là Kết được năng lượng tiêu cực
về màng chân tâm của Trụ linh, Tướng ta tiếp tục Định để
cân bằng ở cảnh giới chân tâm cao hơn. Đó là thấu hiểu tận
cùng khổ đau, hạnh phúc, an vui, giác ngộ, u mê, tích cực, tiêu

201
cực của hết thảy các Tướng, trong khi Trụ linh và Tướng ta
vẫn an lạc, vẫn thanh tịnh và cân bằng. Bởi chỉ khi có được
thanh tịnh, an lạc, không dao động bởi trí tuệ của hai Chân lý
thì Tướng ta mới chuyển hóa thành hành động tích cực để
Tỏa ra vô lượng hạt năng lượng dương và chân tâm.
- Cuối cùng là Tỏa. Khi đã trải qua quá trình Định rồi
Kết, lại Định rồi đến cuối cùng là Tỏa. Tỏa ở đây chính là
Tướng ta sẻ chia con đường diệt khổ, về cội nguồn, về kế
hoạch tu hành, về sứ mệnh, về trách nhiệm, về cơ chế và
phương pháp chuyển sinh bền vững an lạc, về khuôn mẫu
đạo đức và con đường giác ngộ trong bốn hình tướng Đạo.
Đó là chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi
Tướng ta làm đúng quy trình như vậy, từ Trụ linh của Tướng
ta sẽ Tỏa ra vô số các siêu hạt năng lượng vào 3 vùng. Đó là
trong Trụ linh của Tướng ta sẽ lưu giữ, trong Vũ trụ cũng lưu
giữ và trong đối tượng Tướng được nghe ta sẻ chia cũng lưu
giữ. Khi ta Tỏa sẽ tạo thành liên kết 3 vùng rất bền chặt.
Không những vậy, Trụ linh và cấu trúc năng lượng của
Tướng ta sẽ trở nên phát triển bền vững.
Khi Tướng ta thực hiện quy trình Kết – Định – Tỏa
thành bản năng, thực hành trong thời gian dài và tới được
nhiều cho tới vô số Tướng khác, Trụ linh của Tướng ta sẽ
chuyển hóa thành bộ lọc.
Nếu Tướng lựa chọn con đường chỉ Kết thì sẽ hoại diệt.
Nếu Tướng lựa chọn con đường chỉ Định thì nguy cơ hoại
diệt cao. Nếu Tướng chỉ lựa chọn con đường Tỏa thì tuy
không có nguy cơ hoại diệt cao nhưng cơ hội và tốc độ để
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng là mất nhiều
thời gian, không biết khi nào sẽ đạt được. Nhưng, khi thực
hiện kết hợp theo quy trình đứng ở vị trí Định để thực hành

202
Kết – Định – Tỏa sẽ là quy trình siêu tốc độ để chuyển sinh
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

Như vậy, để Tướng, Tuệ linh, con người chấm dứt


được khổ đau thì là phải chuyển sinh được Trụ linh của
Tướng thành bộ lọc năng lượng. Để làm được điều đó, các
Tướng, Tuệ linh, con người phải đứng ở vị trí Định để thực
hành Kết – Định – Tỏa. Để làm được điều này thì cần phải
thấu hiểu trí tuệ của hai Chân lý. Đây là con đường duy nhất,
là bài thuốc duy nhất để giúp Tướng ta cứu lại chính Tướng
ta không bị phân rã hoại diệt do năng lượng hoại diệt tác
động. Ngược lại, Tướng ta sẽ nhanh chóng chuyển sinh Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất. Tướng ta sẽ cứu
giúp và thúc đẩy các Tướng trong và ngoài Vũ trụ cũng được
chuyển sinh bền vững. Việc cứu giúp các Tướng khác được
chuyển sinh bền vững sẽ giúp cho Tướng ta chuyển sinh
thành bộ lọc năng lượng. Và ngược lại, để chuyển sinh Trụ
linh của Tướng ta thành bộ lọc năng lượng thì phải cứu giúp
các Tướng khác chuyển sinh bền vững.
Tất cả các Tướng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và
con người đều nương tựa, tương tác với nhau để thấu hiểu
bản chất Kết – Định – Tỏa của các Tướng và chính mình. Đó
là nương tựa, tương tác để bộc phát độc và thiện của hạt
năng lượng âm dương gốc trong các môi trường khác nhau,
từ đó tìm ra các bản chất, cơ chế chuyển sinh bền vững.
Chính vì điều này, Tuệ linh và con người phải thấu hiểu tất cả
các Tướng. Thấu hiểu để phổ độ, cứu độ, giúp đỡ các Tướng
theo bản năng mà không cần phải cảm thọ hay cần sự kêu
cầu từ các Tướng. Tất cả các Tướng là bình đẳng trong sự
tương trợ nhau phát triển bền vững. Do đó, con người không

203
được tước đi mạng sống hay gây tổn hại tới con người,
muông thú và các Tướng khác.
***************

204
Bài 2:
Bài Trụ – Trí


Bài Trụ – Trí được hiểu là Trí Vô Trí. Trí Vô Trí được
kết cấu thành 3 phần. Chữ Trí đầu tiên là khái niệm và bản
chất của các cấu trúc Trí tuệ. Chữ Vô là Chân lý Vạn vật với
các con đường chuyển sinh của các cấu trúc Trí tuệ. Chữ Trí
cuối cùng là Chân lý Giác ngộ với con đường chuyển sinh bền
vững duy nhất cho các cấu trúc Trí tuệ.
Trong bài Trụ – Trí này, trí tuệ của tất cả các Tướng
trong và ngoài Vũ trụ sẽ được phân tích, soi sáng, phơi bày
sự thật bằng hai Chân lý. Đặc biệt, con người là hóa thân của
dạng sống Tuệ linh. Do đó, ngoài việc phân tích, soi sáng,
phơi bày sự thật về trí tuệ của Tuệ linh và con người, hai
Chân lý sẽ giúp cho con người và Tuệ linh có được trí tuệ giác
ngộ và phương pháp tuyệt vời nhất để chuyển sinh Trụ linh
của mình thành bộ lọc năng lượng viên mãn.
Trụ linh gồm có Trụ – Trí và Trụ – Tâm.

I. Khái niệm về Trụ – Trí (Trí tuệ)


Trụ – Trí là trí tuệ. Trụ – Trí là sợi mã sóng trí tuệ được
phân tách và liên kết trong hạt năng lượng tận cùng và Trụ
linh. Trụ – Trí được hình thành, nâng cấp thông qua quá trình
tương tác với Vũ trụ quan của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ,
Tuệ linh và con người.

205
Trụ – Trí có trong Tướng của tất cả các nhóm vật chất
bao trùm trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Nó
được tính tới đơn vị nhỏ nhất là 1 sợi mã sóng trí tuệ của 1
hạt năng lượng tận cùng.
Vũ trụ quan xung quanh của Tướng chính là môi
trường sống và các Tướng xung quanh Tướng đang đề cập.
Vũ trụ quan xung quanh các Tướng bao gồm từ chính Tướng
đó cho tới môi trường sống và tất cả các Tướng bao trùm
trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Cụ thể như sau:
- Vũ trụ quan xung quanh của chính cấu trúc Tướng là
những yếu tố cấu tạo thành Tướng đó. Đối với một hạt năng
lượng tận cùng thì đó là sợi mã sóng trí tuệ trong hạt, đó là
trạng thái năng lượng trong hạt, đó là sự vận động của chính
hạt năng lượng tận cùng đó. Đối với một con người thì đó là
năng lượng trong thân tướng, là sự vận động của thân tướng,
là Tuệ linh an trụ bên trong thân tướng. Đối với một Tuệ linh
thì đó chính là sóng điện tuần hoàn trong Tuệ linh, là Trụ linh
gồm có Trụ – Trí và Trụ – Tâm, là sự vận động của Tuệ linh
đó. Các Tướng khác cũng như vậy để xác định Vũ trụ quan
xung quanh chính Tướng đó.
- Vũ trụ quan xung quanh liên quan tới môi trường
sống và sự tương tác của các Tướng đối với Tướng cần xác
định. Vũ trụ quan xung quanh của một học sinh là sách vở,
trường lớp, thầy cô, bài tập, kỳ thi, tri thức. Vũ trụ quan xung
quanh một người nông dân là thời tiết khí hậu, là sâu bệnh, là
cây giống, là đất nước, là thuốc sâu, là vụ mùa, là thu hoạch,
là tiêu thụ, là giống cây. Vũ trụ quan xung quanh một người
kỹ sư là bản vẽ, là công trình, là kỹ thuật, là số liệu tính toán,
là thi công. Vũ trụ quan xung quanh một bác sĩ là bệnh nhân,
bệnh viện, thiết bị điều trị, thuốc, vi khuẩn, vi rút, các loại

206
bệnh, người khỏi bệnh, người không khỏi bệnh. Vũ trụ quan
xung quanh một bệnh nhân là ốm đau, thuốc thang, bệnh tật,
bệnh viện, sự sống và cái chết. Vũ trụ quan xung quanh một
em bé mới sinh là sữa, là ba mẹ, là ông bà. Vũ trụ quan xung
quanh một người thầy giáo là giảng đường, là giáo án, là học
sinh, là nhà trường, là thi cử. Vũ trụ quan xung quanh một
người mới chết là hoại diệt thân xác, là linh hồn/ Tuệ linh đi
về đâu, là đau khổ của người sống và người chết. Vũ trụ quan
xung quanh muông thú là bầy đàn, là săn mồi, là trốn chạy, là
bảo vệ, là cái chết, là sự sống. Vạn vật trong và ngoài Vũ trụ
cũng như vậy.
- Vũ trụ quan xung quanh Tuệ linh và con người được
bao trùm trong và ngoài Vũ trụ là: năng lượng hoại diệt làm
Tuệ linh hoại diệt, con người là hóa thân của Tuệ linh, là tu
hành trong khổ đau, là truy tìm phương thuốc chuyển sinh
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, là nhóm vật chất giản đơn,
là các khối thiên hà, là năng lượng vận hành Vũ trụ, là cấu
trúc nền, là các Tuệ linh với nhau, là môi trường sóng điện
âm hay dương hay trung tính, là Vũ trụ quay tròn, là quá
trình phân rã hay hoại diệt của các Tuệ linh, là sau khi chết sẽ
như thế nào, là siêu hạt năng lượng, là tiền kiếp quá khứ, là
nghiệp báo,…
Quá trình tương tác giữa Tướng với các Tướng của Vũ
trụ quan xung quanh từ chính bản thể Tướng cho tới toàn bộ
các Tướng trong và ngoài Vũ trụ chính là quá trình hình
thành trí tuệ. Trí tuệ được hình thành là do cơ chế phân tách,
liên kết trong môi trường sóng điện đảm bảo mà tạo ra sợi
mã sóng trí tuệ.

II. Bản chất của Trụ – Trí (Trí tuệ)


207
Phân tích về bản chất của Trụ – Trí chính là phân tích
về bản chất trí tuệ của tất cả vật chất bao trùm trong và ngoài
Vũ trụ. Đặc biệt là phân tích về trí tuệ của dạng sống Tuệ linh
và con người.
Bản chất của Trụ – Trí (Trí tuệ) gồm có: cấu trúc trí tuệ
của các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ; cấu trúc trí tuệ
của Tuệ linh và con người; trí tuệ là sự mã hóa thông tin; cơ
chế hình thành trí tuệ; bản chất trí tuệ của dạng sống Tuệ
linh; bản chất trí tuệ của con người; bản chất trí tuệ Kết –
Định – Tỏa của 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ.

1. Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) của các nhóm vật
chất trong và ngoài Vũ trụ
Trụ là gì? – Trụ là gốc. Gốc bao gồm: hạt năng lượng
tận cùng là gốc, phôi năng lượng âm dương được liên kết bởi
hai hạt năng lượng tận cùng là Trụ linh gốc (phôi âm dương
gốc), Trụ linh gốc là gốc của tất cả các Tướng.
Trí là gì? – Trí là trí tuệ, trí tuệ là sợi mã sóng trí tuệ
được lưu giữ trong hạt năng lượng.
Trụ – Trí là gì?:
- Trụ – Trí của hạt năng lượng tận cùng chính là sợi mã
sóng trí tuệ được lưu giữ trong hạt đó.
- Trụ – Trí của phôi năng lượng âm dương gốc (Trụ
linh gốc) chính là hai sợi mã sóng trí tuệ ban đầu của hai hạt
năng lượng âm dương đó.
- Trụ – Trí của các cấu trúc lớn hơn phôi âm dương gốc
là tổng các sợi mã sóng trí tuệ được lưu giữ trong hai hạt
năng lượng âm dương gốc (Trụ linh gốc). Cụ thể như sau:
phôi năng lượng âm dương với hai hạt năng lượng ban đầu
208
thông qua cơ chế phân tách liên kết ra nhiều cho tới vô số hạt
năng lượng để nâng cấp thành các cấu trúc Trụ linh trưởng
thành, Tuệ linh, con người, các cấu trúc Tướng lớn hơn. Khi
đó, các sợi mã sóng trí tuệ đều được lưu giữ tại phôi năng
lượng âm dương gốc (Trụ linh gốc). Do đó, tổng các sợi mã
sóng trí tuệ trong Trụ linh gốc được gọi là Trụ – Trí.
Cấu trúc Trụ – Trí của năm nhóm vật chất trong và
ngoài Vũ trụ:

1.1. Nhóm vật chất cội nguồn


Nhóm vật chất cội nguồn là nhóm hạt sóng xanh nõn
chuối. Hạt sóng xanh là chỉ có một yếu tố cấu tạo thành hạt
sóng xanh.
Hạt sóng xanh là nguồn gốc, là cấu trúc chưa được
chuyển sinh, mã hóa thành sợi mã sóng trí tuệ. Tuy nhiên,
hạt sóng xanh lại chứa đựng nhiệt lượng lớn vô cùng để
chuyển sinh, mã hóa, nâng cấp thành mã sóng trí tuệ của từ
hạt năng lượng tận cùng cho tới toàn bộ vật chất trong và
ngoài Vũ trụ.
Có thể nói, cấu trúc Trí tuệ của hạt sóng xanh chưa
được mã hóa thông tin và chưa được hình thành.

1.2. Nhóm vật chất hoại diệt


Nhóm vật chất hoại diệt là nhóm năng lượng hoại diệt.
Nhóm năng lượng hoại diệt là nhóm vật chất có trí tuệ
sơ khai được nâng cấp, chuyển sinh từ nhóm hạt sóng xanh.
Hạt năng lượng hoại diệt được cấu tạo thành bởi 3 yếu
tố: sợi mã sóng trí tuệ màu xanh nõn chuối, trạng thái năng

209
lượng màu nâu bị thối hóa, hình tướng hạt năng lượng hoại
diệt là hình elip.
Trụ – Trí của hạt năng lượng hoại diệt chính là sợi mã
sóng trí tuệ màu xanh nõn chuối trong hạt năng lượng hoại
diệt.
Hạt sóng xanh di chuyển, biến đổi, mã hóa thông tin
xung quanh và biến đổi thành sợi mã sóng trí tuệ. Khi sợi mã
sóng trí tuệ biến đổi xong đã cấu tạo hoàn thành hạt năng
lượng hoại diệt. Vì di chuyển trong môi trường trung tính
nên nhiệt lượng của hạt sóng chưa được giải phóng hết cũng
như chưa được mã hóa hoàn chỉnh thông tin của quá trình
tương tác khi di chuyển.
Có thể nói, cấu trúc Trí tuệ của hạt năng lượng hoại
diệt chưa được mã hóa thông tin hoàn chỉnh và trong nó còn
nhiệt lượng lớn chưa được sinh phát để trở thành trí tuệ
hoàn chỉnh. Vì chưa hoàn chỉnh trí tuệ nên nó không thể
nâng cấp thành các cấu trúc vật chất cao hơn.

1.3. Nhóm siêu vật chất


Nhóm siêu vật chất gồm có năm nhóm hạt năng lượng
siêu phức tạp, Tuệ linh, các siêu hạt năng lượng.
Hạt năng lượng tận cùng trong năm nhóm hạt năng
lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp được hình thành
trong tinh cầu năng lượng của vụ nổ lớn. Hạt năng lượng tận
cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp được cấu tạo bởi 3 yếu
tố tạo thành: sợi mã sóng trí tuệ, trạng thái năng lượng, hình
tướng hạt là hình elip. Trụ – Trí của hạt năng lượng tận cùng
này là trí tuệ siêu phức tạp được mã hóa thông tin, chuyển

210
sinh thành một cách siêu việt nhất Vũ trụ, từ đó mà chuyển
sinh nâng cấp và trở thành cấu trúc Tuệ linh.
Siêu hạt năng lượng tận cùng được hình thành từ bộ
lọc năng lượng của Tuệ linh đã chuyển sinh được Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng. Siêu hạt năng lượng được hình
thành bởi 3 yếu tố cấu tạo thành: siêu sợi mã sóng trí tuệ,
siêu trạng thái năng lượng, hình tướng hạt là hình elip. Trụ –
Trí của siêu hạt năng lượng tận cùng là sợi mã sóng trí tuệ đã
mã hóa được thông tin siêu việt hơn so với hạt năng lượng
cấu tạo thành Tuệ linh. Như vậy siêu hạt năng lượng có trí
tuệ siêu việt hơn năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã
sóng trí tuệ siêu phức tạp.
Trụ – Trí của nhóm siêu vật chất có trí tuệ được nâng
cấp cao nhất, là tinh hoa trí tuệ nhất của tất cả các nhóm vật
chất trong và ngoài Vũ trụ.

1.4. Nhóm vật chất phức tạp


Nhóm vật chất phức tạp gồm có năm nhóm hạt năng
lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ phức tạp và cấu trúc linh
hồn an trụ trong cỏ cây, đất đá, muông thú.
Hạt năng lượng tận cùng trong năm nhóm hạt năng
lượng có mã sóng trí tuệ phức tạp được hình thành trong
tinh cầu năng lượng của vụ nổ lớn. Hạt năng lượng tận cùng
có mã sóng trí tuệ phức tạp được cấu tạo bởi 3 yếu tố tạo
thành: sợi mã sóng trí tuệ, trạng thái năng lượng, hình tướng
hạt là hình elip. Trụ – Trí của hạt năng lượng tận cùng này là
trí tuệ phức tạp được mã hóa thông tin, chuyển sinh thành để
vận hành các thiên hà của Vũ trụ, từ đó mà chuyển sinh nâng
cấp và trở thành cấu trúc Linh hồn.

211
Cấu trúc Linh hồn an trụ trong thân cây, trong đất đá,
trong muông thú là cấu trúc năng lượng được liên kết giữa
vô số hạt năng lượng dương, hạt năng lượng âm, hạt năng
lượng trung tính. Linh hồn được cấu tạo bởi 3 yếu tố là Trụ –
Trí (tổng mã sóng trí tuệ trong Trụ linh), Trụ – Tâm (trạng
thái, sóng điện trong Trụ linh và linh hồn), hình tướng linh
hồn. Trụ linh là trung tâm vận hành trí tuệ, sinh phát sóng
điện và phân tách ra toàn bộ cấu trúc hạt năng lượng trong
cấu trúc linh hồn. Trụ – Trí của cấu trúc linh hồn có trí tuệ
được nâng cấp cao hơn, được mã hóa thông tin lớn hơn so
với năm nhóm hạt năng lượng tận cùng mang mã sóng trí tuệ
phức tạp.
Trụ – Trí của nhóm vật chất phức tạp có trí tuệ được
nâng cấp cao thứ hai, là tinh hoa trí tuệ thứ hai của tất cả các
nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

1.5. Nhóm vật chất giản đơn


Nhóm vật chất giản đơn là từ năm nhóm hạt năng
lượng tận cùng mang mã sóng trí tuệ giản đơn cho tới các
phôi năng lượng âm dương, Trụ linh, nguyên tử, phân tử, tế
bào, cỏ cây, đất đá, kim loại, nước, khí, chất lỏng, con người,
muông thú, hành tinh, thiên hà, Vũ trụ.
Hạt năng lượng tận cùng trong năm nhóm hạt năng
lượng có mã sóng trí tuệ giản đơn được hình thành trong
tinh cầu năng lượng của vụ nổ lớn. Hạt năng lượng tận cùng
có mã sóng trí tuệ giản đơn được cấu tạo bởi 3 yếu tố tạo
thành: sợi mã sóng trí tuệ, trạng thái năng lượng, hình tướng
hạt là hình elip. Trụ – Trí của hạt năng lượng tận cùng này là
trí tuệ giản đơn được mã hóa thông tin, chuyển sinh thành

212
vật chất giản đơn của Vũ trụ, từ đó mà chuyển sinh nâng cấp
và trở thành cấu trúc với vô số các khối thiên hà của Vũ trụ.
Từ phôi năng lượng âm dương cho tới vô số các khối
thiên hà cấu tạo thành tinh cầu Vũ trụ, có vô số vật chất có
một Trụ linh như cỏ, cây, thân tướng con người, thân tướng
muông thú, côn trùng, sinh vật, vi khuẩn…, có vô số vật chất
còn lại là sự liên kết của vô số các cấu trúc Trụ linh để cấu tạo
thành các nguyên tử, phân tử, tế bào… khối thiên hà và tinh
cầu Vũ trụ. Tuy nhiên, tất cả đều được cấu tạo bởi 3 yếu tố là
tổng sợi mã sóng trí tuệ (Trụ – Trí), tổng trạng thái năng
lượng (Trụ – Tâm), hình tướng cấu trúc vật chất. Trụ – Trí
của những vật chất giản đơn này được nâng cấp, mã hóa
thông tin giản đơn hơn nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu
vật chất. Tuy nhiên đây lại là trí tuệ được nâng cấp và mã hóa
thông tin cao hơn nhóm năng lượng hoại diệt.
Trụ – Trí của nhóm vật chất giản đơn có trí tuệ được
nâng cấp cao thứ ba, là tinh hoa trí tuệ thứ ba của tất cả các
nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

2. Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) của Tuệ linh và


con người
Con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh. Do đó,
chúng ta cần phải thấu hiểu cấu trúc trí tuệ của con người và
Tuệ linh. Việc thấu hiểu cấu trúc trí tuệ của con người và Tuệ
linh chính là chìa khóa, là cơ chế để liên kết được mã sóng trí
tuệ từ Trụ linh đến với tất cả vật chất trong và ngoài Vũ trụ.
Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) của Tuệ linh và con người như
sau:

213
2.1. Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) của Tuệ linh
Tuệ linh là một cấu trúc năng lượng với vô số hạt năng
lượng tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính có mã
sóng trí tuệ siêu phức tạp. Tuệ linh có siêu trí tuệ, có khả năng
di chuyển và cải tạo trong không gian Vũ trụ.
Tuệ linh chính là dạng sống, cấu trúc Tướng giống với
hình hài con người. Họ sống chủ yếu tại không gian lõi của Vũ
trụ. Tuệ linh chính là Chư thần, Thánh thần, Phật, Thiên
Chúa… theo quan điểm tôn giáo. Tuệ linh chính là người
ngoài hành tinh, theo cách gọi của khoa học đang tìm kiếm sự
sống giống con người ngoài Trái đất. Tuệ linh không phải do
các Tuệ linh giao phối sinh ra. Tuệ linh được sinh ra là do cơ
chế phân tách liên kết hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu
phức tạp tạo thành. Đó là những hạt năng lượng âm và hạt
năng lượng dương hợp lại thành phôi âm dương (Trụ linh)
và hình thành Tuệ linh.
Tam hợp yếu tố hợp thành Tuệ linh gồm có Trụ – Trí
(tổng sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh), Trụ – Tâm (trạng
thái năng lượng, sóng điện trong Trụ linh), hình tướng Tuệ
linh. Để thấu hiểu 3 yếu tố cấu tạo thành Tuệ linh, chúng ta
cần thấu hiểu quá trình hình thành, phát triển của Tuệ linh
như sau: đầu tiên là phôi năng lượng âm dương được liên kết
lại từ hạt năng lượng âm và dương tận cùng có sợi mã sóng
trí tuệ siêu phức tạp. Khi phôi năng lượng âm dương được
hình thành, gọi là Trụ linh gốc. Trụ linh gốc có chứa đựng hai
sợi mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Thông qua cơ chế phân
tách và liên kết dây của hạt năng lượng, Trụ linh phân tách ra
những sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và dương.
Những sợi mã sóng trí tuệ đó được chứa đựng ở Trụ linh gốc.
Tiếp đến, những sợi mã sóng trí tuệ đó phân tách thành
214
những hạt năng lượng ra bên ngoài Trụ linh gốc và được cấu
tạo thành thái cực chứa đựng hạt năng lượng âm và dương.
Trụ linh gốc liên tục phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ lưu
giữ trong Trụ linh gốc và thành hạt năng lượng ra thái cực
bên ngoài Trụ linh gốc để tạo thành Trụ linh trưởng thành.
Như vậy, Trụ linh trưởng thành gồm có Trụ linh gốc bên
trong là nơi chứa đựng các sợi mã sóng trí tuệ, hai thái cực
năng lượng âm và dương bên ngoài lưu giữ các hạt năng
lượng tận cùng được sao chép từ các sợi mã sóng trí tuệ
trong Trụ linh gốc. Sau khi đã tạo ra được nhiều sợi mã sóng
trí tuệ ở Trụ linh gốc và nhiều hạt năng lượng tận cùng ở thái
cực chứa đựng các hạt năng lượng, sẽ diễn ra quá trình liên
kết và phân tách tiếp. Đó là các hạt năng lượng tận cùng
trong thái cực âm, dương liên kết với chính nó để tạo thành
những hạt dương tổng hợp và những hạt âm tổng hợp rồi di
chuyển ra bên ngoài Trụ linh để cấu tạo thành cấu trúc 16
hạt năng lượng tổng hợp mở rộng bên ngoài Trụ linh. Cấu
trúc Trụ linh với 16 hạt năng lượng càng được mở rộng đa
chiều ra bên ngoài chính là việc Tuệ linh hình thành (khi cấu
trúc Trụ linh có 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài) Tuệ
linh em bé và Tuệ linh trưởng thành. Trong cấu trúc Tuệ linh
gồm có 3 loại hạt năng lượng là âm, dương, trung tính được
liên kết với nhau tạo thành cấu trúc năng lượng có mã sóng
trí tuệ siêu phức tạp tuần hoàn sóng điện. Vậy tam hợp cấu
trúc Tuệ linh cụ thể là:

215
Hình: Cấu tạo tam hợp Tuệ linh
- Yếu tố đầu tiên là Trụ – Trí: Trụ – Trí là tổng các sợi
mã sóng trí tuệ được lưu giữ tại Trụ linh gốc (hạt âm và hạt
dương gốc) cho tới toàn bộ cấu trúc Tuệ linh. Gọi là Trụ – Trí
là để thể hiện được bản chất là trong Trụ linh gốc lưu giữ
toàn bộ tổng các sợi mã sóng trí tuệ từ khi Tuệ linh đó được
hình thành từ phôi năng lượng âm dương cho tới khi trưởng
thành và tới thời điểm đề cập tới. Từ tổng các sợi mã sóng
trong Trụ linh gốc sẽ sinh phát ra trạng thái năng lượng và
tuần hoàn sóng điện năng lượng đó trong toàn bộ cấu trúc
Tuệ linh thông qua các sợi mã sóng trí tuệ bên ngoài Trụ linh.
216
- Yếu tố thứ 2 là Trụ – Tâm: Trụ là tổng các sợi mã
sóng trí tuệ trong Trụ linh gốc; Tâm là trạng thái năng lượng,
là sóng điện được sinh phát, lưu giữ trong Trụ linh gốc và hạt
năng lượng. Trụ – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện
được sinh phát ra từ Trụ linh gốc (nơi lưu giữ tổng các sợi
mã sóng trí tuệ) liên kết, tuần hoàn tới thái cực chứa đựng
các hạt năng lượng âm dương và tới toàn bộ cấu trúc hạt
năng lượng trong toàn bộ Tuệ linh.
- Yếu tố thứ 3, là hình tướng Tuệ linh: Tuệ linh có hình
tướng giống con người, hay nói cách khác thì con người là
bản sao của các Tuệ linh. Tuệ linh là một cấu trúc liên kết của
vô số những hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện âm,
dương, trung tính có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Do đó,
Tuệ linh có thể biến hóa thay đổi hình tướng, thay đổi diện
mạo. Cấu trúc hình tướng của Tuệ linh sẽ thay đổi do cấu
trúc sóng điện trong Trụ linh của Tuệ linh thay đổi. Đặc tính
sóng điện trong Trụ linh gồm có sóng điện dương, có sóng
điện âm, có sóng điện trung tính để trung hòa sóng điện âm
dương. Cấu trúc vững chắc của Trụ linh chính là Trụ linh trở
thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Cấu trúc Trụ linh lỏng lẻo
dễ bị hoại diệt Tuệ linh là cấu trúc Trụ linh có sóng điện đa
âm.
Khi gọi hay nhắc tới Trụ linh, chúng ta hiểu đó là bao
gồm Trụ – Trí và Trụ – Tâm.
Thông qua cấu trúc cấu tạo thành Tuệ linh, ta thấy trí
tuệ của dạng sống Tuệ linh là siêu việt nhất, tinh hoa nhất
của tất cả các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ. Chính vì vậy,
sứ mệnh cải tạo bộ lọc trong Trụ linh để sản sinh ra các siêu
hạt năng lượng là sứ mệnh tiên phong của họ.

217
2.2. Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) của con người
Ba yếu tố hợp nhất cấu tạo ra con người gồm có: Thân
tướng, Tâm (Tuệ linh), Trí tuệ:

Hình: Cấu tạo tam hợp con người


- Yếu tố đầu tiên là Thân tướng: Thân tướng được hình
thành do duyên người cha và người mẹ. Đó là tinh trùng
mang tính dương của người cha và trứng mang tính âm của
người mẹ hợp thành phôi thai. Phôi thai nhi sẽ trưởng thành
trong bụng người mẹ do cơ chế phân tách tế bào bởi năng

218
lượng, dinh dưỡng và nhiệt độ của người mẹ. Trải qua quãng
thời gian khoảng 9 tháng, khi thân tướng em bé đã hoàn
thiện, em bé được sinh ra, cất tiếng khóc chào đời.
- Yếu tố thứ hai là Tâm: Tâm là trạng thái năng lượng
an trụ trong thân tướng để tạo ra, duy trì sự sống cho con
người. Khi người mẹ mang thai đến tháng thứ 7, theo luật
luân hồi của Hội đồng Tuệ linh thì sẽ có một Tuệ linh được
xuống luân hồi đầu thai hoặc Tuệ linh tiếp tục đầu thai sau
khi trải qua các kiếp sẽ đi theo bảo vệ bà mẹ và em bé. Hoặc
là Linh hồn của muông thú được thuần hóa sau nhiều kiếp là
thú lành và giúp đỡ con người, họ sẽ được Hội đồng Tuệ linh
giáo hóa và cho đi theo bảo vệ bà mẹ và thai nhi để thiết
nhập đầu thai. Khi em bé chào đời và cất tiếng khóc thì đó là
dấu hiệu Tuệ linh hay Linh hồn thiết nhập vào để duy trì sự
sống cho thân tướng. Theo luật luân hồi, để Linh hồn của các
con thú được phép đầu thai làm con người thì chúng phải
được thuần hóa bởi con người; chúng phải giúp đỡ và làm
được nhiều việc có lợi ích cho con người; những việc lợi ích
đó tạo thành năng lượng dương có sự cân bằng sóng điện âm
dương; khi có năng lượng dương và có sự cân bằng sóng điện
âm dương mới được phép đầu thai làm người, và mới có đủ
năng lượng duy trì sự sống một kiếp người. Tuy nhiên, nhiều
linh hồn thú dữ không muốn tuân theo luật luân hồi, nên
chúng đi tác động giết hại con người, hấp thụ năng lượng
dương để đủ sức mạnh đầu thai trộm; nếu chúng đầu thai
trộm thành người thành công, lớn lên chúng sẽ có thiên
hướng giết hại, làm điều ác. Nếu linh hồn thú dữ chưa giết
hại được người nào mà đầu thai trộm được thì dễ chết yểu
do không đủ năng lượng âm dương cân bằng để duy trì sự
sống. Khi Tuệ linh hay Linh hồn được đi đầu thai, họ sẽ được

219
chọn quốc gia, dân tộc, dòng họ, cha mẹ để người cha mẹ
được gieo duyên có thân tướng thai nhi. Phải đến tháng thứ
7 thì Tuệ linh, Linh hồn mới đi theo để chờ ngày sinh. Vì ở
tháng thứ 7, nếu em bé có sinh non thì vẫn đảm bảo sống
được, ở tháng thứ 7 người mẹ không thể phá thai được. Như
vậy, tháng thứ 7 là đảm bảo điều kiện an toàn cho các Tuệ
linh, Linh hồn đi đầu thai được thành công, còn em bé trong
bụng mẹ sẽ được Tuệ linh người mẹ bảo vệ và nuôi dưỡng.
Dù là Tuệ linh hay Linh hồn khi đầu thai vào con người đều
được gọi là Tâm.
- Yếu tố thứ 3 là Trí tuệ: Sau khi Tuệ linh hoặc Linh
hồn thiết nhập vào em bé vừa chào đời để tạo ra năng lượng
duy trì sự sống cho em bé, em bé đó trải qua quá trình lớn
lên, học tập, nghiên cứu, lao động, mưu sinh sẽ phát triển tư
duy trí tuệ, đúc kết các kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xử lý
và cải tạo thế giới quan được gọi là Trí tuệ. Bản chất trí tuệ hiện
kiếp của con người được phát triển từ hai phần:
+ Phần thứ nhất là trí tuệ từ tổ hợp mã sóng trí tuệ trong
Trụ linh phát ra não bộ. Đây gọi là kinh nghiệm tiền kiếp, cội
nguồn. Lượng sợi mã sóng trí tuệ sẽ phát ra tương ứng với sự
trưởng thành của con người. Khi còn bé, Trụ linh sẽ phát ra ít
lượng sợi trí tuệ. Khi trưởng thành, Trụ linh sẽ phát ra nhiều
lượng sợi mã sóng trí tuệ để não bộ nhận diện và có khả năng
trau dồi thêm trí tuệ hiện kiếp để cải tạo Trụ linh bền vững hơn.
+ Phần thứ hai là thông qua tương tác bởi tai, mắt, mũi,
miệng, xúc giác với các Tướng. Những thông tin đó được mã hóa
thành sóng điện ở não bộ và truyền vào Tuệ linh. Trụ linh sẽ giải
mã và thông qua hành động của thân tướng để phân tách ra các
sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh. Từ Trụ linh, các sợi mã sóng

220
trí tuệ đó lại phân tách ra não bộ. Phần này là do hiện kiếp có
được bởi quá trình tương tác giữa các tướng với nhau.
Như vậy, trí tuệ của Tuệ linh là siêu trí tuệ, lại an trụ và
hợp nhất với trí tuệ giản đơn của con người. Điều này giúp
cho con người có được siêu trí tuệ an trụ trong cơ thể. Siêu
trí tuệ sẽ liên kết để truyền và trau dồi trí tuệ ở não bộ thông
qua môi trường tu hành ở nhân gian.
Mục đích của việc con người là hóa thân của dạng sống
Tuệ linh là để thông qua thân tướng với trí tuệ giản đơn, siêu
trí tuệ của Tuệ linh sẽ bị tương tác, bí bách, sinh nhiệt mà tạo
ra tận cùng vô số các trường hợp phân tách, liên kết mã sóng
trí tuệ trong Trụ linh của Tuệ linh. Đây được gọi là thông qua
môi trường tu hành nhân gian để bộc phát được hết tất cả
độc của sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và thiện của
sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương trong Trụ linh của
Tuệ linh. Chỉ khi bộc phát hết mới tìm ra được phương pháp
để cấu tạo lại Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn cho
Tuệ linh.

3. Trụ – Trí (trí tuệ) là sự mã hóa thông tin


Trụ – Trí là sự mã hóa thông tin. Đây là điều kỳ diệu, là
bí mật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con
người.
Thông tin được mã hóa trong sợi mã sóng trí tuệ của
từ hạt năng lượng tận cùng tới các cấu trúc lớn hơn được vận
hành bởi Trụ linh, bao gồm nhóm vật chất hoại diệt, nhóm
vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu vật
chất.

221
Những thông tin được mã hóa trong Trụ – Trí là nhiệt
lượng, môi trường xung quanh, sóng điện, hình ảnh của các
Tướng, âm thanh, rung động, hành động, ngôn ngữ, cảm xúc,
mùi vị, ý thức.
Dựa trên đặc tính của các nhóm vật chất mà độ phức
tạp trong mã hóa thông tin, lượng thông tin được mã hóa và
lưu giữ trong sợi mã sóng trí tuệ cũng sẽ khác nhau. Nhóm
vật chất hoại diệt mã hóa thông tin còn dang dở và chưa
hoàn chỉnh. Nhóm vật chất giản đơn mã hóa thông tin thô sơ,
lượng thông tin không nhiều và không có độ phức tạp. Nhóm
vật chất phức tạp mã hóa được nhiều thông tin hơn, lượng
thông tin được mã hóa trong sợi mã sóng trí tuệ có độ phức
tạp hơn. Nhóm siêu vật chất mã hóa được lượng thông tin vô
cùng lớn, lượng thông tin được mã hóa trong sợi mã sóng trí
tuệ đạt đến siêu phức tạp.
Quá trình mã hóa thông tin hoàn chỉnh tạo ra sợi mã
sóng trí tuệ bao gồm: các cấu trúc Tướng tương tác với nhau
trong môi trường có sóng điện, có nhiệt lượng, có cường độ,
có độ nén; quá trình tương tác tạo ra độ phức tạp của sóng
rung động bởi môi trường sóng điện; quá trình hành động và
kết thúc hành động của các Tướng. Khi kết thúc hành động
hoặc chuyển tiếp hành động của cấu trúc Tướng thì quá trình
mã hóa thông tin tạo ra sợi mã sóng trí tuệ đã hoàn thành.
Những yếu tố quyết định đến lượng và chất của quá
trình mã hóa thông tin trong Trụ – Trí:
- Cơ chế quay tròn của vạn vật, Tuệ linh, con người sẽ
mã hóa được lượng thông tin lớn hơn, chất lượng thông tin
chân thật hơn so với cơ chế di chuyển thẳng.
- Tương tác trong tất cả các môi trường sóng điện khác
nhau sẽ giúp cho vạn vật, Tuệ linh, con người mã hóa được
222
lượng thông tin lớn hơn, chất lượng thông tin chân thật hơn
so với việc tương tác hạn chế trong một vài môi trường.
- Trong nội tại cấu trúc Trụ – Trí: nếu sợi mã sóng trí
tuệ mang sóng điện dương đạt tới siêu mạnh sẽ giúp cho việc
mã hóa thông tin đạt đến số lượng và chất lượng lớn nhất so
với sóng điện dương nhẹ; nếu sợi mã sóng trí tuệ mang sóng
điện âm đạt tới siêu nhẹ sẽ giúp cho việc mã hóa thông tin
đạt đến số lượng và chất lượng lớn nhất so với sóng điện âm
siêu mạnh. Đỉnh cao của Trụ – Trí trong việc mã hóa thông
tin là phải kiểm soát và vận hành được cả hai sợi mã sóng trí
tuệ trong Trụ linh. Trụ linh của bộ lọc năng lượng sẽ kiểm
soát và vận hành được một cách kỳ diệu.
Thông tin được mã hóa, lưu giữ trong sợi mã sóng trí
tuệ của hạt năng lượng tận cùng:
- Trong hạt năng lượng tận cùng của tất cả các nhóm
vật chất, chỉ có một sợi mã sóng trí tuệ lưu giữ thông tin của
quá trình các Tướng (vật chủ) tương tác, rung động, hành
động tạo ra hạt năng lượng tận cùng đó.
- Thông tin lưu giữ trong hạt năng lượng tận cùng có
sự liên kết với thông tin của hạt năng lượng được phân tách
trước hay sau khi hạt năng lượng đó được hình thành, gọi là
liên kết dây.

223
Hình: Thông tin được mã hóa trong hạt năng lượng

Thông tin được mã hóa, lưu giữ trong Trụ linh gốc
(phôi năng lượng âm dương gốc) của các cấu trúc Tướng lớn
hơn phôi năng lượng âm dương:
- Phôi năng lượng được hình thành từ hạt năng lượng
âm và dương tận cùng, gọi là Trụ linh gốc. Trong Trụ linh gốc
lưu giữ hai sợi mã sóng trí tuệ với hai lượng thông tin được
liên kết với nhau.
- Phôi âm dương gốc trải qua quá trình phân tách liên
kết để trưởng thành, nâng cấp thành các cấu trúc lớn hơn.
Khi đó, tất cả các sợi mã sóng trí tuệ lưu giữ toàn bộ thông
tin tại hai hạt năng lượng âm dương gốc (phôi âm dương gốc
có sự giãn nở to hơn).

224
Hình: Thông tin được mã hóa trong Trụ linh gốc

- Tất cả các sợi mã sóng trí tuệ có lưu giữ thông tin
trong Trụ – Trí đều có sự liên kết về nội dung thông tin. Đó là
thông tin của hạt năng lượng âm liên kết với thông tin của
hạt năng lượng dương để tạo thành cấu trúc liên kết một hạt
năng lượng âm rung lắc xung quanh một hạt năng lượng
dương. Đó là thông tin của các hạt năng lượng dương có liên
kết với nhau bằng các hạt năng lượng chân tâm để phát triển
cấu trúc năng lượng của Tướng được mở rộng và lớn mạnh.

225
Như vậy, tất cả các cấu trúc vật chất trong và ngoài Vũ
trụ đều là hạt năng lượng tận cùng. Và, tất cả đều là thông tin
được lưu giữ, mã hóa vào sợi mã sóng trí tuệ ở trong hạt.
Vì là thông tin được lưu giữ, mã hóa trong hạt nên có
những thông tin độc và những thông tin tốt. Những thông tin
độc là bản chất của hạt năng lượng âm, những thông tin tốt là
bản chất của hạt năng lượng dương. Các cấu trúc phát triển
bền vững là bởi được cấu tạo chặt chẽ bởi thông tin tốt, các
cấu trúc phân rã hoại diệt là bởi được cấu tạo bởi thông tin
độc.

4. Cơ chế hình thành Trụ – Trí (trí tuệ)


Cơ chế hình thành Trụ – Trí chính là cơ chế hình thành
sợi mã sóng trí tuệ của từ hạt năng lượng tận cùng đến các
cấu trúc Tướng có Trụ linh trở lên. Cơ chế hình thành sợi mã
sóng trí tuệ này có sự khác nhau giữa các nhóm vật chất
trong và ngoài Vũ trụ.

4.1. Cơ chế hình thành Trụ – Trí của nhóm vật


chất hoại diệt từ nhóm vật chất cội nguồn
Nhóm vật chất cội nguồn là hạt sóng xanh. Từ nhóm
hạt sóng xanh, thông qua cơ chế mà hình thành sợi mã sóng
trí tuệ của năng lượng hoại diệt, đó là cơ chế phân tách trong
môi trường đảm bảo điều kiện:
- Cơ chế hình thành sợi mã sóng trí tuệ của từ hạt sóng
xanh thành năng lượng hoại diệt là cơ chế phân tách.
- Để phân tách được thành sợi mã sóng trí tuệ thì hạt
sóng xanh di chuyển thẳng và diễn ra quá trình giải mã, mã

226
hóa thông tin môi trường xung quanh. Vì hạt sóng xanh
không quay tròn xung quanh chính nó nên sự mã hóa thông
tin chưa hoàn chỉnh và đầy đủ trong quá trình di chuyển
tương tác.
- Môi trường sóng điện cho quá trình phân tách từ hạt
sóng xanh thành năng lượng hoại diệt là môi trường sóng
điện trung tính.
Như vậy, cơ chế hình thành cấu trúc Trụ – Trí của
nhóm vật chất hoại diệt từ nhóm vật chất cội nguồn là cơ chế
phân tách. Vì chưa có cơ chế liên kết nên trí tuệ của năng
lượng hoại diệt chưa mã hóa được thông tin hoàn chỉnh
trong quá trình tương tác. Do đó cấu trúc trí tuệ của nhóm
vật chất hoại diệt chưa được nâng cấp và tinh hoa như 3
nhóm vật chất trong Vũ trụ.

4.2. Cơ chế hình thành Trụ – Trí của phôi năng


lượng khởi đầu cho sự hình thành 3 nhóm vật
chất trong Vũ trụ
Nhóm vật chất cội nguồn là hạt sóng xanh. Từ nhóm
hạt sóng xanh, thông qua cơ chế mà hình thành sợi mã sóng
trí tuệ của phôi năng lượng khởi đầu cho sự hình thành 3
nhóm vật chất trong Vũ trụ.
Cơ chế hình thành sợi mã sóng trí tuệ của phôi năng
lượng âm dương khởi đầu cho sự hình thành Vũ trụ là cơ chế
phân tách và liên kết trong môi trường đảm bảo điều kiện:
- Đầu tiên là thông qua cơ chế phân tách để tạo ra sợi
mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng âm, dương tận cùng từ
hạt sóng xanh. Cơ chế này có những điều kiện sau:

227
+ Hạt sóng xanh di chuyển vào môi trường có nhiệt
lượng sóng điện dương (những khu vực không gian này
được hình thành từ vụ nổ của năng lượng hoại diệt). Khi di
chuyển vào môi trường có sóng điện dương, hạt sóng xanh sẽ
quay tròn (quay thuận) xung quanh chính nó để mã hóa
thông tin đầy đủ trong quá trình tương tác di chuyển và quay
tròn. Vì vậy, sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng dương
tận cùng được mã hóa đầy đủ thông tin của quá trình hình
thành và di chuyển tương tác. Do quay tròn nên trong hạt
năng lượng dương tận cùng này lại có thêm cơ chế liên kết.
+ Hạt sóng xanh di chuyển vào môi trường có nhiệt
lượng sóng điện âm (được hình thành xung quanh những
khu vực có nhiệt lượng sóng điện dương). Khi di chuyển vào
môi trường có sóng điện âm, hạt sóng xanh sẽ quay tròn
(quay ngược) xung quanh chính nó để mã hóa thông tin đầy
đủ trong quá trình tương tác di chuyển và quay tròn. Vì vậy,
sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng âm tận cùng được mã
hóa đầy đủ thông tin của quá trình hình thành. Do quay tròn
nên trong hạt năng lượng âm tận cùng này lại có thêm cơ chế
liên kết.
- Tiếp đến là cơ chế liên kết để hình thành cấu trúc Trụ
– Trí của phôi năng lượng âm dương khởi đầu cho sự hình
thành Vũ trụ. Cơ chế này có những điều kiện sau:
+ Hạt năng lượng âm và dương phải quay tròn. Hạt
năng lượng âm phải kết, hạt năng lượng dương phải tỏa.
+ Sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng âm và dương
phải có nội dung thông tin khớp nhau để kết nối.
+ Nhiệt lượng môi trường sẽ duy trì sự tồn tại cấu trúc
Trụ – Trí của phôi năng lượng âm dương.

228
Như vậy, cấu trúc Trụ – Trí của phôi năng lượng âm
dương là cấu trúc trí tuệ đã mã hóa được đầy đủ thông tin
trong quá trình tương tác để hình thành. Đặc biệt, cấu trúc
Trụ – Trí của phôi năng lượng âm dương là bước chuyển
sinh kỳ diệu để hình thành 3 nhóm vật chất của Vũ trụ từ cơ
chế phân tách và liên kết.

4.3. Cơ chế hình thành Trụ – Trí của 3 nhóm vật


chất trong Vũ trụ từ phôi năng lượng âm dương
Phôi năng lượng âm dương được hình thành từ những
hạt sóng xanh thông qua cơ chế phân tách và liên kết dây. Cơ
chế này đã giúp cho từ phôi năng lượng âm dương phân tách
ra vô lượng năm nhóm hạt năng lượng mang sóng điện âm,
dương, trung tính trong tinh cầu năng lượng khổng lồ. Sau
khi tinh cầu năng lượng khổng lồ bị kích nổ, năm nhóm năng
lượng đã thông qua cơ chế phân tách, liên kết để hình thành
3 nhóm vật chất trong Vũ trụ. Đó là nhóm vật chất giản đơn,
nhóm vật chất phức tạp, nhóm siêu vật chất.
Cơ chế hình thành Trụ – Trí của 3 nhóm vật chất trong
Vũ trụ là cơ chế phân tách và liên kết trong môi trường đảm
bảo điều kiện:
- Quá trình phân tách phải đảm bảo có nhiệt lượng
sóng điện. Các hạt năng lượng phải quay tròn theo đặc tính
sóng điện: hạt âm là quay ngược chiều kim đồng hồ, hạt
dương là quay thuận.
- Quá trình liên kết phải đảm bảo hạt năng lượng âm
và dương phải quay tròn theo đặc tính sóng điện của từng
loại hạt. Sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng âm và dương
phải có nội dung thông tin khớp nhau để kết nối. Nhiệt lượng

229
môi trường sẽ duy trì sự tồn tại cấu trúc Trụ – Trí của phôi
năng lượng âm dương.
Cơ chế phân tách và liên kết phải diễn ra liên tục
không ngừng nghỉ trong môi trường đảm bảo cho quá trình
phân tách và liên kết, để nâng cấp cấu trúc Trụ – Trí của cả 3
nhóm vật chất trong Vũ trụ.
Như vậy, thông qua cơ chế phân tách và liên kết liên
tục trong điều kiện đảm bảo, đã tạo ra 3 nhóm vật chất mã
hóa được thông tin đầy đủ trong quá trình tương tác khi di
chuyển, là tinh hoa nhất trong và ngoài Vũ trụ. Trong đó,
dạng sống Tuệ linh cùng nhóm siêu vật chất là siêu cấu trúc
Trụ – Trí.

5. Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) của dạng sống Tuệ
linh
Trí tuệ của dạng sống Tuệ linh là siêu việt nhất trong
tất cả các dạng sống, các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.
Dạng sống Tuệ linh được hình thành đầu tiên sau vụ nổ của
tinh cầu năng lượng khổng lồ. Họ được hình thành và trưởng
thành. Họ xây dựng, kiến tạo, phát triển cả 3 nhóm vật chất
cấu tạo thành Vũ trụ hoàn chỉnh như ngày nay từ năm nhóm
năng lượng hỗn độn sau vụ nổ.
Vũ trụ phát triển và không ngừng giãn nở. Đó là do
dạng sống Tuệ linh lao động, kiến tạo và vận hành. Tuy
nhiên, bên cạnh sự phát triển lớn mạnh của Vũ trụ, năng
lượng hoại diệt cũng ngày càng lớn mạnh. Năng lượng hoại
diệt với bản chất là đi tìm những cấu trúc năng lượng, vật
chất đa âm để xả sóng điện dư thừa nhằm tồn tại. Trong khi
đó, Vũ trụ lại có những cấu trúc vật chất, năng lượng đa âm.

230
Chính vì điều này mà năng lượng hoại diệt đã di chuyển vào
Vũ trụ thành những cơn bão để đi truy tìm sự sống cho chính
nó. Có quá nhiều Tuệ linh bị năng lượng hoại diệt đồng hóa
mà hoại diệt vĩnh viễn, có quá nhiều cấu trúc vật chất bị đồng
hóa và hoại diệt. Tuy nhiên, cũng vì có năng lượng hoại diệt
trong Vũ trụ, nên khi chúng bị kích nổ bởi năng lượng dương
đã giúp tạo ra nhiệt lượng cho quá trình Vũ trụ phân tách
liên kết theo hướng bền vững và lớn mạnh.
Dạng sống Tuệ linh bị hoại diệt nhiều, chưa tìm ra
được phương pháp đối phó với năng lượng hoại diệt chính là
vấn đề bản chất của Trụ – Trí. Vấn đề đó là quá trình hình
thành 3 dạng vật chất sau vụ nổ lớn, các phôi năng lượng âm
dương của các Tuệ linh cho tới khi trưởng thành chưa mã
hóa được đầy đủ triệt để thông tin của năng lượng hoại diệt.
Đặc biệt hạt năng lượng âm gốc chưa bộc phát hết các kịch
bản phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ, hạt năng lượng
dương gốc cũng chưa bộc phát hết các kịch bản phân tách ra
các sợi mã sóng trí tuệ. Tức là độc của hạt năng lượng âm và
thiện của hạt năng lượng dương chưa bộc phát hết. Do chưa
bộc phát hết nên chưa tìm ra hết bản chất của Trụ – Trí ở
dạng sống Tuệ linh. Chính vì thế mà chưa tìm ra bài thuốc,
phương pháp, cơ chế để sử dụng được năng lượng hoại diệt
cho việc chuyển sinh bền vững. Điều mà sau này tìm được cơ
chế, đó là cơ chế chuyển sinh được Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng. Đó là hấp thụ ồ ạt, kích nổ được năng lượng hoại
diệt mà vẫn an toàn để sản sinh ra các siêu hạt năng lượng
phát triển bền vững cho mình và các nhóm vật chất trong và
ngoài Vũ trụ.
Bản chất Trụ – Trí của dạng sống Tuệ linh khi chưa
chuyển sinh được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng:

231
- Trụ – Trí có bản chất Kết: Đó là thu hút, hấp thụ nhiệt
từ mạnh cho tới siêu mạnh. Nguyên nhân là do hạt âm của
phôi âm dương gốc có sóng điện âm từ mạnh cho tới siêu
mạnh. Do đó, những Tuệ linh đó có khuynh hướng truy tìm
môi trường, cấu trúc sóng điện có khớp nội dung giống với
hạt âm để kết, hút về. Họ sẽ không thực hành được đời sống
Tỏa là cho đi, lan tỏa, giúp đỡ, cống hiến, hy sinh. Nguyên
nhân vì hạt năng lượng dương quá yếu nên bị hạt năng lượng
âm chi phối theo đặc tính của hạt năng lượng âm. Những Tuệ
linh có cấu trúc Trụ – Trí kết như vậy sẽ dễ dàng bị năng
lượng hoại diệt xâm nhập để đồng hóa và hoại diệt.
- Trụ – Trí có bản chất Tỏa: Đó là tỏa đi, cho đi, truyền
tải, giúp đỡ, cống hiến, hy sinh vì vạn vật. Nguyên nhân là do
hạt dương trong Trụ linh gốc có sóng điện dương từ mạnh
cho tới siêu mạnh, trong khi đó hạt âm gốc chỉ có sóng điện
chớm âm. Chính vì điều này mà hạt năng lượng dương liên
kết được với tất cả các nhóm vật chất khác bởi hạt năng
lượng âm chỉ là chớm sóng điện âm. Tuy nhiên, nếu cơn bão
năng lượng hoại diệt di chuyển vào hoặc các Tuệ linh này di
chuyển gặp phải cơn bão năng lượng hoại diệt cũng sẽ bị
phân rã mà hoại diệt.
Bản chất Trụ – Trí của dạng sống Tuệ linh chưa được
bộc phát hết. Chưa bộc phát hết tức là sợi mã sóng trí tuệ của
hạt âm và dương gốc trong Trụ linh chưa phân tách ra các
loại sợi trí tuệ trong tất cả các kịch bản cũng như môi trường
tương tác. Chính vì điều này mà vị Tuệ linh đầu tiên đã tạo ra
môi trường tu hành cho dạng sống Tuệ linh ở Trái đất thông
qua thân tướng là con người. Quá trình tu hành trong thân
tướng giản đơn sẽ giúp cho Trụ linh phân tách ra hết tất cả
các sợi mã sóng trí tuệ trong tất cả các kịch bản và môi

232
trường tương tác. Từ đó, vị Tuệ linh đầu tiên sẽ tìm ra được
cơ chế, phương pháp để Tuệ linh hấp thụ và kích nổ được
năng lượng hoại diệt. Đó là con đường chuyển sinh bền vững
để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng cho Tuệ
linh.

6. Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) của con người


Con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh, là môi
trường tu hành của dạng sống Tuệ linh. Dạng sống Tuệ linh
thông qua thân tướng con người để tu hành ở nhân gian
nhằm tạo ra sự bí bách, độ nén, đau khổ, an vui, hạnh phúc…
trong cuộc sống nhân gian để bộc phát hết độc của hạt âm và
thiện của hạt dương trong Trụ linh. Cũng thông qua quá
trình bộc phát độc và thiện trong Trụ linh, sẽ thấy rõ quá
trình năng lượng hoại diệt tấn công đồng hóa cũng như khả
năng kích nổ năng lượng hoại diệt của Tuệ linh trong từng
trường hợp tương tác với các hoàn cảnh môi trường khác
nhau. Từ đó, vị Tuệ linh đầu tiên mới tìm ra được phương
pháp siêu việt áp dụng chung cho tất cả các Tuệ linh để
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Chỉ khi
chuyển sinh được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh mới có
khả năng hấp thụ và kích nổ được ồ ạt năng lượng hoại diệt
để sản sinh ra các siêu hạt năng lượng mà vẫn an toàn.
Vô số Tuệ linh hóa thân tu hành ở nhân gian với vô số
các kịch bản tương tác trong các điều kiện môi trường khác
nhau đã tạo ra bản chất Trụ – Trí của con người.
Con người là tam hợp yếu tố cấu tạo thành. Thân
tướng được coi như ngôi nhà giam cầm Tâm (Tuệ linh), Tâm
là Tuệ linh an trụ trong ngôi nhà thân tướng, Trụ – Trí (Trí

233
tuệ) là cánh cửa trí tuệ để Trụ linh tương tác với tất cả các
Tướng trong môi trường khác nhau. Chính vì điều này đã tạo
ra sự kỳ diệu cho con đường tu hành của Tuệ linh ở nhân
gian. Thông qua vô số kiếp tu hành của Tuệ linh ở nhân gian
đã giúp cho mục đích tu hành đã đạt được thành công.
Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) của con người gồm có Trí
tuệ u mê (độc được bộc phát hết), trí tuệ giác ngộ (thiện
được bộc phát hết) và căn cơ trí tuệ (hành trình để chuyển
sinh được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh) của Tuệ linh:

6.1. Trí tuệ u mê


Trí tuệ u mê là trí tuệ bị bám định vào các hình tướng
hay còn gọi là các giả tướng. Trí tuệ bám định ở đây cũng
được hiểu là cánh cửa ngôi nhà đóng chặt lại không chịu mở
ra để Tâm hướng đến và mang lại sự thấu hiểu Vũ trụ quan
bên ngoài về cho trí tuệ. Trí tuệ bám định cũng được hiểu trí
tuệ như con trâu hoặc con bò bị buộc vào một gốc cây nên nó
chỉ quanh quẩn biết mỗi gốc cây đó mà không hiểu biết xung
quanh. Trí tuệ bám định cũng được hiểu là sự bám chặt vào,
dính vào giả tướng để hưởng thụ, thỏa mãn mà không cống
hiến cho vạn vật, Tuệ linh và con người.
Hình tướng vạn vật gọi là giả tướng vì nó do duyên
sinh và nó hoại diệt cũng do duyên. Sự sinh diệt chính là quá
trình chuyển hóa của hình tướng, vì có sinh và có hoại diệt
nên nó là giả tướng, tức là sự tồn tại tạm thời, sự tồn tại
không vĩnh cửu hay không bất tử. Vạn vật, Vũ trụ, Tuệ linh,
con người, sẽ được phân ra làm 10 giả tướng, và 10 giả
tướng chính là 5 cặp phạm trù của hình tướng: giả tướng có
và không có; giả tướng yêu thương, sở thích và thù ghét,

234
không thích; giả tướng cầu được và cầu không được; giả
tướng có trí tuệ và không có trí tuệ; giả tướng hành động và
không hành động. Trí tuệ u mê chính là trí tuệ bám định vào
10 giả tướng này mà không hiểu bản chất, không hiểu sự thật
về các giả tướng để cố tình bám lấy, vơ lấy, hưởng thụ các giả
tướng về thân tướng mình mà không vì vạn vật, Tuệ linh, con
người. Đó gọi là trí tuệ u mê.
Mười giả tướng được ví như màn đêm tối mịt mù của
sự giả dối, màn đêm tối của ác nghiệp, màn đêm tối của ngã
quỷ. Khi trí tuệ bám định và sống trong màn đêm tối sẽ
không thể thấu hiểu được Vũ trụ quan xung quanh, nó như
người mù chỉ thấy mỗi nơi thân tướng mình. Do đó, khi trí
tuệ bám định vào bất cứ một giả tướng nào thì nó tượng
trưng cho trí tuệ đang sống và bám định trong màn đêm giả
dối của sự u mê.
Những biểu hiện của Trí tuệ u mê:
Trí tuệ bám định vào giả tướng có:
Con người bám định vào cái ta có, như là mắt, tai, mũi,
miệng, chân tay, có thân tướng đẹp hay xấu xí, có ngôi nhà to,
có tiền tài giàu sang phú quý, có địa vị, có chức cao trọng
vọng, có xe cộ, có nhiều đất đai, có sức khỏe, có nhiều mối
quan hệ… Trí tuệ của những người lãnh đạo các quốc gia thì
bám định vào việc có sức mạnh quân sự, có nhiều tài nguyên
thiên nhiên, có sức mạnh kinh tế, có lãnh thổ rộng lớn, có dân
số đông, hùng mạnh hơn quốc gia khác…
- Một người bám định vào thân tướng ta đẹp nên họ
chỉ biết rằng ta mới là xinh đẹp mà khinh khi những người
không đẹp bằng ta, thậm chí còn dùng thân tướng xinh đẹp
đó để vi phạm vào đạo đức xã hội, hành nghề mại dâm, dùng

235
thân tướng đó để ngoại tình với những người giàu có để
hưởng lợi ích cho mình và vi phạm luật Nhân quả về thông
dâm tà dâm.
- Có người bám định vào việc giàu có mà khinh khi
người không giàu có, thậm chí có người còn ăn chơi trụy lạc
đến nỗi không còn gì.
- Có người có địa vị chính trị, họ có chức sắc cao, họ
nghĩ và cho rằng mình là cao sang, họ khinh khi những người
không thuộc tầng lớp như họ. Họ sẵn sàng lợi dụng chức vụ
của họ để tham ô tham nhũng, chạy chức chạy quyền. Họ chỉ
giúp đỡ những người bất tài nhưng có nhiều tiền cho họ, họ
không biết sử dụng nhân tài cho Đất nước. Họ ảo tưởng vào
chức vụ và sức mạnh của họ mà sẵn sàng bán nước hại dân,
tham quyền cố vị để trục lợi về họ, về gia đình và dòng họ của
họ…
- Những người lãnh đạo quốc gia thì bám định vào việc
quốc gia họ có binh hùng tướng mạnh, kinh tế lớn mạnh mà
coi thường nhân quả. Họ đem binh đi xâm chiếm quốc gia
khác, kích động tạo ra các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia
để trục lợi cho quốc gia họ, khiến cho dân chúng lầm than
khổ đau, tang thương chết chóc trên mọi mảnh đất khắp Trái
đất này.
- Những người lãnh đạo của các quốc gia bám định vào
việc quốc gia họ có nhiều nguồn tài nguyên, sẵn sàng khai
thác cạn kiệt để trục lợi mang về cho nhóm người lãnh đạo,
khiến cho thiên tai xảy ra, cho con cháu đời sau cạn kiệt tài
nguyên, thiếu tiềm lực phát triển quốc gia. Họ bám định vào
việc sẵn có tài nguyên mà không thúc đẩy phát triển các
nguồn lực khác để vẫn đảm bảo được nguồn lực tài nguyên
cho quốc gia.
236
- Những người lãnh đạo quốc gia bám định vào sức
mạnh làm thay đổi kinh tế Thế giới hoặc kinh tế của quốc gia
khác. Họ sẵn sàng làm lũng đoạn nền kinh tế Thế giới hoặc
can thiệp vào kinh tế Quốc gia khác để trục lợi về quốc gia họ.
Điều này làm cho nhiều quốc gia điêu đứng và chìm sâu
trong nghèo đói bởi ảnh hưởng của sự lũng đoạn kinh tế. Sự
can thiệp của họ dẫn đến kinh tế nhiều quốc gia bị suy thoái
và khủng hoảng.

Như vậy, trí tuệ của mỗi cá nhân cho đến nhóm người,
vì bám định vào giả tướng mà chỉ biết vơ vét về mình, bám
chặt vào nó mà không biết chia sẻ, chuyển hóa thành lợi ích
cho mọi người và nhân loại. Đó là trí tuệ u mê, u mê vì không
thấu hiểu nhân quả, không thấu hiểu chân tướng của vạn vật
là do duyên sinh và do duyên diệt, nếu chỉ biết lợi mình mà
hại người thì sẽ sớm phải nhận quả báo do ác nghiệp tạo ra.
Trí tuệ bám định vào giả tướng không có:
Cái không có từ mỗi một con người cho đến những
nhóm người là sự đối lập với giả tướng có.
- Có người con gái có thân tướng xinh đẹp thì bám
định vào việc không có nhiều tiền mà sẵn sàng quan hệ bất
chính với những người giàu có để thỏa mãn việc được hưởng
lạc tiền tài từ người giàu có.
- Người giàu có vì bám định vào việc mình giàu có mà
không có người đẹp bên cạnh nên sẵn sàng quan hệ bất
chính để thỏa mãn nhu cầu dục vọng.
- Có người bám định vào việc nghèo khó, họ sẵn sàng
buôn bán trẻ em, sẵn sàng môi giới mại dâm, thậm chí hành
nghề mại dâm để thỏa mãn việc giàu có.

237
- Có người bám định vào việc không có nhiều tiền và
giàu sang như người khác, họ tìm mọi phương pháp làm giàu.
Họ bất chấp thủ đoạn vi phạm pháp luật để làm giàu như
buôn bán ma túy, đi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, buôn bán
những thứ gây nguy hiểm đến sức khỏe và tính mạng của
mọi người để nhanh chóng giàu có và trục lợi về mình.
- Có người bám định vào việc mình chưa đủ giàu có
bằng những người giàu có khác, chưa dư thừa tiền của để
giúp người nghèo khó hơn, nên họ luôn coi mình không có
điều kiện giúp người.
- Có người bám định vào việc mình có chức có quyền.
Họ coi người cấp dưới và những người khác không có được
địa vị như họ mà sẵn sàng khinh khi, coi thường, thậm chí
xúc phạm và chà đạp người không có địa vị như họ.
- Có người bám định vào việc họ có chức quyền nên họ
không giúp đỡ những người có tài thật sự mà không có tiền
hối lộ cho họ để thăng quan tiến chức.
- Những người lãnh đạo của nhiều quốc gia bám định
vào việc quốc gia họ không có nhiều nguồn tài nguyên nên họ
kích động chiến tranh xâm lược để vơ vét tài nguyên thiên
nhiên của quốc gia khác.
- Có nhiều lãnh đạo quốc gia bám định vào việc lãnh
thổ quốc gia họ nhỏ bé mà mang binh đi xâm lược để mở
rộng lãnh thổ.

Sự tham lam, sự u mê từ mỗi con người cho đến những
nhóm người, do bám định vào cái không có khiến cho vô số
người chịu khổ đau, vô số người ngã xuống vùi thân tướng
của mình nơi chiến trận, khiến cho mỗi bước chân trên mặt

238
đất là nơi có người gửi thân xác nằm xuống do chiến tranh.
Nhiều gia đình, người già và trẻ nhỏ vô tội phải sinh ly tử
biệt, nỗi đau của sự mất mát khiến cho những người chết tạo
thành oán khí khắp nhân gian, khiến cho người sống không
thể nguôi ngoai đau khổ.
Trí tuệ bám định vào giả tướng yêu
thương, sở thích:
Đó là do mắt ta nhìn thấy và đôi tai ta nghe thấy bởi
giả tướng ta đang có hoặc ta không có, mà khiến cho trí tuệ ta
bám định vào, bám vào để hưởng lợi ích về mình, gây tổn hại
người khác.
- Có người bám định vào việc yêu thương gia đình của
mình, mải miết chăm chút cho gia đình, họ chỉ nhất nhất làm
mọi thứ vì gia đình của họ mà không màng đến việc giúp đỡ
và quan tâm đến mọi người xung quanh. Họ chỉ ích kỷ cho gia
đình họ và coi những việc khác là của xã hội, là việc chung
không cần phải quan tâm và giúp đỡ.
- Có người đàn ông đã có gia đình, vì bám định vào
người phụ nữ khác xinh đẹp hơn vợ mình, dù người phụ nữ
đó có gia đình hay chưa có gia đình. Họ yêu thương mù
quáng, dẫn đến ngoại tình để rồi vi phạm giá trị đạo đức,
phạm vào tội thông dâm tà dâm.
- Có người phụ nữ dù có gia đình rồi nhưng lại bám
định vào người đàn ông đã có gia đình hay chưa có gia đình,
vì thấy ở người đàn ông đó hơn người chồng của mình mà
yêu thương mù quáng dẫn đến vi phạm giá trị đạo đức, phạm
vào tội thông dâm tà dâm.

239
- Có người phụ nữ chưa lập gia đình, vì bám định vào
người đàn ông có gia đình mà yêu thương mù quáng dẫn đến
vi phạm giá trị đạo đức là ngoại tình.
- Có người vợ hay chồng vì bám định vào việc vợ hay
chồng mình đã ngoại tình mà cũng ngoại tình để trả thù.
- Có người bám định vào sở thích dùng những hình
tướng, giả tướng, là sản phẩm hàng hiệu, sẵn sàng vay mượn
để thỏa mãn sở thích đó mà không màng đến sự khó khăn
hay lợi ích của vợ chồng con cái.
- Có người bám định vào sở thích chơi bời, cờ bạc,
rượu chè, dẫn đến ngạo mạn để rồi chìm đắm trong những
sở thích đó mà không màng đến lợi ích của gia đình và mọi
người xung quanh.

Như vậy, việc trí tuệ bám định vào yêu thương mù
quáng dẫn đến hành động ngoại tình, thông dâm, tà dâm để
thỏa mãn dục vọng ích kỷ của cá nhân mà gây khổ đau cho
nhiều người thân và xã hội. Sở thích để thỏa mãn lợi ích ích
kỷ cá nhân mà gây tổn thương hay không đem lại lợi ích cho
người thân và xã hội cũng là trí tuệ u mê.
Trí tuệ bám định vào giả tướng thù ghét:
Đó là do mắt ta nhìn thấy, đôi tai ta nghe thấy bởi giả
tướng nào đó, nó khiến cho trí tuệ của ta bám định vào giả
tướng mà ta không thích, ta thù ghét. Trí tuệ của ta không
thấy được chân tướng của sự thật, của giả tướng mà chìm
đắm trong u mê để rồi vì cái ích kỷ của ta mà gây tổn thương
cho mọi người.
- Có người bám định vào việc không thích người khác
ở tính cách hay điều gì đó mà nói xấu họ.

240
- Có người bám định vào việc không thích những
người cùng đẳng cấp mà khinh khi họ.
- Có người bám định vào việc ai đó không thỏa mãn
được sự mong mỏi và kỳ vọng của mình mà không thích hay
ghét họ.
- Có người bám định vào việc ai đó mắng mình mà sân
hận rồi thù ghét họ.
- Có người bám định vào việc ai đó ngăn cản mình làm
việc gì mà sân hận rồi thù ghét họ.
- Có người bám định vào việc bị ai đó lừa hại mình mà
coi họ là kẻ thù và tìm mọi cách để trả thù họ.
- Có người bám định vào việc ai đó đánh hay mưu hại
mình hoặc người thân của mình để rồi đánh lại hay mưu hại
lại nhằm thỏa mãn sự trả thù nơi thân ta.
- Có người vì bám định vào sở ghét điều gì đó, có khi là
mưa, có khi là nắng, có khi là sự bẩn thỉu, có khi là điều gì đó
mà dẫn đến khó chịu, sân hận để rồi dẫn đến hành động thỏa
mãn sở ghét đó mà gây tổn thương cho người khác.

Trí tuệ bám định vào giả tướng cầu không
được:
Khi ta không thỏa mãn hay không có các giả tướng để
thỏa mãn thì sẽ dẫn đến sinh khởi của trí tuệ mong muốn,
cầu thị, nhờ vả ai đó hay thậm chí là cầu xin Thánh thần,
Thượng đế để có được các giả tướng. Việc cầu để thỏa mãn
giả tướng có vô số giả tướng như: cầu giàu sang, cầu có nhà
cửa, cầu có xe cộ tốt hơn, cầu bình an, cầu có con trai hay cầu
có con, cầu thăng quan tiến chức, cầu nên duyên vợ chồng,
cầu thành công việc gì đó, người tu hành cầu pháp để có thần
241
thông cao hơn người khác, thậm chí cầu cho người khác gặp
họa để mình đạt được giả tướng mình cầu…
- Khi ta cầu từ việc nhờ vả ai đó, làm lễ cầu xin Thần
thánh, Thượng đế mà khi kết quả không được sẽ khiến cho ta
thất vọng, chán nản, thậm chí sân hận và phỉ báng cả Thần
thánh, Thượng đế đã không trợ giúp cho ta đạt được điều ta
đang cầu. Khi đó trí tuệ bám định vào giả tướng cầu không
được và vì sự ích kỷ sẽ sẵn sàng gây tổn thương đến nhiều
người và xã hội.
- Có người bám định vào việc bỏ nhiều tiền để chạy
chức chạy quyền, và khi tiền mất mà không đạt được mong
cầu đó dẫn đến thù ghét người mà không giúp mình.
- Có người bám định vào việc cầu sinh được con trai
mà không có dẫn đến chán nản mà đi ngoại tình để tìm người
có thể sinh con trai cho người đó.
- Có người bám định vào việc làm bao nhiêu lễ cầu xin
Thần thánh, Thượng đế phù hộ cho mình giàu sang, làm ăn
thành công. Khi kết quả ngày càng khiến cho nợ nần chồng
chất thì người đó quay sang phỉ báng Thánh thần và Thượng
đế, họ lại bám định vào việc thù ghét.
- Người tu hành, đệ tử vì bám định vào giả tướng thần
thông, pháp lực, khi cầu không được từ người thầy, họ sẵn
sàng khi sư diệt tổ, hãm hại đồng môn.

Trí tuệ bám định vào giả tướng cầu được:
Khi con người cầu và đạt được sẽ khiến cho trí tuệ
bám định vào giả tướng là ta đã cầu được. Khi cầu được rồi
sẽ chuyển sang trí tuệ bám định vào giả tướng ta đã có, và lại
tiếp tục bám định vào giả tướng mình không có để lại bám

242
định vào giả tướng cầu. Khi con người bám định vào giả
tướng cầu được rồi sẽ khiến cho trí tuệ con người dễ ngạo
mạn vào khả năng của trí tuệ, vào khả năng may mắn, vào sự
mê muội trong mê tín dị đoan bởi lễ bái, dễ dàng ngạo mạn
với những người cầu không được. Khi con người cầu vào các
giả tướng và đạt được sự cầu đó sẽ lại khiến cho trí tuệ tiếp
tục bám định vào các giả tướng để tham lam, vơ vét các giả
tướng khác về cho thân tướng của họ được thỏa mãn.
Trí tuệ bám định vào giả tướng có trí tuệ:
Khi con người có bằng cấp, được sắc phong, được
phong tặng, có địa vị trong xã hội, có sự giàu sang, có danh
tiếng, có đức cao trọng vọng trong tôn giáo, người tu hành có
thần thông pháp lực…, họ sẽ rất dễ bám định vào việc họ có
trí tuệ. Họ nghĩ họ hơn người khác bởi cái giả tướng đó mà u
mê khinh khi những người không có được giả tướng như họ.
- Có người bám định vào việc mình có bằng cấp cao
trong xã hội mà coi mình là tầng lớp thượng lưu có trí tuệ
hơn người, khinh khi coi thường những người không có bằng
cấp như mình.
- Có người bám định vào việc mình đọc nhiều kinh văn
hơn người khác mà cho rằng mình là bậc trí tuệ. Họ đọc
nhiều mà không phân biệt được lý luận đó có đúng với quy
luật tự nhiên không, có mang lại được lợi ích cho mọi người
không, họ bám định vào mà u mê.
- Có người bám định vào việc mình giàu sang mà coi
mình có trí tuệ hơn người, dẫn đến khinh khi coi thường
những người không giàu có như họ.
- Có người bám định vào việc mình có thần thông pháp
lực, có khả năng về tâm linh. Họ coi họ là bậc trí tuệ hơn

243
người, sẵn sàng dẫn dụ lừa mọi người để trục lợi, họ tạo ra
sự huyền bí và biến thành mê tín dị đoan khiến cho nhiều
người khổ đau.
- Có người bám định vào việc có chức có quyền, mà
miệt thị hay khinh khi người nông dân và các tầng lớp xã hội
thấp khác.

Họ u mê khi trí tuệ của họ bám định vào bằng cấp, bám
định vào giàu sang phú quý, bám định vào địa vị, bám định
vào chức vụ trong tôn giáo mà không hiểu rằng sự hiểu biết
của họ cũng chỉ giới hạn trong phạm vi lĩnh vực và công việc
chuyên môn. Họ không hiểu bậc trí tuệ giác ngộ là phải thấu
hiểu hết tất cả Vũ trụ quan trong và ngoài Vũ trụ. Vì họ bám
định nên họ u mê mà coi họ là bậc trí tuệ, họ sẵn sàng vì lợi
ích của họ mà gây tổn hại lợi ích của mọi người và xã hội.
Trí tuệ bám định vào giả tướng không có trí
tuệ:
Những người không được học hành nhiều, không có
bằng cấp, không có địa vị, không giàu sang, không có chức
sắc gì trong tôn giáo, họ là những người lao động ít học. Trí
tuệ của họ luôn bám định vào việc họ không có trí tuệ bằng
người khác.
- Có người bám định vào việc trí tuệ họ không có học
hành và không có bằng cấp nên họ tự ti và sợ hãi khi giao
tiếp với những người có bằng cấp, với những người giàu
sang và có địa vị.
- Có người bám định vào việc mình không có trí tuệ
thấu hiểu tâm linh nên dễ dàng bị những người dùng tâm

244
linh để lừa hại và chiếm đoạt tiền của dựa trên tín ngưỡng
tâm linh và niềm tin tôn giáo.

Dù bám định vào có trí tuệ hay không có trí tuệ thì đều
là trí tuệ u mê. U mê ở sự bám định vào mà không hiểu rằng
con người có sự bình đẳng, không có sự phân chia giai cấp,
mỗi con người tồn tại hiện kiếp đều có sự hiểu biết ở các lĩnh
vực khác nhau, mỗi kiếp người đều sẽ trải qua các thân
tướng khác nhau. Do đó không thể đem sự hiểu biết ở lĩnh
vực này đi nói là ta có trí tuệ hơn người hiểu biết ở lĩnh vực
khác, không thể so sánh giữa mọi người, sự so sánh khập
khiễng như vậy sẽ dẫn đến sự u mê của sự ngạo mạn hay tự
ti.
Trí tuệ bám định vào giả tướng hành động:
Khi chúng ta đã bám định vào các giả tướng như có,
không có, yêu thương, thù ghét, cầu được, cầu không được,
có trí tuệ, không có trí tuệ, thì sẽ dẫn đến việc trí tuệ của
chúng ta lại bám định vào giả tướng hành động. Vì trí tuệ đã
u mê bám định vào các giả tướng để thỏa mãn lợi ích của
mình nên họ sẽ sẵn sàng hành động tạo ác nghiệp hại người
và vạn vật.
- Có người bám định vào việc yêu thương người con
gái khác khi đã có vợ con, họ sẽ hành động quan hệ ngoại
tình với người con gái đó, như thế là ác nghiệp đã tạo.
- Có người bám định vào có chức có quyền, họ bám
định vào người hối lộ nhiều tiền thì mới giúp, và tiếp đến họ
hành động giúp thăng quan tiến chức cho người đó, như thế
nghiệp ác đã tạo.

245
- Có người bám định vào việc không có nhiều tiền mà
dẫn đến hành động buôn bán, làm ăn vi phạm pháp luật,
nghiệp ác đã tạo.
- Có người bám định vào việc mình có chức sắc trong
tôn giáo hoặc được gọi là thầy tâm linh mà dẫn đến hành
động lợi dụng tâm linh, tôn giáo để trục lợi hại người, nghiệp
ác đã tạo.

Như vậy trí tuệ bám định vào hành động là hành động
tạo ra nghiệp ác để thỏa mãn và đạt được lợi ích về mình mà
gây tổn thương cho người khác và xã hội.
Trí tuệ bám định vào giả tướng không hành
động:
Khi chúng ta đã bám định vào các giả tướng như có,
không có, yêu thương, thù ghét, cầu được, cầu không được,
có trí tuệ, không có trí tuệ, thì sẽ dẫn đến việc trí tuệ của
chúng ta lại bám định vào giả tướng không hành động. Đó là
vì lợi ích ích kỷ của mình mà không hành động giúp đỡ mọi
người, xã hội.
- Có người bám định vào trí tuệ mà coi mình là cao
sang và thượng lưu, khi gặp người nghèo khó nhờ giúp, họ
bám định vào mà không giúp đỡ.
- Có người bám định vào có và yêu thương gia đình,
họ chỉ chăm chăm lo toan cho gia đình họ mà không hành
động giúp đỡ người khác.
- Có người bám định vào chức sắc trong tôn giáo, vị
thế trong tâm linh, họ bám định vào cao sang và trí tuệ nên
họ không giúp đỡ những người nghèo khó đến nhờ.

246
- Có người bám định vào việc mình chưa đủ trí tuệ
giác ngộ, chưa đủ sức lực nên không hành động giúp người
gặp nạn hay gặp khó khăn khổ đau.

Vì 10 giả tướng đều là màn đêm tối mịt mù nên khi con
người chúng ta bám định vào một giả tướng nào thì hình ảnh
như ta đang sống giữa đêm tối mịt mù đó. Khi đó ta sẽ không
phân biệt được thật giả trong đêm tối, ta sẽ không biết đâu là
đúng và đâu là sai, ta không nhận biết được hiểm nguy trong
màn đêm tối đó. Từ việc bám định vào một giả tướng sẽ dẫn
đến bám định vào hết tất cả các giả tướng khác mà hành
động hay không hành động, đó là vì sự ích kỷ cá nhân mà gây
tổn thương cho người khác.

6.2. Trí Tuệ giác ngộ


Trí tuệ giác ngộ là trí tuệ không bị bám định vào giả
tướng, đó là trí tuệ thấu hiểu và biết chuyển hóa giá trị lợi ích
tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Để có được trí tuệ giác ngộ
thì mỗi con người phải thấu hiểu và luôn luôn dùng hai Chân
lý (Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ) để tham chiếu, soi
thấu, thấy chân tướng của tất cả các giả tướng là do duyên
sinh và do duyên diệt, là Nhân quả, để rồi chuyển hóa các giả
tướng đó thành lợi ích cho Tuệ linh, con người mà không
màng gì đến lợi ích cá nhân ta.
Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ như là mặt trời
tỏa ánh sáng hào quang rực rỡ, khi chiếu vào màn đêm tối
mịt mù của giả tướng nào thì sẽ xua tan sự giả dối của u mê
của giả tướng đó. Hai Chân lý sẽ phơi bày sự thật cho Vũ trụ,
Tuệ linh và con người thấu hiểu sự thật của vạn vật trong và

247
ngoài Vũ trụ. Mặt trời của hai Chân lý chiếu đến tất cả các
giả tướng thì tất cả màn đêm giả dối của giả tướng đó sẽ bị
xua tan và sự thật sẽ hiện hữu. Khi thấu hiểu hết sự thật
trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và người thì đó là trí tuệ giác
ngộ.
Những biểu hiện của Trí tuệ giác ngộ:
Trí tuệ không bám định vào giả tướng có:
Khi trí tuệ thấu hiểu Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác
ngộ, đó chính là ánh sáng mặt trời soi thấu vào trong giả
tướng có. Do đó sẽ thấy sự thật của giả tướng có. Ta tham
chiếu vào giả tướng có để chuyển hóa thành lợi ích cho mọi
người và cho chúng sinh, đó chính là trí tuệ giác ngộ ở giả
tướng có.
- Có người giàu có, họ không bám định vào việc họ giàu
có mà coi thường người không giàu có. Khi họ thấu hiểu
Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ, họ không ích kỷ cho bản
thân họ. Họ tham chiếu vào điều kiện mà họ có để chuyển
hóa thành lợi ích cho cộng đồng xã hội, cứu giúp dân chúng
vùng nghèo đói, vùng thiên tai dịch bệnh. Đó là trí tuệ giác
ngộ đã có để lan tỏa tình yêu thương nhân loại.
- Có người có địa vị, có chức có quyền, họ thấu hiểu
được Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ. Họ không bám
định vào đó mà phân biệt cao sang hay địa vị, họ không lạm
dụng quyền lực để tham ô tham nhũng. Họ tham chiếu vào
địa vị quyền lực họ đang có mà giúp đỡ những nhân tài vào
các vị trí đúng với năng lực của họ và mang lại nhiều lợi ích
cho Đất nước, đó là trí tuệ giác ngộ.
- Có người có địa vị chức sắc trong tôn giáo, họ không
bám định vào đó mà khinh khi không tiếp những người

248
nghèo. Khi họ thấu hiểu hai Chân lý, họ sẽ thương yêu và
giúp đỡ tất cả mọi người mà không phân biệt người đến nhờ
là người giàu hay nghèo, đó là trí tuệ giác ngộ.
- Có người có gia đình với cuộc sống hạnh phúc. Khi họ
thấu hiểu hai Chân lý, họ không bám định vào sự chăm chăm
chỉ lo cho gia đình mình. Họ tham chiếu vào cuộc sống mình
đang có để đi chia sẻ, giúp đỡ những người khác vượt qua
khó khăn khổ đau, đó là trí tuệ giác ngộ.
- Có người giàu có, họ thấu hiểu hai Chân lý, họ không
bám định vào việc thỏa mãn sự giàu có đó để hưởng lợi ích.
Khi họ thấu hiểu hai Chân lý, họ tham chiếu vào điều kiện họ
có để kinh doanh hay tạo ra sản phẩm có lợi ích cho người
dân mà không màng gì đến lợi ích cá nhân mình, đó là trí tuệ
giác ngộ.
- Có người có cuộc sống gia đình không hạnh phúc. Họ
thấu hiểu hai Chân lý, họ tham chiếu vào cuộc sống của mình
mà không bám định vào giả tướng bên ngoài để dẫn đến gia
đình ly tán. Họ vun vén và xây dựng cuộc sống gia đình tốt
đẹp hơn, đó là giác ngộ.

Trí tuệ không bám định vào giả tướng
không có:
Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi
thấu bản chất của giả tướng không có, tham chiếu vào nó mà
chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người và chúng sinh. Đó là
trí tuệ giác ngộ giả tướng không có.
- Có người không giàu có, họ thấu hiểu hai Chân lý, họ
không bám định vào việc phải giàu có bằng mọi cách mà gây
tổn hại cho mọi người. Họ lao động chân chính, cố gắng cải

249
tạo cuộc sống tốt đẹp hơn và mang lại được nhiều lợi ích cho
mọi người, đó là giác ngộ.
- Có người không có địa vị cao, họ thấu hiểu hai Chân
lý, họ không bám định vào việc không có địa vị cao mà chạy
chức chạy quyền hay tham ô tham nhũng. Họ cố gắng cống
hiến hết mình cho Đất nước bằng trí tuệ không ngừng học
tập trau dồi, đó là giác ngộ.
- Có người không bám định vào việc không có chức sắc
trong tôn giáo, họ thấu hiểu hai Chân lý, họ luôn luôn giúp đỡ
tất cả mọi người mà không màng đến địa vị chức sắc, đó là
giác ngộ.
- Có người không bám định vào việc hơn thua với bạn
đồng môn hay thầy dạy. Họ thấu hiểu hai Chân lý, họ không
màng đến sự cao thấp hơn thua mà luôn sống đúng đạo thầy
trò, không ngừng hành thiện giúp đỡ mọi người, đó là giác
ngộ.

Trí tuệ không bám định vào giả tướng yêu
thương, sở thích:
Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi
thấu giả tướng yêu thương, sở thích, từ đó tham chiếu và
chuyển hóa giả tướng đó thành lợi ích cho mọi người và
chúng sinh. Đó là trí tuệ giác ngộ vào giả tướng yêu thương,
sở thích.
- Có người con gái xinh đẹp, họ thấu hiểu hai Chân lý,
họ không dùng sắc đẹp đó để đi yêu thương người có gia
đình hoặc tà dâm mà vi phạm luật Nhân quả. Họ tham chiếu
vào thân tướng họ mà chuyển hóa thành lao động chân
chính, yêu thương chân chính, tuân thủ luật pháp quốc gia và

250
luật Nhân quả để đem lại hạnh phúc cho chính mình và mọi
người khác. Đó là giác ngộ.
- Có người khi đã có gia đình, cuộc sống vợ chồng
không được viên mãn. Họ thấu hiểu hai Chân lý, họ không
bám định vào đó mà đi yêu thương ngoại tình, thông dâm. Họ
cùng vợ chồng vun vén và xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn và
không ảnh hưởng đến hạnh phúc của người khác, đó là giác
ngộ.
- Có người thích cờ bạc, ăn chơi, mua sắm phung phí.
Khi họ thấu hiểu hai Chân lý, họ sẽ không bám định vào sở
thích đó. Họ chuyển hóa thành lao động chân chính, lo lắng
cho mọi người xung quanh, cải tạo cuộc sống tốt đẹp hơn, đó
là giác ngộ.

Trí tuệ không bám định vào giả tướng thù
ghét:
Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi
thấu giả tướng thù ghét, tham chiếu và chuyển hóa nó thành
lợi ích cho mọi người, đó là trí tuệ giác ngộ ở giả tướng thù
ghét.
- Có người sân hận người nào đó đã làm cho mình tổn
thương, khi thấu hiểu hai Chân lý, họ không bám định vào
thù ghét người đó nữa. Họ an vui và mang lại lợi ích cho mọi
người và chính người mà họ đã thù ghét, đó là giác ngộ.
- Có người nào đó khi không thỏa mãn được các giả
tướng nên thù ghét và sân hận với người mà không cho mình
được thỏa mãn. Khi họ thấu hiểu hai Chân lý, họ không còn
bám định vào giả tướng đó. Họ tham chiếu và chuyển hóa để

251
mang lại lợi ích cho mọi người và chính người mà mình đang
thù hận, đó là giác ngộ.

Trí tuệ không bám định vào giả tướng cầu
được hay cầu không được:
Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi
thấu giả tướng cầu là không có, để mọi người không còn bám
định vào cầu. Khi đó mọi người hăng say lao động sản xuất,
lao động chân chính, tu tập chân chính, cố gắng cải tạo cuộc
sống tốt đẹp hơn và mang lại lợi ích cho mọi người khác. Đó
là giác ngộ vào giả tướng cầu.
Trí tuệ không bám định vào giả tướng có trí
tuệ:
Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi
thấu giả tướng có trí tuệ, tham chiếu vào nó để chuyển hóa
thành lợi ích cho mọi người. Đó là trí tuệ giác ngộ vào giả
tướng có trí tuệ.
- Có người có chức có quyền, có học hàm học vị cao. Họ
thấu hiểu hai Chân lý, họ không bám định vào việc họ có
bằng cấp hay địa vị. Họ luôn luôn giúp đỡ mọi người, giúp đỡ
những người nghèo, họ quan tâm đến lợi ích của chúng sinh,
đó là giác ngộ.
- Có người có chức sắc trong tôn giáo, thấu hiểu về tâm
linh. Khi thấu hiểu hai Chân lý, họ không bám định vào đó, họ
không lừa người để trục lợi. Họ quan tâm và giúp đỡ mọi
người mà không phân biệt, đó là giác ngộ.

252
Trí tuệ không bám định vào giả tướng
không có trí tuệ:
Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi
thấu giả tướng không có trí tuệ, tham chiếu vào nó để cố
gắng không ngừng cải tạo trau dồi trí tuệ và chuyển hóa
thành lợi ích cho mọi người, đó là trí tuệ giác ngộ.
- Có người nông dân, họ không có bằng cấp, không có
địa vị. Khi họ thấu hiểu hai Chân lý, họ tham chiếu và thuyết
giảng hai Chân lý cho mọi người khác cùng thấu hiểu. Họ
không ngại ngùng hay tự ti mà đi thuyết giảng, họ chuyển
hóa thành lợi ích cho nhiều người, đó là giác ngộ.

Trí tuệ không bám định vào giả tướng hành
động:
Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi
thấu giả tướng hành động, tham chiếu vào hành động để
mang lại lợi ích cho mọi người. Đó là giác ngộ vào hành động.
- Có người do thấu hiểu hai Chân lý nên tham chiếu
vào các giả tướng mình giàu có để chuyển hóa thành hành
động là làm từ thiện giúp đỡ người nghèo và dân chúng vùng
thiên tai lũ lụt. Đó là trí tuệ giác ngộ.
- Có người có chức có quyền, do thấu hiểu hai Chân lý,
họ tham chiếu vào giả tướng mình có chức có quyền mà
chuyển hóa thành hành động để giúp đỡ các nhân tài vào các
vị trí phù hợp, giúp đỡ dân tộc Đất nước cường thịnh, đó là
giác ngộ.

253
Người thấu hiểu hai Chân lý, họ luôn luôn gieo duyên
để chuyển hóa thành hành động giúp đỡ mọi người thấu hiểu
hai Chân lý và vượt qua u mê để có trí tuệ giác ngộ.
Trí tuệ không bám định vào giả tướng
không hành động:
Đó là dùng ánh sáng mặt trời của hai Chân lý để soi
thấu giả tướng không hành động. Đó là không hành động tạo
nghiệp gây tổn thương đến mọi người, không hành động vi
phạm pháp luật quốc gia nơi mình sinh sống, không hành
động vi phạm luật Nhân quả, đó là giác ngộ vào giả tướng
không hành động.
- Có người không bám định vào việc mình nghèo,
không bám định vào việc cầu dẫn đến không hành động làm
giàu bằng mọi cách mà vi phạm pháp luật hay vi phạm đạo
đức con người. Do họ thấu hiểu hai Chân lý nên họ lao động
chân chính để cải tạo cuộc sống và mang lại lợi ích cho mọi
người và xã hội, đó là giác ngộ.
- Có người có địa vị quyền chức, họ thấu hiểu hai Chân
lý nên họ không hành động giúp đỡ những người nhiều tiền
không có tài, không có đức, chạy chức chạy quyền. Họ không
hành động để mang lại lợi ích cho dân tộc, cho Đất nước, đó
là giác ngộ.
- Có người có chức sắc trong tôn giáo, họ không bám
định vào việc có địa vị, họ không bám định vào việc không có
nhiều tiền. Họ thấu hiểu hai Chân lý, họ chuyển hóa thành
không hành động tạo ra mê tín dị đoan, không hành động lừa
hại mọi người. Họ chuyển hóa thành hành động giúp đỡ mọi
người bài trừ mê tín dị đoan, đó là giác ngộ.

254
6.3. Căn cơ Trí tuệ
Bản chất của trí tuệ là u mê là do bám định vào giả
tướng và có được trí tuệ giác ngộ khi thấu hiểu hai Chân lý và
chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người và chúng sinh, Tuệ
linh, con người. Để từ cảnh giới của trí tuệ u mê tiến đến
cảnh giới của trí tuệ giác ngộ viên mãn cũng là khoảng cách,
khoảng cách này có thể chia ra làm 4 nấc thang để đo căn cơ
của mỗi người, Tuệ linh có nghị lực vượt qua từng nấc thang.
Thông qua 4 căn cơ này để cho con người dễ dàng nhận thấy
mình hay ai đó đang ở căn cơ nào mà dễ dàng vận dụng hai
Chân lý tiếp tục chuyển hóa mình và mọi người đạt được trí
tuệ giác ngộ viên mãn.
Bản chất của thang đo căn cơ trí tuệ chính là việc trí
tuệ của mỗi Tuệ linh, con người giải mã, mã hóa được lượng
mã sóng trí tuệ của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ ở mức từ
đơn giản tới siêu trí tuệ, từ nhỏ nhất cho tới bao trùm trong
và ngoài Vũ trụ. Muốn gia tăng được khả năng giải mã, mã
hóa các mã sóng trí tuệ của tất cả các nhóm vật chất trong và
ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và người, thì cần sự trải nghiệm khổ
đau, kiếp nạn đủ lớn và cực đại, thậm chí là phải tột cùng
trong nhiều kiếp tu hành ở nhân gian.
Căn cơ trí tuệ giác ngộ thấp:
- Người có căn cơ trí tuệ giác ngộ thấp là người không
thấu hiểu và không tin về sự thật cội nguồn nhân loại, về sứ
mệnh tu hành ở nhân gian, không thấu hiểu vạn vật và hai
Chân lý, không tin Quy luật Nhân quả. Họ mải mê và đắm
chìm trong việc bám định và vơ vét các giả tướng về nơi thân
họ để hưởng thụ. Người có căn cơ thấp thường là chưa trải
qua khổ đau nên chưa tin vào nhân quả nghiệp báo. Họ chỉ

255
tin vào trí tuệ mà họ bám định, tin và đắm chìm trong giả
tướng họ có, họ đắm chìm trong mưu cầu, đắm chìm trong
tất cả các giả tướng.
- Hình ảnh người có căn cơ trí tuệ giác ngộ thấp là hình
ảnh một người lặn ngụp dưới đáy dòng sông. Vì dưới đáy
dòng sông có nhiều cát bụi nên họ nhắm mắt để hưởng thụ
sự mát mẻ của phù du giả tướng, họ không nhận biết được
sự nguy hiểm dưới đáy dòng sông. Họ tự hào vào việc họ
thấy và cảm thấy thỏa mãn hay chưa thỏa mãn vào các phù
du giả tướng mà vẫn đắm chìm trong các giả tướng. Họ
không màng đến ánh sáng của hai Chân lý.
- Họ sẽ chuyển hóa căn cơ trí tuệ lên cao hơn khi có
thủy quái tấn công họ. Khi đó, họ chợt nhận ra, họ hoảng hốt
vì bị tổn thương và lo sợ sẽ chết dưới đáy dòng sông nên họ
phải ngoi mình lên mặt nước và đầu họ không còn dưới đáy
sông nữa.
- Những người căn cơ trí tuệ giác ngộ thấp sẽ phải tiếp
tục trải qua vô số kiếp nạn khổ đau và sẽ cải tạo Trụ linh
thành công vào nhiều đời sau. Tức là những người có căn cơ
trí tuệ giác ngộ thấp phải gặp nhiều khổ đau kiếp nạn đến và
nhận ra khổ đau thì họ mới chuyển hóa căn cơ lên căn cơ trí
tuệ giác ngộ trung bình và các căn cơ cao hơn.
Căn cơ trí tuệ giác ngộ trung bình:
- Những người này họ bán tín bán nghi, nửa tin nửa
nghi ngờ về cội nguồn nhân loại, về sứ mệnh tu hành ở nhân
gian, về Quy luật Nhân quả, về quả báo, về hai Chân lý. Họ đã
trải qua ít nhiều khổ đau rồi, họ vẫn mải mê chìm đắm trong
phù du giả tướng, vẫn muốn vơ vét và bám định vào các giả
tướng.

256
- Hình ảnh tượng trưng cho người có căn cơ trí tuệ
giác ngộ trung bình là một người đằm mình dưới dòng sông,
đầu và mặt người đó đã ngoi lên trên mặt nước, mặt họ đã
nhìn thấy Mặt trời và ánh sáng mặt trời của hai Chân lý. Tuy
nhiên, họ vẫn còn đắm chìm hay chưa thỏa mãn bởi phù du
giả tướng như dòng nước mát mà không đi lên bờ. Họ không
sợ vi phạm Quy luật Nhân quả nên họ chưa đi theo ánh sáng
của hai Chân lý. Họ chỉ hoảng sợ và sợ chết khi có con thủy
quái cắn vào thân họ đang chìm trong dòng nước mà chạy
lên bờ.
- Họ cũng từng trải qua khổ đau, nhưng phải đến khi
chịu nhiều khổ đau kiếp nạn đến, họ mới tin là việc đằm
mình trong u mê của giả tướng sẽ khiến họ chịu quả báo và
cái chết. Lúc đó họ sẽ tin nhân quả và sự an toàn nơi ánh
sáng mặt trời của hai Chân lý mà đi theo lên bờ sông. Những
người căn cơ trí tuệ giác ngộ trung bình sẽ phải luân hồi
trong nhiều kiếp và sớm cải tạo Trụ linh thành công trong
các đời sau khi khổ đau kiếp nạn đến nhiều với họ. Hình ảnh
họ đang đi lên bờ sông là hình ảnh chuyển hóa thành căn cơ
trí tuệ giác ngộ khá.
Căn cơ trí tuệ giác ngộ khá:
- Những người này họ hoàn toàn tin nhân quả, tin cội
nguồn nhân loại, tin sứ mệnh tu hành ở nhân gian, họ đã trải
qua nhiều khổ đau rồi. Họ đang từng bước rời bỏ sự bám
định vào các giả tướng và từng bước chuyển hóa thành lợi
ích cho chúng sinh để hướng đến ánh sáng mặt trời của hai
Chân lý.
- Hình ảnh người có căn cơ trí tuệ giác ngộ khá là một
người đang đi từ dưới dòng sông sâu lên bờ, họ đang đi và
hướng về ánh sáng mặt trời của hai Chân lý. Khi lên bờ gặp
257
hai Chân lý thì họ sẽ cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng
viên mãn tại hiện kiếp. Tuy nhiên vì họ vẫn còn nuối tiếc phù
du giả tướng như dòng nước mát nên họ còn chậm chạp
trong việc bước đến với ánh sáng chân lý.
- Để họ chuyển hóa lên căn cơ trí tuệ giác ngộ nhanh,
chỉ cần có thêm vài khổ đau hiện hữu với họ thì họ sẽ đẩy
nhanh tốc độ rời xa khỏi u mê mà chuyển hóa thành căn cơ
trí tuệ giác ngộ cao để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng.
Căn cơ trí tuệ giác ngộ cao:
- Là những người đã có niềm tin tuyệt đối vào cội
nguồn của nhân loại, tin vào nhân quả, tin vào sứ mệnh tu
hành ở nhân gian. Họ đã trải qua hết các kiếp nạn khổ đau
trong nhiều đời nhiều kiếp. Họ không còn u mê chìm đắm
trong sự bám định về các giả tướng. Họ biết chuyển hóa các
giả tướng đó thành lợi ích cho mọi người, họ có tình yêu
thương bao la cho nhân loại và muôn loài.
- Hình ảnh người có căn cơ trí tuệ giác ngộ cao là hình
ảnh một người đã đứng trên bờ sông, đứng dưới ánh sáng
mặt trời của hai Chân lý. Họ quan sát được thế giới quan
xung quanh, thấy sự thật của tất cả các giả tướng, họ an lạc
tự tại nơi thân tâm.
- Những người này chỉ cần gặp ánh sáng của hai Chân
lý và thực hành cải tạo Trụ linh sẽ chuyển sinh thành bộ lọc
năng lượng ngay.
Các Tuệ linh đã trải nghiệm vô số kiếp tu hành ở nhân
gian với vô số các kiếp nạn khổ đau, an vui hạnh phúc trong
tất cả các kịch bản và môi trường tương tác. Điều này đã giúp
cho dạng sống Tuệ linh bộc phát được hết bản chất Trụ – Trí

258
trong Trụ linh của họ. Hai Chân lý chính là tri thức để phân
tích tất cả bản chất Trụ – Trí của Tuệ linh và con người.
Thông qua hai Chân lý sẽ xây dựng được phương pháp tuyệt
vời nhất để Tuệ linh và con người chuyển sinh Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng viên mãn nhất. Đó là đi trên con đường
giác ngộ để đạt được Kết – Định – Tỏa trong Trụ linh.

7. Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) Kết của 3 nhóm


vật chất cấu tạo thành Vũ trụ
Việc giải mã, thấu hiểu bản chất Trụ – Trí Kết của 3
nhóm vật chất trong Vũ trụ sẽ giúp cho Tuệ linh và con người
dễ dàng mã hóa thông tin sự thật của vạn vật vào trong Trụ
linh. Khi đó, sẽ biết cách kiểm soát được độc của hạt năng
lượng âm và kích hoạt được thiện của hạt năng lượng dương
bằng chân tâm. Làm được sẽ tiến nhanh tới thành tựu
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

7.1. Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) Kết của 3 nhóm
vật chất
Kết là rung động, là bắt tín hiệu, là thu tín hiệu, là hút
về, là lấy về, là hưởng thụ, là chìm đắm, là chiếm đoạt, là
cướp bóc, là thỏa mãn, là giết hại, là gây tổn hại tới vạn vật.
Kết có bản chất là sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện
âm. Bởi sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm mới rung
động, mới bắt tín hiệu, mới thu tín hiệu, mới hút về, mới lấy
về, mới hưởng thụ, mới chìm đắm, mới chiếm đoạt, mới
cướp bóc, mới thỏa mãn, mới giết hại, mới gây tổn hại.

259
Kết ở mức nhẹ là chỉ rung động, thu hút tín hiệu. Kết ở
mức rất mạnh là giết hại, thỏa mãn mà gây tổn hại tới các
chỉnh thể khác.
Trong bất cứ cấu trúc Trí tuệ nào được hình thành từ
sự hợp nhất của sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và
dương đều có Kết. Bởi khi Trụ linh của Tướng được hình
thành từ hai sợi mã sóng trí tuệ đã có một sợi mã sóng trí tuệ
mang sóng điện âm. Mà bản chất của sợi mã sóng trí tuệ
mang sóng điện âm là Kết. Điều này cho thấy, hết thảy các
cấu trúc Trí tuệ (trừ các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện
dương và sóng điện trung tính) đều có bản chất là Kết. Có
chăng mức độ Kết ở mức siêu nhẹ hay nhẹ, mạnh hay siêu
mạnh.
Kết tồn tại trong cả 3 nhóm cấu trúc Trí tuệ. Ba nhóm
cấu trúc Trí tuệ tương ứng với 3 nhóm Tướng (vật chất). Đó
là nhóm cấu trúc trí tuệ giản đơn, nhóm cấu trúc Trí tuệ phức
tạp, nhóm cấu trúc siêu Trí tuệ.
Kết là bản chất mà bất cứ cấu trúc Trí tuệ nào muốn
phát triển và nâng cấp phải có. Bởi chỉ khi có Kết thì hết thảy
các cấu trúc Trí tuệ trong Vũ trụ mới hấp thụ nhiệt lượng,
hấp thụ dinh dưỡng, hấp thụ sóng điện để thực hiện được cơ
chế phân tách và liên kết nhằm tồn tại, phát triển bền vững
hơn.
Kết ở mức độ nhẹ và vừa đủ sẽ thúc đẩy được sự phát
triển bền vững của cấu trúc Trí tuệ và mang lại lợi ích tới hết
thảy các Tướng khác trong Vũ trụ. Kết ở mức độ mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh sẽ khiến cho cấu trúc Trí tuệ không phát
triển được mà dễ dàng bị năng lượng hoại diệt gây phân rã
làm vỡ cấu trúc, hoại diệt vĩnh viễn và gây tổn hại tới hết
thảy các Tướng trong Vũ trụ.
260
Có 3 nhóm cấu trúc Trí tuệ Kết dễ bị phân rã và hoại
diệt. Đó là 3 nhóm cấu trúc Trí tuệ Kết từ mạnh cho tới rất
mạnh và siêu mạnh:
- Nhóm cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh là nhóm cấu trúc Trí
tuệ được hợp nhất bởi một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện
âm màu xám với một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương
bất kỳ, gọi là Trụ linh đa âm mạnh. Do sợi mã sóng trí tuệ có
sóng điện âm rung lắc mạnh, quay ngược mạnh, hút sóng
điện bên ngoài về mạnh nên cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh.
- Nhóm cấu trúc Trí tuệ Kết rất mạnh là nhóm cấu trúc
Trí tuệ được hợp nhất bởi một sợi mã sóng trí tuệ có sóng
điện âm màu đen với một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện
dương bất kỳ, gọi là Trụ linh đa âm rất mạnh. Do sợi mã sóng
trí tuệ có sóng điện âm rung lắc rất mạnh, quay ngược rất
mạnh, hút sóng điện bên ngoài về rất mạnh nên cấu trúc Trí
tuệ Kết rất mạnh.
- Nhóm cấu trúc Trí tuệ Kết siêu mạnh là nhóm cấu
trúc Trí tuệ được hợp nhất bởi một sợi mã sóng trí tuệ có
sóng điện âm màu đỏ máu với một sợi mã sóng trí tuệ có
sóng điện dương bất kỳ, gọi là Trụ linh đa âm siêu mạnh. Do
sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm rung lắc siêu mạnh, quay
ngược siêu mạnh, hút sóng điện bên ngoài về siêu mạnh nên
cấu trúc Trí tuệ Kết siêu mạnh.
Các cấu trúc Trí tuệ có bản chất Kết từ cấu trúc hạt
năng lượng tận cùng cho tới cấu trúc Trụ linh, cho tới cấu
trúc Tướng (Tuệ linh, con người, muông thú, hành tinh, thiên
hà, Vũ trụ) ở mức mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh, đó là
các cấu trúc Trí tuệ đa âm. Khi đa âm, tức là lượng sợi mã
sóng trí tuệ có sóng điện âm được phân tách ra vô số mà
không cấu tạo được thành liên kết vững chắc như những sợi
261
mã sóng trí tuệ có sóng điện dương. Việc không tạo được sự
liên kết chặt chẽ trong cấu trúc tổng hòa các sợi mã sóng trí
tuệ sẽ làm cho cấu trúc Trí tuệ không có khả năng phòng thủ
trước sự tấn công của năng lượng hoại diệt. Khi năng lượng
hoại diệt tấn công sẽ làm cho cấu trúc Trí tuệ đó bị đứt liên
kết, bị phân rã và hoại diệt vĩnh viễn.
Khi các cấu trúc Trí tuệ Kết tương tác với nhau sẽ dễ
dàng tạo thành hiệu ứng Kết liên kết với Kết. Đây chính là hội
chứng liên kết phóng xạ âm của các cấu trúc Trí tuệ có bản
chất Kết. Khi hội chứng liên kết phóng xạ âm xảy ra giữa các
cấu trúc Trí tuệ, các cấu trúc Trí tuệ sẽ rung lắc mạnh, thu
hút mạnh, quay ngược mạnh. Điều đó khiến cho năng lượng
hoại diệt sẽ tấn công vào rất mạnh. Khi đó, các cấu trúc Kết
này nhanh chóng bị phân rã và hoại diệt. Có thể nói, khi các
cấu trúc Trí tuệ Kết tương tác với nhau sẽ gây tổn hại lớn cho
chính cấu trúc Trí tuệ của chính nó và các cấu trúc Trí tuệ
khác.

7.2. Các cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) Kết của 3
nhóm vật chất
Các cấu trúc Trí tuệ Kết ở mức mạnh, rất mạnh và siêu
mạnh có trong 3 nhóm vật chất là:
Các cấu trúc Trụ – Trí Kết trong nhóm siêu
vật chất:
Siêu vật chất hay còn gọi là siêu Tướng. Đó là năm
nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức
tạp. Đó là dạng sống Tuệ linh. Đó là dạng sống Tuệ linh và
Linh hồn đã từng hoặc đang an trụ trong thân tướng con
người.
262
Siêu Tướng có cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh, rất mạnh và
siêu mạnh là:
- Hạt năng lượng âm tận cùng màu xám, màu đen, màu
đỏ máu có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp.
- Tuệ linh bị đa âm, bị phóng xạ năng lượng âm.
- Tuệ linh đã hóa thành ngã quỷ sau quá trình tu hành
ở nhân gian.
- Tuệ linh, Linh hồn đang phân rã và tiệm cận sự hoại
diệt. Đó là họ đang rung động, hút, chiếm hữu, gây tổn hại tới
các chỉnh thể khác mà không thể kiểm soát được chính họ.
- Tuệ linh, Linh hồn đang ở các cửa ngục ác nghiệp ở
cõi trời Địa phủ.
- Tuệ linh, Linh hồn đang ở cảnh sống âm tại cõi trời
Địa phủ.
- Tuệ linh, Linh hồn hóa ngã quỷ đang an trụ trong
không gian Vũ trụ.
- Tuệ linh, Linh hồn hóa ngã quỷ đang an trụ ở khắp
điền thổ, những nơi thờ tự ở nhân gian.
- Tuệ linh, Linh hồn đang bị mắc kẹt ở nhân gian sau
khi hết kiếp người mà chưa được chuyển sinh luân hồi kiếp
mới.
- Tuệ linh đang an trụ trong con người có tư tưởng cho
đến hành động tiêu cực gây tổn hại vạn vật, Tuệ linh và
người. Là người vi phạm vào bốn hình tướng Đạo, đó là vi
phạm vào những điều không được phép vi phạm trong bốn
hình tướng Đạo. Đặc biệt là những con người có đại hệ tư
tưởng u mê, tiêu cực gây tổn hại Tuệ linh, con người. Họ là
những người lan tỏa mê tín dị đoan, lan tỏa tư tưởng chủ

263
nghĩa dân tộc cực đoan, lan tỏa chiến tranh, lan tỏa những tư
tưởng đi ngược Quy luật Nhân quả.
Các siêu Tướng có cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh, rất mạnh
và siêu mạnh sẽ khiến cho cấu trúc 16 hạt năng lượng mở
rộng được phân tách ra bên ngoài Trụ linh bị mất cân bằng.
Khi đó, các hạt năng lượng âm sẽ được phân tách ra quá
nhiều, trong khi các hạt năng lượng dương lại quá ít. Khi mất
cân bằng sẽ khiến tốc độ rung lắc trong các sợi mã sóng trí
tuệ của các hạt năng lượng âm rất lớn. Năng lượng hoại diệt
bắt được tín hiệu, chúng di chuyển vào làm đồng hóa, phân
rã và hoại diệt cấu trúc Trí tuệ đó. Cấu trúc Trí tuệ chính là
cấu trúc năng lượng, cũng chính là cấu trúc Tướng.
Các cấu trúc Trụ – Trí Kết trong nhóm vật
chất phức tạp:
Vật chất phức tạp hay còn gọi là Tướng phức tạp. Đó là
dạng sống của linh hồn muông thú khi chúng chưa được
chuyển sinh làm người; là linh hồn, cấu trúc năng lượng an
trụ trong cây cối, trong đất đá; là cấu trúc năng lượng trong
năm nhóm đang tồn tại và vận hành sự sống của cả Vũ trụ.
Tướng phức tạp có cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh là:
- Những tầng năng lượng tiêu cực có sóng điện âm
màu xám, màu đen, màu đỏ máu. Đó là những tầng năng
lượng sóng điện âm vận hành Vũ trụ.
- Những linh hồn các con thú dữ. Sau khi hoại diệt thân
xác, linh hồn chúng tồn tại trên điền thổ và chúng gây tổn hại
tới đời sống của con người. Chúng được gọi là yêu tinh, yêu
quái.

264
- Những linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong đất
đá, trong những cây có tính chất độc tố. Đó là những cây cối,
những đất đá gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống của con
người và vạn vật cũng như muông thú.
Các Tướng phức tạp có cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt bắt
được tín hiệu. Chúng di chuyển ồ ạt vào làm đồng hóa, phân
rã và hoại diệt các cấu trúc Trí tuệ. Cấu trúc Trí tuệ chính là
cấu trúc năng lượng, cũng chính là cấu trúc Tướng.
Các cấu trúc Trụ – Trí Kết trong nhóm vật
chất giản đơn:
Vật chất giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó là
dạng sống của thân tướng vật chất rắn, lỏng, khí; là thân
tướng con người, thân tướng muông thú, thân tướng cỏ cây,
đất đá, nước…; là các hành tinh trong toàn bộ Vũ trụ.
Tướng giản đơn có cấu trúc Trí tuệ Kết mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh là:
- Thân tướng con người:
+ Những con người có thân bệnh. Thân bệnh là năng
lượng âm quá nhiều, dư thừa, khiến cho sóng điện âm dương
trong cơ thể không tuần hoàn. Khi đó, năng lượng hoại diệt
xâm nhập làm biến đổi cấu trúc tế bào và gây ra những bệnh
lý hiểm nghèo.
+ Những con người có trí tuệ bám định, u mê không tin
vào Quy luật Nhân quả, vào cội nguồn nhân loại, vào con
đường và sứ mệnh tu hành cải tạo Trụ linh.
+ Những con người có trí tuệ bám định vào các giả
tướng mà không hành thiện cứu giúp con người, vạn vật và
muông thú.
265
+ Những con người có những hành động gây tổn hại
tới vạn vật, con người, muông thú để thỏa mãn cho bản thể
họ.
+ Những con người có đại hệ tư tưởng tiêu cực đi
ngược lại Quy luật Nhân quả.
+ Những con người sống và lan tỏa những đại hệ tư
tưởng: u mê, mê tín dị đoan, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tôn
giáo cực đoan, phân chia dân tộc, phân chia sắc tộc, chiến
tranh…
+ Những con người sống và thực hành, lan tỏa vi phạm
bốn hình tướng Đạo.
- Thân tướng muông thú: Đó là những con thú ăn thịt
đồng loại, những con thú ăn thịt các con thú khác, những con
thú không cứu giúp và bảo vệ đồng loại của chúng. Những
con thú không cứu giúp muông thú khác, không giúp đỡ con
người, không cứu giúp vạn vật.
- Những cỏ cây hút nước, hút dinh dưỡng để tồn tại và
phát triển.
- Những hang sâu trong lòng đất núi. Những vật chất
đá không sinh phát ra năng lượng tốt cho vạn vật. Những kim
loại, hóa chất, chất độc trong thiên nhiên, trong lòng đất.
- Nước trung hòa tất cả vạn vật.
- Những hành tinh có đa sóng điện âm mạnh.

8. Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) Định của 3 nhóm


vật chất cấu tạo thành Vũ trụ
Việc giải mã, thấu hiểu bản chất Trụ – Trí Định của 3
nhóm vật chất trong Vũ trụ sẽ giúp cho Tuệ linh và con người

266
dễ dàng mã hóa thông tin sự thật của vạn vật vào trong Trụ
linh. Khi đó, sẽ biết cách kiểm soát được độc của hạt năng
lượng âm và kích hoạt được thiện của hạt năng lượng dương
bằng chân tâm. Làm được điều đó sẽ tiến nhanh tới thành
tựu chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

8.1. Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) Định của 3 nhóm
vật chất
Định là đứng im, là bất động, là tĩnh lặng, là thanh tịnh,
là an lạc, là thanh lọc. Định có nghĩa là không Kết cũng không
Tỏa.
Định có bản chất là sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện
chân tâm; là cấu trúc Trí tuệ cân bằng. Là chân tâm, là cấu
trúc cân bằng nên mới đứng im, nên mới bất động, nên mới
tĩnh lặng, nên mới thanh tịnh, nên mới an lạc, nên mới thanh
lọc.
Cấu trúc Trí tuệ Định chính là Trụ linh của Tướng
được cấu tạo thành bởi một sợi mã sóng trí tuệ âm có sóng
điện nhẹ màu trắng xám với một sợi mã sóng trí tuệ có sóng
điện dương nhẹ màu trắng đục. Đây là cấu trúc Trí tuệ Định
ở mức nhẹ và thấp nhất. Định ở mức độ mạnh, rất mạnh, siêu
mạnh thì đó chính là cấu trúc Trí tuệ Tỏa. Tức là khi cấu trúc
Trí tuệ Tỏa ở mức mạnh, rất mạnh, siêu mạnh, đó là Định ở
các mức cao. Định ở mức cao là do quá trình tuần hoàn sóng
điện trong Trụ linh đạt đến sự bền vững. Sự bền vững đó là
do sự liên kết vững chắc giữa sóng điện âm và dương trong
Trụ linh.

267
Cấu trúc Trí tuệ Định tồn tại trong cả 3 nhóm vật chất.
Đó là nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp và
nhóm siêu vật chất.
Cấu trúc Trí tuệ Định là bản chất mà bất cứ cấu trúc Trí
tuệ nào muốn phát triển nâng cấp đều phải có. Bởi chỉ khi có
Định thì hết thảy cấu trúc Trí tuệ trong Vũ trụ mới cân bằng,
thanh lọc được năng lượng sau khi Kết. Chỉ có Định mới giúp
cho hết thảy cấu trúc Trí tuệ Tỏa được năng lượng tới vạn
vật trong và ngoài Vũ trụ.
Cấu trúc Trí tuệ Định là bản chất vô cùng cần thiết cho
hành trình chuyển sinh nâng cấp cấu trúc Trụ linh và bản thể
vật chất. Định luôn luôn hiện hữu trong từng tích tắc của thời
gian, của quá trình vận động của tất cả các dạng cấu trúc Trí
tuệ (vật chất). Định sẽ được phát huy hết giá trị nếu nó được
vận hành thành quy trình tự động cho quá trình Kết và Tỏa.
Tức là nó phải nằm trong toàn bộ quy trình có Kết và có Tỏa.
Nếu tách riêng ra, nó sẽ không có được sức mạnh siêu việt.

8.2. Các cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) Định của 3
nhóm vật chất
Các cấu trúc Trí tuệ Định có trong 3 nhóm vật chất là:
Các cấu trúc Trụ – Trí Định trong nhóm
siêu vật chất:
Siêu vật chất hay còn gọi là siêu Tướng. Đó là dạng
sống Tuệ linh. Đó là năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có
mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là dạng sống Tuệ linh và
Linh hồn đã từng hoặc đang an trụ trong thân tướng con
người.

268
Siêu Tướng có cấu trúc Trí tuệ Định là:
- Hạt năng lượng chân tâm có mã sóng trí tuệ siêu
phức tạp.
- Tuệ linh mới được chuyển sinh từ phôi năng lượng
âm dương thành Tuệ linh em bé.
- Tuệ linh có cấu trúc năng lượng cân bằng âm dương
trong Trụ linh. Đó là tại Trụ linh, có hạt năng lượng âm gốc
có sóng điện âm nhẹ, và hạt năng lượng dương gốc có sóng
điện dương nhẹ. Đây là Định ở cảnh giới thấp.
- Tuệ linh có cấu trúc năng lượng đa dương trong Trụ
linh. Trụ linh đa dương sẽ giúp cho Tuệ linh có Định ở cảnh
giới cao và rất cao.
- Các Tuệ linh không thiện cũng không ác. Đó là Định ở
mức thấp.
- Các Tuệ linh luôn luôn làm những việc thiện vì vạn
vật và Tuệ linh, con người. Đó là các Tuệ linh đã đạt được
thành tựu trên hành trình chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng như những bậc hiền triết, thánh hiền.
- Định ở cảnh giới tối thượng là Người Cha – Người
Thầy vĩ đại của Vũ trụ, Tuệ linh, con người. Đó là bộ lọc năng
lượng viên mãn.
- Các Tuệ linh, Linh hồn đang sống ở cảnh giới tu
dưỡng, cân bằng năng lượng ở cõi trời Địa phủ.
- Những con người đang sống. Họ không thiện cũng
không ác, đó là Định ở mức thấp. Những con người luôn vì
mọi người và vạn vật, Tuệ linh, đó là Định ở mức cao.
- Những con người thông qua bốn hình tướng Đạo mà
vẫn cân bằng, không vi phạm làm tổn hại bốn hình tướng
Đạo, từng bước lan tỏa giá trị tới mọi người, đó là Định.
269
Các cấu trúc Trụ – Trí Định trong nhóm vật
chất phức tạp:
Vật chất phức tạp hay còn gọi là Tướng phức tạp. Đó là
dạng sống của linh hồn muông thú khi chúng chưa được
chuyển sinh làm người; là linh hồn, cấu trúc năng lượng an
trụ trong cây cối, trong đất đá; là cấu trúc năng lượng trong
năm nhóm đang tồn tại và vận hành sự sống của cả Vũ trụ.
Tướng phức tạp có cấu trúc Trí tuệ Định là:
- Tầng năng lượng chân tâm có mã sóng trí tuệ phức
tạp. Đó là tầng năng lượng vận hành sự sống của cả Vũ trụ.
Nó giúp gắn kết giữa các tầng năng lượng tạo thành sự phát
triển mạnh mẽ và lớn mạnh cho Vũ trụ.
- Những tầng năng lượng tích cực mang sóng điện
dương có mã sóng trí tuệ phức tạp. Những tầng năng lượng
này có Định ở mức cao. Nó là màng bọc chân tâm bao bọc
những hạt năng lượng có sóng điện dương. Nó chính là quá
trình Định ở mức cao để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn
nữa.
- Linh hồn các con thú lành hiền. Đó là những con thú
không giết hại các con thú khác, những con thú không ăn thịt
thân tướng các con thú khác.
- Những linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong đất
đá, trong những cây có tính thanh lọc. Đó là cây cối, là những
loại đá bán quý, đá quý.
Các cấu trúc Trụ – Trí Định trong nhóm vật
chất giản đơn:
Vật chất giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó là
dạng sống của thân tướng vật chất rắn, lỏng, khí; là thân

270
tướng con người, thân tướng muông thú, thân tướng cỏ cây,
đất đá, nước…; là các hành tinh trong toàn bộ Vũ trụ.
Tướng giản đơn có cấu trúc Trí tuệ Định là:
- Thân tướng con người:
+ Những con người có thân tướng mạnh khỏe, không
bệnh tật.
+ Những con người không thiện cũng không ác, đó là
có tư tưởng cho đến hành động không thiện cũng không ác.
+ Những cháu bé với chân tâm ban đầu chưa thiện
cũng chưa ác.
+ Những con người cân bằng được cuộc sống trong
bốn hình tướng Đạo. Họ không vi phạm vào bốn hình tướng
Đạo. Họ từng bước thực hành lan tỏa giá trị đạo đức tới mọi
người và vạn vật, muông thú.
+ Những con người có Định ở mức cao cho tới rất cao
là họ sống như bản năng. Bản năng đó là luôn có tư tưởng
cho đến hành động không vì mình, luôn vì vạn vật, Tuệ linh,
con người.
+ Người có bộ lọc năng lượng là người có Định ở mức
độ cao nhất. Họ luôn cân bằng, luôn thanh lọc, luôn an lạc,
luôn chuyển hóa tuần hoàn một cách kỳ diệu.
- Thân tướng muông thú. Đó là những con thú không
ăn thịt, không giết hại con thú khác. Đó là những con thú lành
hiền. Đó là những con thú giúp đỡ những con thú khác,
những con thú biết giúp đỡ con người. Những con thú biết
giúp đỡ muông thú và con người là Định ở mức rất cao.
- Những cỏ cây cân bằng năng lượng. Định ở mức cao.
- Nước trung hòa tất cả vạn vật. Định ở mức rất cao.

