You are on page 1of 220

MỤC LỤC

BÀI DIỄN THUYẾT I . THẾ NÀO LÀ YOGA ?

1. Vũ trụ là gì ?

2. Sự khai mở tâm thức.

3. Chơn Ngã duy nhất.

4. Làm thế nào để phát triển Chơn Ngã một cách nhanh
chóng ?

5. Yoga là một khoa học.

6. Hai phần trong con người.

7. Các trạng thái của Trí tuệ.

8. Samadhi.

9. Về sách Yoga.

10. Vài định nghĩa.

11. Thượng Ðế ở ngoài và ở trong ta.

12. Những Biến đổi của Tâm thức và những Rung động của Vật
chất.

13. Trí thức.

14. Các giai đoạn của Trí thức.

15. Tâm thức hướng ra ngoài hay xoay vào trong.

16. Ðám mây.

BÀI DIỄN THUYẾT II . CÁC MÔN PHÁI YOGA Ở ẤN ÐỘ

1. Sự liên quan của Yoga với các môn phái triết học Ấn.

2 . Trí thức.

3 . Thể Trí.
4 . Cái Trí và cái Ngã.

BÀI DIỄN THUYẾT III . YOGA LÀ MỘT KHOA HỌC

1. Những phương pháp Yoga.

2. Tìm cái Ngã bởi cái Ngã.

3. Tìm cái Ngã bằng cái Vô Ngã.

4. Yoga và Ðạo lý.

5. Sự cấu tạo các trạng thái cái Trí.

6. Vui sướng và Ðau khổ.

BÀI DIỄN THUYẾT IV

YOGA TRÊN PHƯƠNG DIỆN THỰC TẾ

1. Sự ngăn chận các trạng thái của cái Trí.

2. Tham thiền hữu chủng và vô chủng.

3. Sự sử dụng chân ngôn.

4. Sự định trí.

5. Các trở ngại.

6. Những khả năng về Yoga.

7. Ra đi và Trở về.

8. Tinh luyện các thể.

9. Bọn giữ cửa.

10. Sự chuẩn bị.

11. Ðoạn Kết.


ÐƯỜNG VÀO YOGA
AN INTRODUCTION TO YOGA
Tác giả ANNIE BESANT Dịch giả Vũ thị Dung

LỜI TỰA
Những bài diễn thuyết trong quyển sách nầy nhằm mục đích phác họa đại
cương của khoa Yoga để chuẩn bị sinh viên nghiên cứu và thực tập Giáo lý
Patanjali , một tác phẩm quan trọng nhất về Yoga. Với sự cộng tác của bạn
tôi là Bhagavan Das, tôi đã dịch giáo lý nầy cùng các lời bình luận của
Vyasa, kèm một bản chú giải khác viết theo ánh sáng Thông Thiên Học.

Ðể công việc chuẩn bị nầy được rõ ràng, tôi sẽ trích dẫn nhiều đoạn trong
giáo lý của Patanjali. Tuy nói rằng các bài diễn thuyết nầy dành cho sinh
viên, chớ chúng nó cũng có thể đem lại cho các độc giả một vài kiến thức về
khoa Yoga, Khoa học của các Khoa học, và khuyến khích một vài người khác
lưu tâm nghiên cứu khoa quan trọng nầy.

ANNIE BESANT

BÀI DIỄN THUYẾT I

THẾ NÀO LÀ YOGA ?

Trong buổi nói chuyện đầu tiên nầy, chúng ta tìm hiểu khoa Yoga một
cách tổng quát, xác định vị trí của nó trong trật tự thiên nhiên, và vạch rõ
các đặc tính và mục đích của nó trong cơ tiến hóa của nhân
loại.

VŨ TRỤ LÀ GÌ ?

Trước hết, ta hãy nhìn thế giới xung quanh chúng ta. Lịch sử của nó nói
lên những gì ? Nó hiện ra như một đại cảnh linh động, trong đó con người
hoạt động không ngừng, sự việc xuất hiện liên tiếp, nhưng sự thật, đó
chẳn,g qua là các trò múa men của những bóng mập mờ. Các dân tộc, các
vua chúa, các chính trị gia, các quan lớn quan nhỏ, các đạo binh hùng hậu,
tất cả chỉ là nhân ảnh. Còn các sự việc như là chiến tranh và cách mạng,
hưng thịnh và suy vong của các quốc gia thì xa sự thật hơn nữa. Dù các sử
gia có khảo cứu sâu rộng đến mức nào cũng vậy, dù tâm trí của họ bao quát
đủ mọi lãnh vực từ nền móng kinh tế, tổ chức xã hội đến các khuynh hướng
tư tưởng thì họ cũng chỉ lẩn quẩn giữa những hình, những bóng phóng ra do
các sự thật vô hình. Cõi đời là do ảo ảnh dựng lên và những giá trị mà ta
gán cho nó, đều sai lạc. Biết bao sự việc được người đời quí trọng nhưng lại
không có một giá trị gì dưới mắt của các nhà huyền học. Những hạt kim
cương chói lòa chẳng qua là những mảnh kiếng vụn đối với người hiểu biết.

Ngai vàng, điện ngọc, quyền thế, vinh quang của người đời không có một
nghĩa lý gì đối với ai đã thoáng thấy Chơn Ngã uy nghi. Vậy thì cái gì là thật,
cái gì là quí ? Câu trả lời của chúng ta sẽ khác hẳn câu trả lời của người đời.

Vũ trụ có là vì Chơn Ngã.

Ðấng Tạo hóa lập ra Vũ trụ không phải để cho chúng ta góp công tô điểm
hay chiếm đoạt những điều mong ước, cũng không phải để cho người đời
đẹp tai, vui mắt. Ðành rằng Vũ trụ là một kỳ công với vòm trời xanh thẳm,
với núi cao trắng tuyết, với thung lũng xinh tươi hoa lá, với trùng dương bát
ngát lúc an tĩnh dịu dàng, khi ba đào rào rạt, nhưng các sự ấy sở dĩ có
không phải chính cho chúng nó mà vì sự ích lợi của chúng đối với Chơn
Ngã : tất cả ở chúng nhằm giúp Chơn Ngã biểu hiện.

Mục đích duy nhất của cõi đời tuyệt mỹ với các nỗi vui buồn là giúp Chơn
Ngã biểu lộ quyền năng của Nó. Từ tinh vân đến Thượng Ðế, tất cả sở dĩ có
là vì Chơn Ngã. Hạt bụi li ti ở cõi Trần, vị Ðại Thiên Thần cao cả ở Thiên
giới, cọng cây mọc ở kẹt đá, ngôi sao chiếu trên trời cao, tất cả sở dĩ có là
để cho những mảnh nhỏ của cái Ngã ẩn trong muôn vàn sắc tướng có thể
thực hiện bản tính duy nhất của chúng và biểu lộ các quyền năng của chúng
xuyên qua vật chất.
Ở hạt bụi nhỏ nhoi cũng như trong vị Thần cao cả, đều có một nguyên lý
duy nhất : Chơn Ngã. Ấy là các Jivatmas, các Ðiểm linh quang sống động;
chúng là Mamamsaha , là một phần của Ta như Ðức Krhisna đã gọi. Vũ trụ
có là vì chúng. Vì chúng mà mặt trời mọc, mà sóng cuộn, gió thổi, mưa sa :
có vậy, Chơn Ngã mới lần lần ý thức được mình đang biểu hiện trong vật
chất, đang ẩn mình trong Vũ trụ.

SỰ KHAI MỞ TÂM THỨC

Một trong các ý niệm quí báu mà Thông Thiên Học không ngừng nhắc
đến là các sự việc vẫn lập đi lập lại mãi theo một trật tự nhất định, trong
các cuộc tuần hoàn lớn hay nhỏ. Nhờ vậy,khi ta hiểu được một cuộc tuần
hoàn là ta sẽ hiểu được các cuộc tuần hoàn khác. Sự xây dựng Vũ trụ và sự
xây dựng con người đều theo những qui luật y hệt nhau. Những luật qui
định sự khai mở quyền năng của cái Ngã trong Vũ trụ từ tinh vân đến
Thượng Ðế cũng là những định luật chi phối sự phát triển tâm thức ở con
người. Nếu bạn hiểu các định luật ấy trong cái nầy thì bạn sẽ hiểu được
trong cái kia. Nắm vững chúng trong cái lớn, bạn sẽ hiểu được cái nhỏ dễ
dàng.

Sự tiến hóa từ viên đá đến Thượng Ðế tiếp diễn trong một thời gian dài
như vô tận. Trong phạm vi nhân loại, thời gian đăng đẳng ấy thu lại trong
một cuộc tuần hoàn ngắn, ngắn đến đỗi như không có. Ở mỗi cá nhân,
trong một cuộc tuần hoàn còn ngắn hơn nữa, một sự tiến hóa tương tự diễn
tiến nhanh chóng nhờ các sinh lực tạo được trong quá khứ. Các sinh lực nầy
biểu hiện và thức động lần lần trong cuộc tiến hóa và mỗi lúc đều được tăng
cường. Khởi đầu, chúng nó phát triển, củng cố và kiện toàn trong loài kim
thạch; rồi khi trở nên quá thanh cao đối với giới kim thạch, chúng sang loài
thảo mộc. Ở loài nầy, chúng nó cũng phát triển tính chất thiêng liêng thêm
mãi cho đến lúc chúng nó trở nên quá dũng mãnh đối với loài nầy thì sang
loài cầm thú. Chúng nó tiếp tục phát triển mãi và đồng hóa các kinh nghiệm
đã thu thập được ở loài nầy, và đến một lúc nào đó, chúng vượt qua khỏi
tầm mức thú cầm để tiến sang nhân loại. Trong con người, chúng vẫn tăng
trưởng nhanh chóng để rồi cũng phá vỡ giới hạn con người và tiến từ hàng
nhân loại sang bậc siêu nhân. Sự diễn tiến cuối cùng nầy là Yoga.

Con người tăng trưởng như thế nào ? Ở quá khứ, nhân loại trên quả địa
cầu nầy đã tiến hóa trong một thời gian rất dài ở nhiều dãy khác, tiến hóa
như tôi đã nói, từ kim thạch sang thảo mộc, từ thảo mộc sang cầm thú, từ
cầm thú đến con người và khi thành người, nhân loại được di chuyển từ mặt
trăng sang qua bầu chúng ta đang ở mà chúng ta gọi là trái đất. Ở đây,
chúng ta có đằng sau chúng ta tất cả sinh lực của một quá trình tiến hóa rất
dài, nhờ vậy mà khi chu kỳ tiến hóa ngắn ngủi hơn là Yoga bắt đầu, thì một
sức mạnh chất chứa từ lâu thúc đẩy chúng ta, nên chúng ta tiến rất mau.
Chúng ta phải liên kết Yoga của chúng ta với sự khai triển tâm thức tổng
quát qua các giai đoạn của nó., nếu không, chúng ta không sao hiểu nó
được. Là vì sự tiến hóa tâm thức trong Vũ trụ cũng giống hệt các định luật
của Yoga, các nguyên tắc qui định việc khai triển tâm thức trong cuộc đại
tiến hóa của nhân loại cũng là những nguyên tắc qui định Yoga nhằm khai
mở nhanh chóng tâm thức của mỗi người. Vì vậy, trái với nhiều người
tưởng, Yoga không có gì mới mẻ cả. Sự tiến hóa luôn luôn có tính cách duy
nhất ngay từ lúc khởi thủy, với các giai đoạn giống nhau, với các kết quả y
nhau. Dù bạn nghiên cứu sự khai mở tâm thức trong Vũ trụ, trong toàn thể
nhân loại hay trong một cá nhân, những qui luật bạn phải học là những qui
luật chung. Trong Yoga, bạn tập áp dụng các qui luật ấy để phát triển tâm
thức của bạn. Tất cả định luật đều là một, mặc dù có vẻ khác nhau ở mỗi
giai đoạn tiến hóa.

Khi bạn nhìn Yoga như thế, nó không còn xa lạ nữa. Trái lại, trong lúc
bạn tập mở mang tâm thức, bạn sẽ tìm hiểu luôn sự tiến hóa tương ứng của
các hình thể, và bạn sẽ hết ngạc nhiên khi được biết rằng một ngày kia, bạn
sẽ vượt giới hạn con người để bước vào hàng tiên thánh trong một cõi mà
bản tính thiêng liêng sẽ bộc lộ rõ ràng hơn.

CHƠN NGÃ DUY NHẤT


Chơn Ngã ở con người và Ðại Ngã trong Vũ trụ là một. Các khí lực vô biên
biểu hiện trong trời đất đều có ở bạn trong trạng thái tiềm tàng như những
mầm non. Ngài, Ðấng Tối Cao, Ngài không còn tiến hóa nữa. Ở Ngài, không
có cái gì tăng cái gì giảm. Các Jivatmas, các Ðiểm linh quang ở con người, là
một phần của Ngài, và chúng nó cố phát triển quyền năng sẵn có của chúng
trong vật chất lúc gặp hoàn cảnh thuận tiện. Khi bạn ý thức rõ ràng sự duy
nhất của vạn thù, bạn sẽ thấy Yoga là một điều có thể thực hiện được.

LÀM THẾ NÀO ÐỂ PHÁT TRIỂN CHƠN NGÃ

MỘT CÁCH NHANH CHÓNG ?

Hiện nay, các bạn là những người có học và biết suy tư. Như thế, bạn đã
tiến qua một quãng đường dài từ hạt bụi là hình thể đầu tiên của Ðấng
Thánh Linh đến Thánh điện thờ Ngài là hình thể bây giờ của bạn. Ðấng
Thánh Linh ngủ ở kim thạch, thức động ở thảo mộc và cầm thú, và đến con
người thì tiến tới một mức rất cao mà người vô minh tưởng là tột đỉnh. Ðến
đây bạn há dừng chân sao ? Tại sao bạn lại không tiến nữa ? Tâm thức của
bạn há không thể khai mở thêm để đạt quả vị tiên thánh sao ?

Bạn cần ý thức rõ rằng, các định luật tiến hóa của sắc tướng và các định
luật phát triển tâm thức ở Vũ trụ và ở con người đều giống nhau, và chính
các định luật nầy giúp nhà yogui khai mở các quyền năng ẩn tàng của họ.
Có thế, bạn sẽ không nhất thiết phải rút vào núi, vào hang, hoặc phải ẩn
trong rừng sâu hay sa mạc mới có thể hợp nhất với Chơn Ngã, vì Chơn Ngã
lúc nào cũng hiện diện trong bạn cũng như ngoài bạn. Ðôi khi, vì mục đích
riêng biệt nào đó, sự ẩn dật cũng hữu ích, và thỉnh thoảng, chúng ta cũng
nên lánh xa các nơi phồn hoa náo nhiệt. Dù sao, chúng ta phải ghi nhớ rằng
Thượng Ðế dựng nên Vũ trụ là để khai mở quyền năng của Chơn Ngã, vậy
chính tại đó, nhà yogui mới tìm được môi trường thích hợp nhất gồm đầy đủ
yếu tố cần thiết được dự trù bởi minh triết thiêng liêng. Nếu mục đích ở cõi
đời là để mở mang Chơn ngã thì tại sao ta lại trốn nó ? Hãy đọc Ðấng
Krishna trong quyển kinh quan trọng nhất về Yoga là quyển Bhagavad
Gita , Ngài dạy đạo ngay ở bãi chiến trường chớ không phải trên đỉnh núi,
và Ngài dạy cho một chiến sĩ đang xông pha trên mặt trận chớ không phải
một tu sĩ ẩn dật trong rừng sâu. Yoga phải được tập ngay ở bãi chiến
trường. Những ai không đối phó nổi với cuộc đời thì cũng không đủ sức
đương đầu với các khó khăn của Yoga. Nếu bạn thảm bại trước ngoại cảnh
thì làm sao bạn có thể chiến thắng các khó khăn nội tâm ? Nếu bạn chùn
chân trước phiền não nhỏ nhặt của cuộc đời, làm sao bạn có thể mong ước
vượt qua các nỗi khó khăn mà các nhà yogui hằng gặp ở mỗi bước đường ?
Lầm lạc thật nhiều cho những ai nghĩ rằng muốn đạt đạo thì phải xa lánh
cuộc đời, và muốn được bình an thì phải ẩn dật ở một nơi hẻo lánh.

Thực ra, ở quá khứ bạn đã tập Yoga một cách vô tâm, tập ngay từ lúc bạn
chưa có một tâm thức riêng biệt, tự ý thức được nó. Vậy thì nguyên tắc đầu
tiên phải nhớ kỹ, Yoga chẳng qua là một cách mở mang tâm thức có phương
pháp và nhanh chóng.

Do vậy, chúng ta có thể định nghĩa Yoga như là sự áp dụng hợp lý những
định luật mở mang tâm thức vào trường hợp cá nhân. Phương pháp Yoga
chỉ có thế : bạn tìm hiểu các định luật khai mở tâm thức của Vũ trụ rồi bạn
áp dụng vào trường hợp riêng của chính bạn. Bạn không thể áp dụng nó cho
một người nào khác mà chỉ để riêng mình thôi. Ðó là một nguyên tắc chính
yếu. Vậy định nghĩa của tôi cần được bổ túc như sau : Yoga là sự áp dụng
hợp lý những định luật mở mang tâm thức cho mỗi trường hợp cá nhân.

YOGA LÀ MỘT KHOA HỌC

Nguyên lý thứ hai cần nhớ : Yoga là một khoa học. Quả thế, Yoga là một
khoa học chớ không phải là mộng ảo hay một mớ kiến thức tưởng tượng,
mù mờ. Nó là một khoa học thực dụng, một hệ thống định luật rõ ràng và
mạch lạc nhằm một mục đích nhất định. Nó căn cứ trên các định luật của
khoa tâm lý về sự mở mang toàn thể tâm thức của con người ở các cõi và áp
dụng chúng nó vào các trường hợp riêng. Sự áp dụng hợp lý các định luật về
sự mở mang tâm thức nầy cũng theo đúng các nguyên tắc được áp dụng
hằng ngày ở các địa hạt khác nhau của khoa học. Chung quanh bạn, bạn có
dịp thấy khi trí thông minh hợp tác với thiên nhiên thì nhiều cuộc diễn tiến
thiên nhiên được gia tốc một cách phi thường. Chúng ta thường phân biệt
giữa sự tăng trưởng nhân tạo và sự tăng trưởng thiên nhiên không phải là
không có lý, vì trí thông minh con người có thể hướng dẫn sự diễn tiến các
định luật thiên nhiên. Khi chúng ta đề cập đến Yoga, chúng ta cũng ở trong
địa hạt khoa học thực dụng y như người làm vườn hay người chăn nuôi áp
dụng các định luật thiên nhiên trong việc chọn giống. Họ không thể vượt
qua các định luật thiên nhiên và cũng không thể chống lại được. Họ phải
tuân theo các định luật chi phối sự tiến hóa vạn vật, nhưng họ có thể thực
hiện trong một vài năm một công việc mà tạo hóa phải mất cả ngàn năm
mới làm xong. Bằng cách nào ? Bằng cách sử dụng trí thông minh của con
người để chọn các định luật thích ứng và giải trừ các định luật chống đối.
Như vậy, trí thông minh giúp chúng ta sử dụng hợp lý các quyền năng
thiêng liêng tổng quát vào những mục tiêu riêng.

Hãy xem người nuôi chim bồ câu. Từ chim cu xanh họ đã tạo được một
giống bồ câu lông xù và đuôi rẽ quạt. Họ làm sao mà được thế ? Họ chọn từ
đợt chim nầy đến đợt chim khác những con có đặc điểm y muốn. Ðoạn y pha
giống, tạo những cơ hội thuận tiện, lựa đi lựa lại như thế mãi cho đến khi y
được cái giống đặc biệt y muốn tạo thành. Nếu trí thông minh không tiếp
tục hướng dẫn, cứ bỏ mặc chúng thì các con bồ câu nầy sẽ trở lại giống đầu
tiên.

Hãy xem người trồng tỉa. Với loại hoa hồng dại, họ đã tạo đủ thứ hoa
hồng nhà rất đẹp. Hồng năm cánh ở hàng rào, sản phẩm của thiên nhiên,
nay đã trở thành hoa hồng nhiều cánh. Họ đã làm sao ? Họ lấy phấn hoa của
cây nầy đặt vào nhụy cái của cây kia, nghĩa là họ làm công việc của con
ong, con bướm, nhưng họ chọn cây nào có những đặc điểm vừa ý và chọn
đi, chọn lại mãi như thế cho đến khi nào họ sản xuất được một giống hồng
đẹp. Hồng nầy khác hẳn hồng dại, khác cho đến nỗi bạn phải theo dõi từ
đầu mới biết được nguyên lai.

Sự áp dụng của định luật tâm lý trong khoa Yoga cũng thế. Yoga là sự áp
dụng vào trường hợp cá nhân các qui tắc mà chúng ta được biết về sự khai
mở tâm thức chúng ta ngay trong cõi đời, vì cõi đời là một kỳ công của
Thượng Ðế, rất thích hợp với mục đích nầy. Do vậy, nhà yogui một khi đã
chọn mục tiêu thì tìm được ở cõi đời tất cả những gì ông cần để thực tập
Yoga và hiểu biết Chơn Ngã một cách nhanh chóng. Ðịnh luật thì nhiều, ông
có thể lựa cái nào cần, bỏ qua những cái không hữu ích, áp dụng cái thiết
yếu và nhờ thế, ông có thể đạt những kết quả mà thiên nhiên phải mất rất
nhiều thời gian mới thực hiện được.

Như vậy, Yoga không quá sức bạn. Một vài lối thực tập Yoga bậc thấp,
một vài cách áp dụng đơn giản những qui luật mở mang tâm thức sẽ giúp
ích bạn ở cõi nầy và ở nhiều cõi khác nữa. Là vì bạn sẽ gia tốc sự tăng
trưởng của bạn khi bạn biết lợi dụng các quyền lực mà thiên nhiên ban cho
bạn và giải trừ các điều kiện vô ích hay có hại cho bước tiến của bạn. Nếu
bạn quan niệm Yoga như thế thay vì đọc một vài đoạn sách Phạn ngữ dịch
sai thì Yoga sẽ trở nên một điều hữu ích và thực tế, và bạn sẽ thấy rằng
muốn trở nên một nhà yogui, bạn không cần đợi một kiếp lai sinh.

HAI PHẦN TRONG CON NGƯỜI

Có nhiều từ ngữ dùng trong khoa Yoga cần được biết rõ. Bởi vì khoa nầy
nhằm một mục đích đặc biệt và nghiên cứu con người dưới một khía cạnh
khác thường, nên ở con người nó chỉ biết có hai phần : phần trí và phần thể.
Dù sao con người cũng là một đơn vị, đơn vị tâm thức. Ðó là một điều phải
hiểu rõ. Trong các lớp vỏ chỉ có một con người mà thôi, vậy người
ThôngThiên Học cần kiểm chính các ý niệm của mình khi khởi đầu học Yoga.
Ðể hiểu sự cấu tạo con người, Thông Thiên Học phân chia con người ra
nhiều thành phần, và sự phân chia nầy rất cần và rất đúng. Chúng ta nói
đến thể xác, thể vía và thể trí hay Sthula-sarira, Sukshma-sarira, Karana-
sarira và v.v. . . Ðôi khi, chúng ta cũng chia con người ra Anna-maya-kosa,
Prana-maya-kosa, Mano-maya-kosa v.v. . . Nếu chúng ta chia con người ra
nhiều thành phần như thế là để tìm hiểu cho rành rẽ, nhưng vì chia như
vậy, chúng ta thường quên hẳn con người đi mà chỉ lưu ý đến các thành
phần nầy.
Yoga có tính cách vừa thực tế vừa tâm lý. Tôi không chỉ trích sự phân
chia thường thấy ở các môn học bởi sự phân chia ấy rất cần, nhưng vì mục
đích thực tế, Yoga chỉ xem con người có hai phần : phần trí và phần thể,
nghĩa là một đơn vị tâm thức trong một bộ vỏ bao quanh. Hai phần nầy
không phải cái Ngã và cái Vô Ngã. Là vì trong Yoga, Chơn Ngã có nghĩa là
tâm thức cộng những chất liệu mà nó không thể phân biệt là khác nó, còn
Vô ngã là những gì nó có thể bỏ qua một bên.

Con người không phải là Chơn Ngã thuần túy hay tâm thức thuần túy, là
Samvid. Trong Vũ trụ cụ thể, tâm thức luôn luôn hiện ra trong những lớp vỏ
lắm khi rất tinh vi. Vì vậy, đơn vị tâm thức bao giờ cũng kết liền với vật
chất, và Jivatma hay Chơn Thần luôn luôn gồm thêm một phần vật chất.

Ðể được rõ ràng, khoa Yoga dùng hai từ ngữ để trình bày sự cấu tạo con
người, ấy là Prana và Pradhana : sinh khí và vật chất. Prana không phải chỉ
là sinh khí của xác thân, mà là toàn thể sinh lực của Vũ trụ hay nói một
cách khác, là phần sống của Vũ trụ.

Thần Indra nói : Ta là Prana. Prana đây là toàn thể sinh lực, là tâm thức,
là trí tuệ. Pradhana có nghĩa là vật chất. Ðối với nhà yogui, cái vỏ là những
chất liệu của ngoại cảnh thuộc về con người họ, nhưng họ cố tách rời khỏi
nó và phân cách nó khỏi tâm thức họ.

Sự phân chia nầy rất quan trọng và hữu ích nếu bạn hiểu nó tận gốc. Lẽ
dĩ nhiên, khi bạn nhìn vấn đề trong toàn thể, bạn sẽ thấy Prana (sự Sống
cao cả hay Chơn Ngã) luôn luôn hiện diện trong mọi vật, và các vỏ, các thể
cũng hiện diện ở mọi mức độ, dưới những hình thức khác nhau. Tuy nhiên,
theo quan điểm Yoga thực hành thì Prana hay Chơn Ngã là những gì mà con
người còn xem như là chính mình, cả những cái vỏ vật chất mà tâm thức
chưa thể tách ra được. Ðối với nhà yogui, đơn vị ấy là Chơn Ngã, bởi vậy nó
có thể xem như là một định lượng có thể biến đổi. Nhà yogui tập vứt bỏ lần
lần các thể và mỗi lần thế ấy ông nói : Tôi không phải cái nầy. Như vậy, ông
lần lần tiến lên cái điểm cao nhất, nơi đó, tâm thức chỉ còn nằm trong một
lớp vỏ duy nhất, một nguyên tử vật chất duy nhất là Chơn Thần. Trên
phương diện Yoga thực tập, con người hành động, con người ý thức gồm
những gì chưa thể tách ra khỏi phần vật chất bao bọc nó hay liên hệ đến nó.
Từ thể chỉ dùng để gọi những gì mà nhà yogui lần lần để qua một bên và
nói Tôi không phải là cái nầy, cái nầy là của tôi. Ở khoa Yoga, chúng ta gặp
một loạt từ ngữ thường được lập đi lập lại mãi. Vyasa nói : Tất cả trạng thái
của trí tuệ đều có ở mỗi cõi , và khi ta quan niệm con người như thế, chúng
ta sẽ có thể dùng một loạt từ ngữ ấy nhưng với ý nghĩa mỗi lúc mỗi tinh vi
hơn. Tất cả đều tương đối và cũng là thật ở mỗi giai đoạn tiến hóa.

Với mức độ tiến hóa hiện tại, nhiều người nhận thức rõ ràng rằng xác
thân vật chất là cái thể duy nhất mà chúng ta có thể nói nó không phải là
tôi. Vì vậy, trong khoa Yoga thực tập, những từ ngữ dùng để gọi các trạng
thái tâm thức hay các trạng thái trí tuệ được áp dụng trước tiên để diễn tả
tâm thức thức tỉnh trong thể xác. Ðó là trạng thái thấp nhất và khi từ đó,
bạn tiến lên lần lần, những từ ngữ sẽ có một ý nghĩa khác để gọi các trạng
thái trí tuệ mới và cũng dễ nhận đối với các trạng thái thấp hơn. Nếu bạn
muốn áp dụng đứng đắn các từ ngữ dùng để diễn tả tâm thức, bạn nên phân
tích kỹ lưỡng tâm thức bạn để tìm ra phần nào là tâm thức và phần nào là
phần vật chất còn kết liền với nó mà bạn chưa thể tách ra.