271
- Những hành tinh quay tròn xung quanh chính mình
là có mức Định cao.
- Trong mỗi hành tinh đều có khu vực giao nhau giữa
tầng địa chất sóng điện dương và tầng địa chất sóng điện âm
là khu vực có mức Định rất cao. Đó là năng lượng chân tâm
gắn kết chỉnh thể hành tinh đó được bền chặt, được tồn tại
và vận động để phát triển.

9. Bản chất Trụ – Trí (trí tuệ) Tỏa của 3 nhóm


vật chất cấu tạo thành Vũ trụ
Việc giải mã, thấu hiểu bản chất Trụ – Trí Tỏa của 3
nhóm vật chất trong Vũ trụ sẽ giúp cho Tuệ linh và con người
dễ dàng mã hóa thông tin sự thật của vạn vật vào trong Trụ
linh. Khi đó, sẽ biết cách kiểm soát được độc của hạt năng
lượng âm và kích hoạt được thiện của hạt năng lượng dương
bằng chân tâm. Làm được sẽ tiến nhanh tới thành tựu
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

9.1. Bản chất Trụ – Trí Tỏa của 3 nhóm vật chất
Tỏa là truyền đi, lan tỏa, đẩy đi, cho đi, cứu giúp, soi
sáng, dẫn đường, chỉ dẫn.
Tỏa có bản chất là sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện
dương. Bởi sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương mới
truyền đi, mới lan tỏa, mới cho đi, mới cứu giúp, mới soi
sáng, mới dẫn đường, mới chỉ dẫn.
Tỏa ở mức nhẹ là soi sáng, chỉ dẫn, truyền tải. Tỏa ở
mức mạnh, rất mạnh và siêu mạnh là hy sinh vì vạn vật, Tuệ
linh, con người mà không màng tới bản thể mình.

272
Trong bất cứ cấu trúc Trí tuệ nào được hình thành từ
sự hợp nhất của sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và
dương đều có Tỏa. Bởi khi Trụ linh của Tướng được hình
thành từ hai sợi mã sóng trí tuệ, có một sợi mã sóng trí tuệ
mang sóng điện dương. Mà bản chất của sợi mã sóng trí tuệ
mang sóng điện dương là Tỏa. Điều này cho thấy, hết thảy
các cấu trúc Trí tuệ (trừ các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng
điện âm và sóng điện trung tính) đều có bản chất là Tỏa. Có
chăng mức độ Tỏa ở mức siêu nhẹ hay nhẹ, mạnh hay siêu
mạnh.
Tỏa tồn tại trong cả 3 nhóm cấu trúc Trí tuệ. Ba nhóm
cấu trúc Trí tuệ tương ứng với 3 nhóm Tướng (vật chất). Đó
là nhóm cấu trúc trí tuệ giản đơn, nhóm cấu trúc Trí tuệ phức
tạp, nhóm cấu trúc siêu Trí tuệ.
Tỏa là bản chất mà bất cứ cấu trúc Trí tuệ nào muốn
phát triển nâng cấp phải có. Tỏa càng ở mức độ mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh sẽ giúp sự phát triển của cấu trúc trí tuệ
ngày càng lớn mạnh. Bởi, để Tỏa được cần phải trải qua quá
trình Kết và Định. Do đó, Tỏa là hoàn chỉnh của một quy trình
Kết – Định – Tỏa một cách tuần hoàn và viên mãn.
Có 3 nhóm cấu trúc Trí tuệ dễ dàng chuyển sinh thành
Trụ linh có bộ lọc năng lượng. Đó là 3 nhóm cấu trúc Trí tuệ
Tỏa từ mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh:
- Nhóm cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh là nhóm cấu trúc Trí
tuệ được hợp nhất bởi một sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện
chớm âm màu trắng xám với một sợi mã sóng trí tuệ có sóng
điện dương phát triển màu xanh lá, gọi là Trụ linh đa dương
mạnh. Do sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm chỉ rung lắc
nhẹ, quay ngược nhẹ, nên thu hút vừa đủ năng lượng hoại
diệt di chuyển tới. Đồng thời sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện
273
dương mạnh lại quay thuận chiều kim đồng hồ mạnh sẽ dễ
dàng kích nổ năng lượng hoại diệt để giúp cho cấu trúc Trí
tuệ phân tách, liên kết chặt chẽ. Do đó, đây là cấu trúc Trí tuệ
Tỏa mạnh.
- Nhóm cấu trúc Trí tuệ Tỏa rất mạnh là nhóm cấu trúc
Trí tuệ được hợp nhất bởi một sợi mã sóng trí tuệ có sóng
điện chớm âm màu trắng xám với một sợi mã sóng trí tuệ có
sóng điện dương lan tỏa màu đỏ lửa, gọi là Trụ linh đa dương
rất mạnh. Do sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm chỉ rung lắc
nhẹ, quay ngược nhẹ, nên thu hút vừa đủ năng lượng hoại
diệt di chuyển tới. Đồng thời sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện
dương rất mạnh lại quay thuận chiều kim đồng hồ rất mạnh
sẽ dễ dàng kích nổ năng lượng hoại diệt để giúp cho cấu trúc
Trí tuệ phân tách, liên kết chặt chẽ. Do đó, đây là cấu trúc Trí
tuệ Tỏa rất mạnh.
- Nhóm cấu trúc Trí tuệ Tỏa siêu mạnh là nhóm cấu
trúc Trí tuệ được hợp nhất bởi một sợi mã sóng trí tuệ có
sóng điện chớm âm màu trắng xám với một sợi mã sóng trí
tuệ có sóng điện dương đoàn kết màu vàng, gọi là Trụ linh đa
dương siêu mạnh. Do sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm chỉ
rung lắc nhẹ, quay ngược nhẹ, nên thu hút vừa đủ năng
lượng hoại diệt di chuyển tới. Đồng thời sợi mã sóng trí tuệ
có sóng điện dương siêu mạnh lại quay thuận chiều kim đồng
hồ siêu mạnh sẽ dễ dàng kích nổ năng lượng hoại diệt để
giúp cho cấu trúc Trí tuệ phân tách, liên kết chặt chẽ. Do đó,
đây là cấu trúc Trí tuệ Tỏa siêu mạnh.
Các cấu trúc Trí tuệ có bản chất Tỏa từ cấu trúc hạt
năng lượng tận cùng cho tới cấu trúc Trụ linh, cho tới cấu
trúc Tướng (Tuệ linh, con người, muông thú, hành tinh, thiên
hà, Vũ trụ) ở mức mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh, đó là

274
các cấu trúc Trí tuệ đa dương. Khi đa dương, từ Trụ linh sẽ
phân tách ra vô số sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương để
cấu tạo thành các hạt năng lượng dương có liên kết dây chặt
chẽ. Đồng thời những sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm
được phân tách ra có sóng điện âm rất nhẹ. Sau đó phân tách,
liên kết cấu tạo thành cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng
bên ngoài Trụ linh tạo thành sức mạnh chuyển hóa năng
lượng hoại diệt một cách kỳ diệu. Những cấu trúc Trí tuệ Tỏa
mạnh này sẽ có khả năng kích nổ được năng lượng hoại diệt
do năng lượng hoại diệt di chuyển vào ít bởi sợi mã sóng trí
tuệ mang sóng điện âm rung lắc nhẹ.
Cấu trúc Trí tuệ mà chuyển sinh theo hướng Tỏa sẽ
nhanh chóng đạt được chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng.
Đó là Kết – Định – Tỏa một cách kỳ diệu.

9.2. Các cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) Tỏa của 3
nhóm vật chất
Các cấu trúc Trí tuệ Tỏa ở mức mạnh, rất mạnh và siêu
mạnh có trong 3 nhóm vật chất là:
Các cấu trúc Trụ – Trí Tỏa trong nhóm siêu
vật chất:
Siêu vật chất hay còn gọi là siêu Tướng. Đó là năm
nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức
tạp. Đó là dạng sống Tuệ linh. Đó là dạng sống Tuệ linh và
Linh hồn đã từng hoặc đang an trụ trong thân tướng con
người.
Siêu Tướng có cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh và
siêu mạnh là:

275
- Hạt năng lượng dương tận cùng màu xanh lá, màu đỏ
lửa, màu vàng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp.
- Tuệ linh có Trụ linh đa dương từ mạnh tới siêu mạnh.
- Tuệ linh đã đạt được những thành tựu trên hành
trình chuyển sinh như các bậc hiền triết, các bậc thánh hiền.
- Tuệ linh đã đắc được bộ lọc năng lượng có khả năng
Tỏa ra vô lượng các siêu hạt năng lượng.
- Tuệ linh đang an trụ trong con người có tư tưởng cho
đến hành động tích cực luôn vì vạn vật, Tuệ linh, con người,
là người không vi phạm vào bốn hình tướng Đạo. Họ là
những con người luôn có tư tưởng cho đến hành động lan
tỏa những giá trị đạo đức, tuân thủ Quy luật Nhân quả, thực
hành cải tạo đời sống viên mãn tới vạn vật, Tuệ linh, con
người. Những người đạt đến siêu Tỏa mạnh nhất chính là
những con người luôn luôn Phổ độ chúng sinh, Tuệ linh, con
người, vì họ lan tỏa đại hệ tư tưởng giác ngộ tới hết thảy Tuệ
linh, con người cùng nhau chuyển sinh bền vững nhất cho
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Những siêu Tướng có cấu trúc Trí tuệ Tỏa ở mức
mạnh, rất mạnh và siêu mạnh sẽ giúp cho Trụ linh của họ
phân tách ra vô số những siêu sợi mã sóng trí tuệ tạo thành
vô số siêu hạt năng lượng. Từ những siêu hạt năng lượng đó
sẽ cấu tạo và phát triển Tuệ linh họ trở thành liên kết được
chặt chẽ, bền vững với tất cả Vũ trụ, Tuệ linh, con người. Tuệ
linh họ trở nên bất tử. Tuệ linh họ có cấu trúc bộ lọc năng
lượng viên mãn bởi họ đi theo hướng chuyển sinh là Tỏa
những giá trị giác ngộ tới tất cả Tuệ linh, con người. Họ sẽ
hấp thụ và chuyển hóa được năng lượng hoại diệt thành siêu
hạt năng lượng thông qua bộ lọc trong Trụ linh của họ.

276
Các cấu trúc Trụ – Trí Tỏa trong nhóm vật
chất phức tạp:
Vật chất phức tạp hay còn gọi là Tướng phức tạp. Đó là
dạng sống của linh hồn muông thú khi chúng chưa được
chuyển sinh làm người; là linh hồn, cấu trúc năng lượng an
trụ trong cây cối, trong đất đá; là cấu trúc năng lượng trong
năm nhóm đang tồn tại và vận hành sự sống của cả Vũ trụ.
Tướng phức tạp có cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh là:
- Những tầng năng lượng tích cực có sóng điện dương
màu xanh lá, màu đỏ lửa, màu vàng. Đó là những tầng năng
lượng sóng điện dương vận hành Vũ trụ.
- Những linh hồn các con thú xả thân cứu giúp con
người, xả thân cứu giúp những con thú đồng loại hoặc những
con thú khác.
- Những linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong đá.
Đó là những dòng đá luôn tỏa những năng lượng mang lại sự
sống trong lành và an lạc cho con người, muông thú, cỏ cây
xung quanh đó.
- Những linh hồn của cây cối luôn tỏa năng lượng sự
sống ra môi trường xung quanh.
Tướng có cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh sẽ giúp cho các
cấu trúc năng lượng đó nhanh được chuyển sinh bền vững và
nâng cấp cao hơn.
Các cấu trúc Trụ – Trí Tỏa trong nhóm vật
chất giản đơn:
Vật chất giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó là
dạng sống của thân tướng vật chất rắn, lỏng, khí; là thân

277
tướng con người, thân tướng muông thú, thân tướng cỏ cây,
đất đá, nước…; là các hành tinh trong toàn bộ Vũ trụ.
Tướng giản đơn có cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh là:
- Thân tướng con người:
+ Những con người không có bệnh về thân tướng. Họ
khỏe mạnh vì sự vận động lan tỏa.
+ Những người luôn miệt mài lao động sản xuất, không
ngừng nghỉ nghiên cứu các công trình, các phương pháp, các
cấu trúc phát triển sự sống tốt đẹp và bền vững tới vạn vật
và Tuệ linh, con người. Họ là những công nhân, những nông
dân, những thương nhân, những nhà nghiên cứu, những nhà
sản xuất, những nhà sáng chế, những nhà phát minh.
+ Những người luôn luôn lan tỏa các giá trị thúc đẩy
phát triển bền vững và an lạc cho con người và vạn vật. Họ là
những nhà giáo, là những người lan truyền tri thức tới Tuệ
linh, con người.
+ Những người luôn luôn đoàn kết tất cả Tuệ linh, con
người, vạn vật, muông thú trong sự cảm thông, sẻ chia, giúp
đỡ cùng nhau lan tỏa những giá trị, công trình phát triển bền
vững tới Tuệ linh, con người.
+ Những người có hệ tư tưởng cho đến hành động luôn
vì lợi ích mọi người, vạn vật và muông thú mà không màng
tới bản thân họ.
+ Những người hành thiện cứu giúp Tuệ linh, con
người, vạn vật và muông thú.
+ Những người thực hành phổ độ lan tỏa giá trị của
giáo lý giác ngộ tới tất cả Tuệ linh, con người.

278
- Thân tướng muông thú. Đó là những con thú không
giết hại hay làm tổn hại những con thú khác. Nó xả thân cứu
giúp các con thú khác, nó bảo vệ và cứu giúp đồng loại của nó
trong sự không gây tổn hại tới con người và muông thú khác.
- Những cỏ cây luôn tỏa oxy làm trong lành và an lạc
môi trường sống xung quanh.
- Nước lan tỏa giá trị làm mát và nuôi dưỡng vạn vật
thế gian. Nó bốc hơi để tạo thành mưa rồi tưới mát cho vạn
vật cùng phát triển. Nó là sự sống luôn cho đi để ngày càng
lớn mạnh. Sự lớn mạnh bởi nó có trong tất cả vạn vật thế
gian.
- Những loại đá quý, bán quý có giá trị tỏa ra những
năng lượng tốt nhằm tạo ra môi trường sống trong lành và
an lạc.
- Lửa, ánh sáng để soi sáng và làm ấm các dạng sống ở
thế gian.
- Những hành tinh có tính tỏa mạnh là các mặt trời
trong Vũ trụ.
- Là những cấu trúc địa chất nóng chảy, là nham thạch
trong các hành tinh. Nhiệt lượng được tỏa ra để soi sáng, tạo
ra sự phân tách liên kết cho vạn vật, Vũ trụ được phát triển.

III. Chân lý Vạn vật với các con đường chuyển


sinh của Trụ – Trí (trí tuệ)
Chân lý Vạn vật trong Trụ – Trí (trí tuệ) sẽ là: Trí tuệ
không tự sinh ra, Trí tuệ không tự mất đi, khổ đau của Trí tuệ
không tự đến và không tự đi, tất cả do duyên nghiệp hay còn
gọi là nhân quả. Cơ chế chuyển sinh của Trí tuệ chính là cơ chế
“Phân tách và liên kết dây”.
279
Chân lý Vạn vật chính là Quy luật Nhân quả, chính là
chữ Vô. Vô là tướng không. Tướng không là không bất tử,
không vĩnh cửu, không trường tồn. Nó chỉ tồn tại trong
khoảng thời gian nhất định rồi lại chuyển hóa sang tướng
khác do duyên. Do đó, Chân lý Vạn vật, Quy luật Nhân quả
được đúc kết thành chữ Duyên. Duyên chính là tướng không.
Thấu hiểu chữ Duyên thì ta sẽ thấu hiểu được quá khứ, hiện
tại và tương lai.
Vận hành Chân lý Vạn vật của Trí tuệ chính là cơ chế
phân tách và liên kết dây. Cơ chế phân tách và liên kết sẽ
được xảy ra trong môi trường có điều kiện. Đó là môi trường
có tương tác giữa các chỉnh thể, trong một quy trình thời
gian nhất định, môi trường có sóng điện âm hoặc dương hoặc
trung tính, có nhiệt lượng của năng lượng hoại diệt được
kích nổ hoặc chưa kích nổ. Trụ – Trí của tất cả các nhóm vật
chất từ giản đơn cho tới phức tạp và siêu vật chất để xảy ra
phân tách và liên kết thì đều phải tồn tại trong môi trường có
điều kiện.
Khi chúng ta thấu hiểu hai Chân lý và các cơ chế vận
hành của hai Chân lý, chúng ta sẽ thấu hiểu và giải mã được
cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) sinh ra và mất đi khi nào; khổ đau
của Trụ – Trí; nguyên nhân Trụ – Trí u mê và giác ngộ của
Tuệ linh, con người; nguyên nhân Trụ – Trí Kết, Định, Tỏa
của 3 nhóm vật chất; các con đường chuyển sinh của Trụ –
Trí.

1. Nguyên nhân Trụ – Trí (trí tuệ) được sinh ra


và mất đi
Nguyên nhân Trụ – Trí được sinh ra:

280
- Đối với sợi mã sóng trí tuệ của năng lượng hoại diệt:
sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng hoại diệt được sinh ra
là bởi hạt sóng xanh phân tách, di chuyển thẳng trong môi
trường trung tính.
- Đối với 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ, Tuệ linh, con
người: Trụ – Trí được sinh ra là do cơ chế phân tách, liên kết
trong môi trường có nhiệt lượng, di chuyển tương tác với
nhau và quay tròn.
Nguyên nhân Trụ – Trí bị mất đi:
- Đối với năng lượng hoại diệt: sợi mã sóng trí tuệ bị
kích nổ và hoại diệt vĩnh viễn bởi nhiệt lượng dương.
- Đối với 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ, Tuệ linh, con
người:
+ Trụ – Trí chuyển sinh nâng cấp thành cấu trúc mới
bởi cơ chế phân tách liên kết bền vững. Bền vững là nhờ có
nhiệt lượng lớn từ năng lượng hoại diệt bị kích nổ với quá
trình quay tròn khi tương tác với tất cả các nhóm vật chất để
mã hóa thông tin. Đó là chuyển sinh nâng cấp thành cấu trúc
Trụ – Trí mới và mất đi cấu trúc Trụ – Trí cũ.
+ Trụ – Trí bị đứt liên kết, bị đồng hóa, bị phân rã và
hoại diệt bởi năng lượng hoại diệt. Năng lượng hoại diệt
phân rã được Trụ – Trí là bởi cấu trúc Trụ – Trí có đa sóng
điện âm.

2. Khổ đau của Trụ – Trí (trí tuệ)


Khổ đau của cấu trúc Trụ – Trí là sự biến đổi mã sóng
trí tuệ trong cấu trúc theo hướng phân rã và hoại diệt. Đó là
cấu trúc Trụ – Trí thực hành cơ chế phân tách liên kết ra
nhiều năng lượng âm. Khi sản sinh ra nhiều hạt năng lượng
281
âm nên nhanh chóng bị năng lượng hoại diệt di chuyển vào
phân rã và hoại diệt.
Để chấm dứt khổ đau, cấu trúc Trụ – Trí phải thực
hành cơ chế phân tách liên kết theo hướng bền vững. Đó là
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng để thực hiện
được Kết – Định – Tỏa. Chỉ khi chuyển sinh Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng mới chấm dứt được khổ đau của cấu trúc Trụ
– Trí.

3. Nguyên nhân Trụ – Trí (trí tuệ) u mê và giác


ngộ của Tuệ linh, con người
Thông qua quá trình tu hành của dạng sống Tuệ linh ở
nhân gian với vô số các kịch bản tương tác trong bốn hình
tướng Đạo, với những khổ đau, kiếp nạn, an vui, hạnh phúc,
Tuệ linh và con người đã bộc phát được tất cả các độc của sợi
mã sóng trí tuệ trong hạt năng lượng âm và thiện của sợi mã
sóng trí tuệ trong hạt năng lượng dương của Trụ linh.
Chính vì vậy, vị Tuệ linh đầu tiên đã đúc kết, tìm ra
được nguyên nhân của trí tuệ u mê (các kịch bản bộc phát
độc của hạt năng lượng âm) và trí tuệ giác ngộ (các kịch bản
bộc phát thiện của hạt năng lượng dương) của Tuệ linh và
con người:

3.1. Nguyên nhân Trụ – Trí u mê của Tuệ linh và


con người
Nguyên nhân Trụ – Trí u mê là độc của sợi mã sóng trí
tuệ trong hạt năng lượng âm của Trụ linh đã được bộc phát
hết trong các kịch bản tương tác.

282
Nguyên nhân cội nguồn của trí tuệ u mê là do trong
Trụ linh của Tuệ linh khi hợp thành bởi hạt năng lượng có
sóng điện âm với hạt năng lượng sóng điện dương, sóng điện
âm mạnh hơn sóng điện dương. Cụ thể hạt sóng điện âm có
trạng thái năng lượng màu đỏ máu, màu đen, màu xám. Sóng
điện âm mạnh sẽ khiến cho Tuệ linh và chân tu có thiên
hướng vơ về, hút về, lấy về mà u mê.
Nguyên nhân tiếp theo là do trí tuệ bám định, tham
lam, vơ vét các giả tướng về nơi thân tướng ta để hưởng thụ,
để thỏa mãn hay vẫn chưa thỏa mãn. Đó là bám định vào giả
tướng, không thấu hiểu được sự thật và chân tướng của các
giả tướng có hay không có, yêu thương hay thù ghét, cầu
được hay cầu không được, có trí tuệ hay không có trí tuệ,
hành hay không hành. Khi bám định vào các giả tướng, ta sẽ
luẩn quẩn sống trong màn đêm tối mịt mù mà không nhận
thấy sự thật của các giả tướng, dẫn đến hành động hay không
hành động để thỏa mãn lợi ích ích kỷ của mình, của gia đình
và dòng họ mình mà gây tổn hại đến lợi ích của người khác,
của xã hội và nhân loại cũng như Tuệ linh, con người. Khi đó
nhân quả báo ứng sẽ hiện hữu tại hiện kiếp hoặc trong các
kiếp sau do nghiệp lực đã tạo ra bởi trí tuệ u mê. Như vậy trí
tuệ u mê không tự nhiên sinh ra, nó sinh ra do duyên hợp bởi
các giả tướng mà nhân loại không thấu hiểu chân tướng của
vạn vật.

3.2. Nguyên nhân Trụ – Trí giác ngộ của Tuệ


linh và con người

283
Nguyên nhân Trụ – Trí giác ngộ là thiện của sợi mã
sóng trí tuệ trong hạt năng lượng dương của Trụ linh đã
được bộc phát hết trong các kịch bản tương tác.
Nguyên nhân cội nguồn của trí tuệ giác ngộ là do trong
Trụ linh của Tuệ linh khi hợp thành bởi hạt năng lượng có
sóng điện âm với hạt năng lượng sóng điện dương, sóng điện
dương mạnh hơn sóng điện âm thì chân tu sẽ dễ dàng giác
ngộ. Cụ thể hạt năng lượng dương có trạng thái năng lượng
siêu mạnh là màu vàng, rất mạnh màu đỏ lửa, mạnh màu
xanh lá, còn hạt năng lượng âm nhẹ có trạng thái năng lượng
màu trắng xám. Sóng điện dương mạnh sẽ giúp cho Tuệ linh
và chân tu có thiên hướng hành thiện, cho đi, lan tỏa và phát
triển cho vạn vật, chúng sinh, nên sẽ giác ngộ hơn.
Nguyên nhân thứ hai là sự thấu hiểu Chân lý Vạn vật,
thông qua Chân lý Vạn vật để soi thấu chân tướng, căn
nguyên của các giả tướng, dùng ánh sáng mặt trời của Chân
lý Vạn vật để xua tan màn đêm tối u mê của trí tuệ. Khi ta
mang ánh sáng mặt trời chiếu vào màn đêm u mê của từng
giả tướng thì chân tướng của sự thật sẽ được soi sáng, màn
đêm sẽ tiêu tan, trí tuệ giác ngộ sẽ hiện hữu ở từng giả tướng
cho đến khi ta soi thấu hết tất cả các giả tướng và sau đó
dùng Chân lý Giác ngộ để chuyển hóa thành lợi ích cho mọi
người, cho chúng sinh thì sẽ đạt được trí tuệ giác ngộ viên
mãn.
Soi thấu giả tướng có:
Khi dùng Chân lý Vạn vật để soi chiếu vào người có địa
vị thì thấy địa vị đó không thuộc về người đó, địa vị đó không
thuộc về ai, và chính địa vị đó nó chẳng thuộc về nó, nó do
duyên mà hợp thành. Do phước báo từ kiếp trước để kiếp
này người đó tạm thời có nó, nó cũng sẽ do duyên mà hoại
284
diệt. Do đó không nên ích kỷ về mình mà gây tổn thương cho
người khác, hãy tranh thủ thời gian ta đang tạm thời nắm giữ
mà chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người.
Khi dùng Chân lý Vạn vật soi thấu vào tài sản người
giàu có, thấy rằng tiền tài mà họ đang nắm giữ cũng chẳng
phải của họ, chẳng phải của ai, chẳng phải của chính nó. Nó
do duyên mà hợp thành, nó do phước báo từ kiếp trước
mang tiền cứu người hành thiện nên kiếp này được tạm thời
nắm giữ, nó cũng sẽ do duyên mà hoại diệt, nó chỉ tạm thời
được người đó nắm giữ. Do đó nên tranh thủ thời gian nắm
giữ nó mà chuyển hóa thành lợi ích cho chúng sinh, không
nên ích kỷ về mình.
Khi dùng Chân lý Vạn vật soi thấu người có cơ thể
khỏe mạnh là do duyên tạo nhiều phước giúp đỡ người kiếp
trước nên kiếp này được luân hồi trong thân hình khỏe
mạnh. Do đó nên tranh thủ thời gian khỏe mạnh để giúp
người thì kiếp sau sẽ được khỏe mạnh và tốt đẹp hơn, bởi
thân tướng khỏe mạnh đó cũng do duyên mà hoại diệt.
Khi dùng Chân lý Vạn vật soi thấu người con gái có
thân hình xinh đẹp thì kiếp trước tạo nhiều phước báo, hành
thiện giúp người nên kiếp này được luân hồi trong một thân
hình xinh đẹp. Nó là do duyên sinh ra, và cũng do duyên mà
hoại diệt. Do đó nên làm điều có lợi ích cho mọi người, tránh
dùng thân hình tạo tội tà dâm để tránh kiếp sau bị đọa thành
thân hình xấu xí và bệnh tật…
Soi thấu giả tướng không có:
Khi dùng Chân lý Vạn vật soi thấu người nghèo, thấy
kiếp trước lười lao động, lừa hại người nên kiếp này chịu
trong thân tướng và hoàn cảnh nghèo, cái nghèo này cũng

285
chẳng của ai, chẳng phải của họ. Do duyên mà nghèo thì cũng
do duyên mà hết nghèo, và chỉ có lao động chân chính và
mang lại lợi ích cho mọi người thì ta mới thay đổi cuộc sống
tích cực hơn.
Khi dùng Chân lý Vạn vật soi thấu người không có địa
vị là do duyên kiếp trước tham ô tham nhũng, kiếp này
không thể có địa vị. Do đó có chạy chức chạy quyền cũng
không có được. Chỉ còn cách duy nhất là chuyển hóa lợi thế
mình đang có để giúp đỡ mọi người và người dân thì sẽ
chuyển hóa được cuộc sống tốt đẹp hơn…
Soi thấu vào các giả tướng yêu thương, thù
ghét, có trí tuệ, không có trí tuệ, cầu được, cầu
không được, hành hay không hành:
Khi dùng Chân lý Vạn vật soi thấu thì thấy rằng để thân
tướng kiếp này đang an trụ hoặc sống trong giả tướng nào
thì do kiếp trước gieo duyên mà kiếp này được hưởng phước
báo hay nhận quả nghiệp. Bản chất các giả tướng đều không
bất tử, nó không của ai, và nó không của chính nó. Nên khi
thấu hiểu Chân lý Vạn vật thì chúng ta không nên bám định
vào nó mà gây tổn thương cho người khác. Vì khi ta gây tổn
thương cho người khác, kiếp sau ta chính là người bị gây tổn
thương. Do đó hãy chuyển hóa nó thành lợi ích phục vụ cho
mọi người, cho chúng sinh để tạo cho ta năng lượng tốt cho
kiếp sau. Như người nào đó kiếp này có trí tuệ uyên bác, họ
không định vào giả tướng có trí tuệ mà khinh khi nhân loại,
ngược lại họ nghiên cứu ra nhiều công trình mang lại lợi ích
cho nhân loại. Khi thấu hiểu Chân lý Vạn vật và kế hoạch tu
hành dưới nhân gian của các Tuệ linh, các Tuệ linh phải trải
qua hết các kiếp nạn khổ đau, trải qua hết các thân tướng giả

286
tướng khác nhau. Do đó hãy dùng Chân lý Giác ngộ để
chuyển hóa các giả tướng thành lợi ích cho chúng sinh dù
trong hoàn cảnh thân tướng nào đi chăng nữa. Đó là trí tuệ
giác ngộ.
Chân lý Vạn vật cũng cho chúng ta thấy rằng trí tuệ u
mê cũng không bất tử, không trường tồn và mãi mãi là u mê.
Do đó chỉ có gieo duyên bằng chân tâm sẽ giúp chuyển hóa
trí tuệ u mê thành trí tuệ giác ngộ. Chân lý Vạn vật cũng cho
thấy trí tuệ giác ngộ cũng không bất tử, nó có thể từ giác ngộ
mà trở lại thành u mê. Do đó chúng ta phải gieo duyên bằng
chân tâm để duy trì trí tuệ giác ngộ và chuyển hóa từ trí tuệ
giác ngộ thành hành động cải tạo Vũ trụ quan được tốt đẹp
hơn. Cũng thông qua Chân lý Vạn vật và bản chất của trí tuệ
để chúng ta thấy rằng bất cứ ai cũng có thể giác ngộ, tất cả
chúng sinh, Tuệ linh, con người đều giác ngộ được, đều
chuyển hóa thành trí tuệ giác ngộ nếu chúng ta dùng hai
Chân lý để soi thấu các giả tướng và từng bước chuyển hóa
căn cơ giác ngộ cho chúng sinh, Tuệ linh, con người.
Nhận diện được tất cả các kịch bản để Trụ linh bộc
phát độc và thiện là một thành tựu vô cùng lớn trên hành
trình chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Bước
tiếp theo cần làm là thực hành theo con đường chuyển sinh
bền vững (giác ngộ) là sẽ thành công.

4. Nguyên nhân Trụ – Trí (trí tuệ) Kết, Định, Tỏa


của 3 nhóm vật chất
Nhận diện được nguyên nhân Trụ – Trí kết, định, tỏa
của 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ sẽ giúp cho Trụ linh của
Tuệ linh và con người mã hóa được đầy đủ thông tin của tất

287
cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và
người. Khi đó, sẽ dễ dàng thực hành chuyển sinh theo hướng
giác ngộ để có được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh của Tuệ
linh và con người.

4.1. Nguyên nhân Trụ – Trí (trí tuệ) Kết của 3


nhóm vật chất
Có 2 nguyên nhân khiến cho các cấu trúc Trí tuệ Kết
mạnh, rất mạnh và siêu mạnh:
- Nguyên nhân cội nguồn, gốc nhất chính là Trụ linh
của cấu trúc Tướng có đa sóng điện âm. Trụ linh chính là hai
hạt năng lượng tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ mang sóng
điện âm và sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương. Khi
hai hạt năng lượng liên kết hợp nhất lại tạo thành Trụ linh,
sóng điện của hai sợi mã sóng trí tuệ âm và dương sẽ tuần
hoàn. Bất kỳ Trụ linh nào được hợp thành bởi hạt năng
lượng tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm
màu xám, màu đen, màu đỏ máu đều cấu tạo thành Trụ linh
đa âm. Không cần biết sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện
dương mạnh hay nhẹ, chỉ cần có các nhóm sợi mã sóng trí
tuệ mang sóng điện âm trên sẽ khiến cho Trụ linh trở thành
một cấu trúc Trí tuệ Kết từ mạnh cho đến rất mạnh và siêu
mạnh. Kết mạnh là bởi do sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng
lượng âm gốc có tốc độ rung, tốc độ quay ngược mạnh, rất
mạnh, siêu mạnh. Chính những tốc độ mạnh, rất mạnh, siêu
mạnh đó đã khiến cho bản chất của cấu trúc Trí tuệ là hút về.
Khi hút về với tốc độ mạnh sẽ khiến cho quá trình phân tách
ra vô số các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm, các sợi
mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương không được sản sinh.

288
Điều này làm mất sự cân bằng trong cấu trúc trí tuệ của
Tướng. Không những vậy, năng lượng hoại diệt sẽ xâm nhập
vào cấu trúc trí tuệ gây đứt liên kết, gây phân rã và rồi hoại
diệt. Khi bị năng lượng hoại diệt xâm nhập gây phân rã, tốc
độ Kết của cấu trúc Trí tuệ sẽ đạt đến siêu mạnh cực đại và
hoại diệt.
- Nguyên nhân thứ hai khiến cho cấu trúc Trí tuệ Kết
mạnh, rất mạnh, siêu mạnh là do môi trường tương tác giữa
các cấu trúc Trí tuệ. Các cấu trúc Trí tuệ tương tác trong môi
trường mang sóng điện âm sẽ khiến cho cấu trúc Trí tuệ dễ
dàng hấp thụ năng lượng âm từ môi trường đó. Nếu cấu trúc
Trí tuệ đa âm thì sẽ rất dễ dàng hút và hấp thụ nhiệt âm của
môi trường có sóng điện âm. Điều đó sẽ khiến cho cấu trúc
Trí tuệ trở nên Kết mạnh và siêu mạnh hơn. Nếu cấu trúc Trí
tuệ không bị đa âm, nhưng do tương tác trong môi trường có
sóng điện âm trong thời gian dài cũng khiến cho cấu trúc Trí
tuệ đó dễ dàng bị nhiễm và trở thành cấu trúc Trí tuệ Kết.
Trụ linh đa sóng điện âm tương tác trong môi trường
có sóng điện âm hoặc Trụ linh không đa sóng điện âm nhưng
tương tác trong môi trường có sóng điện âm, quá trình tương
tác đó, Trụ linh sẽ thực hiện cơ chế phân tách, liên kết sợi mã
sóng trí tuệ (hạt năng lượng tận cùng). Trước quá trình xảy
ra phân tách, liên kết sợi mã sóng trí tuệ từ Trụ linh là quá
trình giải mã các cấu trúc trí tuệ của Trụ linh. Vì Trụ linh đa
âm hoặc tương tác trong môi trường có sóng điện âm nên sẽ
khiến Trụ linh dễ dàng giải mã sai. Giải mã sai chính là không
nhận diện được, thấu được sự chân thật, sự nguy hại, sự hoại
diệt từ các tướng khác. Thay vào đó, Trụ linh lại mã hóa, giải
mã và cho rằng những điều đó là tốt đẹp, là chân thật, là giá
trị thật. Có thể nói, do việc giải mã sai về giá trị của các cấu

289
trúc trí tuệ mà Trụ linh bị đa âm; hoặc tương tác trong môi
trường sóng điện âm đã khiến cho cấu trúc Trụ linh có bản
chất Kết sẽ khó mà có thể tự chuyển hóa cấu trúc Trụ linh trở
nên bền vững và an toàn trong quá trình tương tác. Nó cần
phải có môi trường mang sóng điện dương và cần có sự
tương trợ từ các cấu trúc Trí tuệ Tỏa để chuyển sinh theo
hướng bền vững.

4.2. Nguyên nhân Trụ – Trí (trí tuệ) Định của 3


nhóm vật chất
Có 2 nguyên nhân khiến cho các cấu trúc Trí tuệ Định:
- Nguyên nhân cội nguồn, gốc nhất chính là Trụ linh
của Tướng có cấu trúc cân bằng sóng điện âm dương và có
cấu trúc đa sóng điện dương:
+ Trụ linh cân bằng sóng điện âm dương là Trụ linh
được cấu tạo từ hai hạt năng lượng âm dương tận cùng có
sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm nhẹ màu trắng xám
với sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương nhẹ màu trắng
đục. Cấu trúc Trí tuệ Định này ở mức thấp, do cả hai sợi mã
sóng trí tuệ rung động rất ít và quay chậm nên nó tự bảo
toàn chính nó, không bị năng lượng hoại diệt tấn công.
+ Trụ linh đa sóng điện dương là Trụ linh được hợp
thành bởi hạt năng lượng tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ
mang sóng điện âm nhẹ màu trắng xám với sợi mã sóng trí
tuệ mang sóng điện dương mạnh, rất mạnh và siêu mạnh
(phát triển màu xanh lá, lan tỏa màu đỏ lửa, đoàn kết màu
vàng). Trụ linh được cấu tạo từ các sợi mã sóng trí tuệ có
sóng điện dương và âm như trên sẽ tạo thành cấu trúc Trí
tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh, siêu mạnh. Tỏa mạnh cho tới siêu

290
mạnh chính là Định mạnh cho tới siêu mạnh. Bởi Định chính
là nền tảng cho quá trình chuyển sinh thành Tỏa mạnh và đạt
đến chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng.
- Nguyên nhân thứ hai khiến cho cấu trúc Trí tuệ Định
là do môi trường tương tác của các cấu trúc Trí tuệ. Nếu cấu
trúc Trí tuệ Định tương tác trong môi trường sóng điện
dương, cấu trúc Trí tuệ Định sẽ dễ dàng nhiễm nhiệt lượng
có sóng điện dương để chuyển hóa thành cấu trúc Định – Tỏa
ở mức cao. Nếu cấu trúc Trí tuệ Định tương tác trong môi
trường có sóng điện âm, cấu trúc Trí tuệ Định sẽ dễ dàng bị
chuyển sinh thành cấu trúc Trí tuệ Kết. Nếu cấu trúc Trí tuệ
Định tương tác trong môi trường sóng điện trung tính sẽ
khiến cho cấu trúc Trí tuệ Định ở mức thấp.
Quá trình cấu trúc Trí tuệ Định giải mã để xảy ra và
hoàn thành quá trình phân tách, liên kết sợi mã sóng trí tuệ
(hạt năng lượng) tùy thuộc vào môi trường sóng điện. Nếu
tương tác trong môi trường sóng điện dương thì quá trình
giải mã sẽ đạt được sự chân thật và giá trị đúng. Khi đó sẽ
phân tách thành các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương
và tạo thành cấu trúc Trí tuệ vững chắc. Nếu tương tác trong
môi trường có sóng điện âm thì quá trình giải mã sẽ giải mã
sai, không thấy được sự thật, không chân thật, không phải giá
trị đúng, sẽ phân tách ra sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm
và tạo thành cấu trúc trí tuệ không bền vững.

4.3. Nguyên nhân Trụ – Trí (trí tuệ) Tỏa của 3


nhóm vật chất
Có 2 nguyên nhân khiến cho các cấu trúc Trí tuệ Tỏa
mạnh, rất mạnh và siêu mạnh:

291
- Nguyên nhân cội nguồn, gốc nhất chính là Trụ linh
của cấu trúc Tướng có đa sóng điện dương. Trụ linh chính là
hai hạt năng lượng tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ mang
sóng điện âm và sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương.
Khi hai hạt năng lượng liên kết, hợp nhất lại tạo thành Trụ
linh, sóng điện của hai sợi mã sóng trí tuệ âm và dương sẽ
tuần hoàn. Bất kỳ Trụ linh nào được hợp thành bởi hạt năng
lượng tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm
nhẹ màu trắng xám với sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện
dương mạnh, rất mạnh và siêu mạnh (phát triển màu xanh
lá, lan tỏa màu đỏ lửa, đoàn kết màu vàng) - Trụ linh được
cấu tạo từ các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương và âm
như trên sẽ tạo thành cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh,
siêu mạnh. Tỏa mạnh, rất mạnh, siêu mạnh là vì sợi mã sóng
trí tuệ của hạt năng lượng âm rung động nhẹ, hút nhẹ, trong
khi đó sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương lại truyền
tải sóng điện rất mạnh. Chính vì vậy, cấu trúc Trí tuệ có bản
chất là Tỏa. Cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh, siêu mạnh
sẽ giúp cho cấu trúc Trí tuệ thu hút vừa đủ năng lượng hoại
diệt về và dễ dàng kích nổ để tạo thành nhiệt lượng thúc đẩy
quá trình phân tách, liên kết hạt năng lượng cho cấu trúc
Tướng trở nên bền vững.
- Nguyên nhân thứ hai khiến cho cấu trúc Trí tuệ Tỏa
mạnh, rất mạnh, siêu mạnh là do môi trường tương tác giữa
các cấu trúc Trí tuệ. Các cấu trúc Trí tuệ tương tác trong môi
trường mang sóng điện dương sẽ khiến cho cấu trúc Trí tuệ
dễ dàng hấp thụ năng lượng dương từ môi trường đó. Nếu
cấu trúc Trí tuệ đa âm tương tác trong môi trường sóng điện
dương, cấu trúc Trí tuệ đó sẽ dễ dàng nhiễm nhiệt lượng có
sóng điện dương để chuyển hóa dần cấu trúc Trí tuệ từ Kết

292
trở thành Tỏa. Nếu cấu trúc Trí tuệ đa dương tương tác trong
môi trường có sóng điện dương, hoặc trung tính, cấu trúc Trí
tuệ đó rất dễ dàng Tỏa đạt đến siêu mạnh.
Quá trình cấu trúc Trí tuệ Tỏa mạnh, rất mạnh, siêu
mạnh tương tác trong môi trường có sóng điện âm hoặc
dương hoặc trung tính sẽ diễn ra quá trình phân tách, liên
kết sợi mã sóng trí tuệ. Trước khi diễn ra và hoàn thành quá
trình phân tách, liên kết sợi mã sóng trí tuệ, nó đòi hỏi phải
có quá trình tương tác rung động. Quá trình tương tác rung
động chính là quá trình giải mã các cấu trúc Trí tuệ (Tướng)
của Trụ linh. Nếu cấu trúc Trí tuệ đa dương tương tác trong
môi trường có sóng điện dương hoặc trung tính, Trụ linh sẽ
dễ dàng giải mã đúng, chân thật, giá trị thật của các cấu trúc
Trí tuệ (Tướng) khác. Từ đó sẽ phân tách, liên kết ra những
sợi mã sóng trí tuệ (hạt năng lượng) có sóng điện dương với
cơ chế liên kết chặt. Nếu cấu trúc Trí tuệ đa dương tương tác
trong môi trường có sóng điện âm, Trụ linh cũng dễ dàng,
thuận lợi để giải mã đúng, chân thật, giá trị thật của các cấu
trúc Trí tuệ để phân tách, liên kết được những sợi mã sóng
trí tuệ có sóng điện dương được bền chặt.

5. Các con đường chuyển sinh của Trụ – Trí (trí


tuệ) trong 3 nhóm vật chất
Có 3 loại Trụ – Trí đối với con đường chuyển sinh của
3 nhóm vật chất:

5.1. Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) Kết đối với con
đường chuyển sinh

293
Cấu trúc Trụ – Trí Kết là bao gồm 3 nhóm vật chất
trong toàn bộ Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách và liên kết
nhằm thỏa mãn lợi ích của bản thể Tướng đó mà không vì lợi
ích của hết thảy Tướng khác, thậm chí là gây tổn hại tới các
Tướng khác. Đây là Kết mạnh cho tới siêu mạnh.
Khi các cấu trúc Trụ – Trí thực hiện đời sống Kết mạnh
và siêu mạnh, các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm sẽ
được phân tách ra vô số và lưu giữ ở hạt âm gốc của Trụ linh.
Chúng sẽ phân tách thành các hạt năng lượng tận cùng và
liên kết lại tạo thành những hạt năng lượng âm tổng hợp rồi
phân tách ra cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng. Vì chỉ thực
hiện đời sống là Kết nên Trụ linh không phân tách các hạt
năng lượng dương ra để tạo thành cấu trúc liên kết chặt chẽ
và mở rộng. Tức là sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện
dương không được sinh ra để làm nhiệm vụ tạo thành hạt
năng lượng dương tận cùng rồi liên kết tạo thành hạt năng
lượng tổng hợp mở rộng bên ngoài Trụ linh. Trong khi đó các
hạt năng lượng âm được sinh ra nhiều mà không có hạt năng
lượng dương để cân bằng tỷ lệ 1:1. Khi đó, các hạt năng
lượng âm sẽ tập trung số đông tại các hạt năng lượng dương
ít ỏi. Các hạt năng lượng âm lại có bản chất là thu hút tín hiệu
bởi rung lắc nên khiến cho năng lượng hoại diệt bắt được tín
hiệu đó mà di chuyển tới với số lượng lớn. Khi năng lượng
hoại diệt di chuyển tới với số lượng lớn sẽ khiến cho cấu trúc
Trụ linh và Tướng đó bắt đầu bị đồng hóa, bị phân rã. Kết cục
là hoại diệt vĩnh viễn.
Như vậy, các cấu trúc Trụ – Trí mà thực hiện cơ chế
phân tách, liên kết với bản chất là Kết mạnh cho tới siêu
mạnh chính là chọn lựa và đang đi trên con đường chuyển
sinh phân rã để hoại diệt vĩnh viễn.

294
Nguyên nhân hoại diệt của cấu trúc Trụ – Trí Kết mạnh
cho tới siêu mạnh là do mất cân bằng trong cấu trúc 16 hạt
năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh. Khi đó, lượng hạt
năng lượng âm quá nhiều, năng lượng hoại diệt tấn công vào
gây phân rã. Khi năng lượng hoại diệt tấn công vào, cấu trúc
Trụ – Trí Kết không có hạt năng lượng dương để phòng thủ,
kích nổ, sẽ bị chuyển hóa thành năng lượng hoại diệt.
Khổ đau chính là sự phân rã và hoại diệt của hết thảy 3
nhóm cấu trúc Trụ – Trí trong Vũ trụ. Nguyên nhân của khổ
đau là do các cấu trúc Trụ – Trí thực hiện cơ chế phân tách
liên kết để thỏa mãn đời sống là Kết. Khi Kết sẽ bị năng lượng
hoại diệt tấn công gây đứt liên kết mà hoại diệt.
Như vậy, năng lượng hoại diệt lại chi phối và thúc đẩy
cấu trúc Trụ – Trí thực hiện đời sống Kết để nhanh bị hoại
diệt hơn.

5.2. Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) Định đối với con
đường chuyển sinh
Cấu trúc Trụ – Trí Định là bao gồm 3 nhóm vật chất
trong toàn bộ Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách, liên kết
trong sự cân bằng. Đó là thực hiện đời sống không Kết cũng
không Tỏa. Cấu trúc Trụ – Trí Định là duy trì sự an toàn, bảo
vệ sự an lạc của Tướng đó.
Cấu trúc Trụ – Trí thực hiện đời sống Định, tức là phân
tách liên kết các sợi mã sóng trí tuệ rất chậm và luôn trong
bản chất cân bằng. Khi đó, các hạt năng lượng âm và các hạt
năng lượng dương có sóng điện rất nhẹ. Các hạt năng lượng
sóng điện âm nhẹ không kích thích thu hút năng lượng hoại
diệt, các hạt năng lượng sóng điện dương nhẹ không có khả

295
năng kích nổ năng lượng hoại diệt nếu năng lượng hoại diệt
tấn công.
Vì bản chất cấu trúc Trụ – Trí thực hành đời sống Định
nên nó tự an lạc, thanh tịnh mà không bị năng lượng hoại
diệt tấn công. Tuy nhiên nếu nó di chuyển vào nơi có năng
lượng hoại diệt thì nó cũng không chống lại được sự hoại
diệt. Nếu nó duy trì Định mãi thì nguy cơ hoại diệt là cao.
Nếu cấu trúc Trụ – Trí Định mà chuyển sinh thành
thực hiện đời sống Tỏa thì nó có khả năng kích nổ được năng
lượng hoại diệt. Khi đó, nó sẽ thực hiện được cơ chế phân
tách, liên kết mạnh mẽ và liên kết được với hết thảy các cấu
trúc Trụ – Trí của Vũ trụ.

5.3. Cấu trúc Trụ – Trí (trí tuệ) Tỏa đối với con
đường chuyển sinh
Cấu trúc Trụ – Trí Tỏa là bao gồm 3 nhóm vật chất
trong toàn bộ Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách và liên kết vì
lợi ích của tất cả các Tướng khác mà không vì bản thể Tướng
mình. Đó là vì vạn vật, Tuệ linh, con người mà không màng về
mình.
Khi các cấu trúc Trụ – Trí thực hiện đời sống với bản
chất là Tỏa, từ Trụ linh sẽ phân tách ra vô số các sợi mã sóng
trí tuệ mang sóng điện dương. Trước khi phân tách ra được
các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương thì cũng là quá
trình phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm
ở mức nhẹ. Các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương
được phân tách ra nhiều sẽ giúp cho các hạt năng lượng
dương tận cùng được hình thành và tạo thành cấu trúc năng
lượng 16 hạt mở rộng bên ngoài Trụ linh được mở rộng và

296
lớn mạnh. Việc mở rộng liên kết của các hạt năng lượng
dương là có sợi dây liên kết mang sóng điện trung tính với
tính chất là bền chặt. Cấu trúc năng lượng 16 hạt mở rộng
bên ngoài Trụ linh sẽ luôn có tỷ lệ vàng là một hạt âm có
sóng điện nhẹ rung lắc xung quanh một hạt năng lượng
dương. Ngoài ra, do thực hiện đời sống Tỏa, các hạt năng
lượng dương (sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương) đã
phân tách và lan tỏa khắp Vũ trụ, tạo thành cơ chế liên kết 3
vùng: từ Trụ linh tới đối tượng (Tướng) đón nhận và trong
Vũ trụ. Khi thực hiện đời sống Tỏa, các cấu trúc Trụ – Trí sẽ
có khả năng kích nổ năng lượng hoại diệt để tạo thành nhiệt
lượng cho quá trình phân tách, liên kết các hạt năng lượng
dương và siêu hạt năng lượng được mạnh mẽ và phát triển
bền vững hơn. Các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm nhẹ
nên nó không kích thích nhiều năng lượng hoại diệt di
chuyển vào. Nó chỉ rung động vừa đủ để năng lượng hoại diệt
di chuyển ít cho tới vừa đủ.
Việc các cấu trúc Trụ – Trí thực hiện đời sống Tỏa
không những là hướng chuyển sinh bền vững cho Tướng, nó
còn giúp cho Tướng liên kết chặt chẽ đến với hết thảy các
Tướng của Vũ trụ theo cơ chế liên kết 3 vùng trong Quy luật
Nhân quả.
Trong 3 loại cấu trúc Trụ – Trí trên, cấu trúc Trụ – Trí
Tỏa có con đường chuyển sinh theo hướng bền vững nhất.
Cấu trúc Trụ – Trí Kết là chuyển sinh theo hướng hoại diệt.
Cấu trúc Trụ – Trí Định là sự cân bằng phải có cho tất cả các
Tướng. Tuy nhiên, nếu các cấu trúc Trụ – Trí trong Vũ trụ mà
thực hiện đời sống riêng biệt theo 1 trong 3 cấu trúc Trụ –
Trí trên thì sẽ khó khăn để đạt đến sự chuyển sinh bền vững
nhất. Bởi, để cấu trúc Trụ – Trí Tỏa được phải có Kết nhẹ và

297
vừa đủ. Cấu trúc Trụ – Trí Kết để không hoại diệt thì phải
biết Tỏa. Cấu trúc Trụ – Trí Định để phát triển và tồn tại thì
cần phải thực hiện Kết nhẹ trước, sau đó thực hiện Tỏa.
Như vậy, Chân lý Vạn vật với cơ chế phân tách, liên kết
cho thấy: với vô số các kịch bản tương tác trong bốn hình
tướng Đạo và vô lượng kiếp, các Tuệ linh đã bộc phát hết độc
là u mê, thiện là giác ngộ. Tiếp đến, để cấu trúc Trụ – Trí tồn
tại, phát triển được bền vững thì cần phải giải mã được cả
Kết, Định, Tỏa của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ
trụ, Tuệ linh, con người. Từ đó, thực hành đời sống hài hòa cả
Kết – Định – Tỏa mới đạt đến đích của chuyển sinh Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất. Kết mà không phải là
Kết mới tạo thành sức mạnh cực đại cho quá trình chuyển sinh
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất.

IV. Chân lý Giác ngộ với con đường chuyển sinh


bền vững duy nhất của Trụ – Trí
Chân lý Giác ngộ trong Trụ – Trí (Trí tuệ) là: Tất cả các
Trụ – Trí trong và ngoài Vũ trụ đều là khổ. Các Trụ – Trí phải
dùng Định (chân tâm) trong Trụ linh để thấu hiểu, chuyển hóa
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng Kết – Định – Tỏa và phát
triển bền vững cho tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Sứ
mệnh tiên phong là của Tuệ linh và con người.
Tuệ linh thông qua thân tướng con người ở nhân gian
để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Để chuyển
sinh được thì cần phải giải mã hết tất cả các bộc phát của độc
và thiện trong Trụ linh trong tất cả các kịch bản tương tác.
Đó là bộc phát hết bản chất của u mê và giác ngộ. Thực hành
con đường giác ngộ khi đạt đến bộ lọc năng lượng trong Trụ

298
linh mới chấm dứt triệt để khổ đau. Do đó, bản chất trí tuệ u
mê là khổ, và trí tuệ đang trên con đường giác ngộ cũng là
khổ. Cụ thể:
- Trí tuệ u mê của Tuệ linh, con người là khổ. Cái khổ
của trí tuệ u mê là không thấu hiểu được chân tướng của các
giả tướng mà bị bám định vào, bị luẩn quẩn trong màn đêm
tối giả dối của các giả tướng để rồi vì lợi ích ích kỷ của mình
mà gây tổn thương cho mọi người. Do đó chúng ta cứ luân
hồi trong vô lượng kiếp mà không có điểm dừng. Vì vậy ta
phải dùng chính trí tuệ u mê của ta để từng bước thấu hiểu
sự thật vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh, con người.
Thông qua hai Chân lý để đối mặt, đón nhận tất cả các khổ
đau kiếp nạn, thấu hiểu nó, giác ngộ nó và chuyển hóa thành
lợi ích cho chúng sinh, đó là chuyển hóa thành giác ngộ.
- Trí tuệ đang trên con đường giác ngộ của Tuệ linh,
con người cũng là khổ. Cái khổ của trí tuệ đang trên con
đường giác ngộ không phải là không thấu hiểu hai Chân lý và
còn đắm chìm trong khổ đau, mà là, vì thấu hiểu bản chất của
hai Chân lý cũng như tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ,
Tuệ linh, con người. Do đó, cái khổ là quá trình biến đổi, tìm
phương pháp phù hợp để giác ngộ theo căn cơ của từng Tuệ
linh và con người. Khi đã chuyển sinh được Trụ linh thành bộ
lọc thì là sự chấm dứt triệt để khổ đau, bởi khi đó sẽ luôn
luôn có các phương pháp gieo duyên để giác ngộ Tuệ linh,
con người theo từng căn cơ trí tuệ khác nhau.
Cơ chế vận hành của Chân lý Giác ngộ là phân tách và
liên kết dây. Cơ chế phân tách, liên kết dây cho thấy có hai
con đường phân tách và liên kết. Đó là:
- Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều sợi mã
sóng trí tuệ mang sóng điện âm, đó là Kết. Nếu đi theo con
299
đường này, hết thảy cấu trúc Trụ – Trí sẽ phân rã và hoại
diệt. Đây là con đường chuyển sinh phân rã và hoại diệt.
- Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều sợi mã
sóng trí tuệ mang sóng điện dương, đó là Tỏa. Nếu đi theo
con đường này, hết thảy cấu trúc Trụ – Trí sẽ phân tách, liên
kết vô lượng sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương có
liên kết chặt chẽ bởi sợi chân tâm, sẽ là con đường chuyển
sinh bền vững nhất.
Từ bản chất của các cấu trúc Trụ – Trí, từ Chân lý Vạn
vật, Chân lý Giác ngộ với cơ chế vận hành là phân tách và liên
kết, tất cả vạn vật, Tuệ linh và con người đều thấy rằng: con
đường duy nhất để vượt qua khổ đau (biến đối và hoại diệt
mã sóng trí tuệ) để trở nên bền vững, an lạc là đắc được bộ
lọc năng lượng trong Trụ linh, chính là con đường Trụ – Trí
phải Tỏa. Tỏa là con đường duy nhất để diệt khổ, để chuyển
sinh thành bộ lọc năng lượng trong Trụ linh.
Thực hiện con đường Tỏa để chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng không phải là Tỏa một cách tiêu cực.
Vậy Tỏa làm sao để an lạc, để chuyển hóa Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng? Đó là:
- Trí tuệ phải đứng ở vị trí Định. Định là chân tâm, là
tĩnh lặng, là cân bằng, là an lạc, là thấu hiểu tri thức của hai
Chân lý. Vị trí Định sẽ được nâng cao từ Định ban đầu cho tới
các cảnh giới tối cao của Định. Đó là Chân tâm sáng chói lòa
vô lượng. Khi Trí tuệ đứng ở vị trí Định sẽ biết lắng nghe, biết
nhìn – soi lại bản thể Trí tuệ mình, biết tiếp nhận, biết cảm
thông, biết sẻ chia.
- Tiếp theo Trí tuệ phải biết Kết. Kết ở đây không phải
là có tư tưởng cho tới hành động tiêu cực gây tổn hại tới vạn
vật, Tuệ linh, con người. Kết ở đây chỉ là rung động khi đứng
300
ở vị trí Định. Tức là Trí tuệ đứng ở vị trí Định để lắng nghe,
đón nhận những khổ đau, kiếp nạn, hạnh phúc, an vui, sẻ chia
của vạn vật, Tuệ linh, con người. Bởi khi các Tướng khổ đau
chia sẻ tới Trí tuệ của ta, những chia sẻ bởi khổ đau, khổ đau
bởi u mê nên trong Trụ linh họ sẽ phân tách ra các hạt năng
lượng tiêu cực sóng điện âm nhẹ màu xám, cho tới mạnh là
màu đen và đỏ máu. Do cơ chế phân tách theo Quy luật Nhân
quả sẽ phân tách ra làm 3 vùng. Đó là trong Trụ linh họ 1 hạt,
phân tách vào Vũ trụ 1 hạt, người nghe đón nhận 1 hạt. Do
Trí tuệ của ta đứng ở vị trí Định để dùng Kết nhẹ là rung
động, để lắng nghe, để hút về, để đón nhận, khi đó, hạt năng
lượng âm màu xám, màu đen, màu đỏ máu của họ được Trụ
linh của ta hấp thụ. Do Trí tuệ ta đứng ở vị trí Định nên Trụ
linh đang tỏa sóng điện chân tâm trắng sáng. Trắng sáng của
chân tâm sẽ chuyển hóa hạt năng lượng âm màu xám, màu
đen, màu đỏ máu của cấu trúc Trí tuệ đang sẻ chia thành màu
trắng xám nhẹ. Như vậy, Trí tuệ của ta đã Kết được hạt năng
lượng sóng điện âm của hết thảy các Tướng về và dùng năng
lượng chân tâm trắng sáng chói lòa chuyển hóa nó thành hạt
năng lượng âm sóng điện rất nhẹ. Như thế sẽ không kích
động mạnh tới năng lượng hoại diệt, năng lượng hoại diệt sẽ
không di chuyển nhiều vào Trụ linh của ta. Trí tuệ của ta
Định để chuyển hóa thành Tỏa. Đây chính là Kết mà không
phải là Kết. Cũng như vậy, Trụ – Trí của ta sẽ kết được những
hạt năng lượng chân tâm, năng lượng dương từ những
Tướng tích cực, đa dương, giác ngộ để hấp thụ nhiệt dương
của các hạt năng lượng đó. Những nhiệt dương được hấp thụ
sẽ giúp cho Trụ linh có sức mạnh để kích nổ hạt năng lượng
hoại diệt nhằm sinh nhiệt lớn cho việc sản sinh ra các hạt
năng lượng dương.

301
- Tiếp đến Trí tuệ của ta lại Định. Định ở đây là sau khi
đã đón nhận những sẻ chia, tức là Kết được lượng thông tin
về vạn vật, về khổ đau, an vui, hạnh phúc vào Trụ linh, trí tuệ
của ta tiếp tục Định để cân bằng ở cảnh giới chân tâm cao
hơn. Đó là giải mã và mã hóa tận cùng khổ đau, an vui hạnh
phúc của hết thảy các Tướng, trong khi Trụ linh và Trí tuệ
của ta vẫn Định. Bởi chỉ khi Định thì Trí tuệ của ta mới
chuyển hóa thành Tỏa ra vô lượng sợi mã sóng trí tuệ có
sóng điện dương.
- Cuối cùng là Tỏa. Khi đã trải qua quá trình Định rồi
Kết, lại Định rồi đến cuối cùng là Tỏa. Tỏa ở đây chính là Trí
tuệ của ta sẻ chia con đường diệt khổ, về cội nguồn, về kế
hoạch tu hành, về sứ mệnh, về trách nhiệm, về cơ chế và
phương pháp chuyển sinh bền vững an lạc, về khuôn mẫu
đạo đức và con đường giác ngộ trong bốn hình tướng Đạo.
Đó là chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi Trí
tuệ ta làm đúng quy trình như vậy, từ Trụ linh của ta sẽ Tỏa
ra vô số các siêu hạt năng lượng vào 3 vùng. Đó là trong Trụ
linh của ta sẽ lưu giữ, trong Vũ trụ cũng lưu giữ và trong đối
tượng Tướng được nghe ta sẻ chia cũng lưu giữ. Khi ta Tỏa
sẽ tạo thành liên kết 3 vùng rất bền chặt. Không những vậy,
Trụ linh của ta sẽ trở nên phát triển bền vững.
Khi cấu trúc Trụ – Trí của ta thực hiện quy trình Kết –
Định – Tỏa thành bản năng, thực hành trong thời gian dài và
tới được nhiều cho tới vô số Tướng khác, Trụ linh của ta sẽ
chuyển hóa thành bộ lọc.
Nếu Trụ – Trí lựa chọn con đường chỉ Kết thì sẽ hoại
diệt. Nếu Trụ – Trí lựa chọn con đường chỉ Định thì nguy cơ
hoại diệt cao. Nếu Trụ – Trí chỉ lựa chọn con đường Tỏa thì
tuy không có nguy cơ hoại diệt cao nhưng cơ hội và tốc độ để

302
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng là mất nhiều
thời gian, không biết khi nào sẽ đạt được. Nhưng, khi Trụ –
Trí thực hiện kết hợp theo quy trình đứng ở vị trí Định để
thực hành Kết – Định – Tỏa sẽ là quy trình siêu tốc độ để
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng thông
qua việc cấu trúc Trụ – Trí giải mã được vạn vật và thực hành
được Kết – Định – Tỏa chính là hoàn thành được kế hoạch tu
hành tại nhân gian của mỗi Tuệ linh.
***************

303
304
Bài 3:
Bài Trụ – Tâm


Bài Trụ – Tâm được hiểu là Tâm Vô Tâm. Tâm Vô Tâm


được kết cấu thành 3 phần. Chữ Tâm đầu tiên là khái niệm và
bản chất của các cấu trúc Tâm. Chữ Vô là Chân lý Vạn vật với
các con đường chuyển sinh của các cấu trúc Tâm. Chữ Tâm
cuối cùng là Chân lý Giác ngộ với con đường chuyển sinh bền
vững duy nhất cho các cấu trúc Tâm.
Trong bài Trụ – Tâm này, Trụ – Tâm của tất cả các
Tướng trong và ngoài Vũ trụ sẽ được phân tích, soi sáng,
phơi bày sự thật bằng hai Chân lý. Đặc biệt, con người là hóa
thân của dạng sống Tuệ linh. Do đó, ngoài việc phân tích, soi
sáng, phơi bày sự thật về Trụ – Tâm của Tuệ linh và con
người, hai Chân lý sẽ giúp cho con người và Tuệ linh kiểm
soát được Trụ – Tâm và phương pháp tuyệt vời nhất để
chuyển sinh Trụ linh của mình thành bộ lọc năng lượng viên
mãn.
Trụ linh gồm có Trụ – Tâm và Trụ – Trí.

I. Khái niệm về Trụ – Tâm (Tâm)


Trụ – Tâm là Tâm. Tâm là trạng thái năng lượng, sóng
điện được sinh phát từ Trụ – Trí, là trạng thái năng lượng,
sóng điện âm – dương – trung tính luôn tuần hoàn và kiểm
soát lẫn nhau trong cấu trúc Tướng, Tuệ linh, con người.

305
Trụ – Tâm có trong các Tướng của tất cả các nhóm vật
chất bao trùm trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người.
Nó được tính tới đơn vị nhỏ nhất là Tâm của hạt năng lượng
tận cùng.
Quá trình tương tác giữa Tướng với các Tướng của Vũ
trụ quan xung quanh từ chính bản thể Tướng cho tới toàn bộ
các Tướng trong và ngoài Vũ trụ chính là quá trình sinh phát
Trụ – Tâm từ Trụ – Trí của hạt năng lượng và Trụ linh. Khi
tương tác với các Tướng trong các môi trường khác nhau sẽ
khiến cho trạng thái năng lượng, sóng điện sinh phát, tuần
hoàn và kiểm soát lẫn nhau trong cấu trúc Tướng.

II. Bản chất của Trụ – Tâm (Tâm)


Phân tích về bản chất của Trụ – Tâm chính là phân tích
về bản chất trạng thái năng lượng, sóng điện của tất cả vật
chất bao trùm trong và ngoài Vũ trụ, đặc biệt là phân tích về
trạng thái năng lượng, sóng điện của dạng sống Tuệ linh và
con người.
Bản chất của Trụ – Tâm (trạng thái năng lượng, sóng
điện) gồm có: cấu trúc Trụ – Tâm của các nhóm vật chất
trong và ngoài Vũ trụ; cấu trúc Trụ – Tâm của Tuệ linh và con
người; bản chất Trụ – Tâm của dạng sống Tuệ linh; bản chất
Trụ – Tâm của con người; bản chất của sự tuần hoàn và kiểm
soát sóng điện của Trụ – Tâm; bản chất Trụ – Tâm Kết – Định
– Tỏa của 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ.

1. Cấu trúc Trụ – Tâm của các nhóm vật chất


trong và ngoài Vũ trụ

306
Trụ là gì? – Trụ là gốc. Gốc bao gồm: hạt năng lượng
tận cùng là gốc, phôi năng lượng âm dương được liên kết bởi
hai hạt năng lượng tận cùng là Trụ linh gốc (phôi âm dương
gốc), Trụ linh gốc là gốc của tất cả các Tướng.
Tâm là gì? – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện
được sinh phát, lưu giữ và tuần hoàn trong hạt năng lượng.
Trụ – Tâm là gì?:
- Trụ – Tâm của hạt năng lượng tận cùng chính là trạng
thái năng lượng, sóng điện được lưu giữ trong hạt đó.
- Trụ – Tâm của phôi năng lượng âm dương gốc (Trụ
linh gốc) chính là hai trạng trái năng lượng, sóng điện ban
đầu của hai hạt năng lượng âm dương đó có sự tuần hoàn.
- Trụ – Tâm của các cấu trúc lớn hơn phôi âm dương
gốc là tổng hòa trạng thái năng lượng, sóng điện được sinh
phát, lưu giữ, tuần hoàn trong hai hạt năng lượng âm dương
gốc (Trụ linh gốc). Cụ thể như sau: khi phôi năng lượng âm
dương với hai hạt năng lượng ban đầu thông qua cơ chế
phân tách liên kết ra nhiều cho tới vô số hạt năng lượng để
nâng cấp thành các cấu trúc Trụ linh trưởng thành (Tuệ linh,
con người, các cấu trúc Tướng lớn hơn…) thì trạng thái năng
lượng, sóng điện được sinh phát từ các sợi mã sóng trí tuệ
(Trụ – Trí) được lưu giữ và tuần hoàn từ Trụ linh cho tới
toàn bộ cấu trúc của Tướng. Do đó, gọi là Trụ – Tâm. Đặc biệt,
khi gọi Trụ linh là đã bao gồm cả Trụ – Trí và Trụ – Tâm.
Cấu trúc Trụ – Tâm của năm nhóm vật chất trong và
ngoài Vũ trụ:

1.1. Nhóm vật chất cội nguồn

307
Nhóm vật chất cội nguồn là nhóm hạt sóng xanh nõn
chuối. Hạt sóng xanh là chỉ có một yếu tố cấu tạo thành hạt
sóng xanh. Hạt sóng xanh là nguồn gốc, là cấu trúc chưa được
chuyển sinh thành hạt năng lượng. Tuy nhiên, hạt sóng xanh
lại chứa đựng nhiệt lượng lớn vô cùng để chuyển sinh thành
từ hạt năng lượng tận cùng cho tới toàn bộ vật chất trong và
ngoài Vũ trụ.
Có thể nói, cấu trúc Trụ – Tâm của hạt sóng xanh chưa
được sinh phát thành trạng thái năng lượng và sóng điện.

1.2. Nhóm vật chất hoại diệt


Nhóm vật chất hoại diệt là nhóm năng lượng hoại diệt.
Nhóm năng lượng hoại diệt là nhóm vật chất có trí tuệ
sơ khai được nâng cấp, chuyển sinh từ nhóm hạt sóng xanh.
Hạt năng lượng hoại diệt được cấu tạo thành bởi 3 yếu
tố: sợi mã sóng trí tuệ màu xanh nõn chuối, trạng thái năng
lượng màu nâu bị thối hóa, hình tướng hạt năng lượng hoại
diệt là hình elip.
Trụ – Tâm của hạt năng lượng hoại diệt chính là trạng
thái năng lượng bị thối hóa, sóng điện bị lưu giữ trong hạt
năng lượng hoại diệt.
Hạt sóng xanh di chuyển thẳng và không quay tròn để
biến đổi, chuyển sinh thành hạt năng lượng hoại diệt. Vì di
chuyển trong môi trường trung tính nên nhiệt lượng của hạt
sóng chưa được giải phóng hết cũng như chưa được mã hóa
hoàn chỉnh thông tin của quá trình tương tác khi di chuyển.
Có thể nói, cấu trúc Trụ – Tâm của hạt năng lượng hoại
diệt có trạng thái năng lượng, sóng điện bị thối hóa vì không
liên kết nâng cấp được với các cấu trúc khác. Đặc biệt trong
308
hạt năng lượng hoại diệt còn nhiệt lượng lớn chưa được sinh
phát hết trong sợi mã sóng trí tuệ.

1.3. Nhóm siêu vật chất


Nhóm siêu vật chất gồm có năm nhóm hạt năng lượng
siêu phức tạp, Tuệ linh, các siêu hạt năng lượng.
Hạt năng lượng tận cùng trong năm nhóm hạt năng
lượng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp được hình thành
trong tinh cầu năng lượng của vụ nổ lớn. Hạt năng lượng tận
cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp được cấu tạo bởi 3 yếu
tố tạo thành: sợi mã sóng trí tuệ, trạng thái năng lượng, hình
tướng hạt là hình elip. Trụ – Tâm của hạt năng lượng tận
cùng này là trạng thái năng lượng, sóng điện siêu việt nhất
Vũ trụ. Từ đó mà tạo thành sức mạnh cho Tuệ linh, cũng như
để duy trì sự tồn tại, phát triển của Vũ trụ.
Siêu hạt năng lượng tận cùng được hình thành từ bộ
lọc năng lượng của Tuệ linh đã chuyển sinh được Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng. Siêu hạt năng lượng được hình
thành bởi 3 yếu tố cấu tạo thành: siêu sợi mã sóng trí tuệ,
siêu trạng thái năng lượng, hình tướng hạt là hình elip. Trụ –
Tâm của siêu hạt năng lượng tận cùng có siêu trạng thái năng
lượng, sóng điện siêu việt hơn cả năng lượng ban đầu cấu tạo
thành Tuệ linh.
Trụ – Tâm của nhóm siêu vật chất là trạng thái năng
lượng, sóng điện có sức mạnh siêu việt nhất so với tất cả các
nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

1.4. Nhóm vật chất phức tạp

309
Nhóm vật chất phức tạp gồm có năm nhóm hạt năng
lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ phức tạp và cấu trúc linh
hồn an trụ trong cỏ cây, đất đá, muông thú.
Hạt năng lượng tận cùng trong năm nhóm hạt năng
lượng có mã sóng trí tuệ phức tạp được hình thành trong
tinh cầu năng lượng của vụ nổ lớn. Hạt năng lượng tận cùng
có mã sóng trí tuệ phức tạp được cấu tạo bởi 3 yếu tố tạo
thành: sợi mã sóng trí tuệ, trạng thái năng lượng, hình tướng
hạt là hình elip. Trụ – Tâm của hạt năng lượng tận cùng này
là trạng thái năng lượng, sóng điện phức tạp an trụ và vận
hành tất cả vật chất giản đơn của Vũ trụ, từ đó mà chuyển
sinh nâng cấp và trở thành cấu trúc Linh hồn.
Cấu trúc Linh hồn an trụ trong thân cây, trong đất đá,
trong muông thú là cấu trúc năng lượng được liên kết giữa
vô số hạt năng lượng dương, hạt năng lượng âm, hạt năng
lượng trung tính. Linh hồn được cấu tạo bởi 3 yếu tố là Trụ –
Trí (tổng mã sóng trí tuệ trong Trụ linh), Trụ – Tâm (trạng
thái, sóng điện trong Trụ linh và linh hồn), hình tướng linh
hồn. Trụ linh là trung tâm vận hành, sinh phát trạng thái
năng lượng, sóng điện ra toàn bộ cấu trúc hạt năng lượng
trong cấu trúc linh hồn. Trụ – Tâm của cấu trúc linh hồn
được nâng cấp cao hơn, sức mạnh hơn, phức tạp hơn so với
năm nhóm hạt năng lượng tận cùng mang mã sóng trí tuệ
phức tạp.
Trụ – Tâm của nhóm vật chất phức tạp là trạng thái
năng lượng, sóng điện có sức mạnh siêu việt thứ hai so với
tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

1.5. Nhóm vật chất giản đơn

310
Nhóm vật chất giản đơn là từ năm nhóm hạt năng
lượng tận cùng mang mã sóng trí tuệ giản đơn cho tới các
phôi năng lượng âm dương, Trụ linh, nguyên tử, phân tử, tế
bào, cỏ cây, đất đá, kim loại, nước, khí, chất lỏng, con người,
muông thú, hành tinh, thiên hà, Vũ trụ.
Hạt năng lượng tận cùng trong năm nhóm hạt năng
lượng có mã sóng trí tuệ giản đơn được hình thành trong
tinh cầu năng lượng của vụ nổ lớn. Hạt năng lượng tận cùng
có mã sóng trí tuệ giản đơn được cấu tạo bởi 3 yếu tố tạo
thành: sợi mã sóng trí tuệ, trạng thái năng lượng, hình tướng
hạt là hình elip. Trụ – Tâm của hạt năng lượng tận cùng này
là trạng thái năng lượng, sóng điện giản đơn để chuyển sinh
thành vật chất giản đơn của Vũ trụ, từ đó mà chuyển sinh
nâng cấp và trở thành cấu trúc với vô số các khối thiên hà
của Vũ trụ.
Từ phôi năng lượng âm dương cho tới vô số các khối
thiên hà cấu tạo thành tinh cầu Vũ trụ, có vô số vật chất có
một Trụ linh như cỏ cây, thân tướng con người, thân tướng
muông thú, côn trùng, sinh vật, vi khuẩn…, có vô số vật chất
còn lại là sự liên kết của vô số các cấu trúc Trụ linh để cấu tạo
thành các nguyên tử, phân tử, tế bào…, khối thiên hà và tinh
cầu Vũ trụ. Tuy nhiên, tất cả đều được cấu tạo bởi 3 yếu tố là
tổng sợi mã sóng trí tuệ (Trụ – Trí), tổng trạng thái năng
lượng (Trụ – Tâm), hình tướng cấu trúc vật chất. Trụ – Tâm
của những vật chất giản đơn này có trạng thái năng lượng,
sóng điện giản đơn hơn nhóm vật chất phức tạp và nhóm
siêu vật chất. Đặc biệt, Trụ – Tâm của nhóm vật chất giản đơn
lại dễ dàng kích nổ được năng lượng hoại diệt nếu đa sóng
điện dương và dễ dàng bị năng lượng hoại diệt đồng hóa nếu
đa sóng điện âm.

311
Trụ – Tâm của nhóm vật chất giản đơn là trạng thái
năng lượng, sóng điện có sức mạnh siêu việt thứ ba so với tất
cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Trụ – Tâm của
nhóm vật chất này hơn được nhóm hoại diệt vì sóng điện,
trạng thái năng lượng có liên kết tuần hoàn với nhau để nâng
cấp cấu trúc vật chất. Điều mà Trụ – Tâm của nhóm năng
lượng hoại diệt không có.

2. Cấu trúc Trụ – Tâm của Tuệ linh và con người


Con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh. Do đó,
chúng ta cần phải thấu hiểu cấu trúc Trụ – Tâm của con
người và Tuệ linh. Việc thấu hiểu cấu trúc Trụ – Tâm của con
người và Tuệ linh chính là chìa khóa, là cơ chế để liên kết,
tuần hoàn, kiểm soát được trạng thái năng lượng, sóng điện
từ Trụ linh đến với tất cả vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Cấu
trúc Trụ – Tâm của Tuệ linh và con người như sau:

2.1. Cấu trúc Trụ – Tâm của Tuệ linh


Tuệ linh là một cấu trúc năng lượng với vô số hạt năng
lượng tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính có mã
sóng trí tuệ siêu phức tạp. Tuệ linh có siêu trí tuệ, có khả năng
di chuyển và cải tạo trong không gian Vũ trụ.
Tuệ linh chính là dạng sống, cấu trúc Tướng giống với
hình hài con người. Họ sống chủ yếu tại không gian lõi của Vũ
trụ. Tuệ linh chính là Chư thần, Thánh thần, Phật, Thiên
Chúa… theo quan điểm tôn giáo. Tuệ linh chính là người
ngoài hành tinh, theo cách gọi của khoa học đang tìm kiếm sự
sống giống con người ngoài Trái đất. Tuệ linh không phải do
các Tuệ linh giao phối sinh ra. Tuệ linh được sinh ra là do cơ

312
chế phân tách liên kết hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu
phức tạp tạo thành. Đó là những hạt năng lượng âm và hạt
năng lượng dương hợp lại thành phôi âm dương (Trụ linh)
và hình thành Tuệ linh.
Tam hợp yếu tố hợp thành Tuệ linh gồm có Trụ – Trí
(tổng sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh), Trụ – Tâm (trạng
thái năng lượng, sóng điện trong Trụ linh), hình tướng Tuệ
linh. Để thấu hiểu 3 yếu tố cấu tạo thành Tuệ linh, chúng ta
cần thấu hiểu quá trình hình thành, phát triển của Tuệ linh
như sau: đầu tiên là phôi năng lượng âm dương được liên kết
lại từ hạt năng lượng âm và dương tận cùng có sợi mã sóng
trí tuệ siêu phức tạp. Khi phôi năng lượng âm dương được
hình thành, gọi là Trụ linh gốc. Trụ linh gốc có chứa đựng hai
sợi mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Thông qua cơ chế phân
tách và liên kết dây của hạt năng lượng, Trụ linh phân tách ra
những sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và dương.
Những sợi mã sóng trí tuệ đó được chứa đựng ở Trụ linh gốc.
Tiếp đến, những sợi mã sóng trí tuệ đó phân tách thành
những hạt năng lượng ra bên ngoài Trụ linh gốc và được cấu
tạo thành thái cực chứa đựng hạt năng lượng âm và dương.
Trụ linh gốc liên tục phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ lưu
giữ trong Trụ linh gốc và thành hạt năng lượng ra thái cực
bên ngoài Trụ linh gốc để tạo thành Trụ linh trưởng thành.
Như vậy, Trụ linh trưởng thành gồm có Trụ linh gốc bên
trong là nơi chứa đựng các sợi mã sóng trí tuệ, hai thái cực
năng lượng âm và dương bên ngoài lưu giữ các hạt năng
lượng tận cùng được sao chép từ các sợi mã sóng trí tuệ
trong Trụ linh gốc. Sau khi đã tạo ra được nhiều sợi mã sóng
trí tuệ ở Trụ linh gốc và nhiều hạt năng lượng tận cùng ở thái
cực chứa đựng các hạt năng lượng, sẽ diễn ra quá trình liên

313
kết và phân tách tiếp. Đó là các hạt năng lượng tận cùng
trong thái cực âm, dương liên kết với chính nó để tạo thành
những hạt dương tổng hợp và những hạt âm tổng hợp rồi di
chuyển ra bên ngoài Trụ linh để cấu tạo thành cấu trúc 16
hạt năng lượng tổng hợp mở rộng bên ngoài Trụ linh. Cấu
trúc Trụ linh với 16 hạt năng lượng càng được mở rộng đa
chiều ra bên ngoài chính là việc Tuệ linh hình thành (khi cấu
trúc Trụ linh có 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài) Tuệ
linh em bé và Tuệ linh trưởng thành. Trong cấu trúc Tuệ linh
gồm có 3 loại hạt năng lượng là âm, dương, trung tính được
liên kết với nhau tạo thành cấu trúc năng lượng có mã sóng
trí tuệ siêu phức tạp tuần hoàn sóng điện. Vậy tam hợp cấu
trúc Tuệ linh cụ thể là:
- Yếu tố đầu tiên là Trụ – Trí: Trụ – Trí là tổng các sợi
mã sóng trí tuệ được lưu giữ tại Trụ linh gốc (hạt âm và hạt
dương gốc) cho tới toàn bộ cấu trúc Tuệ linh. Gọi là Trụ – Trí
là để thể hiện được bản chất là trong Trụ linh gốc lưu giữ
toàn bộ tổng các sợi mã sóng trí tuệ từ khi Tuệ linh đó được
hình thành từ phôi năng lượng âm dương cho tới khi trưởng
thành và tới thời điểm đề cập tới. Từ tổng các sợi mã sóng
trong Trụ linh gốc sẽ sinh phát ra trạng thái năng lượng và
tuần hoàn sóng điện năng lượng đó trong toàn bộ cấu trúc
Tuệ linh thông qua các sợi mã sóng trí tuệ bên ngoài Trụ linh.
- Yếu tố thứ 2 là Trụ – Tâm: Trụ là tổng các sợi mã
sóng trí tuệ trong Trụ linh gốc; Tâm là trạng thái năng lượng,
là sóng điện được sinh phát, lưu giữ trong Trụ linh gốc và hạt
năng lượng. Trụ – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện
được sinh phát ra từ Trụ linh gốc (nơi lưu giữ tổng các sợi
mã sóng trí tuệ) liên kết, tuần hoàn tới thái cực chứa đựng

314
các hạt năng lượng âm dương và tới toàn bộ cấu trúc hạt
năng lượng trong toàn bộ Tuệ linh.

Hình: Cấu tạo tam hợp Tuệ linh


- Yếu tố thứ 3, là hình tướng Tuệ linh: Tuệ linh có hình
tướng giống con người, hay nói cách khác thì con người là
bản sao của các Tuệ linh. Tuệ linh là một cấu trúc liên kết của
vô số những hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện âm,
dương, trung tính có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Do đó,
Tuệ linh có thể biến hóa thay đổi hình tướng, thay đổi diện

315
mạo. Cấu trúc hình tướng của Tuệ linh sẽ thay đổi do cấu
trúc sóng điện trong Trụ linh của Tuệ linh thay đổi. Đặc tính
sóng điện trong Trụ linh gồm có sóng điện dương, có sóng
điện âm, có sóng điện trung tính để trung hòa sóng điện âm
dương. Cấu trúc vững chắc của Trụ linh chính là Trụ linh trở
thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Cấu trúc Trụ linh lỏng lẻo
dễ bị hoại diệt Tuệ linh là cấu trúc Trụ linh có sóng điện đa
âm.
Khi gọi hay nhắc tới Trụ linh, chúng ta hiểu đó là bao
gồm Trụ – Trí và Trụ – Tâm.
Thông qua cấu trúc cấu tạo thành Tuệ linh, ta thấy trí
tuệ của dạng sống Tuệ linh là siêu việt nhất, tinh hoa nhất
của tất cả các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ. Chính vì vậy,
sứ mệnh cải tạo bộ lọc trong Trụ linh để sản sinh ra các siêu
hạt năng lượng là sứ mệnh tiên phong của họ.

2.2. Cấu trúc Trụ – Tâm (Tâm) của con người


Ba yếu tố hợp nhất cấu tạo ra con người gồm có, Thân
tướng, Tâm (Tuệ linh), Trí tuệ:
- Yếu tố đầu tiên là Thân tướng: Thân tướng được hình
thành do duyên người cha và người mẹ. Đó là tinh trùng
mang tính dương của người cha và trứng mang tính âm của
người mẹ hợp thành phôi thai. Phôi thai nhi sẽ trưởng thành
trong bụng người mẹ do cơ chế phân tách tế bào bởi năng
lượng, dinh dưỡng và nhiệt độ của người mẹ. Trải qua quãng
thời gian khoảng 9 tháng, khi thân tướng em bé đã hoàn
thiện, em bé được sinh ra, cất tiếng khóc chào đời.
- Yếu tố thứ hai là Tâm: Tâm là trạng thái năng lượng
an trụ trong thân tướng để tạo ra, duy trì sự sống cho con

316
người. Khi người mẹ mang thai đến tháng thứ 7, theo luật
luân hồi của Hội đồng Tuệ linh thì sẽ có một Tuệ linh được
xuống luân hồi đầu thai hoặc Tuệ linh tiếp tục đầu thai sau
khi trải qua các kiếp sẽ đi theo bảo vệ bà mẹ và em bé. Hoặc
là Linh hồn của muông thú được thuần hóa sau nhiều kiếp là
thú lành và giúp đỡ con người, họ sẽ được Hội đồng Tuệ linh
giáo hóa và cho đi theo bảo vệ bà mẹ và thai nhi để thiết
nhập đầu thai. Khi em bé chào đời và cất tiếng khóc thì đó là
dấu hiệu Tuệ linh hay Linh hồn thiết nhập vào để duy trì sự
sống cho thân tướng. Theo luật luân hồi, để Linh hồn của các
con thú được phép đầu thai làm con người thì chúng phải
được thuần hóa bởi con người; chúng phải giúp đỡ và làm
được nhiều việc có lợi ích cho con người; những việc lợi ích
đó tạo thành năng lượng dương có sự cân bằng sóng điện âm
dương; khi có năng lượng dương và có sự cân bằng sóng điện
âm dương mới được phép đầu thai làm người, và mới có đủ
năng lượng duy trì sự sống một kiếp người. Tuy nhiên, nhiều
linh hồn thú dữ không muốn tuân theo luật luân hồi, nên
chúng đi tác động giết hại con người, hấp thụ năng lượng
dương để đủ sức mạnh đầu thai trộm. Nếu chúng đầu thai
trộm thành người thành công, lớn lên chúng sẽ có thiên
hướng giết hại, làm điều ác. Nếu linh hồn thú dữ chưa giết
hại được người nào mà đầu thai trộm được thì dễ chết yểu
do không đủ năng lượng âm dương cân bằng để duy trì sự
sống. Khi Tuệ linh hay Linh hồn được đi đầu thai, họ sẽ được
chọn quốc gia, dân tộc, dòng họ, cha mẹ để người cha mẹ
được gieo duyên có thân tướng thai nhi. Phải đến tháng thứ
7 thì Tuệ linh, Linh hồn mới đi theo để chờ ngày sinh. Vì ở
tháng thứ 7, nếu em bé có sinh non thì vẫn đảm bảo sống
được, ở tháng thứ 7 người mẹ không thể phá thai được. Như

317
vậy, tháng thứ 7 là đảm bảo điều kiện an toàn cho các Tuệ
linh, Linh hồn đi đầu thai được thành công, còn em bé trong
bụng mẹ sẽ được Tuệ linh người mẹ bảo vệ và nuôi dưỡng.
Dù là Tuệ linh hay Linh hồn khi đầu thai vào con người đều
được gọi là Tâm.

Hình: Cấu tạo tam hợp con người

- Yếu tố thứ 3 là Trí tuệ: Sau khi Tuệ linh hoặc Linh
hồn thiết nhập vào em bé vừa chào đời để tạo ra năng lượng

318
duy trì sự sống cho em bé, em bé đó trải qua quá trình lớn
lên, học tập, nghiên cứu, lao động, mưu sinh sẽ phát triển tư
duy trí tuệ, đúc kết các kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xử lý
và cải tạo thế giới quan được gọi là Trí tuệ. Bản chất trí tuệ hiện
kiếp của con người được phát triển từ hai phần:
+ Phần thứ nhất là trí tuệ từ tổ hợp mã sóng trí tuệ trong
Trụ linh phát ra não bộ. Đây gọi là kinh nghiệm tiền kiếp, cội
nguồn. Lượng sợi mã sóng trí tuệ sẽ phát ra tương ứng với sự
trưởng thành của con người. Khi còn bé, Trụ linh sẽ phát ra ít
lượng sợi trí tuệ. Khi trưởng thành, Trụ linh sẽ phát ra nhiều
lượng sợi mã sóng trí tuệ để não bộ nhận diện và có khả năng
trau dồi thêm trí tuệ hiện kiếp để cải tạo Trụ linh bền vững hơn.
+ Phần thứ hai là thông qua tương tác bởi tai, mắt, mũi,
miệng, xúc giác với các Tướng. Những thông tin đó được mã hóa
thành sóng điện ở não bộ và truyền vào Tuệ linh. Trụ linh sẽ giải
mã và thông qua hành động của thân tướng để phân tách ra các
sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh. Từ Trụ linh, các sợi mã sóng
trí tuệ đó lại phân tách ra não bộ. Phần này là do hiện kiếp có
được bởi quá trình tương tác giữa các tướng với nhau.
Như vậy, Trụ – Tâm của Tuệ linh là siêu sóng điện, siêu
trạng thái năng lượng. Tuệ linh lại trở thành Trụ – Tâm của
con người khi hóa thân, an trụ trong thân tướng con người.
Điều này giúp cho Tâm của con người có được cả siêu trí tuệ
và siêu trạng thái năng lượng, siêu sóng điện an trụ trong cơ
thể.
Mục đích của việc con người là hóa thân của dạng sống
Tuệ linh là để thông qua thân tướng với trí tuệ, sóng điện
giản đơn, siêu trí tuệ, siêu trạng thái năng lượng, siêu sóng
điện của Tuệ linh sẽ bị tương tác, bí bách, sinh nhiệt mà tạo
ra tận cùng vô số các trường hợp phân tách, liên kết mã sóng
319
trí tuệ, trạng thái năng lượng, sóng điện trong Trụ linh của
Tuệ linh. Đây được gọi là thông qua môi trường tu hành nhân
gian để bộc phát được hết tất cả độc của hạt năng lượng âm
và thiện của hạt năng lượng dương trong Trụ linh của Tuệ
linh. Chỉ khi bộc phát hết mới tìm ra được phương pháp để
cấu tạo lại Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn cho
Tuệ linh.

3. Bản chất Trụ – Tâm của dạng sống Tuệ linh


Trụ – Tâm (trạng thái năng lượng, sóng điện) của dạng
sống Tuệ linh là siêu sức mạnh, là siêu việt nhất trong tất cả
các dạng sống, các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Dạng
sống Tuệ linh được hình thành đầu tiên sau vụ nổ của tinh
cầu năng lượng khổng lồ. Họ được hình thành và trưởng
thành. Họ xây dựng, kiến tạo, phát triển cả 3 nhóm vật chất
cấu tạo thành Vũ trụ hoàn chỉnh như ngày nay từ năm nhóm
năng lượng hỗn độn sau vụ nổ.
Vũ trụ phát triển và không ngừng giãn nở. Đó là do
dạng sống Tuệ linh lao động, kiến tạo và vận hành. Tuy
nhiên, bên cạnh sự phát triển lớn mạnh của Vũ trụ, năng
lượng hoại diệt cũng ngày càng lớn mạnh. Năng lượng hoại
diệt với bản chất là đi tìm những cấu trúc năng lượng, vật
chất đa sóng điện âm để xả sóng điện dư thừa nhằm tồn tại.
Trong khi đó, Vũ trụ lại có những cấu trúc vật chất, năng
lượng đa âm. Chính vì điều này mà năng lượng hoại diệt đã di
chuyển vào Vũ trụ thành những cơn bão để đi truy tìm sự
sống cho chính nó. Có quá nhiều Tuệ linh bị năng lượng hoại
diệt đồng hóa và hoại diệt vĩnh viễn, có quá nhiều cấu trúc
vật chất bị đồng hóa và hoại diệt. Tuy nhiên, cũng vì có năng
lượng hoại diệt trong Vũ trụ, nên khi chúng bị kích nổ bởi
320
năng lượng dương đã giúp tạo ra nhiệt lượng lớn cho quá
trình Vũ trụ phân tách liên kết theo hướng bền vững và lớn
mạnh.
Dạng sống Tuệ linh bị hoại diệt nhiều, chưa tìm ra
được phương pháp đối phó với năng lượng hoại diệt chính là
vấn đề bản chất của Trụ – Tâm. Vấn đề đó là quá trình hình
thành 3 dạng vật chất sau vụ nổ lớn, các phôi năng lượng âm
dương của các Tuệ linh cho tới khi trưởng thành chưa kiểm
soát được sóng điện để kích nổ, chưa sử dụng được năng
lượng hoại diệt. Đặc biệt hạt năng lượng âm gốc chưa bộc
phát hết các kịch bản sinh phát ra trạng thái năng lượng âm,
hạt năng lượng dương gốc cũng chưa bộc phát hết các kịch
bản sinh phát ra trạng thái năng lượng dương. Tức là độc của
hạt năng lượng âm và thiện của hạt năng lượng dương chưa
bộc phát hết. Do chưa bộc phát hết nên chưa tìm ra hết bản
chất cũng như khả năng kiểm soát của Trụ – Tâm ở dạng
sống Tuệ linh. Chính vì thế mà chưa tìm ra bài thuốc, phương
pháp, cơ chế để sử dụng được năng lượng hoại diệt cho việc
chuyển sinh bền vững. Điều mà sau này tìm được cơ chế, đó
là cơ chế chuyển sinh được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Đó là hấp thụ ồ ạt, kích nổ được năng lượng hoại diệt mà vẫn
an toàn để sản sinh ra các siêu hạt năng lượng phát triển bền
vững cho mình và các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.
Bản chất Trụ – Tâm của dạng sống Tuệ linh khi chưa
chuyển sinh được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng:
- Trụ – Tâm có bản chất Kết: Đó là thu hút, hấp thụ
trạng thái năng lượng, sóng điện từ mạnh cho tới siêu mạnh.
Nguyên nhân là do hạt âm của phôi âm dương gốc có sóng
điện âm từ mạnh cho tới siêu mạnh. Do đó, những Tuệ linh
đó có khuynh hướng truy tìm môi trường, cấu trúc sóng điện

321
có khớp nội dung giống với hạt âm để kết, hút về. Họ sẽ
không thực hành được đời sống Tỏa là cho đi, lan tỏa, giúp
đỡ, cống hiến, hy sinh. Nguyên nhân vì hạt năng lượng dương
quá yếu nên bị hạt năng lượng âm chi phối theo đặc tính của
hạt năng lượng âm. Những Tuệ linh có cấu trúc Trụ – Tâm
kết như vậy sẽ dễ dàng bị năng lượng hoại diệt xâm nhập để
đồng hóa và hoại diệt.
- Trụ – Tâm có bản chất Tỏa. Đó là tỏa đi, cho đi, truyền
tải, giúp đỡ, cống hiến, hy sinh vì vạn vật. Nguyên nhân là do
hạt dương trong Trụ linh gốc có sóng điện dương từ mạnh
cho tới siêu mạnh, trong khi đó hạt âm gốc chỉ có sóng điện
chớm âm. Chính vì điều này mà hạt năng lượng dương liên
kết được với tất cả các nhóm vật chất khác bởi hạt năng
lượng âm chỉ là chớm sóng điện âm. Tuy nhiên, nếu cơn bão
năng lượng hoại diệt di chuyển vào hoặc các Tuệ linh này di
chuyển gặp phải cơn bão năng lượng hoại diệt cũng sẽ bị
phân rã mà hoại diệt.
Bản chất Trụ – Tâm của dạng sống Tuệ linh chưa được
bộc phát hết. Chưa bộc phát hết tức là trạng thái năng lượng
của hạt âm và dương gốc trong Trụ linh chưa sinh phát ra hết
tất cả sức mạnh hay yếu trong tất cả các kịch bản cũng như
môi trường tương tác. Chính vì điều này mà vị Tuệ linh đầu
tiên đã tạo ra môi trường tu hành cho dạng sống Tuệ linh ở
Trái đất thông qua thân tướng là con người. Quá trình tu
hành trong thân tướng giản đơn sẽ giúp cho Trụ linh sinh
phát ra hết tất cả sức mạnh hay yếu của trạng thái năng
lượng trong tất cả các kịch bản và môi trường tương tác. Từ
đó, vị Tuệ linh đầu tiên sẽ tìm ra được cơ chế, phương pháp
để Tuệ linh hấp thụ và kích nổ được năng lượng hoại diệt. Đó

322
là con đường chuyển sinh bền vững để chuyển sinh Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng cho Tuệ linh.

4. Bản chất Trụ – Tâm (Tâm) của con người


Con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh, là môi
trường tu hành của dạng sống Tuệ linh. Dạng sống Tuệ linh
thông qua thân tướng con người để tu hành ở nhân gian
nhằm tạo ra sự bí bách, độ nén, đau khổ, an vui, hạnh phúc…
trong cuộc sống nhân gian để bộc phát hết độc của hạt âm và
thiện của hạt dương trong Trụ linh. Cũng thông qua quá
trình bộc phát độc và thiện trong Trụ linh, sẽ thấy rõ quá
trình năng lượng hoại diệt tấn công đồng hóa cũng như khả
năng kích nổ năng lượng hoại diệt của Tuệ linh trong từng
trường hợp tương tác với các hoàn cảnh môi trường khác
nhau. Từ đó, vị Tuệ linh đầu tiên mới tìm ra được phương
pháp siêu việt áp dụng chung cho tất cả các Tuệ linh để
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Chỉ khi
chuyển sinh được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh mới có
khả năng hấp thụ và kích nổ được ồ ạt năng lượng hoại diệt
để sản sinh ra các siêu hạt năng lượng mà vẫn an toàn.
Vô số Tuệ linh hóa thân tu hành ở nhân gian với vô số
các kịch bản tương tác trong các điều kiện môi trường khác
nhau đã tạo ra bản chất Trụ – Tâm của con người.
Con người là tam hợp yếu tố cấu tạo thành. Thân
tướng được coi như ngôi nhà giam cầm Tâm (Tuệ linh), Trụ –
Tâm là Tuệ linh an trụ trong ngôi nhà thân tướng, Trụ – Trí
(Trí tuệ) là cánh cửa trí tuệ để Trụ linh tương tác với tất cả
các Tướng trong môi trường khác nhau. Chính vì điều này đã
tạo ra sự kỳ diệu cho con đường tu hành của Tuệ linh ở nhân

323
gian. Thông qua vô số kiếp tu hành của Tuệ linh ở nhân gian
đã giúp cho mục đích tu hành đã đạt được thành công.
Bản chất Trụ – Tâm (trạng thái năng lượng, sóng điện)
của con người gồm có Độc Tâm (độc được bộc phát), Thiện
Tâm (thiện được bộc phát) và phương pháp dùng Thiện Tâm
chuyển hóa Độc Tâm (hành trình chuyển sinh được bộ lọc
năng lượng trong Trụ linh) của Tuệ linh:

4.1. Độc Tâm của con người


Khi trạng thái năng lượng, sóng điện của con người
bộc phát trở thành Độc Tâm, Độc Tâm thể hiện bản chất là
Tâm chấp ngã, Tâm sân, Tâm hận thù. Cũng có thể hiểu đó là
tính quỷ quái, tính xảo quyệt của Tâm bởi trí tuệ bám định
vào giả tướng để vơ vét giả tướng về nơi thân tướng mình.
Trong trạng thái năng lượng, sóng điện của Độc Tâm, cảnh
giới Tâm chấp ngã được coi là nền móng, tiếp đến là cảnh
giới Tâm sân và cảnh giới cao nhất là Tâm hận thù. Độc Tâm
hay có thể gọi Tâm chấp ngã, Tâm sân, Tâm hận thù là gốc
của ác nghiệp. Độc Tâm mà vững chắc, lớn mạnh thì luôn
luôn sinh khởi ra hành động tạo ác nghiệp, luôn vì lợi ích ích
kỷ về mình mà gây tổn thương cho vạn vật, Tuệ linh, con
người. Do đó muốn triệt bỏ, diệt bỏ, để không sinh khởi hành
động tạo ác nghiệp thì phải thấu hiểu được Độc Tâm. Thấu
hiểu để gieo duyên triệt bỏ, diệt bỏ Độc Tâm thì sẽ không còn
sinh khởi hành động tạo ác nghiệp.
Độc Tâm có 3 cảnh giới:
A. Cảnh giới của Tâm chấp ngã
Chấp là sự bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng của Tâm trong thân tướng con người. Mà Tâm chính là

324
Tuệ linh hoặc Linh hồn, luân hồi đầu thai vào con người ở
nhân gian trong nhiều đời nhiều kiếp nhằm cải tạo Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng. Tuy nhiên do trí tuệ thân tướng
không biết hay không nhớ được sứ mệnh của Tuệ linh, thay
vào đó lại bám định, ham muốn và vơ vét giả tướng về thân
tướng mình mà không thực hiện sứ mệnh nên Tuệ linh bí
bách, luẩn quẩn trong thân tướng. Tuệ linh không hoặc chưa
có cách nào khiến cho trí tuệ thân tướng thấu hiểu nên gọi là
Tâm bí bách.
Ngã là giả tướng, là 10 giả tướng.
Tâm chấp ngã chính là Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột
trạng thái năng lượng vì trí tuệ thân tướng bám định vào giả
tướng, vơ vét giả tướng về thân tướng mà không sống đời
sống cống hiến. Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng trong thân tướng vì trí tuệ không chịu mở cánh
cửa ra để học tập tri thức của hai Chân lý, phương pháp cải
tạo và chuyển hóa Trụ linh cho Tuệ linh.
Như vậy, nguyên nhân đầu tiên của Tâm chấp ngã là trí
tuệ u mê bám định vào các giả tướng để thỏa mãn và hưởng
thụ giả tướng. Nguyên nhân thứ hai là Tâm không đủ trạng
thái năng lượng của Thiện Tâm để chi phối trí tuệ thân tướng
học tri thức hai Chân lý và thực hiện sứ mệnh cải tạo Trụ linh
cho Tuệ linh. Điều này khiến cho Tâm bị bí bách, luẩn quẩn,
xung đột trạng thái năng lượng, đau khổ vì không có cơ hội
học tập hai Chân lý cũng như cải tạo Trụ linh của mình.
Các biểu hiện của bản chất Tâm chấp ngã là:
Tâm chấp ngã vào giả tướng có:
Tâm chấp ngã vì trí tuệ bám định vào giả tướng có để
tìm mọi cách thỏa mãn giả tướng đó mà không cống hiến vì

325
vạn vật, mọi người, Tuệ linh. Điều này làm cho Tâm đau khổ,
luẩn quẩn, bí bách, xung đột trạng thái năng lượng vì thân
tướng không học tri thức hai Chân lý và thực hành sứ mệnh
cải tạo Trụ linh cho Tâm. Vì vậy, Tâm nó chấp ngã.
- Khi có địa vị chức tước, họ tham ô tham nhũng, hối lộ,
chạy chức chạy quyền, hãm hại người hiền tài, chỉ biết lợi ích
ích kỷ về mình mà gây tổn hại cho dân tộc, Tuệ linh, con
người. Vì Tâm nó thấy quả báo của hành động tạo ác nghiệp
đó nên nó bí bách, đau khổ mà luẩn quẩn như tù nhân trong
thân tướng. Nó chấp ngã vì thân tướng không thực hành sứ
mệnh để cải tạo Trụ linh.
- Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào thân tướng khi giàu sang phú
quý. Đó là sự hưởng thụ ích kỷ, không những không giúp
người khó khăn nghèo khổ, mà còn làm giàu dựa trên những
thủ đoạn gây tổn hại cho người khác. Tâm nó biết sẽ phải
nhận quả báo vì trí tuệ bám định vào giả tướng mà thân
tướng hành động tạo ác nghiệp. Tâm nó chấp ngã vì thân
tướng không học và thực hành sứ mệnh cải tạo Trụ linh của
Tuệ linh.
- Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào lợi ích của gia đình mình mà
không chia sẻ, không giúp đỡ mọi người. Thân tướng chỉ
chăm chăm vì lợi ích ích kỷ cho gia đình mình mà không học,
cải tạo Trụ linh nên Tâm nó chấp ngã.
- Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào giả tướng có thân tướng xinh
đẹp. Họ bất chấp việc làm gia đình người khác tan nhà nát
cửa để thỏa mãn sắc dục thông dâm tà dâm, để rồi tạo thành

326
ác nghiệp cho Tâm. Tâm không được thực hành cải tạo Trụ
linh nên Tâm nó chấp ngã.

Tâm chấp ngã vào giả tướng không có:
Tâm chấp ngã vì trí tuệ bám định vào giả tướng không
có để tìm mọi cách thỏa mãn giả tướng đó mà không cống
hiến vì vạn vật, mọi người, Tuệ linh. Điều này làm cho Tâm
đau khổ, luẩn quẩn, bí bách, xung đột trạng thái năng lượng
vì thân tướng không học tri thức hai Chân lý và thực hành sứ
mệnh cải tạo Trụ linh cho Tâm. Vì vậy, Tâm nó chấp ngã.
- Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào thân tướng bệnh tật, không đủ
sức khỏe để giúp đỡ người khác. Điều này khiến cho Tâm
thấy lãng phí một kiếp người nên bí bách đau khổ. Tâm nó
chấp ngã vì thân tướng không thực hành sứ mệnh cho Tâm.
- Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào thân tướng không giàu có. Điều
này dẫn đến hành động làm giàu bất chấp gây tổn hại cho
mọi người để thỏa mãn lợi ích của mình. Tâm nó nhìn thấy
kết quả nghiệp báo và không được thực hành sứ mệnh nên
nó bí bách, đau khổ, luẩn quẩn trong thân tướng. Vì vậy, tâm
nó chấp ngã.
- Tâm nó bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào thân tướng không có địa vị cao.
Điều này khiến cho thân tướng chạy chức chạy quyền gây tổn
hại đến quốc gia dân tộc. Nó nhìn thấy nghiệp báo phải chịu
và không được thực hành cải tạo Trụ linh nên nó bí bách, đau
khổ, luẩn quẩn trong thân tướng. Vì vậy, Tâm nó chấp ngã.

327
- Tâm nó bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào thân tướng không có người
đẹp bên cạnh. Điều này dẫn đến hành động bỏ vợ để đi ngoại
tình, thông dâm, tà dâm gây đau khổ cho vợ con và gia đình
khác. Tâm nó nhìn thấy nghiệp báo và việc không được thực
hành cải tạo Trụ linh nên nó bí bách, đau khổ, luẩn quẩn
trong thân tướng. Đó là Tâm chấp ngã.

Tâm chấp ngã vào giả tướng yêu thương,
sở thích:
Tâm chấp ngã vì trí tuệ bám định vào giả tướng yêu
thương để tìm mọi cách thỏa mãn giả tướng đó mà không
cống hiến vì vạn vật, mọi người, Tuệ linh. Điều này làm cho
Tâm đau khổ, luẩn quẩn, bí bách, xung đột trạng thái năng
lượng vì thân tướng không học tri thức hai Chân lý và thực
hành sứ mệnh cải tạo Trụ linh cho Tâm. Vì vậy, Tâm nó chấp
ngã.
- Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào sắc dục thông dâm tà dâm, để
thỏa mãn dục vọng mà gây tổn thương cho vợ con và gia đình
khác. Tâm nó nhìn thấy nghiệp báo, và vì không được thực
hành cải tạo Trụ linh nên nó đau khổ bí bách luẩn quẩn trong
thân tướng. Đó là Tâm chấp ngã.
- Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào các thú vui, sở thích cờ bạc
nghiện ngập, chỉ vì lợi ích ích kỷ mà gây cho người thân và
nhiều người đau khổ. Tâm nó nhìn thấy nghiệp báo và không
được thực hành cải tạo Trụ linh nên nó đau khổ, bí bách, luẩn
quẩn trong thân tướng. Đó là Tâm chấp ngã.

328

Tâm chấp ngã vào giả tướng thù ghét:
Tâm chấp ngã vì trí tuệ bám định vào giả tướng thù
ghét để tìm mọi cách thỏa mãn giả tướng đó mà không cống
hiến vì vạn vật, mọi người, Tuệ linh. Điều này làm cho Tâm
đau khổ, luẩn quẩn, bí bách, xung đột trạng thái năng lượng
vì thân tướng không học tri thức hai Chân lý và thực hành sứ
mệnh cải tạo Trụ linh cho Tâm. Vì vậy, Tâm nó chấp ngã.
- Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào giả tướng thù ghét ai đó, không
thỏa mãn hay ai đó làm tổn thương đến ta. Điều này dẫn đến
hành động tạo ác nghiệp gây tổn hại cho người khác chỉ vì
thỏa mãn sự trả thù. Tâm nó thấy được nghiệp báo và không
được thực hành cải tạo Trụ linh nên nó đau khổ, bí bách, luẩn
quẩn trong thân tướng. Đó là Tâm chấp ngã.
- Tâm nó bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào giả tướng không thích các thân
tướng nào đó. Điều này khiến cho Tâm không thể thực hành
cải tạo Trụ linh bằng cách cống hiến vì vạn vật, Tuệ linh, con
người, nên Tâm nó đau khổ, bí bách, luẩn quẩn. Đó là Tâm
chấp ngã.

Tâm chấp ngã vào giả tướng cầu được:
Tâm chấp ngã vì trí tuệ bám định vào giả tướng cầu
được để tìm mọi cách thỏa mãn giả tướng đó mà không cống
hiến vì vạn vật, mọi người, Tuệ linh. Điều này làm cho Tâm
đau khổ, luẩn quẩn, bí bách, xung đột trạng thái năng lượng
vì thân tướng không học tri thức hai Chân lý và thực hành sứ
mệnh cải tạo Trụ linh cho Tâm. Vì vậy, Tâm nó chấp ngã.

329
- Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào việc cầu được danh vọng, cầu
được tiền tài, cầu được sắc dục, cầu được bình an… Điều này,
khiến cho thân tướng chỉ vì lợi ích ích kỷ của chính mình mà
gây tổn thương đến mọi người, vạn vật, Tuệ linh. Nó biết
trước nghiệp báo là để cầu được sẽ phải đánh đổi con đường
cải tạo Trụ linh, sẽ phải chịu luân hồi vô số kiếp mà vẫn chưa
cải tạo Trụ linh thành công. Vì vậy, Tâm nó đau khổ, bí bách,
luẩn quẩn trong thân tướng. Đó là Tâm chấp ngã.
- Tâm nó bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào giả tướng cầu được rồi lại
chuyển sang bám định vào giả tướng có. Khi đó trí tuệ nó u
mê mà ngạo mạn chỉ vì lợi ích ích kỷ mà gây tổn hại lợi ích
của mọi người, vạn vật, Tuệ linh. Tâm nó nhìn thấy nghiệp
báo và nó không được thực hành cải tạo Trụ linh nên nó bí
bách, đau khổ, luẩn quẩn trong thân tướng. Đó là Tâm chấp
ngã.

Tâm chấp ngã vào giả tướng cầu không
được:
Tâm chấp ngã vì trí tuệ bám định vào giả tướng cầu
không được để tìm mọi cách thỏa mãn giả tướng đó mà
không cống hiến vì vạn vật, mọi người, Tuệ linh. Điều này
làm cho Tâm đau khổ, luẩn quẩn, bí bách, xung đột trạng thái
năng lượng vì thân tướng không học tri thức hai Chân lý và
thực hành sứ mệnh cải tạo Trụ linh cho Tâm. Vì vậy, Tâm nó
chấp ngã.
Tâm nó bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào giả tướng cầu không được về

330
địa vị, về tiền tài, sức khỏe, bình an, con cái… Khi đó, thân
tướng nó thù ghét và hành động phỉ báng Thiên Địa, gây tổn
thương đến vạn vật, con người, Tuệ linh. Tâm nó nhìn thấy
nghiệp báo và không được thực hành cải tạo Trụ linh nên nó
bí bách, luẩn quẩn, đau khổ trong thân tướng. Đó là Tâm
chấp ngã.

Tâm chấp ngã vào giả tướng có trí tuệ:
Tâm chấp ngã vì trí tuệ bám định vào giả tướng có trí
tuệ để tìm mọi cách thỏa mãn giả tướng đó mà không cống
hiến vì vạn vật, mọi người, Tuệ linh. Điều này làm cho Tâm
đau khổ, luẩn quẩn, bí bách, xung đột trạng thái năng lượng
vì thân tướng không học tri thức hai Chân lý và thực hành sứ
mệnh cải tạo Trụ linh cho Tâm. Vì vậy, Tâm nó chấp ngã.
- Tâm nó bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào nó có trí tuệ hơn người bởi
bằng cấp, bởi học hàm, bởi học vị, bởi giàu có, bởi địa vị mà
khinh khi người khác, thậm chí trục lợi về mình mà hại
người. Tâm nó nhìn thấy nghiệp báo và không được thực
hành cải tạo Trụ linh nên nó bí bách, luẩn quẩn đau khổ
trong thân tướng. Đó là Tâm chấp ngã.
- Tâm nó bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào nó có trí tuệ hơn người, bám
định vào nó có chức sắc trong tôn giáo, bám định vào nó trí
tuệ thần thông hơn người. Điều này khiến cho thân tướng lợi
dụng vào tôn giáo, vào tín ngưỡng để trục lợi về mình và gây
tổn thương cho mọi người, vạn vật, Tuệ linh. Tâm nó bí bách,
đau khổ, luẩn quẩn, trong thân tướng. Đó là Tâm chấp ngã.

331
- Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào việc biết và đọc được nhiều
kinh văn. Điều này khiến cho trí tuệ ngạo mạn khinh khi
người khác khi cho rằng mình có trí tuệ hơn người mà không
có sự ứng nghiệm vào quy luật vạn vật xem có đúng không.
Tâm nó bí bách, luẩn quẩn, khi không được thực hành cải tạo
Trụ linh nên nó đau khổ, luẩn quẩn trong thân tướng. Đó là
Tâm chấp ngã.

Tâm chấp ngã vào giả tướng không có trí
tuệ:
Tâm chấp ngã vì trí tuệ bám định vào giả tướng không
có trí tuệ để tìm mọi cách thỏa mãn giả tướng đó mà không
cống hiến vì vạn vật, mọi người, Tuệ linh. Điều này làm cho
Tâm đau khổ, luẩn quẩn, bí bách, xung đột trạng thái năng
lượng vì thân tướng không học tri thức hai Chân lý và thực
hành sứ mệnh cải tạo Trụ linh cho Tâm. Vì vậy, Tâm nó chấp
ngã.
- Tâm nó bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào việc nó không có trí tuệ, nên
không đủ khả năng thấu hiểu hay giúp đỡ người khác. Điều
này khiến cho Tâm nó bí bách, luẩn quẩn, đau khổ vì trí tuệ
tự ti mà không thực hành học cũng như cải tạo Trụ linh. Đó là
Tâm chấp ngã.
- Tâm nó bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào giả tướng không có trí tuệ, dẫn
đến không trau dồi học hỏi để nâng cao trí tuệ. Khi bị người
khác lừa hại làm điều sai trái mà không phân định được đúng
sai, dẫn đến hành động tạo ác nghiệp. Tâm nó thấy thực hành

332
cải tạo Trụ linh sai nên nó đau khổ, bí bách, luẩn quẩn trong
thân tướng. Đó là Tâm chấp ngã.

Tâm chấp ngã vào giả tướng hành động:
Tâm chấp ngã vì trí tuệ bám định vào giả tướng hành
động để tìm mọi cách thỏa mãn giả tướng đó mà không cống
hiến vì vạn vật, mọi người, Tuệ linh. Điều này làm cho Tâm
đau khổ, luẩn quẩn, bí bách, xung đột trạng thái năng lượng
vì thân tướng không học tri thức hai Chân lý và thực hành sứ
mệnh cải tạo Trụ linh cho Tâm. Vì vậy, Tâm nó chấp ngã.
Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào giả tướng hành động vì lợi ích
ích kỷ cá nhân, gia đình, dòng họ mình mà gây tổn thương
đến mọi người, vạn vật, Tuệ linh. Tâm nó thấy được nghiệp
báo và không được thực hành cải tạo Trụ linh nên nó bí bách,
luẩn quẩn, đau khổ trong thân tướng. Đó là Tâm chấp ngã.
Tâm chấp ngã vào giả tướng không hành
động:
Tâm chấp ngã vì trí tuệ bám định vào giả tướng không
hành động để tìm mọi cách thỏa mãn giả tướng đó mà không
cống hiến vì vạn vật, mọi người, Tuệ linh. Điều này làm cho
Tâm đau khổ, luẩn quẩn, bí bách, xung đột trạng thái năng
lượng vì thân tướng không học tri thức hai Chân lý và thực
hành sứ mệnh cải tạo Trụ linh cho Tâm. Vì vậy, Tâm nó chấp
ngã.
Tâm bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng
lượng vì trí tuệ bám định vào các giả tướng mang lại lợi ích
cho thân tướng của nó, lợi ích cho gia đình và dòng họ của
nó mà gây tổn thương vạn vật, mọi người, Tuệ linh. Điều
333
này khiến cho tâm không được thực hành cải tạo Trụ linh
nên tâm đau khổ, luẩn quẩn trong thân tướng. Đó là Tâm
chấp ngã.
Như vậy, Tâm chấp ngã là nền móng của Độc Tâm. Khi
Tâm đã chấp ngã thì sẽ luôn sinh khởi sang cảnh giới cao
hơn là Tâm sân và Tâm hận.
B. Cảnh giới của Tâm sân
Tâm sân có biểu hiện như là ngọn lửa thiêu đốt tất cả
vạn vật, nhưng bản chất là trạng thái năng lượng âm, sóng
điện âm (độc tâm) bộc phát ra rất mạnh. Tâm sân có tính hỏa
theo cách biểu hiện, nó có tính hủy diệt ngay và luôn. Tâm
sân từ ngọn lửa nhỏ bé ban đầu sẽ trở thành ngọn lửa lớn khi
gặp Tâm sân khác hợp lại. Nó sẽ trở thành ngọn lửa cực đại
thiêu đốt vạn vật nếu ngọn lửa sân hợp lại bởi nhiều ngọn
lửa Tâm sân khác. Ngọn lửa Tâm sân sẽ thiêu đốt bất cứ vạn
vật, Tuệ linh, con người khi mà nó đi qua. Đó là ngọn lửa của
sự đố kỵ, ngọn lửa của sự ngạo mạn, ngọn lửa của sự sát sinh,
ngọn lửa của sự giết hại, ngọn lửa của sự bất hiếu, ngọn lửa
của sự bất kính, ngọn lửa của sự bất nghĩa, ngọn lửa của sự
bất nhân, ngọn lửa của chiến tranh, ngọn lửa của sự hủy hoại
Vũ trụ.
Tâm sân như ngọn lửa, nó bùng phát ngay và luôn nên
khi bất kỳ con người nào mang ngọn lửa của Tâm sân thì ta
dễ dàng nhìn thấy. Tuy là ngọn lửa mang tính hủy diệt,
nhưng vì là ngọn lửa Tâm sân nên nó dễ dàng bị dòng nước
mát của Thiện Tâm dập tắt.
Nguyên nhân của sự sinh khởi cảnh giới Tâm sân:
- Do Tâm chấp ngã vì trí tuệ u mê không mở cánh cửa
trí tuệ hướng ra Vũ trụ quan xung quanh để học hỏi tri thức

334
hai Chân lý và thực hành cải tạo Trụ linh cho Tuệ linh. Khi đó
Tâm nó như tù nhân luẩn quẩn trong nhà tù thân tướng, nó
suy nhược năng lượng dương và phân rã dần, nó thấy phí
hoài một kiếp người, nó thấy nghiệp báo và vòng sinh tử luân
hồi vô lượng không có điểm dừng với nó nếu trí tuệ vẫn u
mê.
- Do năng lượng dương trong cấu trúc Trụ linh của Tuệ
linh (Tâm) không đủ mạnh để chi phối, dẫn dắt trí tuệ và
thân tướng học tri thức hai Chân lý cũng như thực hành cải
tạo Trụ linh. Đây là nguyên nhân nội lực không có sức mạnh.
Chính vì hai nguyên nhân trên. Khi Tâm nó chấp ngã vì
trí tuệ không diệt được u mê, Tâm cũng không đủ sức mạnh
chỉ dẫn trí tuệ nghe theo, nên Tâm nó phải phản kháng. Sự
phản kháng bằng cách sinh khởi thành ngọn lửa thiêu đốt để
cho trí tuệ nhìn nhận lại sự u mê mà mở cánh cửa trí tuệ, để
học và thực hành cải tạo Trụ linh. Sự phản kháng với chấp
nhận tạo ác nghiệp để hoại diệt đi thân tướng ngục tù, để
được chuyển sinh sang kiếp mới với mong muốn được thực
hành cải tạo Trụ linh. Như vậy từ cảnh giới của ngọn lửa Tâm
sân sẽ dẫn đến hành động tạo nghiệp ác nếu năng lượng của
Tâm sân đủ mạnh. Khi năng lượng của Tâm sân đủ mạnh nó
sẽ thiêu đốt vạn vật thế gian và Tuệ linh, con người trên
đường nó đi qua. Nếu năng lượng ngọn lửa Tâm sân không
đủ mạnh để phản kháng hay tạo nghiệp ác thì nó sẽ bị dập tắt
mà chuyển hóa sang cảnh giới tối thượng của Độc Tâm là
Tâm hận thù.
C. Cảnh giới của Tâm hận thù
Cảnh giới của Tâm hận thù chính là cảnh giới của băng
giá, của sự đóng băng, của sự ẩn trong sâu thẳm, nó mang

335
tính âm siêu mạnh, nó luôn kết lại và được che đậy bởi sự
yên bình như mặt nước, mặt băng.
Nguyên của cảnh giới Tâm hận thù được sinh khởi từ
việc Tâm chấp ngã vì trí tuệ bám định vào các giả tướng và vì
năng lượng trong Tuệ linh không đủ mạnh để chỉ dẫn trí tuệ
nghe theo. Chính vì 2 nguyên nhân này mà từ Tâm chấp ngã
chuyển hóa thành Tâm hận thù; hoặc từ Tâm chấp ngã rồi
chuyển hóa thành Tâm sân, khi Tâm sân không đủ mạnh nó
chuyển hóa thành Tâm hận thù.
Tâm hận thù là cảnh giới tối cao của Độc Tâm con
người và Tuệ linh.
Tâm hận thù nó ẩn sâu bên trong như những tảng
băng, nó truyền từ đời này sang đời khác, từ kiếp này cho
đến nhiều kiếp khác. Nó chỉ chờ cơ hội là sẽ bùng phát thành
sự hủy diệt cả nhân loại, Tuệ linh, vạn vật bằng cách nó lan
truyền hận thù từ người này sang người khác như con vi rút
lây nhiễm. Đó là sự hận thù mà hãm hại nhau, sự hận thù mà
giết người, sự hận thù mà vi phạm giá trị đạo đức, sự hận thù
mà tạo thành mê tín dị đoan, sự hận thù mà phân biệt sắc tộc,
sự hận thù mà tạo thành chiến tranh hủy diệt. Sự hận như vô
số con vi rút làm cho con người tự hoại diệt chính mình, tự
tạo ra chiến tranh hủy diệt, nó làm cho con người mê lầm lạc
lối và mê tín dị đoan để rồi chính tự con người hoại diệt lẫn
nhau.
Cảnh giới Tâm hận thù trong Tâm là tảng băng chìm,
do đó nếu ta có dùng dòng nước mát của Thiện Tâm cũng chỉ
làm cho tảng băng đó dày hơn và thêm hận thù. Tảng băng
hận thù chỉ bị tan khi gặp ánh sáng mặt trời của hai Chân lý,
bởi hai Chân lý chính là sự thật của Vũ trụ, Tuệ linh, con
người, là nhân quả, là giác ngộ. Hai Chân lý sẽ thiêu đốt sự
336
giả dối che đậy của tảng băng hận thù trong nhiều đời nhiều
kiếp, sẽ đánh tan nghiệp ác, nhân quả trong tảng băng hận
thù.
Bản chất của Độc Tâm còn thể hiện ở bản tính tự ái, đố
kỵ, sợ bị nói sự thật về nhân quả. Người có Độc Tâm luôn
luôn có tính tự ái, đố kỵ và sợ bị nói sự thật về nhân quả. Do
đó để phơi bày Độc Tâm là Tâm chấp ngã, Tâm sân, Tâm hận
thù thì chỉ cần dùng ánh sáng của hai Chân lý và sự thật về
nhân quả sẽ khiến cho người có Độc Tâm phơi bày ra. Tiếp
đến là tiếp tục dùng tri thức của hai Chân lý để người có Độc
Tâm học và thực hành kiểm soát cũng như triệt bỏ Độc Tâm
và chuyển hóa thành Thiện Tâm.