CÁC TRẠNG THÁI CỦA CÁI TRÍ

Chúng ta tìm hiểu vấn đề một cách rành mạch hơn. Thường chúng ta nói
đến bốn trạng thái tâm thức : tâm thức thức tỉnh hay Jagrat , tâm thức mơ
mộng hay Svapna, tâm thức ngủ say hay Sushupti, và sau cùng một tâm
thức cao hơn : Turiya. Các tâm thức nầy liên quan đến thể xác như thế
nào ?

Jagrat là tâm thức thường mà bạn và tôi đang sử dụng. Nếu tâm thức tác
động trong thể tinh vi hay thể vía mà ghi được các kinh nghiệm của nó ở
khối óc, đó là Svapna. Svapna linh động và gần sự thật hơn là Jagrat. Khi
tâm thức tác động trong một thể tinh vi hơn nữa là thể trí mà không thể ghi
các kinh nghiệm của nó vào khối óc, đó là Sushupti. Trong trạng thái nầy,
tâm thức chú trọng vào bên trong nó chớ không phải vào sự vật bên ngoài.
Sau cùng, nếu nó tách hẳn khỏi khối óc đến đỗi người ta không thể gọi nó
trở lại bằng những phương tiện thường thì nó được gọi là Turiya : trạng thái
xuất thần. Bốn trạng thái ấy tương ứng với bốn cõi, và nếu chúng mở mang
đầy đủ, tâm thức sẽ tiến rất cao. Jagrat tương ứng với cõi Trần, Svapna
tương ứng với cõi Trung giới, Sushupti tương ứng với cõi Thượng giới, và
Turiya tương ứng với cõi Bồ Ðề.

Dù ở cõi nào đi nữa, chúng ta phải dùng các từ ngữ ấy để diễn tả tâm
thức tác động trong giới hạn của cõi đó. Vì vậy, trong những sách Yoga các
từ ngữ ấy lại có những định nghĩa khác, khiến chúng ta gặp nhiều khó khăn
nếu không biết rằng ý nghĩa của chữ ấy có tính cách tương đối. Cho nên,
Svapna không phải lúc nào cũng thế đối với mọi người. Sushupti cũng vậy.
Nhất là chữ Samadhi, mà chốc nữa tôi sẽ giải thích. Chữ nầy được dùng
nhiều cách với nhiều ý nghĩa khác nhau. Vậy làm sao chúng ta khỏi bị bối
rối ? Chúng ta phải biết khởi điểm và khi khởi điểm được biết rồi, thì sự việc
kế tiếp lúc nào cũng thế. Các bạn ai ai cũng biết tâm thức thức tỉnh trong
thể xác. Bạn hãy phân tích nó rồi bạn sẽ thấy bốn trạng thái rõ ràng. Các
trạng thái ấy cũng xảy ra như vậy ở mỗi cõi.

Làm sao chúng ta có thể phân biệt được các trạng thái nầy ? Chúng ta
hãy quan sát tâm thức thức tỉnh và tìm hiểu bốn trạng thái của nó. Ví dụ tôi
cầm một quyển sách và đọc. Khi tôi đọc chữ, mắt tôi liên quan đến cái tâm
thức hướng ra cõi vật chất bên ngoài. Ðó là trạng thái Jagrat. Nếu xuyên
qua các chữ, tôi tìm hiểu ý nghĩa của các chữ đó thì tôi tiến sang trạng thái
Svapna của tâm thức thức tỉnh, nó vượt qua cái hình thức bên ngoài để tìm
sự sống bên trong. Kế đó, tôi tìm hiểu tâm trí của tác giả để hai tâm trí gặp
nhau, đó là trạng thái Sushupti. Nếu từ sự tiếp xúc nầy, tôi tiến sâu vào tâm
thức của tác giả và sống ở đó thì tôi đạt được trạng thái Turiya.

Ðây là một ví dụ khác. Tôi nhìn vào cái đồng hồ : tôi ở trong trạng thái
Jagrat. Tôi nhắm mắt để tạo hình ảnh của đồng hồ : tôi ở trong Svapna. Tôi
nhớ lại nhiều cái đồng hồ khác và tạo ra một đồng hồ lý tưởng : tôi ở trong
Sushupti. Nếu sau cùng, tôi sang qua ý niệm trừu tượng về thời gian : tôi ở
trong Turiya. Các giai đoạn nầy là các trạng thái của tâm thức ở cõi Trần vì
trí tôi hoạt động trong xác thân.

Hiểu như thế, các trạng thái của tâm thức trở nên thực tế và dễ hiểu thay
vì chỉ là những lời nói suông.

SAMADHI

Trong Yoga Sutras , còn nhiều chữ quan trọng khác mà chúng ta bắt
buộc phải dùng thường để tránh những lời dài dòng vô ích, vậy chúng cần
được giải thích rõ ràng.

Có người nói : Yoga là Samadhi.

Samadhi là một trạng thái, trong đó, tâm thức lìa hẳn thể xác khiến thể
xác trở nên bất động. Ấy là trạng thái xuất thần, trong đó trí vẫn hoàn toàn
sáng suốt mặc dù thể xác hết cảm xúc. Khi từ trạng thái nầy, cái trí trở lại
xác thân thì nó mang về các kinh nghiệm đã thu thập được trong cõi siêu
hình và còn nhớ rõ khi nó nhập vào khối óc xác thịt. Ðối với bất cứ người
nào trong trạng thái Samadhi cũng thế, họ cũng sáng suốt mặc dù thể xác
không còn cảm xúc. Nếu người nào xuất thần mà hoạt động ở cõi Trung giới
thì Samadhi của người ấy thuộc cõi nầy; nếu tâm thức của người hoạt động
ở cõi Thượng giới thì Samadhi hoạt động ở cõi đó. Tóm lại, người nào có thể
lìa bỏ xác thân và để nó bất động trong lúc trí tuệ hoàn toàn sáng suốt,
người ấy đạt được trạng thái Samadhi.

Câu Yoga là Samadhi hàm súc nhiều sự kiện rất quan trọng. Tỉ như bạn
chỉ có thể tiến vào cõi Trung giới mà thôi trong lúc bạn ngủ thì tâm thức
bạn ở trong trạng thái Svapna như chúng ta đã biết. Nhưng khi bạn dần dần
mở mang quyền năng của bạn thì các sự kiện của cõi Trung giới bắt đầu
hiện ra trong tâm thức thức tỉnh của thể xác, và khi nào chúng nó trở nên
rõ ràng cũng như các sự việc của cõi Trần thì chúng nó trở nên đối tượng
của tâm thức thể xác. Chừng đó, đối với bạn, cõi Trung giới không còn thuộc
về Svapna mà thuộc về Jagrat, vậy bạn có hai cõi ở trong trạng thái Jagrat
của bạn : cõi Trần và cõi Trung giới, còn cõi Thượng giới thì vẫn ở trong
Svapna. Thể của bạn bây giờ là do hai thể xác và vía họp lại. Khi bạn tiến
lên nữa thì cõi Thượng giới sẽ hiện đến, và cõi Trần, cõi Trung giới và cõi
Thượng giới sẽ nằm trong tâm thức thức tỉnh của bạn và thuộc trạng thái
Jagrat của bạn. Ba cõi nầy họp thành một, ba thể tương ứng cũng là một để
nhận thức và hành động. Chừng đó ba thể của người thường trở thành một
đối với nhà yogui. Khi bạn thực hiện được điều nầy, nếu bạn muốn thấy một
cõi nào thì bạn phải chú ý vào cõi đó sẽ thấy rõ. Nếu bạn chú ý vào cõi Trần
thì hai cõi Trung giới và Thượng giới trở nên lờ mờ. Trái lại, nếu bạn chú ý
vào cõi Trung giới thì cõi Trần và cõi Thượng giới sẽ lờ mờ vì ở ngoài vòng
tập trung của cái trí. Bạn hiểu điều nầy rõ ràng khi bạn lưu ý rằng khi tôi
đặt tầm mắt của tôi ở giữa phòng thì hai hàng cột hai bên không thể hiện ra
rõ trước mắt tôi. Nếu tôi chú mục vào một cây cột, tôi thấy cây cột ấy rõ còn
hình bạn thì mờ. Bạn nên nhớ rằng các nhà yogui đã tách rời được các thể
của họ trong lúc các thể nầy, nơi bạn, vẫn còn là một thành phần của bạn.
Như vậy, những chi bạn chưa có thể rời bỏ thì nhà yogui đã rời bỏ được nên
chúng trở thành những cái vỏ đối với họ. Vậy khi, một tu sĩ tiến cao, những
cái vỏ thấp của họ họp làm một mà họ rời bỏ lúc nào cũng được.

Yoga là Samadhi . Ðó là khả năng lìa khỏi những cái gọi là thể để chú
định vào trong. Ðó là nghĩa của Samadhi. Khi con người ở trong trạng thái
nầy rồi không cách nào có thể gọi y trở lại cõi y đã rời bỏ (1). Ðiều nầy cũng
giải thích cho bạn câu trong Giáo lý bí truyền nói rằng vị Chơn Tiên bắt đầu
Samadhi của Ngài ở cõi Niết Bàn. Khi vị Jivanmukta tiến vào trạng thái
Samadhi thì Ngài bắt đầu ở cõi Niết Bàn. Tất cả các cõi dưới đối với Ngài chỉ
là một, Ngài khởi đầu Samadhi ở một cõi mà ít ai đến được. Ngài khởi đầu
tại đó rồi lần lần vươn lên các cõi cao hơn nữa trong Vũ trụ. Cũng thời
Samadhi, mà lúc thì dùng để gọi trạng thái của tâm thức khi nó tiến từ cõi
Niết Bàn là cõi thứ năm sang ở các cõi cao rộng hơn như trường hợp của vị
Jivanmukta.

VỀ SÁCH YOGA
Một điều chẳng may cho những ai không biết tiếng Phạn là các tác phẩm
về Yoga dịch ra tiếng Anh rất ít. Ðành rằng các đại cương về Yoga đều có
trong sách Upanishads và Bhagavad Gita mà một phần đã được dịch, nhưng
các sách nầy chỉ giải thích Yoga một cách tổng quát chớ không giảng dạy
các chi tiết cần thiết. Ngay như quyển Bhagavad Gita tuy dạy các hạnh hi
sinh, bình thản v. v. . . nhưng cũng không chỉ phải làm cách nào để tiến
mau đến mục đích.

Các sách đặc biệt về Yoga là Upanishads (được gọi là một trăm lẻ tám)
nhưng chỉ một số ít sách nầy được dịch.

Kế đó là các Tantras có rất nhiều. Người Anh không ưa các sách nầy,
nhưng họ lầm vì các sách nầy chứa đựng tất cả khoa huyền môn. Tuy nhiên,
chúng nó được chia làm ba phần, một phần về bạch thuật, một phần về hắc
thuật (tà thuật ) và một phần nữa giữa hai thuật chánh và tà mà chúng ta
có thể gọi là xám . Các thuật nầy là những phương pháp nhằm tạo tâm
trạng siêu thức bằng ý chí.

Một sự căng thẳng thần kinh cao độ ( phát sinh bởi sự lo âu hay bệnh
hoạn) có thể gây sự loạn óc. Một sự căng thẳng như thế tạo ra do ý chí có
thể làm cho con người nhận được các rung động siêu vật chất. Ði vào giấc
ngủ không có gì lạ nhưng nhập vào Samadhi là một quyền năng vô giá.
Phương pháp vẫn tương tự, nhưng một đằng thì do những lối thông thường,
một đằng thì do ý chí được rèn luyện. Nhà yogui đã sử dụng được quyền
năng của ý chí và biết sử dụng nó để đạt được những kết quả trù định. Sự
hiểu biết nầy bấy lâu nay

(1) Một người Yogui Ấn Ðộ được một số người Anh tìm thấy trong rừng ở trạng thái Samadhi.
Các người nầy đánh đập ông dữ tợn ông mới trở về thể xác, nhưng rồi ông cũng từ bỏ nó vì ông chết.

được gọi là huyền thuật, một khoa học quan trọng nhất ở thời xưa. Sách
Tantras chứa đựng tất cả khoa ấy. Khía cạnh huyền bí về con người và về
thiên nhiên, những nguyên tắc chỉ dẫn con người tự đổi mới, tất cả những
điều nầy đều có trong Tantras. Nhưng sách nầy lại có một nhược điểm.
Chúng nó rất nguy hiểm cho những ai tập theo chúng mà không có thầy và
nhiều người bị đau nặng là vì vậy. Do đó, Tantras không được quí trọng ở
Âu châu cũng như tại Ấn Ðộ. Một số lớn sách huyền môn lưu hành bên Mỹ
là những đoạn dịch trong các Tantras. Sách nầy còn có một khó khăn khác:
nó dùng tên của một cơ quan trong thể xác để gọi một trung tâm của thể
vía hay thể trí. Nó làm thế vì trung tâm của các thể đều liên lạc với nhau từ
thể nầy đến thể nọ. Do các từ ngữ đều nói về thể xác, nếu bạn không hiểu
rõ để áp dụng nó đúng chỗ thì bạn sẽ đi sai đường và trở nên bệnh hoạn. Ví
dụ một Sutra dạy rằng, nếu bạn tham thiền về một phần nào đó của cái
lưỡi, bạn sẽ thấy được cõi Trung giới. Ðiều đó có nghĩa là khi bạn tham
thiền về hạch mũi nằm phía trên lưỡi thì bạn sẽ nhìn thấy cõi Trung giới.
Như vậy, từ ngữ để gọi một trung tâm nầy lại được áp dụng sai cho một
trung tâm khác. Lối đó được gọi là lối mà mắt và nhằm ngăn cản học viên
đừng theo sách vở mà áp dụng những cách luyện tập nguy hiểm. Người ta
có thể tham thiền suốt đời về cái lưỡi mà chẳng có một kết quả nào, và nếu
họ chú định vào một trung tâm nào đó của thể xác, nhiều tai hại có thể xảy
ra.

Người ta còn dạy tham thiền về cái rún. Ðó có nghĩa là tham thiền về
tùng Thái dương, vì rún và tùng Thái dương liên quan mật thiết. Nhưng
tham thiền về tùng Thái dương có thể đưa đến bệnh loạn thần kinh không
sao chữa được. Những ai đã biết số nạn nhân của lối luyện tập nầy ở Ân Ðộ,
sẽ nhìn nhận không nên tập luyện một mình khi không có thầy giải thích cái
nào nên tập, cái nào nên không.

Một tác phẩm khác của Yoga là Giáo lý của Patanjali . Ðó là một quyển có
giá trị nhưng tôi e nó không giúp ích được nhiều nếu học viên không được
hướng dẫn. Lý do chính yếu là giáo lý nầy chỉ là những đầu đề tổng quát và
những lời giải thích, bình luận thì rất nhiều nhưng chỉ có một phần được
dịch (2); hơn nữa, các lời bình luận chỉ lập lại những chữ khó hiểu mà
không giải thích, do đó, học viên không được giúp đỡ hữu hiệu.

VÀI ÐỊNH NGHĨA


Một vài từ ngữ vì được dùng thường nên cần phải giải thích để tránh sự
lầm lộn. Ðó là những chữ : phát triển, diễn biến, khoa tâm linh và thần bí
học.

Từ phát triển áp dụng cho tâm thức, diễn biến áp dụng cho hình thể.
Theo Herbert Spencer, diễn biến chỉ cái đồng tính trở nên cái dị tính, cái
đơn thuần trở nên cái phức tạp. Nói tâm thức phát triển chớ thực ra đối với
linh hồn hay tâm thức, không có vấn đề tăng trưởng hay tinh luyện. Nó
hoàn thiện trong mọi lúc, và nếu nó biến chuyển là vì nó tìm cách biểu hiện
ra ngoài. Thượng Ðế trong bạn không còn

(2) Ông I.K. Taimni nay đã có dịch và giảng lý toàn bộ trong quyển Khoa học Yoga.

tiến hóa nữa, nhưng Ngài cố biểu lộ quyền năng của Ngài xuyên qua vật
chất mà Ngài tự bao bọc lấy mình và vật chất diễn biến để phụng sự Ngài
hữu hiệu. Ngài chỉ biểu hiện bản thể của Ngài mà thôi. Vì vậy, nhà thần bí
học Ambrose nói : Bạn thế nào thì hãy trở thành như vậy. Lời nói có vẻ mâu
thuẩn nhưng hàm chứa một chân lý quan trọng : ở bên trong bạn như thế
nào, bạn hãy trở thành như vậy ở bên ngoài. Ðó là mục đích của Yoga. Khoa
Tâm Linh dạy thực hiện Ðấng Duy Nhất, Yoga và Thần bí học cũng nhằm đạt
mục đích hợp nhất; nhưng một đằng thì bằng trí huệ, một đằng thì bằng
tình cảm.(3)
( 3) Yoga thật sự là sự hợp nhất với Ðại Ngã bằng nhiều cách. Ðây là một nghĩa hẹp theo quan niệm
của Patanjali.

Hãy xem nhà thần bí. Họ định tâm vào vị họ tôn thờ đến quên hẳn họ, và
trong sự an lạc tuyệt vời của tình thương và lòng sùng kính, họ lìa ngoại
cảnh, đắm mình trong đối tượng của tình thương và được đưa lên Thượng
Ðế bởi một luồng tình cảm dạt dào. Họ không biết vì sao họ đạt được cái
trạng thái cao đẹp đó. Họ chỉ biết có Thượng Ðế và thương yêu Thượng Ðế
nồng nàn. Ðó là sự an lạc và sự vinh quang của nhà thần bí.

Người yogui không hành động như vậy. Họ bước từ bước một và ý thức rõ
ràng những điều họ làm. Họ làm việc với tinh thần khoa học chớ không phải
theo tình cảm. Vì thế, những ai không lưu ý đến khoa học, vì thấy nó khô
khan hay buồn chán thì chưa mở được cái phần thích hợp với Yoga trong
bản chất họ. Người yogui có thể dùng lòng sùng tín như một phương tiện
như Patanjali đã giải thích. Ngài trình bày nhiều phương tiện cần áp dụng,
trong đó lòng sùng tín Isvara là một. Ðối với họ, nhà khoa học, sùng tín
Isvara không phải là mục đích mà là phương tiện nhằm đạt sự định trí. Bạn
thấy rõ ở đây sự cách biệt giữa hai bên. Sùng tín Isvara là con đường của
nhà thần bí dẫn đến sự hợp nhất. Còn người yogui, họ xem lòng sùng tín ấy
như một phương tiện định trí, theo đường lối khoa học của họ. Sự so sánh
trên giải thích rất rõ sự khác biệt giữa thần bí và Yoga. Một đàng xem lòng
sùng tín như một con đường dẫn đến Ðấng họ kính yêu, một đàng dùng nó
để đạt sự định trí. Ðối với nhà thần bí, Thượng Ðế là mục tiêu, là nguồn an
lạc, do đó, họ cố tiến đến Ngài, để hòa hợp với Ngài. Còn nhà yogui sở dĩ họ
chú định vào Thượng Ðế là vì đó là một cách thức định tâm. Một người sử
dụng lòng tôn kính Thượng Ðế như một phương tiện để đạt mục tiêu, một
người xem Thượng Ðế là mục tiêu mà họ cố tiến đến bằng lòng sùng kính.

THƯỢNG ÐẾ Ở NGOÀI VÀ Ở TRONG TA

Ðến đây, chúng ta đề cập tới một vấn đề khác : sự liên quan giữa Thượng
Ðế bên trong và Thượng Ðế bên ngoài chúng ta. Ðối với người yogui, bằng
chứng duy nhất về sự hiện diện của Thượng Ðế là sự tự chứng của Chơn
Ngã, và muốn tìm bằng chứng ấy, con người phải tiêu diệt mọi giới hạn bao
quanh tâm thức để đạt một tâm thức thuần túy ngoại trừ một tấm màn
mỏng làm bằng chất của cõi Niết Bàn. Chừng đó, chúng ta mới ý thức sự
hiện tại của Thượng Ðế. Trong kinh Upanishad có câu : Bằng chứng duy
nhất là bằng chứng của Chơn Ngã, điều nầy khác hẳn phương pháp của
người Tây phương họ cố chứng minh Thượng Ðế bằng lý luận. Người Ấn Ðộ
sẽ nói với bạn rằng sự hiện diện của Thượng Ðế không thể chứng minh bằng
một luận cứ nào cả. Ngài ở trên cao, ở bên ngoài lý luận, và tuy lý luận có
thể hướng dẫn con người, nó không thể chứng minh sự hiện diện của Ngài.
Chỉ có một cách giúp bạn biết Ngài là bạn hãy tiến sâu vào lòng bạn. Ở đó
bạn sẽ tìm được Ngài, đồng thời bạn cũng sẽ thấy Ngài ở bên ngoài nữa.
Yoga là phương pháp vứt khỏi tâm thức những gì không phải là Thượng Ðế,
(ngoại trừ cái màn duy nhất bằng nguyên tử Niết Bàn) để biết một cách
chắc chắn rằng Ngài có. Theo người Ấn Ðộ, đó mới là lòng tin mà lòng tin
nầy vượt qua lý luận và thường bị xem như là sự dại khờ. Lòng tin vượt khỏi
lý trí và được xác nhận bởi Chơn Ngã mà lý trí chỉ là một hiện tượng hời hợt
bên ngoài. Nó phát ra từ đáy lòng do một sự xác tín thâm sâu mà không lời
lẽ nào có thể làm tăng hay giảm được.

Ðó là một niềm tin tuyệt đối. Mục đích của Yoga là giúp bạn đạt tới cái
Chơn Ngã đó, đạt không phải bằng một tia chớp của trực giác mà bằng một
sự tiếp xúc chắc chắn, thường trực, bền bĩ, và khi đạt tới Chơn Ngã rồi thì
con người không còn tự hỏi Thượng Ðế có hay không.
NHỮNG BIẾN ÐỔI CỦA TÂM THỨC

VÀ NHỮNG RUNG ÐỘNG CỦA VẬT CHẤT

Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu tâm thức là Chơn Ngã và các vỏ bên
ngoài của nó mà Chơn Ngã thường đồng hóa với chính mình. Ðặc tính của
tâm thức là biến đổi và tin chắc ở sự thực tại của nó. Niềm tin ấy không bao
giờ thay đổi, ngoài ra tất cả đều biến đổi và chính sự biến đổi nầy tạo nên
tâm thức. Thế thì tâm thức biến đổi mãi quanh một ý niệm bất biến. Sự biến
đổi nầy là sự biến đổi trạng thái chớ vị trí thì bao giờ cũng thế.

Ngoài ra, một sự biến đổi tâm thức còn gây nên một sự rung động tương
ứng ở môi trường vật chất của nó. Vật chất có ba đặc tính điều hòa, động
và tĩnh : sattva, rajas và tamas . Ðiều hòa là những rung động nhịp nhàng,
những làn sóng đều đặn, nó vượt trên tĩnh và động.

Một câu hỏi thường được đặt ra : làm sao hai thứ khác loại như vật chất
và tinh thần mà có thể ảnh hưởng lẫn nhau được ? Có thể nào chúng ta bắc
một chiếc cầu qua cái vực mà Tyndall nói không bao giờ có thể nối liền ? Có
thể được. Người Ấn đã vượt qua, hay nói đúng hơn, họ chứng tỏ vực đó
không có. Ðối với họ, tinh thần và vật chất là hai biến tượng của cái Duy
Nhất. Hơn nữa, khi phân tích sự liên quan giữa tâm thức và vật chất, họ
thấy rằng trong Vũ trụ, Thượng Ðế đã ban cho vật chất một đặc tính là mỗi
lần tâm thức biến đổi thì nó biến đổi theo. Không có một biến đổi nào trong
tâm thức dù vi tế đến đâu mà lại không tạo một rung động tương ứng ở vật
chất. Cũng không có một rung động nào ở vật chất mà không gây một biến
đổi tương ứng ở tâm thức. Ðó là hành động quan trọng đầu tiên của Thượng
Ðế mà khi trình bày sự cấu tạo của nguyên tử, kinh sách Aán Ðộ có nêu ý
nghĩa trong từ ngữ Tanmatra, là chừng mực của cái đó, tiết điệu của tâm
thức.

Như vậy, khi tâm thức tác động trong vật chất, nó bắt buộc vật chất phúc
đáp cho nó bằng rung động. Thế là giữa Chơn Ngã và các thể của nó, có một
tương quan bất di bất dịch : một bên là biến đổi của tâm thức, một bên là
rung động của vật chất và trái lại. Nhờ vậy mà cái Ngã biết được cái Vô Ngã.

Sự tương quan nầy được khai thác trong Raja Yoga và Hatha Yoga. Raja
Yoga cố kiểm soát các biến đổi của tâm thức để nhờ đó mà chủ trị các thể
vật chất. Hatha Yoga trái lại, nhằm kiểm soát các thể vật chất hầu tạo trong
tâm thức những biến đổi mong muốn. Nhược điểm của Hatha Yoga là tác
động của nó không vượt qua khỏi cõi Trung giới. Hơn nữa, vì vật chất có
phần cứng rắn, các cố gắng quá lớn của hành giả có thể làm suy nhược một
vài cơ quan chính mà tác động rất cần để tạo những biến đổi cần thiết trong
tâm thức. Hatha Yoga còn cố dùng ý chí kiểm soát trở lại những cơ quan mà
tâm thức thức tỉnh đã đặt dưới sự chăm nom của tiềm thức và không còn
quan tâm đến nữa. Ðiều đó giúp ngừa bệnh nhưng không đạt được những
mục đích cao hơn. Ngoài ra, khi nó tác động trên các trung tâm thần kinh
liên hệ đến tâm thức hằng ngày, nhất là khi nó nhằm vào những bộ phận
tương ứng với siêu tâm thức, nó trở nên nguy hiểm và có thể đưa đến sự tê
liệt thay vì mở mang.

Chúng ta không sao biết được ngoại cảnh nếu không có sự tương quan
nói trên. Một sự biến đổi xảy ra trong tâm thức luôn tạo một biến đổi ở các
thể, nhờ vậy tâm thức trở nên mẫn cảm hơn đối với ngoại cảnh và cũng nhờ
đó mà tầm hiểu biết của nó đối với ngoại cảnh sẽ mở rộng thêm. Như vậy,
chúng ta có thể nói nhờ có sự tương quan giữa hai phương diện của Ðức
Thượng Ðế duy nhất mà chúng ta biết được cảnh vật bên ngoài một ngày
một sâu rộng.

TRÍ THỨC

Thế nào là trí thức ? Theo quan điểm Yoga, trí thức là toàn thể tâm thức
cá nhân. Nó gồm luôn các hoạt động mà Tâm lý học Tây phương loại ra khỏi
trí thức. Yoga chỉ có thể có được trên căn bản tâm lý Ðông phương.

Tâm thức cá nhân nầy ra sao ? Trước hết, nó biết ngoại vật, kế đó, nó
ham muốn, cuối cùng, nó cố chiếm đoạt. Ðó là ba phương diện của tâm thức
: hiểu biết, ham muốn và hoạt động. Ở cõi Trần vật chất, hoạt động chiếm
ưu thế cạnh bên ham muốn và hiểu biết. Ở cõi Trung giới, ưu thế về phần
ham muốn, còn hoạt động và hiểu biết là phụ thuộc. Ở cõi Thượng giới, tư
tưởng lại quan trọng hơn hai phần kia. Ở cõi Bồ Ðề, lý trí thuần túy chiếm
ưu thế. Ba đức tính luôn luôn hiện diện bên nhau nhưng một cái thì trội hẳn
lên. Ðối với vật chất lệ thuộc, cũng thế. Các thứ chất liệu cấu thành những
thể của bạn đều có các đặc tính : tĩnh, động và điều hòa; và lối hoạt động
của các thể tùy ở số lượng của mỗi thứ chất liệu ấy trong mỗi thể. Ðể luyện
tập Yoga, bạn phải cấu tạo các thể của bạn thế nào cho chúng nó hoạt động
được điều hòa thay vì quá động hay quá tĩnh.

CÁC GIAI ÐOẠN CỦA TRÍ THỨC

Theo Patanjali, sự biến chuyển của trí thức gồm năm giai đoạn và Vyasa
bình luận thêm rằng các giai đoạn đó đều có trong mỗi cõi.

Trong giai đoạn đầu, cái trí lau chau không ngừng (Kshipta); ấy là cái trí
chập chờn của nhân loại ở buổi sơ khai hay của trẻ con luôn luôn dao động.
Giai đoạn ấy tương ứng với hoạt động ở cõi Trần vật chất.