4.2. Thiện Tâm của con người


Khi trạng thái năng lượng, sóng điện của con người
được bộc phát hết và chuyển sinh thành Thiện Tâm, Thiện
Tâm thể hiện bản chất là Tâm cống hiến, Tâm an lạc, Tâm
buông xả. Điều này cho thấy rằng Tâm đã có sức mạnh của tri
thức hai Chân lý để thực hiện đời sống cống hiến tới vạn vật,
Tuệ linh và con người nhằm cải tạo Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng. Trong trạng thái năng lượng, sóng điện của
Thiện Tâm, cảnh giới Tâm cống hiến được coi là nền móng,
tiếp đến là cảnh giới Tâm an lạc và cảnh giới cao nhất là Tâm
buông xả. Thiện Tâm là gốc của thiện nghiệp, của phước báo.
Thiện Tâm mà vững chắc, lớn mạnh thì luôn luôn sinh khởi
thành hành động tạo thiện nghiệp, luôn vì lợi ích của vạn vật,
Tuệ linh, con người. Do đó cần phải duy trì, phát triển Thiện
Tâm để đi tới đích của con đường cải tạo Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng. Đặc biệt, trên hành trình đi trên con đường

337
Thiện Tâm cần dẫn dắt, giúp đỡ Tuệ linh, con người, vạn vật
chuyển hóa Độc Tâm thành Thiện Tâm.
Để có được Thiện Tâm, để duy trì và phát triển bền
vững Thiện Tâm, Trí tuệ của thân tướng phải hợp nhất với
Tâm tại Trụ linh để thấu hiểu tri thức của hai Chân lý và
không ngừng nghỉ việc thực hành cải tạo Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng. Điều này gọi là Thân – Tâm – Trí hợp nhất để
thấu hiểu và cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên
mãn.
Thiện Tâm có 3 cảnh giới:
A. Cảnh giới của Tâm cống hiến
Cảnh giới của Tâm cống hiến được coi là nền móng
vững chắc cho Thiện Tâm. Khi xây dựng được nền móng của
Tâm cống hiến, Tâm luôn luôn sinh khởi thành Tâm an lạc và
Tâm buông xả hết chấp ngã để hành động tạo thiện phước
mang lại lợi ích cho vạn vật, Tuệ linh và con người. Cảnh giới
của Tâm cống hiến là cảnh giới mà Tâm không còn chấp ngã
vì trí tuệ không còn bám định vào bất kỳ giả tướng nào. Trí
tuệ đã chủ động mở cánh cửa trí tuệ để học và thấu hiểu tri
thức hai Chân lý cũng như đã và đang thực hiện sứ mệnh cải
tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Do đó, đây là cảnh giới
mà Tâm mang tình yêu thương vì lợi ích cho vạn vật, Tuệ
linh, con người mà không màng đến lợi ích cá nhân của mình.
Các biểu hiện của bản chất Tâm cống hiến là:
Tâm cống hiến vì không chấp ngã vào giả
tướng có:
Vì Thân – Tâm – Trí hợp nhất để thấu hiểu được tri
thức của hai Chân lý, chính vì điều này, Tâm đã không chấp
ngã vào giả tướng có. Thay vào đó, Tâm đã được thân tướng
338
và trí tuệ hợp nhất để thực hiện đời sống cống hiến, mang giá
trị lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh, con người mà không màng về
mình. Đó là đời sống Tâm được cống hiến để cải tạo Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng.
- Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào giả tướng giàu có,
không ích kỷ hưởng thụ và hưởng lạc trên giả tướng giàu có
nữa. Tâm đã dẫn dắt được trí tuệ chuyển hóa giả tướng giàu
có thành lợi ích để cống hiến, giúp đỡ vạn vật, Tuệ linh, con
người. Đó là Tâm cống hiến.
- Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào giả tướng có địa vị,
không ích kỷ tham ô tham nhũng và lợi ích về mình nữa. Tâm
đã dẫn dắt được trí tuệ chuyển hóa giả tướng có địa vị thành
cống hiến lợi ích cho dân tộc quốc gia và giúp đỡ nhân tài
phục vụ Đất nước. Đó là Tâm cống hiến.
- Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào giả tướng có gia
đình, không còn ích kỷ cho gia đình mình nữa. Tâm đã dẫn
dắt được trí tuệ chuyển hóa thành cống hiến vì lợi ích cho
mọi người, vạn vật, Tuệ linh. Đó là Tâm cống hiến.
- Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào thân tướng xinh
đẹp, không còn ích kỷ cho mình nữa. Tâm đã dẫn dắt được trí
tuệ chuyển hóa thành lan tỏa những giá trị lợi ích tới mọi
người, vạn vật mà không vi phạm chuẩn mực đạo đức. Đó là
Tâm cống hiến.

339
Tâm cống hiến vì không chấp ngã vào giả
tướng không có:
Vì Thân – Tâm – Trí hợp nhất để thấu hiểu được tri
thức của hai Chân lý, chính vì điều này, Tâm đã không chấp
ngã vào giả tướng không có. Thay vào đó, Tâm đã được thân
tướng và trí tuệ hợp nhất để thực hiện đời sống cống hiến,
mang giá trị lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh, con người mà không
màng về mình. Đó là đời sống Tâm được cống hiến để cải tạo
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
- Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào giả tướng không có
địa vị nữa, không còn ích kỷ về mình nữa. Tâm đã dẫn dắt
được trí tuệ chuyển hóa thành cống hiến những giá trị đang
có cho vạn vật, Tuệ linh, con người, không vì địa vị mà gây
tổn hại tới mọi người. Đó là Tâm cống hiến.
- Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào giả tướng không
giàu có nữa, không còn ích kỷ về mình mà gây tổn hại người
khác. Tâm đã dẫn dắt được trí tuệ chuyển hóa thành lợi ích
cho vạn vật, Tuệ linh, con người. Đó là Tâm cống hiến.
- Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào thân tướng không
có đủ sức khỏe để giúp người, không có ích kỷ cho mình. Tâm
đã dẫn dắt được trí tuệ chuyển hóa thành lợi ích cho vạn vật,
Tuệ linh, con người.

Tâm cống hiến vì không chấp ngã vào giả
tướng yêu thương:

340
Vì Thân – Tâm – Trí hợp nhất để thấu hiểu được tri
thức của hai Chân lý, chính vì điều này, Tâm đã không chấp
ngã vào giả tướng yêu thương. Thay vào đó, Tâm đã được
thân tướng và trí tuệ hợp nhất để thực hiện đời sống cống
hiến, mang giá trị lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh, con người mà
không màng về mình. Đó là đời sống Tâm được cống hiến để
cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
- Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào giả tướng yêu
thương thông dâm tà dâm nữa, không vì lợi ích ích kỷ cá
nhân mà gây tổn thương mọi người. Tâm đã dẫn dắt trí tuệ
chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người, vạn vật, Tuệ linh. Đó
là Tâm cống hiến.
- Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào giả tướng sở thích
cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập nữa, không còn ích kỷ cho
mình mà gây tổn thương mọi người. Tâm đã dẫn dắt được trí
tuệ chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người, vạn vật, Tuệ
linh. Đó là Tâm cống hiến.

Tâm cống hiến vì không chấp ngã vào giả
tướng thù ghét:
Vì Thân – Tâm – Trí hợp nhất để thấu hiểu được tri
thức của hai Chân lý, chính vì điều này, Tâm đã không chấp
ngã vào giả tướng thù ghét. Thay vào đó, Tâm đã được thân
tướng và trí tuệ hợp nhất để thực hiện đời sống cống hiến,
mang giá trị lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh, con người mà không
màng về mình. Đó là đời sống Tâm được cống hiến để cải tạo
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

341
Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào giả tướng thù ghét
ai đó, không ích kỷ thỏa mãn sự trả thù nữa. Tâm đã dẫn dắt
được trí tuệ chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người, vạn vật,
Tuệ linh. Đó là Tâm cống hiến.

Tâm cống hiến vì không chấp ngã vào giả
tướng cầu:
Vì Thân – Tâm – Trí hợp nhất để thấu hiểu được tri
thức của hai Chân lý, chính vì điều này, Tâm đã không chấp
ngã vào giả tướng cầu. Thay vào đó, Tâm đã được thân tướng
và trí tuệ hợp nhất để thực hiện đời sống cống hiến, mang giá
trị lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh, con người mà không màng về
mình. Đó là đời sống Tâm được cống hiến để cải tạo Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng.
Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào giả tướng cầu,
không còn ích kỷ vì lợi ích của mình mà đi ngược quy luật
cũng như gây tổn thương tới mọi người. Tâm đã dẫn dắt
được trí tuệ chuyển hóa thành lợi ích cho mọi người, vạn vật,
Tuệ linh. Đó là Tâm cống hiến.

Tâm cống hiến vì không chấp ngã vào giả
tướng có trí tuệ:
Vì Thân – Tâm – Trí hợp nhất để thấu hiểu được tri
thức của hai Chân lý, chính vì điều này, Tâm đã không chấp
ngã vào giả tướng có trí tuệ. Thay vào đó, Tâm đã được thân
tướng và trí tuệ hợp nhất để thực hiện đời sống cống hiến,

342
mang giá trị lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh, con người mà không
màng về mình. Đó là đời sống Tâm được cống hiến để cải tạo
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
- Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào giả tướng có trí
tuệ, không còn ích kỷ ngạo mạn vì lợi ích cá nhân nữa. Tâm
đã dẫn dắt trí tuệ chuyển hóa thành lợi ích vì mọi người, vạn
vật, Tuệ linh. Đó là Tâm cống hiến.
- Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào mình có chức sắc
trong tôn giáo hay trong tâm linh, không còn trục lợi về
mình. Tâm đã dẫn dắt được trí tuệ chuyển hóa thành lợi ích
cho mọi người, vạn vật, Tuệ linh. Đó là Tâm cống hiến.

Tâm cống hiến vì không chấp ngã vào giả
tướng không có trí tuệ:
Vì Thân – Tâm – Trí hợp nhất để thấu hiểu được tri
thức của hai Chân lý, chính vì điều này, Tâm đã không chấp
ngã vào giả tướng không có trí tuệ. Thay vào đó, Tâm đã
được thân tướng và trí tuệ hợp nhất để thực hiện đời sống
cống hiến, mang giá trị lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh, con người
mà không màng về mình. Đó là đời sống Tâm được cống hiến
để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
- Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào giả tướng không có
trí tuệ nữa, không còn tự ti và ích kỷ cho mình nữa, thay vào
đó là trau dồi học hỏi tri thức. Tâm đã dẫn dắt trí tuệ chuyển
hóa thành lợi ích cho mọi người, vạn vật, Tuệ linh. Đó là Tâm
cống hiến.

343
- Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào trí tuệ u mê, không
tự ti nữa mà chịu khó học tập trau dồi trí tuệ để không bị lừa
hại. Tâm đã dẫn dắt trí tuệ chuyển hóa giúp đỡ mọi người và
chúng sinh không bị lừa hại. Đó là Tâm cống hiến.

Tâm cống hiến vì không chấp ngã vào giả
tướng hành động:
Vì Thân – Tâm – Trí hợp nhất để thấu hiểu được tri
thức của hai Chân lý, chính vì điều này, Tâm đã không chấp
ngã vào giả tướng hành động. Thay vào đó, Tâm đã được
thân tướng và trí tuệ hợp nhất để thực hiện đời sống cống
hiến, mang giá trị lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh, con người mà
không màng về mình. Đó là đời sống Tâm được cống hiến để
cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào giả tướng hành
động gây tổn hại cho mọi người và vạn vật, không vì lợi ích
ích kỷ cá nhân nữa. Tâm đã dẫn dắt trí tuệ chuyển hóa
thành hành động vì lợi ích cho mọi người, vạn vật, Tuệ linh.
Đó là Tâm cống hiến.
Tâm cống hiến vì không chấp ngã vào giả
tướng không hành động:
Vì Thân – Tâm – Trí hợp nhất để thấu hiểu được tri
thức của hai Chân lý, chính vì điều này, Tâm đã không chấp
ngã vào giả tướng không hành động. Thay vào đó, Tâm đã
được thân tướng và trí tuệ hợp nhất để thực hiện đời sống
cống hiến, mang giá trị lợi ích tới vạn vật, Tuệ linh, con người

344
mà không màng về mình. Đó là đời sống Tâm được cống hiến
để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Tâm không bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái
năng lượng vì trí tuệ không bám định vào giả tướng không
hành động giúp đỡ mọi người, không còn ích kỷ vì lợi ích cá
nhân. Tâm đã dẫn dắt trí tuệ chuyển hóa thành không hành
động tạo nghiệp và hành động giúp đỡ mọi người, vạn vật,
Tuệ linh. Đó là Tâm cống hiến.
Như vậy cảnh giới của Tâm cống hiến là cảnh giới của
trí tuệ không bám định vào giả tướng, là cảnh giới mà trí tuệ
đã thấu hiểu cội nguồn nhân loại, thấu hiểu sứ mệnh tu hành
ở nhân gian, thấu hiểu nhân quả, thấu hiểu hai Chân lý, từ đó
chuyển hóa thành tình yêu thương cho mọi người, vạn vật,
Tuệ linh. Khi chúng ta đã xây dựng được nền móng của Tâm
cống hiến thì sẽ sinh khởi chuyển thành cảnh giới của Tâm
an lạc và Tâm buông xả.
B. Cảnh giới của Tâm an lạc
Tâm an lạc là sự an vui tự tại của Tâm, đây là cảnh giới
an lạc, an vui, hạnh phúc của Tâm.
Nguyên nhân của cảnh giới Tâm an lạc là Tâm có đủ
sức mạnh để dẫn dắt trí tuệ diệt đi sự bám định vào giả
tướng, để trong Tâm không còn sự chấp ngã, không còn sự
sân, không còn sự hận thù. Khi tâm đã diệt đi gốc của Độc
Tâm thì sẽ sinh khởi được cảnh giới Tâm cống hiến. Vì cảnh
giới Tâm cống hiến là nền móng của Thiện Tâm, như là dòng
nước mát mà sinh khởi thành cảnh giới Tâm an lạc. Cảnh giới
an vui tự tại của Tâm cũng chính là dòng nước mát tưới mát
cho vạn vật, Tuệ linh, con người, gột rửa đi những đắng cay

345
bụi trần và Độc Tâm. Như vậy, Tâm an lạc là vì Tâm cống
hiến, vì cống hiến nên mới an lạc.
Khi Tâm đã an lạc thì sự an vui sẽ thể hiện ra thân
tướng an vui: đó là sự an vui trong ánh mắt, ánh mắt nhẹ
nhàng và đầy vị tha, ánh mắt tỏa ra niềm vui như nụ cười. Đó
là sự an vui trong cử chỉ hành động của chân tay, đó là sự nhẹ
nhàng và điềm đạm bởi dòng năng lượng an vui lan tỏa ra
thân tướng. Đó là sự an vui trong nụ cười, nụ cười của tình
yêu thương chúng sinh bao la, nụ cười của sự không bám
định vào bất cứ giả tướng, nụ cười diệt đi Tâm sân hận của
người đối diện. Đó là đôi tai an vui, sự an vui thể hiện ra đôi
tai dù phải nghe những thứ mà đối với người chấp ngã không
hề thích chút nào, dù phải nghe ai đó chửi rủa xúc phạm thân
tướng mình. Đó là an vui ở mũi ta, sự an vui ở mũi khiến cho
ta ngửi được hương vị ngọt bùi đắng cay cuộc đời kiếp người
tu hành, nó an vui dù phải ngửi những mùi không hề thú vị
chút nào. Đó là an vui nơi trí tuệ, sự an vui ở trí tuệ khi dù
đối mặt với bất cứ hoàn cảnh nào, kiếp nạn khổ đau nào thì
trí tuệ luôn thấy an vui để thấu hiểu và cùng tâm hợp nhất
vượt qua tất cả các khó khăn chướng ngại, nó giúp cho Tuệ
linh, con người không còn phiền não và vọng tưởng. Tâm an
lạc đã lan tỏa ra trí tuệ, lan tỏa ra khắp thân tướng để khắc
chế và hoại diệt đi Độc Tâm trong chính ta, trong anh, trong
bạn, trong mọi người. Tâm an lạc tại kiếp người, bất chấp
mọi hoàn cảnh chướng ngại và đầy rẫy chông gai trên con
đường tu hành ở nhân gian thì đó chính là niết bàn, niết bàn
tự tại nhất trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và người.
Khi tâm an lạc như dòng nước mát, tưới mát và sinh
khởi sự sống cho vạn vật, nó không những giúp cho Thân,
Tâm, Trí ta an vui mà còn chuyển hóa sự an vui đó cho chúng

346
sinh an vui, cho Tuệ linh, mọi người đều an vui, cho vạn vật
an vui. Nó không những đem lại lợi ích cho ta mà còn đem lại
lợi ích cho vạn vật và chúng sinh, Tuệ linh, con người. Từ nền
móng Tâm cống hiến mà sinh khởi thành Tâm an lạc, từ Tâm
an lạc lại sinh khởi lên cảnh giới Tâm buông xả.
C. Cảnh giới của Tâm buông xả
Cảnh giới của Tâm buông xả gồm có Tâm buông và
Tâm xả:
- Tâm buông là cả ba tướng trong tam hợp nhân đều
buông: trí tuệ không bám định vào, không bám lấy, không vơ
vét các giả tướng về thân tướng ta; Tâm ta không bị chấp
ngã, Tâm không bị sân, bị hận; thân tướng không hành động
tạo ác nghiệp, không ích kỷ về thân tướng mình mà hại
người, vạn vật, Tuệ linh. Như vậy cần cả sự hợp nhất của tam
hợp nhân để buông những giả tướng, Độc Tâm, nghiệp ác mà
chưa phải của ta, buông đi sự ích kỷ lợi ích của ta mà sẽ gây
họa cho chúng sinh. Đó là buông đi cái không phải của ta,
buông đi cái ta đang định lấy.
- Tâm Xả là cả ba tướng trong tam hợp nhân đều xả: trí
tuệ xả đi những giả tướng mà trí tuệ đã bám định vào; Tâm
xả đi sự chấp ngã, sân, hận đã có trong Tâm; thân tướng xả đi
nghiệp ác đã tạo bằng cách hành thiện cứu giúp người và
chúng sinh. Như vậy cần cả sự hợp nhất của tam hợp nhân để
xả đi những giả tướng, Độc Tâm, nghiệp lực đã là của ta, xả đi
những ích kỷ lợi ích của ta mà đã gây họa cho chúng sinh và
Tuệ linh, con người.
Nguyên nhân của Tâm buông, xả là do Tâm đã xây
dựng được nền móng cảnh giới Tâm cống hiến vững chắc mà
sinh khởi lên cảnh giới của Tâm an lạc, từ Tâm an lạc chuyển

347
thành Tâm buông xả. Cảnh giới Tâm buông xả trong Tâm là
cảnh giới tối thượng của Thiện Tâm. Nó là cảnh giới tối
thượng vì nó có sự hợp nhất toàn bộ của trí tuệ với Thân
tướng và Tâm (Tuệ linh) để thấu hiểu và thực hành cải tạo
Trụ linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng, để duy trì sự
sống tồn tại và phát triển của toàn bộ các dạng sống trong và
ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và người.
Khi đạt được cảnh giới Tâm buông xả trong Thiện Tâm
thì Độc Tâm sẽ không còn làm ta phiền não mà sống trong
Độc Tâm với những cảnh chấp ngã, sân, hận và tạo ác nghiệp.
Bởi khi đó chúng ta luôn phát ra năng lượng Thiện Tâm với
các tầng hào quang màu vàng như ánh sáng mặt trời để tiêu
tan màn đêm giả dối như đêm tối của nghiệp lực, của Độc
Tâm. Độc Tâm sẽ không còn an trụ trong ta nữa.
Cảnh giới Tâm buông xả sẽ khiến cho chúng ta luôn
luôn không vì lợi ích ích kỷ của bản thân, của gia đình, của
dòng họ mà gây tổn thương lợi ích của chúng sinh và lợi ích
của Tuệ linh, con người. Mỗi người dù sống trong mọi hoàn
cảnh giả tướng nào thì vẫn luôn luôn chuyển hóa được thành
lợi ích cho chúng sinh mà không màng đến lợi ích cho mình.
Như vậy bản chất của Thiện Tâm chính là đã thấu hiểu
và sống trong sự thật của ánh sáng mặt trời, sống trong sự
tuân thủ nhân quả, trong sự thấu hiểu vạn vật trong và ngoài
Vũ trụ, Tuệ linh, con người bằng Chân lý Vạn vật và Chân lý
Giác ngộ, sống trong sự yêu thương chúng sinh, Tuệ linh, con
người. Chỉ cần cải tạo và lan tỏa phương pháp cải tạo Trụ
linh tới vạn vật, Tuệ linh, con người. Chúng ta sẽ nhanh
chóng chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

348
4.3. Phương pháp dùng Thiện Tâm hóa giải Độc
Tâm
Trong bản chất của Độc Tâm, Tâm chấp ngã là nền
móng vững chắc, nó ăn sâu vào Tuệ linh, con người, nó mang
tính âm mạnh. Cảnh giới Tâm sân là cảnh giới được sinh khởi
từ nền móng chấp ngã, nó mang đặc tính như ngọn lửa thiêu
đốt, nó mang tính âm rất mạnh. Cảnh giới Tâm hận là cảnh
giới tối thượng được xây dựng từ nền móng chấp ngã và sân,
nó là thành trì băng giá, nó mang tính âm siêu mạnh. Ngoài ra
bản chất của Độc Tâm còn thể hiện ở sự tự ái, đố kỵ, sợ nói về
nhân quả, nó là cảnh sống trong màn đêm tối giả dối.
Trong bản chất của Thiện Tâm có 2 điểm chính: là
dòng nước mát của sự cống hiến, an lạc, buông xả; là ánh
sáng rực rỡ như mặt trời của sự thật của hai Chân lý, của
nhân quả, là cảnh sống hiên ngang giữa ánh sáng mặt trời.
Phương pháp dùng Thiện Tâm hóa giải Độc Tâm:
Khi gặp Độc Tâm thể hiện tính chấp ngã:
Vì Tâm chấp ngã là nền móng của sự giả dối, của sự
bám định vào giả tướng để lợi mình và hại người nên ta phải
dùng Thiện Tâm là nhẹ nhàng dùng ánh sáng mặt trời của sự
thật hai Chân lý, của nhân quả để xua tan và diệt được nền
móng chấp ngã.
Khi gặp Độc Tâm thể hiện tính sân:
Vì Tâm sân là ngọn lửa thiêu đốt nên ta phải dùng
dòng nước mát của Thiện Tâm là cống hiến, an lạc, buông xả
để nhẹ nhàng gột rửa và làm mát chúng sinh đang bị Tâm
sân. Tuyệt đối không dùng Tâm sân để đấu chọi với Tâm sân,
vì nếu vậy sẽ làm thành ngọn lửa hủy diệt.

349
Khi gặp Độc Tâm thể hiện tính hận thù:
Vì Tâm hận thù là tảng băng và mang tính âm siêu
mạnh nên không thể đơn thuần dùng dòng nước mát của
Thiện Tâm để hóa giải được. Ta phải dùng ánh sáng mặt trời
của sự thật hai Chân lý, của nhân quả để tiêu tan màn đêm
băng giá của sự giả dối. Bởi cảnh giới băng giá hận thù này
chỉ bị tan chảy bởi ánh sáng mặt trời chói chang.
Như vậy tùy từng cảnh giới nào của Độc Tâm mà ta
dùng dòng nước mát hay ánh sáng mặt trời để mà hóa giải
cho chúng sinh. Khi dùng ánh sáng mặt trời thì đó là dùng sự
thật của hai Chân lý và nhân quả để làm cho cảnh giới hận và
chấp ngã bị tiêu diệt. Khi dùng ánh sáng mặt trời sẽ khiến
cho chúng sinh lầm tưởng ta mắng hay thù ghét họ, do đó khi
vận hành Thiện Tâm hóa giải Độc Tâm thì chúng ta cần vận
dụng tinh tế để phân tích căn cơ trí tuệ của chúng sinh ra sao
để lựa mà hóa độ cho chúng sinh.
Việc thấu hiểu bản chất Trụ – Tâm của con người, mà
con người là hóa thân của Tuệ linh tu hành ở nhân gian, do
đó, với việc thấu hiểu được Độc Tâm và Thiện Tâm, chúng ta
phải thấu hiểu tri thức hai Chân lý để thực hành kiểm soát
độc tâm và phát triển thiện tâm. Làm được điều này, chúng ta
sẽ nhanh tiến tới đích của con đường cải tạo Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng.

5. Bản chất của sự tuần hoàn và kiểm soát sóng


điện, trạng thái năng lượng của Trụ – Tâm
Bản chất của sự tuần hoàn và kiểm soát trạng thái
năng lượng, sóng điện của Trụ – Tâm được tính cho 3 nhóm
vật chất cấu tạo thành Vũ trụ. Đó là nhóm vật chất giản đơn,
350
nhóm vật chất phức tạp, nhóm siêu vật chất. Đặc biệt, bản
chất này sẽ giúp cho Tuệ linh, con người giải mã, thấu hiểu và
biết cách liên kết tuần hoàn, kiểm soát trạng thái năng lượng
từ Trụ linh tới toàn bộ cấu trúc năng lượng trong bản thể
mình và vạn vật Vũ trụ.

Hình minh họa cấu trúc liên kết giữa


các hạt năng lượng tổng hợp bên ngoài Trụ linh
Để giải mã, thấu hiểu bản chất của sự tuần hoàn, kiểm
soát trạng thái năng lượng, sóng điện trong Trụ – Tâm, chúng
ta phải thấu hiểu cấu trúc liên kết giữa các hạt năng lượng
tổng hợp bên ngoài Trụ linh của cấu trúc Tướng.

351
Các hạt năng lượng dương tổng hợp kết nối gần nhau,
bên cạnh nhau là bởi có sự kết nối thông tin gần giống nhau
hoặc tiếp nối thông tin với nhau.
Các hạt năng lượng âm tổng hợp và dương tổng hợp
được kết nối với nhau bởi cùng khớp nội dung thông tin.
Chính vì điều này mà hạt năng lượng âm tổng hợp rung lắc
xung quanh hạt năng lượng dương tổng hợp.
Bản chất tuần hoàn trạng thái năng lượng,
sóng điện của Trụ – Tâm:
Trong Trụ – Tâm con người, Tuệ linh và vạn vật, luôn
luôn có 3 nhóm hạt năng lượng với 3 đặc tính sóng điện khác
nhau. Đó là nhóm hạt năng lượng âm với sóng điện âm,
nhóm hạt năng lượng dương với sóng điện dương, nhóm hạt
năng lượng trung tính (chân tâm) với sóng điện trung tính.
Tuần hoàn sóng điện chính là tuần hoàn trạng thái năng
lượng của 3 nhóm năng lượng trong toàn bộ cấu trúc Tướng.
Nhiệm vụ của từng nhóm hạt năng lượng:
- Hạt năng lượng trung tính (chân tâm) là chất dính và
được làm đường truyền kết nối các hạt năng lượng dương
với nhau. Hạt năng lượng trung tính không có sóng điện
dương để đẩy và cũng không có sóng điện âm để thu hút. Hạt
năng lượng trung tính chỉ làm nhiệm vụ là đường truyền của
sóng điện thông tin được chạy từ Trụ linh đến toàn bộ các
cụm hạt năng lượng trong toàn bộ cấu trúc năng lượng
(Tướng).
- Hạt năng lượng dương là các vị trí, là điểm kết nối để
tạo thành cấu trúc lập phương với 8 hạt năng lượng dương
và được các hạt năng lượng chân tâm kết nối để làm đường
truyền. Các hạt năng lượng dương được liên kết với nhau bởi

352
cấu trúc vô số hình lập phương được gắn kết với nhau. Hạt
năng lượng dương có nhiệt lượng dương, có sóng điện
dương. Hạt năng lượng dương làm nhiệm vụ tỏa nhiệt và đẩy
thông tin chuyển tiếp đến các hạt năng lượng dương khác.
- Hạt năng lượng âm là hạt năng lượng có nhiệm vụ
rung lắc để thu tín hiệu, để hấp thụ nhiệt xung quanh về. Hạt
năng lượng âm sẽ rung lắc bên cạnh hạt năng lượng dương.
Hạt năng lượng âm không kết dính với hạt năng lượng
dương. Hạt năng lượng âm có liên kết với hạt năng lượng
dương bởi cùng nội dung thông tin nên hạt năng lượng âm
quay xung quanh hạt năng lượng dương. Có thể nói, hạt năng
lượng âm là hạt thu sóng tín hiệu thông tin.
Quy trình tuần hoàn sóng điện âm, dương, trung tính
trong cấu trúc Trụ – Tâm được bắt đầu từ Trụ linh. Từ Trụ
linh, sóng điện thông tin mang đặc tính sóng điện dương sẽ
được đẩy đi tới từng cụm hạt năng lượng âm – dương trong
toàn bộ cấu trúc năng lượng thông qua đường truyền trung
tính. Các hạt năng lượng âm bên cạnh các hạt năng lượng
dương có nhiệm vụ thu tín hiệu, hấp thụ nhiệt nên chúng
luôn rung lắc. Khi sóng điện thông tin để đi tới được điểm
tiếp theo là hạt năng lượng dương thì cần phải có hạt năng
lượng âm ở điểm đó thu tín hiệu và lực đẩy từ Trụ linh. Sóng
điện thông tin đến được điểm hạt dương đầu tiên sẽ được
sóng điện dương của điểm đầu tiên đẩy sóng điện thông tin
đi tới điểm tiếp theo. Hạt năng lượng âm ở điểm tiếp theo sẽ
tiếp tục rung lắc để thu tín hiệu. Sóng điện dương ở điểm hạt
dương đẩy sóng điện thông tin và được hạt năng lượng âm
thu tín hiệu nên sóng thông tin được di chuyển tới điểm hạt
dương tiếp theo. Cứ như vậy, sóng điện thông tin sẽ di

353
chuyển trong toàn bộ trong cấu trúc năng lượng thành vòng
tròn và trở về Trụ linh.
Sóng điện tuần hoàn với những nhiệm vụ, sứ mệnh
riêng biệt của từng nhóm hạt năng lượng. Những nhiệm vụ
đó sẽ giúp sóng điện thông tin từ Trụ linh tuần hoàn liên tục
trong toàn bộ cấu trúc năng lượng để hấp thụ thông tin của
Vũ trụ quan xung quanh trong quá trình tương tác về Trụ
linh. Sóng điện thông tin càng tuần hoàn tự động như một cơ
chế sẽ giúp cho cấu trúc năng lượng đó mã hóa, hấp thụ được
vô số thông tin chân thật về Trụ linh để Trụ linh thực hiện
quá trình phân tách và liên kết hạt năng lượng. Cũng được
hiểu là, quá trình tuần hoàn sóng điện thông tin sẽ sinh ra
nhiệt ấm để xảy ra quá trình phân tách liên kết hạt năng
lượng tại Trụ linh theo hướng bền vững.
Nếu cấu trúc vật chất, Tuệ linh, con người mà không
xảy ra quá trình tuần hoàn sóng điện thì sẽ không tồn tại sự
sống. Nếu quá trình tuần hoàn bị tắc nghẽn ở những cụm hạt
năng lượng nào thì tại những điểm đó có nhiều hạt năng
lượng âm và đường truyền bị đứt. Những Tướng như vậy sẽ
nguy cơ phân rã và dẫn tới hoại diệt cấu trúc nếu năng lượng
hoại diệt tấn công nhiều vào.
Bản chất kiểm soát trạng thái năng lượng
lượng, sóng điện của Trụ – Tâm:
Bản chất việc kiểm soát sóng điện, trạng thái năng
lượng trong Trụ – Tâm là vấn đề của hạt năng lượng dương
và hạt năng lượng âm. Bởi, để sóng điện tuần hoàn được
thông suốt trong toàn bộ cấu trúc Tướng thì hạt năng lượng
dương có sóng điện phải mạnh và hạt năng lượng âm có sóng

354
điện phải yếu. Bởi hạt năng lượng âm có nhiệm vụ là thu tín
hiệu và hạt năng lượng dương là đẩy chuyển tiếp thông tin.
Khi hạt năng lượng dương mạnh sẽ tỏa nhiệt dương
lớn ra xung quanh nó. Khi đó, hạt năng lượng âm sẽ hấp thụ
nhiệt dương và chính nhiệt dương sẽ kiểm soát và giảm tốc
độ quay của hạt năng lượng âm. Khi đó hạt năng lượng âm sẽ
chỉ là thu tín hiệu thông tin và không có khả năng cản trở
sóng thông tin di chuyển qua cụm hạt năng lượng âm –
dương đó.
Khi hạt năng lượng âm có sóng điện mạnh, hạt năng
lượng dương có sóng điện yếu, trường hợp này sẽ khiến cho
năng lượng dương bị mất nhiệt dương nhanh bởi lực hút của
hạt năng lượng âm và do hạt năng lượng dương không quay
mạnh. Khi đó, hạt năng lượng dương sẽ không có đủ nhiệt
lượng để đẩy thông tin chuyển tiếp đến cụm hạt năng lượng
dương khác, đồng thời lại bị lực hút của hạt năng lượng âm
mạnh cản trở quá trình chuyển tiếp thông tin. Khi đó, sóng
điện thông tin không tuần hoàn được.
Mỗi một cụm hạt năng lượng trong cấu trúc Tướng
gồm có 1 hạt năng lượng âm rung lắc xung quanh hạt năng
lượng dương bởi cùng nội dung thông tin. Hạt năng lượng
nào mạnh sẽ kiểm soát và suy yếu được hạt năng lượng kia.
Bản chất trong cấu trúc Tướng mà có nhiều cụm hạt
năng lượng âm – dương với cấu trúc có nhiều hạt năng lượng
âm tại mỗi điểm của hạt năng lượng dương sẽ tạo thành cấu
trúc đa âm trong Tướng. Đây là nguyên nhân sóng điện
không tuần hoàn và các chứng bệnh sẽ xảy ra. Tuệ linh thì bị
phân rã cấu trúc mà nguy cơ hoại diệt. Con người thì bệnh
tật. Vạn vật cũng vì thế mà không liên kết bền vững.

355
6. Bản chất Trụ – Tâm Kết của 3 nhóm vật chất
cấu tạo thành Vũ trụ
Trụ – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện được
sinh phát từ Trụ – Trí, tuần hoàn, lưu giữ trong từ hạt năng
lượng tận cùng cho đến trong Trụ linh của vạn vật. Do đó, để
thấu hiểu được bản chất của Trụ – Tâm, chúng ta phải giải
mã, thấu hiểu bản chất của Trụ linh.
Việc giải mã, thấu hiểu bản chất Trụ linh Kết của 3
nhóm vật chất trong Vũ trụ sẽ giúp cho Tuệ linh và con người
dễ dàng liên kết, kiểm soát được trạng thái năng lượng, sóng
điện trong Trụ – Tâm của mình. Khi đó, sẽ biết cách kiểm
soát được độc của hạt năng lượng âm và kích hoạt được
thiện của hạt năng lượng dương bằng chân tâm. Làm được sẽ
tiến nhanh tới thành tựu chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng.

6.1. Bản chất cấu trúc Trụ linh Kết của 3 nhóm
vật chất
Kết là rung động, là bắt tín hiệu, là thu tín hiệu, là hút
về, là lấy về, là hưởng thụ, là chìm đắm, là chiếm đoạt, là
cướp bóc, là thỏa mãn, là giết hại, là gây tổn hại.
Kết có bản chất là hạt năng lượng có sợi mã sóng trí
tuệ mang sóng điện âm. Bởi hạt năng lượng có sợi mã sóng
trí tuệ mang sóng điện âm mới rung động, mới bắt tín hiệu,
mới thu tín hiệu, mới hút về, mới lấy về, mới hưởng thụ, mới
chìm đắm, mới chiếm đoạt, mới cướp bóc, mới thỏa mãn,
mới giết hại, mới gây tổn hại. Đã là Trụ linh thì phải có hạt
năng lượng có sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm.

356
Kết ở mức nhẹ là chỉ rung động, thu hút tín hiệu. Kết ở
mức rất mạnh là giết hại, thỏa mãn mà gây tổn hại tới các
chỉnh thể khác. Trong bất cứ cấu trúc Trụ linh nào được hình
thành từ sự hợp nhất của hai hạt năng lượng có sợi mã sóng
trí tuệ mang sóng điện âm và dương đều có Kết. Bởi khi Trụ
linh của Tướng được hình thành từ hai hạt năng lượng có sợi
mã sóng trí tuệ đã có một sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện
âm. Mà bản chất của sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm
là Kết. Điều này cho thấy, hết thảy các cấu trúc Trụ linh đều
có bản chất là Kết. Có chăng mức độ Kết ở mức siêu nhẹ hay
nhẹ, mạnh hay siêu mạnh.
Kết tồn tại trong cả 3 nhóm cấu trúc Trụ linh. Ba nhóm
cấu trúc Trụ linh tương ứng với 3 nhóm Tướng (vật chất). Đó
là nhóm cấu trúc Trụ linh giản đơn, nhóm cấu trúc Trụ linh
phức tạp, nhóm cấu trúc siêu Trụ linh.
Kết là bản chất mà bất cứ cấu trúc Trụ linh nào muốn
phát triển và nâng cấp phải có. Bởi chỉ khi có Kết thì hết thảy
các cấu trúc Trụ linh trong Vũ trụ mới hấp thụ nhiệt lượng,
hấp thụ dinh dưỡng, hấp thụ sóng điện để thực hiện được cơ
chế phân tách, liên kết nhằm tồn tại và phát triển bền vững
hơn.
Kết ở mức độ nhẹ và vừa đủ sẽ thúc đẩy được sự phát
triển bền vững của cấu trúc Trụ linh và mang lại lợi ích tới
hết thảy các Tướng khác trong Vũ trụ. Kết ở mức độ mạnh,
rất mạnh và siêu mạnh sẽ khiến cho cấu trúc Trụ linh không
phát triển được mà dễ dàng bị năng lượng hoại diệt gây phân
rã làm vỡ cấu trúc, hoại diệt vĩnh viễn và gây tổn hại tới hết
thảy các Tướng trong Vũ trụ.

357
Có 3 nhóm cấu trúc Trụ linh dễ bị phân rã và hoại diệt.
Đó là 3 nhóm cấu trúc Trụ linh Kết từ mạnh cho tới rất mạnh
và siêu mạnh:
- Nhóm cấu trúc Trụ linh Kết mạnh là nhóm cấu trúc
Trụ linh được hợp nhất bởi một hạt năng lượng âm tận cùng
màu xám với một hạt năng lượng dương tận cùng màu xanh
lá, hoặc màu vàng, hoặc màu đỏ lửa, hoặc màu trắng đục. Trụ
linh đa âm mạnh được gọi là Trụ linh Kết mạnh. Do hạt năng
lượng âm rung lắc mạnh, quay ngược mạnh, hút sóng điện
bên ngoài về mạnh nên cấu trúc Trụ linh Kết mạnh.

Hình: Trụ linh Kết mạnh

358
Hình: Trụ linh Kết mạnh

Hình: Trụ linh Kết mạnh

359
Hình: Trụ linh Kết mạnh

- Nhóm cấu trúc Trụ linh Kết rất mạnh là nhóm cấu
trúc Trụ linh được hợp nhất bởi một hạt năng lượng âm tận
cùng màu đen với một hạt năng lượng dương tận cùng màu
xanh lá, màu vàng, màu đỏ lửa, màu trắng đục. Trụ linh đa
âm rất mạnh được gọi là Trụ linh Kết rất mạnh. Do hạt năng
lượng âm rung lắc rất mạnh, quay ngược rất mạnh, hút sóng
điện bên ngoài về rất mạnh nên cấu trúc Trụ linh Kết rất
mạnh.

360
Hình: Trụ linh Kết rất mạnh

Hình: Trụ linh Kết rất mạnh

361
Hình: Trụ linh Kết rất mạnh

Hình: Trụ linh Kết rất mạnh

362
- Nhóm cấu trúc Trụ linh Kết siêu mạnh là nhóm cấu
trúc Trụ linh được hợp nhất bởi một hạt năng lượng âm tận
cùng màu đỏ máu với một hạt năng lượng dương tận cùng
màu xanh lá, màu vàng, màu đỏ lửa, màu trắng đục. Trụ linh
đa âm siêu mạnh được gọi là Trụ linh Kết siêu mạnh. Do hạt
năng lượng âm rung lắc siêu mạnh, quay ngược siêu mạnh,
hút sóng điện bên ngoài về siêu mạnh nên cấu trúc Trụ linh
Kết siêu mạnh.

Hình: Trụ linh Kết siêu mạnh

363
Hình: Trụ linh Kết siêu mạnh

Hình: Trụ linh Kết siêu mạnh

364
Hình: Trụ linh Kết siêu mạnh

Cấu trúc Trụ linh của hết thảy các Tướng trong Vũ trụ
Kết ở mức mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh, đó là các cấu
trúc Trụ linh đa âm mạnh, rất mạnh, siêu mạnh. Khi đa âm,
tức là lượng hạt năng lượng âm được phân tách ra vô số mà
không cấu tạo được thành liên kết vững chắc như những hạt
năng lượng dương. Việc không tạo được sự liên kết chặt chẽ
sẽ làm cho cấu trúc Trụ linh không có khả năng phòng thủ
trước sự tấn công của năng lượng hoại diệt. Khi năng lượng
hoại diệt tấn công sẽ làm cho cấu trúc Trụ linh đó bị đứt liên
kết, bị phân rã và hoại diệt vĩnh viễn.
Khi các cấu trúc Trụ linh Kết tương tác với nhau sẽ dễ
dàng tạo thành hiệu ứng Kết liên kết với Kết. Đây chính là hội
chứng liên kết phóng xạ âm của các cấu trúc Trụ linh có bản
chất Kết. Khi hội chứng liên kết phóng xạ âm xảy ra giữa các

365
cấu trúc Trụ linh, các cấu trúc Trụ linh sẽ rung lắc mạnh, thu
hút mạnh, quay ngược mạnh. Điều đó khiến cho năng lượng
hoại diệt sẽ tấn công vào rất mạnh. Khi đó, các cấu trúc Kết
này nhanh chóng bị phân rã và hoại diệt. Có thể nói, khi các
cấu trúc Trụ linh Kết tương tác với nhau sẽ gây tổn hại lớn
cho chính cấu trúc Trụ linh của chính nó và các cấu trúc Trụ
linh khác.

6.2. Các cấu trúc Trụ linh Kết của 3 nhóm vật
chất
Các cấu trúc Trụ linh Kết ở mức mạnh, rất mạnh và
siêu mạnh có trong 3 nhóm vật chất là:
Các cấu trúc Trụ linh Kết trong nhóm siêu
vật chất:
Siêu vật chất hay còn gọi là siêu Tướng. Đó là dạng
sống Tuệ linh. Đó là dạng sống Tuệ linh và Linh hồn đã từng
hoặc đang an trụ trong thân tướng con người.
Siêu Tướng có cấu trúc Trụ linh Kết mạnh, rất mạnh và
siêu mạnh là:
- Tuệ linh bị đa âm, bị phóng xạ năng lượng âm.
- Tuệ linh đã hóa thành ngã quỷ sau quá trình tu hành
ở nhân gian.
- Tuệ linh, Linh hồn đang phân rã và tiệm cận sự hoại
diệt. Đó là họ đang rung động, hút, chiếm hữu, gây tổn hại tới
các chỉnh thể khác mà không thể kiểm soát được chính họ.
- Tuệ linh, Linh hồn đang ở các cửa ngục ác nghiệp ở
cõi trời Địa phủ.

366
- Tuệ linh, Linh hồn đang ở cảnh sống âm tại cõi trời
Địa phủ.
- Tuệ linh, Linh hồn hóa ngã quỷ đang an trụ trong
không gian Vũ trụ.
- Tuệ linh, Linh hồn hóa ngã quỷ đang an trụ ở khắp
điền thổ, những nơi thờ tự ở nhân gian.
- Tuệ linh, Linh hồn đang bị mắc kẹt ở nhân gian sau
khi hết kiếp người mà chưa được chuyển sinh luân hồi kiếp
mới.
- Tuệ linh đang an trụ trong con người có tư tưởng cho
đến hành động tiêu cực gây tổn hại vạn vật, Tuệ linh, con
người. Là người vi phạm vào bốn hình tướng Đạo, đó là vi
phạm vào những điều không được phép vi phạm trong bốn
hình tướng Đạo. Đặc biệt là những con người có đại hệ tư
tưởng u mê, tiêu cực gây tổn hại Tuệ linh, con người. Họ là
những người lan tỏa mê tín dị đoan, lan tỏa tư tưởng chủ
nghĩa dân tộc cực đoan, lan tỏa chiến tranh, lan tỏa những tư
tưởng đi ngược Quy luật Nhân quả.
Các siêu Tướng có cấu trúc Trụ linh Kết mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh sẽ khiến cho cấu trúc 16 hạt năng lượng
mở rộng được phân tách ra bên ngoài Trụ linh bị mất cân
bằng. Khi đó, các hạt năng lượng âm sẽ được phân tách ra
quá nhiều, trong khi các hạt năng lượng dương lại quá ít. Khi
mất cân bằng sẽ khiến tốc độ rung lắc trong các hạt năng
lượng âm rất lớn. Năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu,
chúng di chuyển vào làm đồng hóa, phân rã và hoại diệt cấu
trúc Trụ linh đó. Cấu trúc Trụ linh chính là cấu trúc năng
lượng, cũng chính là cấu trúc Tướng.

367
Các cấu trúc Trụ linh Kết trong nhóm vật
chất phức tạp:
Vật chất phức tạp hay còn gọi là Tướng phức tạp. Đó là
dạng sống của linh hồn muông thú khi chúng chưa được
chuyển sinh làm người; là linh hồn, cấu trúc năng lượng an
trụ trong cây cối, trong đất đá; là cấu trúc năng lượng trong
năm nhóm đang tồn tại và vận hành sự sống của cả Vũ trụ.
Tướng phức tạp có cấu trúc Trụ linh Kết mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh là:
- Những tầng hạt năng lượng âm liên kết với tầng hạt
năng lượng chớm dương đang vận hành Vũ trụ.
- Những linh hồn các con thú dữ. Sau khi hoại diệt thân
xác, linh hồn chúng tồn tại trên điền thổ và chúng gây tổn hại
tới đời sống của con người. Chúng được gọi là yêu tinh, yêu
quái.
- Những linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong đất
đá, trong những cây có tính chất độc tố. Đó là những cây cối,
những đất đá gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống của con
người và vạn vật cũng như muông thú.
Các Tướng phức tạp có cấu trúc Trụ linh Kết mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt bắt
được tín hiệu. Chúng di chuyển ồ ạt vào làm đồng hóa, phân
rã và hoại diệt các cấu trúc Trụ linh. Cấu trúc Trụ linh chính
là cấu trúc năng lượng, cũng chính là cấu trúc Tướng.
Các cấu trúc Trụ linh Kết trong nhóm vật
chất giản đơn:
Vật chất giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó là
dạng sống của thân tướng vật chất rắn, lỏng, khí; là thân

368
tướng con người, thân tướng muông thú, thân tướng cỏ cây,
đất đá, kim loại, nước…; là các hành tinh trong toàn bộ Vũ
trụ.
Tướng giản đơn có cấu trúc Trụ linh Kết mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh là:
- Thân tướng con người:
+ Những con người có thân bệnh. Thân bệnh là năng
lượng âm quá nhiều, dư thừa, khiến cho sóng điện âm dương
trong cơ thể không tuần hoàn. Khi đó, năng lượng hoại diệt
xâm nhập làm biến đổi cấu trúc tế bào và gây ra những bệnh
lý hiểm nghèo.
+ Những con người có trí tuệ bám định, u mê không tin
vào Quy luật Nhân quả, vào cội nguồn nhân loại, vào con
đường và sứ mệnh tu hành cải tạo Tuệ linh.
+ Những con người có trí tuệ bám định vào các giả
tướng mà không hành thiện cứu giúp con người, vạn vật và
muông thú.
+ Những con người có những hành động gây tổn hại
tới vạn vật, con người, muông thú để thỏa mãn cho bản thể
họ.
+ Những con người có đại hệ tư tưởng tiêu cực đi
ngược lại Quy luật Nhân quả.
+ Những con người sống và lan tỏa những đại hệ tư
tưởng: u mê, mê tín dị đoan, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tôn
giáo cực đoan, phân chia dân tộc, phân chia sắc tộc, chiến
tranh…
+ Những con người sống và thực hành, lan tỏa vi phạm
bốn hình tướng Đạo.

369
- Thân tướng muông thú: Đó là những con thú ăn thịt
đồng loại, những con thú ăn thịt các con thú khác, những con
thú không cứu giúp và bảo vệ đồng loại của chúng. Những
con thú không cứu giúp muông thú khác, không giúp đỡ con
người, không cứu giúp vạn vật.
- Những cỏ cây hút nước, hút dinh dưỡng để tồn tại và
phát triển.
- Những hang sâu trong lòng đất núi. Những vật chất
đá không sinh phát ra năng lượng tốt cho vạn vật. Những kim
loại, hóa chất, chất độc trong thiên nhiên, trong lòng đất.
- Nước trung hòa tất cả vạn vật.
- Những hành tinh có sóng âm mạnh như Trái đất, như
Mặt trăng và các hành tinh không phải là Mặt trời.

7. Bản chất Trụ – Tâm Định của 3 nhóm vật chất


cấu tạo thành Vũ trụ
Vì Trụ – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện được
sinh phát từ Trụ – Trí, tuần hoàn, lưu giữ trong từ hạt năng
lượng tận cùng cho đến trong Trụ linh của vạn vật. Do đó, để
thấu hiểu được bản chất của Trụ – Tâm, chúng ta phải thấu
hiểu bản chất của Trụ linh.
Việc giải mã, thấu hiểu bản chất Trụ linh Định của 3
nhóm vật chất trong Vũ trụ sẽ giúp cho Tuệ linh và con người
dễ dàng liên kết, kiểm soát được trạng thái năng lượng, sóng
điện trong Trụ – Tâm của mình. Khi đó, sẽ biết cách kiểm
soát được độc của hạt năng lượng âm và kích hoạt được
thiện của hạt năng lượng dương bằng chân tâm. Làm được sẽ
tiến nhanh tới thành tựu chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng.
370
7.1. Bản chất cấu trúc Trụ linh Định của 3 nhóm
vật chất
Định là đứng im, là bất động, là tĩnh lặng, là thanh tịnh,
là an lạc, là thanh lọc. Định có nghĩa là không Kết cũng không
Tỏa.
Định có bản chất là hạt năng lượng có sóng điện chân
tâm (trung tính), là cấu trúc Trụ linh cân bằng. Là chân tâm,
là cấu trúc cân bằng nên mới đứng im, nên mới bất động, nên
mới tĩnh lặng, nên mới thanh tịnh, nên mới an lạc, nên mới
thanh lọc.

Hình: Trụ linh Định ở mức nhẹ

Cấu trúc Trụ linh Định chính là Trụ linh của Tướng
được cấu tạo thành bởi một hạt năng lượng âm có sóng điện
nhẹ màu trắng xám với một hạt năng lượng dương có sóng
điện nhẹ màu trắng đục. Đây là cấu trúc Trụ linh Định ở mức

371
nhẹ và thấp nhất. Định ở mức độ mạnh, rất mạnh, siêu mạnh
thì đó chính là cấu trúc Trụ linh Tỏa. Tức là khi cấu trúc Trụ
linh Tỏa ở mức mạnh, rất mạnh, siêu mạnh, đó là Định ở các
mức cao. Định ở mức cao là do quá trình tuần hoàn sóng điện
trong Trụ linh đạt đến sự bền vững. Sự bền vững đó là do sự
liên kết vững chắc giữa sóng điện âm và dương trong Trụ
linh.
Cấu trúc Trụ linh Định tồn tại trong cả 3 nhóm vật
chất. Đó là nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp
và nhóm siêu vật chất.
Cấu trúc Trụ linh Định là bản chất mà bất cứ cấu trúc
Trụ linh nào muốn phát triển nâng cấp phải có. Bởi chỉ khi có
Định thì hết thảy cấu trúc Trụ linh trong Vũ trụ mới cân
bằng, thanh lọc được năng lượng sau khi Kết. Chỉ có Định
mới giúp cho hết thảy cấu trúc Trụ linh Tỏa được năng lượng
tới vạn vật trong và ngoài Vũ trụ.
Cấu trúc Trụ linh Định là bản chất vô cùng cần thiết
cho hành trình chuyển sinh nâng cấp cấu trúc Trụ linh và bản
thể vật chất. Định luôn luôn hiện hữu trong từng tích tắc của
thời gian, của quá trình vận động của hết thảy các dạng cấu
trúc Trụ linh của vạn vật. Định sẽ được phát huy hết giá trị
nếu nó được vận hành thành quy trình tự động cho quá trình
Kết và Tỏa. Tức là nó phải nằm trong toàn bộ quy trình có
Kết và có Tỏa. Nếu nó tách riêng, nó sẽ không có được sức
mạnh siêu việt.

7.2. Các cấu trúc Trụ linh Định của 3 nhóm vật
chất
Các cấu trúc Trụ linh Định có trong 3 nhóm vật chất là:

372
Các cấu trúc Trụ linh Định trong nhóm siêu
vật chất:
Siêu vật chất hay còn gọi là siêu Tướng. Đó là dạng
sống Tuệ linh. Đó là dạng sống Tuệ linh và Linh hồn đã từng
hoặc đang an trụ trong thân tướng con người.
Siêu Tướng có cấu trúc Trụ linh Định là:
- Tuệ linh mới được chuyển sinh từ phôi năng lượng
âm dương thành Tuệ linh em bé.
- Tuệ linh có cấu trúc năng lượng cân bằng âm dương
trong Trụ linh. Đó là tại Trụ linh, có hạt năng lượng âm gốc
có sóng điện âm nhẹ, và hạt năng lượng dương gốc có sóng
điện dương nhẹ. Đây là Định ở cảnh giới thấp.
- Tuệ linh có cấu trúc năng lượng đa dương trong Trụ
linh. Trụ linh đa dương sẽ giúp cho Tuệ linh có Định ở cảnh
giới cao và rất cao.
- Các Tuệ linh không thiện cũng không ác. Đó là Định ở
mức thấp.
- Các Tuệ linh luôn luôn làm những việc thiện vì vạn
vật và Tuệ linh, con người. Đó là các Tuệ linh đã đạt được
những thành tựu trên hành trình chuyển sinh Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng như các bậc thánh hiền, các bậc hiền triết.
- Định ở cảnh giới tối thượng là Người Cha – Người
Thầy vĩ đại của Vũ trụ và Tuệ linh, con người. Đó là bộ lọc
năng lượng viên mãn.
- Các Tuệ linh, Linh hồn đang sống ở cảnh giới tu
dưỡng, cân bằng năng lượng ở cõi trời Địa phủ.

373
- Những con người đang sống. Họ không thiện cũng
không ác, đó là Định ở mức thấp. Những con người luôn vì
mọi người và vạn vật, Tuệ linh, đó là Định ở mức cao.
- Những con người thông qua bốn hình tướng Đạo mà
vẫn cân bằng, không vi phạm làm tổn hại bốn hình tướng
Đạo, từng bước lan tỏa giá trị tới mọi người, đó là Định.
Các cấu trúc Trụ linh Định trong nhóm vật
chất phức tạp:
Vật chất phức tạp hay còn gọi là Tướng phức tạp. Đó là
dạng sống của linh hồn muông thú khi chúng chưa được
chuyển sinh làm người; là linh hồn, cấu trúc năng lượng an
trụ trong cây cối, trong đất đá; là cấu trúc năng lượng trong
năm nhóm đang tồn tại và vận hành sự sống của cả Vũ trụ.
Tướng phức tạp có cấu trúc Trụ linh Định là:
- Những tầng năng lượng dương liên kết với tầng năng
lượng âm có sóng điện âm nhẹ vận hành Vũ trụ.
- Những linh hồn các con thú lành hiền. Đó là những
con thú không giết hại các con thú khác, những con thú
không ăn thịt thân tướng các con thú khác.
- Những linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong đất
đá, trong những cây có tính thanh lọc. Đó là cây cối, là những
loại đá bán quý, đá quý.
Các cấu trúc Trụ linh Định trong nhóm vật
chất giản đơn:
Vật chất giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó là
dạng sống của thân tướng vật chất rắn, lỏng, khí; là thân
tướng con người, thân tướng muông thú, thân tướng cỏ cây,

374
đất đá, kim loại, nước…; là các hành tinh trong toàn bộ Vũ
trụ.
Tướng giản đơn có cấu trúc Trụ linh Định là:
- Thân tướng con người:
+ Những con người có thân tướng mạnh khỏe, không
bệnh tật.
+ Những con người không thiện cũng không ác, đó là
có tư tưởng cho đến hành động không thiện cũng không ác.
+ Những cháu bé với chân tâm ban đầu chưa thiện
cũng chưa ác.
+ Những con người cân bằng được cuộc sống trong
bốn hình tướng Đạo. Họ không vi phạm vào bốn hình tướng
Đạo. Họ từng bước thực hành lan tỏa giá trị đạo đức tới mọi
người và vạn vật, muông thú.
+ Những con người có Định ở mức cao cho tới rất cao
là họ sống như bản năng. Bản năng đó là luôn có tư tưởng
cho đến hành động không vì mình, luôn vì vạn vật, Tuệ linh,
con người.
+ Người có bộ lọc năng lượng là người có Định ở mức
độ cao nhất. Họ luôn cân bằng, luôn thanh lọc, luôn an lạc,
luôn chuyển hóa tuần hoàn một cách kỳ diệu.
- Thân tướng muông thú: Đó là những con thú không
ăn thịt, không giết hại con thú khác. Đó là những con thú lành
hiền. Đó là những con thú giúp đỡ những con thú khác,
những con thú biết giúp đỡ con người. Những con thú biết
giúp đỡ muông thú và con người là Định ở mức rất cao.
- Những cỏ cây cân bằng năng lượng. Định ở mức cao.
- Nước trung hòa tất cả vạn vật. Định ở mức rất cao.

375
- Những hành tinh quay xung quanh chính nó có mức
Định cao.
- Trong mỗi hành tinh đều có khu vực giao nhau giữa
tầng địa chất sóng điện dương và tầng địa chất sóng điện âm
là khu vực có mức Định rất cao. Đó là năng lượng chân tâm
gắn kết chỉnh thể hành tinh đó được bền chặt, được tồn tại
và vận động để phát triển.

8. Bản chất Trụ – Tâm Tỏa của 3 nhóm vật chất


cấu tạo thành Vũ trụ
Trụ – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện được
sinh phát từ Trụ – Trí, tuần hoàn, lưu giữ trong từ hạt năng
lượng tận cùng cho đến trong Trụ linh của vạn vật. Do đó, để
thấu hiểu được bản chất của Trụ – Tâm, chúng ta phải thấu
hiểu bản chất của Trụ linh.
Việc giải mã, thấu hiểu bản chất Trụ linh Tỏa của 3
nhóm vật chất trong Vũ trụ sẽ giúp cho Tuệ linh và con người
dễ dàng liên kết, kiểm soát được trạng thái năng lượng, sóng
điện trong Trụ – Tâm của mình. Khi đó, sẽ biết cách kiểm
soát được độc của hạt năng lượng âm và kích hoạt được
thiện của hạt năng lượng dương bằng chân tâm. Làm được sẽ
tiến nhanh tới thành tựu chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng.

8.1. Bản chất cấu trúc Trụ linh Tỏa của 3 nhóm
vật chất
Tỏa là truyền đi, lan tỏa, đẩy đi, cho đi, cứu giúp, soi
sáng, dẫn đường, chỉ dẫn.

376
Tỏa có bản chất là hạt năng lượng mang sóng điện
dương. Bởi hạt năng lượng mang sóng điện dương mới
truyền đi, mới lan tỏa, mới cho đi, mới cứu giúp, mới soi
sáng, mới dẫn đường, mới chỉ dẫn.
Tỏa ở mức nhẹ là soi sáng, chỉ dẫn, truyền tải. Tỏa ở
mức mạnh, rất mạnh và siêu mạnh là hy sinh vì vạn vật, Tuệ
linh, con người mà không màng tới bản thể mình.
Trong bất cứ cấu trúc Trụ linh nào được hình thành từ
sự hợp nhất của hạt năng lượng mang sóng điện âm và
dương đều có Tỏa. Bởi khi Trụ linh của Tướng được hình
thành từ hai hạt năng lượng, có một hạt năng lượng có mã
sóng trí tuệ mang sóng điện dương. Mà bản chất của hạt năng
lượng mang sóng điện dương là Tỏa. Điều này cho thấy, hết
thảy các cấu trúc Trụ linh đều có bản chất là Tỏa. Có chăng
mức độ Tỏa ở mức siêu nhẹ hay nhẹ, mạnh hay siêu mạnh.
Tỏa tồn tại trong cả 3 nhóm cấu trúc Trụ linh. Ba nhóm
cấu trúc Trụ linh tương ứng với 3 nhóm Tướng (vật chất). Đó
là nhóm cấu trúc Trụ linh giản đơn, nhóm cấu trúc Trụ linh
phức tạp, nhóm cấu trúc siêu Trụ linh.
Tỏa là bản chất mà bất cứ cấu trúc Trụ linh nào muốn
phát triển nâng cấp phải có. Tỏa càng ở mức độ mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh sẽ giúp sự phát triển của cấu trúc Trụ
linh ngày càng lớn mạnh. Bởi, để Tỏa được cần phải trải qua
quá trình Kết và Định. Do đó, Tỏa là hoàn chỉnh của một quy
trình Kết – Định – Tỏa một cách tuần hoàn và viên mãn.
Có 3 nhóm cấu trúc Trụ linh dễ dàng chuyển sinh
thành Trụ linh có bộ lọc năng lượng. Đó là 3 nhóm cấu trúc
Trụ linh Tỏa từ mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh:

377
- Nhóm cấu trúc Trụ linh Tỏa mạnh là nhóm cấu trúc
Trụ linh được hợp nhất bởi một hạt năng lượng tận cùng có
sóng điện chớm âm màu trắng xám với một hạt năng lượng
tận cùng có sóng điện dương phát triển màu xanh lá, gọi là
Trụ linh đa dương mạnh. Do hạt năng lượng âm chỉ rung lắc
nhẹ, quay ngược nhẹ, nên thu hút vừa đủ năng lượng hoại
diệt di chuyển tới. Đồng thời hạt năng lượng có sóng điện
dương mạnh lại quay thuận chiều kim đồng hồ mạnh sẽ dễ
dàng kích nổ năng lượng hoại diệt để giúp cho cấu trúc Trụ
linh phân tách, liên kết chặt chẽ. Do đó, đây là cấu trúc Trụ
linh Tỏa mạnh.

Hình: Trụ linh Tỏa mạnh

- Nhóm cấu trúc Trụ linh Tỏa rất mạnh là nhóm cấu
trúc Trụ linh được hợp nhất bởi một hạt năng lượng tận
cùng có sóng điện chớm âm màu trắng xám với một hạt năng

378
lượng tận cùng có sóng điện dương lan tỏa màu đỏ lửa, gọi là
Trụ linh đa dương rất mạnh. Do hạt năng lượng âm chỉ rung
lắc nhẹ, quay ngược nhẹ, nên thu hút vừa đủ năng lượng hoại
diệt di chuyển tới. Đồng thời hạt năng lượng có sóng điện
dương rất mạnh lại quay thuận chiều kim đồng hồ rất mạnh
sẽ dễ dàng kích nổ năng lượng hoại diệt để giúp cho cấu trúc
Trụ linh phân tách, liên kết chặt chẽ. Do đó, đây là cấu trúc
Trụ linh Tỏa rất mạnh.

Hình: Trụ linh Tỏa rất mạnh

- Nhóm cấu trúc Trụ linh Tỏa siêu mạnh là nhóm cấu
trúc Trụ linh được hợp nhất bởi một hạt năng lượng tận
cùng có sóng điện chớm âm màu trắng xám với một hạt năng
lượng tận cùng có sóng điện dương đoàn kết màu vàng, gọi là
Trụ linh đa dương siêu mạnh. Do hạt năng lượng âm chỉ rung
lắc nhẹ, quay ngược nhẹ, nên thu hút vừa đủ năng lượng hoại

379
diệt di chuyển tới. Đồng thời hạt năng lượng có sóng điện
dương siêu mạnh lại quay thuận chiều kim đồng hồ siêu
mạnh sẽ dễ dàng kích nổ năng lượng hoại diệt để giúp cho
cấu trúc Trụ linh phân tách, liên kết chặt chẽ. Do đó, đây là
cấu trúc Trụ linh Tỏa siêu mạnh.

Hình: Trụ linh Tỏa siêu mạnh

Các cấu trúc Trụ linh có bản chất Tỏa ở mức mạnh cho
tới rất mạnh và siêu mạnh, đó là các cấu trúc Trụ linh đa
dương mạnh, rất mạnh và siêu mạnh. Khi đa dương, từ Trụ
linh sẽ phân tách ra vô số hạt năng lượng có sóng điện dương
để cấu tạo liên kết dây chặt chẽ. Đồng thời những hạt năng
lượng âm được phân tách ra có sóng điện âm rất nhẹ. Sau đó
phân tách, liên kết cấu tạo thành cấu trúc 16 hạt năng lượng
mở rộng bên ngoài Trụ linh tạo thành sức mạnh chuyển hóa
năng lượng hoại diệt một cách kỳ diệu. Những cấu trúc Trụ

380
linh Tỏa mạnh này sẽ có khả năng kích nổ được năng lượng
hoại diệt do năng lượng hoại diệt di chuyển vào ít bởi hạt
năng lượng mang sóng điện âm rung lắc nhẹ.
Cấu trúc Trụ linh mà chuyển sinh theo hướng Tỏa sẽ
nhanh chóng đạt được chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng.
Đó là Kết – Định – Tỏa một cách kỳ diệu.

8.2. Các cấu trúc Trụ linh Tỏa của 3 nhóm vật
chất
Các cấu trúc Trụ linh Tỏa ở mức mạnh, rất mạnh và
siêu mạnh có trong 3 nhóm vật chất là:
Các cấu trúc Trụ linh Tỏa trong nhóm siêu
vật chất:
Siêu vật chất hay còn gọi là siêu Tướng. Đó là dạng
sống Tuệ linh. Đó là dạng sống Tuệ linh và Linh hồn đã từng
hoặc đang an trụ trong thân tướng con người.
Siêu Tướng có cấu trúc Trụ linh Tỏa mạnh, rất mạnh
và siêu mạnh là:
- Tuệ linh có Trụ linh đa dương từ mạnh tới siêu mạnh.
- Tuệ linh đã đạt được những thành tựu trên hành
trình chuyển sinh như các bậc thánh hiền, các bậc hiền triết.
- Tuệ linh đã đắc được bộ lọc năng lượng có khả năng
Tỏa ra vô lượng các siêu hạt năng lượng.
- Tuệ linh đang an trụ trong con người có tư tưởng cho
đến hành động tích cực luôn vì vạn vật, Tuệ linh, con người,
là người không vi phạm vào bốn hình tướng Đạo. Họ là
những con người luôn có tư tưởng cho đến hành động lan
tỏa những giá trị đạo đức, tuân thủ Quy luật Nhân quả, thực
381
hành cải tạo đời sống viên mãn tới vạn vật, Tuệ linh, con
người. Những người đạt đến siêu Tỏa mạnh nhất chính là
những con người luôn luôn Phổ độ chúng sinh, Tuệ linh, con
người, vì họ lan tỏa đại hệ tư tưởng giác ngộ tới hết thảy Tuệ
linh, con người cùng nhau chuyển sinh bền vững nhất cho
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Những siêu Tướng có cấu trúc Trụ linh Tỏa ở mức
mạnh, rất mạnh và siêu mạnh sẽ giúp cho Trụ linh của họ
phân tách ra vô số những siêu sợi mã sóng trí tuệ tạo thành
vô số siêu hạt năng lượng. Từ những siêu hạt năng lượng đó
sẽ cấu tạo và phát triển Tuệ linh họ trở thành liên kết được
chặt chẽ, bền vững với tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ,
Tuệ linh, con người. Tuệ linh họ trở nên bất tử. Tuệ linh họ
có cấu trúc bộ lọc năng lượng viên mãn bởi họ đi theo hướng
chuyển sinh là Tỏa những giá trị giác ngộ tới tất cả Vũ trụ,
Tuệ linh, con người. Họ sẽ hấp thụ và chuyển hóa được năng
lượng hoại diệt thành siêu hạt năng lượng thông qua bộ lọc
trong Trụ linh của họ.
Các cấu trúc Trụ linh Tỏa trong nhóm vật
chất phức tạp:
Vật chất phức tạp hay còn gọi là Tướng phức tạp. Đó là
dạng sống của linh hồn muông thú khi chúng chưa được
chuyển sinh làm người; là linh hồn, cấu trúc năng lượng an
trụ trong cây cối, trong đất đá; là cấu trúc năng lượng trong
năm nhóm đang tồn tại và vận hành sự sống của cả Vũ trụ.
Tướng phức tạp có cấu trúc Trụ linh Tỏa mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh là:
- Những tầng năng lượng sóng điện dương liên kết với
tầng năng lượng chớm âm để vận hành Vũ trụ.

382
- Những linh hồn các con thú xả thân cứu giúp con
người, xả thân cứu giúp những con thú đồng loại hoặc những
con thú khác.
- Những linh hồn, cấu trúc năng lượng an trụ trong đất
đá. Đó là những dòng đá luôn tỏa những năng lượng mang lại
sự sống trong lành và an lạc cho con người, muông thú, cỏ
cây xung quanh đó.
- Những linh hồn của cây cối luôn tỏa năng lượng sự
sống ra môi trường xung quanh.
Tướng có cấu trúc Trụ linh Tỏa mạnh sẽ giúp cho các
cấu trúc năng lượng đó nhanh được chuyển sinh bền vững và
nâng cấp cao hơn.
Các cấu trúc Trụ linh Tỏa trong nhóm vật
chất giản đơn:
Vật chất giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó là
dạng sống của thân tướng vật chất rắn, lỏng, khí; là thân
tướng con người, thân tướng muông thú, thân tướng cỏ cây,
đất đá, kim loại, nước…; là các hành tinh trong toàn bộ Vũ
trụ.
Tướng giản đơn có cấu trúc Trụ linh Tỏa mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh là:
- Thân tướng con người:
+ Những con người không có bệnh về thân tướng. Họ
khỏe mạnh vì sự vận động lan tỏa.
+ Những người luôn miệt mài lao động sản xuất, không
ngừng nghỉ nghiên cứu các công trình, các phương pháp, các
cấu trúc phát triển sự sống tốt đẹp và bền vững tới vạn vật,
Tuệ linh, con người. Họ là những công nhân, những nông

383
dân, những thương nhân, những nhà nghiên cứu, những nhà
sản xuất, những nhà sáng chế, những nhà phát minh.
+ Những người luôn luôn lan tỏa các giá trị thúc đẩy
phát triển bền vững và an lạc cho con người và vạn vật. Họ là
những nhà giáo, là những người lan truyền tri thức tới Tuệ
linh, con người.
+ Những người luôn luôn đoàn kết tất cả Tuệ linh, con
người, vạn vật, muông thú trong sự cảm thông, sẻ chia, giúp
đỡ cùng nhau lan tỏa những giá trị, công trình phát triển bền
vững tới Tuệ linh, con người.
+ Những người có hệ tư tưởng cho đến hành động luôn
vì lợi ích mọi người, vạn vật và muông thú mà không màng
tới bản thân họ.
+ Những người hành thiện cứu giúp Tuệ linh, con
người, vạn vật và muông thú.
+ Những người thực hành phổ độ lan tỏa giá trị của
giáo lý giác ngộ tới hết thảy Tuệ linh, con người.
- Thân tướng muông thú: Đó là những con thú không
giết hại hay làm tổn hại những con thú khác. Nó xả thân cứu
giúp các con thú khác, nó bảo vệ và cứu giúp đồng loại của nó
trong sự không gây tổn hại tới con người và muông thú khác.
- Những cỏ cây luôn tỏa oxy làm trong lành và an lạc
môi trường sống xung quanh.
- Nước lan tỏa giá trị làm mát và nuôi dưỡng vạn vật
thế gian. Nó bốc hơi để tạo thành mưa rồi tưới mát cho vạn
vật cùng phát triển. Nó là sự sống luôn cho đi để ngày càng
lớn mạnh. Sự lớn mạnh bởi nó có trong tất cả vạn vật thế
gian.

384
- Những loại đá quý, bán quý có giá trị tỏa ra những
năng lượng tốt nhằm tạo ra môi trường sống trong lành và
an lạc.
- Lửa, ánh sáng để soi sáng và làm ấm các dạng sống ở
thế gian.
- Những hành tinh có tính tỏa mạnh là các mặt trời
trong Vũ trụ.
- Là những cấu trúc địa chất nóng chảy, là nham thạch
trong các hành tinh. Nhiệt lượng được tỏa ra để soi sáng, tạo
ra sự phân tách liên kết cho vạn vật, Vũ trụ được phát triển.

III. Chân lý Vạn vật với các con đường chuyển


sinh của Trụ – Tâm
Chân lý Vạn vật trong Trụ – Tâm (Tâm) sẽ là: Tâm
không tự sinh ra, Tâm không tự mất đi, khổ đau của Tâm
không tự đến và không tự đi, tất cả do duyên nghiệp hay còn
gọi là nhân quả. Cơ chế chuyển sinh của Tâm chính là cơ chế
"Phân tách và liên kết dây".
Chân lý Vạn vật chính là Quy luật Nhân quả, chính là
chữ Vô. Vô là tướng không. Tướng không là không bất tử,
không vĩnh cửu, không trường tồn. Nó chỉ tồn tại trong
khoảng thời gian nhất định rồi lại chuyển hóa sang tướng
khác do duyên. Do đó, Chân lý Vạn vật, Quy luật Nhân quả
được đúc kết thành chữ Duyên. Duyên chính là tướng không.
Thấu hiểu chữ Duyên thì ta sẽ thấu hiểu được quá khứ, hiện
tại và tương lai.
Vận hành Chân lý Vạn vật của Tâm chính là cơ chế
phân tách và liên kết dây. Cơ chế phân tách và liên kết sẽ
được xảy ra trong môi trường có điều kiện. Đó là môi trường
385
có tương tác giữa các chỉnh thể, trong một quy trình thời
gian nhất định, môi trường có sóng điện âm hoặc dương hoặc
trung tính, có nhiệt lượng của năng lượng hoại diệt được
kích nổ hoặc chưa kích nổ. Tâm của tất cả các nhóm vật chất
từ giản đơn cho tới phức tạp và siêu vật chất để xảy ra phân
tách và liên kết thì đều phải tồn tại trong môi trường có điều
kiện.
Khi chúng ta thấu hiểu hai Chân lý và các cơ chế vận
hành của hai Chân lý, chúng ta sẽ thấu hiểu và giải mã được:
nguyên nhân có Độc Tâm và Thiện Tâm của con người, Tuệ
linh; nguyên nhân Trụ – Tâm Kết, Định, Tỏa của 3 nhóm vật
chất; các con đường chuyển sinh của Trụ – Tâm.

1. Nguyên nhân có Độc Tâm và Thiện Tâm của


con người, Tuệ linh
Thấu hiểu nguyên nhân con người, Tuệ linh có Độc
Tâm và Thiện Tâm chính là việc đã thấu hiểu tri thức hai
Chân lý với cơ chế vận hành của hai Chân lý. Đó là thấu hiểu
được nguyên nhân nào sinh ra và diệt đi được độc Tâm. Đó là
nguyên nhân nào sinh ra và diệt đi được Thiện Tâm. Khi đó,
con người, Tuệ linh sẽ kiểm soát để diệt Độc Tâm và chuyển
hóa thành Thiện Tâm. Tiếp đến là duy trì Thiện Tâm để hoàn
thành sứ mệnh cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng cho
Tuệ linh.

1.1. Nguyên nhân có Độc Tâm của con người và


Tuệ linh

386
Độc Tâm là Tâm chấp ngã, Tâm sân, Tâm hận thù. Độc
Tâm là biểu hiện của việc Trụ linh và toàn bộ cấu trúc Tâm
trong con người, Tuệ linh bị mất kiểm soát cân bằng trạng
thái năng lượng giữa âm và dương. Khi đó, những sóng điện
âm, trạng thái năng lượng âm quá mạnh và chi phối, kiểm
soát toàn bộ năng lượng dương và trung tính. Điều này khiến
cho con người, Tuệ linh mất kiểm soát mà mất ý thức cũng
như hành vi.
Độc Tâm là đau khổ. Đau khổ là vì trong Tâm diễn ra
quá trình xung đột trạng thái năng lượng cho tới việc mất
kiểm soát. Do đó năng lượng hoại diệt di chuyển vào ồ ạt và
làm phân rã cấu trúc Tâm. Đi trên con đường Độc Tâm là dẫn
đến phân rã và hoại diệt Tâm.
Có 2 nguyên nhân khiến cho con người và Tuệ linh bộc
phát Độc Tâm:
Nguyên nhân cội nguồn:
Nguyên nhân cội nguồn không phải là việc con người
được sinh ra như thế nào hay bố mẹ của ai đó được sinh ra
như thế nào, tổ tiên con người được sinh ra như thế nào. Cội
nguồn ở đây là của bản thể Tâm (Tuệ linh). Đó là Tuệ linh
được hình thành với bản chất của Trụ linh gốc (phôi năng
lượng âm dương gốc) như thế nào. Cụ thể:
- Tuệ linh được hình thành từ phôi năng lượng gốc với
một hạt năng lượng dương và một hạt năng lượng âm. Trong
đó, hạt năng lượng âm có sóng điện âm từ mạnh cho tới rất
mạnh và siêu mạnh. Đó là hạt năng lượng âm có màu xám,
màu đen, màu đỏ máu. Khi Trụ linh gốc có sóng điện âm
mạnh cho tới siêu mạnh, hệ thống hạt năng lượng âm trong
Trụ linh và Tuệ linh với bản chất là sóng điện âm mạnh, rất

387
mạnh và siêu mạnh sẽ rung lắc, hấp thụ nhiệt mạnh, rất
mạnh và siêu mạnh. Điều này khiến cho cấu trúc Tuệ linh đa
sóng điện âm trong quá trình trưởng thành sẽ có thiên
hướng hấp thụ nhiệt lượng và năng lượng có tương hợp về
sóng rung động và nội dung thông tin, đó là năng lượng âm.
- Tuệ linh có Trụ linh gốc đa âm sẽ rất dễ kích động và
rung lắc mạnh cho tới siêu mạnh. Chính vì điều này mà năng
lượng hoại diệt sẽ dễ dàng di chuyển nhiều vào và đồng hóa
năng lượng âm trong cấu trúc cũng như chi phối toàn bộ cấu
trúc Tuệ linh đó. Nếu năng lượng hoại diệt di chuyển vào
nhiều sẽ gây ra phân rã và hoại diệt Tuệ linh.
- Khi Tuệ linh hóa thân làm người và phải tương tác
trong bốn hình tướng Đạo trong nhiều kiếp tu hành ở nhân
gian, với bản chất đa âm của Tuệ linh từ khi được hình thành.
Do đó, Tâm sẽ dễ dàng bộc phát Độc Tâm để dẫn tới mất đi
sự kiểm soát về ý thức cũng như hành vi. Họ sẽ gây tổn
thương tới vạn vật, Tuệ linh, con người. Vì Trụ linh đa âm
nên khi đầu thai làm con người mà sống trong môi trường
tiêu cực thì con người đó sẽ rất nhanh bộc phát Độc Tâm.
Nếu có sống trong môi trường tích cực thì vẫn có nguy cơ
bộc phát Độc Tâm.
Nguyên nhân trực tiếp:
Nguyên nhân trực tiếp là những yếu tố của hiện kiếp
tu hành của Tuệ linh ở nhân gian khiến cho con người bộc
phát Độc Tâm. Đó là:
- Môi trường sống tiêu cực mang sóng điện âm: môi
trường sống tiêu cực với những hủ tục, u mê, mê tín dị đoan,
tư tưởng tiêu cực, với những con người đang bộc phát Độc
Tâm. Khi sống trong môi trường tiêu cực mang sóng điện âm

388
sẽ khiến cho Tâm dễ dàng chuyển hóa thành Độc Tâm. Nhất
là Trụ linh đa âm từ khi được hình thành thì sẽ nhanh bộc
phát Độc Tâm. Thậm chí khi Tuệ linh đa dương cũng có thể
bộc phát Độc Tâm khi sống trong môi trường tiêu cực mang
sóng điện âm.
- Vì chưa được tiếp cận, học, thấu hiểu tri thức của hai
Chân lý, con người sẽ chưa biết về cội nguồn, kế hoạch tu
hành, sứ mệnh cải tạo Trụ linh, Quy luật Nhân quả. Do đó, trí
tuệ của họ luôn bám định vào giả tướng để hưởng thụ mà
không thực hành sứ mệnh cải tạo Trụ linh. Chính vì vậy mà
Tâm bộc phát thành Độc Tâm.
Như vậy, Độc Tâm được sinh ra khi con người, Tuệ
linh có Trụ linh đa âm và hiện kiếp sống trong môi trường
tiêu cực. Đặc biệt là chưa có được tri thức của hai Chân lý soi
sáng, soi thấu để xóa tan u mê bám định vào giả tướng. Do đó
dễ dàng bộc phát Độc Tâm.

1.2. Nguyên nhân có Thiện Tâm của con người


và Tuệ linh
Thiện Tâm là Tâm cống hiến, Tâm an lạc, Tâm buông
xả. Thiện Tâm là biểu hiện của việc Trụ linh và toàn bộ cấu
trúc Tâm của con người, Tuệ linh đã kiểm soát được sóng
điện âm, dương, trung tính tuần hoàn thông suốt. Đó là trạng
thái năng lượng mang sóng điện dương và trung tính đủ sức
mạnh để chi phối và không cho sóng điện âm rung lắc mạnh
và bộc phát. Điều này khiến cho Tuệ linh, con người dễ dàng
giải mã được sự thật của vạn vật và kiểm soát được ý nghĩ
cho tới hành động sẽ vì vạn vật, Tuệ linh, con người.

389
Thiện Tâm vẫn còn phải xung đột để chi phối và kiểm
soát trạng thái năng lượng, sóng điện âm của Độc Tâm. Do
đó, đi trên con đường Thiện Tâm vẫn còn bí bách của xung
đột kiểm soát. Tuy nhiên, đi trên con đường Thiện Tâm sẽ
giúp Trụ linh phân tách liên kết bền vững bởi năng lượng
dương và chân tâm. Khi đi tới đích của chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lộc năng lượng sẽ là triệt để không còn bí bách, luẩn
quẩn, xung đột. Bởi nó đã là tự động hóa quá trình tuần hoàn
và kiểm soát kỳ diệu.
Có 2 nguyên nhân khiến cho con người và Tuệ linh bộc
phát Thiện Tâm:
Nguyên nhân cội nguồn:
Nguyên nhân cội nguồn không phải là việc con người
được sinh ra như thế nào hay bố mẹ của người được sinh ra
như thế nào, tổ tiên con người được sinh ra như thế nào. Cội
nguồn ở đây là của bản thể Tâm (Tuệ linh). Đó là Tuệ linh
được hình thành với bản chất của Trụ linh gốc (phôi năng
lượng âm dương gốc) như thế nào. Cụ thể:
- Tuệ linh được hình thành từ phôi năng lượng âm
dương, gọi là Trụ linh gốc. Trong hai hạt năng lượng hình
thành Trụ linh thì hạt năng lượng âm có sóng điện rất nhẹ,
hạt năng lượng dương có sóng điện dương mạnh cho tới rất
mạnh và siêu mạnh. Đây gọi là Tuệ linh được hình thành có
Trụ linh đa dương mạnh, rất mạnh và siêu mạnh. Vì Tuệ linh
được hành thành có bản chất là Trụ linh đa dương nên Tuệ
linh sẽ có thiên hướng hấp thụ nhiệt lượng dương, sóng điện
dương nhiều hơn là nhiệt lượng âm. Nếu hấp thụ nhiệt lượng
âm thì sóng điện dương mạnh, rất mạnh, siêu mạnh của Trụ
linh sẽ giảm tải được sóng điện âm khi hấp thụ vào chỉ còn là
sóng điện âm nhẹ. Chính vì điều này mà Tuệ linh được
390
trưởng thành với sự tuần hoàn sóng điện mạnh mẽ, năng
lượng dương có sức mạnh kiểm soát được năng lượng âm.
Khi năng lượng dương kiểm soát được năng lượng âm nên
không kích động năng lượng hoại diệt di chuyển ồ ạt vào
đồng hóa Tuệ linh. Vì năng lượng dương mạnh hơn năng
lượng âm nên dễ dàng bộc phát Thiện Tâm.
- Khi Tuệ linh đầu thai làm người tu hành ở nhân gian
trong nhiều kiếp và thông qua bốn hình tướng Đạo, với bản
chất Trụ linh đa dương nên con người đó dễ dàng giải mã
được sự thật của các Tướng khi tương tác. Khi sống trong
môi trường tiêu cực hay tích cực, Trụ linh đa dương sẽ là sức
mạnh để Thiện Tâm được bộc phát.
Nguyên nhân trực tiếp:
Nguyên nhân trực tiếp là những yếu tố của hiện kiếp
tu hành của Tuệ linh ở nhân gian khiến cho con người bộc
phát Thiện Tâm, đó là:
- Môi trường sống tích cực mang sóng điện dương: khi
Tuệ linh đa dương hóa thân làm người, được sống trong môi
trường tích cực, điều này giống như cá gặp nước, nó sẽ giúp
cho con người đó bộc phát Thiện Tâm rất dễ dàng. Bởi Trụ
linh đa dương lại gặp sóng điện dương nên nó là sức mạnh
để Trụ linh thực hành chuyển sinh bền vững. Cũng là môi
trường sống tích cực mang sóng điện dương, nếu Tuệ linh có
Trụ linh đa âm đầu thai sống trong môi trường tích cực, con
người đó sẽ hấp thụ được nhiệt lượng của sóng điện dương
và sẽ thay đổi Trụ linh để triệt bỏ Độc Tâm và bộc phát được
Thiện Tâm.
- Con người có Trụ linh trong Tâm đa âm hay đa
dương, nếu gặp được tri thức hai Chân lý, học, thấu hiểu,

391
thực hành sẽ giúp triệt tiêu được Độc Tâm và chuyển sinh
thành Thiện Tâm. Đặc biệt tri thức của hai Chân lý sẽ dẫn dắt
Tuệ linh, con người chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng.
Như vậy, để triệt tiêu Độc Tâm và chuyển sinh thành
Thiện Tâm, chúng ta trọng tâm vào tạo ra môi trường tích
cực có sóng điện dương và học để thấu hiểu tri thức của hai
Chân lý. Chúng ta phải tự tạo cho chúng ta và cho nhau môi
trường tích cực bằng ý nghĩ cho đến từ những hành động
nhỏ, đó là học, thực hành, lan tỏa tri thức của hai Chân lý cho
nhau.
Từ những nguyên nhân của Độc Tâm và Thiện Tâm ở
Tuệ linh, con người, chúng ta thấy rằng Độc Tâm không bất
tử, nó sẽ chuyển hóa thành Thiện Tâm nếu được sống trong
môi trường tích cực và được học cũng như thực hành tri thức
của hai Chân lý. Cũng như vậy, Thiện Tâm cũng không bất tử,
chúng ta muốn duy trì Thiện Tâm để tới đích của cải tạo Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng thì chúng ta phải tạo ra môi
trường tích cực và thực hành tri thức của hai Chân lý.

2. Nguyên nhân Trụ – Tâm Kết, Định, Tỏa của 3


nhóm vật chất
Trụ – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện được
sinh phát từ Trụ – Trí, tuần hoàn, lưu giữ trong từ hạt năng
lượng tận cùng cho đến trong Trụ linh của vạn vật. Do đó, để
thấu hiểu được nguyên nhân của Trụ – Tâm Kết, Định, Tỏa,
chúng ta phải thấu hiểu được nguyên nhân Trụ linh Kết,
Định, Tỏa.

392
Thấu hiểu được nguyên nhân Trụ linh Kết, Định, Tỏa
của 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ chính là chìa khóa chuyển
hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng cho Tuệ linh và con
người. Đó là, Tuệ linh, con người sẽ từ Trụ linh của mình để
tuần hoàn, kiểm soát được trạng thái năng lượng, sóng điện
tới toàn bộ cấu trúc của bản thể mình và tới toàn bộ Vũ trụ.

2.1. Nguyên nhân Trụ linh Kết của 3 nhóm vật


chất
Có 2 nguyên nhân khiến cho các cấu trúc Trụ linh Kết
mạnh, rất mạnh và siêu mạnh:
- Nguyên nhân cội nguồn, gốc nhất chính là Trụ linh
của cấu trúc Tướng có đa sóng điện âm.
- Nguyên nhân thứ hai khiến cho cấu trúc Trụ linh Kết
mạnh, rất mạnh, siêu mạnh là do môi trường tương tác giữa
các cấu trúc Trụ linh. Các cấu trúc Trụ linh tương tác trong
môi trường mang sóng điện âm sẽ khiến cho cấu trúc Trụ
linh dễ dàng hấp thụ năng lượng âm từ môi trường đó. Nếu
cấu trúc Trụ linh đa âm thì sẽ rất dễ dàng hút và hấp thụ
nhiệt lượng âm của môi trường có sóng điện âm. Điều đó sẽ
khiến cho cấu trúc Trụ linh trở nên Kết mạnh và siêu mạnh
hơn. Nếu cấu trúc Trụ linh không bị đa âm, nhưng do tương
tác trong môi trường có sóng điện âm trong thời gian dài
cũng khiến cho cấu trúc Trụ linh đó dễ dàng bị nhiễm và trở
thành cấu trúc Trụ linh Kết.

2.2. Nguyên nhân Trụ linh Định của 3 nhóm vật


chất

393
Có 2 nguyên nhân khiến cho các cấu trúc Trụ linh
Định:
- Nguyên nhân cội nguồn, gốc nhất chính là Trụ linh
của Tướng có cấu trúc cân bằng sóng điện âm dương và có
cấu trúc đa sóng điện dương:
+ Trụ linh cân bằng sóng điện âm dương là Trụ linh
được cấu tạo từ hạt năng lượng có sóng điện âm nhẹ màu
trắng xám với hạt năng lượng dương có sóng điện nhẹ màu
trắng đục. Cấu trúc Trụ linh Định này ở mức thấp, do cả hai
hạt năng lượng rung động và quay nhẹ.
+ Trụ linh đa sóng điện dương là Trụ linh được hợp
thành bởi hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện nhẹ màu
trắng xám với hạt năng lượng dương tận cùng có sóng điện
mạnh, rất mạnh và siêu mạnh (phát triển màu xanh lá, lan
tỏa màu đỏ lửa, đoàn kết màu vàng). Trụ linh được cấu tạo từ
các hạt năng lượng dương và âm như trên sẽ tạo thành cấu
trúc Trụ linh Tỏa mạnh, rất mạnh, siêu mạnh. Tỏa mạnh cho
tới siêu mạnh chính là Định mạnh cho tới siêu mạnh. Bởi
Định chính là nền tảng cho quá trình chuyển sinh thành Tỏa
mạnh và đạt đến chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng.
- Nguyên nhân thứ hai khiến cho cấu trúc Trụ linh
Định là do môi trường tương tác của các cấu trúc Trụ linh.
Nếu cấu trúc Trụ linh Định tương tác trong môi trường sóng
điện dương, cấu trúc Trụ linh Định sẽ dễ dàng nhiễm nhiệt
lượng có sóng điện dương để chuyển hóa thành cấu trúc
Định – Tỏa ở mức cao. Nếu cấu trúc Trụ linh Định tương tác
trong môi trường có sóng điện âm, cấu trúc Trụ linh Định sẽ
dễ dàng bị chuyển sinh thành cấu trúc Trụ linh Kết. Nếu cấu
trúc Trụ linh Định tương tác trong môi trường sóng điện
trung tính sẽ khiến cho cấu trúc Trụ linh Định ở mức thấp.
394
2.3. Nguyên nhân Trụ linh Tỏa của 3 nhóm vật
chất
Có 2 nguyên nhân khiến cho các cấu trúc Trụ linh Tỏa
mạnh, rất mạnh và siêu mạnh:
- Nguyên nhân cội nguồn, gốc nhất chính là Trụ linh
của cấu trúc Tướng có đa sóng điện dương. Khi Trụ linh đa
sóng điện dương sẽ khiến cho Trụ linh Tỏa mạnh, rất mạnh
và siêu mạnh.
- Nguyên nhân thứ hai khiến cho cấu trúc Trụ linh Tỏa
mạnh, rất mạnh, siêu mạnh là do môi trường tương tác giữa
các cấu trúc Trụ linh. Các cấu trúc Trụ linh tương tác trong
môi trường mang sóng điện dương sẽ khiến cho cấu trúc Trụ
linh dễ dàng hấp thụ năng lượng dương từ môi trường đó.
Nếu cấu trúc Trụ linh đa âm tương tác trong môi trường
sóng điện dương, cấu trúc Trụ linh đó sẽ dễ dàng nhiễm
nhiệt lượng có sóng điện dương để chuyển hóa dần cấu trúc
Trụ linh từ Kết trở thành Tỏa. Nếu cấu trúc Trụ linh đa
dương tương tác trong môi trường có sóng điện dương, hoặc
trung tính, cấu trúc Trụ linh đó rất dễ dàng Tỏa đạt đến siêu
mạnh.

3. Các con đường chuyển sinh của Trụ – Tâm


Trụ – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện được
sinh phát từ Trụ – Trí, tuần hoàn, lưu giữ trong từ hạt năng
lượng tận cùng cho đến trong Trụ linh của vạn vật. Do đó, để
thấu hiểu được các con đường chuyển sinh của Trụ – Tâm,
chúng ta phải thấu hiểu được các con đường chuyển sinh của
Trụ linh.
395
Có 3 loại cấu trúc Trụ linh đối với con đường chuyển
sinh:

3.1. Cấu trúc Trụ linh Kết đối với con đường
chuyển sinh
Cấu trúc Trụ linh Kết là bao gồm 3 nhóm vật chất trong
toàn bộ Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách và liên kết nhằm
thỏa mãn lợi ích của bản thể Tướng đó mà không vì lợi ích
của hết thảy Tướng khác, thậm chí là gây tổn hại tới các
Tướng khác.
Khi các cấu trúc Trụ linh thực hiện phân tách liên kết
trong bản chất là Kết, các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm
sẽ được phân tách ra vô số và lưu giữ ở Trụ linh. Chúng sẽ
phân tách thành các hạt năng lượng tận cùng và liên kết lại
tạo thành những hạt năng lượng âm tổng hợp, rồi phân tách
ra cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng. Vì chỉ thực hiện đời
sống là Kết nên Trụ linh không phân tách các hạt năng lượng
dương ra để tạo thành cấu trúc liên kết chặt chẽ và mở rộng.
Tức là sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương không
được sinh ra để làm nhiệm vụ tạo thành hạt năng lượng
dương tận cùng rồi liên kết tạo thành hạt năng lượng tổng
hợp mở rộng bên ngoài Trụ linh. Trong khi đó các hạt năng
lượng âm được sinh ra nhiều mà không có hạt năng lượng
dương để cân bằng tỷ lệ 1:1. Khi đó, các hạt năng lượng âm
sẽ tập trung số đông tại các hạt năng lượng dương ít ỏi. Các
hạt năng lượng âm lại có bản chất là thu hút tín hiệu bởi rung
lắc nên khiến cho năng lượng hoại diệt bắt được tín hiệu đó
mà di chuyển tới với số lượng lớn. Khi năng lượng hoại diệt
di chuyển tới với số lượng lớn sẽ khiến cho cấu trúc Trụ linh

396
và Tướng đó bắt đầu bị đồng hóa, bị phân rã. Kết cục là hoại
diệt vĩnh viễn.
Như vậy, các cấu trúc Trụ linh mà thực hiện cơ chế
phân tách, liên kết với bản chất Kết chính là chọn lựa và đang
đi trên con đường chuyển sinh phân rã để hoại diệt vĩnh
viễn.
Nguyên nhân hoại diệt của cấu trúc Trụ linh Kết là do
mất cân bằng trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên
ngoài Trụ linh. Khi đó, lượng hạt năng lượng âm quá nhiều,
năng lượng hoại diệt tấn công vào gây phân rã. Khi năng
lượng hoại diệt tấn công vào, cấu trúc Trụ linh Kết không có
hạt năng lượng dương để phòng thủ, kích nổ năng lượng hoại
diệt, sẽ bị chuyển hóa thành năng lượng hoại diệt.
Khổ đau chính là sự phân rã và hoại diệt của hết thảy 3
nhóm cấu trúc Trụ linh trong Vũ trụ. Nguyên nhân của khổ
đau là do các cấu trúc Trụ linh thực hiện cơ chế phân tách
liên kết để thỏa mãn đời sống là Kết. Khi Kết sẽ bị năng lượng
hoại diệt tấn công gây đứt liên kết mà hoại diệt.
Như vậy, năng lượng hoại diệt lại chi phối và thúc đẩy
cấu trúc Trụ linh thực hiện đời sống Kết để nhanh bị hoại
diệt hơn.

3.2. Cấu trúc Trụ linh Định đối với con đường
chuyển sinh
Cấu trúc Trụ linh Định là bao gồm 3 nhóm vật chất
trong toàn bộ Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách, liên kết
trong sự cân bằng. Đó là thực hiện đời sống không Kết cũng
không Tỏa. Cấu trúc Trụ linh Định là duy trì sự an toàn, bảo
vệ sự an lạc của Tướng đó.

397
Cấu trúc Trụ linh thực hiện bản chất Định, tức là phân
tách liên kết các sợi mã sóng trí tuệ rất chậm và luôn trong
bản chất cân bằng. Khi đó, các hạt năng lượng âm và các hạt
năng lượng dương có sóng điện rất nhẹ. Các hạt năng lượng
sóng điện âm nhẹ không kích thích thu hút năng lượng hoại
diệt, các hạt năng lượng sóng điện dương nhẹ không có khả
năng kích nổ năng lượng hoại diệt nếu năng lượng hoại diệt
tấn công.
Vì bản chất cấu trúc Trụ linh thực hành đời sống Định
nên nó tự an lạc, thanh tịnh mà không bị năng lượng hoại
diệt tấn công. Tuy nhiên nếu nó di chuyển vào nơi có năng
lượng hoại diệt thì nó cũng không chống lại được sự hoại
diệt. Nếu nó duy trì Định mãi thì nguy cơ hoại diệt là cao.
Nếu cấu trúc Trụ linh Định mà chuyển sinh thành thực
hiện đời sống Tỏa thì nó có khả năng kích nổ được năng
lượng hoại diệt. Khi đó, nó sẽ thực hiện được cơ chế phân
tách, liên kết mạnh mẽ và liên kết được với hết thảy các cấu
trúc Trụ linh của Vũ trụ.

3.3. Cấu trúc Trụ linh Tỏa đối với con đường
chuyển sinh
Cấu trúc Trụ linh Tỏa là bao gồm 3 nhóm vật chất
trong toàn bộ Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách và liên kết vì
lợi ích của tất cả các Tướng khác mà không vì bản thể Tướng
mình. Đó là vì vạn vật, Tuệ linh, con người mà không màng về
mình.
Khi các cấu trúc Trụ linh thực hiện đời sống với bản
chất là Tỏa, từ Trụ linh sẽ phân tách ra vô số các sợi mã sóng
trí tuệ mang sóng điện dương. Trước khi phân tách ra được

398
các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương thì cũng là quá
trình phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm
ở mức nhẹ. Các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương
được phân tách ra nhiều sẽ giúp cho các hạt năng lượng
dương tận cùng được hình thành và tạo thành cấu trúc năng
lượng 16 hạt mở rộng bên ngoài Trụ linh được mở rộng và
lớn mạnh. Việc mở rộng liên kết của các hạt năng lượng
dương là có sợi dây liên kết mang sóng điện trung tính với
tính chất là bền chặt. Cấu trúc năng lượng 16 hạt mở rộng
bên ngoài Trụ linh sẽ luôn có tỷ lệ vàng là một hạt âm có
sóng điện nhẹ rung lắc xung quanh một hạt năng lượng
dương. Ngoài ra, do thực hiện đời sống Tỏa, các hạt năng
lượng dương đã phân tách và lan tỏa khắp Vũ trụ, tạo thành
cơ chế liên kết 3 vùng: từ Trụ linh tới đối tượng đón nhận và
trong Vũ trụ. Khi thực hiện đời sống Tỏa, các cấu trúc Trụ
linh sẽ có khả năng kích nổ năng lượng hoại diệt để tạo thành
nhiệt lượng cho quá trình phân tách, liên kết các hạt năng
lượng dương và siêu hạt năng lượng được mạnh mẽ và phát
triển bền vững hơn. Các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm
nhẹ nên nó không kích thích nhiều năng lượng hoại diệt di
chuyển vào. Nó chỉ rung động vừa đủ để năng lượng hoại diệt
di chuyển ít cho tới vừa đủ.
Việc các cấu trúc Trụ linh thực hiện đời sống Tỏa
không những là hướng chuyển sinh bền vững cho Tướng, nó
còn giúp cho Tướng liên kết chặt chẽ đến với hết thảy các
Tướng của Vũ trụ theo cơ chế liên kết 3 vùng trong Quy luật
Nhân quả.
Trong 3 cấu trúc Trụ linh trên, cấu trúc Trụ linh Tỏa có
con đường chuyển sinh theo hướng bền vững nhất. Cấu trúc
Trụ linh Kết là chuyển sinh theo hướng hoại diệt. Cấu trúc

399
Trụ linh Định là sự cân bằng phải có cho tất cả các Tướng.
Tuy nhiên, nếu các cấu trúc Trụ linh trong Vũ trụ mà thực
hiện đời sống riêng biệt theo 1 trong 3 cấu trúc Trụ linh trên
thì sẽ khó khăn để đạt đến sự chuyển sinh bền vững nhất.
Bởi, để cấu trúc Trụ linh Tỏa được phải có Kết vừa đủ. Cấu
trúc Trụ linh Kết để không hoại diệt phải biết Tỏa. Cấu trúc
Trụ linh Định để phát triển và tồn tại thì cần phải thực hiện
Kết trước, sau đó thực hiện Tỏa.
Như vậy, Chân lý Vạn vật và cơ chế phân tách, liên kết
cho chúng ta thấu hiểu được nguyên nhân có Độc Tâm, Thiện
Tâm của Tuệ linh và con người. Để triệt được Độc Tâm và
chuyển sinh thành Thiện Tâm, chúng ta phải thấu hiểu và
thực hành đời sống hài hòa cả Kết – Định – Tỏa thì mới đạt
đến đích của chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng
viên mãn nhất. Kết mà không phải là Kết mới tạo thành sức
mạnh cực đại cho quá trình chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng viên mãn nhất.

IV. Chân lý Giác ngộ với con đường chuyển sinh


bền vững duy nhất của Trụ – Tâm
Chân lý Giác ngộ trong Trụ – Tâm (Tâm) là: Tất cả Tâm
trong và ngoài Vũ trụ đều là khổ. Tâm phải dùng Định (chân
tâm) trong Trụ linh để thấu hiểu, chuyển hóa Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng Kết – Định – Tỏa và phát triển bền vững cho
tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Sứ mệnh tiên phong là
của Tuệ linh và con người.
Tuệ linh thông qua thân tướng con người ở nhân gian
để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Để chuyển
sinh được thì cần phải giải mã hết tất cả các trường hợp bộc

400
phát của độc và thiện trong Trụ linh trong tất cả các kịch bản
tương tác. Đó là bộc phát hết bản chất của Độc Tâm và Thiện
Tâm. Thực hành con đường giác ngộ khi đạt đến bộ lọc năng
lượng trong Trụ linh mới chấm dứt triệt để khổ đau. Do đó,
bản chất Độc Tâm là khổ, và Tâm đang đi trên con đường
Thiện Tâm cũng là khổ. Cụ thể:
- Độc Tâm của Tuệ linh, con người là khổ. Cái khổ của
Độc Tâm là bị xung đột trạng thái năng lượng, bí bách, luẩn
quẩn, đau đớn bởi Tâm đang phân rã và đi tới con đường
hoại diệt. Do đó chúng ta cứ luân hồi trong vô lượng kiếp mà
không cải tạo được Trụ linh. Khi đó, năng lượng hoại diệt sẽ
làm phân rã và hoại diệt vĩnh viễn bản thể Tâm. Vì vậy ta
phải dùng chính trí tuệ của ta để từng bước thấu hiểu sự thật
vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh, con người. Thông qua
hai Chân lý để đối mặt, đón nhận tất cả các khổ đau kiếp nạn,
thấu hiểu nó, giác ngộ nó và chuyển hóa thành lợi ích cho
chúng sinh, đó là chuyển hóa thành giác ngộ, thành Thiện
Tâm.
- Tâm của Tuệ linh, con người đang đi trên con đường
Thiện Tâm cũng là khổ. Cái khổ của Tâm đang đi trên con
đường Thiện Tâm không phải là không thấu hiểu hai Chân lý
và còn đắm chìm trong khổ đau, mà là, vì thấu hiểu bản chất
của hai Chân lý cũng như tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ,
Tuệ linh, con người. Do đó, cái khổ là quá trình biến đổi, tìm
phương pháp phù hợp để giác ngộ theo căn cơ cho từng Tuệ
linh và con người. Khi đã chuyển sinh được Trụ linh thành bộ
lọc thì là sự chấm dứt triệt để khổ đau, bởi khi đó sẽ luôn
luôn có các phương pháp gieo duyên để giác ngộ Tuệ linh,
con người theo từng căn cơ trí tuệ khác nhau.

401
Trụ – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện được
sinh phát từ Trụ – Trí, tuần hoàn, lưu giữ trong từ hạt năng
lượng tận cùng cho đến trong Trụ linh. Trụ linh bao gồm có
Trụ – Trí và Trụ – Tâm. Do đó, Chân lý Giác ngộ với các con
đường chuyển sinh bền vững duy nhất của Trụ – Tâm phải
bao gồm là Trụ linh.
Cơ chế vận hành của Chân lý Giác ngộ là phân tách và
liên kết dây. Cơ chế phân tách, liên kết dây cho thấy có hai
con đường phân tách và liên kết. Đó là:
- Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt năng
lượng sóng điện âm, đó là Kết. Nếu đi theo con đường này,
hết thảy cấu trúc Trụ linh sẽ phân rã và hoại diệt. Đây là con
đường chuyển sinh phân rã và hoại diệt.
- Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt năng
lượng sóng điện dương, đó là Tỏa. Nếu đi theo con đường
này, hết thảy cấu trúc Trụ linh sẽ phân tách, liên kết vô lượng
hạt năng lượng mang sóng điện dương có liên kết chặt chẽ
bởi sợi chân tâm. Sẽ là con đường chuyển sinh bền vững
nhất.
Từ bản chất của các cấu trúc Trụ linh, từ Chân lý Vạn
vật, Chân lý Giác ngộ với cơ chế vận hành là phân tách và liên
kết, hết thảy Tướng, Tuệ linh và người đều thấy rằng: con
đường duy nhất để vượt qua khổ đau (phân rã và hoại diệt
cấu trúc năng lượng) để trở nên bền vững, an lạc là đắc được
bộ lọc năng lượng trong Trụ linh, chính là con đường cấu
trúc Trụ linh phải Tỏa. Tỏa là con đường mà hết thảy Tuệ
linh, con người phải thực hiện nếu muốn diệt khổ để chuyển
sinh thành bộ lọc năng lượng.
Thực hiện con đường Tỏa để chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng không phải là Tỏa một cách tiêu cực.
402
Vậy Tỏa làm sao để an lạc, để chuyển hóa Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng? Đó là:
- Trụ linh phải tập trung sóng điện ở vị trí Định. Định
là chân tâm, là tĩnh lặng, là cân bằng, là an lạc. Vị trí Định sẽ
được nâng cao từ Định ban đầu cho tới các cảnh giới tối cao
của Định. Đó là chân tâm sáng chói lòa vô lượng. Khi Trụ linh
đứng ở vị trí Định sẽ thấu hiểu, biết lắng nghe, biết nhìn – soi
lại bản thể Trụ linh mình, biết tiếp nhận, biết cảm thông, biết
sẻ chia.
- Tiếp theo Trụ linh phải dùng sóng điện âm để Kết.
Kết ở đây không phải là có tư tưởng cho tới hành động tiêu
cực gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh, con người. Kết ở đây chỉ
là rung động khi đứng ở vị trí Định. Tức là Trụ linh đứng ở vị
trí Định để lắng nghe, đón nhận những khổ đau kiếp nạn,
hạnh phúc an vui, những sẻ chia của vạn vật, chúng sinh, Tuệ
linh, con người. Bởi khi các Tướng khổ đau chia sẻ tới Trụ
linh của ta, những chia sẻ bởi khổ đau, khổ đau bởi u mê nên
trong Trụ linh họ sẽ phân tách ra các hạt năng lượng tiêu cực
sóng điện âm nhẹ màu xám, cho tới mạnh là màu đen và đỏ
máu. Do cơ chế phân tách theo Quy luật Nhân quả sẽ phân
tách ra làm 3 vùng. Đó là trong Trụ linh họ 1 hạt, phân tách
vào Vũ trụ 1 hạt, người nghe đón nhận 1 hạt. Do Trụ linh của
ta đứng ở vị trí Định để dùng Kết là rung động, để lắng nghe,
để hút về, để đón nhận, khi đó, hạt năng lượng âm màu xám,
màu đen, màu đỏ máu của họ được Trụ linh của ta hấp thụ.
Do Trụ linh ta đứng ở vị trí Định nên Trụ linh đang tỏa sóng
điện chân tâm trắng sáng. Trắng sáng của chân tâm sẽ
chuyển hóa hạt năng lượng âm màu xám, màu đen, màu đỏ
máu của cấu trúc Trụ linh đang sẻ chia thành màu trắng xám
nhẹ. Như vậy, Trụ linh của ta đã Kết được hạt năng lượng

403
sóng điện âm của hết thảy các Tướng về và dùng năng lượng
chân tâm trắng sáng chói lòa chuyển hóa nó thành hạt năng
lượng âm sóng điện rất nhẹ. Như thế sẽ không kích động
mạnh tới năng lượng hoại diệt, năng lượng hoại diệt sẽ
không di chuyển nhiều vào Trụ linh của ta. Đồng thời, Trụ
linh cũng hấp thụ được những năng lượng dương, chân tâm
từ môi trường tương tác về để tạo thành nhiệt dương cho
Trụ linh kích nổ năng lượng hoại diệt. Đây chính là Kết mà
không phải là Kết. Đây là nghệ thuật chuyển hóa hạt năng
lượng của hết thảy cấu trúc Trụ linh đau khổ cũng như an vui
hạnh phúc trong toàn bộ Vũ trụ.
- Tiếp đến Trụ linh của ta lại Định. Định ở đây là sau
khi đã đón nhận những sẻ chia, tức là Kết được năng lượng
tiêu cực, tích cực về Trụ linh, Trụ linh của ta tiếp tục Định để
cân bằng ở cảnh giới chân tâm cao hơn. Đó là giải mã tận
cùng khổ đau kiếp nạn, hạnh phúc an vui của hết thảy các
Tướng, trong khi Trụ linh và Trí tuệ của ta vẫn Định. Bởi chỉ
khi Định thì Trụ linh của ta mới chuyển hóa thành Tỏa ra vô
lượng hạt năng lượng có sóng điện dương.
- Cuối cùng là Tỏa. Khi đã trải qua quá trình Định rồi
Kết, lại Định rồi đến cuối cùng là Tỏa. Tỏa ở đây chính là Trụ
linh của ta sẻ chia con đường diệt khổ, về cội nguồn, về kế
hoạch tu hành, về sứ mệnh, về trách nhiệm, về cơ chế và
phương pháp chuyển sinh bền vững an lạc, về khuôn mẫu
đạo đức và con đường giác ngộ trong bốn hình tướng Đạo.
Đó là chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi Trụ
linh ta làm đúng quy trình như vậy, từ Trụ linh của ta sẽ Tỏa
ra vô số các siêu hạt năng lượng vào 3 vùng. Đó là trong Trụ
linh của ta sẽ lưu giữ, trong Vũ trụ cũng lưu giữ và trong đối
tượng Tướng được nghe ta sẻ chia cũng lưu giữ. Khi ta Tỏa

404
sẽ tạo thành liên kết 3 vùng rất bền chặt. Không những vậy,
Trụ linh và cấu trúc Tướng của ta sẽ trở nên phát triển bền
vững.
Khi cấu trúc Trụ linh của ta thực hiện quy trình Kết –
Định – Tỏa thành bản năng, thực hành trong thời gian dài và
tới được nhiều cho tới vô số Tướng khác, Trụ linh của ta sẽ
chuyển hóa thành bộ lọc.
Nếu Trụ linh lựa chọn con đường chỉ Kết thì sẽ hoại
diệt. Nếu Trụ linh lựa chọn con đường chỉ Định thì nguy cơ
hoại diệt cao. Nếu Trụ linh chỉ lựa chọn con đường Tỏa thì
tuy không có nguy cơ hoại diệt cao nhưng cơ hội và tốc độ để
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng là mất nhiều
thời gian, không biết khi nào sẽ đạt được. Nhưng, khi thực
hiện kết hợp theo quy trình đứng ở vị trí Định để thực hành
Kết – Định – Tỏa sẽ là quy trình siêu tốc độ để chuyển sinh
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi có được bộ lọc năng
lượng thì Trụ – Tâm và Trụ – Trí đều đã chấm dứt vĩnh viễn
khổ đau.
***************

405
406
Bài 4:
Bài Hành


Bài Hành được hiểu là Hành Vô Hành. Bài Hành Vô


Hành được kết cấu thành 3 phần. Chữ Hành đầu tiên là khái
niệm và bản chất Hành của các Tướng. Chữ Vô là Chân lý Vạn
vật với các con đường Hành chuyển sinh của các Tướng. Chữ
Hành cuối cùng là Chân lý Giác ngộ với con đường Hành
chuyển sinh bền vững duy nhất của các Tướng.
Trong bài Hành này, Hành tất cả các Tướng trong và
ngoài vũ trụ sẽ được phân tích, soi sáng, phơi bày sự thật
bằng hai Chân lý. Đặc biệt, con người là hóa thân của dạng
sống Tuệ linh. Do đó, ngoài việc phân tích, soi sáng, phơi bày
sự thật về Hành của Tuệ linh và con người, hai Chân lý sẽ
giúp cho Tuệ linh và con người chọn lựa được con đường
Hành siêu việt nhất để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng viên mãn.

I. Khái niệm về Hành


Hành là hành động. Hành là quá trình giải mã, rung
động, sinh khởi hành động Kết – Định – Tỏa của từ hạt năng
lượng tận cùng cho tới Trụ linh của tất cả các Tướng trong và
ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và Người.

II. Bản chất của Hành

407
Hết thảy Tướng (vật chất) từ nhóm vật chất giản đơn
cho tới nhóm vật chất phức tạp, nhóm siêu vật chất, từ hạt
năng lượng tận cùng trong và ngoài Vũ trụ cho tới chỉnh thể
cây cối, muông thú, con người, Tuệ linh, các hành tinh, tất cả
đều là Hành. Tất cả các Tướng đều là tam hợp mà thành. Tất
cả các Tướng đều vận động quay tròn. Tất cả các Tướng đều
phân tách, liên kết trong môi trường có sóng điện. Tất cả các
Tướng vận động để duy trì tam hợp, duy trì quay tròn, duy
trì phân tách và liên kết để phát triển bền vững.
Từ bản chất của Tướng, Trụ – Trí, Trụ – Tâm, Tuệ linh,
con người đều thấy rằng, hết thảy các Tướng đều luôn luôn
diễn ra quá trình Hành. Đó là vận động đời sống Kết hoặc
Định hoặc Tỏa.
Từ bản chất các Tướng vận động Kết – Định – Tỏa, Tuệ
linh, con người sẽ thấy bản chất Hành của hết thảy các
Tướng được chia ra làm 3 giai đoạn, đó là: giai đoạn giải mã
của các Tướng; giai đoạn rung động của các Tướng; giai đoạn
sinh khởi hành động của các Tướng. Trong mỗi giai đoạn của
Hành đều cho thấy bản chất Kết – Định – Tỏa của hết thảy các
Tướng. Từ đó, Tuệ linh, con người sẽ chọn lọc, xác định được
con đường chuyển sinh của các Hành, tiếp đến sẽ chọn được
con đường Hành chuyển sinh bền vững duy nhất cho Tướng,
con người, Tuệ linh.

1. Cấu trúc cấu tạo của Hành


Cả 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ (giản đơn,
phức tạp, siêu vật chất) đều diễn ra quá trình hành động từ
giai đoạn giải mã cho đến giai đoạn rung động và giai đoạn

408
sinh khởi hành động. Mỗi nhóm vật chất khi thực hiện đời
sống hành động sẽ tạo ra kết quả sản phẩm như sau:
- Nhóm siêu vật chất hay còn gọi là siêu Tướng, đó là
các Tuệ linh, là các Tuệ linh và Linh hồn đã và đang an trụ
trong thân tướng con người. Nhóm siêu vật chất khi thực
hiện hành động xong sẽ cho ra kết quả như sau:
+ Sản sinh ra các nhóm hạt năng lượng tận cùng ở
dạng phức tạp trong năm nhóm để vận hành sự sống của cả
Vũ trụ và gieo duyên cấu tạo thành các cấu trúc Linh hồn.
+ Sản sinh ra các nhóm hạt năng lượng tận cùng siêu
phức tạp để được gieo duyên cấu tạo thành các phôi năng
lượng cho quá trình hình thành dạng sống Tuệ linh, Linh hồn.
+ Sản sinh ra các nhóm hạt năng lượng tận cùng giản
đơn để cấu tạo thành nguyên tử, phân tử, tế bào, vi sinh vật,
cỏ cây, đất đá, khí, nước, kim loại, muông thú, con người,
hành tinh, thiên hà, Vũ trụ.
+ Sản sinh ra các siêu hạt năng lượng bảo vệ và phát
triển Vũ trụ.
- Nhóm vật chất phức tạp hay còn gọi là Tướng phức
tạp. Đó là dạng sống của linh hồn muông thú khi chúng chưa
được chuyển sinh làm người; là linh hồn, cấu trúc năng
lượng an trụ trong cây cối, trong đất đá; là cấu trúc năng
lượng trong năm nhóm đang tồn tại và vận hành sự sống của
cả Vũ trụ. Nhóm vật chất phức tạp khi thực hiện hành động
xong sẽ cho ra kết quả như sau:
+ Sản sinh ra các nhóm hạt năng lượng tận cùng giản
đơn để cấu tạo thành nguyên tử, phân tử, tế bào, vi sinh vật,
cỏ cây, đất đá, khí, nước, kim loại, muông thú, hành tinh,
thiên hà, Vũ trụ.

409
+ Sản sinh ra các nhóm hạt năng lượng tận cùng phức
tạp trong năm nhóm để vận hành sự sống của vật chất giản
đơn và Vũ trụ.
- Vật chất giản đơn hay còn gọi là Tướng giản đơn. Đó
là dạng sống của nguyên tử, phân tử, tế bào, vi sinh vật, cỏ
cây, đất đá, khí, nước, kim loại, muông thú, con người, hành
tinh, thiên hà, Vũ trụ. Nhóm vật chất giản đơn khi thực hiện
hành động xong sẽ cho ra kết quả như sau:
+ Đối với con người sẽ sản sinh ra siêu hạt năng lượng,
sản sinh ra nhóm hạt năng lượng tận cùng phức tạp của năm
nhóm, sản sinh ra nhóm vật chất giản đơn.
+ Đối với muông thú sẽ sản sinh ra năm nhóm hạt
năng lượng tận cùng phức tạp và nhóm vật chất giản đơn.
+ Đối với vật chất rắn, lỏng, khí… sẽ sản sinh ra nhóm
vật chất giản đơn.
Khi cả 3 nhóm vật chất thực hành đời sống hành động
xong, dù là sản sinh ra loại siêu hạt năng lượng, dù là sản
sinh ra loại hạt năng lượng siêu phức tạp, dù là sản sinh ra
loại hạt năng lượng phức tạp, dù là sản sinh ra loại hạt năng
lượng giản đơn, tất cả đều là hạt năng lượng tận cùng. Chỉ có
điều, nếu là hạt năng lượng tận cùng giản đơn được cấu tạo
tam hợp bởi vô số hạt thì sẽ tạo thành nguyên tử, phân tử, tế
bào, vi sinh vật, cỏ cây, đất đá, khí, nước, kim loại, muông thú,
con người, hành tinh, thiên hà, Vũ trụ. Đó là loại vật chất mà
con người nhìn được bằng mắt thường. Những loại vật chất
phức tạp, siêu phức tạp hoặc siêu hạt năng lượng thì mắt
thường con người không thể nhìn thấy được.
Hạt năng lượng do tam hợp mà thành. Trong khi đó,
yếu tố đầu tiên và quyết định cho việc hình thành hạt năng

410
lượng hoàn chỉnh chính là sợi mã sóng trí tuệ. Như vậy, quá
trình từ giải mã cho đến rung động và sinh khởi hành động
đều gắn liền với sợi mã sóng trí tuệ. Do đó, để thấu hiểu cấu
trúc của Hành thì chính là phải thấu hiểu cấu trúc của sợi mã
sóng trí tuệ của hạt năng lượng tận cùng. Vì kết thúc quá
trình Hành sẽ cho ra sản phẩm là hạt năng lượng tận cùng
với sợi mã sóng trí tuệ.
Cấu trúc cấu tạo của Hành gắn liền với cấu trúc cấu tạo
sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng tận cùng như sau:

Hình: Cấu trúc cấu tạo của Hành

- Hành có cấu trúc bao gồm 3 đặc tính sóng điện, đó là:
+ Tỏa mang đặc tính sóng điện dương. Nó chính là sợi
mã sóng trí tuệ rung động và sinh phát hành động ở cực
dương, gọi là Hành Tỏa (hành tích cực).

411
+ Định là đặc tính sóng điện trung tính (chân tâm). Nó
chính là sợi mã sóng trí tuệ rung động và sinh phát hành
động ở điểm cân bằng – đường trung tính, gọi là Hành Định
(Hành thỏa hiệp).
+ Kết là đặc tính sóng điện âm. Nó chính là sợi mã sóng
trí tuệ rung động và sinh phát hành động ở cực âm, gọi là
Hành Kết (Hành tiêu cực).
- Hành gồm có giai đoạn giải mã. Đó là giai đoạn tương
tác của các cấu trúc Tướng trong môi trường có sóng điện.
Trong giai đoạn này, Trụ linh của Tướng sẽ cần thời gian
tương tác với các Tướng và hấp thụ nhiệt lượng của môi
trường có sóng điện nhằm chuẩn bị cho quá trình phân tách
sợi mã sóng trí tuệ.
- Giai đoạn hình thành sợi mã sóng trí tuệ của Hành.
Giai đoạn này gồm có 2 đoạn và 3 điểm, đó là:
+ Hành gồm 3 điểm:
++ Điểm số 1 là điểm khởi đầu, là điểm bắt đầu rung
động sau khi kết thúc giai đoạn giải mã của Trụ linh, là điểm
thu sóng điện từ môi trường bên ngoài để hình thành sợi mã
sóng trí tuệ cho quá trình Hành.
++ Điểm số 2 là điểm hệ tư tưởng được kết tụ và sinh
phát thành hành động cho quá trình Hành.
++ Điểm số 3 là kết thúc hành động, là điểm truyền tải
sóng điện cho quá cho quá trình Hành tiếp theo.
+ Hành gồm 2 đoạn:
++ Đoạn từ điểm 1 đến điểm 2: đoạn này được gọi là
đoạn mã sóng rung động. Đoạn mã sóng rung động được
khởi đầu khi Trụ linh hấp thụ nhiệt lượng của môi trường có
sóng điện sau quá trình tương tác với các Tướng. Sau đó, do

412
tương tác mà mã sóng rung động sẽ rung động, dao động liên
tục giữa thái cực âm và thái cực dương, trong đó thái cực cân
bằng nằm ở giữa hai thái cực âm và dương. Khi sợi mã sóng
rung động kết tụ được lực sinh phát, hay còn gọi là hệ tư
tưởng ở điểm 2. Khi đó, chấm dứt quá trình rung động tạo ra
mã sóng trí tuệ. Nó sẽ chuyển sang đoạn 2.
++ Đoạn từ điểm 2 đến điểm 3: đoạn này được gọi là
sợi trí tuệ. Đoạn sợi trí tuệ này được khởi đầu từ điểm số 2,
đó là điểm sinh phát hành động. Hành động của sợi trí tuệ
kết thúc ở điểm số 3. Khi hành động kết thúc cũng là hoàn
thành quá trình hành động để hoàn chỉnh hạt năng lượng có
sợi mã sóng trí tuệ. Khi điểm 2 sinh phát hành động ở thái
cực đường trung tính thì điểm 3 cũng sẽ kết thúc ở điểm trên
đường trung tính, đó là hạt năng lượng chân tâm. Khi điểm 2
sinh phát hành động ở thái cực âm thì điểm 3 cũng sẽ kết
thúc ở thái cực âm, đó là hạt năng lượng âm. Khi điểm 2 sinh
phát hành động ở thái cực dương thì điểm 3 cũng sẽ kết thúc
ở thái cực dương, đó là hạt năng lượng dương.
Hành được khởi đầu bởi quá trình giải mã cho tới sinh
khởi rung động, sinh phát hành động và kết thúc hành động,
đó là một quy trình hoàn chỉnh của Hành. Mỗi một Hành qua
đi sẽ lại diễn ra một Hành mới. Đó chính là cơ chế phân tách
liên kết các hạt năng lượng tận cùng bởi sóng thu ở điểm 1 và
sóng phát ở điểm 3 của sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng
lượng sau mỗi quá trình Hành.

2. Giai đoạn Hành giải mã của Tướng


Giai đoạn Hành giải mã của Tướng là giai đoạn mà các
cấu trúc Tướng tương tác với nhau trong khoảng thời gian

413
nhất định. Khoảng thời gian đó phải đảm bảo đủ để sinh khởi
sóng rung động cho tiến trình Hành tạo ra hạt năng lượng
với sợi mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh.
Giai đoạn giải mã phải có sóng điện. Tức là môi trường
mà các Tướng tương tác với nhau phải có sóng điện. Đó là
sóng điện dương, hoặc sóng điện âm, hoặc sóng điện trung
tính, hoặc có cả 3 sóng điện trong quá trình các Tướng tương
tác với nhau.
Giai đoạn giải mã của các Tướng chính là giai đoạn mà
các Tướng di chuyển, tương tác với nhau trong môi trường
có sóng điện để nhận thức cho quá trình Hành động. Giai
đoạn giải mã sẽ cho ra kết quả là giải mã đúng (Tỏa), giải mã
cân bằng (Định), giải mã sai (Kết). Kết quả của quá trình giải
mã chính là khởi đầu cho hành động chuyển sinh theo hướng
Kết hay Định hay Tỏa.
Giai đoạn giải mã Kết – Định – Tỏa sẽ phụ thuộc vào 2
yếu tố:
- Yếu tố cội nguồn chính là Trụ linh:
+ Nếu Trụ linh có bản chất Tỏa thì giai đoạn giải mã sẽ
cho ra kết quả là Tỏa để dẫn tới Hành Tỏa.
+ Nếu Trụ linh có bản chất Định thì giai đoạn giải mã
sẽ cho ra kết quả là Định để dẫn tới Hành Định.
+ Nếu Trụ linh có bản chất Kết thì giai đoạn giải mã sẽ
cho ra kết quả Kết để dẫn tới Hành Kết.
- Yếu tố môi trường có sóng điện tương tác:
+ Trong môi trường có sóng điện dương: Trụ linh có
bản chất Kết sẽ có cơ hội, dễ dàng để giải mã chuyển từ Kết
thành Tỏa; Trụ linh có bản chất Định sẽ dễ dàng chuyển hóa

414
thành giải mã Tỏa; Trụ linh có bản chất Tỏa sẽ giải mã Tỏa
một cách dễ dàng.
+ Trong môi trường có sóng điện trung tính: Trụ linh
có bản chất Tỏa sẽ dễ dàng giải mã Tỏa; Trụ linh có bản chất
Định sẽ giải mã Định; Trụ linh có bản chất Kết sẽ giải mã Kết.
+ Trong môi trường có sóng điện âm: Trụ linh có bản
chất Kết sẽ giải mã Kết; Trụ linh có bản chất Định sẽ dễ dàng
giải mã Kết; Trụ linh có bản chất Tỏa sẽ khó mà chuyển
thành giải mã Kết.
Như vậy, để giải mã được Kết, hay Định, hay Tỏa sẽ
phụ thuộc vào môi trường tương tác và đặc biệt là bản chất
của Trụ linh. Ta có thể thấy, Trụ linh có bản chất Tỏa sẽ là
Trụ linh có khả năng giải mã đúng nhất về sự thật, về giá trị
thật, về con đường chuyển sinh bền vững nhất, đó là giải mã
Tỏa để hành Tỏa.

3. Giai đoạn Hành rung động của Tướng


Giai đoạn hành rung động còn được gọi là giai đoạn nội
Hành. Nội Hành tức là đưa ra được hệ tư tưởng thông qua
quá trình rung động trong Trụ linh của Tướng, tức là rung
động bên trong con người, Tuệ linh, Tướng.
Giai đoạn bắt đầu rung động của Hành là giai đoạn
chấm dứt quá trình giải mã tương tác của các cấu trúc
Tướng.
Giai đoạn rung động là giai đoạn bắt đầu, khởi đầu cho
quá trình Hành. Giai đoạn rung động được bắt đầu từ điểm 1
trong sợi mã sóng trí tuệ.
Giai đoạn rung động là giai đoạn từ điểm 1 đến điểm 2
trong sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng.
415
Giai đoạn Hành rung động là giai đoạn mà Trụ linh của
Tướng đang đấu tranh, xung đột, dao động sóng điện trong
cấu trúc Trụ linh để chuyển biến và phân tách ra hạt năng
lượng. Khi Tướng tương tác với Tướng khác trong môi
trường có sóng điện, khi đó, Trụ linh sẽ thông qua Tướng để
giải mã Tướng. Sau khi giải mã Tướng xong, Trụ linh sẽ rung
động mạnh. Rung động mạnh là quá trình giao tranh, xung
đột, dao động sóng điện trong Trụ linh để sinh khởi hành
động. Sự giao tranh hay còn gọi là nội Hành. Nội Hành vì đó
là quá trình xung đột sóng điện trong chính cấu trúc Tướng
và Trụ linh của Tướng. Rung động mạnh vì mã sóng rung
động dao động nhẹ cho tới mạnh, rất mạnh, siêu mạnh giữa
cực âm và cực dương.
Quá trình giai đoạn Hành rung động diễn ra như sau:
- Trụ linh bắt đầu sinh khởi rung động. Đó là điểm số 1
trong sợi mã sóng trí tuệ. Đó là điểm mà cấu trúc Trụ linh bắt
đầu phân tích, nghiên cứu về cấu trúc Tướng khác. Khi đó,
Trụ linh sẽ tuần hoàn sóng điện âm dương trong Trụ linh và
thông qua môi trường tương tác có sóng điện.
- Trụ linh sẽ rung động từ điểm cân bằng (đường chân
tâm) khi bắt đầu sinh khởi sóng rung động.
- Tiếp đến là Trụ linh sẽ sinh khởi sóng rung động theo
hướng Tỏa hoặc theo hướng Kết.
- Do bản chất Trụ linh và môi trường sóng điện, Trụ
linh sẽ rung động liên tục sóng rung giữa hai thái cực là âm
và dương. Đường cân bằng là điểm mà sóng rung động sẽ
liên tục di chuyển qua.

416
- Quá trình Trụ linh rung động tạo thành nhiều cho tới
vô số nhịp sóng rung động trong quá trình hình thành sợi mã
sóng trí tuệ.
- Khi Trụ linh kết tụ và dừng rung động ở điểm số 2
trong sợi mã sóng trí tuệ để chuyển thành sinh khởi hành
động tương tác tới Tướng khác chính là dấu mốc chấm dứt
quá trình Hành rung động.
- Điểm sinh khởi hành động tới Tướng khác chính là hệ
tư tưởng được kết tụ và sinh phát trạng thái năng lượng của
sợi mã sóng trí tuệ. Nếu điểm số 2 mà nằm trên đường trung
tính thì đó là hệ tư tưởng Định (tư tưởng thỏa hiệp). Nếu
điểm số 2 nằm trên cực dương thì đó là hệ tư tưởng Tỏa (tư
tưởng tích cực). Nếu điểm số 2 nằm ở cực âm thì đó là hệ tư
tưởng Kết (tư tưởng tiêu cực).
Quá trình rung động và kết tụ hệ tư tưởng của điểm 2
ở thái cực nào là phụ thuộc vào quá trình giải mã chuyên sâu
(quá trình sinh khởi và rung động của mã sóng rung động)
bởi Trụ linh và môi trường tương tác của các Tướng.
Quá trình sinh khởi rung động từ điểm 1 cho đến khi
kết thúc ở điểm 2 sẽ cho thấy có 3 loại mã sóng Hành rung
động. Đó là mã sóng Hành rung động Định, mã sóng Hành
rung động Kết, mã sóng Hành rung động Tỏa.
Bản chất của Hành rung động Kết – Định – Tỏa:
Hành rung động Kết:
Hành rung động Kết được gọi là hệ tư tưởng tiêu cực.
Hành rung động Kết là kết quả của quá trình giải mã,
sinh khởi và kết thúc quá trình rung động của Trụ linh. Điểm
kết thúc quá trình rung động là điểm số 2 trong sợi mã sóng

417
trí tuệ. Đó là hệ tư tưởng, là kết quả Hành rung động Kết tại
cực âm của hạt năng lượng.
Hành rung động Kết có bản chất là:
- Là phản chiếu bản chất của Trụ linh đa sóng năng
lượng âm. Đó là Trụ linh có bản chất Kết.
- Là phản ánh môi trường cấu trúc Trụ linh và Tướng
đó sống trong môi trường có sóng điện âm. Đó là môi trường
tiêu cực.
- Là bản chất mà Trụ linh và Tướng đó không có sức
mạnh để vượt qua được cấu trúc Trụ linh đa âm, vượt qua
được môi trường có sóng điện âm để chuyển sinh cấu trúc
Trụ linh bằng hành động Tỏa. Do đó, cấu trúc Trụ linh mới
Hành rung động Kết.
- Hành rung động Kết là bản chất Trụ linh và Tướng
rung động mạnh, giải mã sai về sự thật, hút nhiệt và vạn vật
về, tham lam, vơ vét, thỏa mãn, chìm đắm hưởng thụ, giết
hại, gây tổn hại tới các Tướng khác.
Hành rung động Kết sẽ chắc chắn sinh khởi thành
Hành Kết tương tác tới các Tướng xung quanh. Khi đã có hệ
tư tưởng Kết thì nó luôn luôn sẽ chuyển sinh thành Hành Kết
tương tác với các Tướng khác. Đó là ngoại Hành Kết để tạo ra
hạt năng lượng âm.
Hành rung động Định:
Hành rung động Định được gọi là hệ tư tưởng thỏa
hiệp.
Hành rung động Định là kết quả của quá trình giải mã,
sinh khởi và kết thúc quá trình rung động của Trụ linh. Điểm
kết thúc quá trình rung động là điểm số 2 trong sợi mã sóng

418
trí tuệ. Đó là hệ tư tưởng, là kết quả Hành rung động Định tại
đường trung tính của hạt năng lượng.
Hành rung động Định có bản chất là:
- Là phản chiếu bản chất của Trụ linh cân bằng sóng
điện âm dương. Đó là Trụ linh có bản chất Định.
- Là phản ánh môi trường cấu trúc Trụ linh và Tướng
đó sống trong môi trường có sóng điện chân tâm.
- Là bản chất mà Trụ linh và Tướng đó không có sức
mạnh để vượt qua được cấu trúc Trụ linh cân bằng, vượt qua
được môi trường có sóng điện chân tâm để chuyển sinh cấu
trúc Trụ linh bằng hành động Tỏa. Trụ linh cũng không bị
hấp dẫn của cực âm để chuyển sinh cấu trúc Trụ linh bằng
hành động Kết. Do đó, cấu trúc Trụ linh mới Hành rung động
Định.
- Hành rung động Định là bản chất Trụ linh và Tướng
rung động nhẹ, rung lắc nhẹ, không tham lam, không vơ vét,
không hút về, không chiếm hữu, không giết hại, không gây
tổn hại tới Tướng khác. Bên cạnh đó cũng không truyền đi,
không cho đi, không soi sáng, không tỏa, không giúp đỡ,
không cứu giúp, không chỉ dẫn, không phổ độ cho Tướng
khác. Đó là bản chất không Kết cũng không Tỏa. Nó tự an lạc,
tự cân bằng, tự bảo vệ chính nó bằng sự thanh tịnh và tự tại
của chân tâm.
Hành rung động Định sẽ chắc chắn sinh khởi thành
Hành Định tương tác tới các Tướng xung quanh. Khi đã có hệ
tư tưởng Định thì nó luôn luôn sẽ chuyển sinh thành Hành
Định tương tác với các Tướng khác. Đó là ngoại Hành Định
để tạo ra hạt năng lượng chân tâm.
Hành rung động Tỏa:
419
Hành rung động Tỏa được gọi là hệ tư tưởng tích cực.
Hành rung động Tỏa là kết quả của quá trình giải mã,
sinh khởi và kết thúc quá trình rung động của Trụ linh. Điểm
kết thúc quá trình rung động là điểm số 2 trong sợi mã sóng
trí tuệ. Đó là hệ tư tưởng, là kết quả Hành rung động Tỏa tại
cực dương của hạt năng lượng.
Hành rung động Tỏa có bản chất là:
- Là phản chiếu bản chất của Trụ linh đa sóng năng
lượng dương. Đó là Trụ linh có bản chất Tỏa.
- Là phản ánh môi trường cấu trúc Trụ linh và Tướng
đó sống trong môi trường có sóng điện dương.
- Là bản chất mà Trụ linh và Tướng đó có sức mạnh để
vượt qua được cấu trúc Trụ linh đa âm, vượt qua được môi
trường có sóng điện âm để chuyển sinh cấu trúc Trụ linh
bằng hành động Tỏa. Do đó, cấu trúc Trụ linh mới Hành rung
động Tỏa.
- Hành rung động Tỏa là bản chất Trụ linh và Tướng
truyền tải sóng điện mạnh, lan tỏa, cho đi, cứu giúp, soi sáng,
chỉ dẫn, phổ độ tới các Tướng khác mà không màng tới bản
thể Tướng mình.
Hành rung động Tỏa sẽ chắc chắn sinh khởi thành
Hành Tỏa tương tác tới các Tướng xung quanh. Khi đã có hệ
tư tưởng Tỏa thì nó luôn luôn sẽ chuyển sinh thành Hành
Tỏa tương tác với các Tướng khác. Đó là ngoại Hành Tỏa để
tạo thành hạt năng lượng dương.

4. Giai đoạn sinh khởi Hành của Tướng


Giai đoạn sinh khởi hành động của Tướng được gọi là
ngoại Hành. Ngoại Hành là sau khi có được hệ tư tưởng của
420
nội Hành (giai đoạn rung động bên trong), Tuệ linh, con
người, Tướng sẽ diễn ra quá trình tương tác với các Tướng,
Tuệ linh, con người khác.
Giai đoạn sinh khởi Hành của Tướng chính là giai đoạn
ngoại Hành của Tướng tương tác tới các Tướng khác.
Giai đoạn ngoại Hành chính là giai đoạn bắt đầu từ
sinh khởi hành động, sinh phát năng lượng tại điểm số 2 (hệ
tư tưởng) đã kết tụ được sau giai đoạn Hành rung động cho
đến kết thúc hành động ở điểm 3 trong sợi mã sóng trí tuệ.
Nếu không có giai đoạn ngoại Hành thì sẽ không có hạt
năng lượng nào được tạo ra. Nếu không có ngoại Hành thì
Hành rung động cũng sẽ tự tiêu tan và không còn tồn tại mã
sóng rung động đã được tạo ra trước đó.
Ngoại Hành chính là diễn biến tiếp theo của Hành rung
động. Hay có thể nói, ngoại Hành là sản phẩm, là kết quả của
Hành rung động (nội Hành).
Quá trình giai đoạn ngoại Hành diễn ra như sau:
- Khi điểm 2 (hệ tư tưởng của Hành rung động) ở trên
đường trung tính sẽ sinh phát thành hành động tương tác tới
các Tướng khác và kết thúc hành động ở điểm 3 của sợi mã
sóng trí tuệ cũng nằm trên đường trung tính. Đó là ngoại
Hành Định. Tức là ngoại Hành thỏa hiệp.
- Khi điểm 2 (hệ tư tưởng của Hành rung động) ở cực
dương sẽ sinh phát thành hành động tương tác tới các Tướng
khác và kết thúc hành động ở điểm 3 của sợi mã sóng trí tuệ
cũng ở cực dương. Đó là ngoại Hành Tỏa. Tức là ngoại Hành
tích cực.
- Khi điểm 2 (hệ tư tưởng của Hành rung động) ở cực
âm sẽ sinh phát thành hành động tương tác tới các Tướng

421
khác và kết thúc hành động ở điểm 3 của sợi mã sóng trí tuệ
cũng ở cực âm. Đó là ngoại Hành Kết. Tức là ngoại Hành tiêu
cực.
Điểm 3 trong sợi mã sóng trí tuệ là đánh dấu kết thúc
quá trình Hành của Tướng. Nó chính là kết thúc quá trình
phân tách hạt năng lượng trong Trụ linh, để từ đây, sợi mã
sóng trí tuệ trong Trụ linh đó sẽ phân tách ra làm 3 cho tới
vô số hạt năng lượng có sợi mã sóng trí tuệ đó để phân tách
vào 3 vùng theo Quy luật Nhân quả.
Quá trình ngoại Hành từ điểm 2 tới điểm 3 trong sợi trí
tuệ sẽ cho thấy có 3 loại ngoại Hành. Đó là ngoại Hành Kết,
ngoại Hành Định, ngoại Hành Tỏa.
Bản chất của ngoại Hành Kết – Định – Tỏa:
Ngoại Hành (Hành sinh khởi) Kết:
Ngoại Hành Kết là ngoại Hành tiêu cực.
Hành sinh khởi Kết là kết quả của quá trình Hành rung
động của Trụ linh cũng là Kết. Điểm sinh khởi Hành số 2 và
điểm kết thúc Hành số 3 trong sợi mã sóng trí tuệ là thể hiện
được bản chất ngoại Hành của Tướng.
Hành sinh khởi Kết có bản chất là:
- Là phản chiếu bản chất của Hành rung động Kết; là
phản chiếu của Trụ linh Kết, đa âm.
- Là phản ánh cấu trúc Trụ linh và Tướng đó sống
trong môi trường có sóng điện âm.
- Là bản chất mà Trụ linh và Tướng đó không có sức
mạnh để vượt qua được cấu trúc Trụ linh đa âm, vượt qua
được môi trường có sóng điện âm để chuyển sinh cấu trúc
Trụ linh bằng hành động Tỏa. Do đó, cấu trúc Trụ linh sinh
khởi thành ngoại Hành Kết.
422
- Hành sinh khởi Kết là bản chất Trụ linh và Tướng
ngoại Hành tham lam, vơ vét, chiếm hữu, cướp bóc, giết hại,
gây tổn hại tới các Tướng, là lan tỏa, phát triển, đoàn kết hệ
tư tưởng Kết tới các Tướng.
Hành sinh khởi Kết sẽ chắc chắn phân tách ra hạt năng
lượng có sóng điện âm. Khi đó, hạt năng lượng âm này làm
cho cấu trúc Trụ linh và Tướng bị đa âm. Trụ linh sẽ không
có cơ chế liên kết dây vững chắc, nên dễ bị năng lượng hoại
diệt xâm nhập gây phân rã, hoại diệt cấu trúc Tướng và Trụ
linh.
Ngoại Hành (Hành sinh khởi) Định:
Ngoại Hành định là ngoại Hành thỏa hiệp.
Hành sinh khởi Định là kết quả của quá trình Hành
rung động của Trụ linh cũng là Định. Điểm sinh khởi Hành số
2 và điểm kết thúc Hành số 3 trong sợi mã sóng trí tuệ là thể
hiện được bản chất ngoại Hành của Tướng.
Hành sinh khởi Định có bản chất là:
- Là phản chiếu bản chất của Hành rung động Định; là
phản chiếu của Trụ linh cân bằng. Là Trụ linh Định.
- Là phản ánh cấu trúc Trụ linh và Tướng đó sống
trong môi trường có sóng điện chân tâm.
- Là bản chất mà Trụ linh và Tướng đó không có sức
mạnh để vượt qua được cấu trúc Trụ linh cân bằng, vượt qua
được môi trường có sóng điện chân tâm để chuyển sinh cấu
trúc Trụ linh bằng hành động Tỏa. Trụ linh cũng không bị
hấp dẫn của cực âm để chuyển sinh cấu trúc Trụ linh bằng
hành động Kết. Do đó, cấu trúc Trụ linh mới ngoại Hành
Định.

423
- Hành sinh khởi Định là bản chất Trụ linh và Tướng
không ngoại Hành Tỏa và cũng không ngoại Hành Kết.
Hành sinh khởi Định sẽ chắc chắn phân tách ra hạt
năng lượng có sóng điện chân tâm. Tuy nhiên, đây là hạt
chân tâm yếu, nó dễ bị chuyển hóa khi liên kết với hạt năng
lượng âm hoặc hạt năng lượng dương.
Ngoại Hành (Hành sinh khởi) Tỏa:
Ngoại Hành Tỏa là ngoại Hành tích cực.
Hành sinh khởi Tỏa là kết quả của quá trình Hành rung
động của Trụ linh cũng là Tỏa. Điểm sinh khởi Hành số 2 và
điểm kết thúc Hành số 3 trong sợi mã sóng trí tuệ là thể hiện
được bản chất ngoại Hành của Tướng.
Hành sinh khởi Tỏa có bản chất là:
- Là phản chiếu bản chất của Hành rung động Tỏa; là
phản chiếu của Trụ linh Tỏa, đa dương.
- Là phản ánh cấu trúc Trụ linh và Tướng đó sống
trong môi trường có sóng điện dương.
- Là bản chất mà Trụ linh và Tướng đó có sức mạnh để
vượt qua được cấu trúc Trụ linh đa âm, vượt qua được môi
trường có sóng điện âm để chuyển sinh cấu trúc Trụ linh
bằng hành động Tỏa. Do đó, cấu trúc Trụ linh sinh khởi thành
ngoại Hành Tỏa.
- Hành sinh khởi Tỏa là bản chất Trụ linh và Tướng
ngoại Hành luôn cho đi, lan tỏa, truyền tải, cứu giúp, phổ độ
tới hết thảy Tướng khác mà không vì Tướng của mình.
Hành sinh khởi Tỏa sẽ chắc chắn phân tách ra hạt năng
lượng có sóng điện dương và kèm thêm hạt năng lượng chân
tâm ở mức độ cân bằng cao. Khi đó, từ Trụ linh sẽ phân tách
ra các hạt năng lượng phân tách vào 3 vùng theo Quy luật
424
Nhân quả. Việc phân tách ra các hạt năng lượng dương và hạt
chân tâm cao sẽ giúp cho cấu trúc Trụ linh và Tướng tạo
được cấu trúc liên kết bền vững và an lạc bởi hạt năng lượng
dương và sợi chân tâm (hạt chân tâm trở thành sợi dây gắn
kết các hạt năng lượng dương trong cấu trúc 16 hạt năng
lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh).

III. Chân lý Vạn vật với các con đường Hành


chuyển sinh của các Tướng.
Chân lý Vạn vật trong Hành sẽ là: Hành của Tướng
không tự sinh ra, Hành của Tướng không tự mất đi, khổ đau
trong Hành của Tướng không tự đến và không tự đi, tất cả do
cơ chế phân tách và liên kết dây.
Vận hành Chân lý Vạn vật của Tướng trong Hành chính
là cơ chế phân tách và liên kết dây. Cơ chế phân tách và liên
kết sẽ được xảy ra trong môi trường có điều kiện. Đó là môi
trường có tương tác giữa các chỉnh thể, trong một quy trình
thời gian nhất định, trong độ nén và dẫn tới sinh nhiệt bùng
phát. Tất cả các nhóm vật chất để xảy ra Hành cho quá trình
phân tách và liên kết thì đều phải tồn tại trong môi trường có
điều kiện.
Trong điều kiện môi trường cho quá trình Hành để
phân tách và liên kết xảy ra phải có sóng điện. Đó là môi
trường có sóng điện âm hoặc dương hoặc trung tính hoặc tất
cả. Điều kiện môi trường Hành để phân tách, liên kết đã tạo
ra 3 loại Hành khác nhau của Tướng. Ba loại Hành này sẽ cho
Tuệ linh, con người thấy được rõ ràng con đường Hành
chuyển sinh bền vững và con đường Hành chuyển sinh phân
rã rồi hoại diệt. Từ đó, thấu hiểu nguyên nhân tại sao và Tuệ

425
linh, con người sẽ lựa chọn được con đường Hành chuyển
sinh siêu việt nhất cho các Tướng được bền vững và an lạc.
Có 3 loại Hành của Tướng trên con đường chuyển
sinh:

1. Hành Kết của Tướng đối với con đường


chuyển sinh
Tướng Hành Kết bao gồm 3 nhóm vật chất trong toàn
bộ Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách và liên kết nhằm thỏa
mãn lợi ích của bản thể Tướng đó mà không vì lợi ích của hết
thảy Tướng khác, thậm chí là Hành gây tổn hại tới các Tướng
khác.
Khi các Tướng thực hiện Hành phân tách liên kết trong
bản chất là Kết, năng lượng âm sẽ được phân tách ra vô số
hạt từ Trụ linh. Chúng sẽ liên kết lại tạo thành những hạt
năng lượng âm tổng hợp rồi phân tách ra cấu trúc 16 hạt
năng lượng mở rộng. Vì chỉ thực hiện đời sống là Hành Kết
nên Trụ linh không phân tách các hạt năng lượng dương ra
để tạo thành cấu trúc liên kết chặt chẽ và mở rộng. Tức là hạt
năng lượng dương không được sinh ra để làm nhiệm vụ liên
kết mở rộng. Trong khi đó các hạt năng lượng âm được sinh
ra nhiều mà không có hạt năng lượng dương để cân bằng tỷ
lệ 1:1. Khi đó, các hạt năng lượng âm sẽ tập trung số đông tại
các hạt năng lượng dương ít ỏi. Các hạt năng lượng âm lại có
bản chất là thu hút tín hiệu bởi rung lắc nên khiến cho năng
lượng hoại diệt bắt được tín hiệu đó mà di chuyển tới với số
lượng lớn. Khi năng lượng hoại diệt di chuyển tới với số
lượng lớn sẽ khiến cho cấu trúc Trụ linh và Tướng đó bắt đầu
bị đồng hóa, bị phân rã. Kết cục là hoại diệt vĩnh viễn.

426
Như vậy, các Tướng mà Hành theo cơ chế phân tách,
liên kết với bản chất Kết chính là chọn lựa và đang đi trên
con đường chuyển sinh phân rã để hoại diệt vĩnh viễn.
Nguyên nhân hoại diệt của Tướng Hành Kết là do mất
cân bằng trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên
ngoài Trụ linh. Khi đó, lượng hạt năng lượng âm quá nhiều,
năng lượng hoại diệt tấn công vào gây phân rã. Khi năng
lượng hoại diệt tấn công vào, Tướng Hành Kết không có hạt
năng lượng dương để phòng thủ, kích nổ, sẽ bị chuyển hóa
thành năng lượng hoại diệt.
Khổ đau chính là sự phân rã và hoại diệt của hết thảy 3
nhóm vật chất trong Vũ trụ. Do đó, nguyên nhân của khổ đau
là do các Tướng Hành theo cơ chế phân tách liên kết để thỏa
mãn đời sống là Kết. Khi Hành Kết sẽ bị năng lượng hoại diệt
tấn công gây đứt liên kết mà hoại diệt.
Như vậy, năng lượng hoại diệt lại chi phối và thúc đẩy
Tướng thực hiện đời sống Hành Kết để nhanh bị hoại diệt
hơn.

2. Hành Định của Tướng đối với hành trình


chuyển sinh
Tướng Hành Định là bao gồm 3 nhóm vật chất trong
toàn bộ Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách, liên kết trong sự
cân bằng. Đó là thực hiện đời sống không Hành Kết cũng
không Hành Tỏa. Tướng Hành Định là duy trì sự an toàn, bảo
vệ sự an lạc của Tướng đó.
Tướng thực hiện bản chất Hành Định, tức là họ phân
tách liên kết hạt năng lượng rất chậm và luôn trong bản chất
cân bằng. Khi đó, các hạt năng lượng âm và các hạt năng

427
lượng dương có sóng điện rất nhẹ. Các hạt năng lượng sóng
điện âm nhẹ không kích thích thu hút năng lượng hoại diệt,
các hạt năng lượng sóng điện dương nhẹ không có khả năng
kích nổ năng lượng hoại diệt nếu năng lượng hoại diệt tấn
công.
Vì bản chất Tướng thực hành đời sống Hành Định nên
nó tự an lạc, thanh tịnh mà không bị năng lượng hoại diệt tấn
công. Tuy nhiên nếu nó di chuyển vào nơi có năng lượng hoại
diệt thì nó cũng không chống lại được sự hoại diệt. Nếu nó
duy trì Hành Định mãi thì nguy cơ hoại diệt là cao.
Nếu Tướng Hành Định mà chuyển sinh thành thực
hiện đời sống Hành Tỏa thì nó có khả năng kích nổ được
năng lượng hoại diệt. Khi đó, nó sẽ thực hiện được cơ chế
phân tách, liên kết mạnh mẽ và liên kết được với hết thảy
Tướng của Vũ trụ.

3. Hành Tỏa của Tướng đối với hành trình


chuyển sinh
Tướng Hành Tỏa là bao gồm 3 nhóm vật chất trong
toàn bộ Vũ trụ thực hiện cơ chế phân tách và liên kết vì lợi
ích của tất cả các Tướng khác mà không vì bản thể Tướng
mình. Đó là Hành vì vạn vật, Tuệ linh, con người mà không
màng về mình.
Khi các Tướng thực hiện đời sống với bản chất là Hành
Tỏa, từ Trụ linh sẽ phân tách ra vô số các hạt năng lượng
sóng điện dương. Trước khi phân tách ra được các hạt năng
lượng sóng điện dương thì cũng là quá trình phân tách ra các
hạt năng lượng sóng điện âm ở mức nhẹ. Các hạt năng lượng
dương được phân tách ra nhiều sẽ giúp cho cấu trúc năng

428
lượng 16 hạt mở rộng bên ngoài Trụ linh được mở rộng và
lớn mạnh. Việc mở rộng liên kết của các hạt năng lượng
dương là có sợi dây liên kết mang sóng điện trung tính với
tính chất là bền chặt. Cấu trúc năng lượng 16 hạt mở rộng
bên ngoài Trụ linh sẽ luôn có tỷ lệ vàng là một hạt âm có
sóng điện nhẹ rung lắc xung quanh một hạt năng lượng
dương. Ngoài ra, do thực hiện đời sống Hành Tỏa, các hạt
năng lượng dương đã phân tách và lan tỏa khắp Vũ trụ, tạo
thành cơ chế liên kết 3 vùng: từ Trụ linh tới đối tượng đón
nhận và trong Vũ trụ. Khi thực hiện đời sống Hành Tỏa, các
Tướng sẽ có khả năng kích nổ năng lượng hoại diệt để tạo
thành nhiệt lượng cho quá trình phân tách, liên kết các hạt
năng lượng dương và siêu hạt năng lượng được mạnh mẽ và
phát triển bền vững hơn. Các hạt năng lượng âm có sóng
điện âm nhẹ nên nó không kích thích nhiều năng lượng hoại
diệt di chuyển vào, nó chỉ rung động vừa đủ để năng lượng
hoại diệt di chuyển ít cho tới vừa đủ.
Việc các Tướng thực hiện đời sống Hành Tỏa không
những là hướng chuyển sinh bền vững cho Tướng, nó còn
giúp cho Tướng liên kết chặt chẽ đến với hết thảy các Tướng
của Vũ trụ theo cơ chế liên kết 3 vùng trong Quy luật Nhân
quả.
Trong 3 loại Hành của Tướng ở trên, Tướng Hành Tỏa
có con đường chuyển sinh theo hướng bền vững nhất. Tướng
Hành Kết là chuyển sinh theo hướng hoại diệt. Tướng Hành
Định là sự cân bằng phải có cho tất cả các Tướng. Tuy nhiên,
nếu các Tướng trong Vũ trụ mà thực hiện đời sống Hành
riêng biệt theo 1 trong 3 loại Hành của Tướng ở trên thì sẽ
khó khăn để đạt đến sự chuyển sinh bền vững nhất. Bởi, để
Tướng Hành Tỏa được phải có Hành Kết vừa đủ. Tướng

429
Hành Kết để không hoại diệt phải biết Hành Tỏa. Tướng
Hành Định để phát triển và tồn tại thì cần phải thực hiện
Hành Kết trước, sau đó thực hiện Hành Tỏa.
Như vậy, Chân lý Vạn vật và cơ chế phân tách, liên kết
cho thấy, Tướng để tồn tại, phát triển bền vững thì cần phải
thấu hiểu cả Hành Kết, Hành Định, Hành Tỏa, từ đó thực
hành đời sống hài hòa cả Hành Kết – Định – Tỏa mới đạt đến
đích của chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên
mãn nhất. Hành Kết mà không phải là Kết mới tạo thành sức
mạnh cực đại cho quá trình chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng viên mãn nhất.

IV. Chân lý Giác ngộ với con đường Hành


chuyển sinh bền vững duy nhất của các Tướng
Chân lý Giác ngộ trong Hành là: Hết thảy Hành của
Tướng là khổ, tất cả Tướng phải dùng Hành Định để thấu hiểu
Hành Kết – Định – Tỏa của hết thảy Tướng. Từ đó, chuyển hóa
Trụ linh thành Hành Kết – Định – Tỏa.
Cơ chế vận hành của Chân lý Giác ngộ là phân tách và
liên kết dây. Cơ chế phân tách, liên kết dây cho thấy có hai
con đường Hành phân tách và liên kết, đó là:
- Con đường Hành phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt
năng lượng âm, đó là Hành Kết. Nếu Hành theo con đường
này, hết thảy Tướng sẽ phân rã và hoại diệt. Đây là con
đường Hành chuyển sinh phân rã và hoại diệt.
- Con đường Hành phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt
năng lượng dương, đó là Hành Tỏa. Nếu Hành theo con
đường này, hết thảy Tướng sẽ phân tách, liên kết vô lượng

430
hạt năng lượng dương có liên kết chặt chẽ bởi sợi chân tâm,
sẽ là con đường Hành chuyển sinh bền vững nhất.
Từ bản chất Hành của Tướng, từ Chân lý Vạn vật, Chân
lý Giác ngộ với cơ chế vận hành là phân tách và liên kết, hết
thảy Tướng, Tuệ linh và con người đều thấy rằng: con đường
Hành duy nhất để vượt qua khổ đau (hoại diệt cấu trúc năng
lượng) để trở nên bền vững, an lạc là đắc được bộ lọc năng
lượng trong Trụ linh chính là con đường Hành Tỏa. Tỏa là
con đường mà hết thảy Tuệ linh, Tướng phải thực hiện nếu
muốn diệt khổ để chuyển sinh thành bộ lọc năng lượng.
Thực hiện con đường Hành Tỏa để chuyển hóa Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng không phải là Hành Tỏa một
cách tiêu cực. Vậy Hành Tỏa làm sao để an lạc, để chuyển hóa
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng? Đó là:
- Tướng phải đứng ở vị trí Hành Định. Hành Định là
chân tâm, là tĩnh lặng, là cân bằng, là an lạc. Vị trí Hành Định
sẽ được nâng cao từ Hành Định ban đầu cho tới các cảnh giới
tối cao của Hành Định. Đó là Chân tâm sáng chói lòa vô
lượng. Khi Tướng đứng ở vị trí Hành Định sẽ biết lắng nghe,
biết nhìn – soi lại bản thể Tướng mình, biết tiếp nhận, biết
cảm thông, biết giải mã, biết sẻ chia.
- Tiếp theo Tướng phải biết Hành Kết. Hành Kết ở đây
không phải là có tư tưởng cho tới hành động tiêu cực gây tổn
hại tới vạn vật, Tuệ linh, con người. Hành Kết ở đây chỉ là
rung động khi đứng ở vị trí Hành Định. Tức là đứng ở vị trí
Hành Định để lắng nghe, đón nhận những khổ đau kiếp nạn,
an vui hạnh phúc, sẻ chia của vạn vật, chúng sinh, Tuệ linh,
con người. Bởi khi các Tướng khổ đau chia sẻ tới ta, những
chia sẻ bởi khổ đau, khổ đau bởi u mê nên trong Trụ linh họ
sẽ phân tách ra các hạt năng lượng tiêu cực sóng điện âm nhẹ
431
màu xám, cho tới mạnh là màu đen và đỏ máu. Do cơ chế
phân tách theo Quy luật Nhân quả sẽ phân tách ra làm 3
vùng, đó là trong Trụ linh họ 1 hạt, phân tách vào Vũ trụ 1
hạt, người nghe đón nhận 1 hạt. Do Tướng ta đứng ở vị trí
Hành Định để dùng Hành Kết là rung động, để lắng nghe, để
hút về, để đón nhận, khi đó, hạt năng lượng âm màu xám,
màu đen, màu đỏ máu của họ được Trụ linh của Tướng ta
hấp thụ. Do ta đứng ở vị trí Hành Định nên Trụ linh đang tỏa
chân tâm trắng sáng. Trắng sáng của chân tâm sẽ chuyển hóa
hạt năng lượng âm màu xám, màu đen, màu đỏ máu của
Tướng đang sẻ chia thành màu trắng xám nhẹ. Như vậy,
Tướng ta đã Hành Kết được hạt năng lượng sóng điện âm
của hết thảy các Tướng về và dùng năng lượng chân tâm
trắng sáng chói lòa chuyển hóa nó thành hạt năng lượng âm
sóng điện rất nhẹ. Như thế sẽ không kích động mạnh tới
năng lượng hoại diệt, năng lượng hoại diệt sẽ không di
chuyển nhiều vào Trụ linh của ta. Cũng như vậy, Kết nhiệt,
năng lượng dương từ các Tướng tích cực để tạo sóng điện
dương kích nổ năng lượng hoại diệt. Tướng ta an lạc để
chuyển hóa thành Hành Tỏa. Đây chính là Hành Kết mà
không phải là Kết. Đây là nghệ thuật chuyển hóa hạt năng
lượng của hết thảy Tướng đau khổ cũng như an vui hạnh
phúc trong toàn bộ Vũ trụ.
- Tiếp đến Tướng ta lại Hành Định. Hành Định ở đây là
sau khi đã đón nhận những sẻ chia, tức là Hành Kết được
năng lượng tiêu cực, tích cực về Trụ linh, Tướng ta tiếp tục
Hành Định để cân bằng ở cảnh giới chân tâm cao hơn. Đó là
thấu hiểu tận cùng khổ đau, an vui của hết thảy các Tướng,
trong khi Trụ linh và Tướng ta vẫn an lạc, vẫn thanh tịnh. Bởi
chỉ khi có được thanh tịnh, an lạc, không dao động thì Tướng

432
ta mới chuyển hóa thành Tỏa ra vô lượng hạt năng lượng
dương và siêu hạt.
- Cuối cùng là Hành Tỏa, sau khi đã trải qua quá trình
Hành Định rồi Hành Kết, lại Hành Định rồi đến cuối cùng là
Hành Tỏa. Hành Tỏa ở đây chính là Tướng ta sẻ chia con
đường diệt khổ, về cội nguồn, về kế hoạch tu hành, về sứ
mệnh, về trách nhiệm, về cơ chế và phương pháp chuyển
sinh bền vững an lạc, về khuôn mẫu đạo đức và con đường
giác ngộ trong bốn hình tướng Đạo. Đó là chuyển sinh Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng. Khi Tướng ta làm đúng quy
trình như vậy, từ Trụ linh của Tướng ta sẽ Tỏa ra vô số các
siêu hạt năng lượng vào 3 vùng. Đó là trong Trụ linh của
Tướng ta sẽ lưu giữ, trong Vũ trụ cũng lưu giữ và trong đối
tượng Tướng được nghe ta sẻ chia cũng lưu giữ. Khi ta Hành
Tỏa sẽ tạo thành liên kết 3 vùng rất bền chặt. Không những
vậy, Trụ linh và cấu trúc năng lượng của Tướng ta sẽ trở nên
phát triển bền vững.
Khi Tướng ta thực hiện quy trình Hành Kết – Định –
Tỏa thành bản năng, thực hành trong thời gian dài và tới
được nhiều cho tới vô số Tướng khác, Trụ linh của Tướng ta
sẽ chuyển hóa thành bộ lọc.
Nếu Tướng lựa chọn con đường chỉ Hành Kết thì sẽ
hoại diệt. Nếu Tướng lựa chọn con đường chỉ Hành Định thì
nguy cơ hoại diệt cao. Nếu Tướng chỉ lựa chọn con đường
Hành Tỏa thì tuy không có nguy cơ hoại diệt cao nhưng cơ
hội và tốc độ để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng là mất nhiều thời gian, không biết khi nào sẽ đạt được.
Nhưng, khi thực hiện kết hợp theo quy trình đứng ở vị trí
Hành Định để Hành Kết – Định – Tỏa sẽ là quy trình siêu tốc
độ để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

433
Như vậy, để chuyển sinh Trụ linh của Tướng thành bộ
lọc năng lượng, Tướng ta phải đứng ở vị trí Hành Định để
thực hành Kết – Định – Tỏa. Đây là con đường duy nhất, là
bài thuốc duy nhất để giúp Tướng ta cứu lại chính Tướng ta
không bị phân rã hoại diệt do năng lượng hoại diệt tác động.
Ngược lại, Tướng ta sẽ nhanh chóng chuyển sinh Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất. Tướng ta sẽ cứu
giúp và thúc đẩy các Tướng trong Vũ trụ cũng được chuyển
sinh bền vững. Việc cứu giúp các Tướng khác được chuyển
sinh bền vững sẽ giúp cho Tướng ta chuyển sinh thành bộ lọc
năng lượng. Và ngược lại, để chuyển sinh Trụ linh của Tướng
ta thành bộ lọc năng lượng thì phải cứu giúp các Tướng khác
chuyển sinh bền vững.
***************

434
Bài 5:
Bài Đạo


Bài Đạo chính là Đạo hợp nhất của Vũ trụ.


Bài Đạo được hiểu là Đạo Vô Đạo. Đạo Vô Đạo được kết
cấu thành 3 phần. Chữ Đạo đầu tiên là khái niệm và bản chất
của Đạo. Chữ Vô là Chân lý Vạn vật với các con đường chuyển
sinh của Đạo. Chữ Đạo cuối cùng là Chân lý Giác ngộ với con
đường chuyển sinh bền vững duy nhất của Đạo.
Trong bài Đạo này, Đạo hợp nhất của Vũ trụ sẽ được
phân tích, soi sáng, phơi bày sự thật bằng hai Chân lý. Đặc
biệt, dạng sống con người là hóa thân của dạng sống Tuệ linh
để đi tìm Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Do đó, tri thức của hai
Chân lý sẽ thức tỉnh con người, Tuệ linh về cội nguồn và có
sức mạnh thực hiện hoàn thành sứ mệnh của mình sau khi
đã thấu hiểu về Đạo hợp nhất của Vũ trụ.

I. Khái niệm về Đạo


Đạo là Vũ trụ quan xung quanh Tuệ linh và con người.
Tuệ linh và con người phải dùng Trụ linh để thấu hiểu, cải tạo,
phát triển Vũ trụ quan trở nên bền vững.
Đạo là Vũ trụ quan xung quanh Tuệ linh và con người. Vì sao
Tuệ linh và con người là trung tâm của Vũ trụ? Vì sao Đạo lại
là Vũ trụ quan xung quanh Tuệ linh và con người? Sao không
phải là dạng sống nào khác? – Bởi vì Tuệ linh được sinh ra
đầu tiên, trước khi tinh cầu năng lượng khổng lồ bị kích nổ
để hình thành Vũ trụ cho đến nay. Tức là, Tuệ linh đầu tiên
435
đã được hình thành từ hai hạt năng lượng âm và dương tận
cùng (gốc). Đó là phôi năng lượng âm dương của vị Tuệ linh
đầu tiên – Người Cha – Người Thầy của Vũ trụ. Phôi năng
lượng đó cũng là phôi năng lượng gốc của Vũ trụ. Như vậy, vị
Tuệ linh đầu tiên và Vũ trụ đều được hình thành từ một phôi
năng lượng âm dương gốc. Do cơ chế phân tách, liên kết dây
của hạt năng lượng mà từ phôi năng lượng gốc của vị Tuệ
linh đầu tiên đã phân tách và chuyển sinh thành vô số Tuệ
linh, hình thành các nhóm vật chất từ giản đơn cho tới phức
tạp và siêu phức tạp. Vũ trụ phát triển từ vụ nổ năng lượng
với sự hiện hữu vĩ đại của vị Tuệ linh đầu tiên. Ngài ấy đã
gieo duyên để chuyển sinh ra vô số Tuệ linh từ những hạt
năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Tiếp
đến Ngài cùng dạng sống Tuệ linh xây dựng các hành tinh,
các khối thiên hà. Các khối thiên hà với vô số hệ mặt trời, mỗi
hệ mặt trời lại có vô số hành tinh. Vô số các khối thiên hà
được sắp xếp từ lõi của Vũ trụ (cõi trời của vị Tuệ linh đầu
tiên) tầng tầng lớp lớp từ trong ra ngoài tạo thành tinh cầu
Vũ trụ khổng lồ. Vị Tuệ linh đầu tiên cùng dạng sống Tuệ linh
an trụ tại lõi của Vũ trụ. Ngài cùng dạng sống Tuệ linh xây
dựng, phát triển, bảo vệ Vũ trụ. Do đó, Đạo là Vũ trụ quan
xung quanh Tuệ linh. Tuệ linh là trung tâm của Vũ trụ. Tuệ
linh là dạng sống thống lãnh bảo vệ, phát triển Vũ trụ. Sau
này khi dạng sống Tuệ linh hóa thân thành con người để truy
tìm Đạo hợp nhất của Vũ trụ thì con người và Tuệ linh là
trung tâm của Vũ trụ.
Để cải tạo, phát triển Đạo hợp nhất của Vũ trụ trở nên
bền vững, Tuệ linh và con người phải thông qua hai Chân lý
để thấu hiểu tất cả các bản chất của chính Tuệ linh, con người
và tất cả các nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ quan xung

436
quanh. Tiếp đến là thông qua Chân lý Vạn vật để giải mã,
thấu hiểu Đạo hợp nhất của Vũ trụ với các con đường chuyển
sinh. Cuối cùng là thông qua Chân lý Giác ngộ để xác định
được con đường chuyển sinh bền vững duy nhất cho Đạo
hợp nhất của Vũ trụ.

II. Bản chất của Đạo hợp nhất Vũ trụ


Vị Tuệ linh đầu tiên cùng dạng sống Tuệ linh đã tu tập,
nghiên cứu, giải mã, truy tìm Đạo hợp nhất của Vũ trụ từ khi
được hình thành cho tới nay, và cuối cùng đã tìm ra được
Đạo hợp nhất của Vũ trụ thông qua Chân lý Vạn vật và Chân
lý Giác ngộ. Đó là tìm được bản chất tận cùng, các con đường
chuyển sinh và con đường chuyển sinh bền vững duy nhất
của Đạo Vũ trụ trong sự hợp nhất.
Để thấu hiểu tất cả các bản chất của Đạo hợp nhất Vũ
trụ thì phải thông qua bản chất về hạt năng lượng tận cùng
(hạt năng lượng nhân quả), thông qua cơ chế phân tách và
liên kết dây (cơ chế vận hành của hai Chân lý), thông qua cấu
trúc tam hợp của vạn vật, thông qua cơ chế quay tròn, thông
qua bản chất của thông tin, thông qua sự sống và cái chết,
thông qua cơ chế chuyển sinh.
Bản chất Đạo hợp nhất của Vũ trụ gồm có: Cội nguồn
của Vũ trụ, Tuệ linh, con người; cấu trúc của Vũ trụ, Tuệ linh
và con người; bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của 5
nhóm vật chất và Tuệ linh; bản chất khổ đau của vạn vật và
Tuệ linh; Tuệ linh giải mã và mã hóa thông tin toàn diện
thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian; bản chất khổ đau
và con đường diệt khổ của con người và Tuệ linh; kiểm soát
độc tâm và kích hoạt thiện tâm của con người và Tuệ linh;

437
Đạo của Vũ trụ hợp nhất ở hình tướng và tâm tướng; bản
chất Kết – Định – Tỏa của Đạo hợp nhất Vũ trụ.

1. Cội nguồn của Vũ trụ, Tuệ linh và con người


1.1. Cội nguồn của Vũ trụ
Vũ trụ chúng ta đang sống hiện tại là 1 tinh cầu với vô
số các khối thiên hà. Các khối thiên hà được sắp xếp từ không
gian lõi cho tới hết phía bên ngoài tinh cầu Vũ trụ. Các khối
thiên hà đầu tiên được sắp xếp bao trùm không gian lõi bởi
sự liên kết giữa các khối thiên hà, vô số các khối thiên hà tiếp
theo được sắp xếp bao phủ theo hướng tầng tầng, lớp lớp các
khối thiên hà bên trong và phủ khắp toàn tinh cầu Vũ trụ.
Mỗi khối thiên hà lại được sắp xếp bởi nhiều dải thiên hà cấu
tạo thành. Mỗi dải thiên hà lại có vô số hệ mặt trời được sắp
xếp tập trung tạo thành các dải ánh sáng rực rỡ. Mỗi hệ mặt
trời lại có nhiều hành tinh quay xung quanh. Trái đất chúng
ta đang sống chính là một hành tinh quay xung quanh một
mặt trời. Đó là một Vũ trụ kỳ vĩ.
Tại thời điểm hiện tại của Vũ trụ, thông qua cơ chế
phân tách liên kết của hạt năng lượng, chúng ta trở ngược về
thời điểm hai hạt năng lượng tận cùng có sóng điện âm và
dương liên kết với nhau để tạo ra phôi âm dương cho sự
khởi đầu của Vũ trụ. Tính theo đơn vị đo lường thời gian của
Trái đất cũng tương đương 20 tỷ năm. Như vậy, mất 20 tỷ
năm để từ một phôi năng lượng âm dương thông qua cơ chế
phân tách và liên kết hạt năng lượng để tạo thành một Vũ trụ
kỳ vĩ với vô số các khối thiên hà được cấu tạo thành một tinh
cầu Vũ trụ khổng lồ. Đây đã phải là cội nguồn của Vũ trụ

438
chưa? – Nó chưa phải là cội nguồn của Vũ trụ. Cội nguồn của
Vũ trụ còn ở tiến xa về quá khứ rất nhiều.
Cội nguồn quá khứ của Vũ trụ theo trình tự như sau:
- Trong không gian vô tận, vô cùng, không có khu vực
nào có sóng điện âm hay dương, có những điểm như những
cái hang vô hình. Từ những cái hang vô hình đó, có những
hạt sóng xanh bé li ti được bay ra ngoài không gian. Những
hạt sóng xanh chưa sinh phát ra nhiệt lượng, chưa sinh phát
ra trạng thái năng lượng. Đặc biệt là những hạt sóng xanh
này chưa mã hóa thông tin nên nó chưa phát triển nâng cấp
thành các cấu trúc có trí tuệ. Những hạt sóng xanh được coi
là cội nguồn của Vũ trụ.
- Những hạt sóng xanh được sinh ra từ những cái hang
vô hình để di chuyển ra ngoài theo quỹ đạo hình xoắn ốc.
Những hạt sóng xanh di chuyển ra ngoài không gian không
có sóng điện khiến chúng không quay tròn xung quanh chính
nó. Những hạt sóng xanh di chuyển theo hình xoắn ốc là do
quỹ đạo di chuyển từ lúc sinh ra. Vì những hạt sóng xanh khi
di chuyển đã bắt đầu sinh nhiệt lượng trong nội tại hạt sóng
xanh, chúng phân tách nhân đôi và tách ra để tiếp tục di
chuyển. Quá trình di chuyển trong môi trường không có sóng
điện, những hạt sóng xanh bắt đầu sinh nhiệt nên chúng bắt
đầu giải mã, mã hóa thông tin quá trình di chuyển vào hạt.
Quá trình di chuyển, giải mã, mã hóa đã khiến chúng chuyển
sinh thành sợi mã sóng trí tuệ còn dang dở. Sợi mã sóng trí
tuệ còn dang dở đó đã tạo thành hạt năng lượng tận cùng, đó
là năng lượng hoại diệt. Năng lượng hoại diệt có sợi mã sóng
trí tuệ đã giải mã và mã hóa được những thông tin nhất định
trong quá trình di chuyển. Tuy nhiên vì môi trường không có
sóng điện, vì hạt sóng xanh không quay tròn, việc mã hóa

439
thông tin và nâng cấp thành cấu trúc trí tuệ chưa cao. Nó mới
chỉ dừng lại ở hạt năng lượng tận cùng và không có cơ chế
liên kết giữa các hạt năng lượng hoại diệt với nhau. Vì năng
lượng hoại diệt không liên kết với nhau nên chúng không
tuần hoàn được sóng điện cho nhau trong quá trình vận
động. Điều này khiến cho chúng nhanh bị dư thừa nhiệt
lượng trong hạt khi chúng di chuyển với mật độ dày. Chính vì
điều này mà năng lượng hoại diệt đã bị kích nổ ở nhiều khu
vực trong không gian chứa đựng vô số năng lượng hoại diệt.
Những vụ nổ của năng lượng hoại diệt đã bắt đầu tạo ra
những môi trường nhỏ có sóng điện âm và dương. Như vậy,
năng lượng hoại diệt là nền móng để xuất hiện Vũ trụ cũng
như là nguồn cung năng lượng giúp Vũ trụ phát triển về sau
này. Quá trình năng lượng hoại diệt được sinh ra đã giúp cho
năng lượng hoại diệt phát triển lớn mạnh và bao trùm trong
không gian vô tận. Năng lượng hoại diệt sống trong môi
trường không có sóng điện âm dương.
- Khi xuất hiện những khu vực có sóng điện dương và
âm trong không gian sống của năng lượng hoại diệt, các hạt
sóng xanh vẫn được sinh ra, có những hạt sóng xanh đã di
chuyển vào các khu vực có sóng điện âm, dương đó. Những
hạt sóng xanh di chuyển vào không gian sóng điện dương đã
chuyển hóa thành hạt năng lượng dương tận cùng có cơ chế
liên kết dây. Những hạt sóng xanh di chuyển vào không gian
sóng điện âm đã chuyển hóa thành hạt năng lượng âm tận
cùng có cơ chế liên kết dây. Quá trình các hạt sóng xanh di
chuyển vào không gian có sóng điện âm và dương đã khiến
cho các hạt sóng xanh quay tròn xung quanh chính nó để giải
mã, mã hóa thông tin trong quá trình biến đổi và chuyển sinh
thành sợi mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh. Những sợi mã sóng trí

440
tuệ hoàn chỉnh đã cấu tạo thành hạt năng lượng hoàn chỉnh
có khả năng nâng cấp cao hơn bởi chúng có khả năng liên
kết. Khi xuất hiện những hạt năng lượng tận cùng có sóng
điện, những hạt năng lượng hoại diệt di chuyển tới để xả
sóng điện dư thừa trong nó. Quá trình này sẽ thành công khi
các hạt năng lượng hoại diệt gặp được hạt năng lượng âm.
Quá trình xả sóng điện dư thừa sẽ thất bại khi gặp hạt năng
lượng dương, bởi cả hai sẽ bị kích nổ. Những hạt năng lượng
có sóng điện được sinh ra và bị kích nổ hoặc bị đồng hóa xảy
ra liên tục, tuy chưa phát triển thành cấu trúc vật chất mới,
nhưng là tín hiệu để hình thành cấu trúc vật chất với trí tuệ
lớn hơn.
- Sự xuất hiện phôi năng lượng âm dương trong không
gian năng lượng hoại diệt đã xảy ra. Đó là một hạt năng
lượng dương màu vàng có sóng điện dương siêu mạnh đã
liên kết với một hạt năng lượng âm màu trắng xám với sóng
điện âm rất nhẹ. Khi hai hạt năng lượng âm dương liên kết
với nhau đã xuất hiện màng bọc chân tâm bao bọc phôi âm
dương. Đây là sự nâng cấp trí tuệ vô cùng lớn từ khi xuất
hiện hạt sóng xanh. Phôi năng lượng âm dương này được
sinh ra từ hạt sóng xanh. Đây là phôi năng lượng âm dương
khởi đầu cho sự hình thành Vũ trụ.
- Phôi năng lượng âm dương khi liên kết với nhau,
chúng quay tròn để giải mã, mã hóa thông tin trong quá trình
vận động. Sự xuất hiện phôi năng lượng âm dương trong
không gian sống của năng lượng hoại diệt đã khiến cho năng
lượng hoại diệt bắt đầu xâm nhập tới để xả sóng điện dư
thừa. Vì có màng bọc chân tâm bao bọc vững chắc, vì sóng
điện âm trong phôi năng lượng rất nhẹ nên không kích động
nhiều năng lượng hoại diệt xâm nhập tới. Khi năng lượng

441
hoại diệt xâm nhập tới, vì có sóng điện dương siêu mạnh của
hạt năng lượng dương nên sóng điện dương được truyền ra
và làm kích nổ năng lượng hoại diệt. Phôi năng lượng âm
dương hấp thụ nhiệt lượng vào để xảy ra quá trình phân tách
hạt năng lượng trong phôi năng lượng âm dương. Quá trình
tấn công của năng lượng hoại diệt và quá trình kích nổ, hấp
thụ nhiệt của phôi năng lượng diễn ra liên tục. Quá trình đó
đã giúp cho phôi âm dương này chuyển sinh thành tinh cầu
năng lượng khổng lồ với màng bọc chân tâm vô cùng vững
chắc. Bên trong tinh cầu năng lượng khổng lồ có một Trụ linh
cho quá trình vận hành tinh cầu năng lượng khổng lồ. Trụ
linh đó chính là phôi năng lượng âm dương đã chuyển sinh
thành. Chính Trụ linh đó đã phân tách ra năm nhóm năng
lượng cấu tạo thành Vũ trụ sau này. Trụ linh đó chính là Trụ
linh của vị Tuệ linh đầu tiên, tức là vị Tuệ linh đầu tiên được
hình thành song song cùng Vũ trụ.
- Tinh cầu năng lượng khổng lồ với năm nhóm hạt
năng lượng bị nén bên trong, đồng thời, năng lượng hoại diệt
cũng lớn mạnh nên chúng tấn công ồ ạt vào màng bọc tinh
cầu năng lượng khổng lồ. Vừa bị sức nén từ bên trong tinh
cầu và nhiều năng lượng hoại diệt tập trung lớn ở màng bọc
chân tâm của tinh cầu năng lượng do đó, màng bọc tinh cầu
năng lượng đã bị kích nổ. Vụ nổ đó đã khiến cho không gian
năng lượng hoại diệt vô cùng lớn xung quanh bên ngoài tinh
cầu bị nổ theo. Năm nhóm năng lượng trong tinh cầu sau vụ
nổ đã giải phóng ra bên ngoài tạo thành không gian rộng lớn
của năm nhóm năng lượng khổng lồ. Không gian năm nhóm
năng lượng khổng lồ do có cơ chế liên kết dây, do có quay
tròn nên quay tròn xung quanh lõi của không gian năm nhóm
năng lượng.

442
- Vụ nổ đã làm cho năng lượng hoại diệt bị tiêu hao
quá lớn. Vụ nổ cũng cung cấp nhiệt lượng vô cùng lớn và giá
trị để giúp cho vị Tuệ linh đầu tiên kiến thiết, xây dựng thành
các dạng sống, thành Vũ trụ như ngày nay với vô số khối
thiên hà.
Như vậy, cội nguồn của Vũ trụ là một hành trình dài vô
tận để có được sự sống của Vũ trụ như ngày nay. Hạt sóng
xanh được gọi là cội nguồn của Vũ trụ. Năng lượng hoại diệt
bị kích nổ sẽ cung cấp năng lượng cho quá trình phát triển
Vũ trụ trở nên bền vững và lớn mạnh. Năm nhóm năng lượng
thông qua cơ chế quay tròn, tam hợp, phân tách liên kết dây
để cấu tạo thành tinh cầu Vũ trụ với vô số các khối thiên hà.
Vị Tuệ linh đầu tiên và dạng sống Tuệ linh đã kiến thiết, xây
dựng, phát triển, bảo vệ Vũ trụ phát triển bền vững.

1.2. Cội nguồn của Tuệ linh


Tuệ linh là một cấu trúc năng lượng với vô số hạt năng
lượng tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính có mã
sóng trí tuệ siêu phức tạp. Tuệ linh có siêu trí tuệ, có khả
năng di chuyển và cải tạo trong không gian Vũ trụ.
Tuệ linh chính là dạng sống, cấu trúc Tướng giống với
hình hài con người. Họ sống chủ yếu tại không gian lõi của Vũ
trụ. Tuệ linh chính là Chư thần, Thánh thần, Phật, Thiên
Chúa… theo quan điểm tôn giáo. Tuệ linh chính là người
ngoài hành tinh, theo cách gọi của khoa học đang tìm kiếm sự
sống giống con người ngoài Trái đất. Tuệ linh không phải do
các Tuệ linh giao phối sinh ra. Tuệ linh được sinh ra là do cơ
chế phân tách liên kết hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ siêu
phức tạp. Đó là những hạt năng lượng âm và hạt năng lượng

443
dương hợp lại thành phôi âm dương (Trụ linh) và hình thành
Tuệ linh.
Vậy, cội nguồn của dạng sống Tuệ linh? – Cội nguồn
của dạng sống Tuệ linh được chia làm hai hành trình:
- Vị Tuệ linh đầu tiên được hình thành cùng lúc và song
song với sự hình thành tinh cầu năng lượng của Vũ trụ. Đó là,
khi phôi năng lượng âm dương của Vũ trụ được hình thành
thì đó chính là phôi năng lượng âm dương của vị Tuệ linh
đầu tiên. Khi phôi năng lượng đó hình thành và phân tách
liên kết trong môi trường có năng lượng hoại diệt bị kích nổ
bên ngoài màng bọc chân tâm, phôi năng lượng đó giải mã,
mã hóa thông tin toàn diện môi trường xung quanh để phân
tách ra năm nhóm hạt năng lượng tận cùng để cấu tạo thành
tinh cầu Vũ trụ. Quá trình phân tách đó đồng thời diễn ra quá
trình liên kết những hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí
tuệ siêu phức tạp nhất, tinh hoa nhất để cấu tạo thành Trụ
linh trưởng thành và sau này là hình hài một vị Tuệ linh sống
trong tinh cầu năng lượng đó. Khi vụ nổ xảy ra, vị Tuệ linh
đầu tiên đứng giữa không gian lõi của không gian năm nhóm
năng lượng khổng lồ. Như vậy, vị Tuệ linh đầu tiên được hình
thành từ hai hạt sóng xanh chuyển sinh thành. Đó là hai hạt
sóng xanh di chuyển vào môi trường có sóng điện âm và
dương để giải mã, mã hóa thông tin và nâng cấp cấu trúc trí
tuệ thành hạt năng lượng tận cùng. Sau đó hai hạt năng
lượng âm dương tận cùng này liên kết với nhau để cấu tạo
thành phôi năng lượng âm dương của vị Tuệ linh đầu tiên và
cũng là của Vũ trụ. Có thể nói, Trụ linh của vị Tuệ linh đầu
tiên này lưu giữ toàn bộ sợi mã sóng trí tuệ của cả tinh cầu
năm nhóm năng lượng. Đây là điều đặc biệt và duy nhất chỉ

444
có vị Tuệ linh đầu tiên có, điều mà dạng sống Tuệ linh được
hình thành sau này không có được.
- Sau vụ nổ năng lượng, vị Tuệ linh đầu tiên bắt đầu
kiến thiết, xây dựng các dạng sống trong toàn bộ Vũ trụ. Vị
Tuệ linh đầu tiên đã phân năm nhóm năng lượng thành 3
nhóm để kiến thiết và xây dựng. Năm nhóm hạt năng lượng
tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp được kết tụ tại lõi
không gian năm nhóm hạt năng lượng Vũ trụ để tạo thành
các phôi năng lượng âm dương để chuyển sinh thành vô số
các Tuệ linh. Năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng
trí tuệ phức tạp được cấu tạo thành vật chất vận hành Vũ trụ.
Năm nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ giản
đơn được cấu tạo thành vật chất giản đơn để tạo thành các
khối thiên hà. Dạng sống Tuệ linh chính là siêu vật chất. Dạng
sống Tuệ linh được hình thành từ những hạt năng lượng tận
cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp và được dưỡng tại lõi
của Vũ trụ, thông qua cơ chế phân tách liên kết, quay tròn,
tam hợp, giải mã và mã hóa thông tin để chuyển sinh thành
Trụ linh và thành các em bé Tuệ linh. Các Tuệ linh được sinh
ra đều được vị Tuệ linh đầu tiên dẫn dắt, dạy dỗ và cùng
nhau xây dựng Vũ trụ lớn mạnh như ngày nay. Như vậy, dạng
sống Tuệ linh được sinh ra từ những hạt năng lượng tận
cùng đã được phân tách từ Trụ linh của vị Tuệ linh đầu tiên.
Đây là điều dễ hiểu khi các Tuệ linh không có được sức mạnh
giải mã thông tin, xử lý thông tin, phát triển cũng như sức
mạnh như vị Tuệ linh đầu tiên.
Có thể nói, cội nguồn của dạng sống Tuệ linh được bắt
nguồn từ phôi năng lượng âm dương của Vũ trụ. Phôi năng
lượng âm dương của Vũ trụ được hình thành từ hai hạt sóng

445
xanh. Năng lượng hoại diệt là nguồn cung nhiệt lượng cho
quá trình hình thành, phát triển của Vũ trụ và Tuệ linh.

1.3. Cội nguồn của con người


Con người là dạng sống vật chất giản đơn. Trong cơ
thể con người là tổng hợp của vô số các nhóm cấu trúc tế bào
chức năng được phân tách và liên kết tạo thành cơ thể hoàn
chỉnh. Đó là da, tóc, xương, mỡ, thịt, máu, gân, mạch, tim,
phổi, gan, mắt, tai, mũi, miệng, răng, đầu, thân, chân, tay…
Những tế bào chức năng được mã hóa thông tin với sứ mệnh
nhiệm vụ riêng để cấu tạo thành con người hoàn chỉnh. Có
thể nói, con người là bản thu nhỏ của Vũ trụ. Mỗi tế bào
trong cơ thể con người lại được cấu tạo bởi vô số phân tử
nhỏ hơn, mỗi phân tử lại được cấu tạo bởi vô số nguyên tử
nhỏ hơn, mỗi nguyên tử lại được cấu tạo bởi vô số hạt năng
lượng tận cùng có sóng điện âm – dương – trung tính.
Để thấu hiểu hơn về cội nguồn con người, chúng ta cần
tìm hiểu một chút về nước. Khi hiểu được điều này sẽ giúp
chúng ta có cái nhìn khoa học và rõ ràng về cội nguồn cũng
như sự hình thành của con người. Đó là, biển nước được hình
thành từ vô lượng giọt nước, mỗi một giọt nước được hình
thành từ vô số phân tử nước, mỗi một phân tử nước lại được
hình thành từ hai nguyên tử hiđro và một nguyên tử oxy. Con
người không thể nhìn được bằng mắt thường, không sờ thấy
được các nguyên tử này bởi chúng quá nhỏ. Tiếp đến, mỗi
một nguyên tử oxy hay hiđro lại được hình thành, cấu tạo từ
vô số hạt năng lượng tận cùng để tạo ra các hạt năng lượng
âm tổng hợp, dương tổng hợp, trung tính tổng hợp. Như vậy,
nước được cấu tạo từ vô số các hạt năng lượng tận cùng có
mã sóng trí tuệ giản đơn. Các cấu trúc liên kết của những hạt

446
năng lượng tận cùng có sự mã hóa thông tin và có sứ mệnh
khác nhau cũng như tế bào của con người vậy. Vậy, khi tế bào
con người mổ xẻ tới hạt năng lượng tận cùng thì chúng ta
cũng không thể nhìn thấy hay sờ thấy được. Chúng ta chỉ
nhìn được những cấu trúc vật chất lớn và tốc độ rung động
chậm.
Vậy cội nguồn con người được hành thành như sau:
- Quá trình dạng sống Tuệ linh được sinh ra, trưởng
thành, họ xây dựng, kiến thiết phát triển các dạng sống trong
Vũ trụ từ năm nhóm năng lượng sau vụ nổ, chính vì đó mà
hình thành Vũ trụ với vô số khối thiên hà như ngày nay. Tuy
nhiên, quá trình Vũ trụ phát triển thì dạng sống của năng
lượng hoại diệt cũng lớn mạnh vượt bậc về số lượng. Năng
lượng hoại diệt xâm nhập vào bên trong Vũ trụ để truy tìm
các cấu trúc vật chất có sóng điện âm nhằm xả sóng điện dư
thừa. Chính vì các cấu trúc năng lượng âm có bản chất là hút
về nên đây là điều năng lượng hoại diệt cần để chúng tự cứu
chính chúng. Nếu không xả bỏ sóng điện dư thừa thì chúng sẽ
bị kích nổ mà hoại diệt. Trong Vũ trụ hình thành các cơn bão
năng lượng hoại diệt. Những cơn bão năng lượng hoại diệt
đã làm cho vô số Tuệ linh bị phân rã và hoại diệt khi gặp
phải. Không những vậy, các hành tinh, các cấu trúc vật chất
trong Vũ trụ cũng bị phân rã khi bị các cơn bão năng lượng
hoại diệt càn quét qua. Nguyên nhân dạng sống Tuệ linh bị
hoại diệt nhiều là do khả năng giải mã, mã hóa thông tin
trong quá trình hình thành và phát triển còn hạn chế nên
không có khả năng miễn dịch cũng như chuyển hóa được
năng lượng hoại diệt. Chính vì điều đó, dù dạng sống Tuệ linh
đã tìm mọi phương pháp để giúp cho chính họ có khả năng
miễn dịch cũng như chuyển hóa được năng lượng hoại diệt,

447
nhưng tất cả đều chưa có kết quả. Dạng sống Tuệ linh tồn tại
trong một trạng thái an lạc bên trong Vũ trụ nên chưa trải
nghiệm đầy đủ các môi trường tương tác khác nhau. Trong
khi đó, năng lượng hoại diệt lại tồn tại bên ngoài tinh cầu Vũ
trụ. Chính vì điều này, dù dạng sống Tuệ linh có an lạc cũng
không đủ khả năng miễn dịch và chuyển hóa năng lượng hoại
diệt. Có thể nói, dạng sống Tuệ linh chưa bộc phát được khả
năng phản vệ, triệt tiêu năng lượng hoại diệt nên dễ dàng bị
phân rã bởi năng lượng hoại diệt.
- Vị Tuệ linh đầu tiên thấy rõ được những hạn chế của
cả dạng sống Tuệ linh: Chưa tương tác trong đầy đủ các môi
trường khác nhau, chưa giải mã, mã hóa được đầy đủ các
thông tin của vạn vật và các môi trường hoàn chỉnh. Chính vì
vậy, vị Tuệ linh đầu tiên cùng dạng sống Tuệ linh đã nghiên
cứu và xây dựng môi trường tu hành cho dạng sống Tuệ linh.
Môi trường đó phải đảm bảo quy tụ, mô phỏng được các môi
trường sóng điện tương tác của tất cả các nhóm vật chất
trong và ngoài Vũ trụ để Tuệ linh tương tác và giải mã. Đặc
biệt, dạng sống Tuệ linh sẽ phải an trụ và hòa nhập trong
thân tướng giản đơn để đẩy nhanh tốc độ tương tác cũng
như giải mã và mã hóa thông tin chân thật nhất. Tuệ linh sẽ
hóa thân thành thân tướng con người để thực hiện hành
trình đi tìm con đường tự cứu mình và Vũ trụ. Đó là hành
trình đi tìm Đạo hợp nhất của Vũ trụ tại nhân gian.
- Thời cơ để đưa các Tuệ linh hóa thân làm con người
đã chín muồi, sự chín muồi bởi dạng sống muông thú đã
được thử nghiệm trước để xem quá trình chuyển sinh có đạt
được điều mong muốn của các Tuệ linh không. Khi kết quả
đã đạt được chính là thời điểm mà Tuệ linh được tập kết để
hóa thân thành con người.

448
- Các Tuệ linh hóa thân thành con người được bắt đầu
tại các cuộc tập kết ở Trái đất. Vậy Tuệ linh làm thế nào để
hóa thành con người? – Các Tuệ linh được tuyển chọn sẽ đều
tới Trái đất trong ngày hội chuyển sinh này. Họ vận hành, di
chuyển các hạt năng lượng tận cùng có mã sóng trí tuệ giản
đơn của năm nhóm hạt năng lượng kết tụ vào cấu trúc Tuệ
linh của họ. Những nhóm hạt năng lượng tận cùng có mã
sóng trí tuệ khác nhau được cấu tạo và mã hóa thành những
tế bào chức năng khác nhau trong cơ thể con người. Cơ thể
con người đã được hợp nhất bởi cấu trúc năng lượng siêu
phức tạp của Tuệ linh và cấu trúc năng lượng giản đơn trong
Vũ trụ hợp lại. Để cấu tạo thành một con người hoàn chỉnh
thì cần vô số năm nhóm hạt năng lượng tận cùng giản đơn
kết tụ lại. Đây là lần duy nhất dùng phương pháp này. Sau lần
tập kết nhân loại đó, các Tuệ linh luân hồi làm con người sẽ
tuân thủ thông qua cơ chế sinh sản của con người.
- Các muông thú từ trước và sau khi xuất hiện con
người đều được hình thành như con người cho từng giống
loài. Tuy nhiên, muông thú thay vì Tuệ linh an trụ sẽ là linh
hồn (cấu trúc năng lượng phức tạp) an trụ để hợp nhất với
các năng lượng giản đơn cấu tạo thành. Sau đó, chúng cũng
sẽ tuân thủ sinh sản giống con người để phát triển giống loài
đó.
- Sau này, khi linh hồn các con thú đã phát triển đạt
được khả năng làm người bởi quá trình giải mã và mã hóa
thông tin, họ sẽ được hóa thân làm con người thông qua quá
trình luân hồi và sinh sản.
Như vậy, cội nguồn con người có hai nguồn. Đó là từ
dạng sống Tuệ linh và từ linh hồn muông thú hóa thành.
Dạng sống Tuệ linh là xuống Trái đất để tu hành. Dạng sống

449
linh hồn của muông thú được con người thuần hóa và giúp
chuyển sinh thành con người. Cả hai đang sống cùng nhau
mà không nhận biết về nhau.

2. Cấu trúc của Vũ trụ, Tuệ linh và con người


2.1. Các nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ
Không gian bên trong và bên ngoài Vũ trụ có 5 nhóm
vật chất. Không gian bên ngoài Vũ trụ có 2 nhóm vật chất
(nhóm vật chất cội nguồn, nhóm vật chất hoại diệt) và không
gian bên trong Vũ trụ có 3 nhóm vật chất (nhóm vật chất
giản đơn, nhóm vật chất phức tạp, nhóm siêu vật chất). Ba
nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ từ năm nhóm hạt năng
lượng tận cùng sau vụ nổ của tinh cầu năng lượng khổng lồ.
Năm nhóm vật chất bao trùm trong và ngoài Vũ trụ
như sau:
- Nhóm vật chất cội nguồn: Đây là nhóm hạt sóng xanh
nõn chuối. Bản chất của loại hạt sóng này là chúng chưa
chuyển sinh thành loại hạt năng lượng nào cả. Do quá trình
di chuyển và sứ mệnh của chúng mà chúng đã phân tách rồi
chuyển sinh thành nhóm vật chất hoại diệt (năng lượng hoại
diệt). Đặc biệt là thông qua nhiệt lượng của năng lượng hoại
diệt bị kích nổ, hạt sóng xanh di chuyển vào môi trường đó
và chuyển sinh thành phôi năng lượng âm dương. Đó là khởi
đầu cho sự hình thành 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ.
Chính vì vậy, nhóm hạt sóng xanh được gọi là nhóm vật chất
cội nguồn của trong và ngoài Vũ trụ. Nhóm vật chất cội
nguồn cùng nhóm vật chất hoại diệt tồn tại trong không gian
vô tận bên ngoài tinh cầu Vũ trụ.

450
- Nhóm vật chất hoại diệt: Đây là nhóm năng lượng
hoại diệt. Nhóm năng lượng hoại diệt là những hạt năng
lượng tận cùng được chuyển sinh từ những hạt sóng xanh.
Năng lượng hoại diệt do không liên kết để nâng cấp cấu trúc
nên chúng chỉ là hạt đơn độc lập hình elip. Bản chất của loại
vật chất hoại diệt này là làm phân rã và đồng hóa các cấu trúc
vật chất khác. Năng lượng hoại diệt khi bị kích nổ sẽ tạo ra
nhiệt lượng lớn và giá trị vô cùng cho quá trình phát triển
bền vững của Vũ trụ. Nhóm vật chất hoại diệt cùng nhóm vật
chất cội nguồn tồn tại ở không gian vô tận bên ngoài tinh cầu
Vũ trụ.
- Nhóm vật chất giản đơn: Đó là những hạt năng lượng
tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính của 5 nhóm
hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ giản đơn. Đó là những phôi
năng lượng âm dương được liên kết bởi các hạt năng lượng
âm dương tận cùng có mã sóng trí tuệ giản đơn. Đó là những
cấu trúc Trụ linh trưởng thành với 16 hạt năng lượng âm
dương tổng hợp mở rộng mang mã sóng trí tuệ giản đơn. Đó
là những cấu trúc Trụ linh có mã sóng trí tuệ giản đơn liên
kết lại tạo thành những nguyên tử. Đó là những cấu trúc
phân tử được liên kết từ những nguyên tử có mã sóng trí tuệ
giản đơn. Đó là những tế bào. Đó là những vật chất rắn, vật
chất lỏng, vật chất khí, là cỏ cây, đất đá, kim loại, động vật,
con người, muông thú, hành tinh, khối thiên hà, tất cả các
khối thiên hà tạo thành hình hài của Vũ trụ.
- Nhóm vật chất phức tạp: Đó là những hạt năng lượng
tận cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính của 5 nhóm
hạt năng lượng có mã sóng trí tuệ phức tạp. Đó là những cấu
trúc phôi năng lượng âm dương có mã sóng trí tuệ phức tạp.
Đó là những cấu trúc Trụ linh trưởng thành với 16 hạt năng

451
lượng mở rộng bên ngoài có mã sóng trí tuệ phức tạp. Đó là
những cấu trúc năng lượng phức tạp trưởng thành – linh hồn
an trụ trong cây, trong đất đá, trong muông thú. Đó là những
trường năng lượng vận hành sự vận động của Vũ trụ. Nhóm
vật chất phức tạp là năng lượng vận hành nhóm vật chất giản
đơn.
- Nhóm siêu vật chất: Đó là những hạt năng lượng tận
cùng mang sóng điện âm, dương, trung tính của 5 nhóm hạt
có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là những cấu trúc phôi
năng lượng âm dương có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là
những cấu trúc Trụ linh trưởng thành với 16 hạt năng lượng
mở rộng bên ngoài có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Đó là
những cấu trúc Tuệ linh. Đó là những cấu trúc linh hồn được
nâng cấp chuyển sinh từ linh hồn muông thú. Đó là các siêu
hạt năng lượng (siêu hạt bóng hỏa, siêu hạt vàng óng ánh,
siêu hạt xanh ngọc lưu ly, siêu hạt chân tâm) được Tuệ linh
phân tách ra nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển tất cả các
nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.
Trong 5 nhóm vật chất: Nhóm vật chất cội nguồn (hạt
sóng xanh) là cội nguồn chuyển sinh thành tất cả các nhóm
vật chất khác. Nhóm vật chất hoại diệt là nhóm vật chất cung
ứng nhiệt lượng để cho nhóm vật chất cội nguồn chuyển sinh
thành 3 nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ. Nhóm vật chất
giản đơn, nhóm vật chất phức tạp, nhóm siêu vật chất là
thành tựu, là tinh hoa của quá trình chuyển sinh từ nhóm vật
chất cội nguồn (phôi âm dương được chuyển sinh từ hai hạt
sóng xanh). Nhóm siêu vật chất có sứ mệnh là vận hành tất
cả các nhóm vật chất hoại diệt, vật chất giản đơn, vật chất
phức tạp cùng phát triển bền vững. Để tạo ra sự phát triển
bền vững cho các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ

452
linh là dạng sống của siêu vật chất có sứ mệnh sản sinh ra các
siêu hạt năng lượng. Những siêu hạt năng lượng cũng là siêu
vật chất. Nó có sứ mệnh duy trì sự tồn tại và phát triển bền
vững tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.

2.2. Cấu trúc nền vận hành Vũ trụ


Cấu trúc nền vận hành Vũ trụ chính là một dạng cấu
trúc được liên kết giữa các hạt năng lượng tổng hợp với nhau
và bao trùm trong toàn bộ không gian trong tinh cầu Vũ trụ.
Cấu trúc nền được liên kết đa chiều bởi vô lượng cấu
trúc 16 hạt năng lượng tổng hợp như sau:

Hình: Cấu trúc nền bao trùm trong tinh cầu Vũ trụ

453
- Trong cấu trúc nền 16 hạt này gồm có 8 hạt năng
lượng có sóng điện dương, có 8 hạt năng lượng có sóng điện
âm.
- Tám hạt năng lượng có sóng điện dương sẽ được liên
kết chặt chẽ với nhau tạo thành 8 đỉnh của hình lập phương.
Hạt năng lượng chân tâm làm nhiệm vụ liên kết.
- Tám hạt năng lượng có sóng điện âm sẽ rung lắc tạo
thành hạt năng lượng vệ tinh xung quanh 8 hạt năng lượng
dương.
- Hạt năng lượng dương là hạt tổng hợp, được liên kết
lại bởi nhiều hạt năng lượng dương tận cùng có sóng điện
dương siêu nhẹ. Do các hạt năng lượng dương tận cùng có
sóng điện dương siêu nhẹ, tốc độ quay thuận chiều kim đồng
hồ nhẹ nên khi hợp lại thành hạt tổng hợp, sóng điện dương
của hạt tổng hợp cũng là siêu nhẹ. Màu của trạng thái năng
lượng hạt dương tổng hợp là màu trắng đục ngà.
- Hạt năng lượng âm là hạt tổng hợp, được liên kết lại
bởi nhiều hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện âm siêu
nhẹ. Do các hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện âm siêu
nhẹ, tốc độ quay ngược chiều kim đồng hồ nhẹ nên khi hợp
lại thành hạt tổng hợp, sóng điện âm của hạt tổng hợp cũng
là siêu nhẹ. Màu của trạng thái năng lượng hạt âm tổng hợp
là màu trắng xám.
Trong cấu trúc nền này, mỗi hạt năng lượng âm làm
nhiệm vụ rung lắc để thu hút tín hiệu cho dạng vật chất phức
tạp và siêu vật chất nhận diện được điểm đến, tức là nhận
diện được đích tới. Mỗi hạt năng lượng dương làm địa điểm
để tới và đồng thời làm nhiệm vụ đẩy, chuyển nối tiếp thông
tin đi trong cấu trúc nền. Có thể hiểu rằng, cấu trúc nền có tác
dụng: Hạt năng lượng dương là đẩy chuyển tiếp thông tin,
454
hạt chân tâm là đường truyền, còn hạt năng lượng âm là tín
hiệu thu hút để vật chất phức tạp và siêu vật chất di chuyển
trong khắp không gian Vũ trụ.
Cấu trúc nền có trung tâm là ở lõi của Vũ trụ, đó là nơi
dạng sống Tuệ linh (siêu vật chất) an trụ. Từ đó, cấu trúc 16
hạt sẽ được phân tách thành vô lượng cấu trúc 16 hạt như
vậy từ trung tâm ra các chiều không gian. Sự phân tách và
liên kết vô tận đó đã bao trùm toàn bộ tinh cầu Vũ trụ.
Tất cả dạng vật chất giản đơn, dạng vật chất phức tạp
và dạng siêu vật chất đều tồn tại, sống trong cấu trúc nền
này. Sự di chuyển thành quỹ đạo của các hành tinh, của các
hệ mặt trời, của các dải thiên hà, của các khối thiên hà, của cả
toàn bộ Vũ trụ đều dựa trên cấu trúc nền này. Năm nhóm
năng lượng của vật chất phức tạp và các siêu hạt năng lượng
sẽ di chuyển trong cấu trúc nền này để liên kết tới các hành
tinh, vật chất, toàn bộ Vũ trụ để vận hành toàn bộ Vũ trụ vận
động theo quỹ đạo nhất định, đó là quỹ đạo quay tròn. Dạng
sống Tuệ linh (siêu vật chất) sẽ phân tách hạt năng lượng di
chuyển trong cấu trúc nền, vận hành năng lượng trong cấu
trúc nền này để xây dựng sự phát triển, tồn tại cho Vũ trụ.
Tuệ linh, Linh hồn cũng phải thông qua cấu trúc nền
mới có thể di chuyển được trong Vũ trụ. Bởi cấu trúc nền sẽ
giúp cho Tuệ linh, Linh hồn xác định được phản hồi tín hiệu
dựa trên các hạt năng lượng âm trong cấu trúc. Di chuyển tới
điểm đến được chính xác cũng như dễ dàng vì có các hạt
năng lượng dương và liên kết của chúng.
Các hạt năng lượng trong cấu trúc nền có mã sóng trí
tuệ phức tạp. Do đó, con người không thể nhìn thấy bằng mắt
thường.

455
Cấu trúc nền được vị Tuệ linh đầu tiên và dạng sống
Tuệ linh xây dựng để vận hành được tất cả các dạng sống
trong tinh cầu Vũ trụ được dễ dàng. Để việc vận hành Vũ trụ
dễ dàng, để việc truyền tải sóng điện, truyền tải năng lượng,
truyền tải thông tin được dễ dàng thì đó chính là lý do mà vị
Tuệ linh đầu tiên cùng dạng sống Tuệ linh kiến tạo cấu trúc
nền chỉ là những hạt năng lượng chớm sóng điện âm và
chớm sóng điện dương.

2.3. Cấu trúc Tam hợp của Vũ trụ


Tinh cầu Vũ trụ được cấu tạo bởi 3 nhóm vật chất, đó
là nhóm vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp và nhóm
siêu vật chất. Ba nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ được gọi
là cấu trúc tam hợp của Vũ trụ. Tức là ba cấu trúc này tồn tại
hợp nhất với nhau mà không tách rời, tồn tại trong nhau,
nương tựa nhau để cùng phát triển bền vững.
Tam hợp của Vũ trụ như sau:
- Nhóm vật chất giản đơn với vô số các khối thiên hà
được sắp xếp tầng tầng lớp lớp từ không gian lõi bao trùm
toàn bộ tinh cầu Vũ trụ khổng lồ. Đây là hình tướng của Vũ
trụ.
- Năm nhóm năng lượng và các siêu hạt năng lượng
được vận hành từ không gian lõi của Vũ trụ lan tỏa tạo thành
những tia năng lượng được liên kết dây tới tất cả các hành
tinh, các khối thiên hà của toàn bộ Vũ trụ. Nhiệm vụ của năm
nhóm năng lượng và các siêu năng lượng là an trụ trong toàn
bộ hình tướng của Vũ trụ để thúc đẩy hình tướng được phân
tách và giãn nở theo hướng bền vững; tiếp theo là vận hành
hình tướng Vũ trụ quay tròn để sinh nhiệt, kích nổ được

456
năng lượng hoại diệt cũng như giúp cho hình tướng Vũ trụ
phân tách liên kết bền vững.
- Trí tuệ của Vũ trụ chính là dạng sống Tuệ linh. Dạng
sống Tuệ linh được gọi là trí tuệ của cả Vũ trụ. Dạng sống Tuệ
linh vận hành nhóm vật chất phức tạp để giúp cho hình
tướng Vũ trụ được hình thành và phát triển bền vững.
Ba nhóm vật chất này tồn tại trong nhau, nương tựa
nhau để phát triển trong sự không thể tách rời. Nhóm siêu
vật chất và Tuệ linh muốn tồn tại và phát triển phải nương
tựa nhóm vật chất giản đơn. Nhóm vật chất giản đơn muốn
tồn tại và phát triển được phải nhờ có nhóm siêu vật chất,
Tuệ linh vận hành và được nhóm vật chất phức tạp an trụ.
Nhóm vật chất phức tạp muốn tồn tại và phát triển được
phải có nhóm siêu vật chất, Tuệ linh vận hành và được an trụ
trong nhóm vật chất giản đơn.

2.4. Cấu trúc Vũ trụ quay tròn


Cả tinh cầu Vũ trụ đều vận động quay tròn. Cụ thể như
sau:
- Hạt năng lượng tận cùng của cả 3 nhóm vật chất cấu
tạo thành Vũ trụ (giản đơn, phức tạp và siêu phức tạp) đều
vận động quay tròn xung quanh chính nó. Hạt năng lượng âm
quay ngược chiều kim đồng hồ, hạt năng lượng dương quay
thuận chiều kim đồng hồ. Mỗi hạt năng lượng tận cùng vận
động quay tròn để tạo thành cơ chế liên kết dây. Có cơ chế
liên kết dây mới cấu tạo thành các cấu trúc vật chất có trí tuệ
và độ phức tạp cao hơn.
- Phôi năng lượng âm dương của cả 3 nhóm vật chất
cấu tạo thành Vũ trụ đều vận động quay tròn. Đó là sóng điện

457
âm dương trong phôi năng lượng tuần hoàn với nhau để
thực hiện quá trình giải mã và mã hóa thông tin. Khi đủ
lượng thông tin sẽ thực hiện cơ chế phân tách và liên kết các
hạt năng lượng.
- Trụ linh và các cấu trúc như con người, muông thú,
Tuệ linh, linh hồn, cây cối, đất đá… đều vận động quay tròn.
Đó là trạng thái năng lượng, sóng điện dương tuần hoàn
trong toàn bộ cấu trúc dựa trên đường truyền chân tâm. Quá
trình quay tròn tuần hoàn sóng điện dương sẽ phải thông
qua hệ thống hạt năng lượng âm rung lắc tại mỗi điểm cụm
hạt năng lượng âm dương trong cấu trúc. Việc từ Trụ linh
cho tới Tuệ linh, con người, muông thú, cỏ cây, linh hồn, đất
đá… vận động tuần hoàn sóng điện âm dương sẽ giúp cho
toàn bộ cấu trúc giải mã và mã hóa thông tin đầy đủ cho quá
trình phân tách và liên kết hạt năng lượng. Bên cạnh đó, việc
tuần hoàn sóng điện sẽ giúp cho cấu trúc đó có nhiệt lượng
dương để phân tách liên kết theo hướng bền vững.
- Các hành tinh đều vận động quay tròn. Mỗi hành tinh
đều có cấu trúc sóng điện âm, dương, trung tính, đặc biệt lại
được sự vận hành từ dạng sống Tuệ linh và năng lượng phức
tạp nên các hành tinh quay tròn xung quanh chính nó để làm
nhiệm vụ chuyển hóa năng lượng hoại diệt thành nhiệt lượng
lớn cho quá trình phân tách giãn nở của các hành tinh.
- Hệ mặt trời đều vận động quay tròn. Đó là các hành
tinh có đa sóng điện âm sẽ quay tròn xung quanh mặt trời.
Mỗi hành tinh đều quay tròn xung quanh chính nó và quay
tròn xung quanh hệ mặt trời là do dạng sống Tuệ linh vận
hành năng lượng phức tạp tạo thành. Khi các hành tinh đa
sóng điện âm quay tròn xung quanh hệ mặt trời sẽ tạo thành
ngày đêm, ban đêm sẽ đa năng lượng âm để thu hút năng

458
lượng hoại diệt, ban ngày sẽ đón được sóng điện dương của
mặt trời để ngủ đông hoặc kích nổ năng lượng hoại diệt. Hệ
mặt trời quay tròn nhằm nhiệm vụ chuyển hóa năng lượng
hoại diệt thành nhiệt lượng dương cho quá trình giãn nở và
phát triển bền vững của Vũ trụ.
- Các dải thiên hà đều vận động quay tròn xung quanh
nó trong mỗi khối chứa đựng các dải thiên hà. Cả tinh cầu
khổng lồ với vô số khối thiên hà được sắp xếp tầng tầng lớp
lớp từ trong lõi ra ngoài đều vận động quay tròn xung quanh
lõi của Vũ trụ. Tinh cầu Vũ trụ quay tròn nhằm tạo ra nhiệt
lượng cho quá trình duy trì sự tồn tại, sinh nhiệt để thực hiện
được cơ chế phân tách và liên kết bền vững. Đặc biệt, việc
vận động quay tròn sẽ tuần hoàn được năng lượng khắp Vũ
trụ, sẽ giúp chuyển hóa năng lượng hoại diệt thành nhiệt
lượng giúp cho toàn bộ 3 dạng vật chất trong Vũ trụ đều phát
triển bền vững. Hệ thống cấu trúc năng lượng âm, vật chất đa
âm trong Vũ trụ sẽ làm nhiệm vụ rung lắc để thu hút năng
lượng hoại diệt xâm nhập vào, tiếp đó là hệ thống năng
lượng dương, cấu trúc vật chất đa dương sẽ tỏa sóng điện
dương để kích nổ năng lượng hoại diệt.
Như vậy, cấu trúc Vũ trụ vận động quay tròn chính là
nhà máy khổng lồ hấp thụ năng lượng hoại diệt để kích nổ và
chuyển hóa nhiệt lượng cho quá trình tồn tại, phát triển bền
vững. Trong nhà máy khổng lồ đó, mỗi con người, Tuệ linh,
cỏ cây, linh hồn, đất đá, Trụ linh, phôi năng lượng âm dương
đều là những nhà máy nhỏ để chuyển hóa năng lượng hoại
diệt. Những cấu trúc, dạng sống nào chưa chuyển hóa, chưa
vận hành được cơ chế chuyển hóa sẽ phải học cách để
chuyển hóa, đó là học cách chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng. Đây là điều mà dạng sống Tuệ linh đang tu hành

459
trong thân tướng con người để học và chuyển hóa được Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng, để chuyển hóa được năng
lượng hoại diệt thành các siêu năng lượng tốt cho sự phát
triển của cả Vũ trụ.

2.5. Cấu trúc Vũ trụ đều là thông tin


Vũ trụ có 3 nhóm vật chất là giản đơn, phức tạp và siêu
vật chất. Ba nhóm vật chất này đều được cấu tạo từ hạt năng
lượng tận cùng. Trong mỗi hạt năng lượng tận cùng lại có sợi
mã sóng trí tuệ và nhiệt lượng được lưu giữ bên trong. Sợi
mã sóng trí tuệ chính là sợi lưu giữ thông tin được giải mã và
mã hóa trong quá trình vận động. Như vậy, cả Vũ trụ đều là
thông tin. Vũ trụ chứa đựng lượng thông tin vô cùng vĩ đại.
Tuệ linh, con người… đều là cấu trúc chứa đựng khối lượng
thông tin vô cùng lớn.
Thông tin của Vũ trụ được phân chia theo cấp độ từ
giản đơn cho tới phức tạp và siêu phức tạp:
- Thông tin giản đơn chính là nhóm vật chất giản đơn.
Thông tin giản đơn vì sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng
lượng tận cùng có nhịp rung động giản đơn và chậm. Chính vì
nhịp sóng rung động giản đơn và chậm nên nó chỉ ghi, lưu
giữ được lượng thông tin ít và giản đơn trong sợi. Vì thông
tin giản đơn nên nhóm vật chất giản đơn không tự di chuyển
được mà phải nhờ tới nhóm vật chất phức tạp và siêu phức
tạp.
- Thông tin phức tạp chính là nhóm vật chất phức tạp.
Thông tin phức tạp vì sợi mã sóng trí tuệ trong hạt năng
lượng tận cùng có nhịp rung động mạnh, nhiều nhịp và phức
tạp. Chính vì thế, sợi mã sóng trí tuệ ghi, lưu giữ được lượng

460
lớn thông tin và có độ phức tạp lớn trong sợi. Vì thông tin
phức tạp nên nhóm vật chất phức tạp có khả năng vận hành
và thúc đẩy Vũ trụ phát triển.
- Thông tin siêu phức tạp hay còn gọi là siêu thông tin.
Thông tin siêu phức tạp là của dạng sống Tuệ linh và siêu vật
chất. Thông tin siêu phức tạp vì sợi mã sóng trí tuệ của hạt
năng lượng tận cùng đã ghi, lưu giữ được lượng thông tin
khổng lồ và vô cùng phức tạp bởi nhịp rung động của mã
sóng trí tuệ siêu nhanh và nhiều. Chính vì có siêu thông tin
trong sợi mã sóng trí tuệ nên dạng sống Tuệ linh, siêu vật
chất có siêu trí tuệ nhất Vũ trụ, có khả năng di chuyển và vận
hành cả Vũ trụ.
Thông tin của Vũ trụ được chia theo đặc tính tốt và độc
hại:
- Thông tin có đặc tính tốt chính là thông tin được lưu
giữ trong sợi mã sóng trí tuệ của các hạt năng lượng dương.
Gọi là thông tin tốt bởi vì trong hạt chứa đựng nhiệt lượng,
thông tin tích cực để giúp cho vạn vật trong Vũ trụ phát triển
bền vững. Nguyên nhân là thông tin tốt vì sợi mã sóng trong
hạt năng lượng dương rung động sinh nhiệt dương để kích
nổ được năng lượng hoại diệt, để phát triển cấu trúc liên kết
bền vững.
- Thông tin có đặc tính độc hại là thông tin được lưu
giữ trong sợi mã sóng trí tuệ của các hạt năng lượng âm. Gọi
là thông tin độc hại bởi vì trong hạt chứa đựng nhiệt lượng,
thông tin tiêu cực gây phân rã cấu trúc. Nguyên nhân là
thông tin độc hại vì sợi mã sóng trong hạt năng lượng âm
không kiểm soát được sóng rung động, sẽ dẫn tới việc năng
lượng hoại diệt bắt được tín hiệu và di chuyển tới để gây
phân rã cấu trúc.
461
Thông tin của Vũ trụ được phân chia theo nhiệm vụ
thu, phát và đường truyền tín hiệu:
- Hệ thống hạt năng lượng âm trong toàn bộ vật chất
của Vũ trụ có nhiệm vụ thu tín hiệu, hút tín hiệu thông tin di
chuyển tới cấu trúc.
- Hệ thống hạt năng lượng dương trong toàn bộ vật
chất của Vũ trụ có nhiệm vụ đẩy chuyển tiếp thông tin di
chuyển.
- Hệ thống hạt năng lượng chân tâm (trung tính) trong
toàn bộ vật chất của Vũ trụ có nhiệm vụ làm đường truyền
liên kết giữa các hạt năng lượng dương để thông tin được di
chuyển.
Như vậy, toàn bộ Vũ trụ là thông tin. Thông tin có độ
phức tạp khác nhau, có đặc tính tốt và độc hại khác nhau, có
nhiệm vụ khác nhau. Vấn đề là vận hành cũng như kiểm soát
thông tin làm sao để Vũ trụ, Tuệ linh, con người phát triển
theo hướng bền vững.

2.6. Cấu trúc Tuệ linh


Cấu trúc cấu tạo thành Tuệ linh chính là cấu trúc tam
hợp mà thành Tuệ linh.
Tam hợp yếu tố hợp thành Tuệ linh gồm có Trụ – Trí
(tổng sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh), Trụ – Tâm (trạng
thái năng lượng, sóng điện trong Trụ linh), hình tướng Tuệ
linh. Để thấu hiểu 3 yếu tố cấu tạo thành Tuệ linh, chúng ta
cần thấu hiểu quá trình hình thành, phát triển của Tuệ linh
như sau: đầu tiên là phôi năng lượng âm dương được liên kết
lại từ hạt năng lượng âm và dương tận cùng có sợi mã sóng
trí tuệ siêu phức tạp. Khi phôi năng lượng âm dương được

462
hình thành, gọi là Trụ linh gốc. Trụ linh gốc có chứa đựng hai
sợi mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Thông qua cơ chế phân
tách và liên kết dây của hạt năng lượng, Trụ linh phân tách ra
những sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện âm và dương.
Những sợi mã sóng trí tuệ đó được chứa đựng ở Trụ linh gốc.
Tiếp đến, những sợi mã sóng trí tuệ đó phân tách thành
những hạt năng lượng ra bên ngoài Trụ linh gốc và được cấu
tạo thành thái cực chứa đựng hạt năng lượng âm và dương.
Trụ linh gốc liên tục phân tách ra các sợi mã sóng trí tuệ lưu
giữ trong Trụ linh gốc và thành hạt năng lượng ra thái cực
bên ngoài Trụ linh gốc để tạo thành Trụ linh trưởng thành.
Như vậy, Trụ linh trưởng thành gồm có Trụ linh gốc bên
trong là nơi chứa đựng các sợi mã sóng trí tuệ, hai thái cực
năng lượng âm và dương bên ngoài lưu giữ các hạt năng
lượng tận cùng được sao chép từ các sợi mã sóng trí tuệ
trong Trụ linh gốc. Sau khi đã tạo ra được nhiều sợi mã sóng
trí tuệ ở Trụ linh gốc và nhiều hạt năng lượng tận cùng ở thái
cực chứa đựng các hạt năng lượng, sẽ diễn ra quá trình liên
kết và phân tách tiếp. Đó là các hạt năng lượng tận cùng
trong thái cực âm, dương liên kết với chính nó để tạo thành
những hạt dương tổng hợp và những hạt âm tổng hợp rồi di
chuyển ra bên ngoài Trụ linh để cấu tạo thành cấu trúc 16
hạt năng lượng tổng hợp mở rộng bên ngoài Trụ linh. Cấu
trúc Trụ linh với 16 hạt năng lượng càng được mở rộng đa
chiều ra bên ngoài chính là việc Tuệ linh hình thành (khi cấu
trúc Trụ linh có 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài) Tuệ
linh em bé và Tuệ linh trưởng thành. Trong cấu trúc Tuệ linh
gồm có 3 loại hạt năng lượng là âm, dương, trung tính được
liên kết với nhau tạo thành cấu trúc năng lượng có mã sóng

463
trí tuệ siêu phức tạp tuần hoàn sóng điện. Vậy tam hợp cấu
trúc Tuệ linh cụ thể là:

Hình: Cấu tạo tam hợp Tuệ linh


- Yếu tố đầu tiên là Trụ – Trí: Trụ – Trí là tổng các sợi
mã sóng trí tuệ được lưu giữ tại Trụ linh gốc (hạt âm và hạt
dương gốc) cho tới toàn bộ cấu trúc Tuệ linh. Gọi là Trụ – Trí
là để thể hiện được bản chất là trong Trụ linh gốc lưu giữ
toàn bộ tổng các sợi mã sóng trí tuệ từ khi Tuệ linh đó được
hình thành từ phôi năng lượng âm dương cho tới khi trưởng
thành và tới thời điểm đề cập tới. Từ tổng các sợi mã sóng

464
trong Trụ linh gốc sẽ sinh phát ra trạng thái năng lượng và
tuần hoàn sóng điện năng lượng đó trong toàn bộ cấu trúc
Tuệ linh thông qua các sợi mã sóng trí tuệ bên ngoài Trụ linh.
- Yếu tố thứ 2 là Trụ – Tâm: Trụ là tổng các sợi mã
sóng trí tuệ trong Trụ linh gốc; Tâm là trạng thái năng lượng,
là sóng điện được sinh phát, lưu giữ trong Trụ linh gốc và hạt
năng lượng. Trụ – Tâm là trạng thái năng lượng, sóng điện
được sinh phát ra từ Trụ linh gốc (nơi lưu giữ tổng các sợi
mã sóng trí tuệ) liên kết, tuần hoàn tới thái cực chứa đựng
các hạt năng lượng âm dương và tới toàn bộ cấu trúc hạt
năng lượng trong toàn bộ Tuệ linh.
- Yếu tố thứ 3, là hình tướng Tuệ linh: Tuệ linh có hình
tướng giống con người, hay nói cách khác thì con người là
bản sao của các Tuệ linh. Tuệ linh là một cấu trúc liên kết của
vô số những hạt năng lượng tận cùng mang sóng điện âm,
dương, trung tính có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp. Do đó,
Tuệ linh có thể biến hóa thay đổi hình tướng, thay đổi diện
mạo. Cấu trúc hình tướng của Tuệ linh sẽ thay đổi do cấu
trúc sóng điện trong Trụ linh của Tuệ linh thay đổi. Đặc tính
sóng điện trong Trụ linh gồm có sóng điện dương, có sóng
điện âm, có sóng điện trung tính để trung hòa sóng điện âm
dương. Cấu trúc vững chắc của Trụ linh chính là Trụ linh trở
thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Cấu trúc Trụ linh lỏng lẻo
dễ bị hoại diệt Tuệ linh là cấu trúc Trụ linh có sóng điện đa
âm.
Khi gọi hay nhắc tới Trụ linh, chúng ta hiểu đó là bao
gồm Trụ – Trí và Trụ – Tâm.
Thông qua cấu trúc cấu tạo thành Tuệ linh, ta thấy trí
tuệ của dạng sống Tuệ linh là siêu việt nhất, tinh hoa nhất
của tất cả các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ. Chính vì vậy,
465
sứ mệnh cải tạo bộ lọc trong Trụ linh để sản sinh ra các siêu
hạt năng lượng là sứ mệnh tiên phong của họ.

2.7. Cấu trúc con người


Cấu trúc cấu tạo thành con người chính là tam hợp cấu
tạo thành con người.
Ba yếu tố hợp nhất cấu tạo ra con người gồm có, Thân
tướng, Tâm (Tuệ linh), Trí tuệ:

Hình: Cấu tạo tam hợp con người

466
- Yếu tố đầu tiên là Thân tướng: Thân tướng được hình
thành do duyên người cha và người mẹ. Đó là tinh trùng
mang tính dương của người cha và trứng mang tính âm của
người mẹ hợp thành phôi thai. Phôi thai nhi sẽ trưởng thành
trong bụng người mẹ do cơ chế phân tách tế bào bởi năng
lượng, dinh dưỡng và nhiệt độ của người mẹ. Trải qua quãng
thời gian khoảng 9 tháng, khi thân tướng em bé đã hoàn
thiện, em bé được sinh ra, cất tiếng khóc chào đời.
- Yếu tố thứ hai là Tâm: Tâm là trạng thái năng lượng
an trụ trong thân tướng để tạo ra, duy trì sự sống cho con
người. Khi người mẹ mang thai đến tháng thứ 7, theo luật
luân hồi của Hội đồng Tuệ linh thì sẽ có một Tuệ linh được
xuống luân hồi đầu thai hoặc Tuệ linh tiếp tục đầu thai sau
khi trải qua các kiếp sẽ đi theo bảo vệ bà mẹ và em bé. Hoặc
là Linh hồn của muông thú được thuần hóa sau nhiều kiếp là
thú lành và giúp đỡ con người, họ sẽ được Hội đồng Tuệ linh
giáo hóa và cho đi theo bảo vệ bà mẹ và thai nhi để thiết
nhập đầu thai. Khi em bé chào đời và cất tiếng khóc thì đó là
dấu hiệu Tuệ linh hay Linh hồn thiết nhập vào để duy trì sự
sống cho thân tướng. Theo luật luân hồi, để Linh hồn của các
con thú được phép đầu thai làm con người thì chúng phải
được thuần hóa bởi con người; chúng phải giúp đỡ và làm
được nhiều việc có lợi ích cho con người; những việc lợi ích
đó tạo thành năng lượng dương có sự cân bằng sóng điện âm
dương; khi có năng lượng dương và có sự cân bằng sóng điện
âm dương mới được phép đầu thai làm người, và mới có đủ
năng lượng duy trì sự sống một kiếp người. Tuy nhiên, nhiều
linh hồn thú dữ không muốn tuân theo luật luân hồi, nên
chúng đi tác động giết hại con người, hấp thụ năng lượng
dương để đủ sức mạnh đầu thai trộm; nếu chúng đầu thai

467
trộm thành người thành công, lớn lên chúng sẽ có thiên
hướng giết hại, làm điều ác. Nếu linh hồn thú dữ chưa giết
hại được người nào mà đầu thai trộm được thì dễ chết yểu
do không đủ năng lượng âm dương cân bằng để duy trì sự
sống. Khi Tuệ linh hay Linh hồn được đi đầu thai, họ sẽ được
chọn quốc gia, dân tộc, dòng họ, cha mẹ để người cha mẹ
được gieo duyên có thân tướng thai nhi. Phải đến tháng thứ
7 thì Tuệ linh, Linh hồn mới đi theo để chờ ngày sinh. Vì ở
tháng thứ 7, nếu em bé có sinh non thì vẫn đảm bảo sống
được, ở tháng thứ 7 người mẹ không thể phá thai được. Như
vậy, tháng thứ 7 là đảm bảo điều kiện an toàn cho các Tuệ
linh, Linh hồn đi đầu thai được thành công, còn em bé trong
bụng mẹ sẽ được Tuệ linh người mẹ bảo vệ và nuôi dưỡng.
Dù là Tuệ linh hay Linh hồn khi đầu thai vào con người đều
được gọi là Tâm.
- Yếu tố thứ 3 là Trí tuệ. Sau khi Tuệ linh hoặc Linh hồn
thiết nhập vào em bé vừa chào đời để tạo ra năng lượng duy
trì sự sống cho em bé, em bé đó trải qua quá trình lớn lên,
học tập, nghiên cứu, lao động, mưu sinh sẽ phát triển tư duy
trí tuệ, đúc kết các kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xử lý và cải
tạo thế giới quan được gọi là Trí tuệ. Bản chất trí tuệ hiện kiếp
của con người được phát triển từ hai phần:
+ Phần thứ nhất là trí tuệ từ tổ hợp mã sóng trí tuệ trong
Trụ linh phát ra não bộ. Đây gọi là kinh nghiệm tiền kiếp, cội
nguồn. Lượng sợi mã sóng trí tuệ sẽ phát ra tương ứng với sự
trưởng thành của con người. Khi còn bé, Trụ linh sẽ phát ra ít
lượng sợi trí tuệ. Khi trưởng thành, Trụ linh sẽ phát ra nhiều
lượng sợi mã sóng trí tuệ để não bộ nhận diện và có khả năng
trau dồi thêm trí tuệ hiện kiếp để cải tạo Trụ linh bền vững hơn.

468
+ Phần thứ hai là thông qua tương tác bởi tai, mắt, mũi,
miệng, xúc giác với các Tướng. Những thông tin đó được mã hóa
thành sóng điện ở não bộ và truyền vào Tuệ linh. Trụ linh sẽ giải
mã và thông qua hành động của thân tướng để phân tách ra các
sợi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh. Từ Trụ linh, các sợi mã sóng
trí tuệ đó lại phân tách ra não bộ. Phần này là do hiện kiếp có
được bởi quá trình tương tác giữa các tướng với nhau.
Như vậy, trí tuệ của Tuệ linh là siêu trí tuệ lại an trụ,
hợp nhất với trí tuệ giản đơn của con người. Điều này giúp
cho con người có được siêu trí tuệ an trụ trong cơ thể. Siêu
trí tuệ sẽ liên kết để truyền và trau dồi trí tuệ ở não bộ thông
qua môi trường tu hành ở nhân gian.

3. Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của 5


nhóm vật chất và Tuệ linh
Không chỉ có các nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ là
thông tin. Các nhóm vật chất bên ngoài Vũ trụ cũng là thông
tin.
Giải mã thông tin là quá trình phân tích về bản chất
của các cấu trúc vật chất xung quanh, môi trường sóng điện
xung quanh trong quá trình tương tác.
Mã hóa thông tin là quá trình hấp thụ sóng điện từ môi
trường xung quanh, là quá trình ghi lại, là quá trình lưu giữ
thông tin của quá trình tương tác vào sợi mã sóng trí tuệ
trong hạt năng lượng.
Trong thông tin lại có đặc tính độc và tốt khác nhau, có
nhiệm vụ khác nhau, có độ phức tạp khác nhau. Tất cả những
đặc tính, nhiệm vụ, độ phức tạp của thông tin đều được cấu

469
tạo thành bởi quá trình giải mã và mã hóa thông tin của năm
nhóm vật chất.

3.1. Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của


nhóm vật chất cội nguồn
Nhóm vật chất cội nguồn là nhóm hạt sóng xanh nõn
chuối.
Bản chất của hạt sóng xanh là chưa xảy ra quá trình
giải mã và mã hóa thông tin.
Nguyên nhân:
- Hạt sóng xanh chưa vận động đủ để sinh nhiệt và
biến đổi thành sợi mã sóng trí tuệ. Chưa có sợi mã sóng trí
tuệ nên chưa giải mã và mã hóa được thông tin.
- Môi trường trung tính và di chuyển thẳng làm cho hạt
sóng xanh chưa biến đổi thành sợi mã sóng trí tuệ để giải mã
và mã hóa thông tin.
- Sứ mệnh của hạt sóng xanh là chuyển hóa thành các
loại năng lượng nên nó chỉ giải mã và mã hóa thông tin khi
nó chuyển hóa thành các loại năng lượng trong điều kiện
đảm bảo.

3.2. Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của


nhóm vật chất hoại diệt
Nhóm vật chất hoại diệt là nhóm năng lượng hoại diệt.
Bản chất nhóm năng lượng hoại diệt giải mã và mã hóa
thông tin chưa hoàn chỉnh.
Nguyên nhân:

470
- Hạt sóng xanh di chuyển, vận động trong thời gian
dài ở môi trường trung tính nên nó chưa biến đổi thành sợi
mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh. Tuy là đã biến đổi thành hạt năng
lượng hoàn chỉnh nhưng nhiệt lượng chưa được giải phóng
hết nên việc giải mã và mã hóa thông tin cũng không hoàn
chỉnh.
- Hạt sóng xanh di chuyển thẳng và không quay tròn
trong môi trường trung tính nên hạt năng lượng hoại diệt
không giải mã cũng như mã hóa được đầy đủ thông tin.
Hạt năng lượng hoại diệt được hình thành trong môi
trường trung tính và không quay tròn. Do đó, trong quá trình
vận động đã không giải mã và mã hóa được đầy đủ thông tin.
Đó là năng lượng hoại diệt không giải mã và mã hóa được
thông tin của môi trường có sóng điện âm, dương.

3.3. Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của


nhóm vật chất giản đơn
Nhóm vật chất giản đơn là các hạt năng lượng tận cùng
có mã sóng trí tuệ giản đơn cho tới các nguyên tử, phân tử, tế
bào, cỏ cây, đất đá, con người, muông thú, hành tinh, dải
thiên hà, khối thiên hà, tinh cầu Vũ trụ.
Bản chất nhóm vật chất giản đơn đã giải mã và mã hóa
được thông tin tốt hơn nhóm vật chất hoại diệt. Giải mã và
mã hóa thông tin tốt hơn vì đã biến đổi được thành sợi mã
sóng trí tuệ hoàn chỉnh và có cơ chế liên kết dây. Tuy nhiên,
xét trong toàn bộ trong và ngoài Vũ trụ thì việc giải mã và mã
hóa thông tin vẫn chưa hoàn chỉnh.
Nguyên nhân:

471
- Nhóm vật chất giản đơn giải mã và mã hóa thông tin
tốt hơn nhóm vật chất hoại diệt vì quá trình vận động có
quay tròn trong môi trường có sóng điện âm hoặc dương.
Đây chính là điều mà năng lượng hoại diệt không có. Vì giải
mã và mã hóa thông tin tốt hơn năng lượng hoại diệt nên vật
chất giản đơn mới liên kết để phát triển cấu trúc vật chất lớn
hơn.
- Nhóm vật chất giản đơn giải mã và mã hóa thông tin
chưa hoàn chỉnh vì nhóm vật chất này tồn tại trong môi
trường không có năng lượng hoại diệt nên không giải mã
được năng lượng hoại diệt. Chính vì vậy thông tin được giải
mã và mã hóa chưa hoàn chỉnh khi xét trong và ngoài Vũ trụ.
- Nhóm vật chất giản đơn giải mã và mã hóa thông tin
chưa được bằng nhóm vật chất phức tạp và siêu vật chất.
Nguyên nhân bởi mã sóng rung động trong hạt năng lượng
của chúng rất giản đơn. Vì giản đơn nên quá trình vận động
để giải mã và mã hóa thông tin cần có siêu vật chất cũng như
vật chất phức tạp vận hành, tức là bị phụ thuộc trong quá
trình giải mã và mã hóa thông tin.

3.4. Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của


nhóm vật chất phức tạp
Nhóm vật chất phức tạp là các hạt năng lượng tận cùng
có mã sóng trí tuệ phức tạp cho tới những tầng năng lượng
vận hành Vũ trụ, các linh hồn an trụ trong thân cây, trong
muông thú và đất đá.
Bản chất nhóm vật chất phức tạp đã giải mã và mã hóa
được thông tin tốt hơn nhóm vật chất hoại diệt và nhóm vật
chất giản đơn. Giải mã và mã hóa thông tin tốt hơn vì đã biến

472
đổi được thành sợi mã sóng trí tuệ hoàn chỉnh ở mức độ
phức tạp và có cơ chế liên kết dây. Tuy nhiên, xét trong toàn
bộ trong và ngoài Vũ trụ thì việc giải mã và mã hóa thông tin
vẫn chưa hoàn chỉnh.
Nguyên nhân:
- Nhóm vật chất phức tạp giải mã và mã hóa thông tin
tốt hơn nhóm vật chất hoại diệt vì quá trình vận động có
quay tròn trong môi trường có sóng điện âm hoặc dương.
Đây chính là điều mà năng lượng hoại diệt không có. Vì giải
mã thông tin tốt hơn năng lượng hoại diệt nên vật chất phức
tạp mới liên kết để phát triển cấu trúc vật chất lớn hơn.
- Nhóm vật chất phức tạp giải mã và mã hóa thông tin
chưa hoàn chỉnh vì nhóm vật chất này tồn tại trong môi
trường không có năng lượng hoại diệt nên không giải mã
được năng lượng hoại diệt. Chính vì vậy thông tin được giải
mã và mã hóa chưa hoàn chỉnh khi xét trong và ngoài Vũ trụ.
- Nhóm vật chất phức tạp giải mã và mã hóa thông tin
tốt hơn nhóm vật chất giản đơn. Nguyên nhân vì sợi mã sóng
trí tuệ của năng lượng phức tạp có tốc độ, nhịp rung lớn và
phức tạp hơn năng lượng giản đơn. Chính vì điều này mà
nhóm vật chất phức tạp tự di chuyển để giải mã và mã hóa
thông tin tốt hơn nhóm vật chất giản đơn.
- Nhóm vật chất phức tạp giải mã và mã hóa thông tin
chưa được bằng nhóm siêu vật chất. Nguyên nhân bởi mã
sóng rung động trong hạt năng lượng của chúng mới chỉ là
phức tạp. Trong khi đó, nhóm siêu vật chất có mã sóng rung
động, nhịp rung, tốc độ đạt siêu phức tạp. Chính vì điều này
mà nhóm vật chất phức tạp mã hóa và giải mã thông tin chưa
tốt bằng nhóm siêu vật chất.

473
3.5. Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của
nhóm siêu vật chất
Nhóm siêu vật chất là các hạt năng lượng tận cùng có
mã sóng trí tuệ siêu phức tạp cho tới Tuệ linh và các siêu hạt
năng lượng.
Bản chất nhóm siêu vật chất đã giải mã và mã hóa
được thông tin tốt nhất trong 5 nhóm vật chất. Giải mã và mã
hóa thông tin tốt nhất vì đã biến đổi được thành sợi mã sóng
trí tuệ hoàn chỉnh ở mức độ siêu phức tạp và có cơ chế liên
kết dây. Tuy nhiên, xét trong toàn bộ trong và ngoài Vũ trụ
thì việc giải mã và mã hóa thông tin vẫn chưa hoàn chỉnh.
Nguyên nhân:
- Nhóm siêu vật chất giải mã và mã hóa thông tin tốt
hơn nhóm vật chất hoại diệt vì quá trình vận động có quay
tròn trong môi trường có sóng điện âm hoặc dương. Đây
chính là điều mà năng lượng hoại diệt không có. Vì giải mã
thông tin tốt hơn năng lượng hoại diệt nên nhóm siêu vật
chất mới liên kết để phát triển cấu trúc siêu vật chất lớn hơn.
- Nhóm siêu vật chất giải mã và mã hóa thông tin chưa
hoàn chỉnh vì nhóm vật chất này tồn tại trong môi trường
không có năng lượng hoại diệt nên không giải mã được năng
lượng hoại diệt. Chính vì vậy thông tin được giải mã và mã
hóa chưa hoàn chỉnh khi xét trong và ngoài Vũ trụ.
- Nhóm siêu vật chất giải mã và mã hóa thông tin tốt
hơn nhóm vật chất phức tạp và nhóm vật chất giản đơn.
Nguyên nhân vì sợi mã sóng trí tuệ của năng lượng siêu phức
tạp có tốc độ, nhịp rung lớn và siêu phức tạp hơn năng lượng
phức tạp và giản đơn. Chính vì điều này mà nhóm siêu vật

474
chất có khả năng di chuyển, vận hành được cả hai nhóm vật
chất để giải mã và mã hóa thông tin siêu việt nhất.