Tiếp theo là giai đoạn do dự, mập mờ (Mudha) của tuổi trẻ bồng bột,
xung động, nhưng biết được cái nhược điểm của mình. Trạng thái nầy cao
hơn trạng thái lau chau của trẻ con và tương ứng với hoạt động của cõi
Trung giới.

Kế đó là trạng thái bận rộn, đam mê (Vikshipta) của những người bị lôi
cuốn bởi ái dục như tình yêu hay tham vọng. Họ không còn băn khoăn, do
dự mà có một mục đích rõ ràng. Họ bị chủ trị bởi một ý tưởng cuồng si hay
anh dũng. Tùy bản chất của ý tưởng, đê hèn hay cao đẹp, chân hay giả, mà
con người trở thành điên cuồng hay thánh thiện. Dù sao, họ bị lôi cuốn
mạnh mẽ và không có một lý luận nào có thể cản giữ họ. Ví dụ, nếu họ nói
họ làm bằng kiếng đi nữa thì họ vẫn khăng khăng tin rằng họ rất mong
manh mà không gì lay chuyển niềm tin ấy được.. Ngoài ý tưởng sai lạc ấy
còn có những ý tưởng cao đẹp tạo nên những bậc anh hùng hay tử đạo.
Trong các trường hợp nầy, con người hi sinh tất cả cho ý tưởng mà họ còn
quí trọng hơn sự sống. Họ bị chủ trị, ám ảnh đến đỗi họ chấp nhận cái chết
một cách rất dễ dàng. Trạng thái nầy được xem như là rất gần Yoga vì tâm
trí được chú định một cách vững vàng dù chỉ với một ý tưởng duy nhất. Nó
tương ứng với hoạt động ở Hạ trí. Ðến đây hành giả trở nên già giặn và sẵn
sàng tiến lên sự Sống thật. Khi con người bị ám ảnh bởi một ý tưởng cao
đẹp, họ tiến gần đến Yoga vì họ vượt trên mọi cám dỗ của cuộc đời, nhưng
chỉ khi nào họ chủ trị được ý tưởng đó thay vì bị ám ảnh, họ sẽ thu đạt được
nhiều kết quả hơn. Giai đoạn nầy tương ứng với hoạt động ở cõi Thượng trí,
đó là giai đoạn thứ tư gọi là Ekagrata.

Giai đoạn thứ năm là giai đoạn Niruddha của những người sống với Chơn
Ngã. Khi một người đã vượt trên những tư tưởng thường tình để theo đuổi
một lý tưởng cao đẹp và có thể chọn lựa hoặc vứt bỏ theo quyết định của ý
chí sáng suốt thì họ đã tuân mệnh lệnh của Chơn Ngã. Giai đoạn nầy tương
ứng với hoạt động ở cõi Bồ Ðề.

Ở giai đoạn thứ ba Vikshipta, khi con người bị một ý tưởng ám ảnh thì họ
học bài học phân biện (Viveka) giữa ngoại cảnh và nội tâm., giữa cái chân
và cái giả. Bài học nầy học xong, họ tiến vào giai đoạn thứ tư Ekagrata để
chọn một ý tưởng duy nhất là sự sống trường tồn. Và khi họ chú định vào ý
tưởng đó thì họ học hạnh buông xả (Vairagya). Họ vượt lên khỏi các dục
vọng nhằm hưởng lạc thú ở cõi nầy hay ở cõi khác. Sau đó họ bước vào giai
đoạn thứ năm để đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chơn Ngã. Muốn đạt mục
đích nầy, họ phải thực tập sáu hạnh gọi là Shatsampatti, sáu hạnh nầy liên
quan tới trạng thái ý chí của tâm thức cũng như Viveka và Vairagya liên
quan đến trạng thái Minh triết và Hoạt động.

Muốn biết bạn đã sẵn sàng thực tập Yoga chưa thì bạn nên quan sát tâm
trí bạn để nhận định các giai đoạn của nó. Nếu bạn còn ở vào hai giai đoạn
đầu thì bạn chưa sẵn sàng. Vào tuổi thơ ấu hay tuổi trẻ, người ta chưa gặp
Yoga được kể cả người còn bận rộn với cuộc đời. Khi bạn chỉ còn có một ý
tưởng mà thôi thì bạn gần đủ điều kiện rồi. Sau đó khi tự mình, bạn có thể
lựa chọn một ý tưởng và quyết tâm thực hiện nó, thì bạn có thể lần lần tiến
đến sự tự chủ hoàn toàn và chấm dứt được mọi sự dao động của tâm trí. Khi
đạt đến mức độ đó thì bạn thực hiện trạng thái Samadhi tương đối dễ dàng.

TÂM THỨC HƯỚNG RA NGOÀI

HAY XOAY VÀO TRONG

Samadhi có hai loại : một thì hướng ra ngoài, một thì xoay vào trong.
Loại đầu luôn luôn đến trước và bạn đạt trạng thái Samadhi của tâm thức
thức tỉnh hướng ra ngoài nầy khi bạn vượt ra khỏi các sự vật để tiến lên các
nguyên lý căn bản của chúng và thoáng thấy được sự sống trường tồn.
Darwin đạt được trạng thái ấy và khi ông ý thức luật tiến hóa. Ðó là
Samadhi hướng ra ngoài hay Samadhi của thể xác. Samadhi nầy được gọi là
Samprajnata Samadhi hay Samadhi với tâm thức, nhưng tôi nghĩ tốt hơn
nên gọi nó là Samadhi với tâm thức hướng ra ngoài, nghĩa là tâm thức hiểu
biết sự vật chung quanh. Khi các sự vật nầy không còn, nghĩa là khi tâm
thức rút khỏi các thể thì con người đạt được Asamprajnata Samadhi hay
Samadhi không tâm thức. Tôi thích gọi nó là tâm thức xoay vào trong vì chỉ
khi nào con người xoay vào trong thì mới đạt được tâm thức nầy.
Hai trạng thái Samadhi đều có ở mỗi cõi, cái nầy tiếp nối cái kia. Ở giai
đoạn đầu, cái trí tập trung mạnh mẽ vào sự vật rồi xuyên qua hình tướng,
nó tiến thêm vào nguyên lý thâm sâu. Kế đó, tâm thức rút khỏi các thể của
nó và quay vào bên trong chính nó ở một cái vỏ khác mà nó chưa được biết.
Lúc đó, trong chốc lát, tâm thức chỉ biết có nó chớ không còn liên hệ đến
bên ngoài. Tiếp theo đó là đám mây nghĩa là sự cảm thức trở lại một cái chi
bên ngoài, nhưng sự cảm thức nầy mù mờ khác hẳn cảm thức hằng có bấy
lâu. Thế rồi cái vỏ mới bắt đầu tác động và chừng đó con người cảm thức
được sự vật của cõi kế trên tương ứng với cái vỏ đó. Ðó là cuộc luân chuyển
của trạng thái Samadhi : Samprajnata Samadhi, Asamprajnata Samadhi,
Megha (đám mây) rồi trở lên Samprajnata Samadhi của cõi kế trên.

ÐÁM MÂY

Ðám mây nói đây là Dharma Megha : đám mây của công lý hay của tôn
giáo. Các nhà bình luận ít khi giải thích nó. Họ chỉ nói rằng những quả tốt
tạo ra ở dĩ vãng tụ tập trên con người và rơi xuống như một đám mưa ân
huệ. Chúng ta cố giải thích rõ ràng hơn.

Từ ngữ mây thường được dùng ở Thần bí học Tây phương. Mây trên núi,
Mây trên Ðền Thánh, Mây trên Ngai từ ái là những lời mà sinh viên huyền bí
học đều biết. Những kinh nghiệm được diễn tả khi thì thông thường được
nhiều người biết, khi thì rất cao, khó hiểu. Khi từ giai đoạn thông thường
tâm thức dần dần rút vào một cái vỏ mà nó chưa hề biết, và khi cái vỏ ấy
tác động, bạn cảm thấy lờ mờ rằng có một cái gì mới lạ bên ngoài. Bạn như
bị vây quanh bởi một đám sương mù; bạn biết bạn không bị cô lập nhưng
bạn không thể phân biệt điều chi cả. Bạn hãy bình tĩnh, hãy kiên nhẫn và
đợi chờ. Hãy để tâm thức bạn lơ lửng như vậy. Không bao lâu mây sẽ tan
dần, và trước đôi mắt ngạc nhiên của bạn, một cõi mới hiện ra lúc đầu chỉ
một phần nhỏ, sau thì trong tất cả sự huy hoàng của nó.

Kinh nghiệm ấy lập đi lập lại nhiều lần cho đến khi nào tâm thức bạn chú
định được vào cõi Bồ Ðề. Tuy nhiên, cái vỏ huy hoàng nầy cũng tan dần khi
tâm thức bạn rút ra khỏi nó để tiến vào một vầng mây thật sự, vầng mây
của Thánh điện bao phủ Ðấng Tối Cao và cũng che giấu Chơn Ngã bạn. Bạn
có cảm giác rằng sự sống lần lần rút ra khỏi bạn, rằng không có một cái gì
vững chắc dưới chân bạn, bạn như bị treo lơ lửng trên không, giữa bóng tối
dày đặc, trong một sự cô đơn khôn tả. Bạn hãy cố chịu đựng vì những nỗi
ghê sợ đó rồi cũng sẽ qua. Sự vĩnh cửu sẽ cứu vớt bạn. Thượng Ðế sẽ hiện
rực rỡ trong sự vắng lặng. Người Hébreux nói : Hãy im lặng và biết Ta là
Thượng Ðế. Trong sự vắng lặng, một tiếng nói sẽ trổi lên ấy là Tiếng nói của
Chơn Ngã. Trong sự an tĩnh đó, một sự Sống sẽ hiện ra, ấy là sự Sống của
Chơn Ngã. Trong sự rỗng không đó, một sự Ðầy Ðặn sẽ được cảm thấy, ấy là
sự Ðầy Ðặn của Chơn Ngã. Trong sự tối tăm đó, một ánh sáng sẽ chói lên,
ấy là Aùnh sáng của Chơn Ngã. Thế rồi đám mây sẽ tan và sự vinh quang
của Chơn ngã sẽ bừng lên. Cái huy hoàng xa vời mà bạn đã thoáng thấy
trước kia nay đã trở nên một sự thật thường tồn. Sau cùng, biết được Chơn
Ngã và ý thức được bạn là một với Nó, bạn sẽ bước vào một cõi Bình An mà
chỉ Chơn Ngã mới có được mà thôi.

BÀI DIỄN T H U Y Ế T II

CÁC MÔN PHÁI YOGA Ở ẤN ÐỘ

Sinh viên Tâm lý học, khi đã biết Phạn ngữ thì nhìn nhận rằng tiếng nầy
rất quí báu cho những ai muốn khảo cứu khoa Tâm lý một cách chính xác.
Tiếng Phạn là một thứ tiếng khéo léo, uyển chuyển nên rất hợp cho sự trình
bày các vấn đề tâm lý khó khăn. Chỉ với hình thức của nó, biết bao lần, một
chữ có thể đưa ra một nghĩa bóng, một lời giải thích hay một sự liên hệ.
Theo cách cấu tạo của nó, một chữ có thể khiến bạn liên tưởng đến nhiều
sự kiện. Trong tiếng Phạn, ngữ căn thì ít nhưng chuyển từ thì rất nhiều.

Yoga có nghĩa là to join (liên kết), jug , và ngữ căn nầy được thấy trong
nhiều thứ tiếng như trong tiếng Anh chẳng hạn, qua sự trung gian của tiếng
La tinh jugare, junger (nối liền) . Một loạt chữ xuất xứ từ ngữ căn nầy như
junction, conjunction, disjunction (nối liền, tiếp nối, đứt đoạn) v. v. . . . Chữ
Anh Yoke cũng do ngữ căn ấy mà ra. Nhờ vậy, xuyên qua những chữ, những
sự kiện liên hệ đến ngữ căn ấy bạn có thể nhận định ý nghĩa của chữ Yoga
và tác dụng rộng lớn của nó trong sự diễn tả tư tưởng; ngoài ra, các chuyển
từ của nó còn hướng dẫn bạn đến ý nghĩa thâm sâu của nó. Ở nhiều thứ
tiếng khác như tiếng Pháp, chúng ta có chữ rapport (liên hệ) và chữ nầy
cũng rất thông dụng trong Anh ngữ. Being en rapport là một thành ngữ
Pháp được gia nhập mật thiết vào tiếng Anh nên được dùng hằng ngày giữa
chúng ta. Dưới nhiều khía cạnh, chữ nầy rất giống chữ Yoga và có nghĩa là
liên hệ, bước vào, nhập vào, v.v. . . Các ý tưởng nầy đều nằm trong phạm vi
Yoga.

Khi bằng tiếng Phạn, Shri Krishna nói : Yoga là sự quân bình, Ngài nói
một điều rất hiển nhiên vì Yoga bao hàm cái nghĩa quân bình, kết hợp
(samvata). Vậy lời nói của Ngài rất đơn giản rõ ràng vì Ngài chỉ nói lên ý
nghĩa của một chữ thông thường mà thôi, chớ không có gì sâu sắc. Còn một
câu khác cũng thế. Câu nầy dùng để giải thích một sutra mà tôi có nêu lên
tuần trước, và nó rất đơn giản và rõ ràng đối với người Ấn : Yoga là
Samadhi. Ðối với người không biết tiếng Phạn, câu nầy có vẻ mù mờ và cần
giải thích từng chữ một. Nhưng người thông hiểu tiếng Phạn thì biết hai chữ
Phạn ấy liên hệ với nhau chặt chẽ. Bởi vì Yoga là kết hợp, còn chữ Samadhi
phát xuất từ ngữ căn dha , là đặt vào, và hai chữ sam và a , có nghĩa kết
hợp hoàn toàn . Vậy Samadhi là đặt vào trạng thái kết hợp hoàn toàn, nói
cách khác, Samadhi là tập trung tư tưởng, là định trí, là tránh mọi sự tản
mác. Như vậy, trên cả hai phương diện ngôn ngữ và thực tế, Yoga và
Samadhi kết liền nhau. Khi nhà bình luận Vyasa nói : Yoga là sự định trí ,
Ngài trình bày một ý niệm rất rõ ràng và chính xác về nội dung chữ ấy. Chữ
Samadhi lần lần được dùng để gọi sự xuất thần (kết quả của sự đại định),
dù sao, ta không nên quên ý nghĩa nguyên thủy của nó.

Khi giải thích khoa Yoga, thường người ta không tìm được trong tiếng
Anh những từ ngữ hàm súc tương đương với Phạn ngữ, vì vậy tôi thành thật
khuyên các bạn nếu có thể thì nên học thứ tiếng nầy để hiểu rõ các tác
phẩm Yoga.
SỰ LIÊN QUAN CỦA YOGA

VỚI CÁC MÔN PHÁI TRIẾT HỌC ẤN

Trước tiên, tôi xin trình bày hai môn phái triết học Ấn Ðộ, vì hai triết lý
nầy là nền móng của các sách Yoga mà một phần được dịch ra Anh ngữ và
phổ biến ở đây cũng như ở Phương Tây.

Ta hãy xem qua quyển Bhagavad Gita trước. Trong các bạn hiện diện
người Anh cũng như người Ấn, chắc ai cũng biết những lời vàng ngọc của
quyển sách nầy và căn cứ vào nó để trau tâm sửa tánh. Tuy nhiên, quí bạn
sẽ không hiểu nó được rõ ràng nếu không biết nó căn cứ trên một nền triết
lý Ấn Ðộ đặc biệt : triết lý Samkhya, và nhận định rằng gần hết các thuật
ngữ chuyên môn của nó đều có những ý nghĩa được định trong hệ thống
triết lý nầy. Ngoài vài câu liên hệ đến triết học Vệ Ðà, tất cả tư tưởng trong
đó đều thuộc môn phái Samkhya, và độc giả được xem như đã biết đại
cương học thuyết nầy. Tôi không muốn đi sâu vào chi tiết nhưng tôi cần
vạch rõ những đại cương của thuyết nầy để quí bạn hiểu quyển Bhagavad
Gita rõ ràng hơn và áp dụng nó hữu hiệu hơn trong sự thực tập Yoga.

Trong quyển Bhagavad Gita cũng như trong Yoga Sutras của Patanjali
các từ ngữ đều là Samkhya, và trên phương diện lịch sử, Yoga hay ít lắm là
triết lý của nó đều căn cứ trên học thuyết Samkhya. Thuyết nầy không bận
tâm đến sự hiện hữu của Thần linh mà chỉ tìm hiểu sự trở thành của Vũ trụ
và trật tự của sự tiến hóa nầy. Bởi vậy nó thường được gọi là Nirisvara
Samkhya nghĩa là Samkhya vô thần, nhưng nó liên hệ mật thiết với Yoga
đến đỗi Yoga được gọi là Shesvara Samkhya tức Samkhya hữu thần. Ðể
được rõ ràng, tôi sẽ trình bày một phần triết lý Samkhya, phần nói về sự
liên quan giữa Tinh thần và Vật chất; kế đó, tôi sẽ nêu rõ sự khác biệt giữa
triết lý ấy và quan niệm về các Ngã và Vô Ngã của môn phái Vệ đà. Sau
cùng, chúng ta sẽ xem Thông Thiên Học dung hòa hai quan niệm dị đồng ấy
như thế nào.
Những lời lẽ của vị Chủ tể Yoga trong Bhagavad Gita đôi lúc có vẻ mâu
thuẩn vì từ ngữ sử dụng khi thì lấy ở Samkhya, khi thì mượn ở Vệ đà, mà
hai học thuyết ấy lại nhìn cuộc đời khác nhau, một đằng thì dưới khía cạnh
vật chất, một đằng thì trên phương diện tinh thần. Nếu bạn là sinh viên
Thông Thiên Học, bạn có thể hiểu rõ ràng những lời lẽ nầy. Ðề tài mà tôi
trình bày cùng quí bạn hôm nay nhằm dung hòa và hiểu rõ những lời lẽ có
vẻ mâu thuẩn ấy.

Phái Samkhya khởi đầu tuyên bố rằng Vũ trụ là kết quả của hai yếu tố
đối chọi nhau : Tinh thần và Vật chất hay đúng hơn là Linh hồn và Vật chất.
Linh hồn là Purusa, con người, và mỗi linh hồn là một cá thể. Purusa là một
đơn vị : đơn vị tâm thức. Chúng cùng chung một bản chất nhưng lại mãi mãi
khác nhau. Các đơn vị ấy, các Purusa ấy nhiều vô số trong cõi con người,
nhưng tuy đông đảo như thế, chúng nó đồng một bản chất. Mỗi Purusa có
ba đặc tính và ba đặc tính nầy luôn luôn giống hệt nhau. Ðặc tính thứ nhất
là ý thức , nó sẽ trở thành quyền năng Hiểu Biết. Ðặc tính thứ hai là sự sống
hay Prana, nó sẽ trở thành Hoạt Ðộng. Ðặc tính thứ ba là sự bất biến, tinh
hoa của vĩnh cửu, nó sẽ trở thành Ý Chí . Vĩnh cửu không phải là thời gian
vô tận như nhiều người lầm tưởng. Thời gian vô tận không có gì là vĩnh cửu
hết. Ðó là hai điều khác hẳn. Nó không phải là thời gian tiếp nối dù là tiếp
nối như vô tận. Purusa có tính cách bất biến nên nó vĩnh cửu bởi vì sự bất
biến là đặc tính của vĩnh cửu.

Ðó là ba đặc tính của Purusa trong học thuyết của Samkhya. Chúng
không mang tên Sat, Chit, Ananda được dùng trong phái Vệ đà nhưng đồng
nghĩa với các chữ nầy. Ý thức hay quyền năng hiểu biết là Chit , sự Sống
hay sức mạnh là Sat và sự bất biến (tinh hoa của vĩnh cửu) là Ananda.

Ðối lập với Purusa là những đơn vị đồng tính và nhiều vô số, thì có
Prakriti là Vật chất. Ðó là yếu tố thứ nhì trong nhị nguyên của phái
Samkhya. Prakriti thì duy nhất còn Purusa thì vô số. Prakriti có tính cách
liên tục còn Purusa thì gián đoạn, vì nó là số nhiều và là những đơn vị riêng
rẽ. Liên tục là dấu hiệu của Prakriti.
Chúng ta hãy ngừng lại ở chữ nầy trong chốc lát để tìm hiểu ý nghĩa
nguyên thủy của nó. Pra có nghĩa là ra ngoài và ngữ căn kri có nghĩa là
làm . Vậy Prakriti là làm ra. Vật chất là yếu tố giúp vào sự trở thành của cái
thức tại. Cái thực tại (existence) là do vật chất. Chữ làm ra đủ nói lên tinh
hoa của vật chất. Chỉ có Vật chất giúp Linh hồn hay Purusa tự làm ra hay
biểu hiện . Không có Prakriti, Purusa sẽ là một ý niệm trừu tượng và sẽ bất
động. Nó chỉ có thể biểu lộ quyền năng của nó nhờ sự hiện diện của Prakriti
và trong Prakriti. Prakriti cũng có ba đặc tính là gunas mà ai ai cũng biết;
đó là điều hòa, động và tịnh. Ðiều hòa giúp khả năng hiểu biết trở thành
kiến thức. Ðộng giúp sự sống trở thành hoạt động . Tịnh giúp sự bất biến
trở thành ý chí.

Sự liên quan giữa Tinh thần và Vật chất là một quan niệm rất đặc biệt
cần phải hiểu rõ hầu tránh mọi sai lầm. Nếu bạn nắm vững nó thì Bhagavad
Gita trở nên sáng tỏ và những lời nói về hành động, người hành động và các
điều lầm lẫn về câu tôi hành động sẽ trở nên dễ hiểu vì các từ ngữ ấy diễn
tả những tư tưởng riêng biệt của phái Samkhya.

Khi Prakriti ở riêng rẽ một mình, ba đặc tính của nó ở vào trạng thái
quân bình, bất động và trung hòa lẫn nhau, thế nên Vật chất được xem là
Jada, vô thức, chết. Nhưng khi có Purusa thì tất cả thay đổi. Khi Purusa gần
gũi với Vật chất thì một sự biến đổi xảy ra không phải bên ngoài vật chất
mà ở trong nó.

Vyasa nói rằng Purusa tác động ở Prakriti bằng sự gần gũi . Khi nó đến
kế bên Prakriti thì Prakriti bắt đầu sống. Chữ gần gũi chỉ là một cách nói
quen với ý niệm của chúng ta về không gian và thời gian chớ thật sự không
thể áp dụng cho Purusa là một nguyên lý ngoại thời gian và không gian.
Chữ gần gũi đây chỉ cái ảnh hưởng của Purusa trên Prakriti, và nếu đối
tượng là những đồ vật thì ảnh hưởng ấy chỉ có là khi nào chúng nó đặt gần
gũi nhau. Nếu một thanh nam châm được đặt gần một cục sắt, hay một vật
được truyền điện đặt gần một vật trung hòa thì một sự biến đổi xảy ra
trong cục sắt hay trong vật trung hòa. Sự gần gũi làm thanh nam châm biến
cục sắt thành một nam châm với những đặc tính được biết : nó có hai cực
hút thép, hút vào hay đẩy ra đầu kim điện. Trước sự hiện diện của một vật
chứa đựng điện, điện trong một vật trung hòa biến đổi : dương điện thì rút
đi còn âm điện thì tụ họp gần vật chứa dương điện. Thế thì trong hai trường
hợp, một sự biến đổi xảy ra do sự gần gũi của một vật khác.

Ðối với Purusa và Prakriti thì cũng thế. Purusa vẫn bất động nhưng nó
tỏa ra một ảnh hưởng tương tự ảnh hưởng của nam châm và tạo ra ở gunas
một sự biến đổi phi thường. Tôi không biết dùng từ ngữ nào để diễn tả nó
một cách chính xác. Bạn không thể nói Prakriti hấp thụ ảnh hưởng ấy. Họa
chăng bạn có thể nói nó phản ảnh Purusa. Dù sao sự hiện diện của nó tạo
những biến đổi nội tại và phá vỡ quân bình của ba gunas. Trước kia ba
gunas nầy ở vào trạng thái quân bình, không cái nào nổi bật, cái nầy thăng
bằng với cái kia. Việc gì xảy ra khi Purusa ảnh hưởng Prakriti ? Cái đặc tính
ý thức ở Purusa mà tôi đã gọi là quyền năng hiểu biết, khởi động hay phản
ảnh ở Sattva (điều hòa) và trở thành tri thức trong Prakriti. Cái đặc tính mà
chúng ta gọi là sự sống trong Purusa khởi động hay phản ảnh ở Rajas
(động) và trở thành khí lực, hoạt động trong Prakriti. Cái đặc tính mà chúng
ta gọi là bất biến trong Purusa cũng khởi động và phản ảnh ở Tamas (tịnh)
và trở thành dục vọng hay ý chí trong Prakriti. Như vậy, sự quân bình ở
trong Prakriti đã được biến đổi bởi sự gần gũi hay sự hiện diện của Purusa.
Purusa không mất mát gì cả mà lại tạo được sự biến đổi sâu rộng trong vật
chất vì sự hiểu biết, khí lực và ý chí đã hiện ra. Ðồng thời trong Prakriti có
một sự biến đổi khác. Chúng ta biết ba đặc tính của Purusa không thể tách
lìa, ba đặc tính của Prakriti thì cũng thế. Vì lẽ đó, khi đáp ứng với ý thức thì
sự điều hòa tự nhiên cũng chịu ảnh hưởng của hai đặc tính kia, và thu nhận
phần nào sự sống và sự bất biến qua trạng thái hoạt động và ý chí. Với
động và tịnh cũng thế. Vì vậy, trong mọi thể dung hợp, ba đặc tính đều có
đủ nhưng đặc tính nầy trội hơn đặc tính kia, khi thì ý thức và điều hòa, khi
thì sự sống và động, khi thì bất biến và tịnh. Những thể dung hợp nào mà ý
thức và điều hòa trội thì trở thành cái trí trong thiên nhiên nghĩa là chủ thể
trong thiên nhiên. Các thể dung hợp nào mà một trong hai đặc tính kia trội
hơn thì trở thành đối tượng trong thiên nhiên, nghĩa là khí lực và vật chất
trong khoa học Tây phương.

Như thế, thiên nhiên được chia ra làm hai phần : chủ thể và đối tượng, và
chứa đựng đủ mọi thứ cần cho sự biểu lộ hoạt động, sự tạo thành hình thể
và sự phát triển tâm thức. Như vậy, chúng ta có trí thức, khí lực và vật chất.

Bây giờ, Purusa không còn làm gì nữa vì nó đã xạ vào Prakriti trọn quyền
lực của nó. Nó đứng riêng qua một bên, bất biến và nhìn xem các quyền lực
của nó tác động để tạo thành muôn vàn sắc tướng. Sự sinh tồn diễn tiến
trong vật chất, còn Purusa thì chỉ ngồi nhìn. Nó là khán giả chớ không phải
là diễn viên. Diễn viên là phần chủ động của thiên nhiên, nó là phần trí
thức, phản ảnh của quyền năng hiểu biết trong vật chất điều hòa. Dụng cụ
của nó (ấy là phần đối tượng trong thiên nhiên) là phản ảnh các đặc tính
khác của Purusa (sự sống và sự bất biến) trong hai gunas động và tịnh.
Như vậy, thiên nhiên có đủ các yếu tố cần thiết cho sự xây dựng vũ trụ.
Trước công cuộc xây dựng nầy, vai trò của Purusa là nhìn xem. Nó chỉ là
khán giả chớ không giữ một vai trò nào.

Ðó là ý niệm nổi bật nhất trong Bhagavad Gita. Thiên nhiên đảm nhiệm
tất cả. Chính các gunas làm ra Vũ trụ. Người nào nói tôi làm , người ấy nói
sai. Chỉ có gunas tác động chớ không phải anh. Anh chỉ dự kiến mà thôi.
Một phần lớn giáo lý của Gita đều căn cứ trên quan niệm nầy của phái
Samkhya và những ai không biết điều nầy không sao hiểu được ý nghĩa
tiềm tàng trong giáo lý đặc biệt ấy.