3.6. Bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin của


dạng sống Tuệ linh
Tuệ linh là dạng sống có trí tuệ siêu việt nhất Vũ trụ.
Tuệ linh có sự tuần hoàn sóng điện âm – dương – trung tính
và có khả năng di chuyển cũng như cải tạo, phát triển Vũ trụ.
Tuệ linh nằm trong nhóm siêu vật chất của Vũ trụ và
có khả năng mã hóa cũng như giải mã thông tin tốt nhất. Tuy
nhiên, khi đi sâu vào phân tích khả năng giải mã và mã hóa
thông tin của dạng sống Tuệ linh sẽ thấy còn rất hạn chế.
Những hạn chế đã làm cho dạng sống Tuệ linh bị hoại diệt vô
số.
Nguyên nhân:
- Dạng sống Tuệ linh (không tính vị Tuệ linh đầu tiên)
được hình thành và phát triển trong tinh cầu Vũ trụ, quá
trình hình thành lại được dưỡng trong không gian lõi của Vũ
trụ nên không được giải mã và mã hóa thông tin của năng
lượng hoại diệt. Chính vì vậy, dạng sống Tuệ linh không có
thông tin để có khả năng miễn nhiễm loại năng lượng hoại
diệt. Do đó, khi gặp năng lượng hoại diệt với số lượng lớn sẽ
khiến dạng sống Tuệ linh dễ dàng bị phân rã và hoại diệt.
Đây có thể gọi là chết vì thiếu thông tin.
- Vì dạng sống Tuệ linh không giải mã và mã hóa được
thông tin của năng lượng hoại diệt nên không hiểu bản chất
của chúng. Vì không hiểu được bản chất của chúng nên
không kiểm soát được sóng điện trong bản thể mình. Đó là
không kiểm soát được năng lượng âm rung lắc mạnh. Bởi khi

475
năng lượng âm rung lắc mạnh chính là thời cơ năng lượng
hoại diệt xâm nhập vào và hoại diệt dần Tuệ linh.
- Vì không hiểu bản chất của năng lượng hoại diệt
tương tác với các nhóm vật chất trong Vũ trụ cũng như sự
biến đổi cấu trúc vật chất của Vũ trụ, nên dạng sống Tuệ linh
lại rơi vào trạng thái không giải mã cũng như mã hóa chính
xác tất cả các nhóm vật chất bên trong Vũ trụ. Vì vậy tạo
thành sự trở ngại vô cùng trong hành trình bảo vệ, phát triển
Vũ trụ.
Như vậy, dạng sống Tuệ linh do không giải mã và mã
hóa được thông tin của năng lượng hoại diệt, điều này đã dẫn
tới việc không giải mã và mã hóa chính xác được thông tin
của cả 3 nhóm vật chất trong Vũ trụ khi có sự tương tác với
năng lượng hoại diệt. Đây là nguyên nhân dạng sống Tuệ linh
bị phân rã và hoại diệt bởi năng lượng hoại diệt. Điều này
giống với việc các tế bào trong cơ thể con người vì không giải
mã và mã hóa thông tin của các loại vi rút khi chúng xâm
nhập vào cơ thể nên cơ thể không sản sinh ra những tế bào
miễn dịch để tiêu diệt vi rút. Chính vì vậy mà con người bị vi
rút lây lan và hoại diệt thân xác.
Như vậy, sự giải mã và mã hóa thông tin hoàn chỉnh là
phải giải mã và mã hóa được đầy đủ thông tin của tất cả quá
trình tương tác trong tất cả các môi trường sóng điện khác
nhau. Nếu nhóm vật chất nào, dạng sống nào làm được điều
này sẽ tạo thành cơ chế miễn nhiễm và nâng cấp cấu trúc đạt
đến bộ lọc năng lượng viên mãn. Nếu nhóm vật chất nào,
dạng sống nào không giải mã và mã hóa được đầy đủ thông
tin của tất cả quá trình tương tác cũng như môi trường sóng
điện khác nhau thì nguy cơ hoại diệt là vô cùng lớn. Chỉ khi
giải mã và mã hóa được hết tất cả thông tin ở tất cả các môi

476
trường sóng điện khác nhau, ở tất cả các tương tác khác nhau
mới giúp cấu trúc đó tạo ra được cơ chế chuyển hóa để phát
triển bền vững.

4. Bản chất khổ đau của vạn vật và Tuệ linh


Từ cấu trúc và cơ chế vận hành của từng nhóm vật
chất, từ bản chất của sự giải mã và mã hóa thông tin trong
năm nhóm vật chất và Tuệ linh, từ sự tương tác giữa các
nhóm vật chất với nhau trong các môi trường sóng điện khác
nhau, tất cả đã tạo thành bản chất khổ đau của vạn vật và
dạng sống Tuệ linh.
Bản chất tận cùng về khổ đau của tất cả vạn vật là gì? –
Đó là sự biến đổi mã sóng trí tuệ theo hướng phân rã và hoại
diệt.

4.1. Bản chất khổ đau của nhóm vật chất hoại
diệt
Nhóm vật chất hoại diệt là nhóm năng lượng hoại diệt.
Bản chất khổ đau của năng lượng hoại diệt là biến đổi
mã sóng trí tuệ dẫn đến bị kích nổ và hoại diệt vĩnh viễn. Đó
là sợi mã sóng trí tuệ bị sinh phát nhiệt lượng quá nhanh và
bị kích nổ nếu những hạt năng lượng tập trung với mật độ
lớn. Đó là năng lượng hoại diệt gặp phải năng lượng dương
hoặc cấu trúc vật chất đa dương sẽ làm kích nổ năng lượng
hoại diệt.
Nguyên nhân khổ đau của năng lượng hoại diệt:
- Năng lượng hoại diệt được hình thành trong môi
trường trung tính và di chuyển thẳng nên sợi mã sóng trí tuệ

477
chưa hoàn chỉnh. Vì sợi mã sóng trí tuệ biến đổi chưa hoàn
chỉnh nên chưa có cơ chế liên kết dây với nhau để tuần hoàn
sóng điện. Chính vì thế mà sợi mã sóng trí tuệ dễ bị sinh
nhiệt nhanh và hoại diệt nếu không kiểm soát được quá trình
di chuyển và khoảng cách giữa các hạt năng lượng hoại diệt.
- Năng lượng hoại diệt vì hình thành trong môi trường
trung tính nên không thể giải mã và mã hóa được thông tin
của các nhóm năng lượng, các cấu trúc vật chất được hình
thành ở môi trường sóng điện âm dương khác nhau. Vì
không thấu hiểu được năng lượng dương, các nhóm vật chất
đa dương nên năng lượng hoại diệt dễ dàng bị kích nổ khi di
chuyển vào môi trường và vật chất đa sóng điện dương.

4.2. Bản chất khổ đau của 3 nhóm vật chất cấu
tạo thành Vũ trụ
Ba nhóm vật chất cấu tạo thành Vũ trụ là nhóm vật
chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu vật chất.
Bản chất khổ đau của 3 nhóm vật chất này là biến đổi
mã sóng trí tuệ của từ hạt năng lượng tận cùng dẫn tới sự
phân rã và hoại diệt. Đó là sự mất kiểm soát sóng điện giữa
hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương trong cấu trúc
để rồi bị phân rã và hoại diệt. Đó là sóng điện âm, dương,
trung tính không tuần hoàn nên dẫn tới bị phân rã và hoại
diệt. Đó là bị năng lượng hoại diệt phân rã hoại diệt hoặc bị
kích nổ mà hoại diệt.
Nguyên nhân khổ đau của 3 nhóm vật chất:
- Cả 3 nhóm vật chất hình thành và phát triển trong
môi trường có sóng điện âm dương nên không có khả năng
giải mã, mã hóa thông tin của năng lượng hoại diệt. Chính vì

478
vậy mà không thấu hiểu năng lượng hoại diệt. Do đó, dễ dàng
bị năng lượng hoại diệt đồng hóa cũng như kích nổ mà hoại
diệt vĩnh viễn.
- Những hạt năng lượng âm được hình thành trong
môi trường sóng điện âm, những hạt năng lượng dương
được hình thành trong môi trường sóng điện dương. Tuy là
cả hai đều có cơ chế liên kết dây, nhưng lại không thấu hiểu
nhau vì chưa giải mã cũng như mã hóa được đầy đủ thông tin
của nhau. Chính vì điều này dẫn tới việc đấu tranh để kiểm
soát lẫn nhau của hai loại hạt năng lượng âm và dương.
- Khi một nhóm vật chất, một loại hạt có sóng điện nào
đó bị nhiễm năng lượng hoại diệt, chúng sẽ bị biến đổi sóng
điện và cấu trúc. Điều này làm cho cơ chế liên kết phân tách
không có sự bền vững. Khi đó sóng điện không tuần hoàn và
dẫn tới quá trình đứt, vỡ cấu trúc.
- Cả 3 nhóm vật chất không giải mã và mã hóa được
thông tin hoàn chỉnh của nhau và cả nhóm năng lượng hoại
diệt. Vì không giải mã và mã hóa được nên không có trí tuệ
thấu hiểu đặc tính cũng như độc tố của nhau. Do đó, trong
nội tại cấu trúc, nội tại của hạt năng lượng của cả 3 nhóm vật
chất không có khả năng kiểm soát và chuyển hóa những độc
của nhau và của năng lượng hoại diệt.
- Nguyên nhân khổ đau cuối cùng của cả 3 nhóm vật
chất cấu tạo thành Vũ trụ là do hết năng lượng vận hành Vũ
trụ quay tròn. Khi Vũ trụ không quay tròn sẽ không tuần
hoàn được sóng điện để chuyển hóa được năng lượng hoại
diệt. Khi đó năng lượng hoại diệt sẽ xâm nhập ồ ạt và phân rã
hoại diệt Vũ trụ vĩnh viễn.

479
4.3. Bản chất khổ đau của dạng sống Tuệ linh
Bản chất khổ đau của dạng sống Tuệ linh là biến đổi
sợi mã sóng trí tuệ dẫn tới hoại diệt. Đó là sự mất kiểm soát
sóng điện giữa hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương
trong cấu trúc Tuệ linh để rồi bị phân rã và hoại diệt. Đó là
sóng điện âm, dương, trung tính không tuần hoàn nên dẫn
tới bị phân rã và hoại diệt. Đó là bị năng lượng hoại diệt phân
rã hoại diệt hoặc bị kích nổ mà hoại diệt.
Những nguyên nhân tận cùng, triệt để về khổ đau của
dạng sống Tuệ linh:
A. Bản chất khổ đau được hình thành từ phôi
âm dương gốc của Tuệ linh
Các Tuệ linh được hình thành từ sự liên kết giữa hạt
năng lượng dương tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức tạp
với hạt năng lượng âm tận cùng có mã sóng trí tuệ siêu phức
tạp. Khi liên kết giữa hai hạt năng lượng tận cùng xảy ra
được gọi là phôi âm dương. Từ phôi âm dương này thông
qua cơ chế phân tách liên kết hạt năng lượng đã phát triển
thành Trụ linh trưởng thành và Tuệ linh.
Bản chất của phôi năng lượng âm dương đều phải
được cấu tạo bởi hạt năng lượng âm. Nếu không có hạt năng
lượng âm thì không hình thành phôi năng lượng âm dương
cũng như Tuệ linh. Hạt năng lượng âm được gọi là Kết.
Kết là bản chất mà Tuệ linh phải có để chuyển hóa
năng lượng cũng như phát triển. Bởi Kết bao gồm có thu hút
tín hiệu, rung lắc, hấp thụ, hút về, lấy về, sở hữu, chiếm hữu,
cướp đoạt, giết hại để thỏa mãn.
Kết ở mức độ nhẹ và vừa đủ sẽ thúc đẩy được sự phát
triển bền vững của Tuệ linh. Tuy nhiên nếu Kết ở mức mạnh
480
sẽ khiến cho Tuệ linh bị mất kiểm soát sóng điện, bị năng
lượng hoại diệt chi phối dẫn tới phân rã và hoại diệt.
Có 3 nhóm cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh dễ bị phân rã
và hoại diệt. Đó là 3 nhóm cấu trúc Trụ linh Kết từ mạnh cho
tới rất mạnh và siêu mạnh:
- Nhóm cấu trúc Trụ linh Kết mạnh là nhóm cấu trúc
Trụ linh được hợp nhất bởi một hạt năng lượng âm tận cùng
màu xám với một hạt năng lượng dương tận cùng màu xanh
lá, hoặc màu vàng, hoặc màu đỏ lửa, hoặc màu trắng đục. Trụ
linh đa âm mạnh được gọi là Trụ linh Kết mạnh. Do hạt năng
lượng âm rung lắc mạnh, quay ngược mạnh, hút sóng điện
bên ngoài về mạnh nên cấu trúc Trụ linh Kết mạnh. Khi đó
Tuệ linh sẽ mất khả năng kiểm soát sóng điện âm, dương,
trung tính trong chính mình. Tiếp đến là phân tách mất kiểm
soát các hạt năng lượng âm mà không phân tách được năng
lượng dương. Cuối cùng năng lượng hoại diệt sẽ xâm nhập
vào gây phân rã và hoại diệt Tuệ linh.
- Nhóm cấu trúc Trụ linh Kết rất mạnh là nhóm cấu
trúc Trụ linh được hợp nhất bởi một hạt năng lượng âm tận
cùng màu đen với một hạt năng lượng dương tận cùng màu
xanh lá, màu vàng, màu đỏ lửa, màu trắng đục. Trụ linh đa
âm rất mạnh được gọi là Trụ linh Kết rất mạnh. Do hạt năng
lượng âm rung lắc rất mạnh, quay ngược rất mạnh, hút sóng
điện bên ngoài về rất mạnh nên cấu trúc Trụ linh Kết rất
mạnh. Khi đó Tuệ linh sẽ mất khả năng kiểm soát sóng điện
âm, dương, trung tính trong chính mình. Tiếp đến là phân
tách mất kiểm soát các hạt năng lượng âm mà không phân
tách được năng lượng dương. Cuối cùng năng lượng hoại
diệt sẽ xâm nhập vào gây phân rã và hoại diệt Tuệ linh.

481
- Nhóm cấu trúc Trụ linh Kết siêu mạnh là nhóm cấu
trúc Trụ linh được hợp nhất bởi một hạt năng lượng âm tận
cùng màu đỏ máu với một hạt năng lượng dương tận cùng
màu xanh lá, màu vàng, màu đỏ lửa, màu trắng đục. Trụ linh
đa âm siêu mạnh được gọi là Trụ linh Kết siêu mạnh. Do hạt
năng lượng âm rung lắc siêu mạnh, quay ngược siêu mạnh,
hút sóng điện bên ngoài về siêu mạnh nên cấu trúc Trụ linh
Kết siêu mạnh. Khi đó Tuệ linh sẽ mất khả năng kiểm soát
sóng điện âm, dương, trung tính trong chính mình. Tiếp đến
là phân tách mất kiểm soát các hạt năng lượng âm mà không
phân tách được năng lượng dương. Cuối cùng năng lượng
hoại diệt sẽ xâm nhập vào gây phân rã và hoại diệt Tuệ linh.
Cấu trúc Trụ linh của tất cả Tuệ linh trong Vũ trụ Kết ở
mức mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh, đó là các cấu trúc
Trụ linh đa âm mạnh, rất mạnh, siêu mạnh. Khi đa âm, tức là
lượng hạt năng lượng âm được phân tách ra vô số mà không
cấu tạo được thành liên kết vững chắc như những hạt năng
lượng dương. Việc không tạo được sự liên kết chặt chẽ sẽ
làm cho cấu trúc Trụ linh không có khả năng phòng thủ
trước sự tấn công của năng lượng hoại diệt cũng như tác
động của các năng lượng âm. Khi năng lượng hoại diệt tấn
công sẽ làm cho cấu trúc Trụ linh đó bị đứt liên kết, bị phân
rã và hoại diệt vĩnh viễn.
B. Bản chất khổ đau do giải mã và mã hóa thông
tin hạn chế của Tuệ linh
Tuệ linh giải mã và mã hóa thông tin chưa toàn diện và
còn hạn chế. Đó là chưa thấu hiểu được bản chất của chính
mình, chưa thấu hiểu được bản chất của 3 nhóm vật chất cấu
tạo thành Vũ trụ, chưa thấu hiểu được bản chất của năng
lượng hoại diệt.
482
Đầu tiên là dạng sống Tuệ linh chưa thấu hiểu chính
bản chất của hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương
trong phôi âm dương của mình. Tức là dạng sống Tuệ linh
chưa giải mã được đầy đủ và chính xác về bản chất phôi năng
lượng âm dương của mình. Đó là không thấu hiểu và không
nhận diện được trong kịch bản tương tác với môi trường
sóng điện như thế nào thì hạt năng lượng âm gốc sẽ phân
tách ra hạt mới hay hạt năng lượng dương gốc phân tách ra
hạt mới. Vì không thấu hiểu chính mình nên trong quá trình
tương tác để hấp thụ nhiệt lượng cho quá trình phân tách
liên kết và trưởng thành rất hạn chế. Vì không thấu hiểu
chính mình nên khi tương tác trong môi trường sóng điện
âm dễ dàng bị nhiễm quá nhiều nhiệt âm mà xảy ra quá trình
phân tách nhiều hạt năng lượng âm và không thể phân tách
được hạt năng lượng dương. Khi tương tác trong môi trường
sóng điện dương mới phân tách ra các hạt năng lượng dương
và chân tâm. Khi tương tác với môi trường có năng lượng
hoại diệt thì dễ dàng bị năng lượng hoại diệt phân rã hoặc
kích nổ trong khi chưa có khả năng phòng thủ cũng như
chuyển hóa. Chính vì vậy gọi là không thấu hiểu được điểm
yếu và điểm mạnh của chính mình. Tiếp đến là không biết
kiểm soát điểm yếu và kích hoạt điểm mạnh của mình trong
quá trình tương tác.
Tiếp theo dạng sống Tuệ linh không thấu hiểu được
bản chất của năng lượng hoại diệt. Vì không giải mã và mã
hóa được năng lượng hoại diệt nên không thấu hiểu được
điểm mạnh, điểm yếu của năng lượng hoại diệt. Họ không
thấu hiểu rằng trong các kịch bản nào của quá trình tương
tác sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt xâm nhập và làm phân
rã họ. Họ cũng không thấu hiểu trong các kịch bản nào năng

483
lượng hoại diệt sẽ bị kích nổ để chuyển hóa thành nhiệt cho
họ thực hiện được phân tách liên kết bền vững. Dạng sống
Tuệ linh chưa thấu hiểu điểm mạnh và điểm yếu của mình,
thêm nữa lại chưa thấu hiểu được điểm mạnh và điểm yếu
của năng lượng hoại diệt. Do đó, dạng sống Tuệ linh vô cùng
sợ hãi năng lượng hoại diệt xâm nhập và làm họ hoại diệt. Sự
sợ hãi khiến họ trong quá trình xây dựng và phát triển bản
thể mình cùng Vũ trụ luôn trong trạng thái duy trì ở vùng an
toàn. Tuy nhiên, khi gặp cơn bão năng lượng hoại diệt thì sẽ
không còn vùng an toàn nào cho họ cả. Họ hoại diệt vô số. Sự
hoại diệt giống như sự lây nhiễm của một loại vi rút hủy diệt
mà chưa có vắc xin đặc trị.
Cuối cùng, dạng sống Tuệ linh cũng không thấu hiểu
được hết bản chất và đặc tính của tất cả 3 nhóm vật chất,
không thấu hiểu bản chất và đặc tính của các nhóm năng
lượng âm, dương, trung tính. Đặc biệt hơn nữa, năng lượng
hoại diệt xâm nhập vào các cấu trúc vật chất của cả 3 nhóm
vật chất. Sự xâm nhập đó làm biến đổi cấu trúc vật chất mà
dạng sống Tuệ linh không biết. Dạng sống Tuệ linh chỉ nhận
diện được khi cấu trúc vật chất đó bị phân rã. Khi đó, quá
trình dạng sống Tuệ linh tương tác với 3 nhóm vật chất trong
các môi trường sóng điện khác nhau đã bị năng lượng âm và
những cấu trúc vật chất biến đổi chi phối và làm cho cấu trúc
Tuệ linh bị nhiễm sóng điện âm và năng lượng hoại diệt mà
không biết cũng như không kiểm soát được.
Như vậy, từ không thấu hiểu bản chất của chính mình
cho tới không thấu hiểu bản chất của năng lượng hoại diệt
cũng như 3 nhóm vật chất và các môi trường sóng điện, dạng
sống Tuệ linh sống đời sống khổ đau trong sự hòa quyện của
từ bản chất phôi âm dương đa âm cho tới sự tương tác với

484
các nhóm vật chất khác trong các môi trường sóng điện khác
nhau. Điều này khác với vẻ an lạc, tự tại của dạng sống Tuệ
linh mà con người được biết tới thông qua các quan điểm tôn
giáo.
C. Bản chất khổ đau do Tuệ linh chưa kiểm soát
được chính mình
Bản chất khổ đau của dạng sống Tuệ linh chưa kiểm
soát được chính mình là vì chưa giải mã được bản chất của
chính mình và của tất cả các nhóm vật chất cũng như các môi
trường sóng điện khác nhau.
Khổ đau do dạng sống Tuệ linh chưa kiểm soát được
chính mình gồm có chưa kiểm soát được phôi âm dương gốc,
chưa kiểm soát được cụm hạt năng lượng âm dương trong
cấu trúc, chưa kiểm soát được sự tuần hoàn sóng điện âm
dương trong Tuệ linh khi tương tác với các nhóm vật chất
trong các môi trường sóng điện khác nhau.
Tuệ linh chưa kiểm soát được phôi âm dương gốc (Trụ
linh gốc) của mình. Gồm có:
- Chưa biết khi nào hạt năng lượng âm trong Trụ linh
gốc sẽ phân tách ra các hạt năng lượng âm có sóng điện âm
từ nhẹ cho tới siêu mạnh. Đó là chưa biết khi tương tác với
các đối tượng vật chất nào thì sẽ phân tách ra các hạt năng
lượng âm có sóng điện âm từ nhẹ cho tới siêu mạnh. Đó là
chưa biết khi tương tác trong môi trường sóng điện âm
dương khác nhau, nhẹ hay mạnh sẽ phân tách ra các hạt
năng lượng âm có sóng điện âm từ nhẹ cho tới siêu mạnh. Đó
là chưa biết trong trường hợp tương tác nào sẽ bị năng
lượng hoại diệt xâm nhập từ ít cho tới vô số vào mình. Có thể
nói, dạng sống Tuệ linh không biết được hạt năng lượng âm

485
gốc sẽ phân tách ra các loại hạt năng lượng âm như thế nào
trong tất cả các kịch bản tương tác.
- Chưa biết khi nào hạt năng lượng dương trong Trụ
linh gốc sẽ phân tách ra các hạt năng lượng dương có sóng
điện dương từ nhẹ cho tới siêu mạnh. Đó là chưa biết khi
tương tác với các đối tượng vật chất nào thì sẽ phân tách ra
các hạt năng lượng dương có sóng điện dương từ nhẹ cho tới
siêu mạnh. Đó là chưa biết khi tương tác trong môi trường
sóng điện âm dương khác nhau, nhẹ hay mạnh sẽ phân tách
ra các hạt năng lượng dương có sóng điện dương từ nhẹ cho
tới siêu mạnh. Đó là chưa biết trong trường hợp tương tác
nào thì năng lượng dương sẽ kích nổ được năng lượng hoại
diệt cũng như chuyển hóa giảm tải sóng điện âm của năng
lượng âm. Có thể nói, dạng sống Tuệ linh không biết được
hạt năng lượng dương gốc sẽ phân tách ra các loại hạt năng
lượng dương như thế nào trong tất cả các kịch bản tương tác.
- Tuệ linh không có khả năng kiểm soát được độc của
hạt năng lượng âm bộc phát, đó là không kiểm soát được tốc
độ rung lắc và hút nhiệt xung quanh về trong trạng thái mất
kiểm soát. Tuệ linh cũng không có khả năng vận hành, kích
hoạt được sóng điện dương của hạt năng lượng dương để
kiểm soát và giảm tốc độ rung lắc của hạt năng lượng âm gốc
trong Trụ linh.
Tuệ linh chưa kiểm soát được các cặp hạt năng lượng
âm dương trong cấu trúc của Tuệ linh. Gồm có:

486
Hình: Cặp hạt năng lượng âm và dương trong
cấu trúc Tuệ linh
- Trong cấu trúc liên kết hạt năng lượng trong Tuệ linh
sẽ có vô số các điểm hạt năng lượng dương kết nối với nhau
bằng các sợi chân tâm. Tại mỗi điểm hạt năng lượng dương
sẽ có một hạt năng lượng âm rung lắc, quay xung quanh hạt
năng lượng dương. Hạt năng lượng dương có nhiệm vụ là
dùng nhiệt dương để đẩy chuyển tiếp thông tin từ Trụ linh
truyền qua nó. Hạt năng lượng âm có nhiệm vụ thu hút tín
hiệu vừa đủ để tín hiệu thông tin từ Trụ linh di chuyển tới.
- Tại điểm hạt năng lượng dương, nếu hạt năng lượng
dương có sóng điện dương yếu và hạt năng lượng âm có sóng
điện âm mạnh, điều này sẽ khiến cho đặc tính sóng điện âm

487
kết mạnh sẽ hấp thụ nhiệt và làm suy yếu hạt năng lượng
dương. Thậm chí sóng điện thông tin trong quá trình di
chuyển tới cụm hạt dương đó sẽ bị hạt năng lượng âm cản
trở quá trình tuần hoàn. Điều này khiến cho Tuệ linh mất
kiểm soát và hành động sản sinh ra hạt năng lượng âm để gia
tăng hạt âm tại cụm đó. Khi đó sẽ có nhiều hơn một hạt năng
lượng âm tại cụm hạt năng lượng âm dương. Điều này sẽ làm
cho năng lượng hoại diệt xâm nhập vào và gây đứt liên kết
cũng như phân rã cụm hạt năng lượng trong Tuệ linh.
- Tại điểm hạt năng lượng dương, nếu hạt năng lượng
dương mạnh và hạt năng lượng âm yếu, điều này sẽ khiến
cho đặc tính sóng điện dương tỏa mạnh sẽ kiểm soát được
sóng điện của hạt năng lượng âm. Khi đó cấu trúc cặp hạt
năng lượng âm dương sẽ thuận lợi cho sóng điện từ Trụ linh
tuần hoàn để chạy qua. Tuy nhiên, do chưa giải mã được
chính mình cũng như các nhóm vật chất khác và môi trường
sóng điện âm dương khác nhau, nên Tuệ linh dễ dàng mất
kiểm soát tại các cặp hạt năng lượng âm dương. Hạt dương
sẽ bị suy yếu và hạt âm sẽ bộc phát rung lắc mạnh cho tới
siêu mạnh.
Tuệ linh chưa kiểm soát được tuần hoàn sóng điện
trong toàn bộ Tuệ linh. Để Tuệ linh khỏe mạnh và có khả
năng phòng thủ cũng như chuyển hóa được các năng lượng
khác cũng như năng lượng hoại diệt, Tuệ linh cần phải tuần
hoàn được sóng điện âm dương và trung tính. Đó là phải có
đường chân tâm kết nối giữa các hạt năng lượng dương
trong cấu trúc phải vững chắc. Đó là hệ thống hạt năng lượng
dương phải có sóng điện dương mạnh để tỏa nhiệt và đẩy
được thông tin di chuyển. Đó là hệ thống hạt năng lượng âm
phải nhẹ chỉ để làm nhiệm vụ rung lắc và thu hút vừa đủ. Tuy

488
nhiên, do chưa kiểm soát được phôi âm dương gốc, do chưa
kiểm soát được các cụm hạt năng lượng âm dương, do chưa
giải mã và thấu hiểu được các nhóm vật chất cũng như các
môi trường sóng điện khác nhau, nên khi tương tác trong
quá trình vận động sẽ dễ dàng mất kiểm soát sóng điện tuần
hoàn trong toàn bộ Tuệ linh. Khi đó hệ thống hạt năng lượng
âm của cả Tuệ linh rung lắc rất mạnh và làm suy yếu sóng
điện dương. Quá trình này sẽ khiến cho năng lượng hoại diệt
xâm nhập ồ ạt vào toàn bộ cấu trúc Tuệ linh để đồng hóa và
làm phân rã Tuệ linh.
D. Bản chất khổ đau do Tuệ linh chưa trưởng
thành và chưa có cơ chế chuyển hóa năng lượng
Dạng sống Tuệ linh chưa trưởng thành và chưa có cơ
chế chuyển hóa được năng lượng hoại diệt và các loại năng
lượng khác chính là khổ đau của Tuệ linh. Cả hai đều có
chung một nguyên nhân chính. Đó là trong Trụ linh của Tuệ
linh chưa phân tách đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ trong sự
kiểm soát được độc của hạt âm và kích hoạt được thiện của
hạt năng lượng dương gốc. Khi chưa trưởng thành và chưa
có cơ chế chuyển hóa được năng hoại diệt cũng như các loại
năng lượng khác sẽ khiến cho Tuệ linh dễ dàng biến đổi mã
sóng trí tuệ và phân rã hoại diệt.
Tại sao Tuệ linh chưa trưởng thành lại liên quan tới
khổ đau và liên quan tới cơ chế chuyển hóa năng lượng của
Tuệ linh? Điều này có liên quan và có cơ sở rõ ràng. Cụ thể:
- Trước tiên phải thấu hiểu rằng hạt năng lượng tận
cùng cấu tạo thành tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài
Vũ trụ. Trong hạt năng lượng tận cùng lại lưu giữ, ghi lại, mã
hóa được thông tin trong quá trình vận động. Như vậy, hạt

489
năng lượng tận cùng là thông tin. Trong thông tin lại có độc
và tốt, có nhiệm vụ chức năng khác nhau.
- Tuệ linh được hình thành từ phôi năng lượng tận
cùng, phát triển thành Trụ linh và Tuệ linh em bé. Để từ Tuệ
linh em bé trưởng thành thì đó là quá trình cấu trúc Trụ linh
phải tương tác trong các môi trường sóng điện để phân tách
và liên kết các hạt năng lượng chứa đựng thông tin.
- Tuệ linh để trưởng thành được thì phải kiểm soát
được độc của hạt năng lượng âm trong Trụ linh không cho
bộc phát; phải kiểm soát được quá trình tương tác với các
môi trường sóng điện khác nhau để không bị năng lượng
hoại diệt chi phối; phải kích hoạt được hạt năng lượng dương
để phân tách ra các hạt năng lượng dương, chân tâm. Chỉ khi
kiểm soát được Trụ linh chỉ phân tách ra các hạt năng lượng
âm có sóng điện âm nhẹ và phân tách ra nhiều hạt năng
lượng dương có sóng điện dương mạnh cũng như nhiều hạt
chân tâm, thì mới giúp cấu trúc năng lượng của Tuệ linh
được liên kết bền vững và trưởng thành. Trưởng thành tức là
sản sinh ra vô số sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm nhẹ và
vô số sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương mạnh và chân
tâm mạnh. Điều này cũng giống con người là phân tách tế
bào mạnh khỏe để trưởng thành.
- Tuệ linh để trưởng thành còn là một quá trình xa vời.
Bởi vì Tuệ linh không giải mã được chính mình, không giải
mã được các nhóm vật chất và năng lượng hoại diệt, không
kiểm soát được độc của hạt năng lượng âm và thiện của hạt
năng lượng dương, nên khi tương tác, vận động với mong
muốn để trưởng thành đều dễ dàng bị chi phối bởi năng
lượng âm của chính mình, của vạn vật và năng lượng hoại
diệt. Do đó, các Tuệ linh bị chi phối mà sản sinh ra nhiều

490
năng lượng âm. Khi sản sinh nhiều năng lượng âm sẽ không
giúp Tuệ linh trưởng thành, ngược lại còn làm cho năng
lượng hoại diệt xâm nhập vào làm phân rã và hoại diệt.
- Chỉ khi Tuệ linh trưởng thành mới giúp Tuệ linh giải
mã và mã hóa được nhiều cho tới toàn diện thông tin chân
thật của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Khi
Tuệ linh trưởng thành mới cấu tạo đủ lượng sợi mã sóng trí
tuệ mang sóng điện âm nhẹ và đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ
mang sóng điện dương mạnh để cấu tạo thành bộ lọc năng
lượng. Bộ lọc năng lượng chính là cơ chế chuyển hóa được
năng lượng hoại diệt và các nhóm năng lượng khác.
Tại sao dạng sống Tuệ linh lại chưa trưởng thành và
chưa có được cơ chế chuyển hóa năng lượng hoại diệt cũng
như các nhóm năng lượng khác? Những nguyên nhân đó là:
- Dạng sống Tuệ linh chưa giải mã và mã hóa được đầy
đủ cũng như toàn diện thông tin của các nhóm vật chất trong
và ngoài Vũ trụ, đặc biệt là chưa giải mã, thấu hiểu được
năng lượng hoại diệt và chính mình.
- Dạng sống Tuệ linh do chưa có độ nén, cường độ lớn
trong tương tác nên chưa bộc phát được hết tất cả các kịch
bản tương tác với các môi trường sóng điện khác nhau. Do
chưa thể kiểm soát được độc tâm của hạt năng lượng âm gốc
nên dẫn tới quá trình sản sinh hạt năng lượng âm ồ ạt. Do
chưa thể kích hoạt được thiện tâm của hạt năng lượng dương
gốc nên chưa biết cách sản sinh cũng như dùng năng lượng
dương kiểm soát năng lượng âm. Do đó dạng sống Tuệ linh
chưa trưởng thành.
- Vì dạng sống Tuệ linh chưa trưởng thành nên chưa
đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ để cấu tạo Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng. Đó là phải đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ mang
491
sóng điện âm rất nhẹ và đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ mang
sóng điện dương siêu mạnh. Chỉ khi đạt được điều đó mới đủ
điều kiện để có thể chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng.
Dạng sống Tuệ linh chưa giải mã được chính mình,
chưa giải mã được năng lượng hoại diệt, chưa giải mã được
tất cả các nhóm vật chất, chưa trưởng thành được, chưa
chuyển hóa được bộ lọc năng lượng. Tất cả là do chưa có tri
thức của hai Chân lý soi sáng cũng như cơ chế để làm được
tất cả điều đó. Do đó, khi Tuệ linh chưa trưởng thành và chưa
có cơ chế chuyển hóa năng lượng sẽ là khổ đau.
Như vậy, dạng sống Tuệ linh đang thiếu một môi
trường tu luyện để học tập, giải mã được tất cả các nhóm vật
chất trong và ngoài Vũ trụ, đặc biệt là giải mã, thấu hiểu để
kiểm soát được chính mình. Tuy nhiên, sự tự do và tự tại của
dạng sống Tuệ linh lại không đáp ứng được điều đó.

5. Tuệ linh giải mã và mã hóa thông tin toàn


diện thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian
Từ cội nguồn của Vũ trụ và Tuệ linh, từ cấu trúc của Vũ
trụ và Tuệ linh, từ bản chất sự giải mã và mã hóa thông tin
còn hạn chế của dạng sống Tuệ linh, từ bản chất khổ đau của
Tuệ linh và Vũ trụ, vị Tuệ linh đầu tiên đã nghiên cứu, truy
tìm cơ chế, truy tìm phương pháp giúp cho dạng sống Tuệ
linh giải mã được thông tin toàn diện của chính mình và tất
cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ. Việc giải mã toàn
diện và đúng sẽ giúp cho dạng sống Tuệ linh mã hóa được
thông tin tốt cho quá trình phân tách liên kết bền vững. Khi

492
phân tách liên kết theo hướng bền vững sẽ giúp Tuệ linh
trưởng thành và có cơ chế chuyển hóa năng lượng.
Vị Tuệ linh đầu tiên nhận thấy khi dạng sống Tuệ linh
còn tự do an lạc thì sẽ không thể giải mã và mã hóa được
thông tin toàn diện. Khi đó Tuệ linh sẽ không thể trưởng
thành và có cơ chế chuyển hóa năng lượng. Chính vì vậy, vị
Tuệ linh đầu tiên đã nghiên cứu ra một môi trường cho dạng
sống Tuệ linh tu học. Môi trường tu học của dạng sống Tuệ
linh giống như một trường học nghiêm khắc. Môi trường tu
học cho dạng sống Tuệ linh phải đối ngược hoàn toàn với sự
tự do tự tại của dạng sống Tuệ linh. Môi trường tu học sẽ
đảm bảo được sự tương tác của tất cả các nhóm vật chất
trong và ngoài Vũ trụ cùng tương tác với Tuệ linh. Tuệ linh sẽ
phải an trụ trong thân tướng vật chất giản đơn là con người.
Đó là môi trường tu học có đầy đủ khổ đau kiếp nạn, an vui
và hạnh phúc. Tuy nhiên, bản chất là không có gì ngoài khổ
đau. Khổ đau được hiện hữu trong bốn hình tướng Đạo ở
nhân gian để mô phỏng hết tất cả các kịch bản tương tác
trong tất cả các môi trường sóng điện cho từng đặc tính Trụ
linh của các Tuệ linh khác nhau.
Khi tất cả các Tuệ linh trải nghiệm tu học trong bốn
hình tướng Đạo ở nhân gian với vô số kiếp tu hành, tất cả
dạng sống Tuệ linh sẽ bộc phát được hết độc tâm và thiện
tâm trong tất cả các kịch bản tương tác với các môi trường
khác nhau. Khi đó, vị Tuệ linh đầu tiên sẽ giải mã được toàn
diện, mã hóa toàn diện, thống kê toàn diện về bản chất của
tất cả các nhóm vật chất, dạng sống Tuệ linh trong quá trình
tương tác tại môi trường tu học này. Tiếp đến là vị Tuệ linh
đầu tiên sẽ soi sáng sự thật của chính dạng sống Tuệ linh, soi
sáng sự thật bản chất của tất cả các nhóm vật chất trong và

493
ngoài Vũ trụ. Cuối cùng là vị Tuệ linh đầu tiên sẽ tìm ra
phương pháp, cơ chế để giúp dạng sống Tuệ linh trưởng
thành, để giúp Tuệ linh có được bộ lọc năng lượng chuyển
hóa năng lượng hoại diệt và các nhóm năng lượng khác. Khi
có được bộ lọc năng lượng mới giúp cho tất cả các nhóm vật
chất trong và ngoài Vũ trụ, dạng sống Tuệ linh cùng phát
triển bền vững.
Để đảm đảm bảo môi trường tu học cho dạng sống Tuệ
linh cũng như sự chắc chắn thành công, vị Tuệ linh đầu tiên
đã kiến tạo môi trường tu hành ở Trái đất. Đó là xây dựng
môi trường tu hành cho muông thú để quan sát quá trình
tương tác, giải mã, mã hóa, chuyển sinh của muông thú và
vạn vật ở Trái đất. Vị Tuệ linh đầu tiên đã thấy được thành
công trong quá trình chuyển sinh của vạn vật cũng như
muông thú tại Trái đất. Chính vì điều đó, vị Tuệ linh đầu tiên
đã tạo ra bước ngoặt thành tựu trên hành trình phát triển Vũ
trụ và Tuệ linh.

5.1. Đại hội tập kết thống nhất phương pháp tu


học ở nhân gian của hội đồng Tuệ linh
Vị Tuệ linh đầu tiên tập kết đại hội thống nhất phương
pháp tu học cho dạng sống Tuệ linh. Đại hội tập kết diễn ra
như sau: Trong cuộc triệu tập Hội đồng của chư vị Tuệ linh tại
cõi trời nhiệm màu nhất Vũ trụ, vị Tuệ linh đầu tiên trầm
ngâm nhìn vào một đĩa thức ăn trắng trên bàn. Trong suy nghĩ
lúc đó của vị Tuệ linh đầu tiên và Hội đồng Tuệ linh đều nghĩ là
làm sao việc đưa các Tuệ linh xuống làm con người phải đạt
được thành tựu là tìm ra được phương thuốc cứu lại các Tuệ
linh và Vũ trụ. Sự suy tư mang theo tâm trạng trầm ngâm khi

494
nhìn vào đĩa thức ăn trắng trên bàn (tất nhiên thức ăn đó là
do năng lượng tạo ra). Suy tư một lúc lâu, vị Tuệ linh đầu tiên
liền nói với một Tuệ linh khác: “Hãy mang những con rắn độc
ra đây”. Sau đó có một Tuệ linh mang ra những con rắn độc, có
nhiều con nhỏ và một con to. Vị Tuệ linh đầu tiên lấy những
con rắn nhỏ trộn vào đĩa thức ăn đó, tiếp đến thả hai con rắn,
trong đó có một con to xuống nền đất. Hai con rắn đó trườn
vào những bụi cây xung quanh đó. Vị Tuệ linh đầu tiên nhìn
vào đĩa thức ăn đã trộn với rắn độc mà nói: “Để cứu được các
Tuệ linh và Vũ trụ, chỉ có thể lấy độc trộn vào chân tâm (thức
ăn trắng) mới tìm ra phương thuốc cứu lại Tuệ linh và Vũ
trụ”. Vị Tuệ linh đầu tiên tiếp tục nói rằng: “Ngoài những độc
tố lẫn trong chính chân tâm, ác tâm xen kẽ thiện tâm thì cần
phải có thế lực ác tâm bên ngoài tác động vào; Môi trường tu
hành nơi nhân gian sẽ như vậy”. “Để tìm được Đạo hợp nhất
của Vũ trụ, dạng sống Tuệ linh phải thông qua bốn hình tướng
Đạo ở nhân gian”. Đó là câu nói của vị Tuệ linh đầu tiên.
Như vậy, tại đại hội tập kết Tuệ linh về phương pháp
tu học ở nhân gian, vị Tuệ linh đầu tiên đã quán triệt phương
pháp tu học thông qua 3 hình ảnh về những con rắn độc. Cụ
thể như sau:
- Những con rắn độc nhỏ được trộn vào đĩa thức ăn
trắng là những độc tâm của mỗi Tuệ linh. Hình ảnh đó tượng
trưng các độc tâm đang bị ẩn giấu trong mỗi Tuệ linh và chưa
được bộc phát ra.
- Một con rắn nhỏ bên ngoài được thả ra là tượng
trưng cho độc tâm có trong vạn vật, trong tất cả các cấu trúc
vật chất. Độc tâm đó cũng đang bị ẩn giấu.

495
- Con rắn to được thả ra tượng trưng cho năng lượng
hoại diệt. Đó là độc tâm to nhất đối với tất cả các nhóm vật
chất trong Vũ trụ và cả dạng sống Tuệ linh.
Thông qua 3 hình ảnh về những con rắn độc: Tất cả các
Tuệ linh sẽ phải tương tác với nhau trong tất cả các kịch bản
trong các điều kiện môi trường sóng điện khác nhau để bộc
phát hết độc tâm của chính mình, của vạn vật và của năng
lượng hoại diệt. Khi bộc phát được hết độc tâm chính là quá
trình Tuệ linh sẽ giải mã được thông tin toàn diện nhất về tất
cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Sau khi giải mã được thông
tin toàn diện, vị Tuệ linh đầu tiên sẽ nghiên cứu, tìm được
được Đạo hợp nhất của Vũ trụ để cứu Vũ trụ và dạng sống
Tuệ linh. Để bộc phát hết độc tâm cũng như tìm được Đạo
hợp nhất của Vũ trụ, tất cả Tuệ linh sẽ phải thông qua bốn
hình tướng Đạo ở nhân gian.
Như vậy, kết quả của đại hội thống nhất phương pháp
tu học của dạng sống Tuệ linh ở nhân gian gồm có 2 điều:
- Tuệ linh thông qua thân tướng con người phải tương
tác với nhau trong tất cả các kịch bản, trong tất cả các môi
trường sóng điện khác nhau để bộc phát hết độc tâm của
mình, của vạn vật và của năng lượng hoại diệt.
- Phải thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian mới
tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Đạo hợp nhất chính là bộ
lọc sản sinh năng lượng viên mãn để sản sinh ra các siêu hạt
năng lượng cứu Vũ trụ và dạng sống Tuệ linh.
Sau đại hội tập kết thống nhất phương pháp tu học ở
nhân gian, những Tuệ linh đầu tiên đã phát nguyện tiên
phong đi xây dựng nhân loại.

496
5.2. Đại hội tập kết hóa thân thành nhân loại ở
nhân gian
Vị Tuệ linh đầu tiên được coi là Người Cha vĩ đại,
Người Thầy vĩ đại của Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Ngài đã
dẫn dắt các Tuệ linh xuống nhân gian tu học và tạo thành dấu
mốc lịch sử cho sự xuất hiện của con người. Ngài cùng các
Tuệ linh thực hiện con đường truy tìm Đạo hợp nhất của Vũ
trụ ở nhân gian trong nhiều đời, nhiều kiếp.
Cuộc tập kết lịch sử khởi đầu cho sự hình thành loài
người: Tại vô số nơi trên Trái đất, tại ven sông, tại ven biển,
tại đồng bằng, tại trên núi, tại trong rừng, tại những nơi đó có
vô số các điểm tập kết lịch sử. Tại các điểm tập kết lịch sử đó,
Người Cha vĩ đại đã dùng quyền năng của mình để triệu tập
tất cả muông thú về nghe Ngài truyền dạy và những lời Ngài
truyền dạy chính là luật, là luật Nhân quả mà tất cả muông
thú cùng với các Tuệ linh sống tại Trái đất phải tuân thủ theo.
Tại mỗi điểm tập kết sẽ có các Tuệ linh được hóa thành từng
cặp vợ chồng và hai con nhỏ, có một con gái và một con trai.
Mỗi điểm tập kết sẽ có hai cho đến nhiều hộ gia đình và
nhiều muông thú đến nghe Ngài truyền dạy. Đây là cơ sở để
loài người hình thành các bộ lạc, bộ tộc và ngày nay là quốc
gia.
Người Cha vĩ đại truyền dạy tại các điểm tập kết lịch
sử: Ngài nói với các cặp gia đình là: “Ta đưa các ngươi xuống
đây bằng chân tâm thì về cũng phải bằng chân tâm”; Ngài nói
với các cặp bố mẹ: “Ta giao sứ mệnh các ngươi phải gả con
cái cho nhau để xây dựng nhân loại”; Ngài nói với các cặp gia
đình: “Các ngươi sẽ phải trải qua nhiều kiếp, trải qua hết các
khổ đau và kiếp nạn, lấy kinh nghiệm trải qua đó để cải tạo
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, khi chưa cải tạo được thì
497
chưa được trở về”; Ngài nói với các hộ gia đình và muông
thú: “Ta giao cho các ngươi nhiệm vụ thuần hóa muông thú
để chúng cũng làm người và cùng xây dựng nhân loại”. Ngài
nói với tất cả các hộ gia đình và muông thú: “Ta cho các
ngươi biết, để nhanh cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng thì các ngươi hãy tìm kiếm Chân lý Vạn vật và Chân lý
Giác ngộ trong khổ đau và kiếp nạn”.
Trong các cuộc tập kết lịch sử này, Người Cha vĩ đại đã
sắp đặt và gợi ý về luật Nhân quả. Luật Nhân quả chính là
Chân lý Vạn vật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, mà tất cả
các dạng sống dưới nhân gian sẽ phải thông qua khổ đau
kiếp nạn để tìm và thấu hiểu. Không những Ngài gợi ý việc
thông qua khổ đau kiếp nạn để tìm được Chân lý Vạn vật mà
còn gợi lý luôn là phải tìm ra Chân lý Giác ngộ để giải thoát
hết các khổ đau đó thì mới luyện được bộ lọc năng lượng
trong Trụ linh của Tuệ linh. Luật Nhân quả là luật công bằng
đã được Ngài chuyển hóa từ Chân lý Vạn vật sau quá trình
quan sát sự vận hành của vạn vật, Vũ trụ và xây dựng nó
hoàn chỉnh nhằm tạo ra môi trường tu hành cho Tuệ linh
khắp Vũ trụ tại Trái đất này.
Thông qua những sự sắp đặt trong các cuộc tập kết cho
Tuệ linh xuống nhân gian tu hành cùng muông thú và những
lời truyền dạy của Ngài, thông qua sự tương tác hợp nhất bởi
không gian và thời gian của mỗi con người mà tạo thành hình
tướng Đạo. Hình tướng Đạo được biểu hiện ra bốn hình
tướng: Đạo đời, Đạo lễ, Đạo đường, Đạo Đế vương. Đó là
phương pháp tu hành mà Ngài đã đưa ra trong đại hội thống
nhất phương pháp tu hành cho Tuệ linh.

498
Hình: Bốn hình tướng Đạo

Mỗi một con người hiện diện tại nhân gian này phải
thể hiện được chí khí “Đầu đội trời, chân đạp đất, gánh vác
trên vai bốn hình tướng Đạo, không được bỏ hay làm gãy
hình tướng Đạo nào”. Trong hình tướng Đạo lễ, đó là tri ân
báo hiếu cha mẹ tổ tiên, nghĩa tình vợ chồng, huynh đệ, con
cái; Đạo đời là đối nhân xử thế và mưu sinh; Đạo đường là
con đường tri thức, giác ngộ, tôn giáo, nền giáo dục; Đạo Đế
vương là quân dân ái quốc.

499
Chỉ duy nhất thời kỳ đầu tiên các Tuệ linh hóa thân
thành con người mới thông qua liên kết giữa cấu trúc năng
lượng của chính mỗi Tuệ linh với vô số hạt năng lượng giản
đơn kết tụ để tạo ra hình hài con người hoàn chỉnh. Sau thời
kỳ đầu tiên, các Tuệ linh hoặc các linh hồn đủ tiêu chuẩn luân
hồi làm người sẽ phải thông qua luật luân hồi. Đó là thông
qua cơ chế sinh sản của con người để luân hồi đầu thai làm
người.
Vô số các Tuệ linh xuống nhân gian tu hành. Cũng có
vô số linh hồn muông thú được chuyển sinh để luân hồi làm
con người. Tất cả con người sống, tương tác trong cuộc sống
ở nhân gian thông qua bốn hình tướng Đạo.
Vô số Tuệ linh cùng vô số linh hồn trong thân tướng
con người thông qua bốn hình tướng Đạo trong nhiều đời
nhiều kiếp. Quá trình đó đã tạo ra tất cả các kịch bản tương
tác với tất cả các môi trường sóng điện khác nhau cho từng
Tuệ linh và linh hồn. Do đó, tất cả những độc tâm và thiện
tâm của Tuệ linh, linh hồn thông qua thân tướng con người
đã được bộc phát hết. Độc tâm của vạn vật và bản chất của
năng lượng hoại diệt cũng được bộc phát hết.
Trải qua hành trình tu hành của Tuệ linh ở nhân gian
thông qua bốn hình tướng Đạo trong nhiều đời nhiều kiếp, vị
Tuệ linh đầu tiên đã giải mã và mã hóa được toàn diện về tất
cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Do
đó, Ngài đã tìm ra cơ chế, phương pháp chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng. Đó chính là Đạo hợp nhất của Vũ
trụ đã được tìm thấy.

500
6. Bản chất khổ đau và con đường diệt khổ của
con người và Tuệ linh
Bản chất khổ đau của Tuệ linh đã được phân tích ở các
phần trước. Trong phần này là phân tích bản chất khổ đau
của con người, tức là khổ đau của Tuệ linh trong thân tướng
con người. Đó là những khổ đau mới, khổ đau mà dạng sống
của Tuệ linh không có khi chưa hóa thân làm con người.
Bởi vì tu hành thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân
gian trong nhiều đời nhiều kiếp sẽ tạo ra được tất cả các kịch
bản tương tác trong tất cả các điều kiện môi trường khác
nhau cho mỗi Tuệ linh, chính vì điều này đã giúp cho Tuệ linh
thông qua thân tướng con người để bộc phát được hết tất cả
các độc tâm và thiện tâm. Từ đó vị Tuệ linh đầu tiên xây
dựng được con đường diệt khổ để cải tạo Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng cho Tuệ linh.
Khổ đau chính là độc tâm đã được bộc phát thông qua
bốn hình tướng Đạo với tất cả các kịch bản tương tác trong
tất cả các môi trường sóng điện khác nhau. Con đường diệt
khổ chính là thiện tâm đã và đang được kích hoạt thông qua
bốn hình tướng Đạo với tất cả các kịch bản tương tác trong
tất cả các môi trường sóng điện khác nhau.

6.1. Bản chất của khổ đau


Vị Tuệ linh đầu tiên đã thấu hiểu Chân lý Vạn vật của
vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Đó là
cội nguồn, bản chất, cấu trúc cấu tạo, cơ chế vận hành, thông
tin, môi trường của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và
con người. Chân lý Vạn vật được hiểu là hình tướng của Đạo.
Tiếp đó Ngài đã tìm ra Chân lý Giác ngộ. Chân lý Giác ngộ
501
chính là Tâm Đạo, là con đường duy nhất cải tạo thành công
Trụ linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng để tiếp tục cải
tạo sự sống của tất cả các dạng sống của trong và ngoài Vũ
trụ.
Khi giác ngộ được Chân lý Giác ngộ sau khi giác ngộ
Chân lý Vạn vật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và
con người, Ngài đã thốt lên rằng: “À, đời là bể khổ. Chúng
sinh, Tuệ linh và con người phải dùng chân tâm đối mặt, giác
ngộ giải thoát hết tất cả các khổ đau của vạn vật ở bên trong
và bên ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người”.
Trong Chân lý Giác ngộ, ta thấy đời là bể khổ, không có
gì khác ngoài khổ. Khi phân nhóm của khổ, ta sẽ thấy có
nhóm khổ đau do quy luật tự nhiên và nhóm khổ đau tại
Tâm. Trong mỗi nhóm khổ sẽ có các khổ đau, nguyên nhân
của khổ đau, và phương pháp diệt khổ đau.
Vậy khổ đau của con người là gì?
- Khổ đau của con người là sự bí bách, luẩn quẩn, xung
đột trạng thái năng lượng của Tâm (Tuệ linh) trong thân
tướng của con người. Nguyên nhân bởi trí tuệ của con người
bám định vào các giả tướng để vơ vét, hưởng thụ, thỏa mãn
mà không học tập, không thực hành cải tạo Trụ linh cho Tuệ
linh.
Con người là tam hợp yếu tố cấu tạo thành, đó là thân
tướng, là trí tuệ trau dồi được ở hiện kiếp, là Tâm (Tuệ linh).
Do đó:
- Đối tượng của khổ đau chính là Tâm (Tuệ linh). Tuệ
linh bí bách, luẩn quẩn, xung đột trạng thái năng lượng trong
thân tướng con người.

502
- Khổ đau chính là quá trình độc tâm bắt đầu sinh khởi
cho tới khi bộc phát hết.
- Nguyên nhân của khổ là do trí tuệ bám định vào giả
tướng.
- Giả tướng chính là quá trình tương tác giữa con
người với con người, giữa con người với vạn vật và muông
thú trong các môi trường sóng điện khác nhau, hoàn cảnh
khác nhau thông qua bốn hình tướng Đạo. Có thể nói rằng giả
tướng chính là tất cả các kịch bản tương tác của Tuệ linh
thông qua thân tướng con người trong tất cả các điều kiện
môi trường sóng điện khác nhau bởi bốn hình tướng Đạo.
Như vậy, môi trường tu hành ở nhân gian cho Tuệ linh
đã thỏa mãn được cường độ tương tác, tất cả các nhóm vật
chất trong và ngoài Vũ trụ cùng tương tác, có đầy đủ môi
trường sóng điện, đặc biệt là Tuệ linh không còn tự do trong
thân tướng. Đây là môi trường tu hành lý tưởng để giúp Tuệ
linh bộc phát hết độc tâm và kích hoạt hết thiện tâm. Kết quả
là tất cả Tuệ linh tu hành ở nhân gian đã bộc phát hết độc
tâm cũng như thiện tâm. Đây được coi là thành tựu vô cùng
quan trọng để tạo thành bước ngoặt chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng.

6.2. Khổ đau do quy luật tự nhiên và phương


pháp diệt khổ
Khổ đau do quy luật tự nhiên là những khổ đau mà
chúng ta đều biết, đều nhận thấy, nó sẽ xảy ra, không ai thoát
khỏi khổ đau do quy luật tự nhiên. Đó là những khổ đau
mang đặc tính lặp đi lặp lại bởi đặc tính này chính là Chân lý
Vạn vật.

503
A. Các khổ đau do quy luật tự nhiên
Sinh khổ: Mỗi người được sinh ra đã là khổ, cái khổ
của thân tướng thai nhi nằm trong bụng mẹ chật hẹp và bị o
ép, cái khổ của Tuệ linh hoặc Linh hồn phải đi theo bảo vệ bà
mẹ và thai nhi để chờ ngày thai nhi chào đời. Khi chào đời thì
Tuệ linh hoặc Linh hồn đã thiết nhập vào thân tướng em bé
yếu ớt đó để bắt đầu một kiếp người đầy rẫy khổ đau mà cất
tiếng khóc báo hiệu cho Tuệ linh và con người biết. Sinh ra
mới có sự hiện hữu của vạn vật, Tuệ linh, con người. Con
người chúng ta hiện hữu cũng phải được sinh ra, đó là sự
thật hiển nhiên của Chân lý Vạn vật.
Già khổ: Đó là cái khổ khi mỗi người chúng ta lớn lên
và rồi già yếu. Khi đó thân tướng chúng ta không còn được
khỏe mạnh, chân tay yếu mềm, răng yếu, mắt nhìn không rõ,
tai nghe cũng kém đi, trí nhớ không còn minh mẫn, nỗi sợ khi
đối diện với sự cô đơn lẻ loi về già khiến cho chúng ta sợ hãi
và đau khổ. Cái khổ này ai cũng phải trải qua, không ai là
không trải qua, bởi nó là Chân lý Vạn vật.
Bệnh khổ: Đó là bệnh tật, từ cảm nắng, cảm lạnh, hắt
hơi sổ mũi cho đến những bệnh nặng như bệnh nan y hay
những bệnh không thể chữa khỏi. Bệnh tật không chừa một
ai cả, dù giàu có, địa vị hay nghèo khó. Những bệnh không
chữa được thì có giàu có, địa vị đến đâu thì vẫn không thể
chữa khỏi. Nỗi khổ của người bệnh là luôn luôn sợ chết,
luyến tiếc với gia đình và tiền tài giả tướng.
Tử khổ: Đó là cái chết, ai rồi cũng phải chết, không ai là
không chết, có chăng mỗi người trải qua cái chết như thế
nào. Có người già rồi mà chết, có người chết vì bệnh tật, có
người chết vì chiến tranh, có người chết vì tai nạn, có người
chết vì giết hại nhau. Khi chết, Tuệ linh tách ra và nhìn thân
504
tướng mình an trụ bao lâu nay mà luyến tiếc không nỡ xa rời.
Có Tuệ linh hoặc Linh hồn khi chết rồi còn bị con cháu nhờ
thầy pháp về trấn yểm vong làm cho cái khổ chồng chất cái
khổ. Vừa mới luyến tiếc thân tướng và con cháu chưa nguôi
ngoai đã bị thầy pháp bắt yểm và bị tra tấn làm cho nỗi đau
khổ tăng tột cùng, khiến cho nhiều Tuệ linh hoặc Linh hồn
trở nên sân hận mà đọa thành ngã quỷ.
Sinh ly khổ: Đó là cái khổ của người đang sống phải
chia ly nhau. Đó là bố mẹ chia ly con gái về nhà chồng, chồng
chia ly vợ khi Đất nước có chiến tranh, người yêu chia ly
nhau để ra chiến trận bảo vệ Tổ quốc, những đôi yêu nhau
không hợp cũng chia ly nhau, vợ chồng không hạnh phúc
chia ly nhau. Đây là cái khổ do quy luật tự nhiên, bởi không ai
bên ai mãi mãi hay bất tử cả, bởi do duyên mà đến với nhau
thì cũng do duyên mà rời xa nhau, khi rời xa nhau sẽ khiến
cho chúng ta lưu luyến mà khổ đau trong tâm. Cái khổ của
chia ly nó tăng gấp bội khi Đất nước có chiến tranh. Khi đó,
cha mẹ già chia tay con ra chiến trận, vợ chia tay chồng ra
chiến trận, con thơ chia tay cha ra chiến trận, nỗi đau đó
giằng xé trong tâm không hề nguôi ngoai, sự đau khổ trong
sự oán hận kẻ thù.
Tử biệt khổ: Đó là cái khổ của người sống phải chứng
kiến và tiễn biệt người thân nằm vào đất mẹ, chứng kiến
người thân chết do tai nạn, chết do chiến tranh, chết do bệnh,
chết do già, chết do tự tử. Ai cũng phải chết, không ai là
không chết, đó là cái chết của thân tướng trở về với đất mẹ.
Nhưng cái chết của những con người vì binh đao khói lửa,
phải vùi thân tướng nằm xuống nơi đất mẹ, những người
thân đau khổ khóc thành những dòng nước mắt của sự oán
hận, oán hận của sự tham sân si của nhân loại mà gây ra vô

505
số cuộc chiến tranh trên khắp Thế giới để cho oán khí nghi
ngút khắp đất trời.
B. Nguyên nhân của khổ đau do quy luật tự
nhiên
Khổ đau do quy luật tự nhiên là sự thật hiển nhiên nó
phải đến, phải xảy ra và sẽ trải qua ở môi trường tu hành
nhân gian. Nó là khổ đau được xây dựng cho môi trường tu
hành của Tuệ linh thông qua Chân lý Vạn vật, nên không có
nguyên nhân khổ đau. Khổ đau do quy luật tự nhiên là phải
đối mặt, không thể chạy trốn hay chạy thoát được.
Những khổ đau do quy luật tự nhiên chính là những
kịch bản tương tác trong các môi trường sóng điện khác
nhau để giúp Tuệ linh bộc phát độc và thiện tâm.
Những khổ đau do quy luật tự nhiên lại tạo thành vô số
các kịch bản cũng như các môi trường tương tác khác để Tuệ
linh thông qua thân tướng con người bộc phát được độc và
thiện tâm.
C. Phương pháp diệt khổ đau do quy luật tự
nhiên
Phương pháp diệt khổ đau của quy luật tự nhiên là:
“Chúng sinh, Tuệ linh và con người phải dùng chân tâm chạy
đua với thời gian, hy sinh lợi ích của mình để mang lại lợi ích,
niềm vui và hạnh phúc cho tất cả các dạng sống trong và
ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người”.
Khi chạy đua với thời gian để mang lại niềm vui hạnh
phúc cho mọi người thì đó là Tâm đã dẫn dắt được Trí tuệ để
điều khiển Thân tướng thực hành cải tạo Trụ linh, nên Tâm
sẽ an vui mà diệt được khổ đau do quy luật tự nhiên tại kiếp

506
người. Tuệ linh cũng hy sinh lợi ích mà chạy đua với thời
gian để thông qua khổ đau kiếp nạn nhằm thấu hiểu, triệt bỏ
được độc tâm và kích hoạt thiện tâm. Khi đó sẽ nhanh chóng
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.
Những cái khổ do quy luật tự nhiên phải đến và trải
qua, không ai trốn thoát được. Trong khi một kiếp người thì
có hạn, nó trôi qua rất nhanh, khi ta vừa sinh ra đã thấy già
rồi, khi ta đang khỏe mạnh đã thấy bệnh rồi, khi ta đang bên
nhau đã thấy chia ly rồi. Do đó nếu không chạy đua với thời
gian để thấu hiểu vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và
con người, thấu hiểu Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ,
tiếp tục chạy đua với thời gian để thực hành, cải tạo Vũ trụ
quan thì sẽ lãng phí một kiếp người.
Lịch sử nhân loại của các quốc gia đã chứng minh rất
rõ ràng sự giác ngộ khổ đau do quy luật tự nhiên. Đó là khi
quốc gia có ngoại bang xâm lăng, tất cả những người con dân
tộc cùng nhau đoàn kết ra chiến trường để đánh đuổi giặc
ngoại xâm, bảo vệ bình yên và hòa bình cho dân tộc, cho xóm
làng. Nếu mỗi người dân không chạy đua với thời gian để
đoàn kết đánh giặc mà lại nghĩ là khổ do quy luật tự nhiên, cứ
đón nhận thì sẽ làm cho máu chảy đầu rơi trên khắp Đất
nước, người người chìm trong tang thương khổ đau. Do đó
quốc gia nào cũng có những bậc Thánh nhân có công xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ cùng nhân dân của họ giác ngộ
được khổ đau do quy luật tự nhiên, họ không màng thân xác,
họ ra chiến trận để bảo vệ quê hương và dân tộc họ được hòa
bình ấm no.
Một người bị bệnh thì cũng phải chạy đua với thời gian
để chữa khỏi, để còn giúp cho gia đình, xã hội ngày càng tốt
đẹp, chứ không phải có bệnh rồi mặc kệ đối mặt chờ chết.

507
Mọi người đều phải chạy đua với thời gian để khi chưa
bệnh, khi chưa già, khi chưa tử biệt, để tận dụng thời gian
kiếp người ngắn ngủi mà học tập và thực hành. Đó là học tập
tri thức của hai Chân lý và thực hành cải tạo Trụ linh cho Tuệ
linh. Khi cải tạo cho mình đồng nghĩa gắn liền với cải tạo Vũ
trụ quan xung quanh. Nếu không chạy đua để học và thực
hành cải tạo Trụ linh thì sẽ lãng phí kiếp người. Đặc biệt là sẽ
phải luân hồi vô lượng kiếp và có nguy cơ bị hoại diệt Tuệ
linh bởi thực hành cơ chế sản sinh năng lượng âm sẽ khiến
cho năng lượng hoại diệt vào phân rã.
Tất cả mọi người cùng nhau chạy đua thời gian để
mang lại niềm vui và hạnh phúc cho nhau sẽ tạo ra sức mạnh
cải tạo vô cùng kỳ diệu cho cả Vũ trụ. Những năng lượng
dương và các siêu năng lượng sẽ được hình thành để cấu
trúc, vận hành sự sống của tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ
trụ trở nên bền vững.

6.3. Khổ đau tại Tâm và phương pháp diệt khổ


Khổ đau tại Tâm là những cơn khổ đau xảy ra với Tâm
mà ta không biết trước. Nó như những cơn bão bí bách, luẩn
quẩn, xung đột trạng thái năng lượng đi qua Tâm trong cuộc
đời của mỗi người. Mỗi đời người có từ vài cho tới rất nhiều
cơn bão khổ đau đi qua Tâm. Những cơn bão khổ đau có khi
nhẹ nhàng và cũng có khi dồn dập, thậm chí trong mỗi kiếp
người cảm nhận như không thể vượt qua được sự đau khổ đó.
Khổ đau tại Tâm là Tâm ta bí bách, luẩn quẩn, xung đột
trạng thái năng lượng trong ngôi nhà Thân tướng. Nguyên
nhân bởi trí tuệ bám định vào các giả tướng mà không học tập
để thấu hiểu tri thức của hai Chân lý. Điều đó dẫn tới Tâm

508
không hợp nhất được Thân và Trí để học tập và thực hành cải
tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Vì vậy, Tâm đau khổ
trong thân tướng vật chất và bị trí tuệ của thân tướng thực
hành đời sống thỏa mãn giả tướng.
A. Các khổ đau tại Tâm
Khổ đau tại Tâm gồm có 10 khổ đau. Mười khổ đau
chính là mười giả tướng mà Tâm thấy khổ đau: Có, không có,
yêu thương, thù ghét, có trí tuệ, không có trí tuệ, cầu được,
cầu không được, hành động, không hành động. Trong mỗi
một khổ đau tại Tâm lại có rất nhiều nội dung khổ đau nhỏ
bên trong.
Mười khổ đau tại Tâm đó là:
- Tâm đau khổ vào giả tướng có: Đó là Tâm bí bách đau
khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng có. Đó là có địa vị, giàu
sang, tiền tài, danh vọng… mà không thấu hiểu được Chân lý
Vạn vật và Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ
linh của Tuệ linh ở kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù
nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực
hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ bí bách
của Tâm là vì trí tuệ chỉ biết bám định vào, vơ vét, giữ lấy các
giả tướng mình đang có để thụ hưởng ích kỷ nơi thân tướng
nó mà không chuyển hóa các giả tướng đó thành lợi ích cho
chúng sinh, vạn vật, Tuệ linh và con người.
- Tâm đau khổ vào giả tướng không có: Đó là Tâm bí
bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng không có. Đó
là không có địa vị, tiền tài, giàu sang, sức khỏe… mà không
thấu hiểu được Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ để Tâm
thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn
ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng

509
không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí
bách. Cái đau khổ bí bách của Tâm là vì trí tuệ chỉ biết bám
định vào, vơ vét những giả tướng mà mình không có một
cách ích kỷ về mình mà gây tổn thương cho mọi người và vạn
vật, Tuệ linh.
- Tâm đau khổ vào giả tướng yêu thương, sở thích: Đó
là Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng yêu
thương, sở thích. Đó là thông dâm, tà dâm, sắc dục, ngoại
tình, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút… mà không thấu hiểu Chân
lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ
linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù
nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực
hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ này
của Tâm là vì trí tuệ bám định vào cho thân tướng được thụ
hưởng trụy lạc, sắc dục với giả tướng khác mà gây tổn
thương cho vô số người khác và vạn vật, Tuệ linh.
- Tâm đau khổ vào giả tướng thù ghét: Đó là Tâm bí
bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng thù ghét. Đó
là không thích ai đó, thù hận ai đó, không thích cái gì đó… mà
không thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm
thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn
ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng
không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí
bách. Cái đau khổ này của Tâm là vì trí tuệ bám định vào các
giả tướng không thích hay thù ghét mà ích kỷ thỏa mãn sự
thù hận để gây tổn thương cho mọi người và vạn vật, Tuệ
linh.
- Tâm đau khổ vào giả tướng cầu được: Đó là Tâm bí
bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng cầu được. Đó
là cầu được danh, cầu được tiền tài giàu có, cầu được cờ bạc,

510
cầu được tình duyên, cầu được con… mà không thấu hiểu
Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo
Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm
như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do
thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ
này của Tâm là vì trí tuệ bám định vào cho thân tướng cầu
được cái mình không có để trở thành có, rồi luẩn quẩn trong
các giả tướng có và yêu thích để vì ích kỷ về mình mà gây tổn
thương đến mọi người và vạn vật, Tuệ linh.
- Tâm đau khổ vào giả tướng cầu không được: Đó là
Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng cầu
không được. Đó là cầu không được địa vị, không được giàu
có, không được con, không được cờ bạc, không được tình
duyên… mà không thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác
ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp
người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà
Thân tướng không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà
đau khổ bí bách. Cái đau khổ này của Tâm là vì trí tuệ bám
định vào cho thân tướng cầu mà không được nên ích kỷ dẫn
đến thù ghét mà gây tổn hại mọi người và vạn vật, Tuệ linh.
- Tâm đau khổ vào giả tướng có trí tuệ: Đó là Tâm bí
bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng có trí tuệ. Đó
là coi mình là người có trí tuệ hơn người, nghĩ mình có chức
sắc, địa vị, giàu sang, bằng cấp, tầng lớp trí thức… mà không
thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm thực
hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi.
Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng không
được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách.
Cái đau khổ này của Tâm là vì trí tuệ bám định vào cho thân

511
tướng mình có trí tuệ mà khinh khi, ngạo mạn, chà đạp người
khác để thỏa mãn sự ngạo mạn về mình.
- Tâm đau khổ vào giả tướng không có trí tuệ: Đó là
Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng không
có trí tuệ. Đó là coi mình là người nghèo hèn, không bằng
cấp, lao động, nông dân, công nhân, không địa vị, không giàu
có, không phải tầng lớp trí thức… mà không thấu hiểu Chân
lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ
linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù
nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực
hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ này
của Tâm là vì trí tuệ bám định vào cho thân tướng mình u mê
không có trí tuệ mà tự ti, sợ hãi khi gặp người giàu có, địa vị
hay trí thức mà không cố gắng trau dồi trí tuệ để mang lại lợi
ích cho mọi người và Vũ trụ, Tuệ linh.
- Tâm đau khổ vào giả tướng hành động: Đó là Tâm bí
bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng hành động.
Đó là hành động tạo ác nghiệp, do không thấu hiểu Chân lý
Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm thực hành cải tạo Trụ linh
của Tuệ linh tại kiếp người ngắn ngủi. Do đó Tâm như tù
nhân trong ngôi nhà Thân tướng không được tự do thực
hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí bách. Cái đau khổ này
của Tâm là vì trí tuệ bám định vào cho thân tướng hành động
vì lợi ích ích kỷ về mình mà gây tổn thương mọi người và vạn
vật, Tuệ linh.
- Tâm đau khổ vào giả tướng không hành động: Đó là
Tâm bí bách đau khổ vì trí tuệ bám định vào giả tướng không
hành động. Đó là không hành động tạo thiện phước, do
không thấu hiểu Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ để Tâm
thực hành cải tạo Trụ linh của Tuệ linh tại kiếp người ngắn

512
ngủi. Do đó Tâm như tù nhân trong ngôi nhà Thân tướng
không được tự do thực hành cải tạo Trụ linh mà đau khổ bí
bách. Cái đau khổ này của Tâm là vì trí tuệ bám định vào cho
thân tướng không hành động vì lợi ích cho mọi người nên
gây tổn thương cho mọi người và vạn vật, Tuệ linh.
Mười khổ đau tại Tâm chính là các độc Tâm không dễ
dàng để sinh khởi và bộc phát hết. Bởi những độc Tâm này
nó là bản chất từ phôi âm dương gốc của mỗi Tuệ linh. Để
bộc phát được hết độc Tâm, khổ đau tại Tâm, cần phải có sự
tương tác trong bốn hình tướng Đạo với tất cả các kịch bản
và môi trường sóng điện khác nhau. Có thể nói, mười khổ
đau tại Tâm được bộc phát là điều tuyệt vời đối với dạng
sống Tuệ linh.
Mười khổ đau tại Tâm cùng với các khổ đau của quy
luật tự nhiên tạo thành tất cả các kịch bản tương tác trong
mọi điều kiện sóng điện khác nhau của mỗi Tuệ linh tu hành
ở nhân gian thông qua bốn hình tướng Đạo. Đây là thành
công rực rỡ của hành trình tu hành của dạng sống Tuệ linh ở
nhân gian. Đó là kết quả mong chờ của tất cả dạng sống Tuệ
linh bởi đã có được môi trường tu hành hoàn hảo để giúp cho
Tuệ linh giải mã được sự thật về tất cả vạn vật trong và ngoài
Vũ trụ.
Kết quả của các khổ đau tại Tâm và của quy luật tự
nhiên chính là kết quả của tất cả các độc Tâm đã được bộc
phát hết. Đó là độc Tâm của Tuệ linh và con người được bộc
phát hết. Đó là độc Tâm của vạn vật đều được bộc phát hết.
Đó là độc Tâm của năng lượng hoại diệt được bộc phát hết.
B. Nguyên nhân khổ đau tại tâm

513
Khổ đau tại Tâm là những độc Tâm được sinh khởi cho
tới bộc phát hết bởi tất cả các kịch bản tương tác trong bốn
hình tướng Đạo với các môi trường sóng điện khác nhau.
Như vậy, việc bộc phát được các khổ đau (độc tâm) là điều vô
cùng tuyệt vời.
Nguyên nhân cội nguồn của khổ đau tại Tâm là vì dạng
sống Tuệ linh chưa giải mã được thông tin toàn diện của
chính mình, của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Vì chưa bộc
phát hết độc Tâm cũng như thiện Tâm nên chưa có khả năng
trưởng thành, chưa có cơ chế chuyển hóa năng lượng hoại
diệt để duy trì sự phát triển bền vững của mình và Vũ trụ.
Chính vì nguyên nhân cội nguồn này mà dẫn tới việc dạng
sống Tuệ linh hóa thân làm con người để tu hành ở nhân
gian. Tu hành ở nhân gian nhằm giải mã được vạn vật trong
và ngoài Vũ trụ, đặc biệt là giải mã được độc Tâm và thiện
Tâm của mình. Khi giải mã được sẽ tìm ra cơ chế chuyển hóa
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Nguyên nhân trực tiếp của khổ đau tại Tâm:
- Đầu tiên là do trí tuệ thân tướng không thấu hiểu về
vạn vật, cội nguồn, sứ mệnh tu hành, tri thức hai Chân lý.
- Tiếp đến là trí tuệ bám định vào giả tướng để thỏa
mãn mà không tu học cũng như thực hành cải tạo Trụ linh
cho Tâm. Do đó, Tâm sinh khởi và bộc phát đau khổ trong tất
cả các kịch bản tương tác bởi bốn hình tướng Đạo ở nhân
gian.
- Tâm đau khổ vì Tâm (Tuệ linh) là siêu vật chất lại
phải an trụ trong thân tướng giản đơn, đã vậy lại không dạy
bảo, chỉ dẫn được trí tuệ của thân tướng. Điều đó dễ dàng
làm cho độc Tâm của Tuệ linh được bộc phát.

514
C. Phương pháp diệt khổ đau tại Tâm
Phương pháp diệt khổ đau tại Tâm là: “Chúng sinh,
Tuệ linh và con người phải dùng chân tâm chạy đua với thời
gian, hy sinh lợi ích của mình để mang lại lợi ích, niềm vui và
hạnh phúc cho tất cả các dạng sống trong và ngoài Vũ trụ,
Tuệ linh và con người”.
Việc bộc phát được khổ đau, bộc phát được độc Tâm là
điều vô cùng giá trị và tuyệt vời đối với dạng sống Tuệ linh.
Quả thật không dễ dàng gì để Tuệ linh giải mã được bản chất
của chính mình, của vạn vật và của cả năng lượng hoại diệt.
Bởi khi giải mã được khổ đau tại tâm chính là giải mã được
tận cùng của tất cả các kịch bản mà Tuệ linh không kiểm soát
được năng lượng âm của phôi âm dương gốc cũng như toàn
bộ Tuệ linh. Khi giải mã được những độc Tâm thì cũng chính
là việc Tuệ linh đã giải mã được tất cả các kịch bản mà năng
lượng hoại diệt xâm nhập vào làm phân rã Tuệ linh, đồng
thời cũng là giải mã được những độc Tâm của vạn vật, Tuệ
linh khác, con người khác tác động vào trong tất cả các kịch
bản.
Khi giải mã và thấu hiểu được tất cả các khổ đau, các
độc Tâm, Tuệ linh và con người phải thực hành quá trình mã
hóa thông tin tốt cho việc phân tách và liên kết hạt năng
lượng bền vững để Tuệ linh trưởng thành và chuyển hóa
được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Phương pháp diệt khổ đó là:
- Tất cả con người và Tuệ linh đều phải chạy đua với
thời gian. Nếu không chạy đua với thời gian thì không biết
còn cơ hội để cải tạo Trụ linh được hay không. Bởi chỉ cần
khi Tuệ linh không kiểm soát được độc tâm sẽ khiến cho

515
năng lượng hoại diệt xâm nhập và làm phân rã Tuệ linh. Do
đó thời gian không chờ đợi bất kỳ ai hay Tuệ linh nào cả.
- Dùng chân tâm để học tập, thấu hiểu tri thức của hai
Chân lý. Khi có tri thức của hai Chân lý sẽ giải mã được toàn
bộ sự thật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con
người. Chân tâm chính là trạng thái mà con người có trí tuệ
thấu hiểu và biết lắng nghe, biết phân tích đúng sai.
- Cuối cùng là chuyển hóa những giả tướng mình có để
mang lại niềm vui và hạnh phúc tới mọi người, vạn vật và
Tuệ linh. Đó chính là thực hành đời sống cống hiến vì vạn vật,
Tuệ linh và con người.
Khổ đau tại Tâm giống như những cơn bão liên tục càn
quét qua Tâm, mục đích là để giúp Trụ linh của Tuệ linh bộc
phát triệt để hết các độc tâm và phải chuyển hóa để kích hoạt
hết thiện Tâm. Do đó, con người chúng ta phải chạy đua với
thời gian để có trí tuệ giác ngộ toàn diện. Có trí tuệ giác ngộ
toàn diện sẽ giúp chúng ta có sức mạnh đương đầu và triệt
tiêu hết tất cả các độc Tâm. Khi triệt tiêu được hết tất cả độc
Tâm thì chúng ta phải kích hoạt hết tất cả các thiện Tâm.
Giữa độc Tâm và thiện Tâm cùng có chung cơn bão khổ
đau. Bởi mỗi cơn bão khổ đau tại Tâm đều có chung nội dung
đối xứng giữa độc và thiện. Nếu chúng ta mới chỉ triệt được
độc Tâm mà chưa kích hoạt được thiện Tâm thì cơn bão đó
sẽ vẫn tiếp tục tới. Chỉ khi nào chúng ta vừa triệt bỏ được độc
và kích hoạt được thiện thì cơn bão khổ đau đó mới chấm
dứt. Cứ như vậy, con người chúng ta phải triệt để vượt qua
được 10 cơn bão khổ đau tại tâm và 6 cơn bão khổ đau của
quy luật tự nhiên trong tất cả các kịch bản tương tác của bốn
hình tướng Đạo ở nhân gian. Triệt được hết tất cả các độc
Tâm sau khi bộc phát và kích hoạt được tất cả thiện Tâm mới
516
giúp cho Tuệ linh có đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ chuyển hóa
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

7. Kiểm soát độc tâm và kích hoạt thiện tâm của


con người và Tuệ linh
Vô số Tuệ linh thông qua thân tướng con người tu
hành ở nhân gian với tất cả các kịch bản tương tác trong bốn
hình tướng Đạo với các môi trường sóng điện khác nhau. Quá
trình đó đã giúp cho mỗi Tuệ linh bộc phát được hết độc Tâm
và kích hoạt được hết thiện Tâm. Việc bộc phát được hết độc
Tâm và kích hoạt được hết thiện Tâm đã giúp cho vị Tuệ linh
đầu tiên giải mã triệt để và tận cùng về sự thật của dạng sống
Tuệ linh, của vạn vật cấu tạo thành Vũ trụ, của năng lượng
hoại diệt. Từ đó, Ngài thấu hiểu tất cả các kịch bản liên kết
phân tách theo các hướng phân rã hoại diệt hay bền vững
của Tuệ linh và các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ, thấu
hiểu tận cùng khổ đau, phương pháp diệt khổ của Tuệ linh và
tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ.
Các Tuệ linh muốn trưởng thành và chuyển sinh được
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng thì phải xuống nhân gian tu
hành thông qua bốn hình tướng Đạo. Khi tu hành ở nhân gian
trong tất cả các kịch bản tương tác bởi bốn hình tướng Đạo
trong các môi trường sóng điện khác nhau sẽ giúp cho Tuệ
linh bộc phát được hết độc Tâm và kích hoạt được hết thiện
Tâm. Tuy nhiên, để mỗi Tuệ linh tự trải nghiệm cũng như bộc
phát hết độc và thiện thì cần vô số kiếp tu hành ở nhân gian.
Điều này sẽ mất quá nhiều thời gian và sự nguy hiểm cho
mỗi Tuệ linh có bản chất Trụ linh đa âm.

517
Để giúp cho các Tuệ linh tu hành ở nhân gian nhanh
chóng giải mã được độc Tâm và kiểm soát được độc Tâm khi
nó sinh khởi bộc phát trong tất cả các kịch bản tương tác, vị
Tuệ linh đầu tiên đã xây dựng ra bộ quy tắc không được
phép vi phạm trong bốn hình tướng Đạo để giúp cho con
người, Tuệ linh dễ dàng nhận diện được độc Tâm và kiểm
soát để triệt bỏ độc Tâm khi nó sinh khởi cũng như bộc phát.
Khi con người, Tuệ linh thấu hiểu bộ quy tắc này sẽ giúp cho
họ nhận diện cũng như có trí tuệ để thấu hiểu và kiểm soát
được độc Tâm. Kiểm soát được tất cả độc Tâm chính là thành
tựu đã chuyển hóa được sóng điện trong hạt năng lượng âm
gốc thành sóng điện âm rất nhẹ. Đây là điều kiện để Tuệ linh
kích hoạt được thiện Tâm và chuyển hóa Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng.
Để giúp cho các Tuệ linh tu hành ở nhân gian nhanh
chóng giải mã được thiện Tâm và kích hoạt được thiện Tâm
trong tất cả các kịch bản tương tác, vị Tuệ linh đầu tiên đã
xây dựng ra bộ quy tắc phải thực hiện được trong bốn hình
tướng Đạo để giúp cho con người, Tuệ linh dễ dàng nhận
diện được thiện Tâm và kích hoạt được thiện Tâm trong các
tương tác. Khi con người, Tuệ linh thấu hiểu bộ quy tắc này
sẽ giúp cho họ mã hóa cũng như có trí tuệ để thấu hiểu và
kích hoạt được thiện Tâm. Kích hoạt được tất cả thiện Tâm
chính là thành tựu đã chuyển hóa được sóng điện trong hạt
năng lượng dương gốc thành sóng điện dương siêu mạnh.
Đây là điều kiện để Tuệ linh chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng.

7.1. Bộ quy tắc kiểm soát độc Tâm của Tuệ linh
và con người
518
Bộ quy tắc không được phép vi phạm trong tương tác
của mỗi con người với bốn hình tướng Đạo sẽ giúp cho mỗi
con người giải mã và có trí tuệ thấu hiểu về khổ đau cũng
như độc Tâm của mình. Tiếp đến là mỗi người thực hành
kiểm soát và triệt tiêu độc Tâm trong tất cả các kịch bản
tương tác với bốn hình tướng Đạo. Việc thấu hiểu để kiểm
soát và triệt tiêu được độc Tâm sẽ giúp cho chúng ta thấu
hiểu chính chúng ta cũng như tất cả con người, vạn vật, Tuệ
linh trong quá trình tương tác đó.
A. Hình tướng Đạo lễ
Hình tướng Đạo lễ là mối quan hệ tương tác trong gia
đình, dòng họ, giữa vợ chồng, con cái, anh em, cha mẹ, tổ tiên,
người sống với người đã mất. Đó là:
- Con người không được phép bất hiếu với tổ tiên loài
người: phỉ báng, chửi rủa Thiên Địa, xúc phạm những người
có công xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
- Con cháu không được phép bất hiếu với tổ tiên: chửi
rủa, phá mồ mả, đập phá nơi thờ tự và tri ân gia tiên.
- Con cái không được phép bất hiếu, bất nhân với cha
mẹ: chửi rủa, chà đạp, đánh đập, bỏ mặc, giết hại cha mẹ và
người nuôi dưỡng.
- Vợ chồng không được phép bất nghĩa, bất nhân:
ngoại tình, thông dâm, tà dâm, đánh đập, chà đạp nhân phẩm
của nhau, bỏ nhau, giết hại nhau.
- Anh em không được phép bất nghĩa, bất nhân: tranh
giành lợi ích, đánh đập, chà đạp, giết hại nhau.
- Cha mẹ không được phép bất nghĩa, bất nhân với con
cái: bỏ rơi con cái, giết hại con cái, chà đạp đánh đập con cái,
dạy con cái làm điều ác hại người.

519
- Không được nạo phá thai nhi.
- Không được sống độc thân.
- Không được bỏ bố, bỏ mẹ, bỏ vợ, bỏ chồng, bỏ con cái
để sống cuộc sống ích kỷ.
B. Hình tướng Đạo đời
Hình tướng Đạo đời là đối nhân xử thế, mưu sinh, lao
động sản xuất, tương tác với vạn vật. Cụ thể:
- Không được sát sinh: giết hại muông thú, hành nghề
sát sinh.
- Không được thông dâm, tà dâm: khi đã lập gia đình
và đang chung sống với nhau dưới sự bảo hộ của luật pháp
quốc gia thì không được phản bội lại vợ chồng mà đi lấy
thêm vợ, chồng hoặc thông dâm với người khác; không được
hiếp dâm, không được lạm dụng tình cảm của người khác để
thỏa mãn dục vọng.
- Không được chửi rủa, chà đạp nhân phẩm người
khác, không được đánh đập người khác.
- Không được giết hại người khác và giết hại chính
mình.
- Không được buôn người: trẻ em, phụ nữ, nô lệ.
- Không được hành nghề mại dâm.
- Không được dối trên lừa dưới, không được lừa đảo
chiếm đoạt tài sản của người khác.
- Không được trộm cắp, cướp của.
- Không được phép sản xuất buôn bán những thứ gây
tổn hại cho con người và muông thú, không được buôn bán
và sản xuất những thứ mà pháp luật quốc gia không cho
phép.

520
- Không được lười lao động.
- Người chủ lao động không được bóc lột sức lao động
của người lao động, không được chửi rủa, không được chà
đạp nhân phẩm, không được đánh đập và giết hại người lao
động.
C. Hình tướng Đạo đường
Hình tướng Đạo đường là con đường truyền dạy tri
thức, trí tuệ của người thầy đối với người trò. Cụ thể:
- Học trò không được phép bất kính, bất nhân với thầy:
chửi rủa, chà đạp nhân phẩm, đánh đập, giết hại thầy.
- Các học trò, các môn sinh không được gây mất đoàn
kết, không được hãm hại nhau, không được chia rẽ xung đột.
- Các môn sinh không được nói dối nhau, không được
nói dối thầy.
- Thầy không được phép bất nhân, bất nghĩa với trò:
chửi rủa, chà đạp nhân phẩm, đánh đập, giết hại trò, dạy trò
làm những điều ác, truyền dạy cho học trò đi ngược nhân
quả vạn vật.
- Thầy không được phép lợi dụng học trò để thỏa mãn
ái dục và tà dâm.
- Không được dùng tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo để
lừa đảo hại người, trục lợi về mình, phá hủy giá trị đạo đức
nhân văn của dân tộc và nhân loại.
- Không được hành nghề mê tín dị đoan, bói toán, cúng
cầu đi ngược Quy luật Nhân quả.
- Không được tuyên truyền những mê tín dị đoan,
những hệ tư tưởng tiêu cực, hệ tư tưởng cúng bái cầu xin, hệ
tư tưởng đi ngược Quy luật Nhân quả.

521
- Không được kích động, xung đột tôn giáo, không
được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền giáo lý sai khiến cho
con người đánh mất giá trị đạo đức nhân văn tốt, khiến cho
nhân loại u mê mà lừa hại hoại diệt lẫn nhau.
D. Hình tướng Đạo Đế vương
Hình tướng Đạo Đế vương là mối quan hệ giữa những
người lãnh đạo quốc gia và dân chúng đối với quốc gia dân
tộc. Trong đó, dân tộc, lãnh thổ là chủ; vua quan, lãnh đạo và
nhân dân là bề tôi. Cụ thể:
- Vua, quan không được phép bất trung với quốc gia,
dân tộc: kích động chiến tranh, đi chiến tranh xâm lược,
tham ô tham nhũng, bán nước hại dân, đàn áp giết hại dân
chúng, để người dân đói nghèo dịch bệnh.
- Người dân không được phép bất trung với quốc gia:
lười lao động, hành nghề mê tín dị đoan, xúi giục kích động
phản động chia rẽ dân tộc, phản bội Tổ quốc, chạy trốn khi
quốc gia lâm nguy.
Những quy tắc không được phép vi phạm trong bốn
biểu hiện hình tướng Đạo chính là luật Nhân quả. Luật Nhân
quả là luật công bằng, là sự phản chiếu lại nghiệp lực của
chúng sinh đã tạo ra, nếu chúng sinh nào vi phạm vào những
quy tắc của bốn biểu hiện hình tướng Đạo thì sẽ phải chịu
quả nghiệp ở nhiều kiếp sau, thậm chí sẽ phải chịu quả
nghiệp nhãn tiền trước mắt, và sau khi thoát tục cõi trần
nhân sinh sẽ phải đọa vào các cửa ngục ngã quỷ.
Vị Tuệ linh đầu tiên đã xây dựng bộ quy tắc không
được phép vi phạm trong bốn hình tướng Đạo, còn gọi là
nhân quả là để giúp con người và Tuệ linh nhận diện và triệt
bỏ được độc tâm, cũng như không thực hành con đường

522
chuyển sinh phân rã hoại diệt. Nếu con người và Tuệ linh vi
phạm vào tức là sản sinh năng lượng âm, đó là con đường
chuyển sinh theo hướng hoại diệt Tuệ linh.

7.2. Bộ quy tắc kích hoạt thiện Tâm của Tuệ linh
và con người
Bộ quy tắc phải làm được trong tương tác của mỗi con
người với bốn hình tướng Đạo sẽ giúp cho mỗi con người mã
hóa và có trí tuệ thấu hiểu về phương pháp diệt khổ cũng
như thiện Tâm của mình. Tiếp đến là mỗi người thực hành
kích hoạt thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác với
bốn hình tướng Đạo. Việc thấu hiểu để kích hoạt được thiện
Tâm sẽ giúp cho chúng ta chuyển hóa được Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng.
A. Hình tướng Đạo lễ
Hình tướng Đạo lễ là mối quan hệ tương tác trong gia
đình, dòng họ, giữa vợ chồng, con cái, anh em, cha mẹ, tổ tiên,
người sống với người đã mất. Đó là:
- Con người phải thấu hiểu Thiên Địa, thấu hiểu về vị
Tuệ linh đầu tiên là Người Cha vĩ đại của Vũ trụ, Tuệ linh và
con người. Do đó phải tri ân đối với Thiên Địa.
- Con cháu phải tưởng nhớ, tri ân với những vị anh
hùng dân tộc đã có công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải
tưởng nhớ và tri ân với cha ông đã hy sinh thân xác để xây
dựng và bảo vệ quốc gia mình đang sinh sống.
- Con cái phải báo hiếu cha mẹ: phụng dưỡng, chăm
sóc, thậm chí hy sinh thân xác để bảo vệ cha mẹ.
- Vợ chồng phải chung thủy tuyệt đối: yêu thương
nhau, hy sinh vì nhau.
523
- Anh em phải nghĩa tình viên mãn: đoàn kết, chia sẻ,
giúp đỡ nhau.
- Cha mẹ phải trả nghĩa con cái: dạy con cái thành
người tốt, thấu hiểu đạo lý làm người, hy sinh vì con cái.
- Phải kết hôn lập gia đình và chăm sóc gia đình hạnh
phúc để duy trì phát triển nhân loại.
B. Hình tướng Đạo đời
Hình tướng Đạo đời là đối nhân xử thế, mưu sinh, lao
động sản xuất, tương tác với vạn vật. Cụ thể:
- Phải thương yêu muông thú, bảo vệ muông thú, cứu
giúp muông thú và vạn vật, bảo vệ thiên nhiên.
- Phải tôn trọng những người khác giới, giữ các mỗi
quan hệ khác giới trong sáng.
- Phải giúp đỡ người khó khăn, khổ đau, hoạn nạn,
nghèo khó.
- Phải hy sinh lợi ích của mình để bảo vệ nhân loại,
mang lại niềm vui và hạnh phúc cho nhân loại.
- Phải sống có nghĩa tình, phải giữ chữ tín đối với nhau.
- Phải quan tâm chăm sóc người già, trẻ em, phụ nữ.
- Kinh doanh, sản xuất phải tuân thủ pháp luật quốc
gia và phải mang lại được lợi ích cho mọi người.
- Phải chăm chỉ lao động, hăng say lao động sản xuất.
- Người chủ lao động phải quan tâm, thương yêu và
giúp đỡ người lao động.
C. Hình tướng Đạo đường
Hình tướng Đạo đường là con đường truyền dạy tri
thức, trí tuệ của người thầy đối với người trò. Cụ thể:

524
- Học trò phải kính trọng thầy dạy.
- Các học trò, các môn sinh phải đoàn kết, thương yêu,
giúp đỡ nhau.
- Các môn sinh phải nói lời thật tâm, phải chia sẻ thật.
- Thầy phải yêu thương trò và phải truyền dạy cho trò
thấu hiểu đạo lý làm người để cải tạo thế giới quan tốt đẹp
hơn.
- Thầy phải tôn trọng phẩm hạnh của học trò, tôn trọng
và giữ gìn mối quan hệ trong sáng.
- Phải tôn tạo và bảo tồn những giá trị trong sáng của
tín ngưỡng văn hóa, của các dòng đạo.
- Phải bài trừ mê tín, u mê lạc lối trong các tín ngưỡng,
trong các tôn giáo bởi sự cúng cầu trái Quy luật Nhân quả.
- Phải thấu hiểu Thiên – Địa – Nhân, thấu hiểu Người
Cha vĩ đại của Tuệ linh, con người. Phải thấu hiểu các dòng
đạo đều là con dân của Ngài, do đó nhân loại phải đoàn kết,
đoàn kết tôn giáo để cùng nhau cải tạo thế giới quan tốt đẹp
hơn.
- Thầy và trò phải phổ độ và truyền dạy những tri thức
chuẩn mực của hai Chân lý để nhân loại cùng đón nhận và
thực hành cải tạo Trụ linh cho Tuệ linh.
D. Hình tướng Đạo Đế vương
Hình tướng Đạo Đế vương là mối quan hệ giữa những
người lãnh đạo quốc gia và dân chúng đối với quốc gia dân
tộc. Trong đó, dân tộc, lãnh thổ là chủ; vua quan lãnh đạo và
nhân dân là bề tôi. Cụ thể:
- Vua, quan phải xây dựng được quốc thái dân an, đời
sống nhân dân ấm no, hòa bình, hạnh phúc, phải hy sinh lợi

525
ích của mình để bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ lợi ích của dân
tộc.
- Người dân phải đoàn kết dân tộc, hăng say lao động
sản xuất, hy sinh trí tuệ và thân xác để bảo vệ dân tộc, phát
triển quốc gia ngày càng cường thịnh.
- Phải đoàn kết nhân loại, phải bài trừ sự kích động
dân tộc, bài trừ chiến tranh.
Những quy tắc phải làm được trong bốn biểu hiện hình
tướng Đạo chính là luật giác ngộ. Thực hành được luật giác
ngộ chính là thực hành được cơ chế phân tách và liên kết hạt
năng lượng bền vững cho Tâm. Khi Trụ linh phân tách ra vô
số những hạt năng lượng của sự hy sinh và cống hiến thì
trong tương lai, trong các kiếp sau sẽ được liên kết lại để kế
thừa thành tựu và tiếp tục hành trình chuyển sinh bền vững.
Những quy tắc phải làm được trong bốn hình tướng
Đạo chính là để giúp con người và Tuệ linh mã hóa được
thông tin chân thật và kích hoạt thiện Tâm. Bởi nếu vị Tuệ
linh đầu tiên không xây dựng thành bộ quy tắc cũng như gọi
là luật giác ngộ thì con người và Tuệ linh sẽ không thể tìm ra
con đường siêu việt nhất để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng.
Như vậy, bộ quy tắc không được phép vi phạm và bộ
quy tắc phải thực hiện được của con người và Tuệ linh trong
tất cả các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo chính
là con đường chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Con đường này được bảo vệ bởi những quy tắc kiểm soát độc
tâm và lực đẩy để nhanh tới đích là những quy tắc phải làm
được. Có thể nói, hai bộ quy tắc này chính là sự cứu giúp Tuệ
linh, con người, đó là động lực để Tuệ linh và con người

526
nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ tu học ở nhân gian để trở
về bảo vệ và phát triển bền vững trong và ngoài Vũ trụ.

8. Đạo của Vũ trụ hợp nhất ở Hình tướng và


Tâm
Vị Tuệ linh đầu tiên đã từng nói: “Để tìm được Đạo hợp
nhất của Vũ trụ, dạng sống Tuệ linh phải thông qua bốn hình
tướng Đạo ở nhân gian".
Đạo của Vũ trụ hợp nhất chính là Vũ trụ quan xung
quanh Tuệ linh và con người. Tuệ linh và con người phải
dùng Trụ linh để thấu hiểu, cải tạo, phát triển Vũ trụ quan trở
nên bền vững.
Dạng sống Tuệ linh chưa giải mã được toàn diện chính
bản chất trong Trụ linh của mình, chưa giải mã được tất cả
sự thật của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Do đó, họ chưa
thấu hiểu cũng như cải tạo, phát triển Vũ trụ quan xung
quanh họ trở nên bền vững, họ bị hoại diệt vô số. Vạn vật cấu
tạo thành Vũ trụ cũng hoại diệt và tổn hao lớn, nguy cơ tất cả
dạng sống trong và ngoài Vũ trụ sẽ hoại diệt. Chính vì vậy mà
dạng sống Tuệ linh dưới sự dẫn dắt của vị Tuệ linh đầu tiên
đã tạo ra môi trường tu hành ở nhân gian cho dạng sống Tuệ
linh an trụ trong thân tướng con người giản đơn. Họ an trụ
trong thân tướng con người giản đơn để tương tác với nhau,
với tất cả các nhóm vật chất cùng lúc, trong tất cả các kịch
bản và môi trường khác nhau thông qua bốn hình tướng Đạo.
Điều này đã giúp cho vị Tuệ linh đầu tiên giải mã được toàn
diện về Vũ trụ quan xung quanh dạng sống Tuệ linh. Đó là
giải mã và thấu hiểu về cội nguồn, cấu trúc, cơ chế vận hành
của tất cả các nhóm vật chất. Đó là giải mã và thấu hiểu được

527
độc Tâm và thiện Tâm của chính họ và tất cả các nhóm vật
chất trong và ngoài Vũ trụ, đặc biệt là năng lượng hoại diệt.
Tiếp đến, Ngài đã tìm ra cơ chế để chuyển hóa Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng cho tất cả dạng sống Tuệ linh. Để mỗi Tuệ
linh thực hành được cơ chế chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng thì tất cả các Tuệ linh phải hóa thân xuống nhân
gian tu hành thông qua bốn hình tướng Đạo. Khi tu hành
thông qua bốn hình tướng Đạo sẽ giúp cho tất cả Tuệ linh
giải mã và thấu hiểu được toàn diện về Vũ trụ quan xung
quanh họ. Cuối cùng là thực hành cải tạo Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng để phát triển bền vững chính họ và Vũ trụ
quan xung quanh họ.
Đạo của Vũ trụ là sự hợp nhất của hình tướng, là sự
hợp nhất của Tâm, là sự hợp nhất giữa hình tướng và Tâm.
Thấu hiểu và thực hành đúng sẽ giúp cho mỗi Tuệ linh và con
người đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ, đó là đắc được bộ
lọc năng lượng.

8.1. Đạo của Vũ trụ hợp nhất ở Hình tướng


Dạng sống Tuệ linh hóa thân thành con người để truy
tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Vì vậy hình tướng Đạo
của Vũ trụ hợp nhất tại hình tướng con người.
Hình tướng Đạo của Vũ trụ hợp nhất gồm có không
gian hợp nhất, tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ
hợp nhất, thời gian hợp nhất. Tất cả hợp nhất tại con người
tạo thành bốn hình tướng Đạo.
Không gian hợp nhất gồm có không gian bên trong
tinh cầu Vũ trụ và không gian bên ngoài tinh cầu Vũ trụ. Con
người tồn tại bên trong không gian của Vũ trụ và chịu sự

528
tương tác của tất cả các nhóm vật chất bên trong và bên
ngoài Vũ trụ. Do đó, không gian trong và ngoài Vũ trụ hợp
nhất tại con người.
Tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ hợp
nhất tại con người. Bên ngoài Vũ trụ có nhóm vật chất cội
nguồn và nhóm vật chất hoại diệt. Bên trong Vũ trụ có nhóm
vật chất giản đơn, nhóm vật chất phức tạp và nhóm siêu vật
chất. Tất cả năm nhóm vật chất tương tác với nhau trong sự
thúc đẩy sự phát triển của nhau. Con người là đại diện của
nhóm vật chất giản đơn bởi thân tướng và được Tuệ linh là
đại diện của nhóm siêu vật chất an trụ bên trong. Con người
sống và tương tác với tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài
Vũ trụ. Do đó, tất cả các nhóm vật chất tồn tại trong và ngoài
Vũ trụ hợp nhất tại con người.
Thời gian hợp nhất tại con người. Thời gian gồm có
quá khứ cội nguồn, hiện tại và tương lai. Thời gian quá khứ là
từ hạt sóng xanh hình thành ra năng lượng hoại diệt cho tới
khi hình thành tinh cầu năng lượng, tinh cầu năng lượng
khổng lồ bị nổ và hình thành ra các dạng sống trong Vũ trụ,
các Tuệ linh trải qua vô số kiếp tu hành ở nhân gian trong
thân tướng con người. Thân tướng con người hiện tại là thời
gian hiện tại, là kết quả của quá khứ từ cội nguồn trong sự
vận động để có sự hiện hữu ở hiện tại. Những vận động, hành
động chuyển sinh ở hiện tại của con người sẽ tạo thành kết
quả ở tương lai. Từ quá khứ tới hiện tại được vận động, tồn
tại, phát triển bởi cơ chế phân tách và liên kết dây. Từ hiện
tại để kết tạo thành tương lai cũng phải được vận động thông
qua cơ chế phân tách và liên kết dây.
Hình tướng Đạo của Vũ trụ hợp nhất bởi không gian,
thời gian, sự tương tác của tất cả các nhóm vật chất ở mỗi

529
con người tại môi trường tu hành Trái đất thông qua bốn
hình tướng Đạo. Bốn hình tướng Đạo mà mỗi con người phải
sống và tương tác trong nhiều kiếp tu hành là để tạo ra tất cả
các kịch bản tương tác trong môi trường sóng điện khác
nhau với tất cả các nhóm vật chất. Mục đích là thông qua bốn
hình tướng Đạo hợp nhất tại con người là để Tuệ linh không
có được sự tự do khi đang ở bên trong thân tướng con người,
để bộc phát được độc Tâm và kích hoạt được thiện Tâm. Đặc
biệt là phải thấu hiểu tất cả sự thật của tất cả các nhóm vật
chất, chính mình, năng lượng hoại diệt để chuyển sinh Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng.
Bốn hình tướng Đạo gồm có: Đạo đời, Đạo đường, Đạo
Đế vương, Đạo lễ. Thông qua tất cả các kịch bản tương tác
của mỗi con người trong bốn hình tướng Đạo nhằm thấu
hiểu bản chất của Tâm và tìm được con đường chuyển hóa
Tâm thành bộ lọc năng lượng.

8.2. Đạo của Vũ trụ hợp nhất ở Tâm tướng


Vì hình tướng Đạo của Vũ trụ hợp nhất ở thân tướng
con người, do đó Đạo của Vũ trụ hợp nhất cũng là ở Tâm
tướng con người.
Tâm tướng chính là trạng thái năng lượng được sinh
phát từ sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng tận cùng cho
tới Trụ linh của Tuệ linh, của vạn vật, Tâm của con người.
Tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ đều
được cấu tạo từ hạt năng lượng tận cùng. Trong hạt năng
lượng tận cùng có sợi mã sóng trí tuệ và trạng thái năng
lượng. Sợi mã sóng trí tuệ và trạng thái năng lượng bên trong
hạt được gọi là Tâm.

530
Vũ trụ là tam hợp yếu tố mà thành. Dạng sống Tuệ linh
được coi là trí tuệ sinh phát trạng thái năng lượng để vận
hành hình tướng Vũ trụ. Trong Tuệ linh, cấu trúc Trụ trí sinh
phát ra trạng thái năng lượng (Trụ tâm) để vận hành tướng
Tuệ linh. Trụ trí và Trụ tâm của Tuệ linh được gọi là Trụ linh.
Dạng sống Tuệ linh là bộ não, là trung tâm điều hành của cả
Vũ trụ. Khi Tuệ linh hóa thân tu hành trong cơ thể con người
để truy tìm Đạo hợp nhất của Vũ trụ thì Tâm của Vũ trụ
chính là Tâm của con người.
Đạo của Vũ trụ hợp nhất tại Tâm tướng con người là
vì:
- Tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ đều
khổ đau, dạng sống Tuệ linh cũng khổ đau. Khổ đau chính là
biến đổi mã sóng trí tuệ và xung đột trạng thái năng lượng
trong cấu trúc tướng theo hướng phân rã và hoại diệt.
Nguyên nhân của khổ đau là do các nhóm vật chất, Tuệ linh
giải mã sai và không hoàn chỉnh về chính mình và vạn vật.
Khi giải mã sai sẽ dẫn tới mất kiểm soát trong quá trình
tương tác và chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt.
- Dạng sống Tuệ linh hóa thân tu hành ở nhân gian để
thông qua các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo
nhằm giúp Tuệ linh bộc phát hết độc Tâm và kích hoạt được
thiện Tâm. Khi triệt được hết độc Tâm và kích hoạt được hết
thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác với tất cả vạn
vật ở nhân gian sẽ giúp cho hóa thân của Tuệ linh là con
người sẽ tìm được con đường diệt khổ đau. Con đường diệt
khổ đau là hành trình để tới được đích của mục đích tu hành,
đó là đắc được bộ lọc năng lượng.
Như vậy, Tâm của con người là Tuệ linh, Tuệ linh là
tâm của Vũ trụ. Vì vậy, việc truy tìm được con đường giải
531
thoát khổ đau và chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng của Tuệ linh ở nhân gian chính là tìm được Đạo hợp
nhất của Vũ trụ tại Tâm tướng con người.

8.3. Đạo của Vũ trụ hợp nhất giữa Hình tướng


và Tâm tướng
Vì Đạo của Vũ trụ hợp nhất tại hình tướng và Tâm
tướng của con người, mà giữa hình tướng và Tâm tướng là
một chỉnh thể hợp nhất, nên Đạo của Vũ trụ hợp nhất giữa
hình tướng và Tâm tướng của con người.
Đạo của Vũ trụ hợp nhất giữa hình tướng và Tâm
tướng con người chính là việc thông qua bốn hình tướng Đạo
ở nhân gian của mỗi con người để thấu hiểu độc tâm và thiện
tâm của chính mình, của mọi người, của vạn vật, của năng
lượng hoại diệt trong tất cả các kịch bản tương tác với các
điều kiện môi trường sóng điện khác nhau, từ đó truy tìm
được con đường triệt tiêu độc Tâm và kích hoạt được thiện
Tâm của chính mình để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng. Khi đắc được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh
sẽ sản sinh ra các siêu hạt năng lượng để cải tạo, phát triển
tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ trở nên bền
vững.
Vị Tuệ linh đầu tiên đã kiến tạo môi trường tu hành
của Tuệ linh ở nhân gian một cách kỳ diệu. Đó là trói buộc
Tuệ linh trong thân tướng giản đơn là con người để tương
tác với nhóm vật chất giản đơn, với nhóm vật chất phức tạp,
với nhóm siêu vật chất, với năng lượng hoại diệt, với con
người. Sự trói buộc và tương tác với tất cả các nhóm vật chất
thông qua bốn hình tướng Đạo sẽ giúp cho bản chất độc Tâm

532
và thiện Tâm của Tuệ linh, của tất cả vật chất sẽ được bộc
phát hết. Độc Tâm chính là khổ đau, là năng lượng âm. Thiện
Tâm là giác ngộ, là năng lượng dương.
Độc Tâm và thiện Tâm chính là bản chất của Tâm. Tâm
chính là Tâm Đạo của Vũ trụ. Độc Tâm và thiện Tâm được
bộc phát triệt để thông qua tất cả các kịch bản tương tác của
mỗi con người trong bốn hình tướng Đạo. Điều này sẽ giúp
cho con người và Tuệ linh thấy được giá trị tuyệt vời của việc
tu hành thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian để cải tạo
Trụ linh thành được bộ lọc năng lượng.
A. Hình tướng Đạo lễ
Thấu hiểu được độc Tâm bộc phát khi nào, khi nào
triệt được độc Tâm, khi nào kích hoạt được thiện Tâm trong
các nội dung của hình tướng Đạo lễ, khi đó chúng ta sẽ thấu
hiểu và có niềm tin tưởng tuyệt đối ở bộ quy tắc không được
phép vi phạm và bộ quy tắc phải làm được trong hình tướng
Đạo lễ. Bởi đó là những chỉ dẫn của vị Tuệ linh đầu tiên để
giúp cho Tuệ linh và con người ở nhân gian thấu hiểu cũng
như thực hành nhanh nhất, siêu việt nhất để cải tạo Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng viên mãn.
Độc Tâm là khổ đau, là hạt năng lượng âm của Tâm.
Hạt năng lượng âm được sản sinh bởi hành động thỏa mãn
lợi ích ích kỷ về mình mà không màng hoặc gây tổn thương
tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Thiện Tâm là giác ngộ, là
hạt năng lượng dương của Tâm. Hạt năng lượng dương được
sản sinh bởi hành động cống hiến vì vạn vật, Tuệ linh và con
người mà không vì lợi ích ích kỷ của bản thân.

533
Hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương sẽ được
sản sinh thông qua các nội dung trong hình tướng Đạo lễ như
sau:
- Nội dung trong quyết định kết hôn: Hôn nhân là
nhiệm vụ của mỗi một con người để duy trì nòi giống mà vị
Tuệ linh đầu tiên đã đặt ra, đặc biệt là để có các kịch bản
tương tác trong hình tướng Đạo lễ. Bởi các kịch bản tương
tác trong hình tướng Đạo lễ không thể thiếu trong việc giúp
Trụ linh của Tuệ linh bộc phát được độc Tâm và kích hoạt
được thiện Tâm. Khi một người, dù trong thân tướng nam
giới hay nữ giới, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, họ phải
đứng trước sự quyết định của hôn nhân. Đó là từ bỏ cuộc hôn
nhân để sống cuộc sống độc thân và an nhàn hoặc quyết định
kết hôn để xây dựng cuộc sống gia đình dù cuộc sống hôn
nhân có đầy sóng gió. Khi đó, những quyết định sẽ tạo ra hai
hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Quyết định sống độc thân để thỏa mãn sự an nhàn và
không phải phiền não về cuộc sống gia đình: Khi quyết định
như vậy, độc Tâm trong Trụ linh bắt đầu bộc phát và sẽ phân
tách ra những hạt năng lượng âm vì Tuệ linh đau khổ không
được thực hành cải tạo Trụ linh trong khi kiếp người ngắn
ngủi. Nguyên nhân phân tách ra các hạt năng lượng âm là vì
trí tuệ không hợp nhất với Tâm để quyết tâm tu học và
chuyển hóa Trụ linh.

534
+ Quyết định kết hôn để sống cuộc sống gia đình và sẵn
sàng đương đầu cũng như chuyển hóa những sóng gió trong
đời sống hôn nhân: Khi quyết định như vậy là Trụ linh đã
kiểm soát và triệt được độc Tâm không cho bộc phát ở nội
dung hôn nhân. Đặc biệt Trụ linh bắt đầu kích hoạt thiện
Tâm, đó là phân tách ra những hạt năng lượng dương của sự
cống hiến và mang lại giá trị tốt đẹp cho mọi người trong
cuộc sống hôn nhân.
- Nội dung vợ chồng mới kết hôn: Cuộc sống hôn nhân
tạo ra vô số các kịch bản tương tác để bộc phát độc Tâm cũng
như kích hoạt được thiện Tâm. Trước khi kết hôn, những
thói quen, những cái tôi ích kỷ cho bản thân vẫn chưa được
bộc phát ở cả người nam và người nữ. Tuy nhiên, sau khi kết
hôn, sự hòa hợp, sự bất đồng trong quan điểm sống của vợ
chồng mới kết hôn sẽ làm bộc phát tất cả những cái tôi ích
kỷ, những sự bất hòa, những điểm chưa hòa hợp trong môi
trường mới. Khi đó, những quyết định từ hai vợ chồng sẽ tạo
ra hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

535
+ Khi mỗi người giữ nguyên cái tôi ích kỷ, giữ nguyên
những suy nghĩ cho đến hành động tiêu cực về nhau trong
những bất đồng về cuộc sống, Trụ linh sẽ phân tách ra những
hạt năng lượng âm. Nguyên nhân là kịch bản tương tác trong
cuộc sống vợ chồng mới kết hôn đã khiến cho bộc phát độc
Tâm.

+ Mỗi người quyết định bỏ cái tôi ích kỷ, bỏ những suy
nghĩ và hành động tiêu cực để hòa hợp với nhau, để mang lại
hạnh phúc cho nhau, khi đó, Trụ linh sẽ phân tách ra những
hạt năng lượng dương của sự phát triển hạnh phúc gia đình.
Những quyết định đã giúp Trụ linh kiểm soát, triệt tiêu được
độc Tâm và đặc biệt là kích hoạt được thiện Tâm.
- Nội dung người vợ hoặc chồng không có khả năng
sinh con: Đây là một kịch bản tương tác dễ dàng khiến cho
con người bộc phát độc Tâm. Khi người vợ hoặc người chồng
không có khả năng sinh con, trong nhiều hoàn cảnh cũng như
áp lực từ những người thân trong gia đình, người vợ và
người chồng sẽ có những quyết định đầy khó khăn. Những
quyết định tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

536
+ Một trong hai người không vượt qua được những áp
lực, những mong cầu có con từ chính bản thân và từ những
người thân. Hai người đưa ra quyết định ly hôn để giải thoát
cho nhau với mong muốn sẽ có con với người khác. Nếu
quyết định theo hướng này, Trụ linh của cả hai sẽ sản sinh ra
hạt năng lượng âm, đó là độc tâm đã bộc phát. Người không
có khả năng có con sẽ đau khổ, oán hận mà sản sinh ra hạt
năng lượng âm. Người mong muốn có con mà phá vỡ hạnh
phúc gia đình sẽ sản sinh hạt năng lượng âm. Nguyên nhân là
cả hai không vượt qua được giả tướng con cái trong hoàn
cảnh áp lực dẫn tới độc tâm bộc phát và không kiểm soát
được.
+ Cả hai người cùng tìm giải pháp khác, có thể là nhận
con nuôi hay can thiệp bằng y học để quyết tâm xây dựng
hạnh phúc gia đình. Đây là quyết định khó khăn và cần nghị
lực để vượt qua những áp lực từ những người thân. Vì thấu
hiểu giá trị hạnh phúc vợ chồng cần phải trao cho nhau, vì đã
hy sinh và cống hiến cho nhau, nên từ Trụ linh của cả hai đã
kiểm soát và triệt bỏ được độc Tâm, đồng thời kích hoạt

537
được thiện Tâm, đó là sản sinh ra các hạt năng lượng dương
của tình yêu và đoàn kết.
- Nội dung người vợ mang thai: Khi người vợ mang
thai, trong nhiều hoàn cảnh họ đấu tranh tư tưởng và đi đến
quyết định là phá bỏ thai nhi hoặc giữ lại để sinh và nuôi con
trưởng thành. Cuộc sống mỗi người có những tương tác và
hoàn cảnh khác nhau, hoàn cảnh khác nhau tạo thành sóng
điện chi phối quyết định của mỗi con người. Khi đứng trước
việc có thai trong những hoàn cảnh không mong muốn sinh
con, dù hoàn cảnh như thế nào thì việc quyết định theo hai
hướng sẽ sản sinh ra những hạt năng lượng khác nhau:

+ Người vợ, người chồng vì thấy hoàn cảnh khó khăn,


vì thấy thai nhi bệnh tật mà quyết định phá thai để không
phải vướng bận cũng như vất vả hơn trong cuộc sống cho
chính mình và con cái. Nếu quyết định phá bỏ thai nhi thì đó
là hành động của u mê không thấu hiểu việc được làm người
là vô cùng quý trọng đối với bất kỳ Tuệ linh hay linh hồn nào.
Bởi được làm người là để được tương tác trong tất cả các
kịch bản để bộc phát độc Tâm và học cách triệt bỏ được độc

538
Tâm cũng như kích hoạt thiện Tâm. Khi phá bỏ thai nhi, Trụ
linh của người cha, người mẹ sẽ phân tách ra hạt năng lượng
âm của sự giết người. Đó là độc Tâm bộc phát rất mạnh.
+ Người vợ, người chồng quyết tâm vượt qua mọi
hoàn cảnh khó khăn để giữ thai nhi, để sinh con và nuôi
dưỡng con thành người. Đó là hạnh động giúp cho Trụ linh
của người vợ và người chồng phân tách ra hạt năng lượng
dương. Việc phân tách được hạt năng lượng dương chính là
thiện Tâm được kích hoạt, đồng thời cũng triệt và kiểm soát
không cho độc Tâm bộc phát.
- Nội dung quyết định có hay không ngoại tình: Cuộc
sống sau hôn nhân sẽ khiến cho mỗi người cảm thấy nhàm
chán, dần dần nó có cơ hội bộc phát những độc Tâm bởi các
kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo. Khi một người
đã có gia đình, vì sự nhàm chán trong tình yêu, vì sự khuyết
điểm của nhau, vì sự không hạnh phúc hay hòa hợp về nhau,
thậm chí là thích sự mới mẻ trong cuộc sống tình yêu, chỉ cần
tương tác với một người khác mà cảm thấy được sự ấm áp
cũng như thỏa mãn được mong muốn, người vợ hoặc người
chồng sẽ có hai hướng đưa ra quyết định cho việc sản sinh
hạt năng lượng:
+ Quyết định ngoại tình để thỏa mãn sự mong muốn về
tình yêu hạnh phúc hơn vợ chồng đang có, để thỏa mãn sự
đổi mới: Quyết định này khiến cho Trụ linh sản sinh ra hạt
năng lượng âm. Đó là độc Tâm đã bị bộc phát. Nguyên nhân
vì trí tuệ bám định vào giả tướng của kịch bản tương tác mà
không thấu hiểu cũng như kiểm soát được độc Tâm để
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

539
+ Quyết định triệt bỏ từ suy nghĩ cho tới hành động
ngoại tình: Người vợ, người chồng cư xử chuẩn mực với mọi
người khác giới bên ngoài, quyết tâm xây dựng hạnh phúc
gia đình trong sự triệt bỏ cái tôi ích kỷ để mang lại hạnh phúc
cho nhau, cho gia đình. Trụ linh khi đó sẽ phân tách ra các
hạt năng lượng dương của sự cống hiến và hy sinh vì gia
đình. Hạt năng lượng dương chính là thiện Tâm được kích
hoạt, đồng thời thiện tâm đã triệt và kiểm soát để không cho
độc Tâm bộc phát.
- Nội dung đối mặt với người vợ hoặc người chồng
ngoại tình: Đối mặt với người vợ hoặc người chồng ngoại
tình sẽ khiến cho mỗi người rất khó kiểm soát được cảm xúc
và quyết định. Tình yêu vi phạm chuẩn mực giá trị đạo đức là
nội dung tương tác khiến cho vô số Tuệ linh gục ngã ở nhân
gian tu hành này. Dù trong hoàn cảnh nào, sự đối mặt và đưa
ra các quyết định khi người vợ hoặc người chồng ngoại tình
sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Người vợ hoặc người chồng quyết định không tha
thứ và cảm hóa người chồng hoặc người vợ đã có hành vi

540
ngoại tình. Biết rằng lỗi lầm là của người đã có hành vi ngoại
tình, tuy nhiên việc không tha thứ cũng như không cảm hóa
người có hành vi ngoại tình sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra
hạt năng lượng âm của sự chấp ngã và oán hận vì hành vi
ngoại tình của người chồng hoặc người vợ. Như vậy độc Tâm
đã bộc phát nhưng không kiểm soát được.

+ Người vợ hoặc người chồng đưa ra quyết định là tha


thứ, đồng thời cảm hóa người ngoại tình để thay đổi và xây
dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc. Khi đó Trụ linh sẽ phân
tách ra các hạt năng lượng dương của sự vị tha và đoàn kết.
Đó là thiện Tâm đã được kích hoạt, đồng thời thiện Tâm đã
triệt và kiểm soát không cho độc Tâm bộc phát.
- Nội dung người chồng cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập:
Người chồng nghiện ngập, rượu chè, cờ bạc là một kịch bản
rất thú vị, thú vị cho những người thân xung quanh và người
vợ. Tất nhiên việc người chồng nghiện ngập, cờ bạc, rượu
chè là thực hiện sản sinh năng lượng âm. Tuy nhiên trong
kịch bản nội dung tương tác này sẽ khiến cho người vợ và

541
những người thân đưa ra những quyết định tạo thành hai
hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Người vợ không chịu đựng được người chồng nghiện
ngập, cờ bạc, rượu chè mà đưa ra quyết định ly hôn, thậm chí
trong nhiều hoàn cảnh là giết hại người chồng. Khi quyết
định như vậy sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra hạt năng
lượng âm. Đó là độc Tâm đã được bộc phát. Nguyên nhân là
Quy luật Nhân quả có sự phản chiếu từ tiền kiếp, vì không
thấu hiểu nên dẫn tới không kiểm soát được độc Tâm và đã
để độc Tâm bộc phát.