Bây giờ chúng ta xét qua học thuyết Vệ đà. Theo học thuyết nầy, cái Ngã
là một hiện diện khắp cùng và thấm nhuần tất cả, ấy là cái thực tại duy
nhất. Ngoài cái Ngã, không có cái gì cả, đó là khởi điểm của Vệ đà. Thấm
nhuần tất cả, chủ trị tất cả, phấn khích tất cả, cái Ngã hiện diện khắp nơi.
Cũng như dĩ thái thấm nhuần vạn vật, cái Ngã duy nhất, thấm nhuần, chủ
trị, nâng đỡ và nuôi sống tất cả. Giống như không khí lan tràn khắp nơi, cái
Ngã cũng ở khắp cùng trong vạn vật. Khi chúng ta theo dõi các tư tưởng
chính yếu của Vệ đà để tìm hiểu cái Ngã duy nhất, đại đồng, toàn năng,
toàn tri và toàn phúc (Sat Chit Ananda), chúng ta được đưa vào một lãnh
vực triết lý cao hơn học thuyết Samkhya. Cái Ngã là Duy Nhất. Khắp nơi, cái

Ngã ý thức, thực tại và phúc lạc (4). ((4) Sat Chit Ananda : toàn năng, toàn tri,

toàn phúc). Ba đặc tính ấy của cái Ngã không thể chia lìa được. Nó ở khắp
nơi, hiện diện khắp chốn. Không có một chỗ nào mà bạn có thể nói : Cái Ngã
không có ở đây, và chỗ nào có cái Ngã thì có sự thực tại, tâm thức và an lạc.
Là tâm thức, cái Ngã tạo ra giới hạn, chia rẽ, và do đó mà có vạn thù và vô
số sắc tướng khác biệt. Vật chất là sự giới hạn mà cái Ngã tự đặt cho mình.
Ekoham, bahu syam . Ta là một và ta muốn trở thành số nhiều. Ðó là tư
tưởng của Ðấng Duy Nhất và từ tư tưởng nầy, Vũ trụ thiên hình vạn trạng
hiện ra. Trong sự giới hạn mà cái Ngã tự đặt cho mình, nó thực tại, ý thức
và phúc lạc. Do cái tư tưởng thực tại của nó mà mọi thực tại phát sinh. Bởi
vì Nó muốn biểu hiện nên mọi sự biểu hiện mới có. Bởi vì ở Nó, có sự toàn
phúc mà luật sống và đặc tính của mọi sinh vật hữu tình là sự tìm hạnh
phúc. Vũ trụ sở dĩ có là do cái tư tưởng tự giới hạn của Nó. Khi nào nó
không còn chú định đến tư tưởng ấy nữa thì Vũ trụ tan rã như một giấc mơ.
Ðó là quan niệm chính yếu của môn phái Vệ đà. Như vậy, môn phái nầy
chấp nhận các Purusa, nhưng cho rằng, các linh hồn nầy là phản ảnh của
cái Ngã duy nhất và được cấu tạo do sự hoạt động của Nó. Chúng là hình
ảnh nhỏ bé của cái Ngã với tất cả những hạn chế đã nói. Thoạt tiên, chúng
dường như là các phần tử của cái Ngã ấy. Chính hoạt động của cái Ngã tạo
các giới hạn và đặt trong đó các đặc tính thu hẹp của nó. Tâm thức của Ðại
Ngã tối thượng trở thành quyền năng hiểu biết trong cái Ngã nhỏ bé. Sự
thực tại của Ðại Ngã trở thành hoạt động hay quyền năng biểu hiện. Sự
toàn phúc của Ðại ngã trở thành ý chí, một khí lực hùng dũng hướng đến
hạnh phúc. Như vậy, trong cái Ngã hạn cuộc đều có quyền năng hiểu biết,
quyền năng hoạt động và quyền năng ham muốn là những phản ảnh các
đặc tính của Ðại Ngã. Nói cách khác, cái ý thức đại đồng trước kia bây giờ
trở thành sự hiểu biết trong cái Ngã riêng biệt, cái nhận thức về toàn thể
trở thành quan năng hiểu biết của mỗi cá nhân.
Ðối với sự thực tại của Ðại Ngã cũng thế. Sự thực tại ấy, ở tiểu ngã, trở
thành sự hoạt động nhằm bảo vệ sự thực tại của chính nó. Sự toàn phúc của
Ðại Ngã trở thành, ở tiểu ngã, ý chí tìm hạnh phúc và quyết định tự thực
hiện với những khí lực của sự sống con người.

Như vậy, nếu có sự khác biệt giữa Ðại Ngã và tiểu ngã là vì các đặc tính
của Ðại Ngã đều bị giới hạn. Tinh hoa thì hệt nhau nhưng sự hiểu biết thì
khác. Chúng ta có quyền năng hiểu biết, quyền năng ý chí và quyền năng
hành động, là ba quyền năng chính yếu của Ðại Ngã, chúng hiện diện ở
những cái Ngã riêng rẽ trong tất cả sắc tướng từ sinh vật tí ti đến Thượng
Ðế cao cả.

Theo học thuyết Samkhya vì Purusa tự đồng hóa với môi trường vật chất
của nó, nó mới lầm lạc và mất hết tự do. Vệ đà cũng dạy như vậy : cái Ngã
vốn là tự do, nhưng nếu nó tưởng tượng bị giam nhốt trong vật chất và tự
đồng hóa với các giới hạn của nó, thì nó cũng lầm lạc và sa vào Maya (ảo
ảnh), vì Maya phát sinh từ sự đồng hóa của cái Ngã với các giới hạn của nó.
Nếu con người không lầm lạc thì sự tự do vĩnh cửu không thể bị vật chất
hạn chế; sự tinh khiết vĩnh cửu không thể bị vật chất làm nhơ; sự sáng suốt
vĩnh cửu không thể bị vật chất làm mờ; sự cương quyết vĩnh cửu không thể
bị vật chất bẻ gãy. Chính sự lầm lạc của nó giới hạn quyền lực sẵn có của
nó. Nó bị trói buộc vì nó tưởng tượng bị trói buộc; nó ô trược vì nó tượng
tượng nó ô trược; nó ngu dốt vì nó tưởng tượng nó ngu dốt. Khi ảo ảnh đó
tan đi thì nó thấy nó tự do, tinh khiết và minh triết đời đời.

Sự khác biệt lớn lao giữa Samkhya và Védanta là trong Samkhya Purusa
nhìn xem chớ không bao giờ tác động; và trong Védanta thì chỉ có Ngã hành
động, còn tất cả là Maya. Kinh Upanishad dạy : cái Ngã muốn thấy, liền có
mắt; cái Ngã muốn nghe, liền có tai; cái Ngã muốn suy tư, liền có trí. Mắt,
tai, trí sở dĩ có là vì các Ngã muốn chúng nó có. Cái Ngã sử dụng vật chất là
để biểu hiện quyền năng của nó. Trong Samkhya, sự hiện diện của Purusa
phát động ở vật chất các đặc tính, nhưng hành động thì chính là Prakriti
hành động chớ không phải Purusa. Trong Vệ đà thì có cái Ngã và chính cái
Ngã hành động. Nó nghĩ đến sự giới hạn thì vật chất hiện ra và nó dùng vật
chất ấy để biểu hiện khả năng của nó.

Phái Samkhya nhìn Vũ trụ theo quan điểm khoa học, còn phái Vệ đà thì
nhìn dưới khía cạnh của huyền học. Vô tình, Hackel trình bày một học
thuyết gần giống như học thuyết Samkhya, gần đến đỗi nếu ông thêm vào
một ý nữa thì học thuyết của ông trở thành học thuyết Samkhya. Ông
không nói gì về sự hiện diện của Purusa mà chỉ biết có khí lực và vật chất.
Theo quan điểm người Ấn, quyển sách chót của ông trình bày gần như đầy
đủ triết lý Samkhya. Cái nhìn của ông là cái nhìn của nhà khoa học, ông chỉ
ghi mọi sự kiện mà không hỏi tại sao. Còn phái Vệ đà, như tôi đã nói, có cái
nhìn của nhà huyền học : họ cố tìm sự duy nhất, nơi phát sinh và trở về của
tất cả mọi khác biệt.

Thông Thiên Học có thể soi sáng phần nào hai học thuyết đó chăng ? Có
thể, bằng cách diễn tả Vũ trụ đúng với thực trạng của nó. Nó sẽ giúp học
giả dung hòa những dữ kiện phiến diện và có vẻ trái nhau. Với thuyết Vệ
Ðà, Thông Thiên Học chấp nhận Ðại Ngã và tất cả những gì trong thuyết ấy
nói về cái Ngã đại đồng và cái Ngã giới hạn. Chúng tôi gọi cái Ngã giới hạn
nầy là Chơn Thần và chúng tôi nói như thuyết Vệ Ðà rằng Chơn Thần là một
phần của Ðại Ngã và bản chất của nó là bản chất của Ðại Ngã. Các Chơn
Thần ấy là những đơn vị. Chúng ta có thể xem như là Purusa, ngoại trừ một
khác biệt lớn : chúng chẳng những ngắm xem mà còn hoạt động thật sự
trong năm cõi của Vũ trụ. Chúng vừa nhìn vừa điều khiển diễn viên trên sân
khấu. Trong vũ trụ vật chất, chúng nó chọn những nguyên tử tương ứng với
các đặc tính của chúng và trong các nguyên tử đó, chúng suy tư, mong
muốn và hoạt động. Chúng chọn những thể hổn hợp nào có đặc tính điều
hòa để biểu hiện quan năng hiểu biết. Chúng chọn thể nào có đặc tính động
để biểu hiện quan năng hoạt động. Chúng chọn thể nào có đặc tính tĩnh để
biểu lộ ý chí phúc lạc.

Chúng ta hãy ghi nhận sự khác biệt trong lời nói cũng như trong tư
tưởng. Theo phái Samkhya, vật chất chuyển biến để phản ảnh tinh thần. Sự
thật thì tinh thần thu nhận những mảnh vật chất thích ứng để biểu lộ đặc
tính của nó. Ðó là một sự khác biệt lớn. Ðể tự biểu hiện, tinh thần tạo một
diễn viên và diễn viên đó là con người tâm linh của Thông Thiên Học với ba
thể : Atma, Buddhi, Manas. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề nầy.

Chơn Thần bao giờ cũng ở bên trên năm cõi của Vũ trụ, vì vậy, nó được
coi như là khán giả. Nó ở trên cõi Niết Bàn hay cõi Akasic, trên cõi Bồ Ðề
hay cõi của Vayu, trên cõi Thượng giới hay cõi của Agni, trên cõi Trung giới
hay cõi của Varuna, trên cõi Hồng trần hay cõi của Kubera. Chơn Thần ngự
trên tất cả cõi nầy, tự ý thức lấy mình và quyết định do mình. Nó ở trong sự
bình an đời đời và sống trong vĩnh cửu. Nhưng như đã nói ở trên, nó thu
nhận vất chất. Nó lấy một nguyên tử của cõi Niết Bàn và đặt ý chí vào trong
đó để tạo thành Atma. Nó lấy một nguyên tử của cõi Bồ Ðề và phản chiếu
quan năng hiểu biết của nó để tạo thành Buddhi. Nó lấy một nguyên tử của
cõi Thượng giới và đưa vào đó sự hoạt động của nó để tạo thành Manas. Thế
là chúng ta có Atma, Buddhi và Manas, cái tam thể ấy là phản ảnh của Chơn
Thần trong năm cõi của Vũ trụ, còn Chơn Thần thì ngự ở bên trên. Ðó là sự
việc xảy ra trong thiên nhiên.

Những từ ngữ tương đương với từ ngữ Thông Thiên Học cũng có ở các
môn phái khác. Chơn Thần của Thông Thiên Học là Jivatma ở triết lý Aán
Ðộ, là Purusa của Samkhya, là cái Ngã tách biệt của Vệ đà. Sự biểu hiện của
bộ ba Atma, Buddhi, Manas là do sự thân cận của Purusa cạnh Prakriti ở
triết lý Samkhya, là cái Ngã trong cái thể cao nhất của học thuyết Vệ đà. Ở
học thuyết nầy, bạn có cái Ngã và các vỏ, trong hệ thống kia bạn có chủ thể
là phản ảnh Purusa trong vật chất. Như vậy, sự việc vẫn giống nhau nhưng
được nhìn dưới những quan điểm khác. Chúng ta gần với Vệ đà hơn là với
Samkhya, nhưng nếu chúng ta hiểu rõ ràng sự việc, chúng ta có thể đặt các
giáo lý của hai phái vào đúng chỗ mà không sợ lầm lẫn. Hãy nhận định rõ sự
việc rồi bạn sẽ nắm vững lý thuyết. Ðó là giá trị của giáo lý Thông Thiên
Học, nó trình bày sự việc rồi để mặc bạn nghiên cứu. Như vậy, bạn có một
cây đuốc trong tay thay vì lần mò trong bóng tối.
Bây giờ, khi chúng ta biết bản chất của con người tâm linh hay tam thể
thượng, chúng ta sẽ thấy gì ở các sự biểu hiện của tâm thức ? Chúng ta sẽ
thấy nó hiện ra khắp nơi trong năm cõi dưới trạng thái Tinh thần Vật chất.
Nhà bác học gọi nó là vật chất được tinh thần hóa, còn nhà huyền học gọi
nó là tinh thần được vật chất hóa. Lời nào cũng đúng hết nếu bạn nhớ rằng
hai nguyên lý ấy luôn luôn hiện diện ở mọi sự biểu hiện chớ không phải chỉ
có vật chất mà thôi, và hai nguyên lý ấy kết hợp chặt chẽ suốt thời gian
biểu hiện. Vậy khi bạn đọc ở một quyển sách xưa, câu trí thức là vật chất
bạn sẽ không bối rối vì bạn biết tác giả nói theo quan điểm của Samkhya và
phái nầy quan niệm rằng vật chất chỗ nào cũng có, đồng thời luôn luôn ám
chỉ sự hiện diện của tinh thần cần thiết cho vật chất tác động. Nhưng khi
bạn gặp câu trí thức là vật chất bạn đừng lộn nó với câu trái ngược lại của
phái duy vật : trí thức là sản phẩm của vật chất, hai ý niệm ấy khác hẳn.
Phái Samkhya đặt nặng vấn đề vật chất nhưng luôn luôn nói đến ảnh hưởng
linh động của tinh thần, còn phái duy vật thì quả quyết tinh thần là sản
phẩm của vật chất. Giữa đôi bên, từ ngữ có thể giống nhau nhưng sự thật
thì có một cái hố rất rộng.

TRÍ THỨC

Patanjali nói : Yoga là sự diệt trừ tác động của cái trí. Ðể hiểu lời nầy,
chúng ta nhìn xem các triết lý Ấn Ðộ quan niệm trí thức như thế nào ?

Theo nghĩa rộng, trí thức có ba đặc tính chính yếu : hiểu biết, ham muốn
hay ý chí và hoạt động. Nhưng Yoga không bao gồm cả ba đặc tính mà chỉ
chú ý đến một đặc tính thôi : sự hiểu biết, chủ đề của phái Samkhya. Tuy
nhiên, như chúng ta đã thấy, chúng ta không thể tách rời quyền năng hiểu
biết ra khỏi hai đặc tính kia vì tâm thức là một đơn vị. Vậy chúng ta tìm
hiểu đặc tính hiểu biết, chớ thật sự chúng ta không thể phân hẳn nó ra. Vì
lẽ đó, khi nhà tâm lý Ấn Ðộ nghiên cứu đặc tính nầy thì chia nó ra làm ba,
còn phái Vệ đà thì chia làm bốn (ở đây tôi tưởng có sự lầm lạc). Ðọc sách Vệ
đà về cái trí, bạn thấy người ta gọi nó bằng một từ được dịch ra là cơ quan
bên trong. Từ ấy là antah karana và dùng để chỉ cái trí nhưng áp dụng cho
phần hiểu biết mà thôi, ngoại trừ hai phần kia là ham muốn và hoạt động.

Người ta nói antah - karana gồm bốn phần : Manas, Buddhi, Ahamkara
và Chitta. Sự phân chia nầy có phần lạ. Chúng ta đã biết Manas, Buddhi và
Ahamkara nhưng Chitta là gì ? Bạn muốn hỏi ai cũng được và khi ghi lấy câu
trả lời của họ, bạn sẽ thấy không câu nào rõ ràng. Chúng ta thử phân tích
nó xem nó có được soi sáng phần nào không bởi ý niệm ba phần của Thông
thiênHọc. Thật ra phần thứ tư nầy không phải là một phần riêng biệt mà là
tổng số của ba phần kia. Manas, Buddhi và Ahamkara có thể xem như là ba
cạnh của một hình tam giác và Chitta là hình tam giác nầy. Ðó là ý niệm xưa
về Ba Ngôi hợp thành Một . Bà Blavatsky cũng thường nói đến phần thứ tư
để bổ túc ba phần kia vì bà nói theo lối cổ. Vậy chúng ta hãy nhớ phần thứ
tư nầy là kết quả của ba phần kia và là một đơn vị tạo thành do ba yếu tố
đó. Chúng ta hãy áp dụng ý niệm ấy vào Antah karana.

Ta hãy xét về quan năng hiểu biết. Tuy trong cái Ngã trạng thái tương
ứng với quan năng nầy trội hẳn lên, nhưng nó không thể đứng riêng một
mình. Toàn thể cái Ngã biểu hiện trong mọi tác động hiểu biết cùng với hai
trạng thái kia. Cái nầy không thể rời bỏ cái kia. Chỗ nào có sự hiểu biết, chỗ
ấy cũng có hai phần kia nhưng với tư cách phụ thuộc. Bạn hãy quan niệm
quan năng hiểu biết trong trạng thái thuần khiết nhất, hãy để nó hướng vào
trong và tự phản chiếu ở chính nó thì bạn sẽ có một ý niệm về Buddhi là lý
trí thuần túy, tinh hoa của sự hiểu biết. Trong vũ trụ, Buddhi được tiêu biểu
bởi Vishnu, ấy là sự minh triết nâng đỡ vũ trụ. Bây giờ chúng ta hãy quan
niệm sự hiểu biết hướng về bên ngoài và phản chiếu trong hoạt động, như
thế, chúng ta có sự liên hợp giữa hiểu biết và hoạt động : đó là Manas ở con
người và Brahma (trí sáng tạo) trong vũ trụ. Nếu cái trí sáng tạo nầy cũng
phản chiếu như vậy trong ý chí, nó trở thành Ahamkara, cái Tôi là Tôi ở con
người và Mahadeva trong vũ trụ. Vậy trong phạm vi của sự hiểu biết, chúng
ta có ba yếu tố khác nhau tạo nên cơ quan bên trong hay antah karana;
Manas với Buddhi và Ahamkara. Như thế, chúng ta không thấy phần thứ tư.
Cho nên Chitta là gì ? Ðó là tổng hợp của ba yếu tố nói trên. Sự phân chia
thành bốn phần đó là một cách phân tích theo lối xưa.

THỂ TRÍ

Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu thể trí. Trên thực tế, thể nầy được xem
như là cái trí.

Trong sự thực tập Yoga, điều đầu tiên cần làm là rời bỏ thể trí để tiến lên
một cái thể khác cao hơn. Chắc các bạn còn nhớ lời của tôi nói hôm qua, là
trong Yoga, cái Ngã là tâm thức cộng thêm các thể mà nó chưa rời bỏ được.
Bước đầu của bạn là tự rút ra khỏi thể trí. Bạn phải có thể nhấc lên và để
xuống cái trí của bạn cũng như một dụng cụ trước khi tiến xa hơn. Vậy thể
trí của bạn phải được coi là khởi điểm. Hãy diệt trừ tư tưởng của nó, hãy bắt
nó lặng yên. Trạng thái của thể trí như thế nào ? Nếu bạn nhìn nó từ một
cõi trên, bạn thấy màu sắc nó biến đổi luôn với những nguyên nhân phát
sinh khi thì ở bên trong, khi thì từ bên ngoài. Thỉnh thoảng một sự rung
động từ bên ngoài gây một biến đổi trong tâm thức và một biến đổi khác
tương ứng trong màu sắc của thể trí. Nếu một biến đổi nổi lên ngay trong
tâm thức thì nó cũng tạo ra những rung động ở thể trí. Thế là trong khắp
thể trí, màu sắc biến đổi luôn và rất nhanh. Yoga sẽ chấm dứt tình trạng ấy
bằng cách ngăn ngừa mọi rung động cũng như mọi biến đổi. Sự diệt trừ mọi
biến đổi sẽ chấm dứt mọi rung động của thể trí. Sự chấm dứt rung động của
thể trí sẽ chận đứng các biến đổi của tâm thức. Trong thể trí của Ðức Thầy,
không có một sự biến đổi màu sắc nào, ngoại trừ những biến đổi phát xuất
từ bên trong. Không một kích thích nào bên ngoài có thể tạo một sự rung
động ở cái trí hoàn toàn được chủ trị. Màu sắc thể trí của một Chơn Sư
giống như ánh trăng trên mặt biển gợn sóng. Tất cả màu sắc đều có thể
phát sinh trong màu trắng bạc ấy nhưng không có một cái gì ở ngoại cảnh
có thể làm hoen ố màu sắc huy hoàng của nó. Nếu bên trong có một sự biến
đổi tâm thức thì ở thể trí hiện ra những màu sắc thanh bai, nhưng thể trí chỉ
đáp ứng với những biến đổi phát sinh từ bên trong mà thôi. Thể trí của một
Chơn Sư không bao giờ là cái Ngã mà là một dụng cụ tùy ý Ngài sử dụng. Nó
chẳng qua là một cái vỏ và Ngài chỉ dùng nó khi nào Ngài cần liên lạc với
các cõi dưới.

Có chấm dứt được mọi sự biến đổi màu sắc trong thể trí, bạn phải hiểu
thế nào là chân không. Trong Yoga, dòng tư tưởng phải ngưng hẳn lại. Bạn
phải làm cách nào để chận đứng tất cả các rung động hầu thể trí trở nên vô
sắc, bình thản, an ổn, không phản ứng trước các xúc động, ngoại trừ những
cái được bạn chọn. Làm sao bạn có thể biết rằng thể trí của bạn đã được
chủ trị, rằng nó không còn là một thành phần của cái Ngã của bạn ? Bạn sẽ
nhận thức được điều nầy khi với ý chí của bạn, bạn có thể ngưng dòng tư
tưởng của bạn và giữ cái trí của bạn trong trạng thái an tĩnh hoàn toàn. Bạn
lần lượt dứt bỏ thể nầy rồi thể khác và bằng chứng của sự dứt bỏ một thể
nào đó là nó không còn kích thích bạn. Bạn điều khiển nó chớ nó không thể
sai khiến bạn. Cho đến lúc nào mà không có cái gì bên ngoài có thể lung lạc
hay khuấy rối trí bạn, cho đến khi nào mà trí bạn không đáp ứng lại với các
kích thích bên ngoài trừ phi các phấn khích của chính bạn thì bạn mới có
thể nói rằng cái trí của bạn không phải là cái Ngã của bạn. Nó trở nên một
thành phần của ngoại cảnh và không phải là cái Ngã của bạn nữa.

Kế đó, bạn tiến lên chủ trị Chơn thân (Thượng trí). Bạn cũng sẽ áp dụng
phương cách nói trên. Khi Chơn thân được chủ trị hoàn toàn, bạn sẽ lần lượt
chủ trị thể Bồ Ðề (Kim Thân) và Tiên Thể.

CÁI TRÍ VÀ CÁI NGÃ

Ðến đây, chắc có một vài sinh viên ngơ ngác hỏi : Khi cái trí và các thể
đều bị vứt bỏ thì chúng ta sẽ còn lại cái gì ? . Patanjali đáp : Thì khán giả sẽ
ở trong nguyên thể của người. Còn Thông Thiên Học thì trả lời : Thì còn
Chơn Thần. Ðó là mức chót của cuộc hành hương của nhân loại, là điểm cao
nhất mà nhân loại có thể đạt được. Các thể được tạo thành trong năm cõi
của vũ trụ để cho cái Ngã sử dụng hầu biểu thị quyền năng của nó, các thể
ấy đã không còn nên cái Ngã mới nhận ra mình với các kinh nghiệm rất dồi
dào đã thu thập được lúc trước nhờ các thể. Ở đây, phái Samkhya gặp một
sự khó khăn lớn : nếu chỉ còn lại một mình khán giả, y sẽ trở thành cái gì
khi cảnh vật không còn ? Nhiệm vụ độc nhất của y là nhìn xem các hoạt
động trí thức, bây giờ các hoạt động nầy ngưng thì nó không thể giữ mãi cái
vai trò nhìn xem của nó vì đâu còn gì mà xem. Vậy chỉ còn một cách trả lời
rằng nó ở trong chính nguyên thể của nó. Bây giờ nó ở ngoài phạm vi biểu
hiện, vượt khỏi hệ thống Vật chất Tinh thần, còn cái Ngã thì trở lại trạng
thái tiềm tàng vì không sao biểu hiện được. Ở đây, phái Samkhya đi xa sự
thật vì thật sự, khi trong vũ trụ, các hoạt động đều chấm dứt thì Chơn Thần
chủ trị vật chất và một chu kỳ hoạt động mới sẽ mở màn. Nó không còn là
kẻ nô lệ mà là chủ nhân ông.

Kinh nghiệm chỉ cho chúng ta thấy rằng cái Ngã lần lần rút ra khỏi các
thể, Nó không mất gì mà còn ý thức được chính Nó một cách rõ ràng. Trên
con đường hồi hương, ánh sáng mỗi lúc mỗi sáng tỏ hơn. Lần lượt, Nó vén
các màn bao phủ Nó, ý thức được rằng các thể của Nó không phải là Nó, và
nhờ đó, cảm thấy sự thực tại của mình, mỗi lúc mỗi sắc bén hơn. Người Tây
phương thường hiểu sai rằng tâm trạng giải thoát hay Niết Bàn là sự rỗng
không hay sự vô thức. Ðó là một điều hoàn toàn sai lạc khiến họ không sao
hiểu được Yoga. Bạn hãy tưởng tượng tâm trạng của một người hoàn toàn
đồng hóa mình với thể xác đến nỗi ngay trong tư tưởng, họ cũng không thể
tách ra đó là tâm trạng của kẻ dã man và so sánh tâm trạng ấy với tâm trí
sáng suốt dũng mãnh của chính bạn.

Tâm thức của người dã man rất cạn hẹp vì nó bị giới hạn trong thể xác và
thỉnh thoảng mới vươn lên các ý niệm trừu tượng. Họ không hiểu gì về tâm
thức khoáng đạt và linh động của bạn. Bạn vượt rất xa khỏi khả năng của
tâm thức họ. Tâm thức bạn hoạt động ở cõi Trung giới nhiều hơn là ở cõi
Trần. Như vậy, khi cái Ngã càng rút lần ra khỏi các thể của Nó, Nó càng tự
biểu hiện nhiều hơn. Mỗi lần một cái thể được vứt bỏ, cái Ngã tự thực hiện
sâu rộng hơn. Trung tâm càng dũng mãnh hơn khi chu vi trở nên mềm mại,
và đến một lúc nào đó trung tâm sẽ hiện diện ở chu vi. Chừng đó chu vi tan
biến mà trung tâm vẫn còn.. Như vậy, tâm thức của bạn rõ ràng, linh hoạt
hơn tâm thức của người dã man. Bạn sẽ đạt được những bước tiến tương tự
khi bạn lần lượt vứt bỏ các bức màn khác, và vươn lên các cõi cao của sự
sống. Chúng ta sẽ ý thức rõ ràng thế nào là sự Thực Tại, thế nào là quyền
năng của cái Ngã. Các quyền năng nầy càng ngày càng huy hoàng khi cái
Ngã không còn bị che mờ. Chúng ta có thể suy luận dễ dàng rằng ngày nào
chúng ta tiến đến Chơn Thần, tâm thức của chúng ta sẽ hùng dũng và linh
động biết bao. Bạn càng tập sống thật sự, quyền năng trí thức và tình cảm
của bạn càng gia tăng.

Bạn hãy nhớ rằng bạn tập chủ trị là bạn tập chủ trị các thể, các vỏ, là
những phần tử của ngoại cảnh. Ðừng tưởng bạn tập chủ trị cái Ngã. Cái Ngã
không chấp nhận một kỷ luật nào. Nó ngự trị huy hoàng ở bạn. Nó là chủ
chớ không phải là tớ. Các vỏ đều đặt dưới sự chủ trị của Nó. Các thể lần lần
sẽ trở thành dụng cụ của Nó. Chừng đó, bạn sẽ nhận định chân lý của lời
sau đây trong kinh Upanishad Bạn là Chơn Ngã cao cả và bất diệt.