+ Người vợ và những người thân có quyết định tha


thứ, có giải pháp để cảm hóa người chồng không còn nghiện
ngập, cờ bạc, rượu chè. Khi đó Trụ linh sẽ sản sinh ra những
hạt năng lượng dương của sự cảm hóa giúp nhau triệt được
độc Tâm. Đó là thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát,
triệt bỏ được độc Tâm của chính mình và của người chồng.
- Nội dung vợ chồng bất nhân, bất nghĩa hay hy sinh vì
nhau: Đúng là cuộc sống tương tác trong hình tướng Đạo lễ
đã tạo ra vô số kịch bản để bộc phát độc Tâm cũng như kích
542
hoạt được thiện Tâm. Mối quan hệ cuộc sống của vợ chồng là
kịch bản biến hóa thành các kịch bản mới vô cùng phong
phú. Khi vợ chồng sống với nhau, trải qua những biến cố
cuộc sống, những cái tôi ích kỷ bộc phát, những so sánh thiệt
hơn, những thỏa mãn hay không thỏa mãn đã đưa ra những
quyết định của cả hai vợ chồng để tạo thành hai hướng sản
sinh hạt năng lượng:

+ Vợ chồng bất nhân, bất nghĩa với nhau: Đó là những


quyết định đã tạo thành hành động chà đạp nhân phẩm nhau,
xúc phạm nhau, đánh đập nhau, bỏ nhau, giết hại nhau.
Những quyết định này khiến cho Trụ linh phân tách ra nhiều
hạt năng lượng âm. Đó là độc Tâm đã bộc phát và không
kiểm soát được. Nguyên nhân vì trí tuệ bám định vào các giả
tướng để thỏa mãn ích kỷ cho bản thân mình mà gây tổn
thương tới người vợ hoặc chồng.
+ Vợ chồng tình nghĩa và hy sinh vì nhau: Đó là những
suy nghĩ cho tới những hành động yêu thương nhau, giúp đỡ
nhau, tôn trọng nhau, bảo vệ nhau, hy sinh vì nhau. Những
hành động đó khiến cho Trụ linh phân tách ra những hạt
543
năng lượng dương của tình thương và đoàn kết. Đó là những
thiện Tâm đã được kích hoạt, đồng thời thiện Tâm đã kiểm
soát và triệt được độc Tâm.
- Nội dung người vợ hoặc người chồng chết mà chưa
có con: Đây là những kịch bản phải có trong hành trình tu
hành của các Tuệ linh ở nhân gian. Khi người vợ hoặc người
chồng chết mà hai vợ chồng chưa có con, kịch bản này tạo
thành những quyết định của người còn lại trong cuộc sống.
Những quyết định tạo thành hai hướng sản sinh ra hạt năng
lượng:

+ Người vợ hoặc người chồng ở vậy và không kết hôn


tiếp. Vì vẫn chưa có con nên nếu có suy nghĩ cho đến hành
động quyết định ở vậy cả đời sẽ là sản sinh hạt năng lượng
âm trong Trụ linh. Bởi vì chưa có con, chưa trải nghiệm các
tương tác trong cuộc sống vợ chồng, nên nếu quyết định như
vậy sẽ phí hoài một kiếp người ngắn ngủi. Trường hợp này
giống như một người quyết định sống độc thân. Hạt năng
lượng âm chính là độc Tâm đã bộc phát vì sự ích kỷ của bản
thân.
544
+Người vợ hoặc người chồng tiếp tục lập gia đình để
xây dựng các kịch bản tương tác trong hình tướng Đạo lễ. Bởi
vì chưa có con nên không phải hy sinh cho con. Do đó khi
quyết định thực hành đời sống hôn nhân mới trong sự thấu
hiểu và trân trọng giá trị gia đình, Trụ linh sẽ phân tách ra
các hạt năng lượng dương. Hạt năng lượng dương là thiện
Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt bỏ độc Tâm.
- Nội dung người vợ hoặc người chồng chết mà đã có
con: Trong kịch bản tương tác khi mà người vợ hoặc người
chồng chết, nhưng đã có con, trường hợp này đã có con để
cống hiến và hy sinh cho con được những điều tốt đẹp nhất
để con trở thành người tốt, đồng thời cũng là điều kiện thuận
lợi để thực hành cải tạo Trụ linh trong các kịch bản tương tác
khác. Những quyết định đưa ra sẽ tạo thành hai hướng sản
sinh hạt năng lượng:
+ Người vợ hoặc người chồng quyết định kết hôn tiếp.
Đây là một canh bạc vì sẽ gây tổn thương tới đứa con, gây tổn
thương tới người đã mất. Bởi kế hoạch cái chết là để giúp
người ở lại bộc phát và kiểm soát được độc Tâm. Khi người ở
lại ham muốn giả tướng mà quyết định kết hôn tiếp, Trụ linh
sẽ phân tách ra các hạt năng lượng âm. Đó là độc Tâm đã bộc
phát vì không có sự hy sinh cũng như cống hiến cho con, trả
nghĩa vì người đã chết. Đặc biệt sẽ không có thời gian cải tạo
Trụ linh vì mải mê trong mối tình mới.

545
+ Người vợ hoặc người chồng ở vậy nuôi con thành tài.
Đây là sự cống hiến hy sinh vì con cái. Khi con cái trưởng
thành, cũng là thời gian quý báu để thực hành cải tạo Trụ
linh thông qua con đường phổ độ tri thức giác ngộ tới mọi
người. Trụ linh sẽ sản sinh ra các hạt năng lượng dương của
sự hy sinh, cống hiến cho con cái và xã hội. Đó là thiện Tâm
đã được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.
- Nội dung người vợ hoặc chồng mắc bệnh: Nội dung
kịch bản tương tác này sẽ tạo ra những quyết định của người
vợ, người chồng đối với người mắc bệnh. Những quyết định
tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Người vợ hoặc người chồng vì hoàn cảnh nào đó mà
đưa ra quyết định bỏ mặc người chồng hoặc vợ đang bị bệnh.
Khi có suy nghĩ cho tới hành động bỏ mặc sẽ khiến cho Trụ
linh sản sinh ra năng lượng âm. Người bị bỏ mặc cũng oán
hận mà sản sinh ra năng lượng âm. Như vậy vừa bộc phát
độc Tâm của mình và khiến người vợ hoặc chồng cũng bộc
phát độc Tâm.

546
+ Người vợ hoặc người chồng chạy đua với thời gian,
hy sinh công sức, tiền của để cứu chữa người chồng hoặc vợ
đang bị bệnh. Sự hy sinh và cứu giúp sẽ khiến cho Trụ linh
sản sinh ra những hạt năng lượng dương của tình yêu và sự
hy sinh. Đó là thiện Tâm được kích hoạt cho cả vợ và chồng,
từ đó sẽ triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.
- Nội dung cha mẹ với con cái: Nội dung tương tác của
cha mẹ với con cái có rất nhiều nội dung, nội dung sẽ là hành
trình từ con còn bé cho tới khi cha mẹ hoại diệt thân tướng.
Trong nội dung của cha mẹ với con cái chỉ đưa ra nội dung
tổng hợp, trong từng nội dung nhỏ, chúng ta đều vận dụng
trên trục tọa độ sản sinh hạt năng lượng. Những quyết định
của cha mẹ đối với con cái tạo thành hai hướng sản sinh hạt
năng lượng:
+ Cha mẹ không cống hiến cho con cái từ chuyện học
hành, nuôi dạy đúng đắn thành người, cha mẹ chửi bới con
cái, đánh đập con cái, xúc phạm con cái, bỏ mặc con cái, giết
hại con cái. Những hành động đó khiến cho Trụ linh của cha
mẹ sản sinh ra các hạt năng lượng âm của bất nhân, bất
547
nghĩa. Những hạt năng lượng âm là những độc Tâm đã bộc
phát và không kiểm soát được.

+ Cha mẹ có những quyết định hy sinh, cống hiến vì


con cái, nuôi dạy con cái thành người tốt, bảo vệ con cái,
thậm chí hy sinh cho con cái. Những quyết định này khiến
cho Trụ linh của cha mẹ sản sinh ra những hạt năng lượng
dương của tình nghĩa và sự hy sinh. Những hạt năng lượng
dương là những thiện Tâm được kích hoạt cả ở cha mẹ và
của con cái.
- Nội dung con cái với cha mẹ: Nội dung tương tác của
con cái với cha mẹ là các kịch bản tương tác của con cái trong
sự báo hiếu, tri ân với cha mẹ. Nội dung này là tổng hợp của
vô số các kịch bản tương tác giữa con cái với cha mẹ. Khi gặp
từng nội dung nhỏ trong tương tác của con cái với cha mẹ,
chúng ta áp dụng trục tọa độ sản sinh hạt năng lượng sẽ thấu
hiểu và kiểm soát được độc Tâm cũng như kích hoạt được
thiện Tâm. Những quyết định của con cái đối với cha mẹ sẽ
tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

548
+ Con cái đưa ra những quyết định bất nhân, bất hiếu
với cha mẹ: Bỏ mặc, xúc phạm, chà đạp nhân phẩm, giết hại
cha mẹ. Khi đó Trụ linh sẽ phân tách ra những hạt năng
lượng âm của sự u mê và dã tâm. Như vậy, độc Tâm bộc phát
mà không kiểm soát được.
+ Con cái đưa ra những quyết định báo hiếu và hy sinh
vì cha mẹ. Đây là những quyết định khiến cho Trụ linh của
con cái phân tách ra những hạt năng lượng dương của báo
hiếu và hy sinh. Những hạt năng lượng dương chính là
những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt bỏ độc
Tâm trong tương tác với cha mẹ.
- Nội dung anh em trong gia đình: Nội dung tương tác
trong anh em gia đình có nhiều kịch bản tương tác. Những
quyết định đưa ra đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng
lượng:
+ Anh em tranh giành quyền lợi, lợi ích, chà đạp nhân
phẩm, xúc phạm, giết hại nhau. Những hành động đó sẽ khiến
cho Trụ linh sản sinh hạt năng lượng âm. Những hạt năng

549
lượng âm chính là những độc Tâm đã bộc phát và mất kiểm
soát.

+ Anh em không tranh giành, nhường nhịn nhau, cho


nhau, giúp nhau, bảo vệ nhau, hy sinh vì nhau. Những hành
động đó sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh hạt năng lượng
dương. Những hạt năng lượng dương là những thiện Tâm
được kích hoạt để kiểm soát và triệt bỏ được độc Tâm.
- Nội dung con cháu với tổ tiên: Nội dung con cháu với
tổ tiên có nhiều kịch bản tương tác, đó là sự tri ân và báo
hiếu của con cháu với tổ tiên. Những quyết định trong nội
dung con cháu với tổ tiên sẽ tạo thành hai hướng sản sinh
hạt năng lượng:
+ Con cháu phỉ báng tổ tiên, xúc phạm tổ tiên, phá hoại
nơi thờ tự hay mồ mả của tổ tiên. Những hành động này sẽ
khiến Trụ linh của con cháu phân tách ra những hạt năng
lượng âm. Những hạt năng lượng âm là những độc Tâm đã
bộc phát và không kiểm soát được.

550
+ Con cháu tri ân, tôn kính, bảo vệ mồ mả, bảo vệ nơi
thờ tự tổ tiên. Những hành động này khiến cho Trụ linh phân
tách ra những hạt năng lượng dương của sự tri ân báo hiếu
với tổ tiên. Những hạt năng lượng dương là những thiện Tâm
được kích hoạt và kiểm soát cũng như triệt bỏ được độc
Tâm.
- Nội dung con người đối với cội nguồn: Nội dung này
có vô số các kịch bản, đó là phỉ báng Thiên Địa, hành nghề mê
tín dị đoan, lợi dụng Thánh thần hay Thượng đế để lừa người
và trục lợi về mình, bảo vệ sự tôn kính với Thiên Địa và tri ân
cội nguồn của nhân loại. Những hành động sẽ tạo thành hai
hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Những hành động phỉ báng cội nguồn Thiên Địa, lợi
dụng Thánh thần để hành nghề mê tín dị đoan, lợi dụng tôn
giáo để mị dân: Những hành động này khiến Trụ linh sản
sinh ra vô số những hạt năng lượng âm. Đó là những độc
Tâm đã bộc phát và mất kiểm soát.

551
+ Những hành động bài trừ mê tín dị đoan, bảo vệ sự
trong sáng của cội nguồn cũng như tôn kính Thiên Địa:
Những hành động này khiến Trụ linh sản sinh ra vô số hạt
năng lượng dương. Đó là những thiện Tâm được kích hoạt,
đồng thời kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm.
- … Còn vô số nội dung tương tác với các hoàn cảnh
khác nhau trong hình tướng Đạo lễ. Mỗi nội dung tương tác
trong hình tướng Đạo lễ, chỉ cần áp dụng trục tọa độ sản sinh
hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương là chúng ta sẽ
thấu hiểu độc Tâm bộc phát khi nào, độc Tâm được triệt khi
nào và thiện tâm được kích hoạt khi nào.
B. Hình tướng Đạo đời
Thấu hiểu được độc Tâm bộc phát khi nào, khi nào
triệt được độc Tâm, khi nào kích hoạt được thiện Tâm trong
các nội dung của hình tướng Đạo đời, khi đó chúng ta sẽ thấu
hiểu và có niềm tin tưởng tuyệt đối ở bộ quy tắc không được
phép vi phạm và bộ quy tắc phải làm được trong hình tướng
Đạo đời. Bởi đó là những chỉ dẫn của vị Tuệ linh đầu tiên để

552
giúp cho Tuệ linh và con người ở nhân gian thấu hiểu cũng
như thực hành nhanh nhất, siêu việt nhất để cải tạo Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng viên mãn.
Độc Tâm là khổ đau, là hạt năng lượng âm của Tâm.
Hạt năng lượng âm được sản sinh bởi hành động thỏa mãn
lợi ích ích kỷ về mình mà không màng hoặc gây tổn thương
tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Thiện Tâm là giác ngộ, là
hạt năng lượng dương của Tâm. Hạt năng lượng dương được
sản sinh bởi hành động cống hiến vì vạn vật, Tuệ linh và con
người mà không vì lợi ích ích kỷ của bản thân.
Hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương sẽ được
sản sinh thông qua các nội dung trong hình tướng Đạo đời
như sau:
- Nội dung con người bảo vệ hay giết hại muông thú:
Tại các cuộc tập kết nhân loại, vị Tuệ linh đầu tiên đã giao
nhiệm vụ cho con người là thuần hóa muông thú để chúng
cũng trở thành người tu hành cùng. Thuần hóa là để linh hồn
của chúng có đủ năng lượng và duy trì được sự sống khi đầu
thai làm con người. Tuy nhiên, cuộc sống sinh tồn của con
người, những thú vui bởi giết hại và ăn thịt muông thú đã
diễn ra không lâu sau cuộc tập kết nhân loại. Những quyết
định bảo vệ hay giết hại muông thú sẽ tạo thành hai hướng
sản sinh hạt năng lượng:
+ Con người giết hại muông thú để thỏa mãn thú vui
hoặc thỏa mãn sở thích ăn uống. Những hành động này khiến
Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm của sự giết hại.
Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm được bộc phát
và mất kiểm soát.

553
+ Con người không giết hại muông thú, cứu giúp
muông thú được sống tự do. Những hành động này khiến Trụ
linh sản sinh ra những hạt năng lượng dương của sự cứu
giúp và bảo vệ. Những hạt năng lượng dương là thiện Tâm
được kích hoạt và kiểm soát được độc Tâm của chính con
người và chính linh hồn của muông thú khi chúng được cứu
giúp.
- Nội dung con người có hành nghề giết mổ hay không:
Cuộc sống mưu sinh và những giá trị lợi ích của đồng tiền là
những kịch bản để giúp bộc phát độc và thiện Tâm của Tuệ
linh ở nhân gian. Những hành động quyết định hành nghề
giết mổ hay không hành nghề giết mổ trong những hoàn
cảnh của sự lựa chọn của các kịch bản này sẽ tạo thành hai
hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Con người quyết định hành nghề giết mổ để mưu
sinh, để làm giàu, để thỏa mãn cuộc sống tốt đẹp hơn. Những
hành động này khiến Trụ linh sản sinh vô số năng lượng âm
và những linh hồn của muông thú cũng oán hận mà sản sinh
vô số năng lượng âm. Như vậy, những hành động hành nghề
554
giết mổ đã bộc phát vô số độc Tâm của con người và muông
thú trong sự mất kiểm soát.

+ Con người quyết định không hành nghề giết mổ, con
người tìm kiếm công việc khác để mưu sinh thay thế cho làm
nghề giết mổ. Những hành động này khiến cho Trụ linh sản
sinh ra những hạt năng lượng dương của sự không sát sinh.
Đó là thiện Tâm được bộc phát và đã kiểm soát, triệt tiêu
được độc Tâm.
- Nội dung con người lười lao động hay chịu khó lao
động: Sự vận động để sinh tồn, để phát triển trí tuệ, để phát
triển cuộc sống, để cải tạo Trụ linh gắn liền với lao động sản
xuất. Lười lao động hay chịu khó lao động là những quyết
định tạo thành hai hướng sản sinh ra hạt năng lượng:
+ Con người khi có những quyết định không chịu khó
lao động sản xuất, lười lao động sản xuất. Những quyết định
này khiến cho Trụ linh sản sinh hạt năng lượng âm. Nguyên
nhân vì trí tuệ bám định vào giả tướng thích hưởng thụ và
ghét lao động nên thân và Tâm không hợp nhất để cải tạo

555
Trụ linh trong kiếp người ngắn ngủi. Khi đó, độc Tâm đã bị
bộc phát và mất kiểm soát.

+ Con người có những hành động chịu khó, chăm chỉ


lao động sản xuất. Khi đó, Trụ linh sẽ phân tách ra những hạt
năng lượng dương của sự cống hiến và phát triển cuộc sống.
Những hạt năng lượng dương là những thiện Tâm đã được
kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm.
- Nội dung của người lao động đối với chủ lao động:
Mối quan hệ tương tác của người lao động với chủ lao động
sẽ tạo thành những quyết định trong quá trình lao động.
Những quyết định sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng
lượng:
+ Không chăm chỉ lao động, không cống hiến, phá hoại
sản xuất cũng như công việc của chủ lao động: Những hành
động này sẽ khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng
âm. Những hạt năng lượng âm là những độc Tâm đã bị bộc
phát và mất kiểm soát.

556
+ Chăm chỉ lao động, cống hiến và tận tình trong công
việc: Những hành động này khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt
năng lượng dương của sự cống hiến và tận tình. Những hạt
năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt
để kiểm soát cũng như triệt tiêu được độc Tâm.
- Nội dung của người chủ lao động với người lao động:
Tương tác giữa chủ lao động với người lao động tạo ra vô số
các kịch bản để bộc phát độc Tâm và kích hoạt thiện Tâm của
cả hai đối tượng. Những quyết định của người chủ lao động
với người lao động tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng
lượng:
+ Người chủ lao động có những hành động chà đạp
nhân phẩm người lao động, bóc lột sức lao động, đàn áp,
đánh đập, thậm chí là giết hại người lao động. Những hành
động này khiến cho Trụ linh của người chủ lao động sản sinh
ra các hạt năng lượng âm của u mê và hành động độc ác.
Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã bộc
phát và mất kiểm soát.

557
+ Người chủ lao động có những hành động quan tâm,
giúp đỡ, cưu mang, tận tâm với người lao động. Những hành
động này khiến cho Trụ linh của người chủ lao động sản sinh
ra những hạt năng lượng dương mang đặc tính bảo vệ, cứu
giúp và cống hiến. Những hạt năng lượng dương chính là
những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt được
độc Tâm của người chủ và người lao động.
- Nội dung của việc kinh doanh vi phạm pháp luật hay
không vi phạm pháp luật: Nội dung này có vô số những nội
dung nhỏ khác bởi nội dung này có vô số các kịch bản tương
tác. Những quyết định trong kinh doanh có vi phạm hay tuân
thủ pháp luật sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng
lượng:
+ Con người kinh doanh sản xuất vi phạm pháp luật
như sản xuất, buôn bán những mặt hàng, nội dung mà pháp
luật quốc gia sở tại cấm. Khi con người cố tình thực hiện các
hành vi sản xuất kinh doanh những mặt hàng cấm sẽ khiến
Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm. Đó là những độc
Tâm đã bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân vì trí tuệ

558
bám định vào giả tướng không có giàu sang mà vi phạm pháp
luật để thỏa mãn sự giàu có.

+ Con người tuân thủ pháp luật, thực hành kinh doanh,
sản xuất những mặt hàng, những điều mà pháp luật của quốc
gia sở tại cho phép. Những hành động này khiến cho Trụ linh
sản sinh ra những hạt năng lượng dương của sự tuân thủ mà
không vi phạm vào pháp luật. Những hạt năng lượng dương
chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và
triệt bỏ được độc Tâm.
- Nội dung của việc kinh doanh gây tổn hại hay có lợi
ích cho con người và vạn vật: Nội dung này có nhiều kịch bản
tương tác với vô số các lĩnh vực, mặt hàng kinh doanh gây
hại hay mang lại lợi ích cho con người. Những tham lam về
sự giàu sang hay những nhận thực của việc làm giàu chân
chính đã tạo thành những quyết định sản sinh hạt năng
lượng theo hai hướng:
+ Kinh doanh những sản phẩm, những mặt hàng,
những vấn đề gây tổn hại tới đời sống, tới sức khỏe của con
người, đó là những sản phẩm không chất lượng, những sản
559
phẩm giả, những thủ đoạn hại người: Những hành động kinh
doanh như vậy sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra các hạt năng
lượng âm. Những hạt năng lượng âm là những độc Tâm đã
được bộc phát và mất kiểm soát.

+ Kinh doanh những sản phẩm chất lượng, những sản


phẩm mang lại lợi ích cho con người, những sản phẩm an
toàn với con người: Những hành động như vậy sẽ khiến cho
Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng dương của sự
phát triển và cống hiến. Những hạt năng lượng dương chính
là những thiện Tâm được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát
được độc Tâm.
- Nội dung có ăn chơi trụy lạc hay không: Trong các
kịch bản tương tác của nội dung ăn chơi trụy lạc hay không
ăn chơi trụy lạc có nhiều nội dung nhỏ. Đó là từ những thú
vui hưởng thụ cho tới những tệ nạn gây nguy hiểm sức khỏe
và tính mạng. Những quyết định lựa chọn lối sống sẽ tạo
thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Con người ăn chơi, trụy lạc, hưởng thụ mà không tu
học cải tạo Trụ linh. Những hành động này khiến cho Trụ
560
linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm. Những hạt năng
lượng âm là những độc Tâm đã bộc phát và mất kiểm soát.
Nguyên nhân là vì trí tuệ bám định vào sự hưởng thụ giả
tướng mà thỏa mãn các thú vui ăn chơi, gây tổn thương cho
gia đình và chính mình. Trong khi một kiếp người thì ngắn
ngủi, chỉ mải ăn chơi là sẽ không có cơ hội cải tạo Trụ linh.

+ Con người không ăn chơi trụy lạc, thay vào đó là


chăm chỉ lao động, chăm chỉ học hành, thực hành đời sống
cống hiến vì vạn vật và nhân loại. Những hành động này
khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng dương của sự
cống hiến. Những năng lượng dương chính là những thiện
Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm.
- Nội dung tình yêu nam nữ: Trong nội dung tình yêu
nam nữ có nhiều nội dung nhỏ. Đó là từ những tình yêu ở
tuổi còn trẻ cho tới tiền hôn nhân. Những quyết định trong
tình yêu nam nữ sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng
lượng:
+ Tình yêu gắn liền với những lợi dụng thân xác để
thỏa mãn sắc dục, lợi dụng và gây tổn thương cho nhau.

561
Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra những
hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là độc
Tâm đã bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân là trí tuệ u
mê bám định vào sắc dục và tình yêu không trong sáng để
thỏa mãn nhu cầu ích kỷ của bản thân.

+ Tình yêu gắn liền với những sự tôn trọng, trong sáng
vì nhau, bảo vệ phẩm giá cho nhau, không lợi dụng gây tổn
thương cho nhau. Những hành động này khiến cho Trụ linh
sản sinh ra những hạt năng lượng dương của tình yêu và
đoàn kết. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện
Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc
Tâm.
- Nội dung có tà dâm hay không: Nội dung tà dâm có
nhiều nội dung nhỏ khác nhau. Tà dâm là những hành vi
pháp luật không cho phép, là những hành vi vi phạm đạo
đức. Đó là những hành động ngoại tình, những hành vi hiếp
dâm, những hành vi ấu dâm, những hành vi lợi dụng để thỏa
mãn sắc dục. Những quyết định có hay không hành vi tà dâm
sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

562
+ Con người thực hiện những hành vi tà dâm sẽ khiến
cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng âm. Những
hạt năng lượng âm là độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm
soát. Nguyên nhân là trí tuệ u mê bám định vào giả tướng sắc
dục nên khiến cho độc Tâm bộc phát.
+ Con người thực hiện những hành vi chuẩn mực, tôn
trọng những người khác giới, bảo vệ cho nhau, không lợi
dụng hay đáp ứng sự ham muốn sắc dục của người khác.
Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra những
hạt năng lượng dương của sự bảo vệ và đoàn kết. Những hạt
năng lượng dương chính là những thiện Tâm được kích hoạt
để kiểm soát cũng như triệt tiêu được độc Tâm.
- Nội dung giết người hay cứu người: Nội dung hành
động giết người hay cứu người có rất nhiều kịch bản trong
tương tác bởi bốn hình tướng Đạo. Đây có lẽ là các kịch bản
tương tác vô cùng khốc liệt để bộc phát được độc Tâm và
kích hoạt được thiện Tâm. Những hành động sẽ tạo thành hai
hướng sản sinh hạt năng lượng:

563
+ Những hành động giết người khác, hành động tự tử
dù trong bất cứ hoàn cảnh nào đều khiến Trụ linh sản sinh ra
những hạt năng lượng âm của sự giết hại. Những hạt năng
lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm
soát. Nguyên nhân là bởi trí tuệ bám định vào thù ghét mà
khiến độc Tâm bộc phát.
+ Những hành động cứu người trong tất cả các hoàn
cảnh khác nhau đều khiến Trụ linh sản sinh ra những hạt
năng lượng dương của sự cứu giúp và hy sinh để bảo vệ.
Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm
được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.
- Nội dung giúp người hay hãm hại người: Trong nội
dung này cũng có nhiều nội dung nhỏ. Giúp người hay hại
người chưa tới mức là giết hại. Tuy nhiên những hành động
trong nội dung tương tác này đều tạo thành hai hướng sản
sinh hạt năng lượng:

564
+ Những hành động hãm hại người để thỏa mãn sự đố
kỵ hay thù ghét đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng
lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc
Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân là trí
tuệ bám định vào giả tướng thù ghét hay đố kỵ mà bộc phát
độc Tâm.
+ Những hành động giúp người vượt qua khó khăn hay
kiếp nạn đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng
dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện
Tâm được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.
- Nội dung trong mối quan hệ khác giới khi đã có gia
đình: Các kịch bản trong mối quan hệ khác giới sẽ sinh phát
thành các kịch bản trong nội dung ngoại tình. Do đó, những
hành động trong nội dung mối quan hệ khác giới sẽ tạo thành
hai hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Lợi dụng trong tương tác cuộc sống để có những
hành động không chuẩn mực, hành động khiếm nhã với
người khác giới đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng
lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là các độc Tâm đã
565
được bộc phát và mất kiểm soát trong mối quan hệ với người
khác giới.

+ Trong tương tác với những người khác giới có những


hành động tôn trọng, những hành động chuẩn mực sẽ khiến
cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng dương.
Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm
được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu những độc Tâm.
- Nội dung hành nghề mại dâm hay không: Cuộc sống
khó khăn, những lợi thế về sắc đẹp và thân hình của những
người nam và người nữ đã tạo thành nhiều kịch bản tương
tác trong cuộc sống phải đưa ra quyết định bởi những cám
dỗ. Những quyết định có hành nghề mại dâm hay không sẽ
tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Thực hiện hành nghề mại dâm để thỏa mãn nhu cầu
ái dục, để thỏa mãn nhu cầu tiền của, dù là lý do nào khác đi
nữa, tất cả đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng
âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã
được bộc phát và mất kiểm soát.

566
+ Không vì bất kỳ lý do nào, người nam hay người nữ
đều đưa ra những quyết định không hành nghề mại dâm.
Điều này đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng
dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện
Tâm được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được những
độc Tâm trong các kịch bản tương tác trong cuộc sống.
- Nội dung buôn bán trẻ em phụ nữ hay cứu giúp họ:
Có nhiều kịch bản cho nội dung này. Những quyết định cứu
giúp hay buôn bán trẻ em và phụ nữ đều khiến cho Trụ linh
có hai hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Thực hiện các hành vi buôn bán trẻ em và phụ nữ sẽ
khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng âm.
Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã bộc
phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân là do trí tuệ bám định
vào giả tướng mong giàu sang nên khiến độc Tâm bộc phát.

567
+ Thực hiện các hành vi cứu giúp và bảo vệ trẻ em, phụ
nữ đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng dương
của sự cứu giúp và bảo vệ. Những hạt năng lượng dương
chính là những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và
triệt tiêu độc Tâm.
- Nội dung chà đạp nhân phẩm, đánh đập hay bảo vệ
nhân phẩm và giúp đỡ: Nội dung này có vô số các kịch bản
tương tác. Những quyết định đều tạo thành hai hướng sản
sinh hạt năng lượng:
+ Những hành động chà đạp nhân phẩm, đánh đập
người khác đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng
âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã
được bộc phát và mất kiểm soát.
+ Những hành động bảo vệ nhân phẩm, giúp đỡ nhau
đều khiến cho Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng dương.
Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm
được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu những độc Tâm.

568
- Nội dung trộm cướp, lừa đảo, lừa dối: Trong nội dung
này lại có vô số các kịch bản tương tác khác nhau. Những
quyết định và hành động trong nội dung này đều tạo thành
hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

+ Những hành vi cướp của, lừa đảo, lừa dối, chiếm đoạt
đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt năng lượng âm. Những
hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm được bộc phát và
mất kiểm soát.

569
+ Những hành động ngăn cản các hành vi cướp của
của, lừa đảo, lừa dối đều khiến Trụ linh sản sinh ra các hạt
năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là
những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu
được độc Tâm.
- … Còn vô số nội dung tương tác với các hoàn cảnh
khác nhau trong hình tướng Đạo đời. Mỗi nội dung tương tác
trong hình tướng Đạo đời, chỉ cần áp dụng trục tọa độ sản
sinh hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương là chúng ta
sẽ thấu hiểu độc Tâm bộc phát khi nào, độc Tâm được triệt
khi nào và thiện tâm được kích hoạt khi nào.
C. Hình tướng Đạo đường
Thấu hiểu được độc Tâm bộc phát khi nào, khi nào
triệt được độc Tâm, khi nào kích hoạt được thiện Tâm trong
các nội dung của hình tướng Đạo đường, khi đó chúng ta sẽ
thấu hiểu và có niềm tin tưởng tuyệt đối ở bộ quy tắc không
được phép vi phạm và bộ quy tắc phải làm được trong hình
tướng Đạo đường. Bởi đó là những chỉ dẫn của vị Tuệ linh
đầu tiên để giúp cho Tuệ linh và con người ở nhân gian thấu
hiểu cũng như thực hành nhanh nhất, siêu việt nhất để cải
tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.
Độc Tâm là khổ đau, là hạt năng lượng âm của Tâm.
Hạt năng lượng âm được sản sinh bởi hành động thỏa mãn
lợi ích ích kỷ về mình mà không màng hoặc gây tổn thương
tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Thiện Tâm là giác ngộ, là
hạt năng lượng dương của Tâm. Hạt năng lượng dương được
sản sinh bởi hành động cống hiến vì vạn vật, Tuệ linh và con
người mà không vì lợi ích ích kỷ của bản thân.

570
Hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương sẽ được
sản sinh thông qua các nội dung trong hình tướng Đạo
đường như sau:
- Nội dung truyền dạy tri thức: Nội dung truyền dạy tri
thức gồm có tri thức trong nhà trường, trong nền giáo dục,
trong tôn giáo, trong tín ngưỡng, trong cuộc sống. Những nội
dung truyền dạy có vô số, tuy nhiên tất cả nội dung truyền
dạy đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

+ Nội dung truyền dạy sai sự thật, mê mị, mê tín dị


đoan, lợi dụng tôn giáo để trục lợi, gây chia rẽ đoàn kết, gây
chiến tranh, gây phân biệt. Những nội dung truyền dạy tri
thức sai sẽ khiến cho Trụ linh của người truyền dạy sản sinh
ra các hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là
độc Tâm đã bộc phát và mất kiểm soát. Nguyên nhân vì trí
tuệ u mê không thấu hiểu sự thật của vạn vật nên dễ bộc phát
độc Tâm và không có khả năng kiểm soát.
+ Nội dung truyền dạy đúng sự thật về cội nguồn, đúng
bản chất, mang tính đoàn kết, mang tính xây dựng giá trị đạo
đức, mang lại giá trị cải tạo đời sống và cải tạo Trụ linh.
571
Những tri thức được truyền dạy như vậy sẽ khiến cho Trụ
linh của người truyền dạy phân tách ra vô số những hạt năng
lượng dương của phổ độ. Những hạt năng lượng dương
chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát
cũng như triệt được độc Tâm.
- Nội dung Thầy đối với học trò: Trong nội dung Thầy
đối với trò có vô số nội dung cũng như các kịch bản tương tác
trong hình tướng Đạo đường. Những suy nghĩ cho đến hành
động từ Thầy đối với trò sẽ tạo thành hai hướng sản sinh hạt
năng lượng:

+ Thầy truyền dạy tri thức sai, truyền bá mê tín dị


đoan, không tôn trọng học trò, chà đạp nhân phẩm, đánh đập,
xui khiến trò làm điều sai trái, giết hại học trò. Những hành
động này sẽ khiến cho Trụ linh của người thầy sản sinh ra vô
số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là
độc Tâm của người thầy đã được bộc phát và mất kiểm soát.
Nguyên nhân là trí tuệ của người thầy còn u mê và không
thấu hiểu sự thật của vạn vật nên dễ dàng bộc phát độc Tâm.

572
+ Thầy truyền dạy tri thức đúng về bản chất và cội
nguồn, những giá trị đạo đức, tôn trọng học trò, giúp đỡ học
trò, cứu giúp học trò, hy sinh vì học trò. Những hành động
này sẽ khiến cho Trụ linh của người thầy sản sinh ra vô số
các hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương
chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và
triệt tiêu được độc Tâm. Nguyên nhân vì người thầy có trí
tuệ khai ngộ và thấu hiểu được bản chất của vạn vật nên dễ
dàng kích hoạt được thiện Tâm cũng như triệt được độc Tâm
nếu nó bộc phát.
- Nội dung học trò đối với Thầy: Các kịch bản tương tác
từ học trò đối với Thầy có vô số. Những suy nghĩ cho tới
hành động của học trò tới Thầy đều tạo thành hai hướng sản
sinh hạt năng lượng:

+ Học trò thực hành những hành động đi ngược giá trị
đạo đức mà Thầy truyền dạy, vi phạm đạo đức, chà đạp nhân
phẩm của Thầy, xúc phạm, xuyên tạc lời Thầy dạy, đánh đập,
phá hoại, giết hại Thầy. Những hành động này khiến cho Trụ
linh của học trò sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những
573
hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc phát và
mất kiểm soát. Nguyên nhân là trí tuệ của học trò bám định
vào giả tướng để thỏa mãn lợi ích ích kỷ nên dễ dàng khiến
độc Tâm bộc phát.
+ Học trò nghe lời và thực hành những giá trị đạo đức
mà Thầy truyền dạy, tôn kính, giúp đỡ, cống hiến cho xã hội
và dân tộc bởi những tri thức được học từ Thầy. Những hành
động này sẽ khiến cho Trụ linh của học trò sản sinh ra vố số
hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính
là thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu
được độc Tâm. Nguyên nhân là học trò có trí tuệ khai ngộ và
không bám định vào giả tướng, thay vào đó là sống đời sống
cống hiến được học từ Thầy. Điều này khiến cho thiện Tâm
dễ dàng được kích hoạt.
- Nội dung học trò đối xử với nhau: Trong nội dung này
có vô số kịch bản tương tác giữa những học trò, đồng môn
với nhau. Những suy nghĩ cho tới hành động khác nhau đều
tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Những học trò đố kỵ nhau, tranh giành hơn thua, chà
đạp nhân phẩm nhau, mưu hại nhau, nói xấu nhau, đánh đập
nhau, giết hại nhau. Những hành động này khiến cho Trụ linh
sản sinh ra những hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng
âm chính là độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.
Nguyên nhân là trí tuệ học trò còn u mê và bám định giả
tướng để thỏa mãn ích kỷ về mình nên dễ dàng bộc phát độc
Tâm.

574
+ Những học trò quan tâm giúp đỡ nhau, bảo vệ nhau,
đoàn kết, cống hiến vì nhau, thậm chí hy sinh cho nhau.
Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra nhiều
hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính
là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt
bỏ được độc Tâm. Nguyên nhân là những học trò có trí tuệ
khai ngộ, không còn bám định vào giả tướng, thay vào đó là
xây dựng đời sống cống hiến nên dễ dàng kích hoạt được
thiện Tâm.
- Nội dung có chức sắc trong tôn giáo: Tương tác trong
nội dung này có nhiều kịch bản trong nhiều hoàn cảnh khác
nhau. Những suy nghĩ cho tới hành động trong nội dung
tương tác này cũng đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt
năng lượng:
+ Lợi dụng chức sắc trong tôn giáo để tuyên truyền mị
dân, tuyên truyền hành nghề mê tín dị đoan, tuyên truyền đi
ngược Quy luật Nhân quả bởi xin cầu, kích động xung đột
giữa các tôn giáo với nhau, lợi dụng chức sắc để lôi kéo mọi
người và trục lợi: Những hành động này khiến cho Trụ linh
575
sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng
âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm
soát. Nguyên nhân vì trí tuệ u mê và bám định vào giả tướng
để thỏa mãn ích kỷ cho bản thân nên dễ dàng bộc phát độc
Tâm.

+ Không lợi dụng chức vụ trong tôn giáo, giúp đỡ mọi


người, truyền dạy những giá trị đạo đức tuân thủ quy luật tự
nhiên, tuyên truyền đoàn kết dân tộc và giữa các tôn giáo,
cống hiến tri thức đạo đức tới mọi người: Những hành động
này khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng
dương. Những hạt năng lượng dương chính là những thiện
Tâm được kích hoạt để triệt tiêu cũng như kiểm soát được
độc Tâm. Nguyên nhân là trí tuệ của họ được khai ngộ, không
bám định vào giả tướng, sống đời sống cống hiến cho nhân
loại nên dễ dàng kích hoạt được thiện Tâm.
- Nội dung có kiến thức tâm linh: Đối với con người,
nội dung kiến thức tâm linh vô cùng huyền bí và có vô số
kịch bản tương tác đối với nội dung này. Những suy nghĩ cho

576
tới hành động trong nội dung này đều tạo thành hai hướng
sản sinh hạt năng lượng:

+ Lợi dụng kiến thức tâm linh để lừa người, ma mị và


mê tín dị đoan, dẫn dụ mọi người cầu cúng, dẫn dụ mọi
người vi phạm chuẩn mực đạo đức: Những hành động này
khiến cho Trụ linh của người lợi dụng kiến thức tâm linh sản
sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm
chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.
Nguyên nhân là trí tuệ u mê nên không thấu hiểu bản chất
của tâm linh mà trục lợi về mình.
+ Không lợi dụng vào kiến thức tâm linh, chia sẻ sự
thật của tâm linh trên cơ sở khoa học biện chứng và cơ chế
vận hành của vạn vật để khai ngộ cho con người: Những
hành động như vậy khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt
năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là
thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu độc
Tâm. Nguyên nhân vì có trí tuệ khai ngộ về vạn vật Vũ trụ.
- Nội dung có địa vị trong ngành giáo dục: Nội dung
này có nhiều kịch bản tương tác. Tất cả từ những suy nghĩ
577
cho tới hành động đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng
lượng:

+ Lợi dụng chức sắc và địa vị trong ngành giáo dục để


kìm hãm sự phát triển của nền giáo dục, gây tổn hại tới sự
phát triển của ngành giáo dục: Những hành động này khiến
cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt
năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và
mất kiểm soát.
+ Tận dụng chức vụ hiện có trong ngành giáo dục để
cống hiến cho nền giáo dục, nghiên cứu chính sách thúc đẩy
phát triển ngành giáo dục, đổi mới có tính hiệu quả: Những
hành động như vậy sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số
hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính
là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát cũng như
triệt được độc Tâm.
- Nội dung bảo vệ hay lợi dụng niềm tin tôn giáo và tín
ngưỡng: Nội dung này có vô số kịch bản tương tác, bởi vấn
đề tôn giáo và tín ngưỡng là rộng lớn. Những suy nghĩ cho tới

578
hành động trong tất cả các kịch bản của nội dung này đều tạo
thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

+ Lợi dụng niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng để hành nghề
mê tín dị đoan, lừa gạt người dân bởi cúng cầu: Những hành
động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng
âm. Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc
phát và mất kiểm soát.
+ Bảo vệ tính trong sáng của tôn giáo và tín ngưỡng,
bảo vệ giá trị tinh hoa của tôn giáo và tín ngưỡng trong việc
giáo dục con người: Những hành động như vậy khiến cho Trụ
linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng
lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để
triệt tiêu và kiểm soát độc Tâm.
- Nội dung kích động xung đột hay đoàn kết tôn giáo:
Trong nội dung này có vô số kịch bản tương tác trong các
hoàn cảnh khác nhau. Những suy nghĩ cho tới hành động đều
tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

579
+ Kích động xung đột tôn giáo là những hành động vô
cùng nguy hiểm. Nó khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt
năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những
độc Tâm cực độc đã được bộc phát và mất kiểm soát hoàn
toàn.
+ Bảo vệ và đoàn kết giữa các tôn giáo, trong nội tại
mỗi tôn giáo chính là hành động khiến cho Trụ linh sản sinh
ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng
dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để triệt
tiêu và kiểm soát được độc Tâm.
- Nội dung phổ độ hay phổ mê: Nội dung này có trong
cả tôn giáo và nền giáo dục. Phổ mê là truyền dạy những tri
thức sai trái đi ngược sự thật của vạn vật để khiến cho người
chìm đắm trong u mê. Phổ độ là truyền dạy những tri thức
thật sự và phơi bày được bản chất cũng như cội nguồn của
vạn vật. Những hành động truyền dạy đều tạo thành hai
hướng sản sinh hạt năng lượng:

580
+ Phổ mê sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh vô lượng hạt
năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những
độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát hoàn toàn.
+ Phổ độ sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh vô lượng hạt
năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là
những thiện Tâm được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu
độc Tâm.
- … Còn vô số nội dung tương tác với các hoàn cảnh
khác nhau trong hình tướng Đạo đường. Mỗi nội dung tương
tác trong hình tướng Đạo đường, chỉ cần áp dụng trục tọa độ
sản sinh hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương là
chúng ta sẽ thấu hiểu độc Tâm bộc phát khi nào, độc Tâm
được triệt khi nào và thiện tâm được kích hoạt khi nào.
D. Hình tướng Đạo Đế vương
Thấu hiểu được độc Tâm bộc phát khi nào, khi nào
triệt được độc Tâm, khi nào kích hoạt được thiện Tâm trong
các nội dung của hình tướng Đạo Đế vương, khi đó chúng ta
sẽ thấu hiểu và có niềm tin tưởng tuyệt đối ở bộ quy tắc

581
không được phép vi phạm và bộ quy tắc phải làm được trong
hình tướng Đạo Đế vương. Bởi đó là những chỉ dẫn của vị
Tuệ linh đầu tiên để giúp cho Tuệ linh và con người ở nhân
gian thấu hiểu cũng như thực hành nhanh nhất, siêu việt
nhất để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.
Độc Tâm là khổ đau, là hạt năng lượng âm của Tâm.
Hạt năng lượng âm được sản sinh bởi hành động thỏa mãn
lợi ích ích kỷ về mình mà không màng hoặc gây tổn thương
tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Thiện Tâm là giác ngộ, là
hạt năng lượng dương của Tâm. Hạt năng lượng dương được
sản sinh bởi hành động cống hiến vì vạn vật, Tuệ linh và con
người mà không vì lợi ích ích kỷ của bản thân.
Hạt năng lượng âm và hạt năng lượng dương sẽ được
sản sinh thông qua các nội dung trong hình tướng Đạo Đế
vương như sau:
- Nội dung người có địa vị, có quyền lực: Trong tất cả
các tương tác của nội dung người có địa vị và quyền lực
trong bộ máy điều hành Đất nước sẽ có vô số kịch bản tương
tác. Tất cả những quyết định và hành động của người có
quyền lực và địa vị đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt
năng lượng:
+ Lợi dụng chức quyền để tham ô, tham nhũng, chạy
chức, chạy quyền, nhũng nhiễu dân, bán nước hại dân…:
Những hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số
hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là
những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

582
+ Tận dụng vị trí và quyền lực đang có để xây dựng các
chính sách sử dụng nhân tài, sử dụng hiền tài, tuyển dụng
nhân tài, xây dựng các chính sách phát triển bền vững cho
dân tộc và Đất nước, không tham ô, không tham nhũng,
không bán nước hại dân: Những hành động này khiến cho
Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt
năng lượng chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để
kiểm soát được độc Tâm.
- Nội dung người lãnh đạo Đất nước: Những người
đứng đầu lãnh đạo Đất nước dân tộc là những người được
nhân dân lựa chọn. Trong mọi quyết định và hành động của
họ đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Những người đứng đầu Đất nước tham ô tham
nhũng, bán nước hại dân, tàn phá tài nguyên của Đất nước,
xây dựng các chính sách ngu dân, xây dựng các chính sách
không có lợi cho nhân dân, kích động và gây ra các cuộc
chiến tranh, phản bội Tổ quốc. Những hành động này sẽ
khiến Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những

583
hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được bộc
phát và mất kiểm soát.

+ Những người đứng đầu Đất nước thực hành đời sống
cống hiến cho dân tộc, bảo vệ tài nguyên của Đất nước, bảo
vệ và xây dựng Đất nước được phát triển bền vững, bảo vệ
độc lập tự do cho dân tộc, bài trừ chiến tranh, xây dựng Đất
nước ổn định và cường thịnh. Những hành động như vậy
khiến cho Trụ linh của họ sản sinh ra vô số những hạt năng
lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những
thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát cũng như triệt tiêu
độc Tâm.
- Nội dung người dân với Đất nước: Người dân trong
tương tác với hình tướng Đạo Đế vương sẽ có vô số kịch bản
tương tác xảy ra. Những quyết định hành động đều tạo thành
hai hướng sản sinh ra hạt năng lượng:
+ Người dân lười lao động, hành nghề mê tín dị đoan,
phản bội Tổ quốc, kích động dân tộc… Những hành động này
sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm.

584
Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc
phát và mất kiểm soát.

+ Người dân hăng say lao động sản xuất, bài trừ mê tín
dị đoan, thực hiện đoàn kết dân tộc, bảo vệ chủ quyền và sự
tự do của dân tộc. Những hành động này khiến cho Trụ linh
sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những hạt năng
lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để
triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.
- Nội dung tham nhũng hay cống hiến cho dân tộc Đất
nước: Tham nhũng là vơ vét, chiếm đoạt của công về mình,
cống hiến là hy sinh bản thân mình để vì lợi ích của dân tộc
và Đất nước. Những quyết định trong nội dung trên tạo
thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Tham ô tham nhũng của cải của dân tộc, tiền tài của
ngân khố về hưởng thụ cho mình và gia đình mình: Những
hành động này khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng
lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là những độc
Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.

585
+ Thực hành đời sống cống hiến cho dân tộc, cho Đất
nước, đó là xây dựng những chính sách phát triển dân tộc,
Đất nước mà không màng gì về mình: Những hành động như
vậy khiến Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương.
Những hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã
được kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu độc Tâm.
- Nội dung kích động dân tộc hay đoàn kết dân tộc:
Những quyết định hay hành động trong các kịch bản của nội
dung này đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:
+ Những hành động kích động xung đột dân tộc sẽ
khiến cho Trụ linh sản sinh ra những hạt năng lượng âm.
Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc
phát và mất kiểm soát.
+ Những hành động đoàn kết dân tộc sẽ khiến Trụ linh
sản sinh ra những hạt năng lượng dương. Những hạt năng
lượng dương chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để
triệt tiêu và kiểm soát được độc Tâm.

586
- Nội dung xâm chiếm hay bảo vệ hòa bình: Trong nội
dung này có vô số các kịch bản và nội dung khác nhau. Tuy
nhiên, từ những quyết định cho tới những hành động đều tạo
thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

+ Xâm chiếm và gây ra chiến tranh sẽ khiến cho Trụ


linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng
lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm
soát hoàn toàn.
587
+ Bảo vệ hòa bình, bảo vệ sự độc lập và tự do khiến
cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những
hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được
kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm.
- Nội dung khi Đất nước có dịch bệnh: Đây là nội dung
với vô số các kịch bản xảy ra để giúp cho độc và thiện Tâm
được bộc phát. Những quyết định trong tình hình Đất nước
có dịch bệnh đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng
lượng:

+ Lợi dụng tình hình dịch bệnh để tham ô tham nhũng,


không có những chính sách và quyết liệt triệt tiêu dịch bệnh:
Những hành động như vậy khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô
số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng âm chính là
những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm soát.
+ Trong tình hình Đất nước có dịch bệnh, chính quyền
lãnh đạo và người dân cùng quyết liệt diệt dịch bệnh, lãnh
đạo thực hiện những chính sách cứu trợ, cứu giúp dân chúng
trong thảm cảnh của dịch bệnh: Những hành động đó khiến
cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương. Những
588
hạt năng lượng dương chính là những thiện Tâm đã được
kích hoạt để kiểm soát và triệt tiêu được độc Tâm.
- Nội dung khi Đất nước nghèo đói: Đất nước nghèo
đói tạo ra vô số các kịch bản tương tác của cả người dân và
lãnh đạo của dân tộc. Những quyết định cho đến hành động
đều tạo thành hai hướng sản sinh hạt năng lượng:

+ Lãnh đạo Đất nước tham ô tham nhũng, nhiêu khê,


không xây dựng được chính sách phát triển kinh tế để vượt
qua nghèo đói. Người dân thì lười lao động. Tất cả sẽ khiến
cho Trụ linh sản sinh ra vô số những hạt năng lượng âm.
Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được
bộc phát và mất kiểm soát.
+ Lãnh Đạo đất nước dẫn dắt nhân dân bằng những
chính sách phát triển hữu hiệu để đưa dân tộc và Đất nước
vượt qua nghèo khó. Người dân hăng say lao động sản xuất.
Những hành động như vậy khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô
số hạt năng lượng dương. Những hạt năng lượng dương
chính là những thiện Tâm đã được kích hoạt để kiểm soát và
triệt tiêu được độc Tâm.
589
- Nội dung khi Đất nước bị xâm lược: Khi Đất nước bị
xâm lược là những kịch bản mà tất cả các Tuệ linh tu hành ở
nhân gian phải trải qua. Khi có ngoại xâm xâm lược dân tộc
và Đất nước, những hành động đều tạo thành hai hướng sản
sinh hạt năng lượng:

+ Lãnh đạo Đất nước không xây dựng được sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân cũng như kinh tế vững mạnh sẽ khiến
cho Đất nước dễ dàng bị xâm lược. Khi đó máu chảy đầu rơi,
tang thương khắp mảnh đất. Như vậy sẽ khiến cho Trụ linh
của những bậc lãnh đạo sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm.
Những hạt năng lượng âm chính là những độc Tâm đã được
bộc phát và mất kiểm soát.
+ Lãnh đạo Đất nước xây dựng được những chính sách
phát triển Đất nước trở nên cường thịnh. Sự cường thịnh
chính là phòng thủ bảo vệ Đất nước tốt nhất. Lãnh đạo đàm
phán để dân tộc được hòa bình khi có ngoại xâm. Nếu phải
chiến tranh để bảo vệ dân tộc thì lãnh đạo phải đoàn kết dân
tộc cùng nhau bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc. Giữ gìn được

590
độc lập tự do mà không phải giết hại nhau mới khiến Trụ linh
sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương của thiện Tâm.
- Nội dung lợi dụng hay tri ân các bậc thánh nhân:
Những kịch bản tương tác trong nội dung tri ân các bậc
thánh nhân là vô số. Những bậc thánh nhân là những người
khai quốc và bảo vệ Tổ quốc. Họ được nhân dân các đời sau
tri ân trưởng nhớ công ơn. Những hành động của người dân
đối với các bậc thánh nhân đều tạo thành hai hướng sản sinh
hạt năng lượng:

+ Những con người lợi dụng hình ảnh của những bậc
thánh nhân để hành nghề mê tín dị đoan sẽ khiến Trụ linh
sản sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Những hạt năng lượng
âm chính là những độc Tâm đã được bộc phát và mất kiểm
soát.
+ Những con người tri ân trong sự tôn kính và trong
sáng tới các bậc thánh nhân, điều này khiến cho họ thực
hành theo những hành động thiện mà các bậc thánh nhân khi
sống đã làm. Trụ linh của họ sẽ sản sinh ra vô số hạt năng
lượng dương. Những hạt năng lượng dương là những thiện
591
Tâm đã được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được độc
Tâm.
- Nội dung vơ vét tàn phá hay bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên: Đây là nội dung với vô số các kịch bản tương tác.
Những quyết định trong nội dung này đều tạo thành hai
hướng sản sinh hạt năng lượng:

+ Những hành động vơ vét, tàn phá tài nguyên thiên


nhiên sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng
âm. Những hạt năng lượng âm chính là độc Tâm đã được bộc
phát và mất kiểm soát.
+ Những hành động bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của
Đất nước sẽ khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng
lượng dương. Những hạt năng lượng dương chính là những
thiện Tâm đã được kích hoạt để triệt tiêu và kiểm soát được
độc Tâm.
- … Còn vô số nội dung tương tác với các hoàn cảnh
khác nhau trong hình tướng Đạo Đế vương. Mỗi nội dung
tương tác trong hình tướng Đạo Đế vương, chỉ cần áp dụng

592
trục tọa độ sản sinh hạt năng lượng âm và hạt năng lượng
dương là chúng ta sẽ thấu hiểu độc Tâm bộc phát khi nào,
độc Tâm được triệt khi nào và thiện tâm được kích hoạt khi
nào.
Như vậy, thông qua bốn hình tướng Đạo với vô số các
kịch bản tương tác trong mọi hoàn cảnh khác nhau đều giúp
cho Tâm của con người bộc phát được độc Tâm, kiểm soát
được độc Tâm, kích hoạt được thiện Tâm. Nếu độc Tâm nào
đã bộc phát mà vẫn chưa triệt tiêu được sẽ phải thực hiện lại
kịch bản đó trong nhiều kiếp tu hành cho tới khi nào triệt
được mới xong. Khi chưa kích hoạt được hết thiện Tâm ở tất
cả các kịch bản tương tác trong bốn hình tướng Đạo thì sẽ
phải thực hiện tiếp ở các kiếp tu hành tiếp theo cho tới khi
hoàn thành. Điều này chứng minh rằng Đạo của Vũ trụ hợp
nhất tại Tâm của con người thông qua bốn hình tướng Đạo.
Chỉ có thông qua bốn hình tướng Đạo thì Tuệ linh mới
trưởng thành và đắc được bộ lọc năng lượng. Bộ lọc năng
lượng chính là đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ.

8.4. Tuệ linh và con người đắc được Đạo hợp


nhất của Vũ trụ
Trước tiên chúng ta hãy hình dung cơ thể con người để
trưởng thành thì cần phải ăn uống có dinh dưỡng, cần phải
vận động để tế bào phân tách và trưởng thành. Một người có
được sự thành công trong cuộc sống thì họ cần phải học tập
và vận động ứng dụng tri thức trong công việc. Như vậy để
một người trưởng thành và thành công trong cuộc sống cần
phải vận động. Đó là vận động để giải mã sự thật của vạn vật,
vận động để mã hóa tri thức thành hạt năng lượng, vận động

593
để cơ thể trưởng thành, vận động để mã hóa và chuyển hóa
thành sự thành công.
Xét về sự trưởng thành của cơ thể con người, ban đầu
cơ thể con người chỉ là phôi thai nhi được hợp nhất bởi
trứng mang tính âm và tinh trùng mang tính dương, thông
qua cơ chế phân tách và liên kết tế bào mà cơ thể phôi thai
nhi có được sự trưởng thành. Quá trình trưởng thành của
thai nhi gắn liền với quá trình tất cả các tế bào được phân
tách từ phôi thai nhi đã được mã hóa thành những tế bào
chức năng. Đó là nhóm cấu trúc tế bào được mã hóa thông tin
để cấu tạo thành xương, các nhóm cấu trúc tế bào được mã
hóa thành tế bào cấu tạo thành gan, thận, tim, phổi, da, mặt,
đầu, chân, tay… Từ những nhóm tế bào chức năng đã được
mã hóa, chúng phân tách liên kết chặt để cấu tạo cơ thể trở
nên to lớn và khỏe mạnh.
Vậy làm thế nào để Tuệ linh có được sự trưởng thành
cũng như đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ?
- Tất cả các Tuệ linh đều phải tu hành ở nhân gian
thông qua bốn hình tướng Đạo mới giúp Tuệ linh trưởng
thành và đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Vì tại môi
trường tu hành này, vị Tuệ linh đầu tiên đã tạo thành một
môi trường đảm bảo có đầy đủ tất cả các nhóm vật chất
tương tác với Tuệ linh an trụ trong thân tướng vật chất giản
đơn là con người. Đặc biệt là có sự tương tác vô cùng lớn từ
năng lượng hoại diệt tới môi trường tu hành này.
- Đạo hợp nhất của Vũ trụ chính là sự hợp nhất tất cả
các nhóm vật chất, không gian, thời gian của Vũ trụ tại hình
tướng và Tâm của con người, vì Tâm của con người chính là
dạng sống Tuệ linh.

594
- Đạo của Vũ trụ hợp nhất tại Tâm của con người thông
qua bốn hình tướng Đạo. Do đó, cơ sở để khẳng định Tuệ linh
trưởng thành và đắc được bộ lọc năng lượng là phải triệt tiêu
được tất cả các độc Tâm và kích hoạt được tất cả các thiện
Tâm trong Trụ linh của Tuệ linh. Khi đó Tuệ linh thực hành
đời sống phân tách ra vô số cho tới đủ lượng sợi mã sóng trí
tuệ mang sóng điện dương siêu mạnh và lượng sợi mã sóng
trí tuệ mang sóng điện âm siêu nhẹ để cấu tạo và chuyển hóa
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi thực hiện đời sống
thiện Tâm, tức là đời sống phân tách liên kết các hạt năng
lượng dương, cấu trúc năng lượng của Tuệ linh sẽ trở nên
lớn mạnh và trưởng thành, cũng là cơ sở để chuyển hóa Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng. Nếu thực hiện đời sống độc
Tâm, tức là đời sống phân tách liên kết các hạt năng lượng
âm từ mạnh cho tới siêu mạnh sẽ khiến cấu trúc Tuệ linh
không được liên kết trưởng thành, khi đó năng lượng hoại
diệt sẽ xâm nhập vào làm phân rã và hoại diệt Tuệ linh. Đặc
biệt Tuệ linh tu hành trong thân tướng con người với sự trói
buộc trong thân tướng, để kích hoạt được thiện Tâm thì đó là
kết quả của việc thấu hiểu và triệt được độc Tâm. Do đó việc
Trụ linh sản sinh ra hạt năng lượng dương sẽ đồng loạt sản
sinh ra cả hạt năng lượng chân tâm cùng hạt năng lượng âm
có sóng điện âm vô cùng nhẹ. Chính vì vậy, thực hành sản
sinh năng lượng dương chính là để giúp Tuệ linh trưởng
thành và đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ.
Quá trình Tuệ linh trưởng thành và đắc được Đạo hợp
nhất của Vũ trụ diễn ra như thế nào thông qua bốn hình
tướng Đạo?
- Thông qua hình tướng Đạo lễ với tất cả các kịch bản
tương tác trong mọi hoàn cảnh, khi con người thấu hiểu,

595
kiểm soát, triệt bỏ được hết độc Tâm và thấu hiểu, kích hoạt
được tất cả thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác của
hình tướng Đạo lễ, Trụ linh trong Tuệ linh sẽ phân tách ra vô
số hạt năng lượng dương có sóng điện dương siêu mạnh, vô
số hạt năng lượng âm có sóng điện âm siêu nhẹ, vô số hạt
năng lượng chân tâm. Tất cả những hạt năng lượng đó đã
được giải mã và mã hóa thông tin toàn diện của tất cả các
nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ vào sợi mã sóng trí tuệ
trong hạt năng lượng. Hệ thống hạt năng lượng sau khi được
sản sinh ra trong hình tướng Đạo lễ sẽ liên kết với nhau để
giúp Tuệ linh trưởng thành và có đủ lượng sợi mã sóng trí
tuệ cho việc cấu tạo chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng. Đặc biệt là hệ thống hạt năng lượng của hình tướng
Đạo lễ sau khi được liên kết bền vững với nhau sẽ tạo thành
hệ thống hạt năng lượng có chức năng và nhiệm vụ rõ ràng.
Nó giúp cho Tuệ linh phát triển được tình yêu thương, quan
tâm, giúp đỡ, tri ân cội nguồn, nghĩa tình với tất cả các nhóm
vật chất trong và ngoài Vũ trụ, điều mà nếu Tuệ linh chưa
trưởng thành sẽ không có được.
- Thông qua hình tướng Đạo đời với tất cả các kịch bản
tương tác trong mọi hoàn cảnh, khi con người thấu hiểu,
kiểm soát, triệt bỏ được hết độc Tâm và thấu hiểu, kích hoạt
được tất cả thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác của
hình tướng Đạo đời, Trụ linh trong Tuệ linh sẽ phân tách ra
vô số hạt năng lượng dương có sóng điện dương siêu mạnh,
vô số hạt năng lượng âm có sóng điện âm siêu nhẹ, vô số hạt
năng lượng chân tâm. Tất cả những hạt năng lượng đó đã
được giải mã và mã hóa thông tin toàn diện của tất cả các
nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ vào sợi mã sóng trí tuệ
trong hạt năng lượng. Hệ thống hạt năng lượng sau khi được

596
sản sinh ra trong hình tướng Đạo đời sẽ liên kết với nhau để
giúp Tuệ linh trưởng thành và có đủ lượng sợi mã sóng trí
tuệ cho việc cấu tạo chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng. Đặc biệt là hệ thống hạt năng lượng của hình tướng
Đạo đời sau khi được liên kết bền vững với nhau sẽ tạo thành
hệ thống hạt năng lượng có chức năng và nhiệm vụ rõ ràng.
Nó giúp cho Tuệ linh phát triển và thực hiện được đời sống
cống hiến, bảo vệ, phát triển tất cả các nhóm vật chất trong
và ngoài Vũ trụ trở nên bền vững, điều mà nếu Tuệ linh chưa
trưởng thành sẽ không có được.
- Thông qua hình tướng Đạo đường với tất cả các kịch
bản tương tác trong mọi hoàn cảnh, khi con người thấu hiểu,
kiểm soát, triệt bỏ được hết độc Tâm và thấu hiểu, kích hoạt
được tất cả thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác của
hình tướng Đạo đường, Trụ linh trong Tuệ linh sẽ phân tách
ra vô số hạt năng lượng dương có sóng điện dương siêu
mạnh, vô số hạt năng lượng âm có sóng điện âm siêu nhẹ, vô
số hạt năng lượng chân tâm. Tất cả những hạt năng lượng đó
đã được giải mã và mã hóa thông tin toàn diện của tất cả các
nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ vào sợi mã sóng trí tuệ
trong hạt năng lượng. Hệ thống hạt năng lượng sau khi được
sản sinh ra trong hình tướng Đạo đường sẽ liên kết với nhau
để giúp Tuệ linh trưởng thành và có đủ lượng sợi mã sóng trí
tuệ cho việc cấu tạo chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng. Đặc biệt là hệ thống hạt năng lượng của hình tướng
Đạo đường sau khi được liên kết bền vững với nhau sẽ tạo
thành hệ thống hạt năng lượng có chức năng và nhiệm vụ rõ
ràng. Nó giúp cho Tuệ linh phát triển và có được trí tuệ của
vạn vật, điều mà nếu Tuệ linh chưa trưởng thành sẽ không có
được.

597
- Thông qua hình tướng Đạo Đế vương với tất cả các
kịch bản tương tác trong mọi hoàn cảnh, khi con người thấu
hiểu, kiểm soát, triệt bỏ được hết độc Tâm và thấu hiểu, kích
hoạt được tất cả thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương
tác của hình tướng Đạo Đế vương, Trụ linh trong Tuệ linh sẽ
phân tách ra vô số hạt năng lượng dương có sóng điện
dương siêu mạnh, vô số hạt năng lượng âm có sóng điện âm
siêu nhẹ, vô số hạt năng lượng chân tâm. Tất cả những hạt
năng lượng đó đã được giải mã và mã hóa thông tin toàn diện
của tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ vào sợi mã
sóng trí tuệ trong hạt năng lượng. Hệ thống hạt năng lượng
sau khi được sản sinh ra trong hình tướng Đạo Đế vương sẽ
liên kết với nhau để giúp Tuệ linh trưởng thành và có đủ
lượng sợi mã sóng trí tuệ cho việc cấu tạo chuyển hóa Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng. Đặc biệt là hệ thống hạt năng
lượng của hình tướng Đạo Đế vương sau khi được liên kết
bền vững với nhau sẽ tạo thành hệ thống hạt năng lượng có
chức năng và nhiệm vụ rõ ràng. Nó giúp cho Tuệ linh có được
sự bình đẳng trong sự tôn nghiêm, sự tri ân, sự đoàn kết trên
dưới và tất cả Tuệ linh để phát triển tất cả các nhóm vật chất
trong và ngoài Vũ trụ trở nên bền vững, điều mà nếu Tuệ linh
chưa trưởng thành sẽ không có được.
Như vậy sự trưởng thành của Tuệ linh thông qua bốn
hình tướng Đạo ở nhân gian sẽ giúp cho Tuệ linh phát triển
thành tình yêu thương tới tất cả vạn vật, có trí tuệ thấu hiểu
về tất cả vạn vật, thực hành đời sống cống hiến vì tất cả vạn
vật, bình đẳng trong sự tôn nghiêm. Khi liên kết các hệ thống
sợi mã sóng trí tuệ đó lại với nhau sẽ chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng. Khi đó, bộ lọc năng lượng trong Trụ
linh của Tuệ linh sẽ sản sinh ra các siêu hạt năng lượng để

598
liên kết tới tất cả các nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ
cùng phát triển bền vững.

9. Bản chất Kết – Định – Tỏa của Đạo hợp nhất


Vũ trụ
Bản chất Kết – Định – Tỏa của Đạo hợp nhất Vũ trụ
chính là bản chất Tuệ linh (Tâm) bên trong thân tướng con
người thực hành đời sống Kết – Định – Tỏa khi tương tác với
tất cả các kịch bản của bốn hình hình tướng Đạo.
Con người thực hiện đời sống với bản chất Kết trong
bốn hình tướng Đạo:
- Kết là rung lắc, là thu hút, là thu tín hiệu, là hấp thụ
nhiệt, là hút về, là lấy về, là chiếm lấy, là cướp lấy, là thỏa
mãn, là giết hại. Kết có từ nhẹ cho tới mạnh, rất mạnh và siêu
mạnh. Kết nhẹ chỉ là rung lắc nhẹ để thu hút và thu tín hiệu.
Kết từ mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh là hấp thụ về, là
lấy về, là thỏa mãn, là cướp lấy, là chiếm đoạt, là giết hại.
- Con người thông qua tất cả các kịch bản tương tác
trong bốn hình tướng Đạo, thực hiện đời sống với bản chất
Kết nhẹ: Đó là rung lắc nhẹ để thu hút nhẹ, thu tín hiệu về; đó
là thực hành đời sống với bản chất tiếp thu, liên kết, tìm hiểu,
giải mã sự thật của vạn vật. Con người thực hành đời sống
với bản chất là Kết nhẹ sẽ giúp Trụ linh có khả năng kích
hoạt được thiện Tâm và thông qua thiện Tâm để kiểm soát và
triệt tiêu được độc Tâm. Vì vậy, Kết nhẹ phải có sự vận hành
với cơ chế Tỏa mới tạo thành sức mạnh chuyển hóa năng
lượng. Nếu Kết nhẹ mà độc lập thì sẽ có nguy cơ bộc phát độc
Tâm.

599
- Con người thông qua tất cả các kịch bản tương tác
trong bốn hình tướng Đạo mà thực hành đời sống Kết từ
mạnh cho tới siêu mạnh: đó là thực hành đời sống bám định
vào giả tướng để rung lắc mạnh, hấp thụ mạnh, lấy về, chiếm
đoạt, cướp về, thỏa mãn, giết hại; đó là thực hành đời sống vi
phạm vào các quy tắc không được phép vi phạm trong bốn
hình tướng Đạo. Kết mạnh cho tới siêu mạnh trong tất cả các
kịch bản tương tác của bốn hình tướng Đạo chính là từ suy
nghĩ cho tới hành động thỏa mãn lợi ích ích kỷ của bản thân
mình mà gây tổn thương hoặc không màng tới lợi ích của con
người, vạn vật, Tuệ linh.
- Thực hành đời sống Kết mạnh cho tới siêu mạnh
trong bốn hình tướng Đạo sẽ khiến cho Trụ linh của Tâm sản
sinh ra vô số hạt năng lượng âm. Khi năng lượng âm được
sản sinh ra nhiều sẽ khiến cho năng lượng dương không
được sản sinh. Do nhiều năng lượng âm nên không liên kết
phát triển cấu trúc Tuệ linh trở nên bền vững, thay vào đó là
làm cho Tuệ linh bị đa hạt năng lượng âm ở các điểm hạt
năng lượng dương ít ỏi. Điều này khiến cho Tuệ linh nhanh
chóng bị năng lượng hoại diệt xâm nhập đồng hóa và hoại
diệt Tuệ linh.
Con người thực hiện đời sống với bản chất Định trong
bốn hình tướng Đạo:
- Định là cân bằng, là tĩnh lặng, là thanh lọc, là thấu
hiểu. Định có từ mức nhẹ cho tới Định ở mức cao. Định ở
mức nhẹ là không bộc phát độc Tâm cũng như không bộc
phát thiện Tâm. Định ở mức cao là gắn liền với việc kích hoạt
được tất cả thiện Tâm.
- Định ở mức nhẹ trong tương tác với tất cả các kịch
bản của bốn hình tướng Đạo là không vi phạm vào những
600
quy tắc không được phép vi phạm và không làm được các
quy tắc phải làm được trong bốn hình tướng Đạo. Đó là duy
trì trạng thái không muốn phiền não trong bất cứ các kịch
bản tương tác nào. Định ở mức nhẹ sẽ khiến cho cuộc đời trở
nên lãng phí vì chưa thấu hiểu cũng như chưa thực hành
chuyển sinh Trụ linh.
- Định ở mức cao trong tương tác với tất cả các kịch
bản của bốn hình tướng Đạo chính là gắn liền với bản chất
Tỏa. Đó là thấu hiểu, cân bằng, thanh lọc ở các cảnh giới cao
để thực hiện cơ chế chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng. Định ở mức cao là điều vô cùng cần thiết cho sự vận
hành của bộ lọc năng lượng.
Con người thực hiện đời sống với bản chất Tỏa trong
bốn hình tướng Đạo:
- Tỏa là tỏa nhiệt dương, tỏa sóng điện dương, đẩy
thông tin, truyền đi, cho đi, giúp đỡ, cứu giúp, cống hiến, hy
sinh vì vạn vật, Tuệ linh và con người.
- Con người thông qua tất cả các kịch bản tương tác
trong bốn hình tướng Đạo mà thực hiện đời sống với bản
chất Tỏa: đó là thực hiện đời sống cống hiến, cứu giúp, mang
lại lợi ích cho vạn vật, Tuệ linh, con người; đó là không vi
phạm vào bộ quy tắc không được phép vi phạm vào bốn hình
tướng Đạo và thực hiện được bộ quy tắc phải làm được trong
bốn hình tướng Đạo. Con người thực hiện đời sống với bản
chất Tỏa sẽ kích hoạt được tất cả thiện Tâm và kiểm soát
cũng như triệt tiêu được độc Tâm.
- Khi con người thực hiện đời sống với bản chất Tỏa
thông qua tất cả các kịch bản trong bốn hình tướng Đạo sẽ
khiến cho Trụ linh sản sinh ra vô số hạt năng lượng dương có
sóng điện dương siêu mạnh, vô số hạt năng lượng chân tâm,
601
vô số hạt năng lượng âm có sóng âm nhẹ. Sản sinh ra vô số
hạt năng lượng âm có sóng điện âm nhẹ, vì đó là kết quả của
việc giải mã, thấu hiểu sự thật của tất cả vạn vật, đặc biệt là
triệt tiêu được độc Tâm. Chính vì điều này đã tạo thành sự
phát triển cấu trúc liên kết hạt năng lượng trong Tuệ linh
theo hướng bền vững. Thực hiện đời sống Tỏa trong bốn
hình tướng Đạo sẽ giúp con người nhanh chóng chuyển hóa
được Trụ linh của Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng. Đó là
đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ.
Khi con người thông qua bốn hình tướng Đạo hợp nhất
ở nhân gian để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng,
từ Trụ linh của Tuệ linh sẽ tạo thành cơ chế liên kết hợp nhất
với toàn bộ 5 nhóm vật chất trong và ngoài Vũ trụ để vận
động, duy trì, phát triển Vũ trụ trở nên bền vững. Đó là Đạo
hợp nhất của Vũ trụ mà mỗi Tuệ linh cần phải đắc được. Do
đó, phải thông qua tu hành bốn hình tướng Đạo ở nhân gian
để đạt được điều đó.

III. Chân lý Vạn vật với các con đường chuyển


sinh của Đạo hợp nhất Vũ trụ
Chân lý Vạn vật trong Đạo hợp nhất của Vũ trụ sẽ là:
Đạo không tự sinh ra, Đạo không tự mất đi, khổ đau của Tâm
Đạo không tự đến và không tự đi, tất cả do duyên nghiệp hay
còn gọi là nhân quả. Cơ chế chuyển sinh của Đạo hợp nhất Vũ
trụ chính là cơ chế “Phân tách và liên kết dây”.
Chân lý Vạn vật chính là Quy luật Nhân quả, chính là
chữ Vô. Vô là tướng không. Tướng không là không bất tử,
không vĩnh cửu, không trường tồn. Nó chỉ tồn tại trong
khoảng thời gian nhất định rồi lại chuyển hóa sang tướng

602
khác do duyên. Do đó, Chân lý Vạn vật, Quy luật Nhân quả
được đúc kết thành chữ Duyên. Duyên chính là tướng không.
Thấu hiểu chữ Duyên thì ta sẽ thấu hiểu được quá khứ, hiện
tại và tương lai.
Vận hành Chân lý Vạn vật của Đạo Vũ trụ hợp nhất
chính là cơ chế phân tách và liên kết dây. Cơ chế phân tách và
liên kết sẽ được xảy ra trong môi trường có điều kiện. Đó là
môi trường có tương tác giữa các chỉnh thể, trong một quy
trình thời gian nhất định, môi trường có sóng điện âm hoặc
dương hoặc trung tính, có nhiệt lượng của năng lượng hoại
diệt được kích nổ hoặc chưa kích nổ. Dạng sống Tuệ linh và
tất cả các nhóm vật chất từ giản đơn cho tới phức tạp và siêu
vật chất để xảy ra phân tách và liên kết thì đều phải tồn tại
trong môi trường có điều kiện.
Khi chúng ta thấu hiểu hai Chân lý và các cơ chế vận
hành của hai Chân lý, chúng ta sẽ thấu hiểu và giải mã được
các con đường chuyển sinh của Đạo Vũ trụ hợp nhất.
Vì Đạo hợp nhất của Vũ trụ hợp nhất tại Tuệ linh, Tuệ
linh lại chính là Tâm của con người, nên để thấu hiểu được
các con đường chuyển sinh của Đạo Vũ trụ hợp nhất, chúng
ta phải thấu hiểu được các con đường chuyển sinh của Tuệ
linh (Tâm) thông qua thân tướng con người, từ đó sẽ chọn
lựa được con đường chuyển sinh bền vững duy nhất thông
qua Chân lý Giác ngộ.
Tuệ linh thông qua thân tướng con người đối với các
con đường chuyển sinh:

603
1. Tuệ linh thông qua thân tướng con người
thực hiện đời sống Kết đối với con đường
chuyển sinh
Kết mạnh cho tới rất mạnh và siêu mạnh là rung lắc
mạnh, thu hút mạnh, hấp thụ về, chiếm lấy, cướp lấy, thỏa
mãn, gây tổn thương, giết hại.
Khi các Tuệ linh thông qua thân tướng con người thực
hiện đời sống phân tách liên kết trong bản chất là Kết mạnh
cho tới rất mạnh và siêu mạnh, các sợi mã sóng trí tuệ có
sóng điện âm sẽ được phân tách ra vô số và lưu giữ ở Trụ
linh. Chúng sẽ phân tách thành các hạt năng lượng tận cùng
và liên kết lại tạo thành những hạt năng lượng âm tổng hợp
rồi phân tách ra cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng. Vì chỉ
thực hiện đời sống là Kết nên Trụ linh không phân tách các
hạt năng lượng dương ra để tạo thành cấu trúc liên kết chặt
chẽ và mở rộng. Tức là sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện
dương không được sinh ra để làm nhiệm vụ tạo thành hạt
năng lượng dương tận cùng rồi liên kết tạo thành hạt năng
lượng tổng hợp mở rộng bên ngoài Trụ linh. Trong khi đó các
hạt năng lượng âm được sinh ra nhiều mà không có hạt năng
lượng dương để cân bằng tỷ lệ 1:1. Khi đó, các hạt năng
lượng âm sẽ tập trung số đông tại các hạt năng lượng dương
ít ỏi. Các hạt năng lượng âm lại có bản chất là thu hút tín hiệu
bởi rung lắc nên khiến cho năng lượng hoại diệt bắt được tín
hiệu đó mà di chuyển tới với số lượng lớn. Khi năng lượng
hoại diệt di chuyển tới với số lượng lớn sẽ khiến cho cấu trúc
Trụ linh và Tuệ linh bắt đầu bị đồng hóa, bị phân rã. Kết cục
là Tuệ linh sẽ hoại diệt vĩnh viễn.

604
Như vậy, các Tuệ linh thông qua thân tướng con người
mà thực hiện cơ chế phân tách, liên kết với bản chất Kết
mạnh cho tới siêu mạnh chính là chọn lựa và đang đi trên
con đường chuyển sinh phân rã để hoại diệt vĩnh viễn.
Nguyên nhân hoại diệt của Tuệ linh thực hành đời
sống Kết mạnh cho tới siêu mạnh là do mất cân bằng trong
cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh. Khi
đó, lượng hạt năng lượng âm quá nhiều, năng lượng hoại diệt
tấn công vào gây phân rã. Khi năng lượng hoại diệt tấn công
vào, Trụ linh và Tuệ linh không có đủ số lượng và sức mạnh
của hạt năng lượng dương để phòng thủ, kích nổ năng lượng
hoại diệt, sẽ bị chuyển hóa thành năng lượng hoại diệt.
Khổ đau của Vũ trụ và Tuệ linh chính là sự phân rã và
hoại diệt. Do đó, nguyên nhân của khổ đau là do vạn vật và
Tuệ linh thực hiện cơ chế phân tách liên kết để thỏa mãn đời
sống là Kết. Khi Kết sẽ bị năng lượng hoại diệt tấn công gây
đứt liên kết mà hoại diệt.
Như vậy, năng lượng hoại diệt lại chi phối và thúc đẩy
cấu trúc Trụ linh và Tuệ linh thực hiện đời sống Kết để
nhanh bị hoại diệt hơn.

2. Tuệ linh thông qua thân tướng con người


thực hiện đời sống Định đối với con đường
chuyển sinh
Định là thực hiện đời sống không Kết cũng không Tỏa.
Định là duy trì sự an toàn, bảo vệ sự an lạc của Tướng đó.
Tuệ linh thông qua thân tướng con người thực hiện
đời sống với bản chất Định, tức là phân tách liên kết các sợi
mã sóng trí tuệ rất chậm và luôn trong bản chất cân bằng.
605
Khi đó, các hạt năng lượng âm và các hạt năng lượng dương
có sóng điện rất nhẹ. Các hạt năng lượng sóng điện âm nhẹ
không kích thích thu hút năng lượng hoại diệt, các hạt năng
lượng sóng điện dương nhẹ không có khả năng kích nổ năng
lượng hoại diệt nếu năng lượng hoại diệt tấn công.
Vì bản chất Tuệ linh thực hành đời sống Định nên tự
an lạc, thanh tịnh mà không bị năng lượng hoại diệt tấn công.
Tuy nhiên nếu Tuệ linh di chuyển vào nơi có năng lượng hoại
diệt thì cũng không chống lại được sự hoại diệt. Nếu duy trì
Định mãi thì nguy cơ hoại diệt là cao.
Nếu Tuệ linh thông qua thân tướng con người thực
hiện đời sống Định mà chuyển sinh thành thực hiện đời sống
Tỏa thì có khả năng kích nổ được năng lượng hoại diệt. Khi
đó, sẽ thực hiện được cơ chế phân tách, liên kết mạnh mẽ và
liên kết được với hết thảy các cấu trúc vật chất của Vũ trụ.

3. Tuệ linh thông qua thân tướng con người


thực hiện đời sống Tỏa đối với con đường
chuyển sinh
Tỏa là cho đi, vì vạn vật, Tuệ linh, con người mà không
màng về mình.
Khi các Tuệ linh thông qua thân tướng con người thực
hiện đời sống với bản chất là Tỏa, từ Trụ linh sẽ phân tách ra
vô số các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện dương. Trước
khi phân tách ra được các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện
dương thì cũng là quá trình phân tách ra các sợi mã sóng trí
tuệ mang sóng điện âm ở mức nhẹ. Các sợi mã sóng trí tuệ
mang sóng điện dương được phân tách ra nhiều sẽ giúp cho
các hạt năng lượng dương tận cùng được hình thành và tạo
606
thành cấu trúc năng lượng 16 hạt mở rộng bên ngoài Trụ
linh được mở rộng và lớn mạnh. Việc mở rộng liên kết của
các hạt năng lượng dương là có sợi dây liên kết mang sóng
điện trung tính với tính chất là bền chặt. Cấu trúc năng lượng
16 hạt mở rộng bên ngoài Trụ linh sẽ luôn có tỷ lệ vàng là
một hạt âm có sóng điện nhẹ rung lắc xung quanh một hạt
năng lượng dương. Ngoài ra, do thực hiện đời sống Tỏa, các
hạt năng lượng dương đã phân tách và lan tỏa khắp Vũ trụ,
tạo thành cơ chế liên kết 3 vùng: Từ Trụ linh tới đối tượng
đón nhận và trong Vũ trụ. Khi thực hiện đời sống Tỏa, cấu
trúc Trụ linh và Tuệ linh sẽ có khả năng kích nổ năng lượng
hoại diệt để tạo thành nhiệt lượng cho quá trình phân tách,
liên kết các hạt năng lượng dương và siêu hạt năng lượng
được mạnh mẽ và phát triển bền vững hơn. Các sợi mã sóng
trí tuệ có sóng điện âm nhẹ nên nó không kích thích nhiều
năng lượng hoại diệt di chuyển vào. Nó chỉ rung động vừa đủ
để năng lượng hoại diệt di chuyển ít cho tới vừa đủ.
Việc các Tuệ linh thực hiện đời sống Tỏa không những
là hướng chuyển sinh bền vững cho Tuệ linh. Nó còn giúp
cho Tuệ linh liên kết chặt chẽ đến với hết thảy các Tướng của
Vũ trụ theo cơ chế liên kết 3 vùng trong Quy luật Nhân quả.
Trong 3 đời sống của Tuệ linh thông qua thân tướng
con người ở trên, Tuệ linh thực hiện đời sống Tỏa là có con
đường chuyển sinh theo hướng bền vững nhất. Tuệ linh thực
hiện đời sống Kết là chuyển sinh theo hướng hoại diệt. Tuệ
linh thực hiện đời sống Định là sự cân bằng phải có cho tất cả
các Tuệ linh. Tuy nhiên, nếu Tuệ linh thông qua thân tướng
con người mà thực hiện đời sống riêng biệt theo 1 trong 3
đời sống trên trên thì sẽ khó khăn để đạt đến sự chuyển sinh
bền vững nhất. Bởi, để Tuệ linh thực hiện đời sống Tỏa được

607
phải có đời sống Kết vừa đủ và nhẹ. Tuệ linh thực hiện đời
sống Kết nhẹ để không hoại diệt phải biết thực hiện đời sống
Tỏa. Tuệ linh thực hiện đời sống Định để phát triển và tồn tại
thì cần phải thực hiện đời sống Kết nhẹ trước, sau đó thực
hiện đời sống Tỏa mạnh cho tới siêu mạnh.
Như vậy, Chân lý Vạn vật và cơ chế phân tách, liên kết
cho chúng ta thấu hiểu và thực hành đời sống hài hòa cả Kết
– Định – Tỏa mới đạt đến đích của chuyển sinh Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất. Kết mà không phải là
Kết mới tạo thành sức mạnh cực đại cho quá trình chuyển sinh
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất.

IV. Chân lý Giác ngộ đối với con đường chuyển


sinh bền vững duy nhất của Đạo hợp nhất Vũ
trụ
Chân lý Giác ngộ của Đạo hợp nhất Vũ trụ là: Đạo hợp
nhất của Vũ trụ là khổ. Tất cả Tuệ linh và con người phải dùng
Trụ linh thực hành Định (chân tâm) để đối mặt, thấu hiểu Kết
– Định – Tỏa của hết thảy Tướng trong và ngoài Vũ trụ, từ đó
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng Kết – Định – Tỏa.
Trong bản chất và Chân lý Vạn vật của Đạo hợp nhất
Vũ trụ đã cho hết thảy Tuệ linh, con người thấy rằng: Vũ trụ
và Tuệ linh bị biến đổi mã sóng trí tuệ dẫn tới phân rã hoại
diệt. Biến đổi là để đấu tranh cho quá trình tồn tại bền vững.
Phân rã hoại diệt là do năng lượng hoại diệt tấn công đồng
hóa mà bị phân rã, hoại diệt.
Do đó, Chân lý Giác ngộ cho hết thảy Tuệ linh và con
người thấy rằng: Vũ trụ và Tuệ linh là khổ. Chỉ có con đường
chuyển sinh bền vững duy nhất là phải thấu hiểu hết thảy Kết
608
– Định – Tỏa của hết thảy Tướng trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ
linh, từ đó thực hành chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng.
Để Tuệ linh thấu hiểu Đạo hợp nhất của Vũ trụ, thấu
hiểu Chân lý Vạn vật của Đạo hợp nhất Vũ trụ, thấu hiểu con
đường giác ngộ chuyển hóa Trụ linh, Tuệ linh phải luân hồi
xuống nhân gian để trải nghiệm nhiều kiếp tu hành trong
thân tướng con người. Khi xuống nhân gian phải sống trong
bốn hình tướng Đạo là Đạo đời, Đạo lễ, Đạo đường, Đạo Đế
vương. Bởi chỉ khi sống trong bốn hình tướng Đạo mới có độ
nén tột cùng bởi thân tướng vật chất và sự tương tác của tất
cả các nhóm vật chất và năng lượng hoại diệt trong tất cả các
kịch bản tương tác. Đó là quá trình để giúp Tuệ linh bộc phát
hết độc Tâm, tiếp đến là triệt tiêu độc Tâm và kích hoạt được
tất cả các thiện Tâm. Khi triệt tiêu hết độc Tâm và kích hoạt
được tất cả thiện Tâm trong tất cả các kịch bản tương tác sẽ
giúp cho Trụ linh đủ lượng sợi trí tuệ để chuyển hóa và cải
tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Sống trong bốn hình tướng Đạo và thực hành con
đường Tâm Đạo chính là sống đời sống tôn nghiêm tới cội
nguồn Vũ trụ trong sự bình đẳng tu hành cải tạo Trụ linh
theo cơ chế vận hành của Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác
ngộ.
Cơ chế vận hành của Chân lý Giác ngộ là phân tách và
liên kết dây. Cơ chế phân tách, liên kết dây cho thấy có hai
con đường phân tách và liên kết. Đó là:
- Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt năng
lượng âm, đó là Kết. Nếu đi theo con đường này, hết thảy Tuệ
linh và Vũ trụ sẽ phân rã và hoại diệt. Đây là con đường
chuyển sinh phân rã và hoại diệt.
609
- Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt năng
lượng dương, đó là Tỏa. Nếu đi theo con đường này, hết thảy
Tuệ linh và Vũ trụ sẽ phân tách, liên kết vô lượng hạt năng
lượng dương có liên kết chặt chẽ bởi sợi chân tâm, sẽ là con
đường chuyển sinh bền vững nhất.
Từ bản chất của Đạo hợp nhất Vũ trụ, từ Chân lý Vạn
vật, Chân lý Giác ngộ với cơ chế vận hành là phân tách và liên
kết dây, hết thảy Tuệ linh và con người đều thấy rằng: Con
đường duy nhất để vượt qua khổ đau (hoại diệt cấu trúc
năng lượng) để trở nên bền vững, an lạc là đắc được bộ lọc
năng lượng trong Trụ linh chính là con đường Tỏa. Tỏa là
con đường mà hết thảy Tuệ linh, con người phải thực hiện
nếu muốn diệt khổ để chuyển sinh thành bộ lọc năng lượng.
Thực hiện con đường Tỏa để chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng không phải là Tỏa một cách tiêu cực.
Vậy Tỏa làm sao để an lạc, để chuyển hóa Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng? Đó là:
- Trụ linh phải tập trung sóng điện ở vị trí Định. Định
là chân tâm, là tĩnh lặng, là cân bằng, là an lạc. Vị trí Định sẽ
được nâng cao từ Định ban đầu cho tới các cảnh giới tối cao
của Định. Đó là Chân tâm sáng chói lòa vô lượng. Khi Trụ linh
đứng ở vị trí Định sẽ thấu hiểu, biết lắng nghe, biết nhìn – soi
lại bản thể Trụ linh mình, biết tiếp nhận, biết cảm thông, biết
sẻ chia.
- Tiếp theo Trụ linh phải dùng sóng điện âm để Kết.
Kết ở đây không phải là có tư tưởng cho tới hành động tiêu
cực gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh, con người. Kết ở đây chỉ
là rung động khi đứng ở vị trí Định. Tức là Trụ linh đứng ở vị
trí Định để lắng nghe, đón nhận những khổ đau kiếp nạn,
hạnh phúc an vui, những sẻ chia của vạn vật, chúng sinh, Tuệ
610
linh, con người. Bởi khi các Tướng khổ đau chia sẻ tới Trụ
linh của ta, những chia sẻ bởi khổ đau, khổ đau bởi u mê nên
trong Trụ linh họ sẽ phân tách ra các hạt năng lượng tiêu cực
sóng điện âm nhẹ màu xám, cho tới mạnh là màu đen và đỏ
máu. Do cơ chế phân tách theo Quy luật Nhân quả sẽ phân
tách ra làm 3 vùng, đó là trong Trụ linh họ 1 hạt, phân tách
vào Vũ trụ 1 hạt, người nghe đón nhận 1 hạt. Do Trụ linh của
ta đứng ở vị trí Định để dùng Kết là rung động, để lắng nghe,
để hút về, để đón nhận, khi đó, hạt năng lượng âm màu xám,
màu đen, màu đỏ máu của họ được Trụ linh của ta hấp thụ.
Do Trụ linh ta đứng ở vị trí Định nên Trụ linh đang tỏa sóng
điện chân tâm trắng sáng. Trắng sáng của chân tâm sẽ
chuyển hóa hạt năng lượng âm màu xám, màu đen, màu đỏ
máu của cấu trúc Trụ linh đang sẻ chia thành màu trắng xám
nhẹ. Như vậy, Trụ linh của ta đã Kết được hạt năng lượng
sóng điện âm của hết thảy các Tướng về và dùng năng lượng
chân tâm trắng sáng chói lòa chuyển hóa nó thành hạt năng
lượng âm sóng điện rất nhẹ. Như thế sẽ không kích động
mạnh tới năng lượng hoại diệt, năng lượng hoại diệt sẽ
không di chuyển nhiều vào Trụ linh của ta. Đồng thời, Trụ
linh cũng hấp thụ được những năng lượng dương, chân tâm
từ môi trường tương tác về để tạo thành nhiệt dương cho
Trụ linh kích nổ năng lượng hoại diệt. Đây chính là Kết mà
không phải là Kết. Đây là nghệ thuật chuyển hóa hạt năng
lượng của hết thảy cấu trúc Trụ linh đau khổ cũng như an vui
hạnh phúc trong toàn bộ Vũ trụ.
- Tiếp đến Trụ linh của ta lại Định. Định ở đây là sau
khi đã đón nhận những sẻ chia, tức là Kết được năng lượng
tiêu cực, tích cực về Trụ linh, Trụ linh của ta tiếp tục Định để
cân bằng ở cảnh giới chân tâm cao hơn. Đó là giải mã tận

611
cùng khổ đau kiếp nạn, hạnh phúc an vui của hết thảy các
Tướng, trong khi Trụ linh và Trí tuệ của ta vẫn Định. Bởi chỉ
khi Định thì Trụ linh của ta mới chuyển hóa thành Tỏa ra vô
lượng hạt năng lượng có sóng điện dương.
- Cuối cùng là Tỏa. Khi đã trải qua quá trình Định rồi
Kết, lại Định rồi đến cuối cùng là Tỏa. Tỏa ở đây chính là Trụ
linh của ta sẻ chia con đường diệt khổ, về cội nguồn, về kế
hoạch tu hành, về sứ mệnh, về trách nhiệm, về cơ chế và
phương pháp chuyển sinh bền vững an lạc, về khuôn mẫu
đạo đức và con đường giác ngộ trong bốn hình tướng Đạo.
Đó là chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi Trụ
linh ta làm đúng quy trình như vậy, từ Trụ linh của ta sẽ Tỏa
ra vô số các siêu hạt năng lượng vào 3 vùng. Đó là trong Trụ
linh của ta sẽ lưu giữ, trong Vũ trụ cũng lưu giữ và trong đối
tượng Tướng được nghe ta sẻ chia cũng lưu giữ. Khi ta Tỏa
sẽ tạo thành liên kết 3 vùng rất bền chặt. Không những vậy,
Trụ linh và cấu trúc Tướng của ta sẽ trở nên phát triển bền
vững.
Khi cấu trúc Trụ linh của ta thực hiện quy trình Kết –
Định – Tỏa thành bản năng sau khi đã triệt tiêu được hết độc
Tâm và kích hoạt được hết thiện Tâm, thực hành trong thời
gian dài và tới được nhiều cho tới vô số Tuệ linh, con người,
Trụ linh của ta sẽ chuyển hóa thành bộ lọc.
Nếu Trụ linh lựa chọn con đường chỉ Kết thì sẽ hoại
diệt. Nếu Trụ linh lựa chọn con đường chỉ Định thì nguy cơ
hoại diệt cao. Nếu Trụ linh chỉ lựa chọn con đường Tỏa thì
tuy không có nguy cơ hoại diệt cao nhưng cơ hội và tốc độ để
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng là mất nhiều
thời gian, không biết khi nào sẽ đạt được. Nhưng, khi thực
hiện kết hợp theo quy trình đứng ở vị trí Định để thực hành

612
Kết – Định – Tỏa sẽ là quy trình siêu tốc độ để chuyển sinh
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi có được bộ lọc năng
lượng thì Tuệ linh (Tâm) đã chấm dứt vĩnh viễn khổ đau.
Như vậy, để chuyển sinh Trụ linh của Tuệ linh thành
bộ lọc năng lượng, Tuệ linh phải sống trong môi trường
tương tác khắc nghiệt bởi đau khổ của bốn hình tướng Đạo
để bộc phát hết độc và thiện trong Trụ linh, từ đó thấu hiểu
Đạo Vũ trụ và chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Tiếp đến, Tuệ linh thông qua thân tướng con người phải
đứng ở vị trí Định để thực hành Kết – Định – Tỏa trong bốn
hình tướng Đạo ở nhân gian. Đây là con đường duy nhất, là
bài thuốc duy nhất để giúp Tuệ linh chuyển hóa Trụ linh của
chính Tuệ linh không bị phân rã hoại diệt do năng lượng hoại
diệt tác động. Ngược lại, Tuệ linh sẽ nhanh chóng chuyển
sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn nhất. Khi
Tuệ linh chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên
mãn cũng là sản sinh ra các siêu hạt năng lượng để bảo vệ,
phát triển vạn vật trong và ngoài Vũ trụ trở nên bền vững.
Đạo Vô Đạo chính là thông qua Chân lý Vạn vật, Chân
lý Giác ngộ với cơ chế vận hành là phân tách và liên kết dây
để thấu hiểu sự thật của tất cả các nhóm vật chất trong và
ngoài Vũ trụ, đặc biệt là Tuệ linh. Từ đó, xây dựng thành Đạo
của Vũ trụ hợp nhất, thống nhất vĩ đại giúp cho hết thảy Tuệ
linh, con người trong Vũ trụ thực hành chuyển sinh Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng để bảo vệ, phát triển Vũ trụ bền
vững.
***************

613
614
Bài 6:
Bài Tuệ


Bài Tuệ được hiểu là Tuệ Vô Tuệ.


Bài Tuệ Vô Tuệ được kết cấu thành 3 phần. Chữ Tuệ
đầu tiên là khái niệm và bản chất của các cấu trúc Tuệ. Chữ
Vô là Chân lý Vạn vật với các con đường chuyển sinh của các
cấu trúc Tuệ. Chữ Tuệ cuối cùng là Chân lý Giác ngộ với con
đường chuyển sinh bền vững duy nhất cho các cấu trúc Tuệ.
Trong bài Tuệ này, mức độ cải tạo Trụ linh và Vũ trụ
quan xung quanh của Tuệ linh sẽ được phân tích, soi sáng,
phơi bày sự thật bằng hai Chân lý. Đặc biệt, con người là hóa
thân của dạng sống Tuệ linh. Do đó, ngoài việc phân tích, soi
sáng, phơi bày sự thật về mức độ cải tạo của Tuệ linh, hai
Chân lý sẽ giúp cho con người nhận biết được mức độ cải tạo
Trụ linh của chính mình.

I. Khái niệm về Tuệ


Tuệ là mức độ Kết – Định – Tỏa tới tất cả vạn vật trong
và ngoài Vũ trụ của Tuệ linh, con người bằng Trụ linh.
Mức độ Kết – Định – Tỏa chính là mức độ cải tạo Trụ
linh và Vũ trụ quan xung quanh của Tuệ linh và con người.

II. Bản chất của Tuệ


Cấu trúc Tuệ chính là cấu trúc Trụ linh của các Tuệ
linh, con người đã và đang thực hành đời sống Kết – Định –

615
Tỏa từ Trụ linh tới tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ
linh, con người.
Con người vừa là hóa thân của dạng sống Tuệ linh, vừa
là hóa thân của linh hồn muông thú được chuyển sinh thành.
Do đó, khi gọi là con người thì bao gồm cả Tuệ linh và linh
hồn đang an trụ bên trong thân tướng.
Các Tuệ linh, con người thực hành đời sống Kết – Định
– Tỏa từ Trụ linh tới vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh,
con người, sẽ cho ta thấy có hai con đường chuyển sinh: Một
là con đường chuyển sinh theo hướng phân rã và hoại diệt;
hai là con đường chuyển sinh theo hướng an lạc và bền vững.
Trên mỗi con đường chuyển sinh của Tuệ linh, con
người, Tuệ linh và con người sẽ thấy được các mức độ Kết –
Định – Tỏa khác nhau từ các cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh và
con người.

1. Mức độ Kết – Định – Tỏa của Tuệ linh, con


người theo con đường chuyển sinh phân rã và
hoại diệt
Khi Tuệ linh chưa hóa thân xuống nhân gian tu hành,
khi Tuệ linh và linh hồn đã và đang an trụ trong thân tướng
con người và muông thú để tu hành, tất cả đều phải vận động
xây dựng, cải tạo môi trường sống trong Vũ trụ. Tuệ linh còn
nhỏ và chưa an trụ làm thân tướng tu hành ở nhân gian thì
mức độ Kết – Định – Tỏa từ Trụ linh sẽ yếu. Tuệ linh, linh
hồn đã và đang an trụ trong thân tướng ở nhân gian, trải qua
nhiều cho tới vô số kiếp tu hành sẽ khiến cho cấu trúc Trụ
linh Kết – Định – Tỏa ở mức mạnh cho tới rất mạnh và siêu
mạnh.
616
Có 4 mức độ Kết – Định – Tỏa của Tuệ linh, con người
theo con đường chuyển sinh phân rã và hoại diệt. Đó là mức
độ nhẹ, mức độ mạnh, mức độ rất mạnh, mức độ siêu mạnh.
Đây là 4 mức độ của sự phá hoại Vũ trụ quan xung quanh và
của chính Tuệ linh, con người.

1.1. Mức độ Kết – Định – Tỏa theo hướng phân


rã và hoại diệt nhẹ
Tuệ linh, con người có Trụ linh thực hành đời sống Kết
– Định – Tỏa ở mức độ phân rã và hoại diệt nhẹ. Đó là:
- Trụ linh không thực hành đời sống Tỏa.
- Trụ linh đang thực hiện đời sống Định trong môi
trường có nhiều sóng điện âm (tiêu cực). Quá trình tương tác
trong môi trường có sóng điện âm đã khiến cho Trụ linh của
Tuệ linh, con người bị nhiễm sóng điện âm, bị giải mã sai về
sự thật của vạn vật.
- Do giải mã sai về sự thật của vạn vật, Trụ linh bắt đầu
thực tập, thực hành đời sống với bản chất là Kết.
Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người có mức độ
Kết – Định – Tỏa theo hướng phân rã và hoại diệt nhẹ là:
- Ban đầu, Tuệ linh, con người có cấu trúc Trụ linh cân
bằng sóng điện âm và dương, tức là trong Trụ linh gốc và hai
thái cực năng lượng âm và dương có sóng điện âm nhẹ và
dương nhẹ. Cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài
Trụ linh cân bằng theo tỷ lệ một hạt năng lượng âm có sóng
điện nhẹ rung lắc xung quanh một hạt năng lượng dương có
sóng điện nhẹ. Hạt năng lượng âm màu trắng xám, hạt năng
lượng dương màu trắng sữa.

617
Hình: Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người
phân rã ở mức nhẹ
- Do Tuệ linh, con người tương tác trong môi trường
có sóng điện âm, môi trường tiêu cực, Trụ linh của Tuệ linh,
con người giải mã sai về sự thật của vạn vật. Do đó, Trụ linh
đã phân tách ra các hạt năng lượng âm có sóng điện âm nhẹ
và không phân tách ra các hạt năng lượng dương. Những hạt
năng lượng âm có sóng điện âm nhẹ là kết quả của những tư

618
tưởng cho đến hành động ở mức u mê nhẹ. Đó là mức độ gây
tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh, con người còn hạn chế.
- Khi các hạt năng lượng âm được phân tách ra nhiều,
trong khi đó các hạt năng lượng dương không được phân
tách ra đã làm cho cấu trúc Trụ linh bị đa âm nhẹ. Đó là có
nhiều hạt năng lượng âm rung lắc xung quanh mỗi một hạt
năng lượng dương trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng
bên ngoài Trụ linh. Các hạt năng lượng âm có màu trắng xám,
các hạt năng lượng dương có màu trắng sữa.
- Khi Trụ linh đa âm nhẹ, các hạt năng lượng âm rung
lắc nhiều làm cho năng lượng hoại diệt di chuyển vào gây
phân rã cấu trúc Trụ linh và Tuệ linh, con người ở mức nhẹ.
Tuệ linh, con người có cấu trúc Trụ linh phân rã nhẹ sẽ
dễ dàng chuyển sinh thành cấu trúc Trụ linh phân rã mạnh
hơn và nhanh hoại diệt hơn.
Tuệ linh, con người có mức độ Kết – Định – Tỏa theo
hướng phân rã và hoại diệt nhẹ, đó là những Tuệ linh, con
người thực hành đời sống u mê nhẹ. Đó là do không hiểu biết
sự thật về vạn vật nên dễ dàng nhiễm những tư tưởng, sóng
điện âm từ môi trường tiêu cực để rồi hưởng ứng, cùng nhau
củng cố sự u mê của các cấu trúc Tuệ linh, con người khác
cũng đang phân rã.

1.2. Mức độ Kết – Định – Tỏa theo hướng phân


rã và hoại diệt mạnh
Tuệ linh, con người có Trụ linh thực hành đời sống Kết
– Định – Tỏa ở mức độ phân rã và hoại diệt mạnh. Đó là:
- Trụ linh không thực hành đời sống Tỏa.
- Trụ linh không thực hành đời sống Định.
619
- Trụ linh thực hành đời sống Kết ở mức mạnh, đó là
Tuệ linh, con người thực hành đời sống có trí tuệ u mê, tiêu
cực từ tư tưởng cho tới hành động nhằm thỏa mãn lợi ích về
bản thể mình. Tuy chưa tạo thành những hành động gây thiệt
hại đến vạn vật và Tuệ linh, con người ngay lập tức, nhưng
những hành động u mê, lan tỏa u mê, phát triển u mê, đoàn
kết u mê đã khiến cho Trụ linh thực hành Kết ở mức mạnh.
Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người có mức độ
Kết – Định – Tỏa theo hướng phân rã và hoại diệt mạnh là:
- Trụ linh gốc ban đầu của Tuệ linh, con người khi
được hình thành có cấu trúc như sau:
+ Hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện mạnh màu
xám kết hợp với hạt năng lượng dương tận cùng có sóng điện
nhẹ màu trắng sữa, tạo thành Trụ linh đa âm mạnh.
+ Hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện mạnh màu
xám kết hợp với hạt năng lượng dương tận cùng có sóng điện
mạnh màu xanh lá (hạt năng lượng dương phát triển), tạo
thành Trụ linh đa âm mạnh.
+ Hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện mạnh màu
xám kết hợp với hạt năng lượng dương tận cùng có sóng điện
rất mạnh màu đỏ lửa (hạt năng lượng dương lan tỏa), tạo
thành Trụ linh đa âm mạnh.
+ Hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện mạnh màu
xám kết hợp với hạt năng lượng dương tận cùng có sóng điện
siêu mạnh màu vàng (hạt năng lượng dương đoàn kết), tạo
thành Trụ linh đa âm mạnh.

620
Hình: Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người
phân rã ở mức mạnh
- Ban đầu, Trụ linh với cấu trúc 16 hạt năng lượng mở
rộng bên ngoài Trụ linh đều có cấu trúc cân bằng là một hạt
năng lượng âm rung lắc xung quanh một hạt năng lượng
dương. Khi đó, màu của hạt năng lượng âm là màu xám, màu
của hạt năng lượng dương vẫn là màu xanh lá, hoặc màu
vàng, hoặc màu đỏ lửa, hoặc màu trắng sữa. Những hạt năng
lượng dương vẫn có màu và sóng điện giống như hạt năng

621
lượng dương ban đầu hợp thành Trụ linh gốc của Tuệ linh,
con người.
- Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người ở mức Kết
nhẹ chuyển sinh thành Kết mạnh sau quá trình thực hành
đời sống Kết trong môi trường có sóng điện âm tiêu cực.
- Do Tuệ linh, con người tương tác trong môi trường
có sóng điện âm. Trụ linh lại đa âm mạnh, nên Tuệ linh, con
người thực hành đời sống Kết mạnh. Khi thực hành đời sống
Kết mạnh, Trụ linh đã phân tách ra nhiều hạt năng lượng âm
mà không phân tách ra các hạt năng lượng dương. Khi đó,
cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh bị đa
âm mạnh. Tức là mỗi một hạt năng lượng dương có nhiều hạt
năng lượng âm rung lắc xung quanh. Do không có các hạt
năng lượng dương được phân tách ra, nên các hạt năng
lượng âm không tạo được cân bằng theo tỷ lệ một hạt âm
rung lắc xung quanh một hạt năng lượng dương.
- Quá trình Trụ linh đa âm đã làm cho sóng điện trong
các hạt năng lượng dương bị chuyển hóa từ sóng điện dương
siêu mạnh trở thành sóng điện dương nhẹ. Đó là, màu xanh
lá, màu vàng, màu đỏ lửa, màu trắng sữa của hạt năng lượng
dương bị chuyển về thành màu trắng trong. Các hạt năng
lượng âm có màu xám, các hạt năng lượng dương có màu
trắng trong. Nếu cứ thực hành đời sống Kết, các hạt năng
lượng âm sẽ chuyển sang màu đen và màu đỏ máu, hạt năng
lượng dương sẽ không còn.
- Khi Trụ linh đa âm mạnh, các hạt năng lượng âm
rung lắc nhiều làm cho năng lượng hoại diệt di chuyển vào
gây phân rã cấu trúc Trụ linh và Tuệ linh, con người ở mức
mạnh.

622
Tuệ linh, con người có cấu trúc Trụ linh phân rã mạnh
sẽ dễ dàng chuyển sinh thành cấu trúc Trụ linh phân rã rất
mạnh và nhanh hoại diệt hơn.
Tuệ linh, con người có mức độ Kết – Định – Tỏa theo
hướng phân rã và hoại diệt mạnh, đó là những Tuệ linh, con
người thực hành đời sống với tư tưởng u mê lợi ích về mình
mà gây tổn hại tới vạn vật và Tuệ linh, con người. Họ bảo vệ,
phát triển, đoàn kết tư tưởng u mê đó.

1.3. Mức độ Kết – Định – Tỏa theo hướng phân


rã và hoại diệt rất mạnh
Tuệ linh, con người có Trụ linh thực hành đời sống Kết
– Định – Tỏa ở mức độ phân rã và hoại diệt rất mạnh. Đó là:
- Trụ linh không thực hành đời sống Tỏa.
- Trụ linh không thực hành đời sống Định.
- Trụ linh thực hành đời sống Kết ở mức rất mạnh: đó
là Tuệ linh, con người thực hành đời sống có trí tuệ từ u mê
cho tới hành động thỏa mãn ích kỷ về mình mà gây tổn hại
tới vạn vật và Tuệ linh, con người; đó là những hành động ác
nghiệp gây tổn hại tới vạn vật và Tuệ linh, con người.
Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người có mức độ
Kết – Định – Tỏa theo hướng phân rã và hoại diệt rất mạnh
là:
- Trụ linh gốc ban đầu của Tuệ linh, con người khi
được hình thành có cấu trúc như sau:
+ Hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện rất mạnh
màu đen kết hợp với hạt năng lượng dương tận cùng có sóng
điện nhẹ màu trắng sữa, tạo thành Trụ linh đa âm rất mạnh.

623
+ Hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện rất mạnh
màu đen kết hợp với hạt năng lượng dương tận cùng có sóng
điện mạnh màu xanh lá (hạt năng lượng dương phát triển),
tạo thành Trụ linh đa âm rất mạnh.
+ Hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện rất mạnh
màu đen kết hợp với hạt năng lượng dương tận cùng có sóng
điện rất mạnh màu đỏ lửa (hạt năng lượng dương lan tỏa),
tạo thành Trụ linh đa âm rất mạnh.
+ Hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện rất mạnh
màu đen kết hợp với hạt năng lượng dương tận cùng có sóng
điện siêu mạnh màu vàng (hạt năng lượng dương đoàn kết),
tạo thành Trụ linh đa âm rất mạnh.
- Ban đầu, Trụ linh với cấu trúc 16 hạt năng lượng mở
rộng bên ngoài Trụ linh đều có cấu trúc cân bằng là một hạt
năng lượng âm rung lắc xung quanh một hạt năng lượng
dương. Khi đó, màu của hạt năng lượng âm là màu đen, màu
của hạt năng lượng dương vẫn là màu xanh lá, hoặc màu
vàng, hoặc màu đỏ lửa, hoặc màu trắng sữa. Những hạt năng
lượng dương vẫn có màu và sóng điện giống như hạt năng
lượng dương ban đầu hợp thành Trụ linh gốc của Tuệ linh,
con người.
- Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người ở mức Kết
mạnh chuyển sinh thành Kết rất mạnh sau quá trình thực
hành đời sống Kết trong môi trường có sóng điện âm.
- Do Tuệ linh, con người tương tác trong môi trường
có sóng điện âm, Trụ linh lại đa âm rất mạnh, nên Tuệ linh,
con người thực hành đời sống Kết rất mạnh. Khi thực hành
đời sống Kết, Trụ linh đã phân tách ra nhiều hạt năng lượng
âm mà không phân tách ra các hạt năng lượng dương. Khi đó,
cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh bị đa
624
âm rất mạnh. Tức là mỗi một hạt năng lượng dương có nhiều
hạt năng lượng âm rung lắc xung quanh. Do không có các hạt
năng lượng dương được phân tách ra, nên các hạt năng
lượng âm không tạo được cân bằng theo tỷ lệ một hạt âm
rung lắc xung quanh một hạt dương.

Hình: Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người
phân rã ở mức rất mạnh
- Quá trình Trụ linh đa âm rất mạnh đã làm cho sóng
điện trong các hạt năng lượng dương bị chuyển hóa từ sóng
625
điện dương siêu mạnh trở thành sóng điện dương nhẹ. Đó là,
màu xanh lá, màu vàng, màu đỏ lửa, màu trắng sữa của hạt
năng lượng dương bị chuyển về thành màu trắng trong. Các
hạt năng lượng âm có màu đen, các hạt năng lượng dương có
màu trắng trong. Nếu cứ thực hành đời sống Kết, các hạt
năng lượng âm sẽ chuyển sang màu đỏ máu, hạt năng lượng
dương sẽ không còn.
- Khi Trụ linh đa âm rất mạnh, các hạt năng lượng âm
rung lắc nhiều làm cho năng lượng hoại diệt di chuyển vào
gây phân rã cấu trúc Trụ linh và Tuệ linh, con người ở mức
rất mạnh.
Tuệ linh, con người có cấu trúc Trụ linh phân rã rất
mạnh sẽ dễ dàng chuyển sinh thành cấu trúc Trụ linh phân rã
siêu mạnh và nhanh hoại diệt hơn.
Tuệ linh, con người có mức độ Kết – Định – Tỏa theo
hướng phân rã và hoại diệt rất mạnh, đó là những Tuệ linh,
con người thực hành đời sống thỏa mãn ích kỷ của mình mà
gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh, con người, đó là cướp bóc,
chiếm đoạt, giết hại, tà dâm, sát sinh, hãm hại…, là những
hành động vi phạm vào quy tắc không được phép vi phạm
của bốn hình tướng Đạo.

1.4. Mức độ Kết – Định – Tỏa theo hướng phân


rã và hoại diệt siêu mạnh
Tuệ linh, con người có Trụ linh thực hành đời sống Kết
– Định – Tỏa ở mức độ phân rã và hoại diệt siêu mạnh. Đó là:
- Trụ linh không thực hành đời sống Tỏa.
- Trụ linh không thực hành đời sống Định.

626
- Trụ linh thực hành đời sống Kết ở mức siêu mạnh, đó
là Tuệ linh, con người thực hành đời sống có trí tuệ đại hệ tư
tưởng u mê và đại hành động gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh
và con người.
Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người có mức độ
Kết – Định – Tỏa theo hướng phân rã và hoại diệt siêu mạnh
là:
- Trụ linh gốc ban đầu của Tuệ linh, con người khi
được hình thành có cấu trúc như sau:
+ Hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện siêu mạnh
màu đỏ máu kết hợp với hạt năng lượng dương tận cùng có
sóng điện nhẹ màu trắng sữa, tạo thành Trụ linh đa âm siêu
mạnh.
+ Hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện siêu mạnh
màu đỏ máu kết hợp với hạt năng lượng dương tận cùng có
sóng điện mạnh màu xanh lá (hạt năng lượng dương phát
triển), tạo thành Trụ linh đa âm siêu mạnh.
+ Hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện siêu mạnh
màu đỏ máu kết hợp với hạt năng lượng dương tận cùng có
sóng điện rất mạnh màu đỏ lửa (hạt năng lượng dương lan
tỏa), tạo thành Trụ linh đa âm siêu mạnh.
+ Hạt năng lượng âm tận cùng có sóng điện siêu mạnh
màu đỏ máu kết hợp với hạt năng lượng dương tận cùng có
sóng điện siêu mạnh màu vàng (hạt năng lượng dương đoàn
kết), tạo thành Trụ linh đa âm siêu mạnh.
- Ban đầu, Trụ linh với cấu trúc 16 hạt năng lượng mở
rộng bên ngoài Trụ linh đều có cấu trúc cân bằng là một hạt
năng lượng âm rung lắc xung quanh một hạt năng lượng
dương. Khi đó, màu của hạt năng lượng âm là màu đỏ máu,

627
màu của hạt năng lượng dương vẫn là màu xanh lá, hoặc màu
vàng, hoặc màu đỏ lửa, hoặc màu trắng sữa. Những hạt năng
lượng dương vẫn có màu và sóng điện giống như hạt năng
lượng dương ban đầu hợp thành Trụ linh gốc của Tuệ linh,
con người.
- Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người ở mức Kết
rất mạnh chuyển sinh thành Kết siêu mạnh sau quá trình
thực hành đời sống Kết trong môi trường có sóng điện âm.
- Do Tuệ linh, con người tương tác trong môi trường
có sóng điện âm, Trụ linh lại đa âm siêu mạnh, nên Tuệ linh,
con người thực hành đời sống Kết siêu mạnh. Khi thực hành
đời sống Kết, Trụ linh đã phân tách ra nhiều hạt năng lượng
âm mà không phân tách ra các hạt năng lượng dương. Khi đó,
cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh bị đa
âm siêu mạnh. Tức là mỗi một hạt năng lượng dương có
nhiều hạt năng lượng âm rung lắc xung quanh. Do không có
các hạt năng lượng dương được phân tách ra, nên các hạt
năng lượng âm không tạo được cân bằng theo tỷ lệ một hạt
âm rung lắc xung quanh một hạt dương.
- Quá trình Trụ linh đa âm siêu mạnh đã làm cho sóng
điện trong các hạt năng lượng dương bị chuyển hóa từ sóng
điện dương siêu mạnh trở thành sóng điện dương nhẹ. Đó là,
màu xanh lá, màu vàng, màu đỏ lửa, màu trắng sữa của hạt
năng lượng dương bị chuyển về thành màu trắng trong. Các
hạt năng lượng âm có màu đỏ máu, các hạt năng lượng
dương có màu trắng trong. Nếu cứ thực hành đời sống Kết,
tất cả Trụ linh và Tuệ linh, con người sẽ hoại diệt vĩnh viễn.

628
Hình: Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người
phân rã ở mức siêu mạnh
- Khi Trụ linh đa âm siêu mạnh, các hạt năng lượng âm
rung lắc nhiều làm cho năng lượng hoại diệt di chuyển vào
gây phân rã cấu trúc Trụ linh và Tuệ linh, con người ở mức
siêu mạnh.
Tuệ linh, con người có cấu trúc Trụ linh phân rã siêu
mạnh sẽ dễ dàng bị hoại diệt nhanh nhất. Bởi khi đang bị
phân rã siêu mạnh chính là trong bản thể cấu trúc Tuệ linh,
629
con người đã có quá nhiều hạt năng lượng hoại diệt an trụ
làm cho đứt liên kết Tuệ linh, con người. Quá trình đứt liên
kết chính là quá trình năng lượng hoại diệt đang đồng hóa,
truyền tải sóng điện dư thừa của năng lượng hoại diệt sang
cấu trúc Tuệ linh, con người. Kết quả cuối cùng là sự hoại
diệt vĩnh viễn của Tuệ linh, con người.
Tuệ linh, con người có mức độ Kết – Định – Tỏa theo
hướng phân rã và hoại diệt siêu mạnh, đó là những Tuệ linh,
con người thực hành đời sống phát triển, lan tỏa, đoàn kết
đại hệ tư tưởng cho tới đại hành động u mê tiêu cực gây tổn
hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người để thỏa mãn ích kỷ về
mình.
Như vậy, mức độ Kết – Định – Tỏa của Tuệ linh, con
người theo con đường chuyển sinh phân rã và hoại diệt
chính là từ Kết ở mức nhẹ cho tới siêu mạnh. Khi đạt tới siêu
mạnh thì chính là thời khắc cận kề sự hoại diệt vĩnh viễn.
Trong Vũ trụ đã có vô số Tuệ linh bị hoại diệt vĩnh viễn do bị
năng lượng hoại diệt làm phân rã và hoại diệt.

2. Mức độ Kết – Định – Tỏa của Tuệ linh, con


người theo con đường chuyển sinh bền vững và
an lạc
Khi Tuệ linh chưa hóa thân xuống nhân gian tu hành,
khi Tuệ linh và linh hồn đã và đang an trụ trong thân tướng
con người và muông thú để tu hành, tất cả đều phải vận động
xây dựng, cải tạo môi trường sống trong Vũ trụ. Tuệ linh còn
nhỏ và chưa an trụ làm thân tướng tu hành ở nhân gian thì
mức độ Kết – Định – Tỏa từ Trụ linh sẽ yếu. Tuệ linh, linh
hồn đã và đang an trụ trong thân tướng ở nhân gian, trải qua

630
nhiều cho tới vô số kiếp tu hành sẽ khiến cho cấu trúc Trụ
linh Kết – Định – Tỏa ở mức mạnh cho tới rất mạnh và siêu
mạnh và trên cả siêu mạnh.
Có 6 mức độ Kết – Định – Tỏa của Tuệ linh, con người
theo con đường chuyển sinh bền vững và an lạc. Đó là mức
độ nhẹ, mức độ mạnh, mức độ rất mạnh, mức độ siêu mạnh,
mức độ của bộ lọc năng lượng đơn, mức độ của bộ lọc năng
lượng kép. Đây là 6 mức độ cải tạo, phát triển Vũ trụ quan
xung quanh và của chính Tuệ linh, con người.

2.1. Mức độ Kết – Định – Tỏa theo hướng bền


vững và an lạc nhẹ
Tuệ linh, con người có Trụ linh thực hành đời sống Kết
– Định – Tỏa ở mức độ bền vững và an lạc nhẹ. Đó là:
- Trụ linh không thực hành đời sống Kết.
- Trụ linh đang thực hiện đời sống Định trong môi
trường có nhiều sóng điện dương tích cực. Quá trình tương
tác trong môi trường có sóng điện dương đã khiến cho Trụ
linh của Tuệ linh, con người nhiễm sóng điện dương, sẽ giải
mã đúng về sự thật của vạn vật.
- Do giải mã đúng về sự thật của vạn vật, Trụ linh bắt
đầu thực tập, thực hành đời sống với bản chất là Tỏa.
Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người có mức độ
Kết – Định – Tỏa theo hướng bền vững và an lạc nhẹ là:
- Ban đầu, Tuệ linh, con người có cấu trúc Trụ linh cân
bằng sóng điện âm và dương. Tức là trong Trụ linh gốc và hai
thái cực năng lượng âm và dương có sóng điện âm nhẹ và
dương nhẹ. Cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài
Trụ linh cân bằng theo tỷ lệ một hạt năng lượng âm có sóng
631
điện âm nhẹ rung lắc xung quanh một hạt năng lượng dương
có sóng điện dương nhẹ. Hạt năng lượng âm màu trắng xám,
hạt năng lượng dương màu trắng sữa.

Hình: Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người
bền vững và an lạc ở mức nhẹ
- Do Tuệ linh, con người tương tác trong môi trường
có sóng điện dương, Trụ linh của Tuệ linh, con người giải mã
đúng về sự thật của vạn vật. Do đó, Trụ linh đã phân tách ra

632
các hạt năng lượng dương có sóng điện nhẹ. Bên cạnh đó,
cũng phân tách ra các hạt năng lượng âm có sóng điện nhẹ.
- Khi các hạt năng lượng âm và dương được phân tách
ra nhiều đã giúp cho cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên
ngoài Trụ linh được mở rộng đa chiều bên ngoài Trụ linh. Đó
là Trụ linh đa dương ở mức nhẹ. Cấu trúc 16 hạt năng lượng
mở rộng bên ngoài Trụ linh luôn giữ được tỷ lệ vàng là một
hạt năng lượng âm rung lắc xung quanh một hạt năng lượng
dương. Các hạt năng lượng dương sẽ chuyển thành màu xanh
lá, đỏ lửa, vàng thông qua quá trình thực hành đời sống Tỏa.
- Khi Trụ linh đa dương nhẹ, các hạt năng lượng âm
rung lắc ít sẽ khiến cho cấu trúc Trụ linh không kích động
năng lượng hoại diệt di chuyển vào. Do đó, Tuệ linh, con
người sẽ bền vững và an lạc ở mức nhẹ bởi không có nguy cơ
bị hoại diệt cao.
Tuệ linh, con người có cấu trúc Trụ linh bền vững và
an lạc nhẹ sẽ dễ dàng chuyển sinh thành cấu trúc Trụ linh
bền vững và an lạc mạnh hơn và nhanh đắc được bộ lọc năng
lượng nếu thúc đẩy quá trình đời sống Tỏa.
Tuệ linh, con người có mức độ Kết – Định – Tỏa theo
hướng bền vững và an lạc nhẹ, đó là những Tuệ linh, con
người bắt đầu học tập và thực hành đời sống Tỏa mang lại lợi
ích cho vạn vật, Tuệ linh và con người, đó là củng cố, bảo vệ,
phát triển, lan tỏa, đoàn kết những tư tưởng tích cực lợi ích
tới vạn vật, Tuệ linh và con người mà không màng tới bản
thể mình.

2.2. Mức độ Kết – Định – Tỏa theo hướng bền


vững và an lạc mạnh
633
Tuệ linh, con người có Trụ linh thực hành đời sống Kết
– Định – Tỏa ở mức độ bền vững và an lạc mạnh. Đó là:
- Trụ linh không thực hành đời sống Kết mạnh.
- Trụ linh thực hành đời sống Định ở mức mạnh.
- Trụ linh thực hành đời sống Tỏa ở mức mạnh: đó là
Tuệ linh, con người thực hành đời sống miệt mài phát triển
các cấu trúc bền vững thúc đẩy sự phát triển của vạn vật và
Tuệ linh, con người; đó là miệt mài thực hành đời sống Tỏa vì
vạn vật và Tuệ linh, con người mà không màng tới bản thể
của mình.
Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người có mức độ
Kết – Định – Tỏa theo hướng bền vững và an lạc mạnh là:
- Trụ linh gốc ban đầu của Tuệ linh, con người khi
được hình thành có cấu trúc như sau: Hạt năng lượng âm tận
cùng có sóng điện nhẹ màu trắng xám kết hợp với hạt năng
lượng dương tận cùng có sóng điện mạnh màu xanh lá (năng
lượng dương phát triển), tạo thành Trụ linh đa dương mạnh.
- Ban đầu, Trụ linh với cấu trúc 16 hạt năng lượng mở
rộng bên ngoài Trụ linh có cấu trúc cân bằng là một hạt năng
lượng âm rung lắc xung quanh một hạt năng lượng dương.
Khi đó, màu của hạt năng lượng âm là màu trắng xám, màu
của hạt năng lượng dương là màu xanh lá. Những hạt năng
lượng dương – âm có màu và sóng điện giống như hạt năng
lượng dương – âm ban đầu hợp thành Trụ linh gốc của Tuệ
linh, con người.
- Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người ở mức Tỏa
nhẹ chuyển sinh thành Tỏa mạnh sau quá trình thực hành
đời sống Tỏa trong môi trường có sóng điện dương.

634
Hình: Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người
bền vững và an lạc ở mức mạnh
- Do Tuệ linh, con người tương tác trong môi trường
có sóng điện dương, Trụ linh lại đa dương mạnh, nên Tuệ
linh, con người thực hành đời sống Tỏa mạnh. Khi thực hành
đời sống Tỏa, Trụ linh đã phân tách ra nhiều hạt năng lượng
dương có sóng điện mạnh và những hạt năng lượng âm có
sóng điện nhẹ. Khi đó, cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng
đa chiều bên ngoài Trụ linh đa dương mạnh. Tức là mỗi một
hạt năng lượng dương có một hạt năng lượng sóng điện âm
635
nhẹ rung lắc xung quanh. Do các hạt năng lượng dương có
sóng điện dương mạnh được phân tách ra nhiều, các hạt
năng lượng âm được phân tách ra với sóng điện âm nhẹ để
tạo thành liên kết chặt và bền vững bên ngoài Trụ linh. Cấu
trúc 16 hạt năng lượng được mở rộng đa chiều mà vẫn đảm
bảo tỷ lệ 1:1 giữa các hạt năng lượng âm và hạt năng lượng
dương. Hạt năng lượng âm vẫn có màu trắng xám, hạt năng
lượng dương vẫn có màu xanh lá. Hạt năng lượng dương sẽ
chuyển thành màu đỏ lửa hoặc màu vàng nếu Trụ linh Tỏa ở
mức rất mạnh hoặc siêu mạnh.
- Khi Trụ linh đa dương mạnh, các hạt năng lượng âm
rung lắc ít và nhẹ. Khi đó lượng năng lượng hoại diệt di
chuyển vào Trụ linh ít. Sóng điện dương mạnh của Trụ linh
sẽ dễ dàng kích nổ năng lượng hoại diệt để tạo thành nhiệt
lượng giúp cho Trụ linh phân tách ra các hạt năng lượng có
sóng điện dương mạnh và chân tâm mạnh. Do đó, cấu trúc
Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ trở nên vững chắc, bền
vững và an lạc ở mức mạnh.
Tuệ linh, con người có cấu trúc Trụ linh bền vững và
an lạc mạnh sẽ dễ dàng chuyển sinh thành cấu trúc Trụ linh
bền vững và an lạc rất mạnh cho tới siêu mạnh và đắc được
bộ lọc năng lượng.
Tuệ linh, con người có mức độ Kết – Định – Tỏa theo
hướng bền vững và an lạc mạnh, đó là những Tuệ linh, con
người thực hành đời sống miệt mài nghiên cứu, miệt mài
phát triển các cấu trúc bền vững luôn vì vạn vật, Tuệ linh và
con người mà không vì bản thể mình. Họ không vi phạm vào
các quy tắc không được phép vi phạm và thực hiện được các
quy tắc phải thực hiện được trong bốn hình tướng Đạo.

636
2.3. Mức độ Kết – Định – Tỏa theo hướng bền
vững và an lạc rất mạnh
Tuệ linh, con người có Trụ linh thực hành đời sống Kết
– Định – Tỏa ở mức độ bền vững và an lạc rất mạnh. Đó là:
- Trụ linh không thực hành đời sống Kết mạnh.
- Trụ linh thực hành đời sống Định ở mức rất mạnh.
- Trụ linh thực hành đời sống Tỏa ở mức rất mạnh: đó
là Tuệ linh, con người thực hành đời sống miệt mài lan tỏa
các cấu trúc phát triển bền vững thúc đẩy sự phát triển của
vạn vật, Tuệ linh và con người; đó là miệt mài thực hành đời
sống Tỏa các cấu trúc phát triển bền vững vì vạn vật, Tuệ linh
và con người mà không màng tới bản thể của mình.
Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người có mức độ
Kết – Định – Tỏa theo hướng bền vững và an lạc rất mạnh là:
- Trụ linh gốc ban đầu của Tuệ linh, con người khi
được hình thành có cấu trúc như sau: Hạt năng lượng âm tận
cùng có sóng điện nhẹ màu trắng xám kết hợp với hạt năng
lượng dương tận cùng có sóng điện rất mạnh màu đỏ lửa
(năng lượng dương lan tỏa), tạo thành Trụ linh đa dương rất
mạnh.
- Ban đầu, Trụ linh với cấu trúc 16 hạt năng lượng mở
rộng bên ngoài Trụ linh có cấu trúc cân bằng là một hạt năng
lượng âm rung lắc xung quanh một hạt năng lượng dương.
Khi đó, màu của hạt năng lượng âm là màu trắng xám, màu
của hạt năng lượng dương là màu đỏ lửa. Những hạt năng
lượng dương – âm có màu và sóng điện giống như hạt năng
lượng dương – âm ban đầu hợp thành Trụ linh gốc của Tuệ
linh, con người.

637
- Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người ở mức Tỏa
mạnh chuyển sinh thành Tỏa rất mạnh sau quá trình thực
hành đời sống Tỏa trong môi trường có sóng điện dương.

Hình: Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người
bền vững và an lạc ở mức rất mạnh
- Do Tuệ linh, con người tương tác trong môi trường
có sóng điện dương, Trụ linh lại đa dương rất mạnh, nên Tuệ
linh, con người thực hành đời sống Tỏa rất mạnh. Khi thực
hành đời sống Tỏa, Trụ linh đã phân tách ra nhiều hạt năng
lượng dương có sóng điện rất mạnh và những hạt năng
638
lượng âm có sóng điện nhẹ. Khi đó, cấu trúc 16 hạt năng
lượng mở rộng đa chiều bên ngoài Trụ linh đa dương rất
mạnh. Tức là mỗi một hạt năng lượng dương có một hạt
năng lượng sóng điện âm nhẹ rung lắc xung quanh. Do các
hạt năng lượng dương có sóng điện dương rất mạnh được
phân tách ra nhiều, các hạt năng lượng âm được phân tách ra
với sóng điện âm nhẹ để tạo thành liên kết chặt và bền vững
bên ngoài Trụ linh. Cấu trúc 16 hạt năng lượng được mở
rộng đa chiều mà vẫn đảm bảo tỷ lệ 1:1 giữa các hạt năng
lượng âm và hạt năng lượng dương. Hạt năng lượng dương
vẫn có màu đỏ lửa, hạt năng lượng âm vẫn có màu trắng xám.
Màu của hạt năng lượng dương sẽ chuyển thành màu vàng
nếu Trụ linh Tỏa ở mức siêu mạnh.
- Khi Trụ linh đa dương rất mạnh, các hạt năng lượng
âm rung lắc ít và nhẹ. Khi đó lượng năng lượng hoại diệt di
chuyển vào Trụ linh ít. Sóng điện dương mạnh của Trụ linh
sẽ dễ dàng kích nổ năng lượng hoại diệt để tạo thành nhiệt
lượng giúp cho Trụ linh phân tách ra các hạt năng lượng có
sóng điện dương rất mạnh và chân tâm rất mạnh. Do đó, cấu
trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ trở nên vững chắc,
bền vững và an lạc.
Tuệ linh, con người có cấu trúc Trụ linh bền vững và
an lạc rất mạnh sẽ dễ dàng chuyển sinh thành cấu trúc Trụ
linh bền vững và an lạc siêu mạnh cho tới đắc được bộ lọc
năng lượng.
Tuệ linh, con người có mức độ Kết – Định – Tỏa theo
hướng bền vững và an lạc rất mạnh, đó là những Tuệ linh,
con người thực hành đời sống miệt mài lan tỏa các cấu trúc
phát triển bền vững luôn vì vạn vật, Tuệ linh, con người mà
không vì bản thể mình. Họ không vi phạm vào các quy tắc

639
không được phép vi phạm và thực hiện được các quy tắc phải
thực hiện được trong bốn hình tướng Đạo. Họ lan tỏa những
giá trị của hai Chân lý, những giá trị đạo đức tới Tuệ linh và
con người.

2.4. Mức độ Kết – Định – Tỏa theo hướng bền


vững và an lạc siêu mạnh
Tuệ linh, con người có Trụ linh thực hành đời sống Kết
– Định – Tỏa ở mức độ bền vững và an lạc siêu mạnh. Đó là:
- Trụ linh thực hành đời sống Kết mà không phải là
Kết, đó là không có tư tưởng cho đến hành động Kết mạnh
cho tới siêu mạnh. Tuy nhiên, Tuệ linh, con người lại thực
hành thấu hiểu, cảm thông, lắng nghe, đón nhận những năng
lượng âm từ các Tuệ linh, con người thực hành đời sống Kết.
Đó là nghệ thuật đón nhận các hạt năng lượng âm và dùng
Định (chân tâm siêu mạnh) để giảm tải sóng điện giúp cho
các hạt năng lượng âm đó chỉ còn sóng điện nhẹ khi di
chuyển vào Trụ linh.
- Trụ linh thực hành đời sống Định ở mức siêu mạnh:
đó là Trụ linh cân bằng ở mức siêu mạnh để liên kết được hết
thảy năm nhóm năng lượng; đó là Trụ linh đứng ở vị trí năng
lượng Đoàn kết để liên kết với các Tuệ linh, con người, vạn
vật.
- Trụ linh thực hành đời sống Tỏa ở mức siêu mạnh:
đó là Tuệ linh, con người thực hành đời sống đoàn kết hết
thảy Tuệ linh và con người trong sự không phân biệt để cùng
nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững thúc đẩy sự
phát triển của vạn vật, Tuệ linh và con người; đó là đoàn kết

640
vạn vật, Tuệ linh, con người cùng nhau lan tỏa phát triển bền
vững mà không màng tới bản thể mình.
Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người có mức độ
Kết – Định – Tỏa theo hướng bền vững và an lạc siêu mạnh
là:
- Trụ linh gốc ban đầu của Tuệ linh, con người khi
được hình thành có cấu trúc như sau: Hạt năng lượng âm tận
cùng có sóng điện nhẹ màu trắng xám kết hợp với hạt năng
lượng dương tận cùng có sóng điện siêu mạnh màu vàng
(năng lượng dương đoàn kết) tạo thành Trụ linh đa dương
siêu mạnh. Siêu mạnh là vì khả năng liên kết đến được với
hết thảy các cấu trúc Tuệ linh, con người và vạn vật.
- Ban đầu, Trụ linh với cấu trúc 16 hạt năng lượng mở
rộng bên ngoài Trụ linh có cấu trúc cân bằng là một hạt năng
lượng âm rung lắc xung quanh một hạt năng lượng dương.
Khi đó, màu của hạt năng lượng âm là màu trắng xám, màu
của hạt năng lượng dương là màu vàng. Những hạt năng
lượng dương – âm có màu và sóng điện giống như hạt năng
lượng dương – âm ban đầu hợp thành Trụ linh gốc của Tuệ
linh, con người.
- Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người ở mức Tỏa
rất mạnh chuyển sinh thành Tỏa siêu mạnh sau quá trình
thực hành đời sống Tỏa trong môi trường có sóng điện
dương.

641
Hình: Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người
bền vững và an lạc ở mức siêu mạnh
- Do Tuệ linh, con người liên kết được các nhóm sóng
điện âm, dương, trung tính bởi Trụ linh đa dương siêu mạnh,
nên Tuệ linh, con người thực hành đời sống Tỏa siêu mạnh.
Khi thực hành đời sống Tỏa, Trụ linh đã phân tách ra nhiều
hạt năng lượng dương có sóng điện siêu mạnh và những hạt
năng lượng âm có sóng điện nhẹ. Khi đó, cấu trúc 16 hạt
năng lượng mở rộng đa chiều bên ngoài Trụ linh đa dương
642
siêu mạnh. Tức là mỗi một hạt năng lượng dương có một hạt
năng lượng sóng điện âm nhẹ rung lắc xung quanh. Do các
hạt năng lượng dương có sóng điện dương siêu mạnh được
phân tách ra nhiều, các hạt năng lượng âm được phân tách ra
với sóng điện âm nhẹ để tạo thành liên kết chặt và bền vững
bên ngoài Trụ linh. Cấu trúc 16 hạt năng lượng được mở
rộng đa chiều mà vẫn đảm bảo tỷ lệ 1:1 giữa các hạt năng
lượng âm và hạt năng lượng dương. Hạt năng lượng dương
vẫn có màu vàng, hạt năng lượng âm vẫn có màu trắng xám.
Màu của hạt năng lượng dương sẽ chuyển thành màu vàng
óng ánh (siêu hạt năng lượng dương) nếu Trụ linh duy trì
Tỏa siêu mạnh và chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng.
- Khi Trụ linh đa dương siêu mạnh, các hạt năng lượng
âm rung lắc ít và nhẹ. Khi đó lượng hạt năng lượng hoại diệt
di chuyển vào Trụ linh ít. Sóng điện dương siêu mạnh của
Trụ linh sẽ dễ dàng kích nổ năng lượng hoại diệt để tạo
thành nhiệt lượng giúp cho Trụ linh phân tách ra các hạt
năng lượng có sóng điện dương siêu mạnh và chân tâm siêu
mạnh. Do đó, cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ trở
nên vững chắc, bền vững và an lạc siêu mạnh.
Tuệ linh, con người có cấu trúc Trụ linh bền vững và
an lạc siêu mạnh sẽ dễ dàng chuyển sinh thành cấu trúc Trụ
linh đắc được bộ lọc năng lượng. Tức là Trụ linh Tỏa siêu
mạnh là điều kiện kể chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng. Do đó, hết thảy các cấu trúc Trụ linh muốn đắc được
bộ lọc năng lượng thì phải thực hành đạt được đời sống Tỏa
siêu mạnh.
Tuệ linh, con người có mức độ Kết – Định – Tỏa theo
hướng bền vững và an lạc siêu mạnh, đó là những Tuệ linh,
con người thực hành đời sống đoàn kết hết thảy vạn vật, Tuệ

643
linh và con người trong sự không phân biệt, để cùng nhau lan
tỏa các cấu trúc phát triển bền vững tới hết thảy vạn vật, Tuệ
linh và con người mà không màng gì về mình. Họ không vi
phạm vào các quy tắc không được phép vi phạm và thực hiện
được các quy tắc phải thực hiện được trong bốn hình tướng
Đạo. Họ lan tỏa những giá trị của hai Chân lý, những giá trị
đạo đức tới Tuệ linh và con người.

2.5. Mức độ Kết – Định – Tỏa theo hướng bền


vững và an lạc của bộ lọc năng lượng đơn
Tuệ linh, con người có Trụ linh thực hành đời sống Kết
– Định – Tỏa ở mức độ bền vững và an lạc của bộ lọc năng
lượng đơn. Đó là:
- Trụ linh thực hành đời sống siêu Kết mà không phải
là Kết, đó là không có tư tưởng cho đến hành động Kết mạnh
cho tới siêu mạnh. Tuy nhiên, Tuệ linh, con người lại thực
hành thấu hiểu, cảm thông, lắng nghe, đón nhận những năng
lượng âm từ các Tuệ linh, con người thực hành đời sống Kết.
Đó là nghệ thuật đón nhận các hạt năng lượng âm và dùng
Định ở mức siêu mạnh để giảm tải sóng điện giúp cho các hạt
năng lượng âm đó chỉ còn sóng điện nhẹ khi di chuyển vào
Trụ linh.
- Trụ linh thực hành đời sống Định ở mức siêu mạnh:
đó là Trụ linh cân bằng ở mức siêu mạnh để liên kết được hết
thảy năm nhóm năng lượng; đó là Trụ linh đứng ở vị Trí
năng lượng Đoàn kết để liên kết với các Tuệ linh, con người,
vạn vật.
- Trụ linh thực hành đời sống Tỏa ở mức siêu mạnh:
đó là Tuệ linh, con người thực hành đời sống đoàn kết hết

644
thảy Tuệ linh, con người, vạn vật trong sự không phân biệt
để cùng nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững thúc
đẩy sự phát triển của vạn vật, Tuệ linh và con người; đó là
đoàn kết vạn vật, Tuệ linh và con người cùng nhau lan tỏa
phát triển bền vững mà không màng tới bản thể mình.
Cấu trúc Trụ linh của bộ lọc năng lượng đơn là kế thừa
từ cấu trúc Trụ linh Kết – Định – Tỏa ở mức siêu mạnh để trở
thành nghệ thuật, trở thành bản năng thực hành đời sống Kết
– Định – Tỏa cho Trụ linh. Có nghĩa là Trụ linh do đã phân
tách đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ của hạt năng lượng dương
siêu mạnh nên Trụ linh chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng
đơn.
Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người có mức độ
Kết – Định – Tỏa theo hướng bền vững và an lạc của bộ lọc
đơn là:
- Trụ linh gốc ban đầu của Tuệ linh, con người dễ
chuyển sinh thành bộ lọc đơn nhất: Hạt năng lượng âm tận
cùng có sóng điện nhẹ màu trắng xám kết hợp với hạt năng
lượng dương tận cùng có sóng điện siêu mạnh màu vàng
(năng lượng dương đoàn kết), tạo thành Trụ linh đa dương
siêu mạnh. Siêu mạnh là vì khả năng liên kết đến được với
hết thảy các cấu trúc Tuệ linh, vạn vật, con người.
- Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người ở mức Tỏa
siêu mạnh sẽ chuyển sinh thành bộ lọc năng lượng đơn khi
đã phân tách đủ lượng sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện
dương siêu mạnh cho việc cấu tạo lại Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng đơn.

645
Hình: Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người
bền vững và an lạc của bộ lọc đơn
- Do Tuệ linh, con người đạt được nghệ thuật liên kết
được các nhóm năng lượng có sóng điện âm, dương, trung
tính bởi Trụ linh đa dương siêu mạnh, nên Tuệ linh, con
646
người thực hành đời sống Tỏa siêu mạnh. Khi thực hành đời
sống Tỏa, Trụ linh đã phân tách ra vô lượng siêu hạt năng
lượng dương có sóng điện siêu mạnh và những hạt năng
lượng âm có sóng điện nhẹ. Khi đó, cấu trúc 16 hạt năng
lượng mở rộng đa chiều bên ngoài Trụ linh đa dương siêu
mạnh. Tức là mỗi một siêu hạt năng lượng dương có một hạt
năng lượng sóng điện âm nhẹ rung lắc xung quanh.
- Do các siêu hạt năng lượng dương có sóng điện
dương siêu mạnh được phân tách ra vô số, các hạt năng
lượng âm được phân tách ra với sóng điện âm nhẹ để tạo
thành liên kết chặt và bền vững bên ngoài Trụ linh. Cấu trúc
16 hạt năng lượng được mở rộng đa chiều mà vẫn đảm bảo
tỷ lệ 1:1 giữa các hạt năng lượng âm và các siêu hạt năng
lượng dương. Siêu hạt năng lượng dương đã có màu vàng
óng ánh, hạt năng lượng âm vẫn có màu trắng xám. Màu của
siêu hạt năng lượng dương và màu của hạt năng lượng âm
bên ngoài Trụ linh giống với màu của siêu hạt năng lượng
dương và hạt năng lượng âm trong Trụ linh gốc.
- Khi Trụ linh đắc được bộ lọc đơn, Trụ linh sẽ vận
hành một cách kỳ diệu. Khi cần năng lượng hoại diệt cho quá
trình phân tách ra các siêu hạt năng lượng dương, hạt năng
lượng âm sẽ rung lắc nhẹ để thu hút năng lượng hoại diệt di
chuyển vào. Tiếp đến, sóng điện dương siêu mạnh từ Trụ
linh sẽ truyền ra để kích nổ năng lượng hoại diệt. Trụ linh sẽ
hấp thụ nhiệt lượng đó và phân tách ra vô số các siêu hạt
năng lượng màu vàng óng ánh. Bộ lọc năng lượng đơn là
cảnh giới bền vững và an lạc kỳ diệu bởi khả năng chuyển
hóa được năng lượng hoại diệt thành siêu hạt năng lượng
dương.

647
Tuệ linh, con người có cấu trúc Trụ linh bền vững và
an lạc của bộ lọc năng lượng đơn sẽ dễ dàng chuyển sinh
thành bộ lọc kép. Để chuyển sinh thành bộ lọc kép, Trụ linh
cần phải thực hiện giải mã, liên kết được tận cùng hết thảy
vạn vật trong và ngoài Vũ trụ bằng vị trí năng lượng đoàn
kết.
Tuệ linh, con người có mức độ Kết – Định – Tỏa theo
hướng bền vững và an lạc của bộ lọc đơn, đó là những Tuệ
linh, con người thực hành đời sống đoàn kết hết thảy vạn vật,
Tuệ linh, con người trong sự không phân biệt để cùng nhau
lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững tới hết thảy vạn vật,
Tuệ linh và con người mà không màng gì về mình. Đó là Hóa
độ, Phổ độ hết thảy Tuệ linh, con người trong Vũ trụ.

2.6. Mức độ Kết – Định – Tỏa theo hướng bền


vững và an lạc của bộ lọc năng lượng kép
Tuệ linh, con người có Trụ linh thực hành đời sống Kết
– Định – Tỏa ở mức độ bền vững và an lạc của bộ lọc năng
lượng kép là kế thừa từ cấu trúc Trụ linh Kết – Định – Tỏa
của bộ lọc đơn. Có nghĩa là Trụ linh do đã giải mã, liên kết
được tận cùng hết thảy các sợi mã sóng trí tuệ của Tướng
trong và ngoài Vũ trụ. Tuệ linh, con người đứng ở vị trí đoàn
kết để vận hành đạt đến nghệ thuật Kết – Định – Tỏa vì hết
thảy vạn vật trong và ngoài Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Đó
là Hóa độ, phổ độ vì hết thảy Tướng bên trong và bên ngoài
Vũ trụ (năng lượng hoại diệt) mà không màng gì bản thể
mình.

648
Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người có mức độ
Kết – Định – Tỏa theo hướng bền vững và an lạc của bộ lọc
kép là:

Hình: Cấu trúc Trụ linh của Tuệ linh, con người
bền vững và an lạc của bộ lọc kép

649
- Trụ linh đạt được bộ lọc năng lượng đơn mới chuyển
sinh thành bộ lọc kép khi đã giải mã, liên kết được tận cùng
hết thảy sợi mã sóng trí tuệ trong và ngoài Vũ trụ.
- Bộ lọc kép là Trụ linh gốc đã cấu tạo được thành hai
siêu hạt năng lượng, đó là siêu hạt năng lượng âm màu xanh
lưu ly và siêu hạt năng lượng dương màu vàng óng ánh.
- Trụ linh của bộ lọc năng lượng kép sẽ có khả năng
phân tách ra vô lượng siêu hạt năng lượng âm màu xanh
ngọc lưu ly và siêu hạt năng lượng dương màu vàng óng ánh.
Các siêu hạt năng lượng âm và dương này cấu tạo thành cấu
trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh tới vô tận
và bao trùm hết thảy toàn bộ Vũ trụ. Mỗi một siêu hạt năng
lượng âm rung lắc xung quanh mỗi một siêu hạt năng lượng
dương.
- Các siêu hạt năng lượng âm màu xanh ngọc lưu ly sẽ
thu hút được nhiều năng lượng hoại diệt về và dễ dàng ngủ
đông năng lượng hoại diệt thành hạt bóng hỏa. Tiếp đến các
siêu hạt năng lượng dương màu vàng óng ánh sẽ kích nổ
được các hạt bóng hỏa đó mà vô cùng an toàn, vô cùng an lạc.
Tuệ linh, con người có cấu trúc Trụ linh bền vững và
an lạc của bộ lọc năng lượng kép sẽ dễ dàng phân tách ra vô
lượng các siêu hạt năng lượng dương và âm để bảo vệ, phát
triển bền vững cho hết thảy các dạng sống trong và ngoài Vũ
trụ.
Tuệ linh, con người có mức độ Kết – Định – Tỏa theo
hướng bền vững và an lạc của bộ lọc kép, đó là những Tuệ
linh, con người thực hành đời sống đoàn kết hết thảy Tuệ
linh, con người, vạn vật trong và ngoài Vũ trụ trong sự không
phân biệt, cùng nhau lan tỏa các cấu trúc phát triển bền vững
mà không màng lợi ích ích kỷ gì về mình. Đó là Hóa độ, Phổ
650
độ hết thảy Tuệ linh, con người, vạn vật trong và ngoài Vũ
trụ.
Chỉ khi Tuệ linh, con người chuyển hóa Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng mới là bền vững và an lạc. Trụ linh có bộ
lọc năng lượng mới di chuyển được vào không gian năng
lượng hoại diệt, mới chuyển hóa được năng lượng hoại diệt
thành các siêu hạt năng lượng. Ngoài ra, bất kỳ Trụ linh nào
chưa chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng đều dễ dàng bị
năng lượng hoại diệt đồng hóa, phân rã và hoại diệt. Điều này
cho thấy sẽ không có phẩm vị nào của Tuệ linh là an lạc bền
vững nếu chưa đạt được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh.

3. Lượng mã sóng trí tuệ của Tuệ linh, con


người có được bởi thực hành Kết – Định – Tỏa
Hết thảy Tuệ linh, con người khi thực hiện đời sống
Kết – Định – Tỏa theo hướng chuyển sinh bền vững an lạc
hay phân rã hoại diệt đều tạo ra các sợi mã sóng trí tuệ. Tuy
nhiên, Tuệ linh, con người thực hành Kết – Định – Tỏa theo
hướng chuyển sinh khác nhau cũng sẽ tạo ra lượng các sợi
mã sóng trí tuệ khác nhau, tính bền chặt hay phân rã cũng
khác nhau.
Nếu Tuệ linh, con người thực hành đời sống Kết – Định
– Tỏa theo hướng phân rã và hoại diệt, Tuệ linh, con người
đó sẽ phân tách ra vô số cho tới vô lượng các sợi mã sóng trí
tuệ mang sóng điện âm. Các sợi mã sóng trí tuệ mang sóng
điện âm sẽ cấu tạo thành các hạt năng lượng mang sóng điện
âm. Các hạt năng lượng mang sóng điện âm sẽ khiến cho cấu
trúc Trụ linh và 16 hạt năng lượng không được mở rộng. Sự
rung lắc mạnh của những sợi mã sóng trí tuệ mang sóng điện

651
âm lại khiến cho năng lượng hoại diệt tấn công làm phân rã
và cuối cùng là hoại diệt. Như vậy, Tuệ linh, con người thực
hành đời sống Kết – Định – Tỏa theo hướng phân rã và hoại
diệt sẽ không xây dựng được liên kết chặt chẽ từ Tuệ linh tới
hết thảy Tướng trong và ngoài Vũ trụ. Đây là con đường sẽ
không thể tồn tại và phát triển, là con đường nhanh hoại diệt
nhất. Có vô số Tuệ linh sau khi hết kiếp người, vô số linh hồn
muông thú bị đọa đày ở nhân gian mà không được siêu thoát.
Nguyên nhân vì năng lượng âm quá nhiều khiến cho họ
không có sóng điện dương để di chuyển vào hành trình luân
hồi, bởi khi sống họ bám định vào giả tướng để hưởng thụ
mà gây tổn hại tới con người, muông thú, vạn vật và Tuệ linh.
Khi bị đọa đày ở nhân gian, họ bị gọi là cô hồn, quỷ, yêu tinh
(linh hồn thú dữ).
Nếu Tuệ linh, con người thực hành đời sống Kết – Định
– Tỏa theo hướng bền vững và an lạc, đặc biệt là chuyển sinh
Trụ linh thành được bộ lọc đơn và bộ lọc kép, Tuệ linh, con
người đó sẽ phân tách ra vô số sợi mã sóng trí tuệ mang sóng
điện dương và mang sóng điện âm, đặc biệt là những siêu sợi
mã sóng trí tuệ. Những sợi mã sóng trí tuệ đó cấu tạo thành
các hạt năng lượng dương, chân tâm, siêu hạt năng lượng.
Những hạt năng lượng đó liên kết chặt chẽ tới hết thảy
Tướng trong Vũ trụ, thậm chí là ngoài Vũ trụ. Liên kết chặt là
bởi có các sợi chân tâm gắn kết các hạt năng lượng dương và
siêu hạt năng lượng. Tuệ linh, con người sẽ có trí tuệ thấu
hiểu, liên kết được hết thảy Tướng trong và ngoài Vũ trụ, tức
là trí tuệ đã bao trùm được hết thảy Tướng trong và ngoài Vũ
trụ. Tuệ linh, con người có được bộ lọc năng lượng không
những an lạc bền vững mà còn giúp cho vạn vật trong và
ngoài Vũ trụ cũng được chuyển sinh an lạc và bền vững theo.

652
Như vậy, Kết – Định – Tỏa theo hướng phân rã và hoại
diệt sẽ cho kết quả là không có Trí tuệ, sẽ hoại diệt vĩnh viễn.
Kết – Định – Tỏa theo hướng bền vững an lạc sẽ có Trí tuệ vô
lượng, bao trùm trong và ngoài Vũ trụ. Bền vững và an lạc
bởi Trí tuệ liên kết chặt chẽ, tuần hoàn sóng điện với vạn vật
trong và ngoài Vũ trụ. Để bền vững an lạc và có Trí tuệ vô
lượng, chỉ có con đường duy nhất là phải chuyển hóa Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng đơn và kép.

III. Chân lý Vạn vật với các con đường chuyển


sinh của các cấu trúc Tuệ
Chân lý Vạn vật trong Tuệ sẽ là: Tuệ không tự sinh ra,
Tuệ không tự mất đi, khổ đau của Tuệ không tự đến và không
tự đi, tất cả do cơ chế phân tách và liên kết dây.
Vận hành Chân lý Vạn vật của Tuệ chính là cơ chế phân
tách và liên kết dây. Cơ chế phân tách và liên kết sẽ được xảy
ra trong môi trường có điều kiện. Đó là môi trường có tương
tác giữa các chỉnh thể, trong một quy trình thời gian nhất
định, trong độ nén và dẫn tới sinh nhiệt bùng phát. Môi
trường tu hành ở Trái đất đảm bảo được điều kiện giúp cho
Tuệ linh chuyển sinh cấu trúc Trụ linh được bền vững và an
lạc.

1. Tuệ không tự sinh


Tuệ không tự sinh, tức là mức độ Kết – Định – Tỏa của
Tuệ linh, con người theo hướng phân rã hoại diệt không tự
sinh, theo hướng bền vững an lạc cũng không tự sinh.
Tuệ linh Kết – Định – Tỏa theo hướng phân rã và hoại
diệt là do:
653
- Do Trụ linh gốc của Tuệ linh đa âm ở mức nhẹ cho tới
mức mạnh, mức rất mạnh và siêu mạnh. Trụ linh đa âm tức
là Tuệ linh, con người sẽ thực hành đời sống chỉ có Kết. Đó là
bản chất cội nguồn khiến cho Tuệ linh, con người dễ dàng
thực hành đời sống chỉ Kết mà dẫn tới bị năng lượng hoại
diệt xâm nhập làm phân rã và hoại diệt.
- Do môi trường tương tác có sóng điện âm. Khi Trụ
linh đa âm, Trụ linh cân bằng mà tương tác trong môi trường
có sóng điện âm sẽ khiến cho Trụ linh giải mã sai về sự thật
của vạn vật. Khi đó, Trụ linh sẽ dễ dàng phân tách ra những
hạt năng lượng âm có sóng điện âm mạnh, rất mạnh, siêu
mạnh. Đó chính là thực hiện đời sống Kết mạnh, rất mạnh,
siêu mạnh.
- Do Tuệ linh, con người chưa giải mã, mã hóa được
thông tin toàn diện của tất cả các nhóm vật chất trong và
ngoài Vũ trụ, của chính mình, đặc biệt là năng lượng hoại
diệt, do chưa có trí tuệ của hai Chân lý.
- Do Trụ linh gốc đa âm, chưa có trí tuệ thấu hiểu vạn
vật và môi trường tương tác có sóng điện âm chính là nguyên
nhân, là căn nguyên khiến cho Tuệ linh dễ dàng thực hành
đời sống Kết – Định – Tỏa theo hướng phân rã và hoại diệt.
Bởi không có trí tuệ thấu hiểu lại đa âm trong Trụ linh và môi
trường tương tác có sóng điện âm sẽ khiến cho Trụ linh phân
tách vô số hạt năng lượng âm, các hạt năng lượng dương
không được phân tách để tạo thành cấu trúc 16 hạt năng
lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh được liên kết chặt. Cấu
trúc Tuệ linh đa âm, khi đó năng lượng hoại diệt sẽ tấn công
làm phân rã và hoại diệt Tuệ linh, con người.
Tuệ linh Kết – Định – Tỏa theo hướng bền vững và an
lạc là do:
654
- Do có trí tuệ thấu hiểu, giải mã, mã hóa được thông
tin toàn diện của chính mình, của vạn vật trong và ngoài Vũ
trụ, đặc biệt là năng lượng hoại diệt, do có trí tuệ của hai
Chân lý.
- Do Trụ linh gốc của Tuệ linh, con người đa dương
mạnh, rất mạnh và siêu mạnh đã khiến cho Trụ linh thực
hành đời sống Tỏa mạnh, rất mạnh và siêu mạnh. Khi thực
hành đời sống Tỏa sẽ khiến cho Trụ linh có khả năng chuyển
hóa năng lượng hoại diệt để phát triển cấu trúc 16 hạt năng
lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh được liên kết bền vững.
- Do môi trường tương tác của các Tuệ linh, con người
có sóng điện dương, nên Tuệ linh, con người dễ dàng giải mã
đúng sự thật của vạn vật, Vũ trụ. Việc giải mã đúng sẽ giúp
cho Tuệ linh, con người thực hành đời sống Tỏa để phát
triển, gia tăng cơ chế phân tách, liên kết bền vững của Tuệ
linh và con người.
- Việc có trí tuệ thấu hiểu toàn diện, có Trụ linh gốc đa
dương và môi trường tương tác có sóng điện dương, Tuệ
linh, con người dễ dàng thực hành đời sống Kết – Định – Tỏa
theo hướng chuyển sinh bền vững và an lạc đạt đến đắc được
bộ lọc năng lượng. Bộ lọc năng lượng chính là cấu trúc Trụ
linh đã phân tách, liên kết thành cấu trúc 16 hạt năng lượng
mở rộng liên kết chặt chẽ với hết thảy vạn vật trong và ngoài
Vũ trụ. Đó là kết quả của thực hành cơ chế phân tách, liên kết
chuyển sinh theo hướng bền vững để mà có được.

2. Tuệ không tự diệt


Tuệ không tự diệt tức là Tuệ linh, con người đang phân
rã và hoại diệt không tự chuyển hóa thành bền vững và an

655
lạc. Tuệ linh, con người đang bền vững và an lạc không tự
chuyển hóa thành phân rã và hoại diệt.
Tuệ linh, con người đang phân rã và hoại diệt mà
muốn chuyển hóa thành Tuệ linh, con người bền vững và an
lạc, phải đảm bảo thực hiện đúng các điều kiện sau:
- Phải tu hành thông qua thân tướng con người với
bốn hình tướng Đạo ở nhân gian.
- Phải thực hành Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ
thông qua cơ chế phân tách, liên kết dây. Đó là thấu hiểu về
Đạo Vũ trụ hợp nhất thông qua hai Chân lý để chấm dứt thực
hành đời sống Kết. Chuyển hóa và thực hành đời sống Tỏa để
đạt được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh cho việc Kết –
Định – Tỏa thành quy trình bền vững và an lạc.
Tuệ linh, con người đang bền vững và an lạc mà
chuyển hóa thành phân rã và hoại diệt là do:
- Không thực hành tu tập đầy đủ bốn hình tướng Đạo.
- Không thấu hiểu và thực hành cải tạo Trụ linh bằng
hai Chân lý.
Tuệ linh, con người vận hành Chân lý Vạn vật, Chân lý
Giác ngộ với cơ chế phân tách, liên kết dây theo hướng bền
vững sẽ đắc được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh. Khi đắc
được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh sẽ chấm dứt sự Sinh –
Tử của Tuệ linh. Tuệ linh sẽ trở thành bất tử, sẽ hòa nhập trí
tuệ, năng lượng bao trùm vào vạn vật và Vũ trụ. Khi đó, Tuệ
linh sẽ là một thể thống nhất với Vũ trụ.

3. Khổ đau của Tuệ

656
Dù Tuệ linh, con người thực hành đời sống theo con
đường phân rã hoại diệt hay thực hành đời sống theo con
đường bền vững an lạc đều là khổ.
Khổ đau của Tuệ linh, con người chính là quá trình
biến đổi mã sóng trí tuệ trong Trụ linh:
- Biến đổi mã sóng trí tuệ theo hướng phân rã và hoại
diệt là đau khổ cùng cực cho tới hoại diệt vĩnh viễn Tuệ linh.
- Biến đổi mã sóng trí tuệ theo hướng an lạc và bền
vững là khổ đau của sự đấu tranh, kiểm soát của năng lượng
dương đối với năng lượng âm. Hành trình đi trên con đường
chuyển sinh bền vững sẽ giúp cho việc kiểm soát của năng
lượng dương đối với năng lượng âm đạt đến cơ chế tự động.
Khi tới đích của việc chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng sẽ có được cơ chế tự động hóa trong việc tuần hoàn và
kiểm soát sóng điện một cách kỳ diệu. Khi đó là chấm dứt
hoàn toàn khổ đau của Tuệ linh và con người.
Phân rã hoại diệt là do Tuệ linh, con người đang thực
hành đời sống phân tách liên kết hạt năng lượng âm. Điều
này dẫn tới Tuệ linh bị đứt liên kết do năng lượng hoại diệt
đồng hóa. Đó là thực hành đời sống Kết mạnh cho tới siêu
mạnh.
Phân tách, liên kết theo hướng bền vững là do Tuệ
linh, con người đang thực hiện đời sống phân tách liên kết
hạt năng lượng dương. Điều này giúp cho Tuệ linh có khả
năng kích nổ được năng lượng hoại diệt để phát triển cấu
trúc Tuệ linh bền vững hơn. Đó là thực hành đời sống Tỏa
mạnh cho tới siêu mạnh để chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng.

657
Khổ đau chỉ chấm dứt khi Trụ linh chuyển hóa thành
bộ lọc năng lượng. Đó là đã chuyển hóa, nâng cấp cơ chế
phân tách, liên kết trong Trụ linh đạt đến sự bền vững, sự an
lạc bất tử.
Từ bản chất cho tới Chân lý Vạn vật của Tuệ, Tuệ linh
và con người thấy rằng, chỉ có con đường duy nhất để Tuệ
linh, con người trở nên bền vững, an lạc chính là phải thông
qua cơ chế phân tách, liên kết theo hướng bền vững để
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Nếu chưa
chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng trong Trụ linh, Tuệ linh
dù có đạt được phẩm vị gì đi chăng nữa theo cách gọi của
nhân gian thì cũng đều bị hoại diệt nếu di chuyển vào không
gian năng lượng hoại diệt.

IV. Chân lý Giác ngộ với con đường chuyển sinh


bền vững duy nhất cho các cấu trúc Tuệ
Chân lý Giác ngộ trong Tuệ (mức độ cải tạo và phá
hoại) là: Hết thảy Tuệ là bể khổ. Tất cả Tuệ linh, con người
phải dùng Định để thấu hiểu Kết – Định – Tỏa của hết thảy
Tướng trong và ngoài Vũ trụ, từ đó chuyển hóa Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng Kết – Định – Tỏa.
Cơ chế vận hành của Chân lý Giác ngộ là phân tách và
liên kết dây. Cơ chế phân tách, liên kết dây cho thấy có hai
con đường phân tách và liên kết, đó là:
- Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt năng
lượng âm, đó là Kết. Nếu đi theo con đường này, hết thảy Tuệ
linh, con người sẽ phân rã và hoại diệt. Đây là con đường
chuyển sinh phân rã và hoại diệt.

658
- Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt năng
lượng dương. Đó là Tỏa. Nếu đi theo con đường này, hết thảy
Tuệ linh, con người sẽ phân tách, liên kết vô lượng hạt năng
lượng dương có liên kết chặt chẽ bởi sợi chân tâm. Sẽ là con
đường chuyển sinh bền vững nhất.
Từ bản chất của Tuệ, từ Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác
ngộ với cơ chế vận hành là phân tách và liên kết, hết thảy
Tuệ linh và con người đều thấy rằng: Con đường duy nhất để
vượt qua khổ đau (hoại diệt cấu trúc năng lượng) để trở nên
bền vững, an lạc là đắc được bộ lọc năng lượng trong Trụ
linh chính là con đường Tỏa. Tỏa là con đường mà hết thảy
Tuệ linh, con người phải thực hiện nếu muốn diệt khổ để
chuyển sinh thành bộ lọc năng lượng.
Thực hiện con đường Tỏa để chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng không phải là Tỏa một cách tiêu cực.
Vậy Tỏa làm sao để an lạc, để chuyển hóa Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng? Đó là:
- Trụ linh của Tuệ linh, con người phải đứng ở vị trí
Định. Định là chân tâm, là tĩnh lặng, là cân bằng, là an lạc. Vị
trí Định sẽ được nâng cao từ Định ban đầu cho tới các cảnh
giới tối cao của Định. Đó là Chân tâm sáng chói lòa vô lượng.
Khi Trụ linh của Tuệ linh, con người đứng ở vị trí Định sẽ
biết lắng nghe, biết nhìn – soi lại bản thể Tướng mình, biết
tiếp nhận, biết cảm thông, biết sẻ chia.
- Tiếp theo Trụ linh của Tuệ linh, con người phải biết
Kết. Kết ở đây không phải là có tư tưởng cho tới hành động
tiêu cực gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người. Kết ở
đây chỉ là rung động khi đứng ở vị trí Định. Tức là đứng ở vị
trí Định để lắng nghe, đón nhận những khổ đau, những an vui
hạnh phúc, những sẻ chia của vạn vật, chúng sinh, Tuệ linh và
659
con người. Bởi khi các Tướng khổ đau chia sẻ tới ta, những
chia sẻ bởi khổ đau, khổ đau bởi u mê nên trong Trụ linh họ
sẽ phân tách ra các hạt năng lượng tiêu cực sóng điện âm nhẹ
màu xám, cho tới mạnh là màu đen và đỏ máu. Do cơ chế
phân tách theo Quy luật Nhân quả sẽ phân tách ra làm 3
vùng, đó là trong Trụ linh họ 1 hạt, phân tách vào Vũ trụ 1
hạt, người nghe đón nhận 1 hạt. Do Trụ linh đứng ở vị trí
Định để dùng Kết là rung động, để lắng nghe, để hút về, để
đón nhận, khi đó, hạt năng lượng âm màu xám, màu đen,
màu đỏ máu của họ được Trụ linh hấp thụ. Do đứng ở vị trí
Định nên Trụ linh đang tỏa chân tâm trắng sáng. Trắng sáng
của chân tâm sẽ chuyển hóa hạt năng lượng âm màu xám,
màu đen, màu đỏ máu của Tướng đang sẻ chia thành màu
trắng xám nhẹ. Như vậy, Trụ linh của Tuệ linh, con người đã
Kết được hạt năng lượng sóng điện âm của hết thảy các
Tướng về và dùng năng lượng chân tâm trắng sáng chói lòa
chuyển hóa nó thành hạt năng lượng âm sóng điện rất nhẹ.
Như thế sẽ không kích động mạnh tới năng lượng hoại diệt,
năng lượng hoại diệt sẽ không di chuyển nhiều vào Trụ linh
của Tuệ linh, con người. Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ
an lạc để chuyển hóa thành Tỏa. Cũng như vậy, Trụ linh sẽ
hấp thụ được nhiệt lượng dương từ các Tướng tích cực chia
sẻ để kích nổ năng lượng hoại diệt. Đây chính là Kết mà
không phải là Kết. Đây là nghệ thuật chuyển hóa hạt năng
lượng của hết thảy Tướng đau khổ cũng như an vui hạnh
phúc trong toàn bộ Vũ trụ.
- Tiếp đến Trụ linh của Tuệ linh, con người lại Định.
Định ở đây là sau khi đã đón nhận những sẻ chia, tức là Kết
được năng lượng tiêu cực về Trụ linh, Trụ linh tiếp tục Định
để cân bằng ở cảnh giới chân tâm cao hơn. Đó là thấu hiểu

660
tận cùng khổ đau của hết thảy các Tướng trong và ngoài Vũ
trụ, trong khi Trụ linh và Tuệ linh, con người vẫn an lạc, vẫn
thanh tịnh. Bởi chỉ khi có được thanh tịnh, an lạc, không dao
động thì Trụ linh mới chuyển hóa thành Tỏa ra vô lượng siêu
hạt năng lượng.
- Cuối cùng là Tỏa. Khi đã trải qua quá trình Định rồi
Kết, lại Định rồi đến cuối cùng là Tỏa. Tỏa ở đây chính là Tuệ
linh, con người sẻ chia con đường diệt khổ, về cội nguồn, về
kế hoạch tu hành, về sứ mệnh, về trách nhiệm, về cơ chế và
phương pháp chuyển sinh bền vững an lạc, về khuôn mẫu
đạo đức và con đường giác ngộ trong bốn hình tướng Đạo.
Đó là chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Khi Tuệ
linh, con người làm đúng quy trình như vậy, từ Trụ linh sẽ
Tỏa ra vô số các siêu hạt năng lượng vào 3 vùng. Đó là trong
Trụ linh của Tuệ linh, con người sẽ lưu giữ, trong Vũ trụ cũng
lưu giữ và trong đối tượng Tướng được nghe sẻ chia cũng
lưu giữ. Khi Trụ linh của Tuệ linh, con người Tỏa sẽ tạo thành
liên kết 3 vùng rất bền chặt. Không những vậy, Trụ linh và
cấu trúc năng lượng của Tuệ linh, con người sẽ trở thành liên
kết bền vững.
Khi Tuệ linh, con người thực hiện quy trình Kết – Định
– Tỏa thành bản năng, thực hành trong thời gian dài và tới
được nhiều cho tới vô số Tướng khác, Trụ linh của Tuệ linh,
con người sẽ chuyển hóa thành bộ lọc năng lượng.
Vì hết thảy Tuệ là bể khổ, nên dù có là Tuệ linh, con
người đang phân rã hoại diệt cũng là khổ, dù có là Tuệ đang
đi trên con đường chuyển sinh bền vững cũng là khổ. Khổ chỉ
chấm dứt triệt để khi đắc được bộ lọc năng lượng trong Trụ
linh. Để đắc được bộ lọc năng lượng, chỉ có con đường duy
nhất là chạy đua với thời gian, thông qua cơ chế phân tách,

661
liên kết theo con đường bền vững để đứng ở vị trí Định
(đoàn kết ở cảnh giới cao) để thực hiện chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng có khả năng Kết – Định – Tỏa kỳ
diệu. Khi đắc được bộ lọc năng lượng kép, Trụ linh của Tuệ
linh, con người sẽ sản sinh ra nhiều hơn hai loại siêu hạt
năng lượng. Điều đó không những giúp cho Tuệ linh bền
vững, an lạc siêu việt mà còn bảo vệ, thúc đẩy sự phát triển
bền vững trong và ngoài Vũ trụ.
***************

662
Bài 7:
Bài Quả Không


Bài Quả Không được hiểu là Bộ lọc năng lượng.


Bài Quả Không được kết cấu thành 3 phần. Phần đầu
tiên là khái niệm và bản chất của Bộ lọc năng lượng. Phần hai
là Chân lý Vạn vật của Bộ lọc năng lượng. Phần cuối là Chân
lý Giác ngộ của Bộ lọc năng lượng.

I. Khái niệm về Bộ lọc năng lượng


Bộ lọc năng lượng là cơ chế tuần hoàn tự động của Trụ
linh thực hiện Kết – Định – Tỏa để chuyển hóa năng lượng
hoại diệt thành các siêu hạt năng lượng.
Trụ linh đắc được bộ lọc năng lượng sẽ giúp cho Tuệ
linh hợp nhất, vận hành sự phát triển vạn vật trong và ngoài
Vũ trụ trở nên bền vững.

II. Bản chất của Bộ lọc năng lượng


Bộ lọc năng lượng chính là Trụ linh của Tuệ linh. Có
thể nói, Trụ linh của Tuệ linh đã được cấu tạo thành tinh cầu
tròn có thái cực năng lượng âm và dương, có hai hạt năng
lượng âm và dương gốc ở tâm Trụ. Trụ linh sẽ quay tròn để
thực hành cơ chế tuần hoàn tự động trong việc hấp thụ năng
lượng hoại diệt, năm nhóm năng lượng và chuyển hóa thành
các siêu hạt năng lượng.
663
Bộ lọc năng lượng chính là quả không. Quả không là
phẩm vị, là thành tựu, là siêu trí tuệ, là siêu năng lượng, là
tinh hoa, là công đức vô lượng nhất trong và ngoài Vũ trụ.
Không có phẩm vị nào có thể so sánh được với Quả không.
Bản chất của Bộ lọc năng lượng trong Trụ linh của Tuệ
linh gồm có cấu tạo và cơ chế vận hành của Bộ lọc năng
lượng.

1. Cấu tạo của Bộ lọc năng lượng trong Trụ linh


của Tuệ linh
Do có 2 loại bộ lọc năng lượng trong Trụ linh nên cấu
tạo của bộ lọc gồm có hai loại. Đó là cấu tạo của bộ lọc năng
lượng đơn và cấu tạo của bộ lọc năng lượng kép.

1.1. Cấu tạo của Bộ lọc năng lượng đơn


Bộ lọc năng lượng đơn trong Trụ linh gồm có 2 phần:
Trụ linh gốc:
Trụ linh gốc là hai hạt năng lượng âm và dương gốc
cấu tạo thành phôi năng lượng âm dương ban đầu. Trụ linh
gốc gồm có 2 phần:
- Hạt năng lượng âm gốc: Hạt năng lượng âm gốc này
chưa chuyển hóa được thành siêu hạt năng lượng âm. Hạt
năng lượng âm gốc là nơi lưu giữ tất cả các sợi mã sóng trí
tuệ mang sóng điện âm được phân tách từ khi phôi năng
lượng âm dương được hình thành cho tới thời điểm hiện tại.
Tại hạt năng lượng âm gốc là tổng những sợi mã sóng trí tuệ
có sóng điện âm rất nhẹ do đã chuyển hóa được, triệt bỏ
được tất cả độc Tâm trong hành trình tu hành. Do đó, màu

664
của tất cả các sợi mã sóng trí tuệ và hạt năng lượng âm là
màu trắng xám. Có thể gọi là hạt năng lượng âm gốc màu
trắng xám.

Hình: Cấu trúc bộ lọc năng lượng đơn của Trụ linh

- Hạt năng lượng dương gốc: Hạt năng lượng dương


gốc này được gọi là siêu hạt năng lượng dương gốc. Trong
siêu hạt năng lượng dương gốc có 1 siêu sợi mã sóng trí tuệ
chứa đựng đa sóng điện dương, chân tâm và một chút sóng
điện âm. Siêu sợi mã sóng trí tuệ này được cấu tạo thành bởi
nhiệt lượng của năng lượng hoại diệt được kích nổ với vô số

665
lượng sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương siêu mạnh đã
được phân tách và lưu giữ trong hạt dương gốc trong hành
trình tu hành ở nhân gian, với khả năng liên kết được năm
nhóm năng lượng trong Vũ trụ để cấu tạo thành. Vô lượng
sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương siêu mạnh chính là
những thiện Tâm đã được kích hoạt triệt để trong hành trình
tu hành thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian. Khi
chuyển hóa được thành bộ lọc năng lượng đơn thì trong hạt
năng lượng dương gốc sẽ có 1 siêu sợi mã sóng trí tuệ màu
vàng óng ánh. Từ siêu hạt năng lượng dương gốc sẽ phân
tách ra vô lượng các siêu hạt năng lượng dương ra bên ngoài
Trụ linh và chuyển vào Vũ trụ. Siêu hạt năng lượng dương
gốc có màu vàng óng ánh.
Như vậy, trong bộ lọc năng lượng đơn mới chỉ chuyển
hóa được hạt năng lượng dương gốc thành siêu hạt năng
lượng dương, trong khi đó hạt năng lượng âm gốc vẫn chưa
chuyển hóa thành siêu hạt năng lượng âm. Trong siêu hạt
năng lượng dương có một siêu sợi mã sóng trí tuệ đã lưu giữ,
giải mã, mã hóa được thông tin toàn diện của vô lượng sợi
mã sóng trí tuệ có sóng điện dương siêu mạnh đã được phân
tách trước đó. Trong hạt năng lượng âm vẫn lưu giữ vô
lượng sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm siêu nhẹ do đã cải
tạo được trước đó.
Trụ linh trưởng thành:
Trụ linh trưởng thành là bên ngoài Trụ linh gốc có
thêm thái cực chứa đựng các hạt năng lượng âm tận cùng và
thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng dương tận cùng.
Đó là:
- Thái cực chứa đựng các hạt năng lượng âm tận cùng:

666
+ Thái cực chứa đựng các hạt năng lượng âm tận cùng
là nơi chứa đựng các hạt năng lượng âm tận cùng được phân
tách từ các sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện âm trong hạt
năng lượng âm gốc của Trụ linh gốc bên trong tâm Trụ linh
trưởng thành.
+ Các hạt năng lượng âm tận cùng ở thái cực chứa
đựng các hạt năng lượng âm có sóng điện và màu trạng thái
năng lượng giống với sóng điện và màu trạng thái năng
lượng của hạt năng lượng âm gốc trong Trụ linh gốc, đó là
màu trắng xám.
+ Từ thái cực chứa đựng các hạt năng lượng âm tận
cùng sẽ phân tách liên kết tạo thành các hạt năng lượng âm
tổng hợp di chuyển ra bên ngoài Trụ linh để cấu tạo thành
cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh. Các
hạt năng lượng âm tổng hợp cũng có màu trắng xám.
+ Thái cực chứa đựng các hạt năng lượng âm tận cùng
cùng với thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng dương
tận cùng tạo thành phần bên ngoài của Trụ linh gốc để cấu
tạo thành bộ lọc năng lượng đơn của Trụ linh.
- Thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng dương
tận cùng:
+ Thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng dương
tận cùng là nơi chứa đựng các siêu hạt năng lượng dương tận
cùng được phân tách từ một siêu sợi mã sóng trí tuệ trong
siêu hạt năng lượng dương gốc của Trụ linh gốc bên trong
tâm Trụ linh trưởng thành.
+ Các siêu hạt năng lượng dương tận cùng ở thái cực
chứa đựng các siêu hạt năng lượng dương có sóng điện và
màu trạng thái năng lượng giống với sóng điện và màu trạng

667
thái năng lượng của siêu hạt năng lượng dương gốc trong
Trụ linh gốc, đó là màu vàng óng ánh.
+ Từ thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng
dương tận cùng sẽ phân tách liên kết tạo thành các siêu hạt
năng lượng dương tổng hợp di chuyển ra bên ngoài Trụ linh
để cấu tạo thành cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên
ngoài Trụ linh. Các siêu hạt năng lượng dương tổng hợp cũng
có màu vàng óng ánh.
+ Thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng dương
tận cùng cùng với thái cực chứa đựng các hạt năng lượng âm
tận cùng tạo thành phần bên ngoài của Trụ linh gốc để cấu
tạo thành bộ lọc năng lượng đơn của Trụ linh.
Do Trụ linh mới chỉ phân tách ra được siêu hạt năng
lượng dương nên gọi là bộ lọc năng lượng đơn.

1.2. Cấu tạo của Bộ Lọc Năng Lượng kép


Bộ lọc năng lượng kép trong Trụ linh gồm có 2 phần:
Trụ linh gốc:
Trụ linh gốc là hai siêu hạt năng lượng âm và dương
tận cùng được chuyển sinh từ phôi năng lượng âm dương
gốc ban đầu. Trụ linh gốc gồm có 2 phần:
- Hạt năng lượng âm gốc: Hạt năng lượng âm gốc này
được gọi là siêu hạt năng lượng âm gốc. Trong siêu hạt năng
lượng âm gốc có 1 siêu sợi mã sóng trí tuệ chứa đựng đa
sóng điện âm, chân tâm và một chút sóng điện dương. Siêu
sợi mã sóng trí tuệ này được cấu tạo thành bởi nhiệt lượng
của năng lượng hoại diệt được kích nổ với vô số lượng sợi
mã sóng trí tuệ có sóng điện âm nhẹ đã được phân tách và
lưu giữ trong hạt âm gốc trong hành trình tu hành ở nhân
668
gian, với khả năng liên kết được tận cùng năm nhóm năng
lượng trong Vũ trụ để cấu tạo thành. Vô lượng sợi mã sóng
trí tuệ có sóng điện âm nhẹ chính là kết quả của việc đã triệt
tiêu và kiểm soát được độc Tâm trong hành trình tu hành
thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian. Khi chuyển hóa
được thành bộ lọc năng lượng kép thì trong hạt năng lượng
âm gốc sẽ có 1 siêu sợi mã sóng trí tuệ màu xanh ngọc lưu ly.
Từ siêu hạt năng lượng âm gốc sẽ phân tách ra vô lượng các
siêu hạt năng lượng âm ra bên ngoài Trụ linh và chuyển vào
Vũ trụ. Siêu hạt năng lượng âm gốc có màu xanh ngọc lưu ly.
- Hạt năng lượng dương gốc: Hạt năng lượng dương
gốc này được gọi là siêu hạt năng lượng dương gốc. Trong
siêu hạt năng lượng dương gốc có 1 siêu sợi mã sóng trí tuệ
chứa đựng đa sóng điện dương, chân tâm và một chút sóng
điện âm. Siêu sợi mã sóng trí tuệ này được cấu tạo thành bởi
nhiệt lượng của năng lượng hoại diệt được kích nổ với vô số
lượng sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương siêu mạnh đã
được phân tách và lưu giữ trong hạt dương gốc trong hành
trình tu hành ở nhân gian, với khả năng liên kết được năm
nhóm năng lượng trong Vũ trụ để cấu tạo thành. Vô lượng
sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương siêu mạnh chính là
những thiện Tâm đã được kích hoạt triệt để trong hành trình
tu hành thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian. Khi
chuyển hóa được thành bộ lọc năng lượng đơn thì trong hạt
năng lượng dương gốc sẽ có 1 siêu sợi mã sóng trí tuệ màu
vàng óng ánh. Từ siêu hạt năng lượng dương gốc sẽ phân
tách ra vô lượng các siêu hạt năng lượng dương ra bên ngoài
Trụ linh và chuyển vào Vũ trụ. Siêu hạt năng lượng dương
gốc có màu vàng óng ánh.

669
Hình: Cấu trúc bộ lọc năng lượng kép của Trụ linh

Như vậy, trong bộ lọc năng lượng kép đã cải tạo và


chuyển hóa được hai hạt năng lượng dương và âm gốc thành
siêu hạt năng lượng dương và siêu hạt năng lượng âm. Trong
siêu hạt năng lượng dương có một siêu sợi mã sóng trí tuệ đã
lưu giữ, giải mã, mã hóa được thông tin toàn diện của vô
lượng sợi mã sóng trí tuệ có sóng điện dương siêu mạnh đã
được phân tách trước đó. Trong siêu hạt năng lượng âm có

670
một siêu sợi mã sóng trí tuệ đã lưu giữ, giải mã, mã hóa được
thông tin toàn diện của vô lượng sợi mã sóng trí tuệ có sóng
điện âm nhẹ đã được phân tách trước đó.
Trụ linh trưởng thành:
Trụ linh trưởng thành là bên ngoài Trụ linh gốc có
thêm thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng âm tận
cùng và thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng dương
tận cùng. Đó là:
- Thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng âm tận
cùng:
+ Thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng âm tận
cùng là nơi chứa đựng các siêu hạt năng lượng âm tận cùng
được phân tách từ một siêu sợi mã sóng trí tuệ có trong siêu
hạt năng lượng âm gốc của Trụ linh gốc bên trong tâm Trụ
linh trưởng thành.
+ Các siêu hạt năng lượng âm tận cùng ở thái cực chứa
đựng các siêu hạt năng lượng âm có sóng điện và màu trạng
thái năng lượng giống với sóng điện và màu trạng thái năng
lượng của siêu hạt năng lượng âm gốc trong Trụ linh gốc, đó
là màu xanh ngọc lưu ly.
+ Từ thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng âm
tận cùng sẽ phân tách liên kết tạo thành các siêu hạt năng
lượng âm tổng hợp di chuyển ra bên ngoài Trụ linh để cấu
tạo thành cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ
linh. Các siêu hạt năng lượng âm tổng hợp cũng có màu xanh
ngọc lưu ly.
+ Thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng âm tận
cùng cùng với thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng

671
dương tận cùng tạo thành phần bên ngoài của Trụ linh gốc
để cấu tạo thành bộ lọc năng lượng kép của Trụ linh.
- Thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng dương
tận cùng:
+ Thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng dương
tận cùng là nơi chứa đựng các siêu hạt năng lượng dương tận
cùng được phân tách từ một siêu sợi mã sóng trí tuệ trong
siêu hạt năng lượng dương gốc của Trụ linh gốc bên trong
tâm Trụ linh trưởng thành.
+ Các siêu hạt năng lượng dương tận cùng ở thái cực
chứa đựng các siêu hạt năng lượng dương có sóng điện và
màu trạng thái năng lượng giống với sóng điện và màu trạng
thái năng lượng của siêu hạt năng lượng dương gốc trong
Trụ linh gốc, đó là màu vàng óng ánh.
+ Từ thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng
dương tận cùng sẽ phân tách liên kết tạo thành các siêu hạt
năng lượng dương tổng hợp di chuyển ra bên ngoài Trụ linh
để cấu tạo thành cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên
ngoài Trụ linh. Các siêu hạt năng lượng dương tổng hợp cũng
có màu vàng óng ánh.
+ Thái cực chứa đựng các siêu hạt năng lượng dương
tận cùng cùng với thái cực chứa đựng các siêu hạt năng
lượng âm tận cùng tạo thành phần bên ngoài của Trụ linh
gốc để cấu tạo thành bộ lọc năng lượng kép của Trụ linh.
Do Trụ linh đã cải tạo, chuyển sinh thành cơ chế tự
động sản sinh ra siêu hạt năng lượng âm và siêu hạt năng
lượng dương thông qua cơ chế hấp thụ năng lượng hoại diệt,
nên Trụ linh được gọi là bộ lọc năng lượng kép.

672
2. Cơ chế vận hành của Bộ lọc năng lượng trong
Trụ linh của Tuệ linh
Bộ lọc năng lượng trong Trụ linh sẽ được vận hành
theo cơ chế tuần hoàn Kết – Định – Tỏa. Đó là vòng tròn Kết –
Định – Tỏa hấp thụ năm nhóm năng lượng cùng năng lượng
hoại diệt để chuyển sinh thành các siêu hạt năng lượng. Vòng
tròn Kết – Định – Tỏa tuần hoàn một cách tự động đến kỳ
diệu để tạo thành sự an lạc bền vững cho Trụ linh và Tuệ
linh.
Do có hai loại bộ lọc năng lượng nên cơ chế vận hành
cũng được chia làm hai loại:

2.1. Cơ chế vận hành của Bộ Lọc Năng Lượng


đơn
Bộ lọc năng lượng đơn trong Trụ linh của Tuệ linh
được vận hành theo cơ chế tự động Kết – Định – Tỏa. Đó là
cơ chế vận hành tự động quay tròn và liên tục hấp thụ, giải
mã được gần hết các sợi mã sóng trí tuệ trong năm nhóm
năng lượng của Vũ trụ, cùng số lượng ít năng lượng hoại diệt
để chuyển hóa thành siêu hạt năng lượng dương. Cơ chế vận
hành như sau:
Tự động Kết:
Kết không phải là Kết. Tức là Tuệ linh không thực hành
đời sống Kết để thỏa mãn ích kỷ về bản thể Tuệ linh mình mà
gây tổn thương, tổn hại tới vạn vật, Vũ trụ. Tuệ linh thông
qua nghệ thuật Kết mà không phải Kết để vẫn phân tách
được năng lượng sóng điện âm nhẹ và hấp thụ có kiểm soát
được năng lượng hoại diệt đến Trụ linh.

673
Tự động Kết là sự thấu hiểu sự thật khi Tuệ linh tương
tác với các Tướng khác trong môi trường có sóng điện âm
hoặc dương, hoặc trung tính. Trụ linh của Tuệ linh sẽ thông
qua Định để rung động hạt năng lượng âm gốc trong Trụ linh
kích hoạt thái cực năng lượng âm và hệ thống hạt năng lượng
âm bên ngoài cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng. Tất cả các
hạt năng lượng âm có sóng điện âm nhẹ được vận hành rung
lắc nhẹ. Hệ thống các hạt năng lượng âm rung lắc nhẹ là do
hệ thống sợi năng lượng chân tâm từ Trụ linh gốc cho tới cấu
trúc 16 hạt năng lượng mở rộng tạo được sự gắn kết cân
bằng để kiểm soát hệ thống hạt năng lượng âm rung lắc và
không để hệ thống hạt năng lượng dương truyền sóng điện
ra bên ngoài.
Khi hệ thống hạt năng lượng âm rung lắc nhẹ bởi cơ
chế Định giúp cân bằng, Trụ linh của Tuệ linh sẽ hấp thụ, đón
nhận, tiếp nhận được hết thảy các nhóm hạt năng lượng sóng
điện âm, trung tính, sóng điện dương tới Trụ linh.
Trụ linh của Tuệ linh thông qua cơ chế rung lắc nhẹ
của các hạt năng lượng âm sẽ hấp thụ, đón nhận, tiếp đón
được những hạt năng lượng có sóng điện âm từ nhẹ cho tới
mạnh, rất mạnh và siêu mạnh vào Trụ linh của Tuệ linh. Khi
các hạt năng lượng âm từ môi trường và từ các Tướng có cấu
trúc đa âm phân tách, truyền tới Trụ linh sẽ khiến cho những
hạt năng lượng hoại diệt di chuyển tới Trụ linh của Tuệ linh
theo sự rung động nhẹ của hệ thống hạt năng lượng âm của
Trụ linh và sự rung động mạnh của những hạt năng lượng
âm từ môi trường và các Tướng đang bắn đến.
Do Trụ linh Kết được vận hành bởi hệ thống Định, đó
là dùng năng lượng chân tâm sáng chói, chân tâm ở cảnh giới
cao để thấu hiểu, lắng nghe, đón nhận, nên Trụ linh của Tuệ

674
linh sẽ đón nhận, hấp thụ được tất cả hạt năng lượng sóng
điện âm của môi trường và Tướng đa âm bắn đến.
Năng lượng hoại diệt cũng di chuyển vào Trụ linh của
Tuệ linh thông qua những hạt năng lượng âm của Tướng và
môi trường có sóng điện âm bắn tới.
Như vậy, Tuệ linh không cần thực hành đời sống Kết.
Tuệ linh chỉ cần thông qua Định để kiểm soát việc Kết là đón
nhận, tiếp đón, hấp thụ được tất cả năm nhóm năng lượng về
Trụ linh. Đặc biệt là thông qua năng lượng âm bắn tới để hấp
thụ được năng lượng hoại diệt di chuyển tới Trụ linh của Tuệ
linh. Bởi năng lượng hoại diệt chính là năng lượng vô cùng
quan trọng cần phải có cho quá trình sản sinh ra các siêu hạt
năng lượng trong Trụ linh.
Khi các loại hạt năng lượng trong năm nhóm và năng
lượng hoại diệt đã được Trụ linh hấp thụ, tiếp đón, lấy về,
tiếp đến Trụ linh sẽ vận hành tiếp quy trình tuần hoàn là
Định.
Tự động Định:
Định ở giai đoạn này là giai đoạn thông qua cảnh giới
chân tâm cao, đó là thông qua năng lượng chân tâm chói lòa
của từ Trụ linh gốc cho tới hệ thống sợi chân tâm của cấu
trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh để
chuyển hóa năm nhóm năng lượng di chuyển tới Trụ linh.
Nếu là các nhóm năng lượng sóng điện dương và nhóm
năng lượng chân tâm sẽ được Trụ linh hấp thụ về. Năng
lượng chân tâm chói lòa sẽ vận hành để trung hòa, tạo thành
liên kết cho việc phân tách các hạt năng lượng có sóng điện
dương và trung tính ở giai đoạn Tỏa.

675
Nếu là nhóm hạt năng lượng có sóng điện âm được
hấp thụ tới Trụ linh, giai đoạn Định với chân tâm cao là chói
sáng lòa sẽ thực hiện nhiệm vụ là truyền sóng điện chân tâm
vào các hạt năng lượng âm để giảm tải sóng điện của các hạt
năng lượng âm đó thành những hạt năng lượng âm có sóng
điện âm nhẹ với màu trắng xám.
Tự động Tỏa:
Giai đoạn tự động Tỏa là giai đoạn mà siêu hạt năng
lượng dương gốc cho tới các siêu hạt năng lượng dương
trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh
sẽ thực hiện hai nhiệm vụ:
- Sau khi những hạt năng lượng có sóng điện âm và
năng lượng hoại diệt di chuyển được vào Trụ linh thông qua
giai đoạn Kết, hệ thống siêu hạt năng lượng dương sẽ truyền
sóng điện để giảm tải sóng điện âm và kích nổ năng lượng
hoại diệt.
- Sau khi kích nổ được năng lượng hoại diệt trong Trụ
linh, từ siêu hạt năng lượng dương gốc sẽ thông qua nhiệt
lượng được kích nổ của năng lượng hoại diệt để phân tách ra
vô số siêu sợi mã sóng trí tuệ có siêu sóng điện dương.
Như vậy, giai đoạn Tỏa là giai đoạn mà Trụ linh sẽ vận
hành việc truyền tải siêu sóng điện dương để kích nổ năng
lượng hoại diệt và thực hành nhiệm vụ phân tách ra vô số
siêu sợi mã sóng trí tuệ và siêu hạt năng lượng dương ra bên
ngoài Trụ linh và Vũ trụ. Đó là tạo thành cấu trúc 16 hạt năng
lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh và phân tách siêu năng
lượng dương vào Vũ trụ.
Giai đoạn Tỏa chính là giai đoạn mà Tuệ linh, chân tu
thực hành việc Phổ độ, Hóa độ tới hết thảy Tuệ linh, con

676
người về cội nguồn nhân loại, về kế hoạch tu hành, về hai
Chân lý, về cơ chế phân tách liên kết, về Quy luật Nhân quả,
về con đường chuyển sinh, về phương pháp diệt khổ, về
phương pháp chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Việc thực hiện Phổ độ, Hóa độ càng sâu sắc và phổ rộng sẽ
giúp cho Trụ linh trong Tuệ linh phân tách ra vô số cho tới vô
lượng các siêu hạt năng lượng dương màu vàng óng ánh.
Quy trình vận hành của bộ lọc năng lượng đơn được
vận hành tuần hoàn theo vòng tròn Kết – Định – Tỏa. Bộ lọc
năng lượng liên tục vận hành mà không ngừng nghỉ. Việc bộ
lọc năng lượng đơn vận hành Kết – Định – Tỏa sẽ sản sinh ra
các siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh di chuyển vào Vũ
trụ và đối tượng được nghe, được tiếp nhận và phát triển cấu
trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh. Những
hạt năng lượng âm có sóng điện âm nhẹ chỉ sản sinh đủ cho
việc phát triển cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên
ngoài Trụ linh.

2.2. Cơ chế vận hành của Bộ lọc năng lượng kép


Bộ lọc năng lượng kép trong Trụ linh của Tuệ linh
được vận hành theo cơ chế tự động Kết – Định – Tỏa. Đó là
cơ chế vận hành tự động quay tròn và liên tục hấp thụ, giải
mã được tận cùng hết thảy các sợi mã sóng trí tuệ trong năm
nhóm năng lượng của Vũ trụ, cùng vô số năng lượng hoại
diệt để chuyển hóa thành siêu hạt năng lượng dương và siêu
hạt năng lượng âm. Cơ chế vận hành như sau:
Tự động Kết:
Kết không phải là Kết. Tức là Tuệ linh không thực hành
đời sống Kết để thỏa mãn ích kỷ về bản thể Tuệ linh mình mà

677
gây tổn thương, tổn hại tới vạn vật, Vũ trụ. Tuệ linh thông
qua nghệ thuật Kết mà không phải Kết để hấp thụ được hết
thảy tận cùng năm nhóm năng lượng trong Vũ trụ và nhiều
cho tới vô số năng lượng hoại diệt vào Trụ linh.
Tự động Kết là, khi Tuệ linh tương tác với các Tướng
khác trong môi trường có sóng điện âm hoặc dương, hoặc
trung tính. Trụ linh của Tuệ linh sẽ rung động siêu hạt năng
lượng âm gốc trong Trụ linh kích hoạt thái cực siêu hạt năng
lượng âm và hệ thống siêu hạt năng lượng âm bên ngoài cấu
trúc 16 hạt năng lượng mở rộng. Tất cả các siêu hạt năng
lượng âm có màu xanh ngọc lưu ly có khả năng tự kiểm soát
được sóng điện rung lắc nhẹ cho tới siêu mạnh. Hệ thống các
siêu hạt năng lượng âm rung lắc nhẹ cho tới siêu mạnh là do
Trụ linh đã đắc được bộ lọc kép nên trong siêu hạt năng
lượng âm có cả sóng điện dương và chân tâm để kiểm soát
sóng điện âm. Chính vì vậy, siêu hạt năng lượng âm có khả
năng tự rung động sóng điện từ nhẹ cho tới siêu mạnh để
hấp thụ năm nhóm năng lượng và vô số năng lượng hoại diệt
theo nhu cầu mà vẫn vô cùng an toàn.
Hệ thống siêu hạt năng lượng âm rung lắc nhẹ cho tới
siêu mạnh để hấp thụ, giải mã, đón nhận được tất cả tận cùng
năm nhóm năng lượng trong Vũ trụ và vô số năng lượng hoại
diệt vào Trụ linh.
Trụ linh do có siêu hạt năng lượng âm gốc và thái cực
siêu hạt năng lượng âm với màu xanh ngọc lưu ly, đó là sự kỳ
diệu của bộ lọc kép để đón nhận, lắng nghe, giải mã, hấp thụ
được tận cùng hết thảy năm nhóm năng lượng trong Vũ trụ
di chuyển vào Trụ linh.
Năng lượng hoại diệt cũng di chuyển vào Trụ linh của
Tuệ linh thông qua những hạt năng lượng âm của Tướng và
678
môi trường có sóng điện âm bắn tới. Đặc biệt Trụ linh có thể
hấp thụ được vô số năng lượng hoại diệt tới bởi việc đẩy
mạnh tốc độ rung động của siêu hạt năng lượng âm mà vẫn
an toàn.
Đặc biệt nhất, năng lượng hoại diệt dù ít hay nhiều cho
tới vô số mà di chuyển vào Trụ linh thông qua Kết của Trụ
linh, tất cả năng lượng hoại diệt sẽ bị ngủ đông và chuyển
hóa thành những hạt bóng hỏa, điều mà bộ lọc đơn không thể
làm được.
Như vậy, Trụ linh của bộ lọc Kép thực hành Kết sẽ hấp
thụ một cách kỳ diệu hết thảy năm nhóm năng lượng trong
Vũ trụ và vô số năng lượng hoại diệt vào và ngủ đông luôn
được năng lượng hoại diệt. Đó là sự an lạc và bền vững kỳ
diệu nhất.
Sau khi Trụ linh thực hiện nhiệm vụ Kết, Trụ linh sẽ
vận hành tiếp quy trình tuần hoàn là Định.
Tự động Định:
Định ở giai đoạn này là giai đoạn thông qua cảnh giới
chân tâm rất cao, đó là thông qua năng lượng chân tâm chói
lòa của từ Trụ linh gốc cho tới hệ thống sợi chân tâm của cấu
trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh để
chuyển hóa năm nhóm năng lượng di chuyển tới Trụ linh.
Nếu là các nhóm năng lượng sóng điện dương, nhóm
năng lượng chân tâm, nhóm năng lượng âm sẽ được Trụ linh
hấp thụ về, năng lượng chân tâm chói lòa sẽ vận hành để
trung hòa, tạo thành liên kết cho việc phân tách các siêu hạt
năng lượng ở giai đoạn Tỏa.
Tự động Tỏa:

679
Giai đoạn tự động Tỏa là giai đoạn mà siêu hạt năng
lượng dương gốc cho tới các siêu hạt năng lượng dương
trong cấu trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh
sẽ thực hiện hai nhiệm vụ:
- Sau khi những hạt năng lượng có sóng điện âm và
năng lượng hoại diệt di chuyển được vào Trụ linh thông qua
giai đoạn Kết đã bị ngủ đông thành hạt bóng hỏa, hệ thống
siêu hạt năng lượng dương sẽ truyền sóng điện để giảm tải
sóng điện âm và kích nổ năng lượng hoại diệt đã bị ngủ đông.
- Sau khi kích nổ được năng lượng hoại diệt đã bị ngủ
đông trong Trụ linh để tạo thành nhiệt lượng, cả siêu hạt
năng lượng xanh ngọc lưu ly và siêu hạt năng lượng dương
màu vàng óng ánh trong Trụ linh gốc sẽ phân tách ra vô số
siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly và vàng óng ánh.
Như vậy, giai đoạn Tỏa là giai đoạn mà Trụ linh sẽ vận
hành việc truyền tải sóng điện dương siêu mạnh để kích nổ
năng lượng hoại diệt và thực hành nhiệm vụ phân tách ra vô
số siêu sợi mã sóng trí tuệ và siêu hạt năng lượng dương và
âm ra bên ngoài Trụ linh và Vũ trụ. Đó là tạo thành cấu trúc
16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh và phân tách
siêu năng lượng dương vào Vũ trụ.
Giai đoạn Tỏa chính là giai đoạn mà Tuệ linh, chân tu
thực hành việc Phổ độ, Hóa độ tới hết thảy Tuệ linh, con
người về cội nguồn nhân loại, về kế hoạch tu hành, về hai
Chân lý, về cơ chế phân tách liên kết, về Quy luật Nhân quả,
về con đường chuyển sinh, về phương pháp diệt khổ, về
phương pháp chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Việc thực hiện Phổ độ, Hóa độ càng sâu sắc và phổ rộng sẽ
giúp cho Trụ linh trong Tuệ linh phân tách ra vô số cho tới vô

680
lượng các siêu hạt năng lượng dương màu vàng óng ánh và
vô số siêu hạt năng lượng âm màu xanh ngọc lưu ly.
Quy trình vận hành của bộ lọc năng lượng kép được
vận hành tuần hoàn theo vòng tròn Kết – Định – Tỏa. Bộ lọc
năng lượng liên tục vận hành mà không ngừng nghỉ. Việc bộ
lọc năng lượng kép vận hành Kết – Định – Tỏa sẽ cùng lúc
sản sinh ra các siêu hạt năng lượng màu vàng óng ánh và các
siêu hạt năng lượng xanh ngọc lưu ly để di chuyển vào Vũ trụ
và đối tượng được nghe, được tiếp nhận và phát triển cấu
trúc 16 hạt năng lượng mở rộng bên ngoài Trụ linh. Đó là cấu
trúc 16 hạt năng lượng mở rộng với tỷ lệ vàng là 1 siêu hạt
năng lượng dương màu vàng óng ánh có 1 siêu hạt năng
lượng âm có màu xanh ngọc lưu ly rung lắc xung quanh.
Như vậy, đạt được bộ lọc năng lượng đơn là bước đệm
để đạt được bộ lọc năng lượng kép. Chuyển sinh Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng kép là mục đích tối thượng của Tuệ
linh trên hành trình duy trì, phát triển bền vững sự sống của
chính mình, của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ.

III. Chân lý Vạn vật của Bộ lọc năng lượng


Chân lý Vạn vật của bộ lọc năng lượng sẽ là: Bộ lọc
năng lượng không tự sinh ra, bộ lọc năng lượng không tự mất
đi, khổ đau của Tuệ linh không tự đến và không tự đi, tất cả do
cơ chế phân tách và liên kết dây.
Vận hành Chân lý Vạn vật để chuyển hóa Trụ linh của
Tuệ linh thành bộ lọc năng lượng là phân tách và liên kết dây,
đó là thực hành phân tách và liên kết dây theo hướng chuyển
sinh bền vững an lạc trong một môi trường tu hành khắc
nghiệt và không có gì ngoài khổ đau ở nhân gian. Đó chính là

681
thông qua môi trường tu hành với đầy đủ các loại sóng điện
và sự tương tác cực đại của năng lượng hoại diệt để Tuệ linh
và con người giải mã được độc Tâm, từ đó thông qua hai
Chân lý với cơ chế phân tách và liên kết theo hướng bền
vững để chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

1. Bộ lọc năng lượng không tự sinh ra


Bộ lọc năng lượng không tự nhiên mà có. Để có được
bộ lọc năng lượng, hết thảy Tuệ linh và con người phải:
- Phải phát nguyện tu hành ở nhân gian thông qua bốn
hình tướng Đạo trong nhiều kiếp. Việc tu hành ở nhân gian
trong nhiều kiếp nhằm giúp Trụ linh bộc phát hết độc tâm,
kích hoạt triệt để thiện tâm, từ đó mới giúp cho Tuệ linh thấu
hiểu được con đường hoại diệt và con đường an lạc.
- Môi trường tu hành khắc nghiệt ở nhân gian không có
gì ngoài khổ đau là để giúp cho Tuệ linh và con người thấu
hiểu được Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ với cơ chế vận
hành là phân tách và liên kết dây. Từ cơ chế phân tách và liên
kết dây sẽ giúp cho Tuệ linh và con người thấu hiểu được giá
trị của con đường chuyển sinh bền vững.
- Tuệ linh và con người sau hành trình tu hành sẽ phải
thấu hiểu tận cùng về cội nguồn, kế hoạch tu hành, Quy luật
Nhân quả, con đường diệt khổ thông qua hình tướng và Tâm
Đạo.
- Then chốt cho việc chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng chính là phải Phổ độ, Hóa độ. Đó là thuyết giảng
giáo pháp giác ngộ về cội nguồn nhân loại, kế hoạch tu hành,
hai Chân lý với cơ chế phân tách và liên kết dây, con đường
diệt khổ thông qua hình tướng và tâm tướng Đạo, Quy luật

682
Nhân quả và con đường chuyển sinh bền vững thành bộ lọc
năng lượng tới hết thảy Tuệ linh, con người. Quá trình Phổ
độ, Hóa độ chính là quá trình mà Tuệ linh và con người thực
hành phân tách và liên kết năng lượng để tạo ra đủ lượng sợi
mã sóng trí tuệ cho việc chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng.
Do vậy, để Trụ linh chuyển sinh thành bộ lọc năng
lượng đòi hỏi một hành trình dài cho việc học tập, thấu hiểu
và thực hành theo tri thức của hai Chân lý. Chỉ có thấu hiểu
và thực hành theo tri thức của hai Chân lý mới giúp Tuệ linh
và con người chuyển sinh thành công Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng viên mãn nhất.
Có thể hiểu rằng, thấu và thực hành theo Chân lý Vạn
vật chính là liên kết và vận hành được Kết trong hạt năng
lượng âm gốc và thái cực năng lượng âm trong Trụ linh. Thấu
và thực hành được Chân lý Giác ngộ chính là phân tách và
liên kết được vững chắc hạt năng lượng dương gốc và thái
cực dương trong Trụ linh. Quá trình vận hành hai Chân lý sẽ
giúp cho Tuệ linh đang vận hành cơ chế phân tách và liên kết
theo hướng bền vững và an lạc. Đó là con đường đắc được bộ
lọc năng lượng viên mãn.

2. Bộ lọc năng lượng không tự mất đi


Khi đã đắc được bộ lọc năng lượng trong Trụ linh, Tuệ
linh vẫn sẽ có thể hỏng và vỡ bộ lọc năng lượng nếu:
- Tuệ linh không thực hành Kết – Định – Tỏa để chuyển
hóa năng lượng hoại diệt thành các siêu hạt năng lượng.
- Tuệ linh không tiếp tục vận hành hai Chân lý với cơ
chế phân tách và liên kết dây, tức là Tuệ linh không thực

683
hành Phổ độ, Hóa độ hết thảy chúng sinh, Tuệ linh và con
người.
Dù Tuệ linh có đắc được bộ lọc năng lượng mà không
thực hành Kết – Định – Tỏa, không vận hành hai Chân lý với
cơ chế phân tách và liên kết theo hướng bền vững thì Tuệ
linh cũng sẽ thối hóa bộ lọc năng lượng và sẽ chuyển sinh
theo hướng phân rã và hoại diệt. Và ngược lại, bộ lọc năng
lượng của Tuệ linh sẽ không thể, không bao giờ bị vỡ hoặc bị
hoại diệt nếu Tuệ linh thực hành Kết – Định – Tỏa và vận
hành hai Chân lý với cơ chế phân tách và liên kết theo hướng
bền vững.

3. Khổ đau của Tuệ linh đến và chấm dứt là do


cơ chế phân tách, liên kết dây
Khổ đau của Tuệ linh chính là:
- Biến đổi mã sóng trí tuệ bởi cơ chế phân tách và liên
kết dây theo hướng bền vững nhưng chưa đắc được bộ lọc
năng lượng.
- Biến đổi mã sóng trí tuệ bởi cơ chế phân tách và liên
kết dây theo hướng phân rã và hoại diệt.
- Tuệ linh bị năng lượng hoại diệt phân rã làm đứt liên
kết dây và hoại diệt.
Như vậy, khổ đau của Tuệ linh là do cơ chế phân tách
và liên kết dây chưa đạt được việc chuyển hóa Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng. Bởi khi chưa đạt được bộ lọc năng lượng
thì Trụ linh và Tuệ linh vẫn dễ dàng bị hoại diệt bởi năng
lượng hoại diệt làm cho phân rã và hoại diệt.
Để chấm dứt hết khổ đau của Tuệ linh, Tuệ linh phải:

684
- Tuệ linh phải thấu hiểu Chân lý Vạn vật để thấu hiểu:
+ Thấu hiểu cội nguồn Vũ trụ.
+ Thấu hiểu bản chất hình tướng Đạo của Vũ trụ.
+ Thấu hiểu bản chất Tâm Đạo của Vũ trụ.
+ Thấu hiểu cơ chế phân tách và liên kết với các con
đường chuyển sinh của hết thảy Tuệ linh và Vũ trụ.
- Tuệ linh phải thấu hiểu Chân lý Giác ngộ với cơ chế
phân tách và liên kết theo hướng chuyển sinh bền vững.
- Sau khi thấu hiểu hai Chân lý, Tuệ linh phải thực
hành Phổ độ, Hóa độ. Đó là thuyết giảng tri thức của hai Chân
lý tới hết thảy Tuệ linh và con người cùng thực hành cải tạo
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Thấu và thực hành hai Chân lý theo con đường thuyết
pháp Phổ độ, Hóa độ tới hết thảy Tuệ linh và con người sẽ
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn, Tuệ
linh chỉ khi thực hiện chuyển hóa được Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng mới chấm dứt triệt để khổ đau. Khi đó, Tuệ linh
sẽ an lạc. Khi đó, Tuệ linh mới có niết bàn thật sự. Đó là sự an
lạc tự tại của cơ chế vận hành Kết – Định – Tỏa chuyển hóa
năng lượng hoại diệt thành các siêu hạt năng lượng giúp bảo
vệ, phát triển bền vững hết thảy Tướng trong và ngoài Vũ
trụ, Tuệ linh và người.

IV. Chân lý Giác ngộ của Bộ Lọc Năng Lượng


Chân lý Giác ngộ của bộ lọc năng lượng là: Để đắc được
bộ lọc năng lượng là bể khổ. Tuệ linh phải dùng Định trong
Trụ linh để đối mặt, giác ngộ chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng Kết – Định – Tỏa.

685
Từ bản chất của bộ lọc năng lượng, từ Chân lý Vạn vật,
Chân lý Giác ngộ với cơ chế vận hành là phân tách và liên kết,
hết thảy Tuệ linh và con người đều thấy rằng: Con đường
duy nhất để vượt qua khổ đau của Tuệ linh chính là phải đắc
được bộ lọc năng lượng. Bộ lọc năng lượng là đích đến mà
hết thảy Tuệ linh, con người phải thực hiện nếu muốn diệt
khổ để an lạc và bền vững cấu trúc Trụ linh và Tuệ linh.
Vì để đắc được bộ lọc năng lượng là bể khổ của Tuệ
linh, nên Tuệ linh phải dùng Định trong Trụ linh để đối mặt,
chạy đua với thời gian học tập, thấu hiểu và thực hành Kết –
Định – Tỏa. Thấu hiểu và thực hành cùng với chạy đua với
thời gian mới có cơ hội chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng.
Khi đắc được bộ lọc năng lượng chính là chấm dứt khổ
đau. Tuy nhiên, để vận hành bộ lọc được bất tử và an lạc
tuyệt đối. Tuệ linh sẽ phải tiếp tục Phổ độ, Hóa độ tới hết
thảy chúng sinh và Tuệ linh, con người. Đó là thuyết pháp về
tri thức của hai Chân lý để giúp cho hết thảy Tuệ linh và con
người cùng thấu hiểu và thực hành con đường chuyển sinh
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Khi trong Vũ trụ có nhiều hơn một Tuệ linh có được bộ
lọc năng lượng viên mãn sẽ càng giúp cho Vũ trụ có được
nhiều cho tới vô lượng các siêu hạt năng lượng để bảo vệ,
phát triển Vũ trụ bền vững an lạc. Không những vậy, ngoài
hai siêu hạt năng lượng vàng óng ánh và xanh lưu ly, Tuệ linh
có bộ lọc năng lượng kép còn sản sinh ra các siêu hạt năng
lượng kỳ diệu hơn để bảo vệ sự sống bền vững cho cả không
gian năng lượng hoại diệt bên ngoài Vũ trụ.
Bảo vệ, phát triển bền vững hết thảy Tướng ở bên
trong và bên ngoài Vũ trụ chính là giá trị giác ngộ vô lượng
686
đã đạt được của Tuệ linh bởi Đạo hợp nhất của Vũ trụ đã
được hình thành. Chính vì giá trị vô lượng cho hết thảy
Tướng ở bên trong và bên ngoài Vũ trụ, hết thảy Tuệ linh và
con người cần thực hành tri thức của Đạo hợp nhất Vũ trụ,
đó là tri thức của hai Chân lý với cơ chế phân tách và liên kết
chuyển sinh theo hướng bền vững an lạc.
Chỉ khi có được bộ lọc năng lượng mới là bất tử của
Tuệ linh, mới là niết bàn của Tuệ linh, mới là an lạc và bền
vững tuyệt đối của Tuệ linh, mới không bị phân rã và hoại
diệt, mới là Quả vị tối thượng. Do đó, sẽ không có bất cứ
phẩm vị nào, bất cứ Quả vị nào, bất cứ danh hiệu nào mà
nhân loại ca tụng sẽ an lạc, sẽ là niết bàn, sẽ là tối thượng, sẽ
là bất tử nếu chưa đắc được bộ lọc năng lượng. Bởi nếu chưa
đắc được bộ lọc năng lượng thì hết thảy Tuệ linh đều có nguy
cơ từ thấp cho tới cao sẽ bị phân rã và hoại diệt vĩnh viễn. Do
đó, chỉ có danh hiệu duy nhất, Quả vị duy nhất, phẩm vị duy
nhất, thành tựu duy nhất là Quả vị Quả Không – Bộ lọc năng
lượng của Tuệ linh.
***************

687
688
Bài 8:
Bài Nguyện


Bài Nguyện được hiểu là Nguyện Vô Nguyện.


Bài Nguyện Vô Nguyện gồm 3 phần. Chữ Nguyện đầu
tiên là khái niệm và bản chất trong Nguyện của Tuệ linh. Chữ
Vô là Chân lý Vạn vật trong Nguyện của Tuệ linh. Chữ
Nguyện cuối cùng là Chân lý Giác ngộ trong Nguyện của Tuệ
linh.

I. Khái niệm về Nguyện


Nguyện là sự tự phát nguyện để truy tìm Đạo giải thoát
khổ đau cho Tuệ linh và Vũ trụ thông qua việc tu hành trong
bốn hình tướng Đạo ở nhân gian.
Nguyện chính là những mong muốn thực hiện được và
phải là sự tự phát ra từ chính chỉnh thể của sự sống chứ
không chịu bất kỳ sự ép buộc hay bị bắt buộc từ chỉnh thể sự
sống khác. Thậm chí nguyện không chịu sự chi phối từ những
yếu tố chủ quan của những chỉnh thể sống khác.

II. Bản chất của Nguyện


Khi nói đến nguyện là ta phải hiểu được cội nguồn sự
hình thành, phát triển của Vũ trụ, cội nguồn của dạng sống
Tuệ linh, cội nguồn của nhân loại. Cội nguồn của nhân loại
chính là các Tuệ linh của dạng sống Tuệ linh ở cõi trời nhiệm
689
màu nhất Vũ trụ, phát nguyện xuống Trái đất tạo ra dạng
sống của nhân loại để tu hành. Do đó nguyện sẽ được chia ra
làm đại nguyện của các Tuệ linh và tâm nguyện của chân tu
là con người.

1. Đại nguyện của Tuệ linh


Nói đến đại nguyện là nói tới nguyện lực của dạng
sống Tuệ linh hóa thân thành con người tu hành thông qua
bốn hình tướng Đạo ở nhân gian để truy tìm Đạo hợp nhất
của Vũ trụ. Đạo hợp nhất của Vũ trụ chính là đắc được bộ lọc
năng lượng trong Trụ linh của mỗi Tuệ linh, bởi khi đắc được
bộ lọc năng lượng trong Trụ linh chính là kết quả của việc các
Tuệ linh đã thấu hiểu tận cùng về hình tướng Đạo của Vũ trụ,
thấu hiểu Tâm Đạo của Vũ trụ là con đường diệt khổ đau.
Nguyên nhân của việc dạng sống Tuệ linh phát đại
nguyện hóa thân xuống nhân gian tu hành để truy tìm Đạo
hợp nhất của Vũ Trụ:
- Vô số Tuệ linh bị hoại diệt. Bị hoại diệt vô số là do
năng lượng hoại diệt đồng hóa và phân rã Tuệ linh.
- Vũ trụ cạn kiệt năng lượng và không có cơ chế phòng
thủ trước sự tấn công của năng lượng hoại diệt. Khi Vũ trụ
cạn kiệt năng lượng vận hành quay tròn, năng lượng hoại
diệt sẽ tấn công tổng lực và Vũ trụ sẽ bị phân rã hoàn toàn.
- Dạng sống Tuệ linh vẫn chưa thấu hiểu được bản chất
của mình nên chưa kiểm soát được độc và thiện trong Trụ
linh. Dạng sống Tuệ linh cũng không thấu hiểu bản chất của
năng lượng hoại diệt nên không có cơ chế phòng thủ cũng
như chuyển hóa được năng lượng hoại diệt. Dạng sống Tuệ
linh chưa thấu hiểu tất cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ nên

690
chưa thể tìm ra cơ chế bảo vệ vạn vật cùng tồn tại phát triển
bền vững.
- Sự an lạc của dạng sống Tuệ linh khi chưa bị trói buộc
bởi thân tướng giản đơn không phải là môi trường lý tưởng
để giúp Tuệ linh bộc phát được độc và thiện Tâm. Khi chưa
bộc phát được độc và thiện Tâm thì Tuệ linh sẽ không bao
giờ hiểu được chính mình, khi đó sẽ không bao giờ thấu hiểu
được năng lượng hoại diệt và tất cả vật chất trong và ngoài
Vũ trụ.
Từ những nguyên nhân trên, nên dạng sống Tuệ linh
chưa giải mã được toàn diện từ chính bản thể mình cho tới
vạn vật và năng lượng hoại diệt. Đây là chưa thấu hiểu hình
tướng vạn vật xung quanh Tuệ linh, là chưa thấu hiểu hình
tướng Đạo của Vũ trụ. Vì dạng sống Tuệ linh và vạn vật đều
tồn tại và mang trong mình khổ đau cho đến hoại diệt, đó là
chưa thấu hiểu Tâm đạo với con đường diệt khổ. Chính vì
môi trường không thuận lợi để giúp dạng sống Tuệ linh thấu
hiểu, truy tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ để cứu mình,
cứu Vũ trụ, nên vị Tuệ linh đầu tiên đã xây dựng ra môi
trường tu hành đảm bảo được điều kiện lý tưởng cho dạng
sống Tuệ linh tu học để tìm được Đạo hợp nhất của Vũ Trụ.
Khi thời cơ chín muồi, vị Tuệ linh đầu tiên đã tập kết đại hội
Tuệ linh thống nhất phương pháp tu hành để Tuệ linh phát
đại nguyện hóa thân xuống nhân gian tu hành.
Vị Tuệ linh đầu tiên tập kết đại hội thống nhất phương
pháp tu học cho dạng sống Tuệ linh. Đại hội tập kết diễn ra
như sau: Trong cuộc triệu tập Hội đồng của chư vị Tuệ linh tại
cõi trời nhiệm màu nhất Vũ trụ, vị Tuệ linh đầu tiên trầm
ngâm nhìn vào một đĩa thức ăn trắng trên bàn. Trong suy nghĩ
lúc đó của vị Tuệ linh đầu tiên và Hội đồng Tuệ linh đều nghĩ là

691
làm sao việc đưa các Tuệ linh xuống làm con người phải đạt
được thành tựu là tìm ra được phương thuốc cứu lại các Tuệ
linh và Vũ trụ. Sự suy tư mang theo tâm trạng trầm ngâm khi
nhìn vào đĩa thức ăn trắng trên bàn (tất nhiên thức ăn đó là
do năng lượng tạo ra). Suy tư một lúc lâu, vị Tuệ linh đầu tiên
liền nói với một Tuệ linh khác: “Hãy mang những con rắn độc
ra đây”. Sau đó có một Tuệ linh mang ra những con rắn độc, có
nhiều con nhỏ và một con to. Vị Tuệ linh đầu tiên lấy những
con rắn nhỏ trộn vào đĩa thức ăn đó, tiếp đến thả hai con rắn,
trong đó có một con to xuống nền đất. Hai con rắn đó trườn
vào những bụi cây xung quanh đó. Vị Tuệ linh đầu tiên nhìn
vào đĩa thức ăn đã trộn với rắn độc mà nói: “Để cứu được các
Tuệ linh và Vũ trụ, chỉ có thể lấy độc trộn vào chân tâm (thức
ăn trắng) mới tìm ra phương thuốc cứu lại Tuệ linh và Vũ
trụ”. Vị Tuệ linh đầu tiên tiếp tục nói rằng: “Ngoài những độc
tố lẫn trong chính chân tâm, ác tâm xen kẽ thiện tâm thì cần
phải có thế lực ác tâm bên ngoài tác động vào; Môi trường tu
hành nơi nhân gian sẽ như vậy”. “Để tìm được Đạo hợp nhất
của Vũ trụ, dạng sống Tuệ linh phải thông qua bốn hình tướng
Đạo ở nhân gian”. Đó là câu nói của vị Tuệ linh đầu tiên.
Như vậy, tại đại hội tập kết Tuệ linh về phương pháp
tu học ở nhân gian, vị Tuệ linh đầu tiên đã quán triệt phương
pháp tu học thông qua 3 hình ảnh về những con rắn độc. Cụ
thể như sau:
- Những con rắn độc nhỏ được trộn vào đĩa thức ăn
trắng là những độc tâm của mỗi Tuệ linh. Hình ảnh đó tượng
trưng các độc tâm đang bị ẩn giấu trong mỗi Tuệ linh và chưa
được bộc phát ra.

692
- Một con rắn nhỏ bên ngoài được thả ra là tượng
trưng cho độc tâm có trong vạn vật, trong tất cả các cấu trúc
vật chất. Độc tâm đó cũng đang bị ẩn giấu.
- Con rắn to được thả ra tượng trưng cho năng lượng
hoại diệt. Đó là độc tâm to nhất đối với tất cả các nhóm vật
chất trong Vũ trụ và cả dạng sống Tuệ linh.
Thông qua 3 hình ảnh về những con rắn độc: Tất cả các
Tuệ linh sẽ phải tương tác với nhau trong tất cả các kịch bản
trong các điều kiện môi trường sóng điện khác nhau để bộc
phát hết độc tâm của chính mình, của vạn vật và của năng
lượng hoại diệt. Khi bộc phát được hết độc tâm chính là quá
trình Tuệ linh sẽ giải mã được thông tin toàn diện nhất về tất
cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Sau khi giải mã được thông
tin toàn diện, vị Tuệ linh đầu tiên sẽ nghiên cứu, tìm được
được Đạo hợp nhất của Vũ trụ để cứu Vũ trụ và dạng sống
Tuệ linh. Để bộc phát hết độc tâm cũng như tìm được Đạo
hợp nhất của Vũ trụ, tất cả Tuệ linh sẽ phải thông qua bốn
hình tướng Đạo ở nhân gian.
Như vậy, kết quả của đại hội thống nhất phương pháp
tu học của dạng sống Tuệ linh ở nhân gian gồm có 2 điều:
- Tuệ linh thông qua thân tướng con người phải tương
tác với nhau trong tất cả các kịch bản, trong tất các môi
trường sóng điện khác nhau để bộc phát hết độc tâm của
mình, của vạn vật và của năng lượng hoại diệt.
- Phải thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian mới
tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ. Đạo hợp nhất chính là bộ
lọc sản sinh năng lượng viên mãn để sản sinh ra các siêu hạt
năng lượng cứu Vũ trụ và dạng sống Tuệ linh.

693
Sau đại hội tập kết thống nhất phương pháp tu học ở
nhân gian, những Tuệ linh đầu tiên đã phát đại nguyện tiên
phong đi xây dựng nhân loại. Có thể thấy rằng, việc phát đại
nguyện truy tìm Đạo hợp nhất Vũ trụ chính là dạng sống Tuệ
linh đang truy tìm con đường duy trì sự tồn tại, phát triển
bền vững của mình và của cả vạn vật trong và ngoài Vũ trụ.
Tất cả các Tuệ linh nếu muốn an toàn trước năng
lượng hoại diệt, nếu muốn phát triển bền vững thì không có
con đường nào khác là phát đại nguyện xuống nhân gian tu
hành. Không có vị nào bắt ép các Tuệ linh hóa thân xuống
nhân gian. Tất cả các Tuệ linh muốn xuống nhân gian tu hành
phải phát nguyện với vị Tuệ linh đầu tiên, sau đó được sắp
xếp kế hoạch tu hành cho từng Tuệ linh. Mỗi Tuệ linh xuống
nhân gian sẽ được xây dựng thành từng cây nhân quả. Giữa
các Tuệ linh sẽ có sự liên kết kỳ diệu giữa các cây nhân quả
để việc tu hành sẽ có tất cả các kịch bản tương tác trên hành
trình tu hành ở nhân gian.
Đại nguyện xuyên suốt của tất cả dạng sống Tuệ linh là
cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng thông qua tu hành
trong bốn hình tướng Đạo ở nhân gian.
Những đại nguyện nhỏ của những Tuệ linh nghiên cứu
và phát triển môi trường tu hành sẽ được thực hiện trong
quá trình phát triển của nhân loại. Chính vì điều này, nhân
loại trải qua từng thời kỳ đều có những bậc vĩ nhân xuất hiện
để phát triển kinh tế, khoa học, văn hóa, đạo đức, triết học…
Tất cả những vị Tuệ linh thực hiện đại nguyện nhỏ này đều
phải thực hiện đại nguyện duy nhất là cải tạo Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng.
Tất cả các Tuệ linh phát đại nguyện xuống tu hành ở
nhân gian là để bộc phát hết độc Tâm, triệt được độc Tâm,
694
kích hoạt được thiện Tâm. Do đó, trong tương tác với tất cả
các kịch bản thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian mới
giúp cho các Tuệ linh bộc phát để thấu hiểu chính mình, thấu
hiểu vạn vật và thấu hiểu năng lượng hoại diệt.
Để dẫn dắt dạng sống Tuệ linh tu hành ở nhân gian, vị
Tuệ linh đầu tiên cũng luân hồi ở nhân gian ở những thời
điểm quan trọng. Vị Tuệ linh đầu tiên ngoài việc cùng tu
hành với các Tuệ linh ở nhân gian, Ngài sẽ phải thống kê, giải
mã, mã hóa sự thật của vạn vật, của Tuệ linh, của năng lượng
hoại diệt, sau đó là chuyển hóa thành phương pháp để giúp
cho dạng sống Tuệ linh chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng sau khi tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ.
Khi các Tuệ linh xuống nhân gian tu hành, họ sẽ không
được biết mình là ai, trí tuệ của Tuệ linh sẽ bị phong tỏa. Đây
chính là sự trói buộc Tuệ linh trong thân tướng để giúp cho
con người chìm vào khổ đau kiếp nạn, an vui hạnh phúc. Điều
này sẽ giúp cho Tuệ linh nhanh tìm được Đạo hợp nhất của
Vũ trụ. Chỉ khi hoàn thành đại nguyện cải tạo Trụ linh thành
bộ lọc năng lượng mới được coi là hoàn thành đại nguyện.

2. Tâm nguyện của con người


Nói tới tâm nguyện thì đó là nói đến con người. Đó là
sự mong muốn và phát ra nguyện lực để thực hiện được
mong muốn đó.
Khi các Tuệ linh hóa thân làm người, họ bị che đi tất cả
trí tuệ của Tuệ linh. Họ sẽ thông qua những sóng điện trong
Tâm được truyền ra não bộ để kích thích chân tu tìm hiểu,
nghiên cứu, trải nghiệm và thực hành sứ mệnh đại nguyện
của Tuệ linh. Tùy vào mức độ thành tựu hay chưa đạt được

695
thành tựu trên hành trình tu hành ở nhân gian mà hội đồng
Tuệ linh sẽ hỗ trợ, dẫn dắt những chân tu đó trên hành trình
tu học ở nhân gian. Những tôn giáo là những chỉ dẫn, là
những gợi nhắc của hội đồng Tuệ linh đến với các chân tu ở
nhân gian, đó là giúp cho con người có niềm tin vào cội
nguồn, có niềm tin vào việc truy tìm con đường diệt khổ để
trở về quê hương. Những đau khổ tột cùng của mỗi chân tu
cũng là những dấu hiệu nhận biết để giúp chân tu tìm hiểu và
thực hành sứ mệnh đại nguyện cho Tuệ linh.
Tuy nhiên, đời sống con người bởi sự phong phú về giả
tướng sẽ khiến cho họ chìm đắm mà không tin cũng như
không thực hành đại nguyện của mình. Chính vì vậy, những
thời điểm quan trọng của các bước ngoặt lịch sử và sự thành
công của con đường tìm được Đạo hợp nhất Vũ trụ, vị Tuệ
linh đầu tiên lại có kế hoạch dẫn dắt và truyền dạy tri thức để
thức tỉnh toàn bộ nhân loại thực hành đại nguyện cho Tuệ
linh.
Đại nguyện của Tuệ linh phải được hợp nhất với Tâm
nguyện của chân tu. Đó là sự hợp nhất giữa Thân – Tâm – Trí
cùng thực hành đại nguyện chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng. Đó là đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ.
Khi Tuệ linh nào đó đã đắc được bộ lọc năng lượng, khi
cần thiết vào những thời điểm cần phải hóa thân xuống nhân
gian để cứu giúp nhân loại cũng như dẫn dắt họ tu hành đắc
được bộ lọc thì họ sẽ lại hóa thân làm người. Đây là quyền tự
do của Tuệ linh khi đã hoàn thành đại nguyện mà không ai áp
đặt hay cấm đoán họ không được phép hóa thân xuống nhân
gian để phổ độ, hóa độ chúng sinh.

696
3. Kết quả hành trình tu hành ở nhân gian
Tất cả các Tuệ linh nguyện xuống tu hành trong thân
tướng con người, trong nhiều kiếp, trong đau khổ tột cùng,
trong an vui hạnh phúc. Tất cả điều đó sẽ giúp cho vị Tuệ linh
đầu tiên thấu hiểu được toàn diện bản chất độc tâm và thiện
tâm của Tuệ linh. Khi các bản chất của Trụ linh bộc phát hết
ra, Ngài sẽ thấu hiểu được các cơ chế vận hành tương tác, các
bản chất của hết thảy Tướng trong và ngoài Vũ trụ. Khi đó
Ngài sẽ thấu hiểu hình Tướng Đạo và tìm được Tâm Đạo. Đó
là Ngài thấu hiểu con đường diệt được khổ đau cho dạng
sống Tuệ linh thông qua hình tướng Đạo đã được thấu hiểu.
Đó là để tìm ra được Đạo hợp nhất của Vũ trụ, hết thảy Tuệ
linh sẽ phải sống và truy tìm Đạo giải thoát khổ đau ở nhân
gian.
Kết quả với thành tựu vô lượng của Vũ trụ là Ngài cùng
với tất cả Tuệ linh thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân
gian đã tìm được con đường diệt khổ viên mãn nhất, đó là
Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ. Chân lý Vạn vật để giúp
Tuệ linh và con người thấu hiểu Tướng Đạo, Chân lý Giác ngộ
là Tâm Đạo để giúp cho Tuệ linh và con người diệt khổ đau
bằng con đường chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng viên mãn.
Như vậy, Ngài đã tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ.
Để tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ, Ngài cùng hết thảy Tuệ
linh tu hành và tìm ra được Đạo Giác Ngộ viên mãn ở nhân
gian.

III. Chân lý Vạn vật của Nguyện

697
Chân lý Vạn vật của Nguyện sẽ là: Nguyện không tự
sinh ra, Nguyện không tự mất đi, khổ đau của Tuệ linh và Vũ
trụ không tự đến và không tự đi, tất cả do cơ chế phân tách và
liên kết dây.
Vận hành Chân lý Vạn vật của Nguyện chính là cơ chế
phân tách và liên kết dây. Thông qua cơ chế phân tách và liên
kết dây để truy tìm được cội nguồn quá khứ, để thấy bản
chất, căn nguyên, con đường chuyển sinh của hết thảy Tuệ
linh và Tướng trong và ngoài Vũ trụ. Vì vậy, thông qua Chân
lý Vạn vật với cơ chế phân tách và liên kết dây sẽ giúp cho
hết thảy Tuệ linh và con người thấu hiểu con đường để tồn
tại và diệt khổ chính là phát đại nguyện tu hành ở nhân gian.
Nguyện tu hành ở nhân gian để thông qua khổ đau
nhằm bộc phát hết độc tâm, kích hoạt triệt để thiện Tâm, từ
đó tìm được Đạo giải thoát khổ đau. Đó là con đường cứu
cánh duy nhất để giúp Tuệ linh tìm được Đạo giải thoát khổ
đau của mình, của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ. Đó là con
đường duy nhất để cứu Tuệ linh và Vũ trụ.

1. Nguyện không tự sinh ra


Nguyện của hết thảy Tuệ linh chính là tự phát, là xin
được xuống nhân gian tu hành trong thân tướng con người.
Không có sự cưỡng ép hay bắt buộc Tuệ linh phải chịu đọa
đày đau khổ ở nhân gian.
Nguyện của Tuệ linh truy tìm Đạo giải thoát ở nhân
gian không tự sinh ra là vì:
- Vô số Tuệ linh bị hoại diệt bởi năng lượng hoại diệt.
- Vũ trụ cũng cạn kiệt năng lượng và sẽ hoại diệt. Vũ
trụ hoại diệt thì Tuệ linh cũng hoại diệt.

698
- Các Tuệ linh không bộc phát hết được độc Tâm,
không kích hoạt được thiện Tâm, nên họ không hiểu chính
họ, họ không tìm được con đường cứu họ bởi sự tấn công của
năng lượng hoại diệt.
- Các Tuệ linh đã từng thành lập các hội đồng nghiên
cứu năng lượng để truy tìm Đạo giải thoát nhưng thất bại.
Thất bại vì môi trường tu luyện không có độ nén để tạo ra
các phản ứng năng lượng giữa các Trụ linh của các Tuệ linh.
- Vũ trụ chưa có Đạo hợp nhất bởi Tướng Đạo và Tâm
Đạo. Tức là Tuệ linh không thấu hiểu bản chất của vạn vật
trong và ngoài Vũ trụ, của mình nên không thấu hiểu hình
tướng Đạo. Vì không thấu hiểu hình tướng Đạo nên không
thấu hiểu Tâm Đạo, đó là không thấu hiểu nguyên nhân khổ
đau, con đường diệt khổ đau cho mình và vạn vật.
Chính vì vậy, vị Tuệ linh đầu tiên xây dựng môi trường
tu hành không gì ngoài khổ đau và khắc nghiệt để các Tuệ
linh xuống làm thân tướng con người tu hành. Môi trường tu
hành đảm bảo độ nén, đảm bảo sự tương tác tột cùng bí bách
để giúp cho các phản ứng năng lượng xảy ra giữa các Tuệ
linh ở nhân gian được bộc phát hết độc tâm, kích hoạt được
triệt để thiện Tâm, sau đó sẽ tìm được Đạo hợp nhất Vũ trụ.
Do đó, hết thảy Tuệ linh đã phát nguyện, đã xin được
an trụ trong thân tướng con người để tu hành ở nhân gian.
Đó là nguyện để truy tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ
thông qua hình tướng Đạo ở nhân gian để tìm được Đạo giải
thoát khổ đau.

2. Nguyện không tự diệt

699
Nguyện không tự chấm dứt. Tức là nguyện của Tuệ
linh trong việc truy tìm Đạo hợp nhất của Vũ trụ không tự
chấm dứt. Nó chỉ chấm dứt khi:
- Tuệ linh nào đó trong Vũ trụ tìm ra được Đạo hợp
nhất của Vũ trụ.
- Trong Đạo hợp nhất của Vũ trụ đó phải có giáo lý
giúp cho Tuệ linh, con người thấu hiểu tận cùng về Tướng
Đạo và Tâm Đạo giải thoát khổ đau của Tuệ linh, con người,
của vạn vật trong và ngoài Vũ trụ.
- Các Tuệ linh ứng dụng giáo lý Đạo hợp nhất đó để
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn.
Muốn chấm dứt được nguyện, các Tuệ linh phải thực
hành giáo lý Đạo hợp nhất Vũ trụ để chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Khi đó, Tuệ linh sẽ không
phải luân hồi ở nhân gian. Tuệ linh có bộ lọc năng lượng sẽ
vận hành cơ chế Kết – Định – Tỏa để hấp thụ năng lượng hoại
diệt và sản sinh ra các siêu hạt năng lượng bảo vệ, phát triển
bền vững trong và ngoài Vũ trụ.
Nguyện của mỗi Tuệ linh sẽ chấm dứt khi chưa chuyển
sinh được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng mà đã bị hoại
diệt. Sự chấm dứt của nguyện trong trường hợp này không
phải là điều mà các Tuệ linh mong muốn. Đó là sự thất bại.

3. Khổ đau của Tuệ linh và Vũ trụ không tự đến


và không tự chấm dứt
Khổ đau của Tuệ linh và Vũ trụ chính là do:
- Biến đổi mã sóng trí tuệ bởi cơ chế phân tách và liên
kết dây theo hướng bền vững nhưng chưa đắc được bộ lọc
năng lượng.
700
- Biến đổi mã sóng trí tuệ bởi cơ chế phân tách và liên
kết dây theo hướng phân rã và hoại diệt.
- Tuệ linh bị năng lượng hoại diệt phân rã làm đứt liên
kết dây và hoại diệt.
- Vũ trụ bị năng lượng hoại diệt làm phân rã và hoại
diệt.
Như vậy, khổ đau của Tuệ linh và Vũ trụ là do cơ chế
phân tách và liên kết dây chưa đạt được việc chuyển hóa Trụ
linh thành bộ lọc năng lượng. Bởi khi chưa đạt được bộ lọc
năng lượng thì Trụ linh của Tuệ linh và Vũ trụ vẫn dễ dàng bị
hoại diệt bởi năng lượng hoại diệt làm cho phân rã và hoại
diệt.
Để chấm dứt hết khổ đau của Tuệ linh và Vũ trụ, Tuệ
linh phải:
- Tuệ linh phải thấu hiểu bản chất của Tướng Đạo và
Tâm Đạo của Vũ trụ, đó là tìm được Đạo hợp nhất của Vũ trụ.
- Tuệ linh phải thực hành theo giáo lý của Đạo hợp
nhất Vũ trụ trong việc chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng và sản sinh ra các siêu hạt năng lượng.
- Tuệ linh phải thực hành Phổ độ, Hóa độ giáo lý giác
ngộ của Đạo hợp nhất Vũ trụ tới hết thảy Tuệ linh và con
người cùng thực hành cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng viên mãn.
Do vậy, để chấm dứt được khổ đau của Tuệ linh và Vũ
trụ chính là hết thảy Tuệ linh, con người cùng thực hành con
đường giải thoát khổ đau thông qua giáo lý hai Chân lý với cơ
chế phân tách và liên kết theo hướng bền vững, đó là tu hành
và đắc được bộ lọc năng lượng viên mãn thông qua Đạo hợp
nhất Vũ trụ đã tìm được.

701
IV. Chân lý Giác ngộ của Nguyện
Chân lý Giác ngộ của Nguyện là: Nguyện là bể khổ. Tất
cả Tuệ linh phải dùng Trụ linh để đối mặt, hoàn thành việc
truy tìm được Đạo hợp nhất Vũ trụ và chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng.
Cơ chế vận hành của Chân lý Giác ngộ là phân tách và
liên kết dây. Cơ chế phân tách, liên kết dây cho thấy có hai
con đường phân tách và liên kết, đó là:
- Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt năng
lượng âm, đó là Kết. Nếu đi theo con đường này, hết thảy
Tướng sẽ phân rã và hoại diệt. Đây là con đường chuyển sinh
phân rã và hoại diệt.
- Con đường phân tách, liên kết tạo ra nhiều hạt năng
lượng dương, đó là Tỏa. Nếu đi theo con đường này, hết thảy
Tướng sẽ phân tách, liên kết vô lượng hạt năng lượng dương
có liên kết chặt chẽ bởi sợi chân tâm, sẽ là con đường chuyển
sinh bền vững nhất.
Nguyện là bể khổ. Không nguyện cũng là bể khổ. Bởi
không nguyện để khổ đau ở nhân gian thì cũng sẽ bị hoại diệt
bởi năng lượng hoại diệt. Do đó, có nguyện hay không thì
cũng là bể khổ. Nguyện tuy là bể khổ nhưng thông qua khổ
đau bởi môi trường tu hành, Tuệ linh sẽ tìm được Tâm Đạo
giải thoát khổ đau trong bốn hình tướng Đạo ở nhân gian.
Chỉ có con đường duy nhất để tìm được Đạo giải thoát
khổ đau cho Tuệ linh và Vũ trụ là phải nguyện xuống nhân
gian để tu hành. Đó là con đường duy nhất. Con đường duy
nhất này mới giúp cho Tuệ linh chuyển hóa Trụ linh thành bộ
lọc năng lượng. Vì nguyện tu hành ở nhân gian là con đường

702
duy nhất để cứu Tuệ linh và Vũ trụ, nên hết thảy Tuệ linh
phải dùng Trụ linh để đối mặt và chạy đua với thời gian để
chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Đạo hợp nhất Vũ trụ đã được tìm ra, giáo lý giác ngộ
bởi hai Chân lý đã giúp cho vị Tuệ linh đầu tiên chuyển hóa
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Các Tuệ linh sẽ
không phải truy tìm Đạo hợp nhất Vũ trụ nữa. Điều họ cần
làm là nghiên cứu, học tập và thực hành hai Chân lý của Đạo
hợp nhất Vũ trụ này vào việc cải tạo Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng.
Sẽ không có ngoại lệ nào để đắc được bộ lọc năng
lượng mà không phải xuống nhân gian tu hành. Ngay cả vị
Tuệ linh đầu tiên cũng không phải là ngoại lệ. Do đó, Tuệ linh
và con người phải quyết chí phát nguyện và thực hiện việc
cải tạo Trụ linh thành bộ lọc viên mãn cho thành công.
***************

703
704
PHẦN 5
CÕI TRỜI ĐỊA PHỦ
(CÕI TẠM CỦA NHÂN GIAN TU HÀNH)

705
706
I. Giới thiệu về cõi trời Địa phủ – Cõi tạm
của nhân gian tu hành

Có nhiều người hỏi:


- Có phải Địa phủ là ở trong lòng Trái đất?
+ Tất nhiên là không phải Địa phủ ở trong lòng của Trái
đất rồi.
- Tại sao lại gọi Địa phủ là cõi trời trong khi có chữ
Địa và ám chỉ về sau cái chết của con người?
+ Đúng là ám chỉ về sau cái chết của con người nên gọi
là Địa. Và đây là một cõi trời, một hành tinh dành cho con
người sau khi hoại diệt thân xác ở nhân gian này.
- Tại sao lại gọi là Địa phủ mà không gọi là Địa
ngục?
+ Bởi vì Địa phủ chính là cõi trời có các Hội đồng Tuệ
linh giác ngộ vận hành và quản lý các cảnh sống tu tập cho
con người sau khi hoại diệt thân xác nơi nhân gian. Địa ngục
là một trong các cảnh sống của cõi trời đó nên gọi là Địa phủ
sẽ hợp lý và đầy đủ ý hiểu nhất.
- Có phải Địa ngục có quỷ hành sai, những con quỷ
đầu trâu có sừng, những con quỷ đó hung hăng đi bắt
linh hồn con người về để tra tấn và hành hạ?
+ Đó là sự nhầm lẫn và hiểu sai về các hội đồng quản lý
và hành pháp tại cõi trời Địa phủ. Không có quỷ hành sai nào
cả, cũng không có quỷ nào ở cõi trời Địa phủ đi bắt linh hồn
con người về để tra tấn hay hành hạ gì cả.

707
- Người chết phạm vào giờ trùng tang là quỷ hành
sai sẽ tra tấn linh hồn đó, họ tra tấn để linh hồn đó khai
ra họ tên, nơi ở của người thân để quỷ hành sai về bắt
linh hồn những người thân đó. Có đúng không vậy?
+ Không đúng, đây lại là câu chuyện nhảm nhí được lưu
truyền trong nhân gian.
- Người tu hành, thầy pháp có thể phá cửa ngục để
giải cứu linh hồn bị đọa trong đó không?
+ Không thể. Tuyệt đối không có người tu hành nào,
thầy pháp nào phá được cửa ngục cả. Đó là luận điệu mị dân
để hành nghề kiếm tiền của nhiều người tu hành tâm linh,
nhiều thầy pháp.
- Có thể dùng đàn lễ, tiền vàng mã, đồ lễ nhiều,
nhiều thầy tu hành, nhiều pháp sư giỏi để làm lễ phổ độ
cho linh hồn khỏi bị đọa trong cửa ngục được không?
+ Phổ độ giúp linh hồn không bị đọa trong cửa ngục,
giúp cho linh hồn được chuyển sinh là có thật. Tuy nhiên, để
làm được điều đó thì cần có chân tâm và thấu hiểu về Địa phủ.
Việc dùng đàn lễ, tiền vàng mã, nhiều đồ lễ, nhiều thầy tu,
nhiều pháp sư làm cũng là những chiêu trò mị dân hành nghề
mê tín dị đoan. Hiểu về Địa phủ, bất cứ người nào đang sống
đều có thể làm được mà không phải mất tiền, không phải nhờ
vả thầy tu cũng như các thầy pháp.
- Làm sao để người đang sống mà có thể kiểm
chứng được cõi trời Địa phủ?
+ Có chứ. Đó là hành thiền để bản thể Tuệ linh trong
chân tu người đang sống liên kết năng lượng trong cấu trúc
nền của Vũ trụ để di chuyển tới cõi trời Địa phủ. Nhiều môn
sinh của tôi thường xuyên thực hành thiền định để tới đó khi

708
cần thiết cho công việc trợ giúp chúng sinh sau khi hoại diệt
thân xác nơi nhân gian.
- Thiền định để tới được cõi trời Địa phủ? Vậy làm
sao để thiền tới được Địa phủ trong khi vô số người tu
thiền định, vô số các bậc tâm linh nổi tiếng không thể
thực hiện được?
+ Đó là bí mật của tạo hóa, của kế hoạch tu hành nơi
nhân gian. Để thiền đi được đến cõi trời Địa phủ phải thấu
hiểu được cõi trời Địa phủ. Điều đó chưa được nói đến trong
bất kỳ tôn giáo, tín ngưỡng nào, có chăng có nói nhưng chưa
chính xác. Thêm nữa, Địa phủ có những cảnh sống năng lượng
tiêu cực rất nguy hiểm, người thiền định mà không có tâm lực
cũng như chân tâm mà vô tình đi vào đó sẽ gây hậu quả
nghiệm trọng cho chân tu. Nặng là đột tử hoại diệt thân xác.