BÀI DIỄN T H U Y Ế T III

YOGA LÀ MỘT KHOA HỌC

Chiều nay, trước hết, tôi xin trình bày với quí bạn hai phương pháp Yoga
chính, một loại liên quan đến cái Ngã, một loại liên quan đến cái Vô Ngã.

Tôi xin lưu ý đến quí bạn là chúng ta chỉ tìm hiểu Khoa Yoga chớ không
nói đến các pháp môn khác nhằm tiến đến sự hợp nhất thiêng liêng. Ðây là
một môn có tính cách khoa học rất hợp với ý niệm cổ truyền của xứ Ấn Ðộ.
Tôi cũng xin nhắc rắng ngoài pháp môn nầy, còn có hai pháp môn khác rất
quan trọng là pháp môn Bhakti và pháp môn Karma. Yoga mà tôi sẽ trình
bày hôm nay là pháp môn Jnanam, ấy là con đường hiểu biết.

NHỮNG PHƯƠNG PHÁP YOGA

Chúng ta hãy trở lại hai phương pháp Yoga chính nói trên liên hệ đến cái
Ngã và Vô Ngã.
Trong phương pháp đầu, hành giả theo con đường Buddhi hay lý trí
thuần túy, ở phương pháp sau, người nhờ vào Manas hay lý trí cụ thể. Hôm
qua, khi giải thích ba nhánh của antah karana, tôi có nói sự phản chiếu đức
tính nầy trong đức tính kia của cái Ngã. Trong giới hạn của quyền năng hiểu
biết, tùy quyền năng nầy phản chiếu ở trạng thái ý thức, ý chí hay hoạt
động, bạn sẽ có Buddhi, Manas hay Ahamkara. Nhớ rõ các điều nầy, bạn sẽ
thấy hai phương pháp nói trên liên hệ đến hai trong ba nhánh ấy.

Nhưng còn cái thứ ba là ý chí (ahamkara), nó phản ảnh trong quyền
năng hiểu biết thì sự việc sẽ như thế nào ? Chắc chắn đây là một con đường
khác nhưng thật khó mà gọi con đường nầy là một phương pháp. Ý chí đập
tan mọi chướng ngại để tiến thẳng đến mục đích. Nó sử dụng cả hai phương
tiện Buddhi và Manas. Khoa siêu hình dùng để hiểu cái Ngã, còn khoa học
nhằm hiểu cái Vô Ngã và cả hai khoa đều được sử dụng hay bác bỏ tùy nhu
cầu mỗi lúc. Những người có ý chí mạnh thường không biết tại sao họ đạt
được mục tiêu : họ muốn điều gì thì như trời ban cho họ. Ðó là trường hợp
của con người Ahamkara (ý chí). Ở họ, Buddhi và Manas là phần phụ thuộc,
cũng như Ahamkara và Manas là phần phụ thuộc của con người Buddhi. Nhà
siêu hình và nhà bác học đều cần sự trợ giúp của Ahamkara. Sự cương
quyết, sự kiên tâm rất cần trong mọi phương pháp Yoga. Dù nhà yogui theo
con đường thuần lý của Buddhi hay con đường tích cực của Manas thì ý chí
cũng rất cần để khuyến khích và nâng đỡ. Kinh Upanishad nói : Người yếu
đuối không sao tiến lên cái Ngã được . Bạn phải cương quyết, dũng mãnh,
kiên tâm. Ðể thành công, nhà yogui nào cũng phải có một ý chí sắt đá.

TÌM CÁI NGÃ BỞI CÁI NGÃ

Chúng ta hãy tìm hiểu phương pháp nầy tỉ mỉ hơn. Ðây là con đường của
nhà siêu hình học, trong đó Buddhi được sử dụng nhiều hơn cả. Họ hướng
vào trong và cố tìm cái Ngã bằng cách tiến sâu vào bản chất mình. Biết cái
Ngã ẩn trong họ,họ lần lượt vứt bỏ cái lớp vỏ che bên ngoài để tiến vào cái
Ngã huy hoàng. Bắt đầu, họ phải từ bỏ lối suy tư cụ thể và trầm mình trong
sự trừu tượng. Như vậy, phương pháp họ phải theo là sự tham thiền kiên
nhẫn, nồng nhiệt, đó là lối duy nhất giúp họ đạt mục đích. Nhờ suy tư dũng
mãnh, họ tiến từ miền cụ thể đến miền trừu tượng của cái trí, rồi từ miền
trừu tượng họ sang cõi Buddhi, nơi đây họ cảm thấy sự hợp nhất; rồi từ cõi
Buddhi, họ tiến lên Atma nơi đây, cái Ngã chỉ còn có một lớp vỏ chót bằng
chất Niết Bàn và hiện ra rực rỡ. Ðó là con đường rất khó khăn dẫn đến cái
Ngã bởi cái Ngã.

Trên con đường này hành giả phải rời bỏ hẳn cái Vô Ngã và khép chặt các
giác quan. Ngoại giới như không còn đối với họ. Giác quan họ không còn
phản ứng đối với các rung động bên ngoài. Họ như mù, như điếc đối với các
cám dỗ của ngoại cảnh. Nếu họ chưa đủ sức chống lại các cám dỗ này, họ
cần sống một cuộc đời ẩn dật. Những dòng tu chiêm ngưỡng ở Thiên Chúa
giáo La Mã rất hợp với họ vì trong đó, họ không còn liên lạc với cõi đời
quyến rủ. Họ luôn luôn chú mục vào cái Ngã bên trong. Ðối với họ, Siddis
(phép thần thông) là những chướng ngại quan trọng, chớ không giúp đỡ gì
được. Một lời dạy quan trọng thường được nhắc mãi cho họ là các phép thần
thông rất có hại.

Người Ấn cũng đồng ý phải tránh các phép thần thông; hơn nữa, họ cũng
không sử dụng giác quan của thể xác mà họ xem như là những chướng ngại
và lúc nào cũng muốn nhắm mắt, bịt tai. Vài người Thông Thiên Học dặn dò
không nên dùng giác quan của thể vía và thể trí nhưng lại cho dùng giác
quan của thể xác vì nghĩ chúng nó không có hại. Tại sao lại không ? Nếu
giác quan có hại trong những thể thanh cao, chúng nó cũng có hại trong thể
xác. Ðối với người cố tìm cái Ngã bằng cái Ngã thì mọi giác quan đều là
chướng ngại. Vậy, tại sao trong lúc từ bỏ giác quan tinh vi mà ta lại sử dụng
giác quan phàm tục với sức cám dỗ của chúng nó ? Một sự phân biệt như
vậy không thể có. Trong sự tìm cái Ngã bởi cái Ngã, tất cả những gì không
phải là cái Ngã đều là chướng ngại. Tất cả những gì tạo nên sự liên hệ giữa
cái Ngã với ngoại giới đều phải tránh, dù là tai phàm mắt thịt để tiếp xúc
với cõi trần hay các giác quan tinh vi hơn để nhận thức các cõi trên. Vậy
nếu ta quay lưng lại với cái Vô Ngã, thì tất cả giác quan dù Siddhis hay
không đều có hại.
Ðiều cần thiết cho người tìm cái Ngã bằng cái Ngã là lòng tin , theo ý
nghĩa tôi nói hôm qua, nghĩa là một niềm tin mạnh mẽ, sâu xa, sắt đá rằng
cái Ngã hiện diện trong họ. Lòng tin này vượt khỏi lý trí không thể chứng
minh sự thực tại của cái Ngã bằng khoa luận lý.

Thật ra, lòng tin phát sinh từ Chơn Ngã ở con người. Nó được gọi là
Shraddha và rất cần cho kẻ tu hành. Là vì thiếu nó, trí sẽ lung lay, sự can
đảm sẽ cùn nhụt, sự bền chí sẽ tan vỡ. Chỉ niềm tin mới có thể phấn khởi
người hành hương trong cảnh tối tăm bao trùm họ và khuyến khích họ từ bỏ
cái lối sống của các thể thấp hèn để sang qua một nếp sống cao đẹp của
Chơn Ngã. Lòng tin cho người tu theo lối này như sự hiểu biết và kinh
nghiệm cần cho tu sĩ theo con đường kia.
TÌM CÁI NGÃ BẰNG CÁI VÔ NGÃ

Chúng ta sang qua lối thứ hai, lối tìm cái Ngã bằng cái Vô Ngã. Ðó là con
đường của nhà khoa học tìm hiểu Vũ trụ bằng cái trí cụ thể và linh động. Họ
cố tìm cái chơn giữa cái giả, cái trường cửu giữa cái vô thường, cái Ngã giữa
vạn thù. Họ phải làm sao ? Họ tìm hiểu tỉ mỉ mọi sự vật che giấu Chơn Ngã,
họ nghiên cứu cái Vô Ngã xung quanh và trong họ, họ học hỏi bản chất của
những kẻ khác cũng như của chính mình. Nhờ vậy dần dần, từ bước một, từ
cõi một, họ tiến lên đồng thời họ lần lượt từ bỏ các sắc tướng vì không tìm
được cái Ngã ở trong đó.Trong việc nghiên cứu cõi trần vật chất, họ sử dụng
giác quan sắc bén của họ để hiểu biết rồi chối bỏ. Họ nói : Cái này không
phải là cái Ngã của tôi. Cảnh vô thường này, cái tối tăm này, những biến đổi
không ngừng này rõ ràng không phải là sự trường tồn, sự sáng suốt và sự
bất biến của cái Ngã. Thế là họ vứt bỏ chúng và lần lần tiến lên cõi Trung
giới, họ sang cõi Thượng giới và cũng chỉ thấy những sự vật vô thường thay
vì cái Ngã. Sau đó, họ tiến từ cõi Thượng giới lên cõi Bồ đề và bắt đầu nhận
thức cái Ngã mỹ lệ và huy hoàng trong sự hợp nhất. Thế là bằng sự học hỏi
cái vạn thù, họ lần lần tiến đến cái nhất thể và hiểu cái duy nhất. Họ thực
hiện được cái Ngã xuyên qua cái Vô Ngã bằng cách loại cái Vô Ngã khỏi cái
Ngã. Tóm lại, họ thành công nhờ học hỏi và kinh nghiệm trong lúc người
theo lối trước chỉ dùng lý trí thuần túy và lòng tin. Với lối tìm cái Ngã bằng
cái Vô Ngã các phép thần thông rất cần thiết. Là vì bạn không thể tìm hiểu
cõi Trung giới và cõi Thượng giới mà không sử dụng giác quan của thể vía
và thể trí, cũng như không thể học hỏi cõi trần mà không sử dụng mắt, tai.
Hiểu như thế rồi, bạn hãy suy nghĩ cẩn thận trước khi chọn lựa con đường
của bạn.

Vậy là bạn có hai phương pháp và đừng lẫn lộn chúng trong tâm trí bạn.
Với lý trí thuần túy, bạn có thể đạt được Chơn Ngã, nhưng bằng sự quan sát
và kinh nghiệm, bạn cũng có thể tiến lên nó được. Cả hai đều là phương
pháp Yoga và đều có chỉ dạy trong các Sutras của Patanjali. Khi bạn hiểu
chúng rõ ràng, chúng không còn có vẻ trái nhau. Trong phần chót của
Sutras, Patanjali có nói qua cách thức khai mở các phép thần thông. Như
vậy, bạn có thể tìm con đường của bạn, để tiến đến Ðấng Tối Cao.

YOGA VÀ ÐẠO LÝ

Ðiều kế tiếp mà tôi xin quí bạn lưu ý, Yoga là một khoa tâm lý chớ không
phải là một khoa luân lý dù đạo đức là nền tảng của nó. Khoa tâm lý và
khoa luân lý không giống nhau.. Trong khoa đầu, người ta nghiên cứu tâm
trí; trong khoa sau, người ta tìm cách xây dựng hạnh kiểm để thực hiện sự
giao hảo giữa con người. Khoa luân lý nhằm cải thiện lối sống chớ không
nghiên cứu bản chất của tâm trí hầu mở mang quyền năng của nó. Tôi nhấn
mạnh điều nầy vì có nhiều người hay lầm lộn. Nếu bạn nhận định rõ thế nào
là Yoga, bạn không còn nghĩ rằng bạn phải tìm thấy ở nó những châm ngôn
hay giáo lý của các bậc thánh hiền. Nếu Patanjali có nêu rõ yama và niyama
là những qui tắc hạnh kiểm mà con người phải theo, những lời khuyên nầy
tuy rất hữu ích nhưng không phải là phần chủ yếu của giáo lý ông. Không ai
có thể thực tập Yoga mà không có những đức tính tóm tắt trong yama và
niyama , nhưng bạn không thể tìm một hệ thống đạo đức trong một quyển
sách tâm lý có tính cách khoa học như quyển Yoga. Một sinh viên điện
không bao giờ ngạc nhiên vì không thấy những lời khuyên dạy đạo lý trong
sách điện. Vậy tại sao một người học Yoga, một khoa học tâm lý, lại mong
tìm những lời lẽ đạo đức ở trong đó ? Tôi không muốn nói rằng đạo đức
không quan trọng đối với người yogui. Trái lại, nó rất quan trọng, và tuyệt
đối cần thiết ở những giai đoạn đầu tiên đối với mọi người thực tập. Nhưng
sau đó, nó không cần nữa nếu người yogui theo con đường tà. Bạn phải nhớ
rằng ở Yoga, ngoài con đường chánh còn có con đường tà, và trong con
đường nầy, đạo sĩ cũng sống rất kham khổ ở giai đoạn đầu đôi khi ở cả giai
đoạn sau, nhưng đạo đức thật sự không có ở đây. Người yogui theo tà đạo
cũng lo tinh luyện các thể nhưng không phải để giúp đời mà để khai mở các
quyền năng riêng. Sự khác biệt giữa chánh đạo và tà đạo là động cơ bên
trong. Nhà yogui chánh đạo không ăn thịt vì sự giết hại trái với lòng từ, còn
nhà yogui tà đạo có thể cũng cữ thịt nhưng cữ với một lý do khác : thịt có
tính cách kích thích và một thể xác được nuôi dưỡng bằng thịt sẽ không
giúp ích họ nhiều. Vậy hai nhà đều cữ thịt nhưng mỗi người đều có lý do
riêng.

Kiêng thịt là một sự kiện đạo đức vì sự kiện nầy giảm bớt đau khổ của
sinh vật. Tuy nhiên, trên phương diện Yoga, nó chỉ là một phương tiện nhất
là đối với tà đạo. Sách Ấn Ðộ có nói đến nhiều nhà yogui theo tà đạo, và đạo
sĩ có phép tắc cao cường nhất là Ravana, hiện thân của tất cả những điều
hung ác, xấu xa của cõi đời. Hắn cũng là một nhà yogui phi thường và nếu
hắn có được những quyền năng siêu phàm là nhờ Yoga. Là một thuật sĩ
đứng đầu bên tà đạo, hắn là tay đại phá hoại. Hắn tập Yoga là để có quyền
năng đả phá và cướp trong tay Thái Dương Thượng Ðế cái quyền trường
sinh bất tử để không thể bị một người nào giết hại. Bạn có thể ngạc nhiên
về việc một người có thể đoạt ở Thượng Ðế một quyền năng như vậy.
Nhưng định luật thiên nhiên là sự biểu lộ của lý trời và ai theo đúng định
luật ấy thì gặt hái được các kết quả đã định dù y có ý hại đời hay muốn giúp
đời. Một nhà bác học cũng vậy, ông có thể giúp đời hay hại đời, và hạnh
kiểm của ông không quan trọng đối với sự tìm tòi của ông miễn là đôi mắt
hay bộ thần kinh của ông không bị hư hại bởi các thói hư tật xấu của ông.
Yoga cũng thế, đạo đức rất quí nhưng không chi phối nó. Có hiểu như thế
mới không sa lầy. Hãy cố tìm hiểu như mọi người Thông Thiên Học và bạn
sẽ thấy nhiều định luật được trọng ở lãnh vực này nhưng vô hiệu ở lãnh vực
khác. Nhà bác học không bao giờ lầm lộn như vậy. Họ biết một sự phát
minh hóa học không tùy lối xử thế của họ và không cần họ phải nhân từ mới
khám phá được một yếu tố mới. Họ sẽ không thất bại trong một cuộc thí
nghiệm khéo léo mặc dù lối ăn ở của họ xấu xa. Ðó là hai địa hạt khác nhau
với những định luật khác nhau mà chúng ta không nên pha lộn. Vì Ðấng
Isvara tuyệt đối công bằng nên ai tuân hành luật nào thì hưởng kết quả đó
dù hành động của họ có tính cách giúp đời hay không ở những lãnh vực
khác. Gieo lúa thì sẽ được lúa, trồng cỏ thì sẽ có cỏ, luật trời là thế.

Như vậy, thế nào là vai trò của đạo đức ? Nó là một điều tối quan trọng
đối với nhà yogui chánh đạo quyết lòng phụng sự Thiên đình. Vì họ cố trau
mình để giúp đời và tạo một hòa khí đối với mọi người, căn bản đạo đức của
họ phải cao siêu, vượt hẳn luân lý thường tình. Họ phải kiên nhẫn, nhân từ
vì lòng nhân sẽ khai mở tâm hồn họ để bao trùm toàn thể nhân loại. Người
theo tà đạo thì không thế, họ gắt gao, hung ác.

Người theo chánh đạo có thể cố gắng khai mở quyền năng và họ làm thế
là để phụng sự nhân loại hữu hiệu. Các người bên tà đạo thì không thế, họ
muốn có quyền năng là để cho chính họ hoặc để chống lại mọi người. Họ
muốn sống cô độc một mình trong sự hung hản. Họ muốn cưỡng lại Thiên ý
dù trong một thời gian ngắn ngủi. Cứu cánh của người trên là Niết bàn nơi
đó không còn sự chia rẽ. Mục tiêu của người sau là ngục A tỳ hay sự cô đơn
trọn vẹn, ấy là Kaivalyam của Tà Ðạo. Cả hai đều là nhà yogui, đều thực tập
Yoga nhưng kết quả thì khác, một bên là Niết Bàn, một đàng là A tỳ
(Avitchi).

SỰ CẤU TẠO CÁC TRẠNG THÁI CÁI TRÍ

Chúng ta sang qua các trạng thái cái trí mà Patanjali gọi là Vritti. Theo
tiếng Phạn rất hàm súc, Vrittis là cách biểu hiện của cái trí, là cách thức
sinh hoạt của nó. Ðó là nghĩa đen. Một nghĩa phụ của nó là xoay quanh, là
chuyển động theo vòng tròn.

Trong khi thực tập Yoga, bạn phải cố chấm dứt các cách biểu
hiện của cái Trí. Ðể hướng dẫn bạn đến mức có được quyền năng
làm dừng cách thức hiện hữu đó bởi vì bạn không thể làm chúng
dừng lại chừng nào bạn chưa hiểu rõ chúng thì người ta cho bạn
biết rằng các cách thức của tâm trí nầy có bản chất gồm năm
phần. Chúng là những bộ năm. Người ta thường dịch câu Sutra
như sau : Các Vrittis gồm có năm phần (panchatayyah ), nhưng
dịch chữ panchatayyah bằng chữ bộ năm thì chính xác hơn là
gồm năm phần. Từ pentad (bộ năm) lập tức nhắc bạn nhớ tới
cách nhà hóa học bàn về bộ một (monad), bộ ba (triad), bộ bảy
(heptad) khi y nhắc tới các nguyên tố. Những nguyên tố mà nhà
hóa học đang bàn đến có liên quan đến nguyên tố đơn vị (unit-
element) theo nhiều cách khác nhau. Một số nguyên tố chỉ liên
quan tới nó theo một cách mà thôi và được gọi là bộ một; các
nguyên tố khác có liên quan tới nó theo hai cách và được gọi là
bộ hai và v .v . .Ðiều nầy cũng thích hợp cho các trạng thái của
cái trí không ? Kinh Bhagavad Gita nói rằng Jiva giáng trần bằng cách tạo
năm giác quan cộng thêm cái trí là sáu. Lời này soi sáng vấn đề phần nào.
Bạn có năm giác quan, năm cách hiểu biết được gọi là Jnanendriyas. Bạn
biết được ngoại cảnh là nhờ năm giác quan này. Tâm lý học Tây Phương nói
rằng không có gì trong tư tưởng mà không có trước ở cảm xúc. Ðiều này
không phải luôn luôn là đúng và cũng không thể áp dụng cho cái trí trừu
tượng, cả cho toàn thể cái trí cụ thể. Tuy nhiên, nó đúng trong một số
trường hợp. Mỗi ý niệm gồm năm phần. Nó được tạo nên do năm yếu tố
thay vì bảy sau này, mỗi yếu tố do một giác quan đưa đến. Ví dụ, bạn đang
nghĩ đến một trái cam, nếu bạn phân tích ý niệm của bạn, bạn thấy màu
của nó đến từ mắt, mùi của nó đến từ mũi, vị của nó đến từ lưỡi, và cảm
giác cứng hay mềm, gồ ghề hay láng mướt đến từ xúc giác và bạn sẽ nghe
được sự vận chuyển các phân tử của nó (vì ở đâu có rung động thì có âm
thanh) nếu thính giác của bạn sắc sảo. Tất cả các điều này được cái trí tổng
hợp lại thành một ý niệm là trái cam.
Ở đây, chúng ta mới thấy thế nào là sự liên tưởng. Mùi thơm khiến ta nhớ
đến chỗ và vật phát ra nó, nhưng không phải chỉ có thế. Một ý niệm được
tạo thành do các cảm xúc của năm giác quan nên khi có một cảm xúc nổi
lên, thì các cảm xúc khác cũng được gợi theo. Cái trí tác động như lăng
kính. Một tia sáng trắng khi chiếu qua lăng kính thì tách ra bảy màu và khi
bảy màu nầy chiếu qua trở lại một lăng kính lần thứ nhì thì hợp thành màu
trắng.

Cái trí của chúng ta giống như lăng kính thứ nhì : nó kết hợp năm cảm
xúc thành một ý niệm. Hiện nay, chúng ta chỉ sử dụng có năm giác quan
nên chúng ta chỉ có năm cảm xúc. Thế là ý niệm Vrittis luôn luôn gồm có
năm phần. Khi bạn hiểu rõ điều nầy bạn sẽ hiểu dễ dàng phần sau.

Cũng như tôi đã nói trước đây, câu không có cái gì trong tư tưởng mà
không có trước ở cảm xúc không được đúng ở mọi trường hợp. Là vì cái trí
giác quan thứ sáu sẽ thêm phần của nó. Cái phần đó là một mối liên quan
mới, vì suy tư là đặt những mối liên quan . Bạn càng suy nghĩ về cái nầy,
bạn càng thấy nó rất đúng ở các tác động của trí thức.

Dấu hiệu hoạt động đầu tiên của cái trí là ý thức được ngoại cảnh. Cái ấn
tượng nầy lúc đầu thì lờ mờ, nhưng chúng ta biết được có cái gì ở bên ngoài
ta : đó là một diễn trình được gọi là cảm giác . Tôi thích nói đặt những mối
liên quan hơn vì câu nầy bao gồm mọi diễn trình của cái trí trong lúc chữ
cảm giác chỉ là một sự kiện lẻ loi, đơn độc. Ðây là một ví dụ được dùng
thường : khi một đứa bé cảm thấy bị một cây kim chích, nó biết đau nhưng
không biết gì về cây kim. Ðó không phải là cảm giác, vì cảm giác được định
nghĩa là đặt một liên quan giữa một cảm xúc và nguyên nhân gây ra nó.
Theo nghĩa chuyên môn của nó, bạn cảm giác khi nào bạn đặt một sự liên
quan giữa sự vật và bạn. Ðó là tác động đầu tiên của cái trí khi có một cảm
giác. Theo quan niệm Ðông phương, cảm giác được xem là một tác động của
cái trí vì các giác quan thuộc về khả năng hiểu biết, nhưng Tâm lý học Tây
phương xếp nó vào loại tình cảm.
Khi các mối liên quan được đặt giữa bạn và ngoại vật rồi, cái trí tác động
như thế nào nữa ? Nó lập luận nghĩa là nó đặt mối liên quan giữa các sự vật.
Cảm giác cũng đặt sự liên quan nhưng chỉ với một sự vật mà thôi. Bây giờ
bạn đã cảm thấy nhiều sự vật và bạn đặt các mối liên hệ giữa chúng nó. Lập
luận là thiết lập những mối liên quan giữa các sự vật mà bạn đã cảm giác và
so sánh, và kết quả là một quan niệm.

Câu thiết lập các mối liên quan thật là đúng. Suy tư là thiết lập các mối
liên quan và lẽ tự nhiên là nó phải như thế vì bằng cách đặt mối liên quan
nầy mà Ðấng Suy Tư cao cả tạo nên vật chất. Nếu Ngài dựng nên Vũ trụ
bằng sự thiết lập mối liên quan đầu tiên giữa Ngài và cái Vô Ngã thì chúng
ta cũng có quyền năng ấy ở ta vì chúng ta cũng suy tư theo cách thức của
Ngài, theo diễn trình suy tư của Ngài.

VUI SƯỚNG VÀ ÐAU KHỔ

Chúng ta hãy sang qua một câu nói khác của vị Giáo chủ Yoga : Các cảm
xúc gồm hai loại : đau khổ và không đau khổ. Tại sao Ngài không nói đau
khổ và sung sướng ? Bởi vì Ngài là một nhà tư tưởng chân xác, Ngài chọn
một lối phân chia hợp lý bao gồm toàn thể sự việc trong vũ trụ. Có người
hỏi : Có những cảm xúc nào giữa cái đau khổ và không đau khổ, cái mà
người ta gọi là bình thản không ? Các nhà tâm lý không đồng ý về điểm nầy.
Người thì cho rằng cảm xúc gồm ba loại : đau khổ, sung sướng và bình
thản. Bình thản có nghĩa là không sung sướng. Người khác nói rằng cảm
xúc bình thản không có, vì nếu có sâu đậm thêm thì trở thành đau khổ hay
sung sướng. Sự tranh luận nầy có thể chấm dứt bằng cách phân chia của
Patanjali : đau khổ và không đau khổ, một lối phân chia hợp lý và đúng.

Tuy nhiên, có một lý do tâm lý khiến chúng ta có thể nói vui sướng và
đau khổ, dù cách phân loại ấy không hợp lý. Lý do đó là chữ vui sướng và
đau khổ tả hai trạng thái khác hẳn nhau không phải ở cái Ngã mà trong các
thể của nó. Vì bản tính của cái Ngã là vô biên, nó chống lại mọi sự hạn chế.
Nếu sự hạn chế nầy nhượng bộ trước phản ứng của cái Ngã thì chúng ta
cảm thấy sung sướng, trái lại, nếu chúng nó chống đối hay siết lại thì đau
khổ. Những trạng thái nầy thuộc về các thể hơn là cái Ngã và tạo một biến
đổi trong tâm thức.

Vui sướng và đau khổ không chỉ liên hệ đến một trạng thái của cái Ngã
mà đến toàn thể cái Ngã. Nếu chúng ta đặt nó ở trạng thái ham muốn thì có
người nói : Khi con người sử dụng quyền năng sáng tạo của cái trí, con
người rất sung sướng nhưng đây đâu có sự ham muốn nào ? . Như vậy, sự
vui sướng bao gồm trọn cái Ngã. Mỗi khi các thể nhượng bộ trước cái Ngã
để cái Ngã mở rộng ra theo bản tính của nó thì con người cảm thấy sung
sướng. Người ta nói rất đúng : Sung sướng là tăng gia cảm giác . Mỗi lần
bạn sung sướng, luôn luôn bạn thấy gia tăng. Như cái vui ăn uống, một thú
vui thấp nhất. Bạn thấy vui sướng vì bạn đã được gia tăng bằng cách thâu
nhập một phần nào đó của vô ngã là thức ăn. Khi bạn hợp nhất với Ðấng Tối
Cao, bạn thấy sung sướng tột độ vì bạn được gia tăng tột độ để trở thành vô
biên. Vậy nếu câu sung sướng là gia tăng cảm giác có thể áp dụng cho hai
trường hợp khác biệt hẳn nhau vì nó cũng đúng cho các trường hợp khác.
Vậy vui sướng là gia tăng, trái lại, đau khổ là giảm thiểu.

Nếu bạn hiểu rõ điều nầy, triết lý của bạn về đời sống sẽ có tính cách
thực tế hơn vì bạn có thể giúp kẻ sa ngã một cách hữu hiệu. Ví dụ sự nghiện
rượu. Sở dĩ người ta thích rượu là vì với mấy chung rượu đầu, người ta cảm
thấy sự sống thêm nồng nàn, linh động, bởi vậy họ nói chuyện huyên
thuyên. Ðến khi say thì họ không còn thấy thú nữa : họ đã vượt qua giai
đoạn gia tăng.

Vậy tội lỗi có sức quyến rủ là vì nó đem lại cho con người cái cảm giác
rằng sự sống gia tăng và bạn không sao cứu vớt được một người tội lỗi nếu
không biết tại sao họ phạm tội. Vậy bạn hãy nhấn mạnh điều nầy và đem nó
ra thảo luận. Sự phân tích nầy chẳng những thích thú mà thật sự hữu ích
cho những ai muốn giúp đồng loại mình. Muốn giúp đỡ hữu hiệu, ta phải
hiểu biết nhiều.

Câu hỏi kế tiếp là tại sao Patanjali không chia các cảm xúc thành vui
sướng hay không vui sướng thay vì là đau khổ hay không đau khổ ? Người
Anh không ngần ngại trả lời : Người Ấn Ðộ là thế, họ bi quan nên chỉ nói
đến đau khổ và không đau khổ. Họ không biết gì đến sự vui sướng. Ðối với
họ vũ trụ dẫy đầy đau khổ . Câu trả lời nầy không đúng. Trước hết người Ấn
không bi quan mà lạc quan nhất trên đời. Các môn phái triết lý Ân Ðộ đều
nêu rõ rằng mục đích của mọi triết lý là chấm dứt đau khổ. Người Ấn lý luận
rất sâu sắc. Theo họ, con người không cần đi tìm hạnh phúc vì nó có sẵn ở
chúng ta và là tinh hoa của thực thể chúng ta. Kinh Upanishad há không
dạy : Cái Ngã là toàn phúc . Hạnh phúc lúc nào cũng ở ngay trong lòng bạn,
đó là trạng thái bình thường của bạn. Bạn không phải tìm ở xa, vì chắc chắn
bạn sẽ sung sướng nếu bạn biết vứt bỏ những điều mà người ta gọi là đau
khổ, chúng chẳng qua là sự bày vẽ của cái trí. Nếu có một điều thừa ấy là
đau khổ chớ không phải phúc lạc. Nếu đau khổ bị vứt bỏ thì hạnh phúc đến.
Vì vậy mà Patanjali nói : Cảm xúc gồm hai loại : đau khổ và không đau khổ .
Ðau khổ là một điều thừa thãi, tạm bợ. Cái Ngã là sự sống của Vũ trụ nên
toàn phúc. Trong Vũ trụ, không có một chỗ nào vĩnh viễn dành cho đau khổ.
Ðó là quan niệm của người Ấn Ðộ, họ lạc quan nhất.

Chúng ta hãy ngưng trong chốc lát và tự hỏi : Tại sao lại có đau khổ nếu
cái Ngã là toàn phúc ? . Là vì chính tại Nó là toàn phúc. Cái Ngã không sao
có thể hướng ra ngoài để biểu hiện nếu xung quanh nó chỉ toàn là phúc lạc.
Trong sự phúc lạc nầy, nó hoàn toàn vô thức. Trong phúc lạc vô biên, ta có
thêm một ít phúc lạc nữa cũng không ít gì. Trong một dòng nước chảy xuôi,
bạn có đổ thêm nước vào, nó cũng không nổi sóng và nó vẫn chảy mà
không lưu tâm đến mớ nước nó nhận thêm. Trái lại, nếu bạn đặt một
chướng ngại vật ở nó, nó dừng lại, sôi sục lên và tập trung lực lượng để xô
ngã chướng ngại. Cái gì trái nghịch, ngăn chận, mới tạo ở nó sự cố gắng. Ðó
là chức vụ chính yếu của đau khổ. Nó rất cần để đánh thức cái Ngã và gợi sự
chú ý ở nó. Chỉ khi nào cái Ngã bình an, sung sướng, mơ mộng cảm thấy các
lượn sóng đau khổ đập vào mình thì nó mới thức tỉnh. Cái gì đây, khác hẳn
với bản chất ta, cái gì mà chống đối khó chịu thế ? . Vậy là nó được đánh
thức và thấy cả một vũ trụ xung quanh mình : nó ý thức được ngoại cảnh.
Bởi thế, trong Tâm lý học, trong Yoga, căn cứ trên sự phân tích kỹ càng sự
vật, đau khổ được xem là một yếu tố quan trọng trong sự thực hiện Chơn
Ngã. Cái gì khác nó mới có thể kích thích nó hoạt động. Vì vậy, Patanjali nói
rằng Nhân thể hay Chơn thân, nơi chất chứa các chủng nghiệp, được tạo
thành bởi các kinh nghiệm đau khổ. Do đó mới có lời quan trọng nầy :
Nhiệm vụ đầu tiên của đau khổ là đánh thức cái Ngã, quay nó ra ngoại cảnh
và kích thích trạng thái hoạt động của nó .

Nhiệm vụ kế tiếp của đau khổ là tổ chức các thể. Có đau khổ con người
mới cố gắng, và nhờ các cố gắng nầy mà chất liệu trong các thể lần lần
được tổ chức. Nếu bạn muốn các bắp thịt của bạn nở nang, cân đối, điều
hòa, bạn phải cố gắng tập luyện; có thế, chúng ta mới nhận thêm sự sống
và trở nên mạnh mẽ. Ðau khổ cũng thế, nó giúp các thể hoạt động, đồng
thời tự phát triển và tổ chức . Như vậy, đau khổ chẳng những đánh thức cái
Ngã mà cón tổ chức các thể con người.

Nhiện vụ thứ ba của đau khổ là tinh lọc. Chúng ta luôn luôn cố gắng vứt
bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta đau khổ vì nó trái với bản chất của
chúng ta. Nhờ vậy, các thể trở nên những khí cụ tốt đẹp cho Chơn Ngã.

Nhiệm vụ thứ tư của đau khổ là huấn luyện. Các bài học quí báu nhất
trong đời đều nhờ đau khổ nhiều hơn là vui sướng.

Khi con người lớn tuổi như tôi mà quay lại nhìn quãng đời đã qua đầy
sóng gió, không ai không nhìn nhận các bài học vô giá của đau khổ. Nếu
cần, tôi có thể quên tất cả niềm vui của cuộc đời, nhưng tôi không muốn gạt
bỏ một đau khổ nào cả vì mỗi đau khổ là một ông thầy minh triết.

Nhiện vụ thứ năm của đau khổ là khai mở quyền năng của ta. Trong bài
thơ tuyệt tác Thời gian và Sa tăng, sau khi tả các cuộc chiến đấu và thất
bại, Edward Carpenter viết : Mỗi đau khổ tôi chịu trong thể nầy sẽ trở thành
một quyền năng để tôi sử dụng ở thể sau . Như vậy, đau khổ được chuyển
thành quyền năng.
Vì những lẽ trên, người hiểu biết không lùi bước trước đau khổ vì đau khổ
đối với họ là tinh lọc, minh triết và quyền năng.

Ðôi khi, đau khổ dồn dập nhiều cho đến đỗi con người trở nên khờ khạo
và vô dụng. Ðó thường là trường hợp của những ai quá đau khổ vào thời thơ
ấu. Dù sao, họ cũng gặt hái được quả tốt sau nầy. Ở quá khứ, họ đã gieo
những nhân ác thì ở kiếp nầy, họ không tránh được đau khổ; nhưng nếu họ
hiểu biết, họ có thể chuyển những đau khổ ấy thành những cơ hội thuận
tiện cho sự tiến hóa của họ.

Có lẽ bạn hỏi : Nếu đau khổ quí báu như thế thì ta cần gì được phúc
lạc ? . Phúc lạc cần, vì nó đưa đến sự giác ngộ và giúp Chơn Ngã biểu hiện.
Trong những lúc vui sướng, các thể rung động một cách điều hòa thay vì
chống chỏi như trong đau khổ và nhờ sự điều hòa nầy, con người tự phát
triển để tiến đến Chơn Ngã và giác ngộ. Nếu điều nầy đúng và chắc chắn là
đúng bạn thấy rằng sự vui sướng giữ một vai trò quan trọng trong thiên
nhiên, vì nó cùng một bản chất với Chơn Ngã và giúp Chơn Ngã biểu hiện dễ
dàng xuyên qua các thể. Do vậy, phúc lạc là một điều kiện cho sự giác ngộ.
Nhà huyền học quí trọng trạng thái xuất thần là vì vậy : trong lúc đó, họ
cảm thấy sung sướng cực độ. Một niềm an lạc phát sinh từ tình thương phơi
phới, tràn ngập tâm hồn họ và điều hòa các thể của họ. Chơn Ngã huy
hoàng hiện ra và họ nhận thấy tận mắt Ðấng Cao Cả mà họ tôn thờ. Thế rồi
sự giác ngộ đến và trong sự giác ngộ tuyệt diệu nầy, họ không còn lưu tâm
đến các cõi thấp. Chính vì cái Ngã thực hiện được trong giây lát bản chất
thiêng liêng của mình mà nó thấy được Ðấng Chí Tôn đồng bản chất với nó.
Vậy bạn đừng sợ sự an lạc như nhiều tín đồ vô minh. Một vài tôn giáo
khuyên nên tránh xa sự vui sướng y như là Trời không muốn các con của
Ngài vui vẻ. Lời khuyên ấy sai lầm, và là con đẻ của vô minh và sợ hãi. Cha
của sự sống là phúc lạc, Ngài không thể từ chối phúc lạc cho các con. Mọi
phúc lạc ở cõi Trần là một phản ảnh của sự sống thiêng liêng, một sự biểu
hiện của Chơn Ngã trong vật chất.
Vì vậy, vui sướng cũng như đau khổ đều có sự hữu ích của nó, và những
ai hiểu biết đều đón tiếp chúng nó nồng hậu như nhau, vì họ biết cách sử
dụng chúng nó. Họ không đồng hóa với cái nào cả, nếu nó đến thì họ nhận
vì họ biết mục đích của nó. Khi chúng ta biết nhiệm vụ của vui sướng và đau
khổ rồi, chúng nó không thể trói buộc hay lung lạc chúng ta. Nếu đau khổ
đến, chúng ta nhận và sử dụng nó. Nếu là vui sướng thì chúng ta cũng nhận
và sử dụng. Trên đường đời chúng ta hãy đón tiếp niềm nở cả đau khổ và
vui sướng. Cái nào đến chúng ta cũng vui vẻ, cái nào không đến chúng ta
cũng không tham cầu. Chúng ta sử dụng cả hai để đi tới cứu cánh, chúng ta
trở nên bình thản và đạt được hạnh buông xả thật sự (Vairagya). Như vậy,
vui sướng và đau khổ đều trôi qua dưới cái Ngã phúc lạc đời đời.

B À I D I Ễ N T H U Y Ế T IV

YOGA TRÊN PHƯƠNG DIỆN THỰC TẾ

Hôm qua, khi trình bày về phần thứ ba của đề tài, tôi có lưu ý quí bạn về
các trạng thái của cái trí. Tôi có nói rằng chữ vritti có thể xem như là sự
thực tại của cái trí hay cách thức biểu hiện của nó. Ðó là những trạng thái
mà chúng ta phải ngăn chận, diệt trừ để thực hiện một sự an tĩnh hoàn
toàn. Lý do của các cố gắng nầy là rán tạo một trạng thái thuận tiện cho
Thượng trí tuôn xuống Hạ trí. Nói cách khác, chúng ta cố tạo một trạng thái
không dao động, lắng yên để Hạ trí có thể phản chiếu Thượng trí như mặt
hồ phẳng lặng phản chiếu các ngôi sao. Bạn hẳn nhớ một câu của
Upanishad kém khoa học và ít chuyên môn nhưng đẹp đẽ, câu nói rằng
trong sự an tĩnh của cái trí và sự yên lặng của giác quan, con người có thể
chiêm ngưỡng sự huy hoàng của cái Ngã. Hôm nay, chúng ta tìm hiểu phải
làm như thế nào để tạo tâm trạng an tĩnh đó.

SỰ NGĂN CHẬN CÁC TRẠNG THÁI CỦA CÁI TRÍ


Chỉ có hai cách để ngăn chận thể thức biểu hiện của cái trí. Ðức Krishna
có dạy hai cách đó trong Bhagavad Gita. Khi Arjuna than rằng cái trí hung
hăn, mạnh mẽ, bất trị, không khác gió, Ngài trả lời rất rõ ràng : Hỡi chiến sĩ,
chắc chắn là cái trí luôn luôn xao xuyến nhưng chúng ta có thể chủ trị nó
bằng sự luyện tập bền bĩ (abhyasa) và sự buông xả (vairagya) .

Ðó là phương pháp duy nhất làm cho cái trí náo động, quay cuồng trở
nên an tĩnh, im lặng. Nếu vaigraya và abhyasa được áp dụng đều đặn, kết
quả sẽ chắc chắn.

Ý nghĩa của hai chữ quen thuộc này như thế nào? Vairagya hay buông xả
là từ bỏ mọi dục vọng, mọi quyến rủ của giác quan, là thoát ra khỏi các mối
dây ràng buộc của sự đam mê ngoại vật, Raga là ham muốn hay dây trói ta
vào sự vật. Vi (đổi thành vai bởi một luật văn phạm) có nghĩa là không hay
trái lại. Vậy vairagya là không ham muốn, không dục vọng, không liên hệ
với sự vật bên ngoài. Chúng ta đã biết suy tư là đặt những mối liên quan.
Như vậy khi ta diệt trừ các mối liên quan này thì cái trí trở nên an tĩnh : đó
là Yoga. Chúng ta phải xa lìa, phải vứt bỏ tất cả raga. Chúng ta phải thực
hiện các trạng thái vắng lặng, trong đó mọi dục vọng đều tiêu tan, các cám
dỗ đều im bặt, và các trói buộc đều cắt đứt . Khi các mối dây ràng buộc lòng
người đều được cắt đứt thì con người sẽ bất tử .

Nhưng làm sao có thể đạt được hạnh buông xả ? Chỉ có một cách là lần
lần từ bỏ ngoại vật nhờ tiếng gọi thiết tha của cái Ngã. Lúc nào cái Ngã
cũng kêu gọi chúng ta. Khi không còn raga và cắt đứt mọi mối liên quan với
ngoại vật, cái Ngã riêng biệt cảm thấy được thoải mái và tự do, và chừng đó
nó chỉ còn một sự ham muốn mà thôi, ấy là sự hòa hợp của Ðại Ngã duy
nhất. Nhưng không phải đầu hôm sớm mai và một sự cố gắng vượt bậc mà
người quí mến Yoga có thể đạt được hạnh buông xả. Họ phải luyện tập đều
đều, hằng ngày không ngừng nghỉ. Ðó là ý nghĩa của chữ abhyasa : thực
tập. Thực tập không chỉ có nghĩa là tham thiền dù rằng nó thường được
hiểu như vậy. Thực tập là nhất quyết xả ly tất cả các sự vật quyến rủ.
Ðể diệt trừ sự đam mê, bạn cần phải luyện tập ngay trong các công việc
hằng ngày. Nhiều người, như tôi đã nói, hiểu buông xả là tham thiền. Ðó là
lý do ít người đạt được Yoga. Một sự lầm lạc khác là chờ đợi những cơ hội
lớn. Mảng lo chuẩn bị cho các cuộc hi sinh lớn, con người quên hẳn những
việc nhỏ, vì vậy mà tâm trí bị trói buộc vào các việc này bằng vô số mối dây
bé nhỏ. Vì chúng nó nhỏ, người ta quên chúng nó và chỉ đợi cái lớn, nhưng
cái lớn lại không đến, do đó, ta không có dịp tập hạnh dứt bỏ. Bằng cách
kiềm hãm các dục vọng từ giây từ phút, chúng ta trở nên bình thản đối với
mọi sự vật xung quanh. Nhờ vậy khi có cơ hội lớn đến, chúng ta khai thác
được ngay tuy ta ít nghĩ đến nó. Người yogui phải tập hằng ngày, hằng giờ,
có thế họ mới thành công. Vì các cố gắng này buồn bã, cực nhọc và phải
bền bĩ, liên tục mà nhiều tu sĩ đâm ra chán nản.

Ở đây tôi xin nói trước cho bạn biết sự nguy hiểm về một lối đạt nhanh
chóng sự buông xả. Có người bảo bạn : Hãy tận diệt ở bạn sự trìu mến, yêu
thương, hãy cứng rắn như sắt đá, hãy lãnh đạm đối với mọi người. Hãy bỏ
vợ con, cha mẹ và vào rừng sâu, vào sa mạc. Hãy đặt một bức tường giữa
bạn và mọi vật quyến rủ. Như thế bạn sẽ buông xả dễ dàng tất cả. Ðúng
thế, lối từ bỏ ấy rất dễ nhưng đối với nó, bạn diệt ở bạn chẳng những các
dục vọng thôi mà còn nhiều điều khác nữa. Bạn tự giam nhốt sau một tấm
tường dày cái Ngã tràn đầy tình thương của bạn. Bạn bao mình bằng một
lớp vỏ dày không sao đập vỡ. Bạn trở nên hung tợn thay vì dịu dàng, bạn
sống cho riêng mình thay vì mở rộng hai cánh tay giúp đỡ. Bạn tiêu diệt
tình thương cùng với dục vọng mà quên rằng tình thương luôn hướng về cái
Ngã riêng rẽ được hòa hợp với các Ngã riêng rẽ khác, còn dứt bỏ dục vọng
là lạnh nhạt đối với vật chất, hai điều ấy khác nhau xa. Bạn phải quí mến
tình thương bởi vì tình thương là tinh hoa của cái Ngã. Bạn đừng làm tổn
hại nó trong lúc bạn hăng say diệt trừ ham muốn. Tình thương là sự sống ở
chúng ta, nhằm liên hợp các Bản Ngã riêng rẽ, và lôi cuốn chúng ta lại với
nhau. Mỗi người trong chúng ta là một thành phần của một toàn thể vĩ đại.
Hãy diệt dục vọng vì dục vọng thuộc các thể chớ đừng diệt tình thương là
bản chất của cái Ngã. Nó là một mãnh lực đời đời giúp chúng ta tiến lên cái
Ngã. Trên con đường hướng thượng đó, thà là đau khổ cả ngàn lần còn hơn
là chối bỏ nó và khép chặt lòng đối với các mối trìu mến, yêu thương. Hãy
đau khổ vì tình thương dù bạn phải đau khổ nhiều. Hãy thương yêu dù rằng
thương yêu là con đường đau khổ. Các đau khổ sớm muộn gì cũng phải tiêu
tan, chớ tình thương thì tăng trưởng mãi mãi. Trong sự hợp nhất của cái
Ngã, bạn sẽ thấy tình thương có một sức hấp dẫn phi thường để kết hợp vạn
vật riêng rẽ.

Nhiều người vì muốn diệt trừ tình thương mà tự mình hạ thấp dưới mức
con người thay vì trở nên thánh thiện. Do một sự hiểu lầm mà họ thoái hóa.
Vậy cái Ngã chỉ phát triển được là nhờ lòng thương. Người ta nói rằng các
Ðấng Chơn Sư còn yêu nhân loại hơn là người mẹ yêu đứa con trai đầu lòng.
Tình thương của Ngài không phải là một lối thương yêu lạnh nhạt, trái lại,
nó nồng nhiệt không khác sự đam mê của những linh hồn thấp kém. Hãy đề
phòng những ai dạy bạn phải diệt tình thương hay phải lãnh đạm đối với
nhân loại. Ðó là con đường của tà đạo.

THAM THIỀN HỮU CHỦNG VÀ VÔ CHỦNG

Bây giờ, ta tìm hiểu sự tham thiền. Thế nào là tham thiền ? Nó không thể
giống nhau đối với mọi người. Tuy nguyên tắc y nhau ở chỗ nhằm đạt sự đại
định của tâm trí, phương pháp phải thay đổi tùy tính khí người thực tập.
Phải chăng bạn là người thông minh thích lý luận ? Phải chăng bạn thường
tập lập luận mạch lạc với những luận cứ vững vàng ? Bạn hãy khai thác sự
huấn luyện đó. Tuy nhiên, bạn đừng bao giờ nghĩ rằng chỉ có một sự cố
gắng nào đó có thể đem ngay sự an tĩnh lại cho bạn. Ðường lối lập luận của
bạn phải diễn tiến từ bước một, chặt chẽ, rõ ràng không một sơ hở dù bằng
kẻ tóc đường tơ. Ðừng để trí bạn sang qua một tư tưởng khác không liên hệ.
Hãy giữ nó trong con đường nhất định rồi lần lần nó sẽ trở nên vững vàng,
an định. Khi bạn đạt đến điểm tột đỉnh của luận lý, khi bạn đến cái mức cuối
cùng của một cuộc suy luận mạch lạc, khi cái trí của bạn không thể đưa bạn
xa hơn và bạn cũng không thấy gì xa hơn nữa thì chừng đó, bạn hãy ngừng
lại và chú định vào điểm cao tột ấy, bạn hãy bám vào mức cuối cùng đó,
đồng thời, bạn hãy giữ cái trí ổn định, sáng suốt trong trạng thái đợi chờ.
Sau một thời gian, bạn có thể an nghỉ rất lâu trong trạng thái nầy.

Trái lại, nếu trí tưởng tượng dồi dào hơn sự suy luận thì phương pháp
sùng tín thích hợp hơn. Bạn sẽ nhờ vào trí tưởng tượng. Bạn hãy hình dung
trong trí bạn một cảnh nào đó đối với hình ảnh Ðấng bạn tôn thờ. Lần lần,
từ nét một, bạn xây dựng cảnh trí nầy như họa sĩ vẽ một bức tranh, có khác
chăng là bạn dùng cây cọ của trí tưởng tượng. Lúc đầu, công việc tiến chậm
chạp, nhưng về sau khi bạn nghĩ tới thì lập tức nó hiện ra. Bạn hãy có mãi
trong trí cảnh vật ấy, nhưng bạn bớt chú ý đến các điều phụ thuộc mà tập
trung vào hình ảnh chủ yếu là Ðấng Cao Cả mà bạn tôn thờ. Khi bạn định trí
bạn vào một điểm duy nhất như vậy, ấy là bạn huấn luyện nó. Với trí tưởng
tượng của bạn, lần lần nó sẽ ổn định theo ý muốn của bạn. Ðối tượng của
lòng sùng tín tùy tôn giáo của mỗi người. Ðối với đa số quí bạn, đối tượng
ấy là Ðấng Krishna, vậy bạn hãy hình dung Ngài trong một cảnh nào đó của
cuộc đời Ngài, ví dụ, trong trận Kurukshetra. Hãy tưởng tượng quân sĩ đôi
bên dàn trận và Arjuna ngã trong xe, chán nãn, thất vọng trong lúc đó,
Ðấng Krishna hiện ra như một bạn thân, một ông thầy dẫn đường, chỉ nẻo.
Sau khi chú định vào hình ảnh của Ngài, các bạn hướng trọn tâm hồn lên
Ngài trong một lòng tôn sùng nồng nhiệt, rồi bạn hãy nghỉ ngơi ở Ngài, bình
an, yên lặng trong trạng thái đợi chờ.

Ðó là lối tham thiền hữu chủng. Chủng đây là hình ảnh chủ yếu hay điểm
cuối cùng của lý luận. Bạn đã lần lần tập cái trí lang thang của bạn trở nên
vững vàng, ổn định và sau cùng, bạn đã thực hiện sự thăng bằng ở hình ảnh
hay tư tưởng chủ yếu. Bây giờ, bạn hãy rời bỏ cái chủng ấy và giữ cái trí ở
mức đã đạt trong trạng thái dũng mãnh, linh động. Ðây là sự tham thiền vô
chủng. Bạn hãy giữ sự thăng bằng và chờ đợi trong im lặng và rỗng không.
Bạn ở trong đám mây, trong trạng thái mà tôi đã diễn tả. Thình lình, một sự
biến đổi hiện ra, một sự biến đổi không hề lầm lộn, phi thường, kỳ diệu, khó
tin. Trong sự im lặng đó, một hình thể sẽ hiện ra. Trong bầu trời không sao
ấy, một Thái Dương sẽ lộ dạng, và trong ánh sáng của Thái Dương đó, bạn
sẽ hiểu rằng Ngài và bạn là một, rằng cái rỗng không đối với mắt trần quả
thật là đầy đặn đối với mắt thánh linh, rằng cái gì im lặng đối với tai phàm
quả là tràn đầy âm thanh tuyệt diệu đối với tai thánh linh.

Như vậy, với đường lối công phu nầy, bạn lần lần chủ trị được tâm trí
bạn, chế ngự được tư tưởng bạn để đạt sự sáng suốt hoàn toàn. Ở đây tôi có
một lời căn dặn. Muốn sang từ lối tham thiền hữu chủng sang giai đoạn
trên, bạn phải có thể chủ định vào chủng nầy trong một thời gian rất lâu với
một cái trí sáng suốt, linh động. Ðó là sự rỗng không của cái trí chú định
chớ không phải sự rỗng không, khi nào bạn đã huấn luyện trí bạn đến mức
có thể tập trung lâu vào một điểm duy nhất và vẫn ở trong trạng thái linh
hoạt khi điểm ấy không còn.

Ðôi khi có người hỏi: Giả sử trong khi thực tập, tôi không còn ý thức xác
thân tôi và vươn lên được một cõi trên, tôi còn có thể trở về xác thân tôi
không? Cái ý niệm không trở lại với xác thân khiến nhiều người lo sợ dù họ
biết vật chất là ảo ảnh và tinh thần là tất cả, và họ phải chịu nhiều khổ đau
mới có thể lìa bỏ cõi trần vật chất nầy. Bạn không nên sợ như thế vì bạn sẽ
được kéo trở lại cõi trần bởi dĩ vãng các bạn, nó vẫn tồn tại mãi.

Một câu hỏi khác cùng một loại :Tại sao trạng thái Pralaya phải chấm dứt
để nhường chỗ cho một chu kỳ Manvantara mới ? Tôi sẽ trả lời theo quan
điểm của một nhà tâm lý Ấn Ðộ : dù bạn có diệt được cái chủng của tư
tưởng nhưng bạn không diệt được các vết của nó còn lưu lại. Cái vết đó là
một cái mầm thúc giục bạn về với vật chất hầu có thể biểu hiện trở lại. Cái
vết này được gọi là samskara, sự thiếu vật chất. Dù bạn có vươn lên cao
khỏi cái trí cụ thể, dấu vết của những tư tưởng của bạn vẫn còn. Bạn không
sao thoát khỏi cái dĩ vãng của bạn. Bao giờ quãng đời của bạn chưa chấm
dứt cái samskara ấy sẽ đưa bạn trở lại cõi trần. Cũng chính nó đưa con
người tái sinh khi thời gian ở cõi thiên đàng chấm dứt. Ðó là Luật Tiết Ðiệu.
Quyển Ánh Sáng Trên Ðường Ðạo, một quyển sách huyền học trứ danh, có
nói đến điều này. Tác giả còn thêm : Ngoài sự im lặng (là sự an tĩnh), một
tiếng sẽ vang lên và nói : Thế là chưa đủ. Bạn đã gặt, bây giờ bạn phải gieo
và vì biết rằng tiếng ấy tự nó là sự im lặng, bạn sẽ vâng lời . Ý nghĩa của
câu: Bạn đã gặt bây giờ bạn phải gieo là gì ? Câu đó nói lên Luật Tiết Ðiệu,
nó điều động từ các Ðấng Thượng Ðế, các Ðấng Ishvara đến các Ðiểm linh
quang riêng rẽ. Ấy là luật thở ra và hít vào. Một vị Thượng Ðế có thể bỏ vũ
trụ của Ngài, và vũ trụ của Ngài sẽ tan rã khi Ngài quay nhìn vào trong vì
chính Ngài đã tạo ra nó. Ngài có thể lao mình vào cõi sâu thẳm vô cùng, cái
Samkara của vũ trụ trước vẫn còn dưới hình thức một ký ức ẩn tàng, một
mầm maya mà Ngài không sao thoát khỏi. Nếu ngài thoát được, Ngài không
còn là Isvara mà trở thành Brahma Nirguna. Không bao giờ có Ishvara mà
không có maya, không bao giờ có maya mà không có Ishvara. Ngay từ thời
kỳ pralaya, đến một lúc nào đó, sự nghỉ ngơi sẽ chấm dứt và sự sống bên
trong đòi biểu hiện. Thế là nó quay ra ngoài và một vũ trụ mới hiện ra. Ðó
là định luật nghỉ ngơi và hoạt động gồm hai thời kỳ tiếp nối nhau. Bánh xe
của vũ trụ và của đời sống con ngưới cứ quay mãi như thế. Bởi vì trong vĩnh
cửu, nghỉ ngơi và hoạt động luôn luôn hiện diện cùng một lúc nhưng trong
cái mà chúng ta gọi là thời gian, chúng nó lại tiếp nối nhau không ngừng.