Còn vô số câu hỏi về sau khi con người chết và về Địa
ngục, Địa phủ. Vậy, hãy tìm hiểu về cõi trời Địa phủ sẽ giúp
cho mọi người tỏ tường về cảnh sống sau khi con người hoại
diệt thân xác và cõi trời Địa phủ của Nhân gian.

Vậy cõi trời Địa phủ là:


Cõi trời Địa phủ không phải là không gian bên trong
Trái đất. Cõi trời Địa phủ là một cõi trời to lớn, là một hành
tinh vật chất to lớn nằm trong không gian của Vũ trụ bao la
với vô số dải ngân hà (mỗi dải ngân hà lại có vô số hệ mặt
trời, mỗi hệ mặt trời lại có vô số những hành tinh quay tròn
xung quanh nó). Vậy, cõi trời Địa phủ cũng có thể được hiểu
là một hành tinh giống với Trái đất chúng ta đang sinh sống.

709
Tại cõi trời Địa phủ không có con người với thân
tướng vật chất giản đơn, không có muông thú với thân tướng
vật chất giản đơn, đó là nơi các cấu trúc bản thể năng lượng
Tuệ linh và Linh hồn an trụ. Sự an trụ của Tuệ linh và Linh
hồn là bởi họ đang thực hiện quá trình trên con đường
chuyển sinh để giúp cho Trụ linh trở nên bền vững an lạc
hơn.
Trái đất là môi trường tu hành, là trường học cho dạng
sống Tuệ linh an trụ trong thân tướng con người, thậm chí là
thân tướng muông thú để tu hành, để cải tạo Trụ linh chuyển
sinh thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Do đó, Trái đất là
nhân gian tu hành, là cõi tạm của dạng sống Tuệ linh với trí
tuệ siêu việt nhất trong Vũ trụ rộng lớn bao la. Trái đất là cõi
tạm của dạng sống Tuệ linh thì cõi trời Địa phủ lại là cõi tạm
của nhân gian.
Chúng ta cứ hình dung như sau: Dạng sống Tuệ linh sẽ
phải tu hành ở nhân gian trong thân tướng vật chất con
người rất nhiều cho đến vô số kiếp để đạt được mục đích
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Trong đó, mỗi
một kiếp người được ví như con người chúng ta đã sống và
lao động hết một ngày trời, khi hết một ngày lao động vất vả
với các thành tựu hay thất bại thì chúng ta sẽ phải cân bằng
lại năng lượng sau một giấc ngủ đêm. Giấc ngủ đêm đó sẽ
giúp cho chúng ta có lại tinh thần, có lại sự cân bằng của sức
khỏe để tiếp tục một ngày lao động làm việc mới. Cõi trời Địa
phủ chính là vậy. Cõi trời Địa phủ được coi như quán trọ đêm
để cho Tuệ linh, Linh hồn nghỉ ngơi, đúc kết lại bài học tu
hành một kiếp người, để cân bằng lại tinh thần và năng
lượng cho kiếp người tiếp theo. Do đó, Địa phủ là cần thiết
cho các Tuệ linh và Linh hồn đang tu hành ở nhân gian. Nó

710
cũng giống như sự cần thiết việc ngủ đêm của con người vậy.
Việc con người chúng ta ngủ đêm ở gầm cầu, hay ngủ đêm
trong rừng đầy rẫy hổ báo thú dữ, hay ngủ đêm nơi giông
bão, hay ngủ đêm nơi nhà tranh mái ngói, hay ngủ đêm trong
dinh thự xa hoa, hay ngủ đêm nơi khách sạn sang trọng…,
điều đó phụ thuộc vào sự nỗ lực và thành tựu lao động trong
một ngày để có hay không có đủ tiền cho việc thuê trọ nơi
sang trọng hay phải ngủ tạm bợ nơi nguy hiểm ở gầm cầu,
nơi giông bão, nơi rừng với muông thú dữ. Tuệ linh và Linh
hồn cũng vậy, sự thất bại hay thành tựu một kiếp người sẽ
khiến họ được nghỉ ở cảnh sống tương ứng nơi cõi trời Địa
phủ. Đó là sự tương phản công bằng cho hành trình tu hành
nơi nhân gian của Tuệ linh và Linh hồn.
Vì môi trường tu hành của dạng sống Tuệ linh duy
nhất chỉ có ở Trái đất, nên cũng chỉ có duy nhất một cõi trời
Địa phủ cho tất cả bản thể Tuệ linh và Linh hồn tu hành nơi
nhân gian để được nghỉ ngơi cân bằng lại năng lượng, được
đúc kết lại bài học tu hành sau một kiếp thân tướng nơi nhân
gian tu hành này. Tức là chỉ có một cõi trời Địa phủ duy nhất
cho tất cả nhân loại trong sự không phân chia tôn giáo, tín
ngưỡng, trước và sau khi có các tôn giáo. Vì vậy, cõi trời Địa
phủ là cõi tạm của tất cả nhân loại từ khi xuất hiện nhân loại
ở Trái đất đến nay.
Cõi trời Địa phủ là cõi trời được vận hành quản lý bởi
các Hội đồng Tuệ linh có trí tuệ giác ngộ ưu tú trong dạng
sống Tuệ linh. Tại cõi trời Địa phủ có 3 Hội đồng Tuệ linh
giác ngộ quản lý và vận hành; có 5 cảnh sống tu luyện đúc kết
bài học kinh nghiệm tu hành và tu luyện dưỡng lại năng
lượng cho kế hoạch chuyển sinh kiếp mới; có các lớp học đạo
và giáo lý; có quy trình chuyển sinh và phương pháp giáo

711
hóa, hóa độ cho các Tuệ linh và Linh hồn rõ ràng, luôn nâng
cấp theo sự giác ngộ của các Tuệ linh tu hành nơi nhân gian.
***************

712
II. Cội nguồn sự hình thành cõi trời Địa
phủ

Tôi được nghe như:


- Địa phủ của người Trung Quốc, Việt Nam, Ai Cập, Hy
Lạp…
- Địa ngục của dòng đạo A, B, C nào đó.
- Mục Kiền Liên trong Đạo Phật thiền định xuống Địa
ngục cứu mẹ.
- Địa ngục của các tín ngưỡng khác nhau trên khắp Thế
giới.
- Nhiều người ngủ mơ được đi về Địa phủ hay Địa
ngục.
- Nhiều người cận kề sinh tử, khi thân xác vẫn nằm bất
động trong một khoảng thời gian nhất định, Linh hồn/ Tuệ
linh đã được đi về Địa phủ, Âm phủ, Địa ngục, đi vào đường
hầm ánh sáng xuống Địa phủ.
- Địa ngục, Địa phủ, Âm phủ… rất nhiều sự thắc mắc và
hoài nghi của nhân gian.
Vậy thực hư ra sao? Những thắc mắc trên có đúng
không? Và, cõi trời Địa phủ được hình thành từ khi nào?

Như sau:
Khi vị Tuệ linh đầu tiên của Vũ trụ (Thượng Đế, Đấng Tạo
Hóa, Chúa Trời, Đức A Di Di Đà Phật) đang suy nghĩ và lên kế

713
hoạch cho việc chuẩn bị đưa các Tuệ linh hóa thân xuống
nhân gian làm những con người đầu tiên, khởi đầu cho sự
hình thành nhân loại ở Trái đất, những suy tư, những suy
nghĩ khởi lên trong Ngài. Sự suy tư, suy nghĩ bởi Ngài thấy rõ
rằng khi đưa các Tuệ linh với bản chất các Trụ linh đa âm
khác nhau, đa dương khác nhau, cân bằng âm dương sẽ tạo
ra sự phức tạp của môi trường tu hành nơi nhân gian. Bản
chất trí tuệ của các Tuệ linh sẽ được bộc lộ thông qua tương
tác trong thân tướng với bốn hình tướng Đạo, điều mà ở cõi
trời nhiệm màu và thanh tịnh của Ngài không thể làm bộc lộ
được bản chất trí tuệ của họ ẩn giấu từ trong Trụ linh. Ngài
không những suy tư cho những Tuệ linh hóa thân xuống
nhân gian tu hành mà còn suy tư cho những cấu trúc linh hồn
trong muông thú mà Ngài đã gieo duyên chuyển sinh từ các
cấu trúc năng lượng trong thời gian dài trước đó. Làm sao để
tạo ra một môi trường có thể giúp các Tuệ linh cân bằng
được năng lượng và học được các bài học kinh nghiệm tu
hành sau một kiếp người nhanh nhất! Làm sao để tạo ra một
môi trường để giáo hóa, giúp cho các linh hồn muông thú học
được tập tính làm người khi chúng đã tích lũy đủ lượng mã
sóng trí tuệ và năng lượng bởi nhiều kiếp làm muông thú!
Sau thời gian dài suy tư, tính toán, Ngài hiểu rằng
những Trụ linh đa âm hay đa dương hoặc cân bằng của Tuệ
linh và Linh hồn sẽ có những hướng chuyển sinh khác nhau.
Sẽ có hướng chuyển sinh bền vững an lạc hơn, sẽ có hướng
chuyển sinh tiêu cực là phân rã và hoại diệt, sẽ có hướng
chuyển sinh bị mắc kẹt nơi nhân gian tu hành. Do đó, Ngài đã
đã lên kế hoạch xây dựng những môi trường để con người và
muông thú ở nhân gian sau khi hết một kiếp thân tướng
được an trụ về đó để đúc kết bài học kinh nghiệm tu hành,

714
được cân bằng năng lượng cho hành trình chuyển sinh tiếp
theo. Đó là:
- Đối với những Tuệ linh khi hóa thân thành con người,
họ có lối sống tích cực, đó là bộc lộ được sự phát triển, sự lan
tỏa, sự đoàn kết lan tỏa sự phát triển tới mọi người, muông
thú và vạn vật mà không màng tới mình: Những con người
này sau khi hết kiếp người, Tuệ linh sẽ được trở về cõi trời
của Ngài để cân bằng lại năng lượng, để đúc kết lại bài học
kinh nghiệm kiếp người vừa qua.
- Đối với những Tuệ linh hóa thân làm con người, họ có
lối sống tiêu cực ích kỷ về bản thể họ mà gây tổn hại tới vạn
vật, muông thú, Tuệ linh và con người: Những con người này
sau khi hết kiếp thân tướng, Tuệ linh họ sẽ trở về một cõi
tạm riêng để thấy lại những lối sống tiêu cực của kiếp người
vừa qua, từ đó đúc kết bài học kinh nghiệm tu hành, cân bằng
năng lượng để cho hành trình chuyển sinh kiếp người tiếp
theo. Những linh hồn muông thú cũng sẽ được chuyển sinh
về cõi tạm này để tu luyện, học tập tập tính của con người
dần dần, tiếp tục chuyển sinh làm muông thú và được
chuyển sinh làm con người. Cõi tạm này chính là cõi trời Địa
phủ.
Ngài cũng hiểu rằng, những linh hồn muông thú,
những Tuệ linh của những con người có hướng chuyển sinh
phân rã sẽ giải phóng ra rất nhiều năng lượng âm. Những
năng lượng âm khi giải phóng ra chính là những hạt năng
lượng nhân quả tiêu cực tác động rất mạnh đến môi trường
xung quanh, tới chính Tuệ linh và Linh hồn. Do đó, Ngài phải
xây dựng riêng một cõi trời dành cho họ. Và Ngài đã thực
hiện gieo duyên, xây dựng cõi trời Địa phủ với các cảnh sống
có chứa đựng các nhóm năng lượng đủ kích thích để giúp cho

715
các Tuệ linh, Linh hồn sau kiếp người và muông thú được
nhanh chóng phản chiếu lại toàn bộ những suy nghĩ cho đến
hành động tiêu cực. Điều này sẽ giúp cho họ học được bài học
kinh nghiệm tu hành nhanh nhất.
Khi Ngài thực hiện kế hoạch đưa các Tuệ linh hóa thân
xuống làm con người trong các cuộc tập kết nhân loại đầu
tiên, đó cũng là thời điểm cõi trời Địa phủ đã được hoàn
thành với các Hội đồng Tuệ linh quản lý vận hành, với các
cảnh sống năng lượng tương ứng với các loại suy nghĩ cho
đến hành động của con người và muông thú được bộc phát ở
nhân gian. Sự xuất hiện của con người ở nhân gian chính là
dấu mốc đánh dấu việc hình thành cõi trời Địa phủ.
Cõi trời Địa phủ ban đầu cũng sơ khai như Trái đất
vậy, các Tuệ linh ưu tú của dạng sống Tuệ linh sẽ được phân
công về đó để quản lý vận hành, để hỗ trợ Tuệ linh và Linh
hồn sau khi hết kiếp thân tướng ở nhân gian. Ban đầu họ
chưa có hệ thống giáo lý, chưa có Chân lý Giác ngộ, chưa có
khuôn mẫu đạo đức rõ ràng để răn dạy. Hội đồng Tuệ linh tại
cõi trời Địa phủ lấy những lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu
tiên trong các cuộc tập kết nhân loại để làm kim chỉ nam cho
việc giáo hóa các Tuệ linh, Linh hồn tại cõi trời Địa phủ.
Khi nhân loại ngày càng phát triển và nhiều tín
ngưỡng, nhiều tôn giáo ra đời, ở cõi trời Địa phủ sẽ đón nhận
những giá trị chuẩn mực, những giá trị đạo đức, những Chân
lý, những giáo lý ưu việt trong sự tuân thủ những lời răn dạy
của vị Tuệ linh đầu tiên ở các cuộc tập kết nhân loại để làm
giáo lý giáo hóa tại cõi trời Địa phủ. Điều này cho thấy, cõi
trời Địa phủ sẽ phát triển theo sự phát triển về sự giác ngộ,
về con đường chuyển sinh trở nên bền vững an lạc ở nhân

716
gian để xây dựng hoàn chỉnh giáo lý cho sự giáo hóa Tuệ linh
và Linh hồn ở cõi trời đó.
Cõi trời Địa phủ là dành cho những Tuệ linh, Linh hồn
của tất cả con người và muông thú trên nhân gian khi họ có
lối sống theo hướng chuyển sinh tiêu cực là phân rã hoại
diệt. Do đó, Địa phủ là cõi trời dành cho tất cả con người mà
không phân biệt họ theo tín ngưỡng nào, theo tôn giáo nào
hoặc không theo tôn giáo nào. Các tín ngưỡng, tôn giáo là sự
bám định bởi ý thức hệ khi họ còn sinh sống trên nhân gian
mà họ tin theo. Ban đầu từ sự bám định và niềm tin đó, ở cõi
trời Địa phủ sẽ lấy khởi điểm từ tôn giáo, tín ngưỡng để dần
dần giáo hóa và cân bằng năng lượng cho họ nhanh được
chuyển sinh kiếp mới.
***************

717
III. Mục đích thành lập cõi trời Địa phủ

Tôi được nghe như:


- Tôi mơ thấy linh hồn bố tôi đang bị giam giữ trong
phòng tối tăm lạnh lẽo ở Địa ngục.
- Tôi thiền thấy các linh hồn bị tra tấn trong các cửa
ngục ác nghiệp, có linh hồn phải lao động khổ sai, có linh hồn
bị ném lên vạc dầu, có linh hồn bị các con thú dữ khổng lồ
cắn xé, có linh hồn bị đóng băng, có linh hồn trong biển lửa…,
nhìn rất hãi hùng.
- Có người khi được nhắc về Địa ngục, Địa phủ là họ
hoảng loạn và lo sợ.
- Tôi thấy có người kể, khi ngủ linh hồn tách ra về Địa
phủ thăm ngôi nhà của linh hồn người thân vừa mới chết, tại
ngôi nhà đó có những linh hồn là bạn của linh hồn người
thân. Khi thăm được một thời gian thì linh hồn người thân đó
nói là đi về ngay đi, không được quay lại đây nữa.
- Có người nói thiền định tới Địa phủ thấy linh hồn
người thân đang đi học lớp học đạo.
- Có người mơ ngủ được thấy hội đồng gia tiên đang ở
Địa phủ.
- Nhiều tín ngưỡng, tôn giáo kể về Địa ngục rất đáng sợ
với những con quỷ to lớn, những con quỷ thân người mặt
thú, những con quỷ cắn xé ăn những linh hồn, những con quỷ
đi truy bắt linh hồn nơi Địa ngục tăm tối.
- Những người thiền định thấy những linh hồn ở Địa
phủ đang tu thiền, đang sống trên những ngôi đồi với cỏ cây,
718
hoa lá, ánh sáng vàng hoặc trắng. Họ tĩnh lặng cảm nhận sự
tự tại ở trên những ngôi đồi đó.
Rất nhiều điều tôi nghe được, có những điều rất đúng,
có những điều không đúng, có những điều được thêu dệt tạo
thành, gây ra sự sợ hãi và hiểu lầm cho nhân gian.

Mục đích thành lập cõi trời Địa phủ:


Mục đích bao trùm của việc thành lập cõi trời Địa phủ
– Cõi tạm của nhân gian tu hành, đó là: Địa phủ là cõi tạm của
Tuệ linh và Linh hồn của con người và muông thú. Đó là nơi
đúc kết lại bài học kinh nghiệm tu hành một kiếp thân tướng
ở nhân gian. Đó là nơi để tu dưỡng, cân bằng lại năng lượng
sau một kiếp thân tướng ở nhân gian. Đó là nơi học tập, trau
dồi kiến thức giác ngộ làm hành trang cho kiếp thân tướng
tiếp theo. Đó là nơi hỗ trợ, trợ giúp bản thể Tuệ linh, Linh
hồn chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt nhận diện
được con đường chuyển sinh của họ, từ đó giúp họ đi được
vào con đường chuyển sinh theo hướng bền vững an lạc. Đó
là nơi giúp cho Tuệ linh, Linh hồn biết cách, học được cách
sống có trách nhiệm, biết hy sinh vì nhau, hy sinh vì vạn vật,
Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Bởi chỉ có hy sinh vì nhau mới
xây dựng được cơ chế phân tách liên kết bền vững và an lạc.
Từ mục đích bao trùm trên sẽ được phân chia ra làm
các mục đích chi tiết, mục đích cụ thể theo đúng tiến trình
của sự vận hành tại cõi trời Địa phủ. Cụ thể như sau:
- Mục đích đầu tiên là đón nhận, tiếp nhận các Tuệ linh
của con người đang chuyển sinh theo hướng phân rã hoại
diệt. Đó là những con người có ý nghĩ cho đến hành động
chưa mang lại lợi ích cho mọi người, cho vạn vật và muông

719
thú. Đó là những con người có ý nghĩ cho đến hành động tiêu
cực gây tổn hại lợi ích của vạn vật, muông thú, Tuệ linh và
con người. Đón nhận, tiếp nhận tất cả các linh hồn của
muông thú. Cõi trời Địa phủ không đón nhận Tuệ linh của
những con người có lối sống chuyển sinh theo hướng bền
vững an lạc, đó là những con người luôn vì vạn vật, Tuệ linh,
con người, muông thú mà không màng tới bản thân. Những
Tuệ linh này sau khi hết kiếp người sẽ được về cõi trời nhiệm
màu của vị Tuệ linh đầu tiên để tu dưỡng và luân hồi chuyển
sinh tiếp theo.
- Mục đích tiếp theo là: Sau khi đón nhận các Tuệ linh,
linh hồn, tại cõi trời Địa phủ, họ sẽ được nhớ lại các hành
trình tu hành trên nhân gian.
- Mục đích tiếp theo là: Họ sẽ được trải nghiệm sự
phản chiếu của quá trình phóng xạ năng lượng âm trong Trụ
linh họ. Đó là các cảnh Địa ngục được tạo dựng bởi những
năng lượng tiêu cực tương ứng để tạo thành cơ chế phản
chiếu nghiệp ác họ đã tạo khi sống ở nhân gian. Những sự
phản chiếu của liên kết năng lượng tiêu cực sẽ làm cho họ
thấy những bản thể năng lượng hình hài xấu xí, tưởng rằng
đó là quỷ sai, tưởng rằng đó là thú dữ khổng lồ truy giết họ.
Đó đều là sự tương tác liên kết năng lượng tiêu cực tạo ra để
giúp họ cảm thọ được những tiêu cực khổ đau mà họ tạo ra
cho vạn vật, muông thú, con người ở nhân gian khi họ sống.
- Mục đích tiếp theo là: Cõi trời Địa phủ mở các lớp học
giáo lý, những giá trị đạo đức để giúp cho họ an lạc trở lại,
giúp cho họ không bị phản chiếu nghiệp ác nữa, từ đó chuyển
cảnh tu luyện tại cõi trời Địa phủ.
- Mục đích tiếp theo là: Họ sẽ sống cuộc sống tại cảnh
âm. Nơi đó vẫn còn phiền não. Họ tiếp tục tham gia các lớp
720
học đạo để trau dồi kinh nghiệm sống theo hướng chuyển
sinh bền vững an lạc hơn.
- Mục đích tiếp theo là: Họ sẽ chuyển sang cảnh tu
luyện, cân bằng năng lượng và tiếp tục học đạo, học giáo lý
đạo đức để làm hành trang cho con đường chuyển sinh theo
hướng bền vững an lạc trong kiếp thân tướng mới. Đó là sự
lấy lại tinh thần, năng lượng và hành trang để có thể dễ dàng
vượt qua được các kiếp nạn khổ đau và đi được đúng trên
con đường chuyển sinh bền vững an lạc ở nhân gian.
Mục đích cuối cùng là đón nhận giá trị giáo lý siêu việt
nhất, Chân lý bao trùm Vũ trụ cho sự chuyển sinh bền vững
an lạc nhất của các bậc giác ngộ thông qua việc họ tu hành ở
nhân gian, từ đó sẽ dùng những Chân lý đó, giá trị đó,
phương pháp đó, con đường đó để hóa độ, Phổ độ, Cứu độ
các Tuệ linh, các linh hồn đang còn mắc kẹt trong hành trình
chuyển sinh, đang chuyển sinh trên con đường phân rã đi
vào được con đường chuyển sinh bền vững an lạc.
Mục đích thành lập cõi trời Địa phủ của vị Tuệ linh đầu
tiên được xuất phát từ tình yêu thương từ bi vô lượng của
Ngài. Tình yêu thương từ bi vô lượng đó không bao giờ phai
mờ. Đó là tình yêu thương hết thảy vạn vật, Tuệ linh, con
người, dẫn dắt, khai sáng cho họ chuyển sinh được bền vững
cấu trúc Trụ linh đạt đến sự an lạc nhất, đó là đắc được bộ
lọc năng lượng trong Trụ linh.
***************

721
IV. Quá trình phát triển của cõi trời Địa
phủ

Cõi trời Địa phủ từ khi được thành lập tới nay đã trải
qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Sự phát triển của
cõi trời Địa phủ không phải là sự phát triển về đời sống,
không phải là phát triển về cơ sở vật chất giản đơn như Trái
đất, không phải là sự phát triển về khoa học kỹ thuật. Sự phát
triển của cõi trời Địa phủ chính là sự phát triển về giáo lý,
phát triển về phương pháp giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn
khi an trụ về đó nhanh chóng đúc kết được bài học tu hành,
nhanh chóng cân bằng năng lượng, có được hành trang vững
chắc để đi đến được con đường chuyển sinh bền vững khi
làm người. Như vậy, ta phải hiểu là sự phát triển của cõi trời
Địa phủ chính là phát triển về phương pháp, phát triển về
giáo lý giáo hóa chúng sinh ở cõi trời đó.
Quá trình phát triển giáo lý, phương pháp giáo hóa của
cõi trời Địa phủ từ khi Địa phủ hình thành tới nay được chia
làm 3 giai đoạn. Trong mỗi giai đoạn, giáo lý và phương pháp
giáo hóa lại được thay đổi theo từng thời kỳ phát triển ý thức
hệ về trí tuệ giác ngộ của con người ở nhân gian. Sự thay đổi
trong mỗi giai đoạn đều phải đảm bảo nguyên tắc tuân thủ
theo bốn lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên, phải lấy bốn lời
răn dạy đó làm kim chỉ nam cho hệ thống lý luận giáo hóa ở
cõi trời Địa phủ.
Ba giai đoạn phát triển đó là:

722
1. Giai đoạn phát triển đầu tiên
Giai đoạn phát triển đầu tiên về hệ thống giáo lý,
phương pháp giáo hóa Tuệ linh, Linh hồn ở cõi trời Địa phủ
được gắn liền với thời kỳ phát triển ý thức hệ đầu tiên của
nhân loại. Giai đoạn này gắn liền với sự xuất hiện con người
đầu tiên ở nhân gian cùng với bốn lời răn dạy của vị Tuệ linh
đầu tiên cho đến trước khi xuất hiện cuộc đại độ thống nhất
chúng sinh lần 1 của chính vị Tuệ linh đầu tiên ở nhân gian.
Giai đoạn phát triển ý thức hệ đầu tiên của nhân loại
được bắt đầu từ các cuộc tập kết nhân loại của Hội đồng Tuệ
linh cùng với vị Tuệ linh đầu tiên ở nhân loại. Giai đoạn phát
triển ý thức hệ này được kéo dài cho tới cuộc đại độ thống
nhất chúng sinh lần 1 của vị Tuệ linh đầu tiên. Trong giai
đoạn ý thức hệ đầu tiên của nhân loại, chủ yếu hình thành và
tồn tại ý thức hệ tri ân tổ tiên loài người, đó là tri ân Thiên
Địa, tri ân các vị thần, tri ân Thượng Đế/ Đấng Tạo Hóa/
Đấng Sáng Tạo. Giai đoạn ý thức hệ đầu tiên của nhân loại là
thông qua sự tri ân để giúp cho nhân loại học tập những lời
răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên trong sự nghiệp xây dựng
nhân loại, xây dựng môi trường tu hành trở nên phong phú
và phức tạp. Việc xây dựng nhân loại trở nên phong phú và
phức tạp đều là sứ mệnh của con người. Trong giai đoạn này
cũng đánh dấu sự phát triển ý thức hệ tri ân của con người
với những bậc Thánh nhân có công xây dựng bảo vệ Tổ quốc
của dân tộc, quốc gia họ. Tất cả đều là ý thức hệ tri ân từ
nhân gian tới cội nguồn Tuệ linh, của con người để học tập,
noi gương và thực hành theo những lời răn dạy của vị Tuệ
linh đầu tiên.
Bốn lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên trong các cuộc
tập kết nhân loại để xây dựng nhân loại: Tại các cuộc tập kết
723
nhân loại ở Trái đất, các Tuệ linh sẽ phát nguyện thành từng
hộ gia đình gồm có một vợ, một chồng, một con gái, một con
trai. Mỗi điểm tập kết có nhiều hộ gia đình cùng với vô số
muông thú đến để nghe những lời răn dạy của vị Tuệ linh
đầu tiên. Những lời răn dạy là kim chỉ nam để cho tất cả Tuệ
linh và con người tu hành ở nhân gian phải tuân thủ theo, lấy
đó làm khuôn mẫu đạo đức để chuyển hóa và cải tạo Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng. Bốn lời răn dạy đó là: “1- Ngài nhìn
và nói với các hộ gia đình: Ta đưa các ngươi xuống đây bằng
chân tâm thì về sẽ phải bằng chân tâm. 2- Ngài nhìn và nói với
các hộ gia đình: Ta giao sứ mệnh cho các ngươi phải gả con
cái cho nhau để xây dựng nhân loại. 3- Ngài chỉ vào muông
thú và nói với các hộ gia đình: Ta giao cho các ngươi sứ mệnh
phải thuần hóa muông thú, để chúng chuyển sinh làm người
cùng tu hành ở nhân gian. 4- Các ngươi sẽ phải trải qua hết
tất cả các khổ đau kiếp nạn để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc
năng lượng”. Bốn lời răn dạy này với cuộc tập kết nhân loại
đã cho thấy có bốn hình tướng Đạo trong đó, điều mà đã
được quán triệt từ trước khi dạng sống Tuệ linh xuống nhân
gian tu hành. Đó là hình tướng Đạo đời (đối nhân xử thế, lao
động sản xuất, phát triển nhân loại), hình tướng Đạo lễ (vợ
chồng nghĩa tình, con cái hiếu nghĩa với cha mẹ tổ tiên, cha
mẹ nghĩa tình với con cái, anh em nghĩa tình viên mãn), hình
tướng Đạo đường (con đường tri thức, đó là thầy trò), hình
tướng Đạo Đế vương (mối quan hệ giữa người đứng đầu và
người dân đối với lãnh thổ dân tộc). Bốn lời răn dạy đã tạo
thành khuôn mẫu đạo đức thông qua bốn hình tướng Đạo.
Thông qua bốn hình tướng Đạo sẽ cho thấy sự bộc lộ bản
chất trí tuệ của con người đang chuyển sinh theo hướng
phân rã hoại diệt hay chuyển sinh theo hướng bền vững an

724
lạc. Nếu chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt thì sẽ bộc
lộ thành lối sống ích kỷ không giúp đỡ mọi người và vạn vật,
muông thú, ích kỷ về mình mà gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ
linh, con người. Nếu chuyển sinh theo hướng bền vững an lạc
là không vì ích kỷ của mình, luôn mang lại giá trị lợi ích tới
vạn vật, Tuệ linh và con người. Thông qua bốn biểu hiện hình
tướng Đạo, Hội đồng Tuệ linh trên cõi trời của vị Tuệ linh
đầu tiên và Hội đồng Tuệ linh ở cõi trời Địa phủ sẽ thực hiện
nhiệm vụ chuyển sinh các Tuệ linh, Linh hồn sau khi hết kiếp
người về cảnh giới nghỉ ngơi khác nhau. Nếu con người
chuyển sinh theo hướng bền vững sẽ được chuyển sinh về
cõi trời của vị Tuệ linh đầu tiên, nếu con người chuyển sinh
theo hướng phân rã hoại diệt sẽ được chuyển sinh về cõi trời
Địa phủ.
Hội đồng Tuệ linh ở cõi trời Địa phủ sẽ thông qua bốn
hình tướng Đạo với những vi phạm của Tuệ linh, Linh hồn
khi sống ở nhân gian để giáo hóa cho họ thấy con đường
chuyển sinh họ đang đi là đúng hay sai. Hội đồng Tuệ linh cõi
trời Địa phủ sẽ giáo hóa cho họ về những lời răn dạy của vị
Tuệ linh đầu tiên, về bốn hình tướng Đạo, về con đường
chuyển sinh gây tổn hại tới Tuệ linh, con người và vạn vật mà
họ đã vi phạm, từ đó giúp họ cân bằng năng lượng cho sự
chuyển sinh tiếp theo.
Giáo lý giáo hóa, phương pháp giáo hóa của cõi trời Địa
phủ ở giai đoạn này chủ yếu là thực hiện theo bốn lời răn dạy
của vị Tuệ linh đầu tiên, thông qua bốn hình tướng Đạo để
giáo hóa về giá trị đạo đức của Tuệ linh, Linh hồn ở cõi Địa
phủ. Giai đoạn này chưa có giáo lý giáo hóa về Tâm Đạo, tức
là chưa có giáo lý giác ngộ để giáo hóa cho các Tuệ linh, Linh
hồn nhanh học được bài học tu hành, nhanh cân bằng được

725
năng lượng, có hành trang để vượt được qua khổ đau kiếp
nạn ở kiếp nhân gian mới. Các Tuệ linh, Linh hồn ở cõi trời
Địa phủ để được chuyển sinh làm kiếp mới sẽ mất rất lâu
thời gian cho quá trình đúc kết bài học tu hành, cân bằng
năng lượng để chuyển sinh kiếp nhân gian mới.
Như vậy, giai đoạn phát triển đầu tiên về giáo lý và
phương pháp giáo hóa ở cõi trời Địa phủ là tuân thủ theo bốn
lời răn dạy cùng với bốn hình tướng Đạo của vị Tuệ linh đầu
tiên đã định ra ở nhân gian. Ở giai đoạn giáo hóa này, cõi trời
Địa phủ sẽ không định vào hình thức tín ngưỡng nào trên
nhân gian để giáo hóa.

2. Giai đoạn phát triển thứ hai


Giai đoạn phát triển thứ hai về hệ thống giáo lý,
phương pháp giáo hóa Tuệ linh, Linh hồn ở cõi trời Địa phủ
được gắn liền với thời kỳ phát triển ý thức hệ thứ hai của
nhân loại. Giai đoạn này gắn liền với cuộc đại độ thống nhất
chúng sinh lần 1 của vị Tuệ linh đầu tiên cho đến trước khi
xuất hiện cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 2 của vị Tuệ
linh đầu tiên ở nhân gian.
Giai đoạn phát triển ý thức hệ thứ 2 của nhân loại
được bắt đầu từ cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 1 của
vị Tuệ linh đầu tiên ở nhân gian, đó là kiếp nhân sinh mà vị
Tuệ linh đầu tiên đã hóa thân thành chân tu là Đức Phật
Thích Ca. Khi Ngài ấy hoàn lại trí tuệ giác ngộ hai Chân lý và
bắt đầu lan tỏa hai Chân lý, đó là thời khắc đánh dấu cuộc đại
độ thống nhất chúng sinh lần 1 được bắt đầu. Ý thức hệ về trí
tuệ giác ngộ ở nhân gian được thay đổi từ cuộc đại độ thống
nhất chúng sinh lần 1 của Đức Phật Thích Ca. Đó là thông qua

726
hai Chân lý, Ngài đã soi sáng cho chúng sinh nơi nhân gian
thấu hiểu về cội nguồn, kế hoạch tu hành nơi nhân gian, con
đường diệt khổ bằng Tâm Đạo thông qua bốn hình tướng
Đạo, đặc biệt nhấn mạnh tới những lời răn dạy của cuộc tập
kết nhân loại. Cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 1 này đã
cho thấy sự thay đổi lớn trong ý thức hệ trí tuệ giác ngộ của
con người, đó là đề cao tính bình đẳng hết thảy Tuệ linh và
con người, đề cao tính đoàn kết cùng nhau cải tạo Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng. Sự thay đổi lớn về trí tuệ giác ngộ
chính là đã có con đường Tâm Đạo gắn chặt với bốn hình
tướng Đạo. Con đường Tâm Đạo là con đường giác ngộ viên
mãn để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.
Tuy nhiên, do trí tuệ của nhân loại thời đó và về sau
không thể thực chứng được trí tuệ siêu việt của hai Chân lý,
vậy nên hai Chân lý đã bị biến đổi, bị vỡ nát chỉ còn thành hệ
tư tưởng nhân quả, con đường giác ngộ cũng vì đó mà đánh
mất kim chỉ nam của bốn lời răn dạy của Ngài ở cuộc tập kết
nhân loại đầu tiên. Vì vậy, bốn hình tướng Đạo cũng vì thế mà
không được tuân thủ. Người tu hành về sau đã không còn
biết cội nguồn, kế hoạch tu hành, sứ mệnh làm gì. Do đó, hết
thảy Tuệ linh và con người ở nhân gian đều chuyển sinh theo
hướng phân rã hoại diệt. Sự thất bại của hai Chân lý sau khi
Đức Phật nhập diệt chính là vì chưa có cơ chế lý giải sự vận
hành của hai Chân lý, chưa có các học thuyết, các quy luật
chứng thực sự vận hành cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng. Sự thất bại của hai Chân lý sau đó cũng là do trí tuệ
nhân loại chưa thể hiểu được tinh hoa của hai Chân lý.
Sau khi đạo Phật được hình thành, các tôn giáo khác
được ra đời cũng đều đưa ra những ý thức hệ tri ân tổ tiên
nhân loại là Thượng Đế, Chúa Trời, phải hành thiện, không vi

727
phạm vào hình tướng Đạo, bản chất cũng là thực hiện những
lời răn dạy của Ngài để chuyển sinh được bền vững.
Có thể nói giai đoạn ý thức hệ thứ hai ở nhân loại
chính là giai đoạn sơ khai của quá trình lan tỏa hai Chân lý
nhằm thống nhất chúng sinh cùng đoàn kết vượt qua hết tất
cả khổ đau kiếp nạn để cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng. Vì là sơ khai nên ngoài vị Tuệ linh đầu tiên có được bộ
lọc năng lượng thì vẫn chưa có Tuệ linh nào cải tạo Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng. Vừa là sơ khai của hai Chân lý và do
trí tuệ của nhân loại giai đoạn này chưa phát triển kịp thời để
tiếp nhận trí tuệ của hai Chân lý nên hai Chân lý đã bị vỡ nát.
Điều này dẫn tới việc nhân loại đắm chìm trong sự tri ân mê
tín dị đoan, đó là cầu cúng để xin phước báo từ các bậc giác
ngộ, từ Chúa Trời mà không hề biết về cội nguồn, kế hoạch tu
hành, sứ mệnh và con đường cải tạo Trụ linh trở nên bền
vững.
Sau cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 1 ở nhân
gian, tuy hai Chân lý đã không còn, nhưng ở cõi trời Địa phủ
đã áp dụng hệ thống giáo lý giác ngộ sơ khai của hai Chân lý
trong việc giáo hóa Tuệ linh và Linh hồn để họ nhanh đúc kết
được bài học kinh nghiệm tu hành một kiếp người, nhanh
cân bằng được năng lượng, có hành trang để kiếp thân tướng
mới chuyển sinh được bền vững hơn. Có thể nói, sau khi cõi
trời Địa phủ áp dụng giáo lý sơ khai của hai Chân lý để giáo
hóa, các Tuệ linh, Linh hồn đã nhanh chóng được chuyển
sinh, những thành tựu tu hành trên nhân gian cũng vì thế mà
được cải thiện nhiều. Giáo lý giáo hóa bằng hai Chân lý sơ
khai vẫn đầy đủ bốn lời răn dạy và bốn hình tướng Đạo, đồng
thời lại thêm Tâm Đạo là con đường diệt khổ để đi tới sự giác
ngộ, để nhanh chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng.

728
Điều này đã giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn nhận thức rõ
được sự chuyển sinh phân rã hoại diệt của họ và giúp họ có
động lực, hành trang cho sự kiên định trên con đường
chuyển sinh bền vững.
Trong giai đoạn giáo hóa này ở cõi trời Địa phủ, Hội
đồng Tuệ linh quản lý cõi trời này đã thông qua sự bám định
của các Tuệ linh, Linh hồn khi họ sống đã tin và theo các tôn
giáo, lấy sự bám định đó, đức tin, niềm tin để bước đầu giáo
hóa, tiếp đến là vận hành giáo lý sơ khai của hai Chân lý để
thúc đẩy quá trình cân bằng năng lượng và chuyển sinh làm
thân tướng kiếp mới.

3. Giai đoạn phát triển thứ ba


Giai đoạn phát triển thứ ba về hệ thống giáo lý,
phương pháp giáo hóa Tuệ linh, Linh hồn ở cõi trời Địa phủ
được gắn liền với thời kỳ phát triển ý thức hệ thứ ba của
nhân loại. Giai đoạn này gắn liền với cuộc đại độ thống nhất
chúng sinh lần 2 của vị Tuệ linh đầu tiên ở nhân gian.
Giai đoạn phát triển ý thức hệ thứ 3 của nhân loại
được bắt đầu từ cuộc đại độ thống nhất chúng sinh lần 2 của
vị Tuệ linh đầu tiên ở nhân gian, đó là thời điểm mọi người
đang đọc tri thức của hai Chân lý từ thời điểm này trở về sau.
Hệ thống giáo lý của hai Chân lý được phân tích thấu hiểu tận
cùng bằng thực chứng biện chứng của cơ chế vận hành hai
Chân lý, bằng hệ thống bản chất của hạt năng lượng tận cùng
– hạt năng lượng nhân quả, bằng hệ thống quy trình sản sinh
ra các siêu hạt năng lượng cũng như chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng viên mãn thông qua việc thực hành
khuôn mẫu đạo đức trong bốn hình tướng Đạo cùng với bốn

729
lời răn dạy của vị Tuệ linh đầu tiên. Trong hệ thống giáo lý
của hai Chân lý đã phân tích rõ ràng, chỉ rõ con đường Tâm
Đạo là con đường giác ngộ (Chân lý Giác ngộ) để chuyển sinh
Trụ linh trở nên bền vững an lạc siêu việt. Thông qua Chân lý
Vạn vật và cơ chế vận hành của nó để thấu hiểu tận cùng về
cội nguồn Vũ trụ, cội nguồn nhân loại, kế hoạch tu hành, sứ
mệnh phải đoàn kết Tuệ linh, con người để cùng nhau đối
mặt, giác ngộ hết tất cả khổ đau kiếp nạn. Đó là con đường
duy nhất, nhanh nhất, siêu việt nhất để giúp Tuệ linh và con
người chuyển sinh được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng
viên mãn.
Giáo lý của hai Chân lý là trí tuệ siêu việt để đoàn kết
chúng sinh thấu hiểu tận cùng cội nguồn Vũ trụ, cội nguồn
nhân loại, cơ chế vận hành Quy luật Nhân quả của cả vạn vật,
Tuệ linh, con người, Vũ trụ; khuôn mẫu đạo đức để nhận diện
rõ con đường chuyển sinh bền vững hay phân rã, quy luật
vận hành sản sinh siêu hạt năng lượng, phương pháp chuyển
sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng. Đó chính là Hoàn Đạo,
là Đạo hợp nhất của Vũ trụ, sự hoàn lại đầy đủ của bốn lời
răn dạy, của bốn hình tướng Đạo, của con đường Tâm Đạo
của vị Tuệ linh đầu tiên đã xây dựng và tìm ra được. Đó là sự
hoàn hảo về giáo lý giáo hóa hết thảy Tuệ linh, con người
chuyển sinh thành bộ lọc năng lượng trong Trụ linh. Hệ
thống giáo lý của hai Chân lý chính là Đạo hợp nhất viên mãn
của Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Chính vì vậy, đây là giáo lý,
là trí tuệ siêu việt để thực hiện kế hoạch đại độ thống nhất
chúng sinh lần 2 của Ngài.
Khi giáo lý của Hai Chân lý hoàn chỉnh được xuất hiện
ở nhân gian, đó cũng là thời khắc mà Hội đồng Tuệ linh cõi
trời Địa phủ áp dụng hệ thống giáo lý của hai Chân lý để giáo

730
hóa Tuệ linh, Linh hồn con người, muông thú sau khi hết kiếp
nhân gian trở về Địa phủ. Giáo lý siêu việt của hai Chân lý đã
chứng minh được sự kỳ diệu khi Hội đồng Tuệ linh cõi trời
Địa phủ áp dụng trong việc giáo hóa ở cõi Địa phủ. Giáo lý
siêu việt của hai Chân lý đã chứng minh được sự kỳ diệu khi
mà các môn sinh của tôi đã áp dụng để chuyển sinh các cấu
trúc năng lượng Tuệ linh, Linh hồn sắp phân rã hoại diệt
được hồi sinh, giúp các Tuệ linh, Linh hồn mắc kẹt trên nhân
gian được chuyển sinh về Địa phủ. Những môn sinh của tôi
còn chứng minh được sức mạnh của hai Chân lý khi họ thiền
định để tới cõi trời Địa phủ, họ đích thân xin phép Hội đồng
Tuệ linh ở đó để thuyết pháp hai Chân lý để giáo hóa các Tuệ
linh và Linh hồn. Sự kỳ diệu là những Tuệ linh, Linh hồn
được nghe giáo pháp của hai Chân lý giáo hóa đã cân bằng
năng lượng rất nhanh, họ đi vào hành trình chuyển sinh rất
nhanh chóng.
Hiện tại, tại cõi trời Địa phủ, Hội đồng Tuệ linh quản lý
cõi trời này vẫn thông qua sự bám định của các Tuệ linh,
Linh hồn khi sống có niềm tin vào tôn giáo. Hội đồng Tuệ linh
lấy đó làm bước tiếp dẫn các Tuệ linh, Linh hồn trở về Địa
phủ, tiếp theo dùng giáo lý hai Chân lý để giáo hóa chúng
sinh tại cõi trời Địa phủ.

Như vậy, giáo lý và phương pháp giáo hóa tại cõi trời
Địa phủ đã thay đổi theo từng thời kỳ. Sự thay đổi đó gắn liền
với quá trình thay đổi về ý thức hệ trí tuệ giác ngộ của nhân
loại. Sự phát triển, thay đổi đạt đến sự hoàn thiện viên mãn
của giáo lý hai Chân lý đã giúp cho cõi trời Địa phủ đạt đến
sự phát triển rực rỡ trong sự giáo hóa Tuệ linh, Linh hồn có
được hành trang sức mạnh chuyển sinh theo hướng bền

731
vững an lạc nhanh nhất, đó là thúc đẩy quá trình chuyển sinh
Trụ linh thành bộ lọc năng lượng viên mãn. Dù trên nhân
gian có nhiều tôn giáo, nhiều tín ngưỡng khác nhau, tất cả
những Tuệ linh, Linh hồn mà chuyển sinh theo hướng phân
rã hoại diệt sẽ đều trở về cõi trời Địa phủ để tu dưỡng trong
sự không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng mà họ theo khi sống
ở nhân gian.
***************

732
V. Các hội đồng vận hành quản lý cõi trời
Địa phủ

Cõi trời Địa phủ có 3 Hội đồng Tuệ linh và một Tuệ
linh đứng đầu quản lý vận hành sứ mệnh giáo hóa chúng sinh
cõi trời này. Đó là Hội đồng Hoàn Đạo, Hội đồng Hành pháp,
Hội đồng Quản lý Hành chính. Mỗi Hội đồng Tuệ linh có sứ
mệnh, nhiệm vụ khác nhau trong toàn bộ quy trình từ tiếp
nhận các Tuệ linh, Linh hồn cho đến giáo hóa và chuyển sinh
luân hồi kiếp mới.
Các Hội đồng Tuệ linh đều là những Tuệ linh ưu tú, có
trí tuệ giác ngộ nhất trong Vũ trụ, Tuệ linh và con người. Họ
được vị Tuệ linh đầu tiên chọn lựa và phân công nhiệm vụ,
sứ mệnh cho họ tại cõi trời Địa phủ. Họ sẽ đảm nhiệm sứ
mệnh với các vị trí khác nhau, sau đó họ lại tiếp tục chuyển
sinh làm người để tu luyện cải tạo Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng. Khi họ chuyển sinh làm người thì sẽ có những Tuệ
linh khác đảm nhiệm thay thế vào vị trí của họ. Vì họ là
những Tuệ linh ưu tú làm nhiệm vụ giáo hóa nên khi chuyển
sinh làm người, họ sẽ có ý nghĩ cho đến hành động là đa
dương mạnh, tức là họ luôn luôn suy nghĩ và hành động đoàn
kết, lan tỏa phát triển bền vững tới vạn vật, Tuệ linh và con
người mà không màng tới bản thân họ. Sau khi cải tạo được
Trụ linh trở nên bền vững hơn, họ có thể tiếp tục về cõi trời
Địa phủ làm sứ mệnh giáo hóa hoặc đến các cõi trời khác
trong Vũ trụ để thực hiện sứ mệnh khác.
Tuệ linh đứng đầu và 3 hội đồng quản lý, vận hành,
giáo hóa chúng sinh cõi trời Địa phủ là:
733
1. Tuệ linh đứng đầu cõi trời Địa phủ
Vị Tuệ linh đầu tiên chính là Đức A Di Di Đà (danh hiệu
gốc) hay còn có các danh xưng khác là Đấng Sáng Tạo, Đấng
Tạo Hóa, Đức Chúa Trời… Ngài là vị Tuệ linh đã gieo duyên,
thành lập cõi trời Địa phủ để làm cõi tạm cho các Tuệ linh,
Linh hồn tu hành ở nhân gian được về đó tu dưỡng sau khi
hết một kiếp thân tướng ở nhân gian. Ngài chính là Tuệ linh
đứng đầu và quản lý cũng như vận hành toàn bộ cõi trời Địa
phủ. Ngài cũng đã tạo ra những danh hiệu khác của Ngài ở
cõi trời Địa phủ để giáo hóa chúng sinh cõi trời này. Tuy
nhiên, chúng ta chỉ cần hiểu Ngài là vị đứng đầu cõi trời Địa
phủ.
Tuệ linh đầu tiên của Vũ trụ, chính Ngài là Tuệ linh
đứng đầu quản lý và vận hành cõi trời Địa phủ làm nhiệm vụ
giáo hóa, hỗ trợ các Tuệ linh, Linh hồn tu hành ở nhân gian.
Đó là các Tuệ linh, Linh hồn khi tu hành ở nhân gian trong
thân tướng con người và muông thú đã đi ngược bốn lời răn
dạy của Ngài đã truyền dạy ở các cuộc tập kết xây dựng nhân
loại, đi ngược và vi phạm vào giá trị đạo đức trong bốn hình
tướng Đạo. Việc không thực hiện các lời răn dạy, việc vi
phạm vào giá trị đạo đức của bốn hình tướng Đạo là biểu
hiện của việc các Tuệ linh, Linh hồn đang chuyển sinh theo
hướng phân rã và hoại diệt. Do đó, Ngài, với tình thương yêu
bao la đến hết thảy Tuệ linh, con người nên đã thành lập
cũng như đứng đầu để quản lý, vận hành sứ mệnh giáo hóa
Tuệ linh, Linh hồn đang đi theo hướng chuyển sinh phân rã
hoại diệt. Ngài thông qua những lời răn dạy và hình tướng
Đạo đã được Ngài truyền dạy và xây dựng cho nhân loại để
giáo hóa các Tuệ linh, Linh hồn nhận thức rõ được con
734
đường họ đang chuyển sinh là phân rã hoại diệt, từ đó giảng
dạy, chỉ dẫn cho họ con đường chuyển sinh bền vững. Thông
qua những thành tựu về trí tuệ giác ngộ bởi chân tu của Ngài
ở nhân gian trong việc tìm ra phương pháp ưu việt giúp
chuyển sinh Trụ linh thành bộ lọc năng lượng, Ngài sẽ lấy
giáo lý, chân lý, phương pháp đó để áp dụng giáo hóa các Tuệ
linh, Linh hồn ở cõi trời Địa phủ.
Ngài là bậc trí tuệ vô lượng nhất của Vũ trụ, Ngài di
chuyển khắp trong và ngoài Vũ trụ. Nhiệm vụ chính của Ngài
là ở không gian lõi Vũ trụ, từ cõi trời này (lõi Vũ trụ), Ngài
vận hành sự sống của toàn bộ Vũ trụ, Tuệ linh, con người.
Ngài vận hành thông qua cấu trúc nền của Vũ trụ, thông qua
các mã sóng trí tuệ trong tất cả các dạng vật chất của Vũ trụ,
bởi các dạng vật chất đó được cấu tạo từ năm nhóm năng
lượng đã được phân tách từ Trụ linh của Ngài. Sự di chuyển
của Ngài trong Vũ trụ chỉ cần bằng một ý nghĩ. Do đó, việc
Ngài đứng đầu quản lý, vận hành, giáo hóa cõi trời Địa phủ là
chuyện giản đơn. Đặc biệt, Ngài đã xây dựng các hội đồng trợ
giúp công việc cho Ngài tại cõi trời này.

2. Hội đồng Hoàn Đạo


Hội đồng Hoàn Đạo là hội đồng quản lý cao nhất tại cõi
trời Địa phủ. Đây là hội đồng của các Tuệ linh có trí tuệ giác
ngộ cao nhất tại cõi trời Địa phủ. Hội đồng Hoàn Đạo là hội
đồng được quản lý trực tiếp bởi vị Tuệ linh đứng đầu.
Hội đồng Hoàn Đạo với ý nghĩa là hội đồng trí tuệ giác
ngộ nhất tại cõi trời Địa phủ, là hội đồng giáo hóa, chỉ dẫn
con đường, chỉ dẫn phương pháp giúp cho các Tuệ linh, Linh
hồn ở cõi trời này có hành trang tri thức chuyển sinh bền

735
vững. Từ đó, khi luân hồi thân tướng kiếp mới, họ sẽ tu tập
để đi đến sự thành tựu viên mãn của tu Đạo, đó là tu hành tới
đích của sự giác ngộ thông qua hình tướng Đạo và Tâm Đạo
với kim chỉ nam là bốn lời răn dạy của Ngài. Đó là Hoàn Đạo.

Nhiệm vụ của Hội đồng Hoàn Đạo:


- Hội đồng Hoàn Đạo trực tiếp quản lý Hội đồng Hành
pháp, Hội đồng Quản lý Hành chính và các cảnh sống tại cõi
trời Địa phủ.
- Hội đồng Hoàn Đạo tiếp nhận giáo lý, phương pháp
giáo hóa chúng sinh tại cõi trời Địa phủ từ vị Tuệ linh đứng
đầu.
- Hội đồng Hoàn Đạo lưu giữ, quản lý hồ sơ của Tuệ
linh và Linh hồn tu hành ở nhân gian. Đó là quản lý, lưu giữ
sổ sinh và sổ tử.
- Hội đồng Hoàn Đạo thực hiện tra xét, phán xử, luận
thiện nghiệp, ác nghiệp của Tuệ linh, Linh hồn khi mới được
về Địa phủ sau một kiếp thân tướng. Từ đó, dựa trên thiện
nghiệp và ác nghiệp để sắp xếp cho họ an trụ vào các cảnh
sống tương ứng.
- Hội đồng Hoàn Đạo xây dựng, sắp xếp, triển khai các
lớp học đạo để giáo hóa cho các Tuệ linh, Linh hồn từ khi
được trở về Địa phủ cho tới khi được luân hồi xuống nhân
gian.
- Hội đồng Hoàn Đạo trực tiếp giảng dạy, giáo hóa
chúng sinh tại cõi trời Địa phủ theo kế hoạch của hội đồng.
- Hội đồng Hoàn Đạo sẽ triển khai, mở lớp, thực hiện
giảng dạy giáo hóa cấp tốc Tuệ linh, Linh hồn khi nhận được
chỉ thị từ Tuệ linh đứng đầu. Những trường hợp này là do ở
736
nhân gian, người tu đạo thấu hiểu về cõi trời Địa phủ, về sứ
mệnh nhiệm vụ của các hội đồng. Khi thấu hiểu, họ tấu lễ
nương tựa Tuệ linh đứng đầu và Hội đồng Giác ngộ giảng
dạy, giáo hóa cho các Tuệ linh, Linh hồn vừa trở về Địa phủ
hoặc đang trong các cảnh sống Địa ngục, cảnh âm. Đó chính
là nghi lễ phổ độ của người tu đạo tại nhân gian.
- Hội đồng Hoàn Đạo hỗ trợ, tạo điều kiện cho người tu
hành thiền định tới cõi trời Địa phủ giáo hóa Tuệ linh, Linh
hồn là người thân của họ. Để nhiệm vụ này được thực hiện
thì người tu hành ở nhân gian phải thấu hiểu bốn lời răn dạy,
thấu hiểu giá trị đạo đức của bốn hình tướng Đạo, thấu hiểu
hai Chân lý, thấu hiểu con đường chuyển sinh bền vững an
lạc. Khi đó, Tuệ linh của người thiền định sẽ được giám sát
quá trình giảng giáo lý giáo hóa bởi Hội đồng Hoàn Đạo.
- Hội đồng Hoàn Đạo lên kế hoạch và giao việc thực
hiện cho Hội đồng Hành pháp và Hội đồng Quản lý Hành
chính trong việc đón nhận Tuệ linh, Linh hồn sau khi hoại
diệt thân tướng ở nhân gian được trở về Địa phủ, tu tập, học
tập ở các cảnh sống và chuyển sinh kiếp thân tướng mới ở
nhân gian.

3. Hội đồng Hành pháp


Hội đồng Hành pháp là hội đồng thực thi các quy tắc,
các pháp chế tại cõi trời Địa phủ. Đây là hội đồng được vận
hành bởi các Tuệ linh có trí tuệ giác ngộ cao.
Hội đồng Hành pháp được quản lý trực tiếp từ Hội
đồng Hoàn Đạo và từ Tuệ linh đứng đầu.

Nhiệm vụ của Hội đồng Hành pháp:


737
- Thực thi nhiệm vụ từ Tuệ linh đứng đầu.
- Thực thi nhiệm vụ từ Hội đồng Hoàn Đạo.
- Thực thi nhiệm vụ trong sổ sinh và sổ tử, đó là đi bắt
về các Tuệ linh, Linh hồn đang an trụ trong thân tướng con
người vì không tu tập cải tạo Tuệ linh trong khi ác nghiệp đã
tạo quá nhiều từ nhiều kiếp. Chính vì chân tu không chịu tu
tập cải tạo nên Hội đồng Hành pháp sẽ dựa trên nghiệp ác
quá nhiều mà bắt Tuệ linh, Linh hồn đó bỏ lại thân xác để về
Địa phủ, để được giáo hóa lại rồi cho luân hồi kiếp mới. Điều
này là giúp cho Tuệ linh, Linh hồn đó nhận thức được sứ
mệnh tu hành và có hành trang cho kiếp mới biết tu tập để
cải tạo chính họ trở nên bền vững an lạc.
- Tiếp dẫn, đưa các Tuệ linh, Linh hồn tới nhân gian
đầu thai sau quá trình tu dưỡng ở cõi trời Địa phủ.
- Tiếp dẫn, đón các Tuệ linh, Linh hồn sau khi hoại diệt
thân xác kiếp thân tướng ở nhân gian để trở về Địa phủ.
- Dẫn các Tuệ linh, Linh hồn bị đọa ở nhân gian do chết
vì tai nạn, chết vì tự tử, chết do chiến trận, chết do đâm
chém… được trở về Địa phủ sau khi đã trải nghiệm việc bị
đọa ở nhân gian.
- Dẫn giải, đón nhận các Tuệ linh, Linh hồn mắc kẹt ở
nhân gian trở về Địa phủ khi họ được người tu hành siêu độ
cho họ.

4. Hội đồng Quản lý Hành chính


Hội đồng Quản lý Hành chính là hội đồng quản lý các
cảnh sống, quản lý bộ máy và các thủ tục tại cõi trời Địa phủ.
Đây là hội đồng được vận hành bởi các Tuệ linh có trí tuệ
giác ngộ cao.
738
Hội đồng Quản lý Hành chính được quản lý trực tiếp từ
Hội đồng Hoàn Đạo và từ Tuệ linh đứng đầu.

Nhiệm vụ của Hội đồng Quản lý Hành chính:


- Thực thi nhiệm vụ từ Tuệ linh đứng đầu.
- Thực thi nhiệm vụ từ Hội đồng Hoàn Đạo.
- Quản lý cửa khẩu âm dương. Cửa khẩu âm dương là
nơi mà các Tuệ linh, Linh hồn sau khi hoại diệt thân xác được
đi qua để về Địa phủ, đồng thời cũng là nơi mà các Tuệ linh,
Linh hồn đi qua để tới nhân gian luân hồi kiếp mới. Đây cũng
là nơi đi vào cõi trời Địa phủ của các chân tu thiền định đi tới.
- Quản lý vận hành cảnh sống tiếp nhận Tuệ linh, Linh
hồn về Địa phủ, đó là cảnh các phòng tạm chờ phân xử thiện
nghiệp, ác nghiệp của các Tuệ linh, Linh hồn khi mới tới Địa
phủ trước khi phân vào các cảnh sống khác.
- Quản lý vận hành các cửa ngục trong cảnh sống Địa
ngục – Ngã quỷ.
- Quản lý vận hành cảnh sống Địa âm, quản lý Tuệ linh,
Linh hồn gia tiên của các dòng họ (các Tuệ linh, Linh hồn có
cùng dòng họ khi sống ở nhân gian), quản lý cảnh sống lao
động tự do, buôn bán, mưu sinh ở cảnh âm. Quản lý việc cung
cấp, phát chẩn nhà cửa, phương tiện phục vụ cuộc sống cho
Tuệ linh, Linh hồn ở cảnh Địa âm.
- Quản lý vận hành cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng
lượng của các Tuệ linh và Linh hồn, đó là quản lý cảnh sống
của các ngôi đồi âm đức của từng gia tiên dòng họ.
- Quản lý vận hành các lớp học đạo, học giáo lý của các
Tuệ linh, Linh hồn.

739
- Quản lý các thủ tục tại cõi trời Địa phủ.
Như vậy, cõi trời Địa phủ với 3 hội đồng dưới sự điều
hành, quản lý của Tuệ linh đứng đầu đã vận hành quản lý
cũng như giáo hóa chúng sinh tại cõi này một cách khoa học,
chặt chẽ. Điều này đã tạo ra sức mạnh lớn giúp cho các Tuệ
linh, Linh hồn sau một kiếp thân tướng có được kinh nghiệm,
hành trang tri thức để chuyển sinh được trở nên bền vững
hơn ở nhân gian.
***************

740
VI. Các cảnh sống tại cõi trời Địa phủ

Cõi trời Địa phủ có 5 cảnh sống, bao gồm: Cảnh sống
chờ phân xử, cảnh sống Địa âm, cảnh sống Địa ngục – Ngã
quỷ, cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng, cảnh tu
dưỡng học tập giáo lý. Năm cảnh sống này là 5 bức tranh thể
hiện được đầy đủ về đời sống của các Tuệ linh, Linh hồn ở
Địa phủ sau một kiếp thân tướng ở nhân gian. Đó là một
hành trình từ khi được trở về Địa phủ, được đúc kết bài học
kinh nghiệm tu hành, được học tập giáo lý, được giáo hóa,
được tu dưỡng cân bằng năng lượng và tiếp tục luân hồi kiếp
mới ở nhân gian.
Sự vận hành tuần tự theo 5 cảnh sống là quá trình thúc
đẩy nhanh chóng việc các Tuệ linh, Linh hồn sau một kiếp
người học được các bài học tu hành, được giáo hóa, được
trang bị tri thức chuyển sinh bền vững, được cân bằng năng
lượng cho kiếp chuyển sinh mới. Điều này giúp cho quá trình
chuyển sinh luân hồi ở nhân gian được nhanh chóng và
nhanh chuyển hóa được Trụ linh thành bộ lọc năng lượng
hơn.
Cõi trời Địa phủ không có ngày và đêm. Các cảnh sống
được Tuệ linh đứng đầu tạo dựng thành các tầng năng lượng
tiêu cực khác nhau, chân tâm, tích cực khác nhau để tạo
thành môi trường thuận lợi nhất giúp các Tuệ linh học tập
bài học tu hành cũng như cân bằng được năng lượng nhanh.
Các tầng năng lượng của các cảnh sống được tạo thành dựa
trên sự u mê bám chấp, sân, hận, tạo ác nghiệp khác nhau của
Tuệ linh, con người khi sống đã tạo. Điều này tạo thành liên
741
kết để hỗ trợ giáo hóa các Tuệ linh, Linh hồn được nhanh
nhất.
Năm cảnh sống tại cõi trời Địa phủ:

1. Cảnh sống chờ phân xử


Cảnh sống chờ phân xử là những căn phòng lưu trú
hoặc những phòng giam giữ các Tuệ linh, Linh hồn mới hoại
diệt hết kiếp thân tướng trở về Địa phủ.
Các phòng lưu trú là dành cho những con người đến
cung số tuổi thọ theo sổ sinh tử phải hoại diệt thân tướng.
Khi đó các Tuệ linh, Linh hồn sẽ được đón về và lưu trú trong
những căn phòng này. Sau khi hoại diệt thân tướng, Tuệ linh,
Linh hồn sẽ được đi lại giữa hai Thế giới Âm (Địa phủ) và
Dương (Nhân gian) để thăm lại các dấu ấn và người thân của
kiếp người. Việc đi lại để thăm được người thân ở nhân gian
sẽ có những Tuệ linh của Hội đồng Hành pháp đưa đi. Đến
ngày 49 (tính theo ngày ở nhân gian) kể từ khi Tuệ linh, Linh
hồn hoại diệt thân tướng ở nhân gian, họ sẽ được phân xử
luận thiện và ác nghiệp. Sau khi Hội đồng Hoàn Đạo phân xử,
giảng giải những ác nghiệp và thiện nghiệp, những Tuệ linh,
Linh hồn này sẽ được chuyển sang sống ở các cảnh giới
tương ứng với thiện hay ác nghiệp đã tạo ra ở nhân gian dựa
trên năng lượng trong họ đã được cấu tạo bởi kiếp thân
tướng.
Các phòng giam giữ là dành cho những Tuệ linh, Linh
hồn khi sống trên nhân gian tạo quá nhiều ác nghiệp, hoặc là
tạo quá nhiều ác nghiệp từ các kiếp trước mà kiếp này không
chịu cải tạo. Họ sẽ bị hoại diệt thân tướng trên nhân gian do
chưa tới cung số tuổi thọ trong sổ sinh tử. Đó là những người

742
chết vì tai nạn, chết do tự tử, chết do đột tử, chết do linh hồn
thú dữ truy giết, chết do vi phạm pháp luật nhân gian mà bị
xử tử hình, chết do thiên tai, chết do dịch bệnh, chết do tu tập
tà pháp thần thông mà đột tử. Vì chưa đến cung số theo sổ
sinh tử, nên họ sẽ phải bị giam giữ trong các phòng tối để chờ
đến đúng ngày giờ chết đã được ấn định trong sổ sinh tử thì
mới được phân xử luận thiện – ác nghiệp. Khi phân xử, Hội
đồng Hoàn Đạo sẽ giảng giải những ác nghiệp, những thiện
nghiệp, con đường phân rã Tuệ linh, Linh hồn tới đâu. Tiếp
đó, sẽ chuyển các Tuệ linh, Linh hồn đó vào các cảnh sống
tương ứng với năng lượng ác nghiệp để đúc kết lại bài học tu
hành trên nhân gian.
Sau khi các Tuệ linh, Linh hồn sống trong cảnh chờ
phân xử, họ sẽ được chuyển tới các cảnh sống khác nhau dựa
trên sự phân rã cấu trúc năng lượng trong Trụ linh mạnh hay
yếu, tức là dựa trên thiện hay ác nghiệp đã tạo ra.

Nguyên tắc phân xử để chuyển cảnh sống:


- Nếu sống mà bám chấp, không hành thiện cũng
không hành ác, sau khi phân xử sẽ được sang cảnh sống Địa
âm.
- Nếu sống mà không bám chấp, chưa hành thiện cũng
không hành ác sẽ được sống cảnh tu dưỡng năng lượng âm
dương.
- Nếu sống có tạo ác nghiệp và thiện nghiệp, họ sẽ sống
trong cảnh Địa ngục – Ngã quỷ để học bài học của ác nghiệp
đã tạo. Sau đó, họ sẽ sống cảnh sống Địa âm.

743
- Nếu sống mà chỉ tạo ác nghiệp mà không tạo thiện
nghiệp. Họ sẽ sống cảnh Địa ngục – Ngã quỷ, sau đó mới
được chuyển sang cảnh âm.

2. Cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ


Cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ là cảnh sống dành cho
các Linh hồn, Tuệ linh khi còn sống trên nhân gian tạo nghiệp
ác gây tổn hại vạn vật, muông thú và Tuệ linh, con người. Khi
hoại diệt thân tướng ở nhân gian, sau khi phân xử luận công
tội, họ sẽ phải sống trong cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ, đó là
sống trong 7 đại cửa ngục ác nghiệp trong cảnh sống Địa
ngục – Ngã quỷ.
Cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ là cảnh sống của những
Tuệ linh, Linh hồn khi sống tạo ác nghiệp trên nhân gian. Mà
nguồn gốc của hành động tạo ác nghiệp là Ngã quỷ, là độc
Tâm, đó là gốc của chấp ngã, sân và hận. Cho nên, năng lượng
trong cảnh sống Địa ngục và Ngã quỷ bao trùm là màu xám
tối, đen tối và màu đỏ máu. Tầng năng lượng xám tối, màu
đen, đỏ máu của Ngã quỷ là tầng năng lượng xấu, do đó
những người tu thiền du linh xuống cảnh sống này nếu
không có năng lượng tốt của màu trắng và màu vàng sẽ dễ bị
nhiễm mà sinh khởi bệnh tật. Thậm chí có những người tu
thiền du linh vào cảnh Ngã quỷ dưới Địa phủ đã bị các Tuệ
linh ngã quỷ bắt lại, khi đó con cháu hoặc người thân tưởng
người đó đột tử chết mà làm ma chay. Để thiền du linh xuống
các cửa ngục và các cửa Ngã quỷ thì người tu hành phải có
tầng năng lượng tốt trong tâm mới có thể an toàn đi tham
quan các cảnh sống nơi Địa phủ.

744
Trong 7 đại cửa ngục ác nghiệp sẽ chia ra làm 6 đại
cửa ngục dành riêng cho các linh hồn và một đại cửa ngục
dành riêng cho các Tuệ linh. Tổng có 72 cửa ngục nhỏ từ 7
đại cửa ngục lớn. Cửa ngục của các Linh hồn gọi là cửa Địa
ngục với 6 đại cửa lớn và tổng là 54 cửa ngục nhỏ. Cửa ngục
của các Tuệ linh là cửa Ngã quỷ với một đại cửa Ngã quỷ lớn
và tổng là 18 cửa Ngã quỷ nhỏ.

2.1. Sáu đại cửa Địa ngục cho các Linh hồn
Linh hồn là cấu trúc năng lượng có trí tuệ di chuyển,
cải tạo cuộc sống trên Trái đất. Họ đã từng bước xây dựng
được tập tính, lối sống của con người là hóa thân của Tuệ
linh (người Thiên ấn) tương tác cũng như dạy dỗ. Họ chính là
Linh hồn của các con thú, Linh hồn của con người (người
Nhân mệnh) được chuyển sinh từ Linh hồn an trụ trong thân
tướng muông thú được an trụ trong thân tướng con người.
Sáu đại cửa Địa ngục giam giữ Linh hồn sau khi hết
kiếp thân tướng ở nhân gian, trải qua 49 ngày lưu trú cảnh
sống chờ phân xử. Vào ngày 49, khi phân xử, giáo hóa, các
Linh hồn khi sống ở nhân gian mà phạm vào các ác nghiệp
nhóm tội tương ứng sẽ phải đọa vào sống ở các cửa ngục
khác nhau. Nếu Linh hồn phạm nhiều ác nghiệp thì sẽ phải
trải qua hết tất cả các cửa ngục cho đến khi nào Linh hồn
nhận thức được bài học ác nghiệp và sám tâm được ác
nghiệp mình đã tạo ra thì mới được chuyển sang cảnh học
giáo lý và sống cảnh sống Địa âm. Các cửa Địa ngục được sắp
xếp từ nhẹ đến nặng như sau:
1- Cửa Địa ngục lao động khổ sai:

745
+ Trong cửa lao động khổ sai được chia ra làm 9 cửa
nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm ác nghiệp mà khi sống
Linh hồn đã gây ra.
+ Cảnh sống trong cửa ngục lao động khổ sai là hình
ảnh các Linh hồn phải lao động khổ sai, khuân vác, đập đá,
lao động cật lực không được ăn uống gì khi mà chân tay bị
xiềng xích và bị hình ảnh các con quỷ đánh đập.
+ Khi sống trên nhân gian mà tạo các ác nghiệp sau thì
Linh hồn sẽ phải đọa vào cửa Địa ngục lao động khổ sai: Lười
lao động; chửi rủa đánh đập người lao động, chà đạp nhân
phẩm người lao động; bóc lột, chiếm đoạt sức lao động của
người khác.
2- Cửa Địa ngục hành xác:
+ Trong cửa Địa ngục hành xác được chia ra làm 9 cửa
nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm ác nghiệp mà khi sống
Linh hồn đã gây ra.
+ Cảnh sống trong cửa ngục hành xác là một khu vực
gồm các con mãng xà, con trăn, con rắn, các loài thú khổng lồ.
Những Linh hồn bị ném hay vứt vào trong đó. Những con ác
thú đó trườn, truy đuổi cắn xé thân hình của các Linh hồn
(họ cảm nhận thân hình họ giống với thân tướng khi sống
trên nhân gian). Cảnh tượng này không ngừng nghỉ và diễn
ra liên tục trong thời gian rất dài.
+ Khi sống trên nhân gian mà tạo các ác nghiệp sau thì
Linh hồn sẽ phải đọa vào cửa Địa ngục hành xác: Nói dối gây
thiệt hại về của cải, sức khỏe và tính mạng người khác; tội
lừa đảo; tội trộm cướp; tội chiếm đoạt tài sản người khác; tội
đánh đập muông thú; tội đánh đập hãm hại người khác.
3- Cửa Địa ngục lao tối lạnh giá:

746
+ Trong cửa Địa ngục lao tối lạnh giá được chia ra làm
9 cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm ác nghiệp mà khi
sống Linh hồn đã gây ra.
+ Cảnh sống trong cửa ngục lao tối lạnh giá là hình ảnh
đêm tối lạnh giá, có mưa, có tuyết rơi, những Linh hồn bị
những mũi tên băng bay xuyên vào tim, những Linh hồn
hoảng loạn chạy trong đêm tối mưa rơi lạnh giá và bị các con
thú khổng lồ truy đuổi để cắn xé ăn thịt, những Linh hồn
không mặc quần áo bị treo trên cột và bị những con thú nhảy
lên ăn thịt. Khi các Linh hồn chết (họ đang nghĩ đó là thân
tướng như khi còn sống ở nhân gian) rồi lại tỉnh lại và lại bị
truy giết đến chết rồi lại tỉnh lại, quá trình này lặp đi lặp lại
trong khoảng thời gian rất dài.
+ Khi sống trên nhân gian mà tạo các ác nghiệp sau thì
Linh hồn sẽ phải đọa vào cửa Địa ngục lao tối lạnh giá: Hành
nghề sát sinh; giết hại muông thú làm thú vui; giết hại muông
thú khác để thỏa mãn thú vui ăn uống, thông dâm, tà dâm,
hiếp dâm; chửi rủa, đánh đập người khác; chà đạp nhân
phẩm người khác.
4- Cửa Địa ngục hành hình:
+ Trong cửa Địa ngục hành hình được chia ra làm 9
cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm ác nghiệp mà khi sống
Linh hồn đã gây ra.
+ Cảnh sống trong cửa ngục hành hình là hình ảnh ngũ
quỷ phanh thây, cảnh Linh hồn bị truy đuổi và giết chết, cảnh
bị đẩy xuống vực sâu mà chết, cảnh bị đập vào đầu mà chết,
cảnh bị giết chết và phanh xác… Cảnh Linh hồn bị giết lặp đi
lặp lại nhiều lần trong thời gian rất dài.

747
+ Khi sống trên nhân gian mà tạo các ác nghiệp sau thì
Linh hồn sẽ phải đọa vào cửa Địa ngục hành hình: Giết hại
người khác; giết hại chính mình; phá, giết hại thai nhi.
5- Cửa Địa ngục hỏa thiêu:
+ Trong cửa Địa ngục hỏa thiêu được chia ra làm 9 cửa nhỏ,
mỗi cửa tương ứng với nhóm ác nghiệp mà khi sống Linh hồn
đã gây ra.
+ Cảnh sống trong cửa ngục hỏa thiêu là cảnh Linh hồn
sẽ thấy bị các con quỷ đuổi bắt và ném vào vạc dầu mà chết
cháy, bị các con quỷ ném vào núi lửa mà chết cháy, bị đốt
chết, bị mũi tên lửa bắn vào mà chết, bị phóng hỏa mà chết
cháy. Linh hồn bị hỏa thiêu chết đi sống lại trong thời gian
rất dài.
+ Khi sống trên nhân gian mà tạo các ác nghiệp sau thì
Linh hồn sẽ phải đọa vào cửa Địa ngục hỏa thiêu: Đánh đập,
chà đạp, giết hại cha mẹ; đánh đập, chà đạp, giết hại thầy dạy;
phóng hỏa giết hại người.
6- Cửa Địa ngục băng giá:
+ Trong cửa Địa ngục băng giá được chia ra làm 9
cửa nhỏ, mỗi cửa tương ứng với nhóm ác nghiệp mà khi
sống Linh hồn đã gây ra.
+ Cảnh trong cửa ngục băng giá dài vô tận. Những Linh
hồn bị đóng băng, bị chôn vùi trong dòng sông băng, trong
núi băng. Họ không động đậy được thân hình, họ lạnh buốt
không thể diễn tả được. Sự lạnh buốt không thể diễn tả là bài
học cho bản chất tạo ra quá nhiều ác nghiệp gây tổn hại lớn
cho Tuệ linh, con người, vạn vật, muông thú. Họ sẽ phải mất
thời gian dài vô tận, lâu nhất so với các cửa Địa ngục bài học
ác nghiệp khác mới được chuyển sang cảnh sống âm.

748
+ Khi sống trên nhân gian mà tạo các ác nghiệp sau thì
Linh hồn sẽ phải đọa vào cửa Địa ngục băng giá: Bán nước
hại dân, tham ô tham nhũng, kích động chiến tranh; kích
động xung đột dân tộc, tiết lộ bí mật quốc gia, phản bội Tổ
quốc.
Những người Nhân mệnh nếu vi phạm vào chửi rủa
Thiên Địa, chửi rủa Thánh thần, Phật, Chúa Trời, Thượng Đế,
phá đình chùa, phá mồ mả gia tiên thì sẽ phải đọa hết tất cả
lần lượt 6 đại cửa Địa ngục rồi mới được chuyển sang sống
cảnh âm.

2.2. Một đại cửa Ngã quỷ dành cho các Tuệ linh
Trong cửa Ngã quỷ dành cho các Tuệ linh (khi sống làm
người họ được gọi là dòng người Thiên ấn) trên các cõi trời
xuống nhân gian tu hành, nhưng vì tạo ác nghiệp nên sẽ bị đọa
vào trong cửa ngục đặc biệt này. Cửa Ngã quỷ được cõi trời
Địa phủ quản lý và dùng các tầng năng lượng của sự giác ngộ
để giúp cho họ nhanh chóng thấu hiểu và học được bài học ác
nghiệp đã tạo ra ở nhân gian khi sống trong thân tướng.
Cửa Ngã quỷ bao gồm 18 cửa nhỏ: Cửa lao động khổ
sai có 3 cửa nhỏ; cửa hành xác có 3 cửa nhỏ; cửa lao tối lạnh
giá có 3 cửa nhỏ; cửa hành hình có 3 cửa nhỏ; cửa hỏa thiêu
có 3 cửa nhỏ; cửa băng giá có 3 cửa nhỏ. Cảnh sống ở các cửa
ngục của Tuệ linh đều giống như cảnh sống các cửa ngục của
Linh hồn. Cửa Ngã quỷ chỉ khác so với cửa Địa ngục là mức
độ chịu hình phạt nặng hơn, sự giam giữ nghiêm ngặt hơn vì
họ là Tuệ linh nên cấu trúc phóng xạ năng lượng âm rất
mạnh và rất nguy hiểm đối với con người cũng như các Linh
hồn khi tới gần họ. Khi các Tuệ linh bị đọa trong các cửa ngục

749
này thì họ sẽ hóa thành quỷ và ăn thịt, giết hại nhau đến chết
thân hình của họ. Khi sống lại họ lại lặp đi lặp lại hành động
tạo nghiệp như khi còn sống trên nhân gian. Hành động giết
hại nhau đến chết và rồi sống lại cứ lặp đi lặp lại trong thời
gian rất dài.
Cửa ngục băng giá của các Tuệ linh cũng dài vô tận, họ
cần rất nhiều thời gian, nhiều hơn bất cứ cửa ngục nào để
trải nghiệm lại những bài học ác nghiệp đã tạo khi sống ở
nhân gian. Tuệ linh được về Địa phủ, được vào cửa ngục
băng giá là điều đáng mừng đối với họ. Bởi với ác nghiệp tạo
ra vô số như vậy thì họ chưa bị hoại diệt bởi sự phân rã hoàn
toàn Tuệ linh là điều rất mừng. Được về Địa phủ, sống trong
cảnh cửa ngục băng giá là vẫn còn cơ hội để cải tạo và chuyển
sinh lại Trụ linh. Đáng mừng là vì vậy.
Những người Thiên ấn nếu vi phạm vào chửi rủa Thiên
Địa, chửi rủa Thánh thần, Phật, Thượng Đế, Chúa Trời, phá
đình chùa, phá mồ mả gia tiên thì sẽ phải đọa hết tất cả lần
lượt 18 cửa ngục trong Ngã quỷ rồi mới được chuyển sang
sống cảnh âm.
Tất cả các cửa ngục mà có hình ảnh con quỷ đuổi giết
Linh hồn hay Tuệ linh, hình ảnh các con thú dữ giết hại Linh
hồn hay Tuệ linh, hình ảnh có người đánh đập tra tấn Linh
hồn hay Tuệ linh đều không phải là các Ngài ở Địa phủ, và
cũng không phải có con quỷ hay dã thú nào hết. Đây là do ác
nghiệp khi sống trên nhân gian mà họ đã tạo ra. Bởi những
suy nghĩ từ bám chấp, tiêu cực cho đến hành động tiêu cực
gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người đều được lưu
giữ thành các hạt năng lượng trong Trụ linh và Tuệ linh, Linh
hồn họ, đó là bởi cơ chế phân tách liên kết hạt năng lượng.
Chính vì cơ chế phân tách, liên kết như vậy nên vị Tuệ linh

750
đầu tiên đã xây dựng các cảnh sống, các cửa Địa ngục có các
tầng năng lượng ác nghiệp với vô số hạt năng lượng tiêu cực
tương ứng để khi các Tuệ linh, Linh hồn tạo ác nghiệp khi
sống ở nhân gian bị đưa vào đó sẽ tạo thành liên kết giữa các
hạt năng lượng ác nghiệp mà tạo ra ảo ảnh, ảo thanh, ảo giác.
Họ sẽ đắm chìm trong sự phản chiếu của ác nghiệp đã tạo ra
ở nhân gian bởi cơ chế liên kết kỳ diệu này. Điều này đã
khiến cho những bậc tu hành ở nhân gian không thể hiểu
được và vẫn lầm tưởng là Địa ngục, Địa phủ có ác quỷ, có quỷ
sai giết hại Linh hồn, Tuệ linh cũng như đi giết hại con người.
Tất cả các cảnh tra tấn, truy giết sẽ bị tiêu tan, Tuệ linh,
Linh hồn sẽ thoát ra được các cảnh Địa ngục ngã quỷ nếu họ
tĩnh tâm, buông xả được những bám chấp, tiêu cực và các
hành động ác nghiệp. Khi đó, họ tin vào con đường họ đã và
thực hành ác nghiệp ở nhân gian là sai trái, là con đường
hoại diệt chính họ. Họ có niềm tin vào hai Chân lý, nguyện đi
theo hai Chân lý. Khi đó, họ sẽ được đưa ra khỏi cảnh sống
Địa ngục – Ngã quỷ để tham gia cảnh sống học giáo lý và
chuyển sang cảnh sống Địa âm.
Khi các Linh hồn và Tuệ linh đang bị đọa trong Địa
ngục – Ngã quỷ thì họ tuyệt đối không thể nhận bất cứ lễ vật
gì do con cháu ở nhân gian cúng lễ dâng tiến. Họ chỉ nhận
được năng lượng hành thiện hoặc năng lượng ác nghiệp từ
con cháu và người thân ở nhân gian. Nếu con cháu và người
thân hành thiện nghiệp thì họ nhanh ngộ được bài học ác
nghiệp của họ. Nếu con cháu, người thân ở nhân gian hành ác
nghiệp thì họ sẽ mất nhiều thời gian hơn để ngộ được bài học
ác nghiệp của họ, họ chỉ ngộ được khi thấy con cháu, người
thân trả giá cho những ác nghiệp đã tạo.

751
Khi mỗi dòng họ hay gia đình mà có Linh hồn, Tuệ linh
bị đọa trong các cửa ngục thì gọi là động âm, tức là Linh hồn,
Tuệ linh bị động tâm, chưa định thần nên con cháu sẽ không
được yên theo do năng lượng của gia tiên tác động vào mong
con cháu phổ độ gia tiên siêu thoát khỏi cảnh Địa ngục – Ngã
quỷ. Khi mỗi dòng họ mà có nhiều Linh hồn, Tuệ linh bị đọa
trong các cửa Địa ngục – Ngã quỷ thì trên dương gian con
cháu sẽ gặp nhiều khó khăn trở ngại trong cuộc sống, thậm
chí có nhiều người chết trẻ, đây là nghiệp cửu trùng của cả
người sống và người đã chết trong dòng họ đó tích tụ lại mà
nhận quả báo.

3. Cảnh sống Địa âm


Cảnh sống Địa âm là cảnh sống của những năng lượng
âm có sóng điện âm ở mức nhẹ. Năng lượng âm nhẹ được vị
Tuệ linh đầu tiên tạo dựng cho cảnh sống này. Cảnh sống Địa
âm là cảnh sống được chi phối bởi năng lượng tiêu cực nhẹ
của sự bám định, ý nghĩ, tư tưởng tiêu cực. Đó là tư tưởng
tiêu cực mong muốn, mơ mộng, khát khao được thỏa mãn giả
tướng về mình một cách ích kỷ mà không vì lợi ích của Tuệ
linh, con người và vạn vật. Cảnh sống Địa âm tượng trưng
cho trí tuệ u mê bám víu, hút lấy giả tướng về mình mà chưa
hành động gây tổn hại tới vạn vật, Tuệ linh và con người.
Cảnh sống này không có năng lượng của ý nghĩ, suy nghĩ, tư
tưởng tích cực.
Tầng năng lượng của cảnh sống Địa âm là màu xám
sáng như chiều tối mà Mặt trời đã lặn. Năng lượng và không
gian ảm đạm, yên tĩnh của sự suy tư âu sầu. Sự ảm đạm và
không gian tỏa năng lượng màu xám sáng là do các Linh hồn,
Tuệ linh vẫn còn bám định, chấp ngã, sân, hận nên mới tỏa ra
752
năng lượng âm màu xám hòa quyện tầng năng lượng đã
được kiến tạo của cảnh sống Địa âm. Điều này sẽ làm bài học
rất giá trị để giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn học tập được
cách thay đổi hệ tư tưởng để chuyển sinh theo hướng bền
vững an lạc.

Đối tượng Tuệ linh, Linh hồn được sống cảnh


Địa âm:
+ Cảnh sống Địa âm là cảnh sống dành cho các Linh
hồn, Tuệ linh khi sống ở nhân gian có tư tưởng cho đến hành
động không thiện cũng không ác.
+ Là cảnh sống dành cho các Tuệ linh, Linh hồn khi
sống dù có tạo được những thiện nghiệp, nhưng vẫn có tư
tưởng, ý nghĩ u mê tiêu cực, vẫn chấp ngã, sân và hận.
+ Tuệ linh, Linh hồn khi sống ở nhân gian tuy không
tạo ác nghiệp những vẫn còn u mê, chấp ngã, sân, hận, nên
phải sống trong cảnh sống Địa âm để nhận diện lại tư tưởng
tiêu cực đó có lợi hay có hại cho con đường chuyển sinh.
+ Các Tuệ linh, Linh hồn sau khi được siêu thoát khỏi
các cửa ngục và được học đạo thì sẽ được chuyển sang
sống cảnh Địa âm để được lao động tự do và tiếp tục tu học
cân bằng năng lượng cũng như tham gia các lớp học đạo để
chuyển hóa trí tuệ và chuyển hóa cảnh sống sang cảnh
sống cân bằng năng lượng.

Cảnh sống Địa âm có:


+ Nhà tranh mái ngói, nhà tranh mái lá, nhà gỗ, mỗi
ngôi nhà chỉ vài mét vuông. Không có nhà tầng, nhà lầu, xe

753
hơi, xe máy, xe đạp hay bất kỳ phương tiện khoa học kỹ
thuật nào ở cõi trời Địa phủ.
+ Có chợ quê, có cánh đồng lúa, có cảnh lao động tự do
buôn bán và sản xuất nông nghiệp, có thầy đồ dạy học, có
thầy bốc thuốc… có đồi núi và ao hồ. Cuộc sống đơn sơ là để
giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn nhanh chóng buông đi những
bám định vào giả tướng ở nhân gian.
+ Có ngân hàng hay còn gọi là kho khố Địa phủ. Các
Tuệ linh ở Hội đồng Quản lý Hành chính sẽ phát chẩn cho các
Tuệ linh, Linh hồn được chuyển từ Địa ngục – Ngã quỷ ra
sống cảnh Địa âm. Các Tuệ linh, Linh hồn sau khi sống cảnh
chờ phân xử, sau khi phân xử ở ngày 49 mà không có ác
nghiệp, nhưng vẫn u mê bám định, vẫn chấp ngã, sân, hận thì
sẽ được nhận phát chẩn và sống ở cảnh Địa âm. Họ được cấp
phát nhà cửa và công cụ lao động, tư trang quần áo và những
đồ dùng cần thiết cho cuộc sống ở cảnh Địa âm. Các Tuệ linh,
Linh hồn khi sống cảnh sống Địa âm sẽ không nhận được bất
cứ đồ lễ gì từ con cháu ở nhân gian cúng lễ như tiền vàng,
nhà lầu, xe cộ… Những vật chất ở nhân gian đều không thể
gửi được đến cõi trời Địa phủ. Khi con cháu dâng lễ hay tri ân
thì Tuệ linh, Linh hồn cũng chỉ nhận dòng năng lượng hành
thiện hay tạo ác nghiệp hoặc năng lượng chấp ngã của con
cháu chứ không ăn hay thụ hưởng được đồ lễ.
Cảnh sống Địa âm là dành cho các Tuệ linh, Linh hồn
khi sống trên nhân gian có trí tuệ u mê mà chấp ngã, sân hận,
nhưng chưa tạo nghiệp ác. Đó là cảnh sống mà các Tuệ linh,
Linh hồn đã trải nghiệm ở cảnh sống Địa ngục chuyển sang.
Do đó, họ vẫn còn u mê và bám chấp để thỏa mãn các giả
tướng. Các Tuệ linh, Linh hồn ở cảnh sống này vẫn đòi hỏi
con cháu cúng lễ nhiều, vẫn hay chấp nhặt người thân ở nhân

754
gian. Sự chấp ngã dài lâu hay nhanh giác ngộ của Tuệ linh,
Linh hồn vừa phụ thuộc vào việc tu hành của con cháu và
người thân trên dương gian, vừa phụ thuộc vào quá trình tu
học giáo lý của chính họ ở Địa phủ.

Để các Tuệ linh, Linh hồn nhanh giác ngộ để


chuyển sang cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng
lượng thì con cháu ở nhân gian và Tuệ linh,
Linh hồn ở cảnh Địa âm phải thực hiện như sau:
+ Tuệ linh, Linh hồn ngoài việc lao động, sinh hoạt ở
cảnh sống Địa âm sẽ phải tham gia các lớp học đạo, học giáo
lý do Hội đồng Hoàn Đạo giảng dạy.
+ Con cháu, người thân ở nhân gian phải hành thiện
giúp đỡ chúng sinh; làm lễ phổ độ gia tiên để nhờ Hội đồng
hoàn đạo thuyết pháp giảng giải cho cả gia tiên dưới Địa phủ;
con cháu có khả năng thiền định xuống dưới Địa phủ nhờ Hội
đồng Hoàn đạo triệu tập gia tiên mà thuyết giảng Chân lý Vạn
vật và Chân lý Giác ngộ để giúp gia tiên giác ngộ và chuyển
được sang cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng; con cháu
không đốt tiền vàng, các đồ giả tướng như nhà cửa, xe cộ, vì
họ không thể nhận được thứ gì cả; không nên lễ bái cầu xin
công danh hay tiền tài từ gia tiên, bởi họ đang cầu xin con
cháu hành thiện để họ được nhận dòng năng lượng hành
thiện đó mà giúp họ được siêu thoát sang cảnh tu dưỡng cân
bằng năng lượng.
+ Khi con cháu, người thân ở nhân gian hành thiện,
giúp đỡ chúng sinh thì năng lượng hành thiện đó sẽ được
chuyển cho gia tiên khi ta tưởng nhớ, khi ta thắp hương tri
ân gia tiên. Khi ta tri ân và thắp hương tưởng nhớ bằng tâm
755
đức hành thiện có được sẽ giúp cho gia tiên dưới Địa phủ
nhận được năng lượng đó mà gột rửa được chấp ngã. Khi đó
các Ngài ở Hội đồng Quản lý Hành chính sẽ phát chẩn nhiều
cho gia tiên, nhưng vì gia tiên đã giác ngộ nên không nhận
những đồ phát chẩn, họ sẽ được chuyển sang cảnh tu dưỡng
cân bằng năng lượng. Nhưng khi con cháu trên nhân gian làm
nhiều việc ác, tạo ra nhiều ác nghiệp thì gia tiên dưới Địa
phủ sẽ chấp vào đó mà không thể giác ngộ được, họ sẽ luẩn
quẩn theo Tâm ngã quỷ của con cháu, luẩn quẩn theo
nghiệp của con cháu. Cho dù con cháu ở nhân gian có đốt
nhiều vàng mã, cúng lễ to đến mấy thì gia tiên cũng không
nhận được một thứ gì hết.
Tuệ linh và Linh hồn tồn tại và phát triển dựa trên sự
phân tách và liên kết hạt năng lượng bền vững ở họ chứ
không phải là thụ hưởng vật chất. Do đó nếu gia tiên nhận
được các tầng năng lượng hành thiện tích đức từ con cháu thì
họ sẽ nhanh giác ngộ mà chuyển sinh kiếp người mới, nếu gia
tiên nhận được các tầng năng lượng ác nghiệp từ con cháu thì
họ sẽ đọa trong cửa ngục và cảnh âm lâu dài mà khó được giác
ngộ để siêu thoát.

4. Cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng


Cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng là cảnh sống
có năng lượng tốt nhất ở cõi trời Địa phủ. Đây là cảnh sống
cuối cùng mà các Tuệ linh, Linh hồn chuyển sinh về Địa phủ
sau kiếp người sẽ phải sống trước khi luân hồi kiếp thân
tướng mới ở nhân gian.
Cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng được vị Tuệ
linh đầu tiên kiến tạo ra các tầng năng lượng tích cực có sóng

756
điện dương. Nó tượng trưng cho sự cân bằng, sự giác ngộ ra
lối sống tiêu cực ở kiếp người vừa qua, nó tượng trưng cho
quá trình định hình tư tưởng tích cực cũng như tương tác
năng lượng từ con cháu và người thân ở nhân gian. Đó là sự
tích lũy của cả hội đồng gia tiên ở Địa phủ và con cháu ở
nhân gian để tạo thành cơ chế liên kết năng lượng. Đó là cơ
chế mà Tuệ linh, Linh hồn cần phải học và xây dựng để bản
thể Tuệ linh, Linh hồn học tập được sự liên kết của tình yêu
thương, giúp đỡ nhau, sống vì nhau, vì vạn vật, Vũ trụ, Tuệ
linh và con người. Do đó, không những cảnh tu dưỡng cân
bằng năng lượng, mà tất cả các cảnh sống ở Địa phủ là nhằm
giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn đang chuyển sinh theo hướng
phân rã hoại diệt từng bước học được ý thức hệ trong việc có
trách nhiệm, biết hy sinh vì nhau, hy sinh vì Trời và người
cùng toàn bộ Vũ trụ.

Đối tượng Tuệ linh, Linh hồn được sống ở cảnh


sống tu dưỡng cân bằng năng lượng:
+ Các Tuệ linh, Linh hồn được chuyển đến từ cảnh
sống Địa âm sau khi học đạo và được giác ngộ không còn
chấp ngã, sân, hận nữa.
+ Các Tuệ linh, Linh hồn khi sống ở nhân gian không có
chấp ngã, sân, hận, không tạo nghiệp, đã bắt đầu và giúp đỡ
được vạn vật, Tuệ linh, con người, muông thú, sau khi hết
kiếp thân tướng ở nhân gian và sống cảnh sống 49 ngày chờ
phân xử sẽ được chuyển luôn sang cảnh tu dưỡng cân bằng
năng lượng để cân bằng năng lượng và tu học giáo lý.
Cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng có các ngọn
đồi thấp, thoai thoải, có nhiều cây xanh trùng trùng điệp điệp

757
như bất tận. Mỗi một gia tiên dòng họ sẽ được sinh sống và
tu luyện trên một ngọn đồi, được gọi là ngọn đồi âm đức của
mỗi gia tiên dòng họ. Trong mỗi ngọn đồi âm đức thì mỗi một
Tuệ linh, Linh hồn sẽ có các nấm đất rộng khoảng 1 mét vuông
để ngồi hành thiền và nghe các vị Tuệ linh giác ngộ thuyết
pháp và tu dưỡng cân bằng năng lượng chờ ngày đầu thai
kiếp mới ở nhân gian.
Tầng năng lượng bao trùm cho cảnh sống tu dưỡng
cân bằng năng lượng là năng lượng màu vàng nhạt. Đó là
năng lượng định hướng cho các Tuệ linh, Linh hồn hướng tới
tư tưởng và hành động giống với năng lượng đoàn kết. Bởi
chỉ có tư tưởng và hành động theo năng lượng đoàn kết màu
vàng mới xây dựng được cơ chế phân tách liên kết bền vững.
Đó là con đường để chuyển sinh bền vững. Tuy nhiên, mỗi
một ngôi đồi của gia tiên dòng họ lại có tầng năng lượng khác
nhau, có gia tiên dòng họ thì có năng lượng màu vàng rực rỡ
và cỏ cây xanh tốt, có gia tiên dòng họ thì chỉ có năng lượng
màu trắng và cỏ cây tươi tốt, có gia tiên thì có năng lượng
màu xám đen và đồi núi bị sạt lở, có gia tiên thì không có cỏ
cây và năng lượng thì màu đen và đỏ máu.
Âm đức dòng họ gia tiên được thể hiện thông qua màu
sắc năng lượng và sự tươi tốt hay không của cây cối tại mỗi
ngôi đồi âm đức. Dòng họ nào có âm đức tốt là ngôi đồi âm
đức có năng lượng màu vàng, trắng vàng, trắng, có cỏ cây
xanh tốt, có nhiều cây cổ thụ. Dòng họ nào mà âm đức kém
thì ngôi đồi âm đức bị sạt lở, năng lượng màu xám, đen, đỏ
máu, cỏ cây không xanh tốt và không có cây cổ thụ. Dòng họ
sắp đi đến diệt vong thì ngôi đồi âm đức có năng lượng màu
đỏ máu, đen nhiều, đồi âm đức bị sụt, cỏ cây bị cháy hoặc
chết. Ngôi đồi nào có nhiều năng lượng màu vàng thì dòng họ

758
đó có các vị Tuệ linh giác ngộ rất cao hóa thân xuống và đang
hành đạo rất tốt. Ngôi đồi nào có năng lượng màu trắng và
phớt vàng thì dòng họ đó có các vị Tuệ linh giác ngộ cao hóa
thân xuống đang hành đạo tốt. Ngôi đồi nào có năng lượng
màu tím, màu hồng, màu xanh thì dòng họ đó có các bậc
Thánh nhân hóa thân xuống cứu giúp dân tộc. Ngôi đồi nào
có năng lượng màu đỏ máu thì con cháu có người tâm hóa
quỷ đang hại người, hại dân tộc, hại chúng sinh. Ngôi đồi nào
có năng lượng màu đen thì con cháu đang tạo nhiều nghiệp
lực. Ngôi đồi nào có năng lượng màu xám thì con cháu ở
nhân gian đang rất u mê.
Thông qua ngôi đồi âm đức của gia tiên dòng họ mà
biết được con cháu dòng họ đang hành thiện nghiệp hay tạo
ác nghiệp. Con cháu muốn giúp cho âm đức dòng họ được
nâng cao và gia tiên nhanh được siêu thoát chuyển sinh kiếp
mới thì con cháu phải hành thiện giúp vạn vật, Tuệ linh, con
người hoặc thiền định xuống Địa phủ giảng Chân lý Vạn vật
và Chân lý Giác ngộ để truyền sự giác ngộ đó gia hộ cho gia
tiên nhanh siêu thoát chuyển sinh.

5. Cảnh sống tu học giáo lý


Cảnh sống tu học giáo lý là cảnh sống mà tất cả các Tuệ
linh, Linh hồn tới Địa phủ sau một kiếp thân tướng sẽ phải
tham gia. Nếu các Tuệ linh, Linh hồn mà không học hay
chống đối việc học giáo lý, họ sẽ không được luân hồi kiếp
mới. Do đó, việc tham gia tu học giáo lý là điều bắt buộc với
tất cả chúng sinh cõi trời Địa phủ.
Việc lên kế hoạch mở các lớp học giáo lý thường xuyên
theo định kỳ và đột xuất là do Hội đồng Hoàn Đạo thực hiện.

759
Việc giảng dạy giáo lý là do các Tuệ linh của Hội đồng
Hoàn Đạo thực hiện. Đôi khi Tuệ linh đứng đầu sẽ giảng dạy.
Đối tượng được tham gia tu học giáo lý là tất cả Tuệ
linh, Linh hồn sống ở Địa phủ. Khi sống ở nhân gian, họ đang
chuyển sinh theo hướng phân rã hoại diệt, tức là họ có tư
tưởng cho đến hành động ích kỷ về họ mà không mang lại lợi
ích hoặc gây tổn hại lợi ích của vạn vật, muông thú, Tuệ linh,
con người.

Cảnh sống tu học giáo lý gồm có các lớp học sau:


+ Lớp học đặc biệt dành cho những Tuệ linh, Linh hồn
bị hoại diệt thân tướng ở nhân gian khi chưa tới cung số tuổi
thọ ấn định theo sổ sinh tử, tức là những Tuệ linh, Linh hồn
này đã tạo nhiều ác nghiệp ở kiếp quá khứ mà kiếp này họ
không cải tạo, dẫn tới hoại diệt thân tướng. Họ tạo nhiều ác
nghiệp dẫn tới vi phạm pháp luật nhân gian mà bị tử hình.
Họ chết do tai nạn, chết do đột tử bởi linh hồn thú dữ giết
hại, chết do chiến tranh, chết do đâm chém, chết do tự tử,
chết do thiên tai lũ lụt, chết do dịch bệnh. Vì chưa tới cung số
phải chết, lại được những người tu hành siêu độ cho về Địa
phủ, nên họ sẽ phải học lớp học giáo lý đặc biệt này. Lớp học
này là giúp họ nhớ lại toàn bộ diễn biến kiếp thân tướng ở
nhân gian. Sau khi học xong lớp giáo lý này mới được phân
xử để phân sang các cảnh sống Địa ngục. Nếu con cháu ở
nhân gian mà thấu hiểu hai Chân lý, thực hiện nghi lễ phổ độ
cho họ, họ sẽ không phải đọa vào cảnh sống Địa ngục – Ngã
quỷ nữa. Họ sẽ được sống cảnh sống lớp học giáo lý thay thế
cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ.

760
+ Lớp học thay thế cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ: Đó
là các Tuệ linh, Linh hồn sau khi trải qua cảnh sống chờ ngày
49 để phân xử sau khi hoại diệt thân tướng, đáng lẽ ra do ác
nghiệp mà họ sẽ phải bị phân vào sống cảnh Địa ngục – Ngã
quỷ. Tuy nhiên, vì được con cháu thấu hiểu hai Chân lý, đã
thực hành nghi thức phổ độ cho gia tiên, cho vong linh (Tuệ
linh, Linh hồn), nên họ sẽ được đặc cách không phải đúc kết
bài học ác nghiệp trong cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ. Họ sẽ
được tham gia lớp học giáo lý đúc kết bài học ác nghiệp đã
tạo ở kiếp thân tướng vừa qua. Vì sự giác ngộ của con cháu,
người thân, vì họ nương tựa vào hai Chân lý nên được Hội
đồng Giác ngộ ở Địa phủ cho tham gia khóa học thay thế cho
cảnh sống Địa ngục – Ngã quỷ. Khi hoàn thành khóa học, họ
sẽ chuyển sang sống cảnh Địa âm.
+ Lớp học giáo lý dành cho những Tuệ linh, Linh hồn
sống cảnh Địa âm: Các Tuệ linh, Linh hồn sống cảnh Địa âm
phải tham gia lớp học này để học cách thay đổi tư tưởng,
thay đổi suy nghĩ để không còn bám định u mê về giả tướng
nữa. Khi hoàn thành họ sẽ được chuyển sang cảnh sống tu
dưỡng cân bằng năng lượng.
+ Lớp học giáo lý dành cho những Tuệ linh, Linh hồn
sống cảnh sống tu dưỡng cân bằng năng lượng: Các Tuệ linh,
Linh hồn sống cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng sẽ phải
tham gia khóa học này, họ học thiền định để cân bằng năng
lượng, học những hành trang về tư tưởng hành động tích cực
và chuyển sinh bền vững. Khi họ học xong, họ sẽ được
chuyển sinh luân hồi kiếp thân tướng mới.
Như vậy, cảnh sống tu học giáo lý gắn liền với 4 cảnh
sống trên để thông qua đó giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn
nhanh chóng học được các bài học ác nghiệp, thiện nghiệp,

761
từng bước thay đổi tư tưởng tiêu cực chuyển sang tư tưởng
tích cực. Việc thay đổi đó sẽ giúp cho họ dễ thực hiện được
chuyển sinh theo hướng bền vững và an lạc khi luân hồi kiếp
mới.
***************

762
VII. Hành trình chuyển sinh qua cõi trời
Địa phủ sau kiếp thân tướng ở nhân gian

Hành trình một vòng chuyển sinh luân hồi của con
người và muông thú từ khi hoại diệt thân tướng cho tới khi
trở về Địa phủ, sống trong các cảnh sống và chuyển sinh
luân hồi tới nhân gian đầu thai kiếp mới sẽ trải qua quy
trình như sau:
Hành trình 1: Con người, muông thú hoại diệt thân
tướng sẽ chia ra làm hai trường hợp:
+ Trường hợp 1: Hoại diệt thân tướng ở nhân gian
đúng với tuổi thọ ấn định theo sổ sinh tử. Chết do tuổi già,
chết do bệnh tật dù tuổi thọ nhiều hay ít.
+ Trường hợp 2: Hoại diệt thân tướng ở nhân gian khi
chưa tới tuổi thọ ấn định theo sổ sinh tử. Tức là những Tuệ
linh, Linh hồn này đã tạo nhiều ác nghiệp ở kiếp quá khứ mà
kiếp này họ không cải tạo, dẫn tới hoại diệt thân tướng. Họ
tạo nhiều ác nghiệp dẫn tới vi phạm pháp luật nhân gian mà
bị tử hình. Họ chết do tai nạn, chết do đột tử bởi linh hồn thú
dữ giết hại, chết do chiến tranh, chết do đâm chém, chết do
tự tử, chết do thiên tai lũ lụt, chết do dịch bệnh.
Hành trình 2: Hội đồng Hành pháp sẽ đón, tiếp dẫn,
đưa các Tuệ linh, Linh hồn ở trường hợp 1 của hành trình 1
trở về Địa phủ.
Đối với trường hợp 2 của hành trình 1, cõi trời Địa phủ sẽ
không đón về. Cõi trời Địa phủ để cho Tuệ linh, Linh hồn của
họ quẩn quanh nơi họ hoại diệt thân tướng. Đó là kế hoạch

763
để cho họ trải nghiệm bài học không trân trọng thân tướng
tu hành, không trân trọng thân tướng mà tu tập cải tạo Tuệ
linh. Kế hoạch để họ đọa ở nhân gian sẽ hoàn thành nếu
những con người sống trên những mảnh đất mà họ bị đọa
giác ngộ, được những con người đó siêu độ cho về Địa phủ
thì họ được về Địa phủ. Hoặc được những người tu hành siêu
độ cho họ về Địa phủ thì họ mới được về Địa phủ. Khi có con
người giác ngộ để siêu độ cho họ về Địa phủ là hoàn thành kế
hoạch bài học trải nghiệm của họ ở nhân gian. Hoàn thành là
vì thông qua việc họ bị đọa như thế để con người biết được
việc chết do ác nghiệp sẽ bị đọa mà không được siêu thoát,
để con người có niềm tin vào Thế giới Tuệ linh, Linh hồn.
Hành trình 3: Tuệ linh, Linh hồn sẽ được lưu trú
trong cảnh sống chờ phân xử. Họ chờ đến ngày thứ 49 sau
khi thân tướng hoại diệt ở nhân gian để được phân xử công
tội đã tạo ra khi sống ở nhân gian. Trong thời gian 49 ngày,
Tuệ linh, Linh hồn vẫn được Hội đồng Hành pháp dẫn về
nhân gian để thăm người thân, thăm những dấu mốc ký ức
quan trọng của kiếp đó.
Hành trình 4: Phân xử Tuệ linh, Linh hồn ở ngày thứ
49 sau khi hoại diệt thân tướng ở nhân gian. Nếu Tuệ linh,
Linh hồn tạo ác nghiệp đều phải đọa vào cảnh sống Địa ngục
– Ngã quỷ. Nếu Tuệ linh, Linh hồn không tạo ác nghiệp
nhưng còn chấp ngã thì sẽ được sống cảnh sống Địa âm. Nếu
Tuệ linh, Linh hồn không tạo ác nghiệp, không chấp ngã, có
sự giác ngộ và hành thiện thì sẽ được sống cảnh tu dưỡng
cân bằng năng lượng.
Hành trình 5: Chuyển cảnh sống Tuệ linh, Linh hồn
vào các cảnh sống tương ứng với ác nghiệp hay thiện nghiệp
khi còn sống trên nhân gian.

764
Tuệ linh, Linh hồn sẽ phải đọa vào các cửa ngục Ngã
quỷ do đã tạo ác nghiệp khi còn sống trên nhân gian.
Tuệ linh, Linh hồn sẽ được sống cảnh âm sau khi vượt
qua thời gian đọa trong cửa ngục hoặc sau 49 ngày kể từ khi
hoại diệt thân tướng, hoặc được con cháu phổ độ mà không
phải sống cảnh Địa ngục – Ngã quỷ, họ được học đạo và sống
cảnh Địa âm.
Tuệ linh, Linh hồn sẽ được sống cảnh tu dưỡng cân
bằng năng lượng chờ ngày đầu thai do được chuyển từ cảnh
sống Địa âm sang, hoặc sau 49 ngày hoại diệt thân tướng do
phước báo mà được sống luôn cảnh tu dưỡng cân bằng năng
lượng.
Hành trình 6: Tuệ linh, Linh hồn được luân hồi kiếp
mới ở nhân gian. Sau thời gian tu luyện trong cảnh tu dưỡng
cân bằng năng lượng đạt được sự cân bằng, lĩnh hội, học tập
được tư tưởng sống tích cực, có đủ năng lượng tích cực cho
sự an trụ vào thân tướng mới ở nhân gian, tùy theo ác nghiệp
khi sống mà vẫn phải đọa thành súc sinh, tùy theo thiện
nghiệp khi sống mà được chuyển sinh làm người ở kiếp mới.

Do năng lượng của chúng sinh khi sống ở nhân gian


có chấp ngã, sân hận, tạo ác nghiệp, mà thiện nghiệp thì
chưa nhiều, nên sau khi hết kiếp thân tướng, Tuệ linh, Linh
hồn chưa thể định thần, không đủ năng lượng để đi về các
cõi cũng như Địa phủ. Do đó, cõi trời Địa phủ đã có Hội đồng
Hành pháp thực thi nhiệm vụ hỗ trợ các vong linh nhanh
chóng đi được vào quy trình của vòng luân hồi chuyển sinh.
Tuy nhiên, cõi trời Địa phủ vẫn đảm bảo kế hoạch của vị Tuệ
linh đầu tiên là để cho các Tuệ linh, Linh hồn được trải
nghiệm đủ khi bị đọa ở nhân gian sau khi hết kiếp thân
765
tướng. Đó là kế hoạch để giúp cho con người đang sống
nhận diện được khổ đau mà truy tìm con đường giác ngộ
cũng như giúp cho các Tuệ linh, Linh hồn mắc kẹt ở nhân
gian được siêu độ về Địa phủ.
Sau một vòng chuyển sinh, dù có đọa thành súc sinh
hay làm người ở kiếp mới thì đó là quy trình tuần hoàn các
Tuệ linh và Linh hồn cần phải nhanh chóng trải qua. Bởi
thông qua các khổ đau và kiếp nạn thì các Tuệ linh và Linh
hồn mới có cơ hội cải tạo Trụ linh của họ thành bộ lọc năng
lượng. Do đó sau khi hoại diệt thân tướng ở nhân gian, Tuệ
linh, Linh hồn không được trở về Địa phủ để đúng quy trình
luân hồi thì con đường tu hành của họ trong vô lượng kiếp
còn dài. Có những Tuệ linh sau khi hết kiếp thân tướng vì ác
nghiệp là tự tử, khi thiền định gặp họ đang đọa trong điền
thổ đất đã trải qua gần 1000 năm. Như vậy việc luân hồi của
họ bị gián đoạn quá lâu. Việc các thầy pháp, thầy tu, hành giả
dùng pháp thuật trấn giữ vong hồn (Tuệ linh, Linh hồn sau
khi hoại diệt thân tướng) để thực hiện mục đích riêng là
đang tạo ác nghiệp cho chính họ và khiến cho các Tuệ linh,
Linh hồn không được đi đúng theo quy trình chuyển sinh
luân hồi.
Khi các Tuệ linh có cấu trúc năng lượng đa dương siêu
mạnh, những bậc giác ngộ hóa thân xuống nhân gian làm
nhiệm vụ, sau khi hoại diệt thân tướng, họ sẽ trở về cõi trời
của vị Tuệ linh đầu tiên mà không phải trở về Địa phủ. Khi họ
hoại diệt thân tướng, sẽ có các chư vị Tuệ linh từ cõi trời của
vị Tuệ linh đầu tiên tới đón về.
***************

766
VIII. Phương pháp siêu độ cho Tuệ linh,
Linh hồn sau kiếp thân tướng ở nhân gian
Siêu độ chính là một phần trong hóa độ để siêu thoát
cho Tuệ linh, Linh hồn sau khi hết kiếp thân tướng ở nhân
gian để nhanh chóng được chuyển sinh luân hồi kiếp mới.

1. Siêu độ sẽ có 4 mức độ như sau


Mức độ 1: Siêu độ về Địa phủ sau khi hết kiếp thân
tướng ở nhân gian. Ở mức độ này chỉ cần Tuệ linh, Linh hồn
được trở về Địa phủ, dù là trong cửa ngục Ngã quỷ thì cũng
đã là được siêu thoát về Địa phủ. Bởi có nhiều Tuệ linh, Linh
hồn bị đọa ở nhân gian vì nhiều nguyên nhân nên không
được trở về Địa phủ, họ không thể bước được vào vòng
chuyển sinh luân hồi để tiếp tục tu hành cải tạo Tuệ linh. Dù
là vào Địa ngục – Ngã quỷ thì cũng là đã được vào quy trình
chuyển sinh luân hồi, nên cũng coi là điều rất tốt.
Mức độ 2: Siêu độ khỏi cảnh Địa ngục – Ngã quỷ sang
cảnh sống Địa âm ở cõi trời Địa phủ. Đó là đẩy nhanh tốc độ
giúp Tuệ linh, Linh hồn thấu hiểu ác nghiệp đã tạo ra ở nhân
gian khi sống, giúp họ nhanh chóng định thần để Tâm không
còn bấn loạn mà bị phản chiếu những hình ảnh truy giết, tra
tấn hành hình nữa.
Mức độ 3: Siêu độ khỏi cảnh sống Địa âm để sang cảnh
sống tu dưỡng cân bằng năng lượng. Đó là đẩy nhanh quá
trình diệt chấp ngã của Tuệ linh, Linh hồn để chuyển sang
cảnh tu dưỡng cân bằng năng lượng, chờ ngày chuyển sinh
luân hồi đầu thai kiếp mới.

767
Mức độ 4: Siêu độ khỏi cõi trời Địa phủ để chuyển
sinh luân hồi kiếp mới ở nhân gian. Dù có đầu thai thành súc
sinh hay tiếp tục làm người thì vẫn là rất tốt và đáng mừng,
vì họ đang được bước những bước dài trên con đường tu
hành, phải trải qua nhiều kiếp để cải tạo được bộ lọc năng
lượng viên mãn cho Tuệ linh, Linh hồn.

2. Phương pháp siêu độ cho Tuệ linh, Linh hồn


sau khi hết kiếp thân tướng ở nhân gian
Việc siêu độ cho Tuệ linh, linh hồn sau khi hết kiếp
thân tướng ở nhân gian là để nhanh được chuyển sinh luân
hồi kiếp mới.
+ Mỗi chúng sinh khi còn sống nên học tập, nghiên cứu
Chân lý Vạn vật, Chân lý Giác ngộ, rời xa ác nghiệp và hành
thiện giúp người, giúp vạn vật, giúp muông thú. Sau khi hết
kiếp thân tướng ở nhân gian sẽ được trở về cảnh sống tu
dưỡng cân bằng năng lượng ở cõi trời Địa phủ, hoặc trở về
cõi trời của vị Tuệ linh đầu tiên. Cứ vận hành hai Chân lý
trong việc cải tạo Trụ linh ở nhân gian sẽ giúp cho các Tuệ
linh, Linh hồn nhanh chóng cải tạo thành bộ lọc năng lượng
chỉ trong vài kiếp tu hành nơi nhân gian.
+ Mỗi con người là bậc con cháu, nên học tập nghiên
cứu Chân lý Vạn vật và Chân lý Giác ngộ để thiền định đến cõi
trời Địa phủ thuyết pháp hai Chân lý cho gia tiên trong tất cả
các cảnh giới để gia tiên nhanh được siêu thoát từng cảnh
giới. Nếu không có khả năng thiền định thuyết pháp thì dùng
Chân tâm tấu Thiên Địa và nhờ Hội đồng Hoàn Đạo ở cõi trời
Địa phủ giảng giáo lý hai Chân lý cho gia tiên.

768
+ Con cháu ở nhân gian phải hành thiện nghiệp, không
hành nghề tạo ác nghiệp. Việc đó sẽ thúc đẩy cho gia tiên
nhanh định thần và giác ngộ để siêu thoát các cảnh giới.
Đó là phương pháp siêu độ mà mỗi người đang sống ở
nhân gian cần học tập, nghiên cứu, thực hành giúp đỡ các
vong linh gia tiên (Tuệ linh, Linh hồn đã hết kiếp thân tướng
ở nhân gian) nhanh chóng được các bậc giác ngộ ở cõi trời
Địa phủ giáo hóa. Đó cũng là động lực, là sự nương tựa của
gia tiên vào những người con cháu, người thân còn đang sinh
sống ở nhân gian mà đã có sự giác ngộ.

Cõi trời Địa phủ có liên kết chặt chẽ với cõi nhân gian,
và các cõi trời trong Vũ trụ cũng đều liên kết chặt chẽ với cõi
nhân gian này. Việc liên kết chặt chẽ là để cho các Tuệ linh,
Linh hồn thông qua môi trường tu hành ở nhân gian từng
bước xây dựng được tình yêu thương, trách nhiệm, sự lan
tỏa, sự giúp đỡ nhau. Quá trình này sẽ tạo thành cơ chế liên
kết dây bởi những năng lượng dương và năng lượng chân
tâm giữa các Tuệ linh, Linh hồn trong khắp Vũ trụ. Đó là con
đường chuyển sinh bền vững an lạc để chuyển hóa Trụ linh
thành bộ lọc năng lượng duy nhất. Tức là chỉ có con đường
duy nhất là đứng ở vị trí đoàn kết để thấu hiểu hết tất cả các
nhóm năng lượng như tiêu cực, tích cực phát triển, tích cực
lan tỏa, tích cực chân tâm, tích cực đoàn kết để cùng nhau
thấu hiểu, phát triển sự bền vững của cả Vũ trụ, Tuệ linh, con
người. Hiểu được điều này, mỗi người, mỗi muông thú, mỗi
Tuệ linh, mỗi Linh hồn sẽ sống vì nhau, không ích kỷ cho bản
thể mình. Như vậy, con đường thành Đạo viên mãn sẽ nhanh
đạt tới đích cuối cùng.
***************

769
770
Phần kết:

Những tri thức siêu việt trong cuốn “Hai Chân Lý Với
Bát Không Hoàn Đạo" đã giải mã tận cùng: cội nguồn của Vũ
trụ; cội nguồn của nhân loại; bản chất của tất cả Trụ linh của
Tuệ linh; bản chất của tất cả vạn vật trong Vũ trụ; bản chất
của năng lượng hoại diệt; nguyên nhân khổ đau của Tuệ linh,
con người và vạn vật trong Vũ trụ; các con đường chuyển
sinh của Tuệ linh, con người và vạn vật Vũ trụ. Đặc biệt, tri
thức siêu việt của hai Chân lý đã đưa ra được con đường,
phương pháp siêu việt nhất để tất cả Tuệ linh, con người
cùng nhau thực hành chuyển hóa Trụ linh thành bộ lọc năng
lượng. Đắc được bộ lọc năng lượng chính là đắc được Đạo
hợp nhất của Vũ trụ.
Để đắc được Đạo hợp nhất của Vũ trụ, tất cả Tuệ linh
phải tu hành thông qua bốn hình tướng Đạo ở nhân gian.
Thông qua hình tướng Đạo để tìm được Tâm Đạo, đó là tìm
được con đường giải thoát khổ đau của dạng sống Tuệ linh,
con người và vạn vật bên trong và bên ngoài Vũ trụ.
Đặc biệt, tri thức siêu việt của Hai Chân lý đã hợp nhất,
thống nhất được giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy
tâm. Điều này cho thấy rằng, tất cả đều là vật chất, đó là các
nhóm vật chất khác nhau bởi sự hợp thành từ những loại hạt
năng lượng tận cùng có mã sóng rung động từ giản đơn cho
tới siêu phức tạp.
***************

771
772
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU: ................................................................................................. 5
ĐẠO HỢP NHẤT CỦA VŨ TRỤ: ............................................................ 7
ĐẠO GIÁC NGỘ: .......................................................................................... 9
PHẦN 1 CỘI NGUỒN SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VŨ
TRỤ ................................................................................................................ 11
Bài 1: Hạt sóng dã chiến – Cội nguồn của vụ nổ siêu năng
lượng hình thành Vũ trụ....................................................................... 15
Bài 2: Năng lượng hoại diệt và các cuộc thảm sát ..................... 19
Bài 3: Vụ nổ siêu năng lượng và trang sử mới cho sự hình
thành, phát triển của Vũ trụ................................................................ 25
Bài 4: Dạng sống của năm nhóm tầng năng lượng sau vụ nổ
siêu năng lượng........................................................................................ 31
Bài 5: Vị Tuệ linh đầu tiên (Người Cha vĩ đại của Vũ trụ, Trời
người)........................................................................................................... 35
Bài 6: Dạng sống Tuệ linh và sứ mệnh thống lãnh Vũ trụ ..... 43
Bài 7: Hành tinh – Cõi trời kỳ diệu nhất Vũ trụ .......................... 49
Bài 8: Hành trình kiến thiết, xây dựng Vũ trụ của dạng sống
Tuệ linh ........................................................................................................ 53
Bài 9: Cuộc chiến tranh không hồi kết giữa dạng sống của
năng lượng hoại diệt với các dạng sống bên trong Vũ trụ..... 61
Bài 10: Nguy cơ và nguyên nhân hoại diệt dạng sống của Vũ
trụ và dạng sống năng lượng hoại diệt .......................................... 67
PHẦN 2 CỘI NGUỒN NHÂN LOẠI ..................................................... 73
Bài 1: Kế hoạch táo bạo của vị Tuệ linh đầu tiên ....................... 77
Bài 2: Cuộc di cư lịch sử của dạng sống Tuệ linh và dạng sống
con người xuất hiện................................................................................ 83
PHẦN 3 CHÂN LÝ VẠN VẬT VÀ CHÂN LÝ GIÁC NGỘ (TRÍ TUỆ
BAO TRÙM VẠN VẬT VŨ TRỤ) ....................................................... 101
773
Bài 1: Chân lý Vạn vật ......................................................................... 107
Bài 2: Chân lý Giác ngộ ....................................................................... 115
PHẦN 4 BÁT KHÔNG HOÀN ĐẠO (CON ĐƯỜNG CHUYỂN
SINH BỀN VỮNG) ................................................................................. 121
Bài 1: Bài Tướng ................................................................................... 127
Bài 2: Bài Trụ – Trí ............................................................................... 205
Bài 3: Bài Trụ – Tâm ............................................................................ 305
Bài 4: Bài Hành ...................................................................................... 407
Bài 5: Bài Đạo ......................................................................................... 435
Bài 6: Bài Tuệ ......................................................................................... 615
Bài 7: Bài Quả Không .......................................................................... 663
Bài 8: Bài Nguyện ................................................................................. 689
PHẦN 5 CÕI TRỜI ĐỊA PHỦ (CÕI TẠM CỦA NHÂN GIAN TU
HÀNH) ....................................................................................................... 705

774

You might also like