SỰ SỬ DỤNG CHÂN NGÔN

Công việc chú định rất khó khăn. Làm cách nào cho nó trở nên dễ ? Tôi
sẽ lưu ý bạn đến một việc rất hữu ích cho những người sơ cơ.

Các thể của bạn bao giờ cũng lau chau. Mỗi rung động xảy ra trong nó
đều tạo một biến đổi tương ứng trong tâm thức. Có cách nào ngăn cản các
rung động ấy để tâm thức trở nên ổn định, an tĩnh không ? Có một cách là
đọc chân ngôn. Ðọc chân ngôn là một cách máy móc nhằm ngăn chặn sự
rung động. Ở đây, bạn không dùng ý chí hay trí tưởng tượng. Một chân
ngôn là một loạt âm thanh nhất định tiếp nối nhau. Khi loạt âm thanh ấy
được lập đi lập lại nhiều lần nó hòa các thể của bạn theo cùng một tiết điệu
với nó. Chân ngôn được sử dụng chẳng những ở Ấn Ðộ mà còn ở Phật Giáo,
Cơ Ðốc Giáo, Hồi Giáo và trong Parsis. Chân ngôn không thể phiên dịch vì
phiên dịch thay đổi âm thanh và chân ngôn không còn là chân ngôn nữa. Dù
sự phiên dịch của bạn có thanh thoát, phấn khởi thế nào đi nữa, khi dịch ra
thì chân ngôn không còn sức ổn định tâm thức được. Một bài thơ, một lời
cầu nguyện đều có thể dịch nhưng chân ngôn thì không. Thơ có một sức
hứng khởi có thể đưa tâm hồn bạn đến một trạng thái cao đẹp, siêu việt
nhưng nó không phải là chân ngôn.

SỰ ÐỊNH TRÍ

Chúng ta hãy xem qua sự định trí. Bạn hãy hỏi bất kỳ một người nào có
định trí được không thì họ đáp : Ðiều đó rất khó, tôi đã làm thử nhưng
không được . Nhưng nếu bạn cũng đặt câu hỏi đó dưới một hình thức khác.
Bạn có thể chú ý vào một công việc không ? thì họ trả lời : Ðược, tôi có thể
chú ý được .

Ðịnh trí là chú ý. Trạng thái chú ý là định trí. Nếu bạn chú ý vào công
việc bạn làm, đó là bạn định trí. Nhiều người tập ngồi thiền và tự hỏi tại sao
không thành công. Nhưng làm sao bạn thành công được khi bạn chỉ tham
thiền nửa giờ, trong lúc trí bạn vẩn vơ hai mươi ba giờ rưởi kia ? Như nàng
Penelope tháo khúc lụa dệt, bạn làm việc có nửa giờ rồi bạn lại phá vỡ công
việc ấy suốt ngày lẫn đêm. Muốn trở thành nhà yogui, lúc nào bạn cũng
phải chú ý. Bạn phải tập định trí từng giờ, từng phút trong đời sống hoạt
động của bạn. Thường bạn không làm thế; trái lại, bạn để trí bạn vẩn vơ từ
giờ nầy qua giờ nọ rồi bạn hỏi sao bạn lại không thành công. Sự thành công
của bạn sẽ là một việc lạ. Chú ý vào mọi công việc, tôi biết đó là một điều
khó. Vậy trong lúc đầu, bạn sẽ chọn một công việc nhất định và chú ý trọn
vẹn nào đó. Bạn đừng để cái trí thẩn thờ xao lảng. Công việc đó là công việc
gì cũng được, dù là cộng những hàng số dài hay đọc một quyển sách. Quan
trọng không phải là công việc mà là trạng thái của cái trí bạn. Ðó là cách
duy nhất để tập định trí. Hãy hết sức chú ý vào công việc bạn làm và khi
làm xong thì đừng nhớ đến nó nữa. Thực tập đều đặn công việc này trong
vài tháng, bạn sẽ thấy sự định trí trở nên dễ dàng. Vả lại, thân thể của
chúng ta sẽ tự nó quen rất mau với công việc. Nếu bạn bắt nó làm đều đặn
một công việc thì sau đó, nó tự làm một mình và rồi bạn sẽ thấy rằng bạn
có thể làm đôi ba việc cùng một lúc. Thí dụ ở Anh quốc, đàn bà rất thích
đan. Lúc đầu, khi tập đan, cô gái phải chú ý rất nhiều vào các ngón tay của
cô, nếu không cô sẽ đan lộn. Nếu cô đan như thế nhiều ngày,các ngón tay
của cô sẽ quen với công việc và sẽ tự đan lấy mà không cần cô phải chú ý
đến nữa. Từ đó, cô giao công việc cho các ngón tay để dùng tâm trí vào việc
khác. Bạn có thể huấn luyện trí bạn như cô gái huấn luyện ngón tay. Trí bạn
cũng là một thể (thể trí) nên nó có thể được huấn luyện để tự động làm
việc, và cuối cùng, tâm thức siêu việt của bạn sẽ định vào Ðấng Tối Cao
trong khi tâm thức thấp trong xác thân làm các công việc của thể xác và nó
sẽ làm một cách hoàn hảo vì nó đã được huấn luyện kỹ càng.

Với các cố gắng nầy, bạn sẽ rèn luyện được các đức tính cần thiết, bạn sẽ
trở nên dũng mãnh, thanh cao và có thể thực tập Yoga hữu hiệu.

CÁC TRỞ NGẠI

Trước khi bàn đến đức tính cần thiết cho sự thực tập nầy, chúng ta hãy
xem qua các trở ngại mà Patanjali có kể rõ. Chúng ta không thể tìm hiểu tỉ
mỉ vì không đủ thì giờ.

Sau đây là một ít trở ngại ấy. Ðầu tiên là sự bệnh hoạn : người đau ốm
không thể tập Yoga vì Yoga đòi hỏi một sự cố gắng lớn lao và một thân thể
tráng kiện. Cái trí bạc nhược cũng là một trở ngại vì Yoga đòi hỏi một cái trí
lanh lẹ, dũng mãnh. Sự nghi ngờ , nó bẻ gãy sự cương quyết. Sự chểnh
mảng : đây là sự khó khăn lớn nhất cho người sơ cơ, họ đọc sách một cách
lơ đểnh và hiểu một cách lờ mờ. Sự lười biếng : một kẻ lười không sao trở
thành một nhà yogui được vì không chịu đựng nổi các rán sức to tác của
Yoga. Tính nông nổi : nó rõ ràng là một trở ngại. Những ý niệm sai lạc,
những xét đoán phù phiếm rất tai hại vì chánh kiến rất cần cho nhà yogui :
tư tưởng của họ phải đúng với sự thật bên ngoài. Họ phải chân thật trong
lời nói và việc làm; một người suy xét nông cạn, dại khờ, bất thông, không
biết phân biệt điều nào quan trọng điều nào không, thì không sao tập Yoga
được. Sau cùng, tính bất thường : con người thay đổi ý kiến mãi dù là chút
ít thôi cũng không thể thành công.

NHỮNG KHẢ NĂNG VỀ YOGA


Tất cả đều có thể tập Yoga được không ? Không. Nhưng những người
được huấn luyện đều có thể chuẩn bị thực tập trong tương lai. Dù sao,
muốn tiến bộ nhanh chóng, bạn phải có những khả năng riêng biệt. Ở
ngành nào, ở khoa nào cũng thế, dù chúng ta không có khả năng đặc biệt,
chúng ta cũng có thể học được nhưng khó mà trở nên một nhân tài. Ở khoa
Yoga, bất cứ ai có chút thông minh đều có thể học được và có lợi ích khi
thực tập, nhưng nếu chúng ta không có khả năng đặc biệt ngay từ lúc đầu,
ta khó thành công trong kiếp nầy. Và như thế là phải : ở mọi khoa, muốn
nổi danh sinh viên phải có thiên tư , thì Yoga, khoa học của các khoa học,
cũng đòi hỏi nhiều đức tính đặc biệt. Tỉ như có người hỏi : Tôi có thể trở nên
một nhà đại toán học không ? . Tôi sẽ trả lời : Có thể, nếu bạn có khả năng
bẩm sinh về toán. Trong trường hợp chưa có, bạn không thể thành công
trong kiếp nầy . Ðiều đó không có nghĩa là bạn không nên học. Muốn trở
nên một nhà toán học trứ danh, bạn phải có thiên tư về toán. Có thiên tư về
toán như vậy nghĩa là bạn đã có học nó ở trong nhiều kiếp trước. Về Yoga
cũng vậy. Ai ai cũng có thể tìm hiểu, tập luyện chút ít, nhưng muốn trở nên
một nhà yogui thật sự, bạn phải chuyên cần trong nhiều kiếp. Có được thế
thì kiếp nầy bạn mới đủ khả năng cần thiết.

Muốn thành công ở khoa Yoga, hành giả phải có ba đức tính quan trọng.
Ðầu tiên bạn phải ham mê nồng nhiệt . Sự ham mê nầy sẽ diệt trừ các ham
muốn khác, sẽ cắt đứt các mối dây ái dục kết chặt con người vào ngoại giới.
Nó sẽ còn giúp bạn san bằng mọi khó khăn trên con đường của bạn. Bạn
phải tin chắc rằng cuối cùng bạn sẽ thành công và hãy cương quyết tiến
đến thành công. Sự ham mê của bạn phải nồng nhiệt để mỗi khi một khó
khăn xảy ra, nó càng mạnh mẽ hơn. Khó khăn phải như dầu chế vào lửa
thiêng của nhà yogui. Càng gặp khó khăn họ càng cương quyết.

Nếu bạn không có lòng ham mê mạnh mẽ nầy, đó là dấu hiệu bạn còn
mới mẻ. Tuy nhiên, bạn có thể chuẩn bị ngay từ kiếp nầy. Ðiều bạn nên lưu
ý là ham mê không phải tự nhiên mà phát sinh từ trí bạn, từ tư tưởng bạn.
Khi bạn quan sát kỹ, bạn thấy rằng chính trí nhớ và trí tưởng tượng tạo nên
ham mê. Chính chúng là khả năng sáng tạo và khai mở các quyền năng của
bạn. Bạn càng nghĩ đến điều bạn yêu thích thì sự ham mê điều ấy càng trở
nên mạnh mẽ. Vậy nếu bạn càng nghĩ đến Yoga như là một điều cao đẹp
bạn càng ham mê nó. Vậy bạn hãy khai thác tư tưởng bạn nếu bạn muốn
yêu thích Yoga. Bạn hãy tin rằng bạn có thể tập Yoga. Bạn hãy nghĩ đến kết
quả của khoa nầy và các lợi ích mà bạn có thể mang lại cho đời nếu bạn trở
thành một nhà yogui, rồi lần lần sự ham mê Yoga của bạn sẽ tăng cường.
Như vậy, tư tưởng chuyển biến sự ham muốn ở lòng bạn. Tôi lập lại, sự ham
muốn tự nó không thể tạo một sự ham muốn. Nếu bạn muốn yêu thích một
điều gì mà bạn chỉ giới hạn trong lãnh vực ham muốn thì bạn sẽ bất lực.
Bạn phải sang một lãnh vực khác là lãnh vực tư tưởng, và nhờ tư tưởng, bạn
có thể làm cho chính bạn ham mê đúng như bạn muốn, nếu bạn áp dụng
một phương pháp thích ứng. Phương pháp nầy thật ra không có gì khó. Tại
sao bạn muốn có một sự vật ? Vì bạn nghĩ nó sẽ làm cho bạn sung sướng
hơn. Nhưng tỉ như do kinh nghiệm, bạn biết nó chỉ đem lại đau buồn, sầu
não, khốn khổ thay vì hạnh phúc thì kinh nghiệm đó là một phương tiện để
dứt bỏ sự ham muốn. Bạn hãy nghĩ đến kết quả cuối cùng. Bạn hãy để cái
trí bạn suy tư lâu đến các yếu tố đau khổ của sự vật. Thay vì nghĩ tới sự vui
sướng ngắn ngủi, bạn hãy nhìn vào các đau khổ ê chề đi theo sự thỏa mãn.
Sau một tháng làm công việc nầy, bạn sẽ không còn ham muốn vật đó nữa
mà lại ghê sợ nó. Bạn đã liên kết nó với đau khổ trong trí bạn thì đương
nhiên, bạn lui chân trước nó. Bạn không ham muốn nó và đã diệt trừ sự
ham muốn bằng trí tưởng tượng. Không có một phương pháp diệt trừ tật
xấu nào hữu hiệu hơn là sự hình dung trong trí các hậu quả tai hại của nó.
Khuyên một kẻ sắp sa ngã hãy nghĩ đến một người trụy lạc già nua, tả cho
họ thấy ông lão bệnh tật, gầy còm, đau khổ nầy, đương nhiên họ sẽ lui chân
trước con đường trụy lạc và không còn ham muốn những sự vật trước kia
đã quyến rủ họ. Vậy bạn phải nhờ trí tưởng tượng của mình để diệt trừ
những ham muốn xấu xa và tăng cường những ham mê cao đẹp.

Ngoài sự ham mê nồng nhiệt, bạn còn phải có một ý chí dũng mãnh. Ý
chí chẳng qua là sự ham mê đã được chuyển biến, và sự ham mê nầy không
còn là ngoại cảnh chi phối mà xuất phát từ nội tâm. Nếu ý chí của bạn còn
yếu, bạn hãy cố tăng cường nó. Ðối xử với nó như đối xử với một vật yếu
đuối khác và cố làm cho nó mạnh bằng sự luyện tập. Nếu một cậu trai biết
hai cánh tay của cậu yếu thì cậu nói : Cánh tay tôi yếu, tôi sẽ tập thể thao,
tôi tập đu tay, tôi sẽ mạnh . Ðối với ý chí cũng thế. Sự tập luyện sẽ tăng
cường ý chí còn yếu của bạn.

Thí dụ, bạn nhất định làm một việc gì đó mỗi buổi sáng và cố làm điều
đó. Lúc đầu, chỉ chọn một điều thôi vì còn yếu. Tuy bạn cố gắng, bạn sẽ hổ
thẹn vì không thể làm điều đó đều đặn, đúng giờ. Nếu bạn làm được trong
một ngày, bạn cố tập như vậy trong vài tuần rồi nửa tháng. Sau đó, bạn sẽ
chọn một công việc khó khăn hơn. Bằng sự bắt buộc này, bạn sẽ tăng cường
ý chí và sức lực nội tâm. Bạn hãy khởi sự bằng một sự ham mê nồng nhiệt
rồi lần chuyển nó thành một ý chí dũng mãnh.

Ðiều kiện cần thiết thứ ba cho Yoga là một trí thông minh sắc bén và
rộng rãi. Bạn phải chủ trị trí bạn, nhưng trước hết, bạn phải có một cái trí
để chủ trị. Do đó, phải mở mang trí hóa bạn. Bạn hãy học hỏi. Tôi không
định nói : học hỏi là đọc sách. Tôi muốn nói : học hỏi là suy tư. Bạn có thể
đọc một lố sách mà trí vẫn yếu đuối như lúc đầu, nhưng nếu bạn đọc cẩn
thận một quyển sách chọn lọc, sự đọc chậm rãi và sự suy tư kỹ càng sẽ nuôi
dưỡng và mở mang trí bạn.

Ðó là những điều bạn cần : một ham mê mạnh mẽ, một ý chí sắt đá, một
thông minh sắt bén. Ðó là những đức tính bạn cần phát triển để tập Yoga.

RA ÐI VÀ TRỞ

Sự ham mê của bạn sẽ chuyển mau thành ý chí nếu bạn nhận thức rằng
nhân loại tiến hóa theo hai con đường : con đường ra đi và con đường trở
về.

Trên Con Ðường Ra Ði (Marga of Pravritti) mà đa số nhân loại đang theo,


ham mê là cần thiết và hữu dụng. Ở con đường nầy, con người càng ham
mê nhiều, càng tiến hóa mau. Ham mê là động cơ thúc giục họ hành động.
Không ham mê, họ dã dượi, lờ đờ, không tiến. Tại sao Thượng Ðế Ishavara
lại tạo ra đủ thứ sự vật để kích thích lòng ham muốn, nếu Ngài không nghĩ
rằng ham mê rất cần cho sự tiến hóa ? Ngài đối xử với nhân loại như một
người mẹ đối với con. Khi con tập đi, người mẹ không giảng dạy về các lợi
ích của sự đi đứng, cũng không giải thích các bắp thịt ở chân phải cử động
như thế nào. Bà giơ cao một món đồ chơi đẹp đẽ và nói : Con hãy bước lại
đây . Sự ham muốn bùng dậy ở đứa con. Ðứa con lúc đầu bò tới sau tập
đứng, tập đi Thượng Ðế Ishvara cũng đặt đủ thứ đồ chơi chung quanh
chúng ta như thế, nhưng luôn luôn đặt ngoài tầm tay của chúng ta và Ngài
nói : Các con hãy lại lấy các cái nầy. Ðây là tình yêu, là tiền bạc, là danh
vọng, là địa vị, hãy lại mà lấy. Hãy bước lại đây, hãy tiến lên ! Và y như trẻ
con, chúng ta cố gắng ngày đêm tiến lên để chụp lấy các món đồ chơi đó.
Nhưng khi ta vớ được tới chúng nó thì chúng tan ra và trở thành vô dụng.
Con người tranh đấu khổ nhọc biết bao nhiêu để được sang giàu, và khi trở
nên triệu phú rồi họ nhìn đồng tiền không biết phải làm gì. Gần đây, tôi đọc
báo thấy một nhà triệu phú người Mỹ đi bộ từ tỉnh này sang tỉnh khác để
phân phát tài sản to lớn của ông. Ông đã học xong một bài học. Ở các kiếp
sau, không bao giờ ông còn chịu cực để có cái thứ đồ chơi mà người ta gọi
là giàu sang ấy nữa. Ham mê danh vọng và quyền thế kích thích con người
gắng công rất nhiều nhưng đến khi đoạt được thì chúng không còn thích
thú nữa. Một chính trị gia lỗi lạc được mọi người tôn sùng như một thần
tượng, khi bạn theo họ về nhà, bạn sẽ thấy họ không thiết tha gì đến quyền
thế, không còn mê say đến những điều đã quyến rủ họ trước kia. Vậy phải
chăng Thượng Ðế đùa cợt chúng ta ? Không phải. Mục đích của Ngài là thức
động quyền năng của cái Ngã, là phát triển các khả năng tiềm tàng ở con
người. Ðó là cách chúng ta ý thức Thượng Ðế ở lòng ta, đó là vở kịch Cha
lành đùa cợt với con.

Tuy nhiên, lòng ham mê mất đi quá sớm và bài học chỉ mới học được nửa
chừng. Ðó là một trong những điều khó khăn mà Aán Ðộ đang gặp. Người
Aán Ðộ có một triết lý tâm linh cao cả phát sinh từ những linh hồn già giặn
sẵn sàng vứt bỏ kết quả của hành động để làm việc cho Ðấng Tối Cao và
thực hành ý chí của Ngài. Nhưng các linh hồn như thế rất ít. Ấn Ðộ ngày nay
còn cần sự ham mê. Ðó không phải là thoái hóa mà là tiến bộ thật sự. Triết
lý Aán Ðộ rất cao đẹp nhưng chỉ dành cho những linh hồn tiến hóa cao, có
thể hấp thụ nó. Những linh hồn còn trẻ sinh ở Ấn Ðộ hiện nay không thể
lãnh hội nó, họ học nó từ câu từ chữ nhưng rồi thẩn thờ, do dự vì họ chưa
biết ham mê. Kết quả là toàn thể quốc gia đang suy yếu. Bài học xưa về hệ
thống giai cấp dạy phải dùng các sự vật khác nhau tùy linh hồn già hay trẻ
đã bị quên lảng. Ngày nay ai ai cũng nhằm vào sự toàn thiện mà không lưu
ý đến các nấc thang đầu. Ở các nước Tây phương cũng thế. Người ta cúi đầu
trước Lời giảng trên núi của Ðức Chúa mà không hiểu gì về lời giảng ấy. Là
vì bài giảng ấy không phải dành cho những người thường mà cho các thánh
nhân. Ðối với ai còn đang ở trên con đường ra đi, sự ham mê là điều kiện tất
yếu.

Con đường Nivriti là gì? Ðó là Con Ðường Trở Về. Trên con đường nầy,
ham mê được thay bằng ý chí của Chơn Ngã. Ở đây, hành giả chỉ còn ham
muốn một điều là làm việc theo ý của Ðấng Tối Cao. Họ hòa ý chí của họ với
ý chí của Ngài, vứt bỏ các dục vọng riêng tư và cố quay mạnh bánh xe đời
bao giờ sự quay nầy còn cần thiết.

Trên Con Ðường Ra Ði tư tưởng bao giờ cũng lau chau, biến đổi. Nó biết
suy tư và trở thành lý trí trên Con Ðường Trở Về. Hạ trí trở thành một dụng
cụ và đặt dưới quyền điều khiển của lý trí. Lý trí đã chủ trị được con bò
rừng.

Trên Con Ðường Ra Ði, hoạt động luôn luôn có tính cách lo âu và trói
buộc con người. Trên Con Ðường Trở Về, nó chuyển thành hi sinh và các mối
dây trói buộc đều tan rã.

Toàn phúc trước biểu lộ dưới hình thức đam mê sau thì chuyển thành ý
chí.

Minh triết trước biểu lộ dưới hình thức tư tưởng sau thì chuyển thành lý
trí.
Hành động trước biểu lộ dưới hình thức công việc sau thì chuyển thành hi
sinh.

Có người hỏi tại sao ý chí ở con người lại đi đôi với sự toàn phúc thiêng
liêng. Chúng ta biết ba đức tính thiêng liêng là : Chit hay tâm thức, Ananda
hay toàn phúc và Sat hay thực tại. Ai cũng thấy rõ rằng tâm thức phản ảnh
ở trí thông minh con người vì trí nầy đồng bản chất với tâm thức nhưng bị
thu hẹp. Cũng rõ ràng rằng hoạt động không thể rời thực tại (existence),
bạn chỉ thực tại khi nào bạn hoạt động ở ngoại giới : tiếp đầu ngữ ex của
chữ existence có nghĩa là bên ngoài, đó là sự sống biểu hiện. Còn lại đức
tính thứ ba là toàn phúc, tương ứng với ý chí. Có người thắc mắc hỏi : Sự
tương ứng giữa ý chí và toàn phúc là thế nào?. Chúng ta có thể trả lời câu
hỏi nầy nếu chúng ta quan sát kỹ sự ham mê và đối tượng ham mê.

Bản chất của cái Ngã là toàn phúc. Bản chất ấy biểu hiện như thế nào
trong vật chất ? Nó trở thành sự ham muốn được hạnh phúc, sự tìm kiếm
không ngừng các sự vật có thể mang lại hạnh phúc. Cái Ngã không thể
không tìm hạnh phúc và sự ham mê ấy chuyển lần thành ý chí. Khi chúng ta
tìm hiểu cặn kẽ sự phân tích nầy, chúng ta thấy rõ ý chí muốn sống chuyển
thành ham mê hạnh phúc ở con người như ở mọi vật hữu tình. Vì hạnh phúc
là bản chất của bạn nên bạn xem nó như là một cái quyền của bạn, và khi
bạn đau khổ bạn phải phản đối và tự hỏi bạn đã làm gì nên tội. Thái độ nầy
kiểm chứng rằng sự phân tích của bạn không sai.

Như vậy, ham muốn và ý chí đều nhằm tiến đến hạnh phúc. Nhưng một
cái thì dại khờ và bị quyến rủ bởi ngoại cảnh; một cái thì sáng suốt và do sự
quyết định của nội tâm. Không có sự khác biệt trong bản chất. Vì vậy, ham
muốn trên Con Ðường Ra Ði trở thành ý chí trên Con Ðường Trở Về.

Khi ham muốn tư tưởng và công việc chuyển thành ý chí, lý trí và hi sinh
thì con người đang ở trên con đường phản bổn hoàn nguyên và sống một
cuộc đời buông xả, từ bỏ.
Khi con người từ bỏ thật sự thì một sự thay đổi kỳ diệu hiện ra. Trên Con
Ðường Ra Ði, bạn phải chiến đấu để đạt các sự vật bạn ham mê, trên Con
đường Trở Về, Thiên Nhiên sẽ rải đủ thứ vật dưới chân bạn. Khi con người
không còn ham muốn thì tài sản sẽ tràn đầy vì anh đã trở thành một vận hà
để chuyển vận ân lành cho những kẻ xung quanh. Tìm điều quí, điều đẹp
nhưng đừng giữ món gì cho bạn rồi tất cả sẽ thuộc về bạn. Ðừng nghĩ đến
cái hồ bé nhỏ của bạn rồi bạn sẽ trở thành dòng nước tràn bờ nối liền với
một nguồn dồi dào không bao giờ cạn.

Hạnh từ bỏ sẽ đem lại cho bạn một sức làm việc phi thường và công việc
của bạn sẽ luôn luôn thành công vì chính Ðấng Cao Cả tác động xuyên qua
kẻ phụng sự Ngài.

Khi bạn đảm nhận một công cuộc bác ái mà bạn không đủ phương tiện,
không có tiền của để xúc tiến công việc thì bạn nên biết rằng hạnh từ bỏ
của bạn chưa hoàn toàn. Bạn còn nghĩ đến yếu tố hữu hình, đến kết quả của
hành động. Thế cho nên phương tiện không đến.

TINH LUYỆN CÁC THỂ

Sự khai mở quyền năng thuộc phạm vi tâm thức , còn sự tinh luyện các
thể thuộc lãnh vực vật chất. Ba thể của bạn (thể trí, thể vía và thể xác) cần
được thanh lọc. Nếu chúng nó chưa được thanh lọc thì tốt hơn bạn đừng nói
đến Yoga.

Bạn tinh luyện thể trí bằng cách nào ? Bằng sự suy tư chân chánh. Bạn
còn phải biết sử dụng trí tưởng tượng vì nó là một dụng cụ sáng tạo kiến
hiệu. Khi bạn tưởng tượng việc nầy, việc nọ, ấy là bạn xây dựng thể trí của
bạn. Bạn cố tưởng tượng rõ ràng như chàng họa sĩ tưởng tượng cảnh vật
trong lúc vẽ. Sự tưởng tượng nầy thuộc về nghệ thuật nhưng ai ai cũng có
nó ít nhiều. Bạn thử xem bạn có thể tưởng tượng được gương mặt của một
người mà bạn gặp hằng ngày không ? Nếu không, bạn cố tập thế nào có
thể tưởng tượng được. Công phu nầy sẽ lần lần phát triển trí tưởng tượng
của bạn và biến nó thành một dụng cụ rất cần thiết cho sự thực tập Yoga.
Trí tưởng tượng còn có một công dụng khác rất quí. Nếu bạn tưởng tượng
trong trí các tánh tốt và xóa bỏ những tật xấu thì bạn có phần nào các tính
tốt và vứt bỏ ít nhiều tật xấu. Hơn nữa, nhiều nỗi sầu muộn cũng giảm đi
nếu bạn khéo chuẩn bị trước khi chúng đến. Bạn đừng ngồi không mà đợi
chúng. Hãy tưởng tượng ngay bây giờ rằng bạn đang đối diện với chúng và
đương đầu với chúng một cách bình thản hoàn toàn; rồi khi nó đến, bạn sẽ
chịu đựng một cách dễ dàng. Như vậy, nhờ trí tưởng tượng bạn diệt trừ
được phần nào các tật xấu và lo âu của bạn.

Sau thể trí, bạn hãy nghĩ đến thể vía. Thể vía được tinh luyện bằng các
ham muốn chân chánh. Bạn hãy ham mê những điều cao thượng rồi cái vía
của bạn sẽ khai mở các giác quan siêu việt của nó.

Tư tưởng cao, ham muốn tốt đó là bí quyết của mọi sự tiến bộ. Ðừng bao
giờ dừng lâu ở các tội lỗi, yếu đuối, lầm lạc mà hãy nghĩ mãi đến các điều
thánh thiện rồi bạn sẽ trở nên thánh thiện. Vậy bạn hãy suy tư chân chánh,
ham muốn chân chánh để thanh lọc trí và vía của bạn.

Bạn tinh luyện thể xác bằng cách nào ? Bạn phải qui định tất cả hoạt
động của nó. Hãy ăn uống, ngủ nghê và tập luyện đúng chừng mực. Bạn
không sao có thể xác trong sạch nếu trí và vía bạn bợn nhơ. Trí tưởng tượng
cũng giúp bạn thanh lọc thể xác. Hoạt động của thể xác phải như thế nào ?
Chúng ta thử xem việc ăn uống. Người Ấn nói rất đúng rằng mỗi thức ăn
đều có một đặc tính chính : điều hòa, động hay tĩnh . Muống trở nên một
nhà yogui, chúng ta hãy tránh những thức ăn có đặc tính tĩnh : ấy là các
món đang hư hoại như thịt rừng để lâu hay rượu v .v . . . Thịt tươi có tính
cách động , nó chỉ đem lại một sự hăng hái nhất thời nên cũng phải tránh.
Vả lại, thân thể của loài thú được cấu tạo để phát biểu những hoạt động hay
ham muốn hèn hạ, còn các nhà yogui cần có một thể xác thanh khiết để
biểu lộ các tư tưởng tế nhị, thanh cao. Những thức ăn hợp với họ là những
món đang tăng trưởng chứa đựng nhiều sự sống như ngũ cốc chẳng hạn vì
chúng sắp đâm chồi nầy lộc. Trái cây cũng thế. Các món ăn đang tăng
trưởng như vậy đều có tính cách điều hòa, đầy nhựa sống nên rất cần để
xây dựng một thân thể nhạy cảm, cường tráng của nhà yogui.

BỌN GIỮ CỬA

Chúng nó gồm nhiều hạng. Trước hết là tinh linh. Lẽ dỉ nhiên là chúng nó
cố ngăn chận không cho con người vào cõi Trung giới vì chúng có phận sự
cấu tạo các loài thấp như thảo mộc, thú cầm v .v . . . mà con người đến đâu
thì phá hoại đến đó nên chúng không ưa. Ở mỗi bước đường, con người tàn
phá công việc của chúng như giày xéo cây cỏ, giết hại thú cầm, bởi vậy toàn
giới tinh linh oán ghét nhân loại. Do đó, chúng kết hợp để ngăn cản con
người thức tỉnh sang qua cõi Trung giới bằng cách hăm dọa, phá phách.
Nhưng nếu bạn không sợ chúng thì chúng không làm gì được. Khi chúng đổ
xô đến thì bạn hãy bình tĩnh nói : Tôi tiến cao hơn các anh. Các anh không
thể nào hại tôi được. Vả lại, tôi là bạn các anh chớ không phải thù. Vậy các
anh hãy để tôi yên. Nếu bạn cương quyết như thế, các tinh linh sẽ vẹt ra để
lối cho bạn đi. Những sự sợ hãi vô cớ mà một vài người cảm thấy lúc ban
đêm một phần lớn là do sự thù ghét của đám tinh linh. Ban đêm, bạn nhạy
cảm hơn đối với cõi Trung giới và cảm thấy sự thù ghét nầy. Nhưng khi tinh
linh thấy bạn hiền hòa không tàn phá thì chúng tỏ ra thân ái. Ở đây, ta càng
thấy sự quan trọng của các thức ăn điều hòa và thanh khiết bởi vì khi bạn
dùng thịt rượu thì các tinh linh bẩn thỉu sẽ đến để ngửi mùi thịt rượu và
ngăn cản không cho bạn nghe thấy và hiểu biết rõ ràng. Chúng vây quanh
bạn. Như vậy hào quang của bạn bị bao bằng một lớp ký sinh trùng khiến
bạn không thể nghe thấy chính xác được. Ðó là lý do chính khiến người tập
Yoga phải tuyệt đối cữ rượu thịt.

Loại giữ cửa thứ hai là những hình tư tưởng mà chính bạn đã tạo trong dĩ
vãng với những tội lỗi của bạn. Khi bạn mới bước sang qua cõi Trung giới
lần đầu, chúng nó hiện ra, và tuy chính bạn đã tạo ra chúng nó, chúng hoạt
động như không còn liên hệ gì với bạn mà còn dọa nạt bạn nữa là khác. Một
cách để đánh tan chúng nó là nghiêm nghị nói với chúng : Chúng bây không
còn thuộc về ta nữa, chúng bây cũng không ở vào hiện tại của ta mà thuộc
về dĩ vãng. Ta không ban sự sống cho chúng bây nữa. Rồi chúng chúng sẽ
yếu dần và tan rã hết. Loại giữ cửa nầy tạo rất nhiều khó khăn cho bạn,
nhất là khi chúng được tạo ra bởi tà thuật. Chúng rất nguy hiểm và những
người mới đến cõi Trung giới lắm khi phải chiến đấu thật gay go với chúng,
nhất là khi chúng được các nhà phù thủy giúp tay.

Bây giờ chúng ta đề cập tới loại giữ của thứ ba, loại nguy hiểm hơn hết.
Tỉ dụ trong quá khứ có một người sống cuộc đời rất hèn hạ và tự động hòa
mình với những gì thấp kém nhất trong con người. Y chống với nguyên lý
cao cả và chỉ biết dùng tâm trí y để thỏa mãn những dục vọng đê hèn. Lối
sống bỉ ổi ấy tạo một sự biến đổi kỳ dị ở y. Thể xác rút sự sống của Chơn
nhơn và chuyển trọn vẹn vào nó. Thay vì phụng sự các mục đích tâm linh,
sự sống bị lôi cuốn vào các phần tử thô kệch của thể xác.. Như vậy, sự sống
được sử dụng vào những mục đích đê hèn của các hạ thể và trở nên ô trược
không khác sự sống của thú cầm. Do đó, Chơn nhơn và các thể cao bị suy
yếu dần trong lúc sự sống thú vật ở các thể thấp càng trở nên thô bạo.
Trong trường hợp nầy, Chơn nhơn thất chí cho đến nỗi khi cái chết giải
thoát nó khỏi thể xác, nó vứt bỏ luôn thể vía và thể trí. Nó cũng có thể bỏ
các thể dơ dáy ngay lúc còn sinh tiền. Một Chơn nhơn trơ trọi như thế muốn
đầu thai rất mau vì không còn thể vía và thể trí để sống ở bên kia cửa tử và
cần tái sinh gấp để tạo các thể mới. Trong lúc đó, các thể cũ vẫn sống mạnh
mẽ bên cạnh các thể mới vì cùng thuộc về một người, và trở nên những kẻ
giữ cửa vô cùng hung tợn.

Ðó là các loại giữ cửa. Những sách bàn về chúng nó có thể đầy đủ nhưng
không phân loại như trên. Tôi tưởng cũng nên thêm sự phá phách của các
Anh Em tà đạo nữa. Chúng thường lợi dụng những đức hạnh quá mức của
các nhà yogui để gây rối, vì đức hạnh một khi đã quá mức thì trở thành tật
xấu.

Ở đây, tôi không nói đến bốn thử thách thông thường thuộc đất, nước,
gió, lửa. Ðó là những thử thách không đáng kể sánh với các loại giữ cửa nói
trên. Dĩ nhiên là bạn phải tập luyện thế nào để khí chất cõi Trung giới
không thể quật ngã bạn, đất không thể đè bạn, nước không thể nhận chìm
bạn. Những bài học đó không có gì khó khăn. Những bạn có chân trong hội
Tam Ðiểm đều biết rõ các thử thách nầy xuyên qua các nghi thức của Hội.

Sau đây là một nguy hiểm chót, do sự dội lại . Ví dụ ở cõi Trung giới, bạn
gặp một tai nạn thuộc về cõi Trần và bạn tưởng nó có thể làm hại bạn thì
thể xác của bạn bị thương. Thể xác của bạn có thể bị đau, bị trặc, bị bầm vì
một sự hiểu lần như vậy. Một việc như thế đã xảy ra cho tôi. Một hôm tôi
thấy đang ở trên một chiếc thuyền lâm nạn. Tôi thấy cột buồm ngã và nghĩ
nó sẽ ngã vào tôi. Hậu quả của tư tưởng dại dột ấy là khi thức dậy,tôi bị một
vết bầm lớn ở chỗ cột buồm ngã trúng. Hiện tượng này thường xảy ra, cho
đến khi trong thể vía, bạn không còn suy nghĩ sai nữa.

Một phương pháp bảo vệ hữu hiệu khi bạn trở nên nhạy cảm là sự chân
thật trong ý tưởng, lời nói và việc làm. Mỗi tư tưởng, mỗi ham muốn đều tạo
ra một sắc tướng ở cõi trên. Nếu bạn không ngay thật, một đạo binh lừa
phỉnh, hung ác sẽ chờ đợi bạn. Bạn suy tư chân thật rồi cõi Trung Giới sẽ
không còn một ảo ảnh tai hại nào nữa đối với bạn.
SỰ CHUẨN BỊ

Có người nói lý tưởng tôi trình bày cao quá nên chắc không ai có thể trở
nên đệ tử được. Sự thật, tôi không bao giờ nói rằng bạn không thể trở nên
đệ tử nếu không thực hiện được lý tưởng nầy. Bạn có thể trở nên đệ tử
nhưng phải nhận chịu nhiều nguy hiểm. Người ta có thể rất tốt ở phương
diện nầy nhưng xấu ở phương diện khác. Những tật xấu nầy không ngăn
cản họ trở nên đệ tử nhưng họ phải trả mười lần đắt hơn. Bởi vậy, tôi đặt lý
tưởng thật cao. Tôi không nói người ta phải đạt lý tưởng nầy rồi mới trở
thành đệ tử được, mà tôi muốn nhấn mạnh các nguy hại lớn lao mà người sơ
cơ phải gánh chịu nếu muốn trở thành đệ tử sớm. Ai đã ý thức được các
nguy hại nầy đều thấy phải diệt trừ các tính xấu trước. Khi bạn bước qua
ngưỡng cửa với các tật xấu nầy thì mỗi cái sẽ trở thành con dao găm đâm
thẳng vào bạn. Như vậy, sự thanh lọc là tối cần, trước khi bạn có quyền nói
Tôi đã qua ngưỡng cửa . Ðó là điều tôi mong các bạn hiểu khi tôi nói về các
đức tính cần thiết của người đệ tử. Ðó là lối nói cổ truyền. Ðức Jesus nói rất
đúng về những người chưa được chuẩn bị đầy đủ : Họ sẽ bị khảo đảo nhiều .
Là vì nhiều hành động không gây một tai nạn nào ở đường đời nhưng lại tạo
nhiều hậu quả ghê gớm trên đường đạo.

ÐOẠN KẾT

Mục tiêu của sự tranh đấu lâu dài nầy là gì ? Ta tiến lên cao để làm gì ?
Phần thưởng của cuộc hướng thượng gay go nầy như thế nào. Người yogui
đạt được cái gì ? Họ thực hiện được sự hợp nhất. Nên lưu ý rằng nhiều đức
hạnh cần thiết ở đời sống thường tình sẽ tiêu tan khi bạn đạt được sự hợp
nhất. Trong đời sống hằng ngày, bạn cần phải phẫn nộ trước một điều xấu
xa, căm tức trước một việc ác, xét đoán người nầy, kẻ nọ nhưng bạn sẽ
không còn làm như vậy khi đã tiến đến sự hợp nhất. Khi bạn biết phẫn nộ
trước một điều ác ấy là Chơn ngã bạn đã thức tỉnh. Nó đã thấy tai hại của
điều ác ấy và sợ bạn sẽ bị cám dỗ. Ðó là bước đầu của cuộc đời đạo lý. Sự
phẫn nộ ấy giúp bạn nhiều hơn là sự dửng dưng. Ðó là giai đoạn cần thiết.
Nhưng làm sao bạn còn có thể giận hờn, oán ghét được khi bạn thấy
Thượng Ðế ở mọi người ? Người nào đã ý thức được sự hợp nhất, người ấy
không xét đoán ai nữa cả. Ðấng Christ nói : Tôi không xét đoán ai hết. Họ
không muốn xa cách ai nữa, họ hòa hợp ngay với người tội lỗi. Người tội lỗi
cũng chính là họ. Vậy làm sao họ có thể xa chính họ ? Ðối với họ, không có
anh, không có tôi, vì tất cả là một.

Ðó không phải là một điều mà ai ai cũng ao ước. Người đã thực hiện một
sự hợp nhất không phân biệt giữa họ và bất kỳ kẻ đốn mạt nào. Ở người
nầy, họ cũng chỉ thấy sự hiện diện của Thượng Ðế và họ biết tội lỗi không
có ở Thượng Ðế mà chỉ có ở các lớp vỏ bên ngoài. Ðó là sự khác biệt giữa họ
và người đời. Một khi người đệ tử đã ý thức được sự huy hoàng của Chơn
Ngã, họ không bao giờ xét đoán ai. Họ biết kẻ khác là họ, họ là kẻ khác : đó
mới là sự hợp nhất, cao hơn tình huynh đệ mà chúng ta thường nói, nhưng
ít ai thực hành.
Giống dân thứ sáu sẽ đưa tình huynh đệ lên tột đỉnh nhưng chính giống
dân thứ bảy mới thực hiện sự đại đồng, sự hợp nhất nhân loại.

Thoáng thấy vẻ đẹp của quan niệm cao cả nầy và sự huy hoàng của một
toàn thể hòa hợp, trong đó không còn anh, còn tôi, cũng không có cái của
anh, cái của tôi mà tất cả đều chan hòa là một, chỉ điều ấy thôi cũng đủ đưa
cao bạn lên đời sống thiêng liêng. Những ai đã ý thức được cái cao đẹp của
sự hợp nhất, người ấy đã gần tiến đến sự Mỹ Lệ tức là Ðức Thượng Ðế vậy.

HẾT

NÓI CHUYỆN YOGA

Tác giả: BẠCH LIÊN

mục lục

Vài Lời Nói Ðầu


Chương Thứ Nhứt
Chương Thứ Nhì
Chương Thứ Ba
Chương Thứ Tư
Chương Thứ Năm

Mục Lục Chi Tiết


VÀI LỜI NÓI ÐẦU
CHƯƠNG THỨ NHỨT
NÓI CHUYỆN DÔ GA (YOGA).
CỘI RỄ CỦA CHỮ YOGA
ÐỊNH NGHĨA YOGA.
SỰ ÍCH LỢI CỦA YOGA.
NHỮNG ÐIỂM CHÁNH TRONG QUYỂN YOGA NHẬP MÔN CỦA ÐỨC BÀ A. BESANT.
MỤC ÐÍCH SỰ SANH HÓA CỦA VŨ TRỤ.
TÂM THỨC LÀ GÌ ?
BẢN NGÃ.
TẠI SAO ÐỨC THƯỢNG ÐẾ Ở TRÊN KHÔNG GIAN NGOÀI XÁC THÂN TA MÀ CŨNG Ở
TRONG LÒNG MÌNH ?
TẠI SAO NGƯỜI ẤN TÌM CHƠN NGÃ ?
VỀ PHƯƠNG DIỆN YOGA THỰC HÀNH THÌ CON NGƯỜI LÀ NHỊ NGUYÊN.
TÂM T H Ứ C.
SỰ MỞ MANG TÂM THỨC.
CON NGƯỜI TĂNG TRƯỞNG CÁCH NÀO ?
LÀM CÁCH NÀO ÐẶNG PHÁT TRIỂN TÂM THỨC MỘT CÁCH NHANH CHÓNG ?
SỰ RUNG ÐỘNG CỦA VẬT CHẤT VÀ SỰ BIẾN ÐỔI TÂM THỨC.
VỀ PHƯƠNG DIỆN THỰC TẬP.
YOGA LÀ SAMADHI.
YOGA LÀ MỘT KHOA HỌC.
TRÍ TUỆ.
NHỮNG GIAI ÐOẠN TIẾN TRIỂN CỦA TRÍ TUỆ.
NHỮNG ÐIỀU HÀNH GIẢ PHẢI THỰC HÀNH
KHI TỚI GIAI ÐOẠN THỨ BA (VIKSHIPTA).
NĂM GIAI ÐOẠN TIẾN TRIỂN CỦA TRÍ TUỆ.
BỐN TRẠNG THÁI CỦA TRÍ TUỆ.
LÀM SAO PHÂN BIỆT BỐN TRẠNG THÁI NẦY ?
BỐN TRẠNG THÁI CỦA TÂM THỨC.
THAM THIỀN VÔ CHỦNG (KHÔNG HỘT GIỐNG)
(MÉDITATION SANS SEMENCE).
THAM THIỀN HỮU CHỦNG (CÓ HỘT GIỐNG)
(MÉDITATION AVEC SEMENCE).
NHỮNG CÂU CHƠN NGÔN (MANTRAM).
CHƠN NGÔN LÀ GÌ ?
HAI T H Ứ Ð Ạ I Ð Ị N H.
TÂM THỨC CÓ THỂ HƯỚNG RA NGOÀI HAY LÀ HƯỚNG VÔ TRONG.
ÐÁM MÂY MÙ
CÁI TRÍ VÀ BẢN NGÃ.
VỀ QUAN ÐIỂM NẦY PHÁI SAMKHYA.
GẶP NHỮNG NỖI KHÓ KHĂN.
PHÁI SAMKHYA GIẢI THEO CÔNG TRUYỀN.
TÂM THỨC CỦA VÀI HẠNG NGƯỜI.
HAI ÐẠI PHƯƠNG PHÁP TÌM CHƠN NGÃ TRONG YOGA.
NHỮNG TRỞ NGẠI CHO SỰ LUYỆN TẬP YOGA.
BA ÐIỀU KIỆN ÐỂ THÀNH CÔNG.
TINH LUYỆN BA THỂ.
YOGA VÀ HẠNH KIỂM.

CHƯƠNG THỨ NHÌ


CÓ BAO NHIÊU THỨ YOGA ?
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HATHA YOGA (LUYỆN KHÍ CÔNG) và RAJA YOGA (YOGA VƯƠNG
GIẢ).
HATHA Y O G A.
RAJA Y O G A.
CHƯƠNG THỨ B A.
NHỮNG NGUY HẠI KHI COI THEO SÁCH LUYỆN HƠI THỞ HAY LÀ HỌC VỚI MỘT ÔNG
THẦY TẦM THƯỜNG
KHÔNG KINH NGHIỆM.
CHÚNG TA CÓ ÐỦ NHỮNG ÐIỀU KIỆN ÐỂ LUYỆN TẬP CHO ÐÚNG PHÉP YOGA CHƯA ?
CHƯƠNG THỨ TƯ
SÁU TRƯỜNG TRIẾT HỌC ẤN ÐỘ.

CHƯƠNG THỨ NĂM


VÀI LỜI VỀ QUYỂN NHỮNG CÁCH NGÔN VỀ YOGA CỦA PATANJALI.
(Les aphorismes du Yoga de Patanjali).
AI ÐEM YOGA DẠY LẦN ÐẦU TIÊN TẠI QUẢ ÐỊA CẦU ?
NHỮNG SÁCH DẠY VỀ YOGA.
QUYỂN NHỮNG CÁCH NGÔN VỀ YOGA CỦA PATANJALI LÀ QUYỂN SÁCH GIÁO KHOA.
TIỂU SỬ CỦA PATANJALI.
NỘI DUNG QUYỂN NHỮNG CÁCH NGÔN VỀ YOGA.
KRIYA YOGA HAY LÀ YOGA CỦA ÐỜI SỐNG HẰNG NGÀY.
I.- CHUẨN BỊ THỂ XÁC (TAPAS).
YOGA KHÔNG LẠ GÌ VỚI DÂN CHÚNG ẤN.
NHỮNG VỊ YOGI CHÁNH TÔNG.
CÁC THỨC ĂN KHÔNG HẠP VỚI NHỮNG NGƯỜI YOGI ẤN.
NHỮNG NGƯỜI ÐI QUÁ MỨC TRUNG BÌNH.
LUYỆN TẬP TÂM TÁNH VÀ TRÍ HÓA.
ÐIỀU TỨC.
TƯ THẾ
II - HỌC HỎI BẢN NGÃ.
BẢN NGÃ LÀ GÌ ?
BA NGÔI CỦA CON NGƯỜI.
TẠI SAO PHẢI HỌC HỎI BẢN NGÃ ?
SỰ LẦM LỘN BẢN NGÃ VỚI CÁC THỂ XÁC.
TẠI SAO CON NGƯỜI CÓ BẢY THỂ ?
BẢY CÕI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ.
SÁU CÕI TRÊN Ở ÐÂU ?
BẢY CÕI ÐỀU THÂM NHẬP NHAU.
CÕI THƯỢNG THIÊN VÀ CÕI HẠ THIÊN.
SỰ LIÊN QUAN GIỮA BẢY THỂ CỦA CON NGƯỜI
VỚI NĂM CÕI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ.
NHƠN SANH TIỂU THIÊN ÐỊA.
ÐI VÒNG KHẮP DÃY ÐỊA CẦU.
PHẢI HỌC HỎI BẢN NGÃ MỚI TRÁNH GÂY RA
NHỮNG TỘI LỖI VÀ TIẾN MAU.
TAM ÐỘC : THAM, SÂN, SI.
TÁNH XẤU CỦA BA THỂ.
TẠI SAO CON NGƯỜI LẠI GÂY RA TỘI LỖI ?
CÁI CHI LÀM RA TÁNH NẾT ?
TỰ CHỦ.
TẠI SAO PHẢI TỰ CHỦ ?
THỰC HIỆN CHƠN NGÃ.
III- TẬP TRUNG TƯ TƯỞNG VỀ THƯỢNG ÐẾ.
SỬA ÐỔI SỐ MẠNG.
PHẦN THỨ TƯ CỦA QUYỂN NHỮNG CÁCH NGÔN VỀ YOGA.
NHỮNG SÁCH GIẢI VỀ NHỮNG CÁCH NGÔN VỀ YOGA
CỦA PATANJALI.

VÀI LỜI NÓI ÐẦU

Hiện giờ người ta thích nói Yoga và tập Yoga, nhưng e cho
ít ai biết được có bao nhiêu thứ Yoga và Yoga là gì ?
Nói cho đúng lý Yoga là một cách luyện Ðạo. Nó là phương
pháp làm phát triển tâm linh một cách nhanh chóng. Nó biến con
người thành một vị Siêu Phàm trong vòng vài chục kiếp, thay vì
con người phải đầu thai đi đầu thai lại cả muôn lần mới đi đến
mục đích đã định sẵn cho nhơn loại trong Thái Dương Hệ nầy, tức
là trở nên trọn sáng trọn lành, không còn cái chi học hỏi trên Dãy
Ðịa Cầu nầy nữa.
Quả thật có nhiều thứ Yoga mà thứ nào cũng có hai khoa :
Công Truyền (Eùxotérisme) và Bí Truyền (Esotérisme).
Ngày nay sách nói về Yoga xuất bản cũng khá nhiều, song hầu
hết đều đề cập đến khoa luyện khí công là Hatha Yoga, còn
những sách giải về Raja Yoga rất ít.
Phần đông các độc giả và nhất là các bạn thanh niên chưa rõ
những tai hại do sự Ðiều Tức và những Tư Thế của Hatha Yoga có
thể đem đến nếu luyện tập sái cách, nghĩa là không được một vị
Ðạo Sư huấn luyện và chăm nom kỹ lưỡng.
Cũng ít ai biết rằng Ðạo Bát Chánh của Phật dạy là một thứ
Yoga gọi là Bát Nhã Yoga (Bouddhi Yoga), còn ngũ giới của Phật
giáo và ngũ thường của Nho giáo (Nhơn, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín) vốn
in hệt năm điều răn của Yama trong khoa Raja Yoga. Yama có
nghĩa là hạn chế, tự chủ.
Không gìn giữ giới cấm (Yama) và qui luật (Niyama) cho đúng
phép thì không bao giờ học được Chơn Truyền về Yoga, bất cứ là
thứ Yoga nào.
Ðã nửa thế kỷ rồi, tôi thấy tận mắt nhiều bạn mộ Ðạo vì quá
ham những pháp thuật, thần thông, mà coi theo sách luyện tập
một mình hay là học với một ông thầy tầm thường không biết
Huyền Bí Học là gì nên mới mang tai họa vào thân như thổ huyết,
thành phế nhơn, điên khùng rồi bỏ mạng.
Trong quyển NÓI CHUYỆN YOGA tôi giải một cách tổng quát
những điều cần thiết mà các bạn muốn học Yoga phải biết hầu
tránh những sự nguy hiểm có thể xảy ra bất ngờ.
Tôi có tóm lược những điểm chánh mà Ðức Bà A. Besant đã chỉ
rõ trong quyển Yoga nhập môn (Introduction au Yoga) của Bà.
Quyển nầy hay lắm, song rất khó cho những người mới học Ðạo.
Tuy nhiên tôi tưởng điều hay hơn hết là “con người phải tự
biết mình” trước, rồi sẽ luyện tập sau thì sự thành công là vấn đề
về thời gian, dầu là ở ngoài đời hay là ở trong cửa Ðạo cũng vậy.
Khi xưa trên ngạch cửa của Thánh Ðiện Delphes (Hi lạp) có
khắc câu châm ngôn nầy :
“ Ngươi hãy biết ngươi rồi ngươi sẽ biết Vũ trụ và các vị
Thượng Ðế”.
Nhưng mà phải hành Ðạo tới một mức độ trung bình mới biết
được câu nầy là Chơn Lý ngàn đời bất diệt. Phải triệt để tuân
theo nếu muốn mau đắc Ðạo thành Chánh Quả làm một vị Siêu
phàm gọi là Chơn Tiên.
BẠCH LIÊN

CHƯƠNG THỨ NHỨT

NÓI CHUYỆN DÔ GA (YOGA)


Lúc nầy nghe người ta nói rất nhiều về sự luyện tập Dô Ga (Yoga).
Yoga là gì ? Sự ích lợi của nó ra sao ? Thử hỏi có thể giải cho ai nấy biết
chăng ?
Ðiều nầy rất khó. Trước nhứt chúng ta không có tiếng để dịch cho
đúng ý nghĩa những danh từ Phạn ngữ dùng trong khoa Yoga và dầu đã
có luyện tập rồi đi nữa cũng không thế nào giải ra cho ai nấy đều hiểu.
Cũng như món ăn, muốn biết mùi vị nó thì phải ăn, chớ làm sao diễn
tả cho đúng sự thật được.
Tuy nhiên, tôi vẫn cố gắng được bao nhiêu hay bấy nhiêu, chớ không
dám hứa hẹn chi cả.

CỘI RỄ CỦA CHỮ YOGA


Yoga là một danh từ Phạn ngữ thường dùng với ý nghĩa Hiệp nhứt.
Hiệp nhứt đây là hiệp nhứt với Ðức Thượng Ðế (Union à Dieu).
Các nhà văn phạm Aán nói rằng : Yoga do chữ Yug mà ra. Yug nghĩa
là Hiệp lại; người ta thêm tiếp vĩ ngữ (suffixe) Ghan vào chữ Yug. Ghan
có nghĩa là hoàn tất. (Ðối chiếu : hai chữ La tinh (Latin) Jugam và
Jungere cũng do một gốc Phạn ngữ mà ra ).
Jugum sanh ra chữ Joug (cái ách) tiếng Pháp, còn Jungere sanh ra
chữ Joindre (nối lại).
Người ta nói Yoga hiệp nhứt Con người với Thượng Ðế cũng như cái
ách (Joug) nối liền đầu hai con bò với cái gọng xe.

ÐỊNH NGHĨA YOGA


Yoga có nhiều nghĩa :
1- Theo phái Védanta, Yoga là sự thực hiện hoàn toàn.
2- Yoga là sự phối hợp Tiểu Ngã với Ðại Ngã (Jajnavalkya).
3- Cái chi hiệp lại là Yoga.
Yoga là kẻ bảo tồn Pháp Luật Trường Tồn Bất Diệt.
Yoga là kẻ bảo tồn sự hiểu biết (Kalyâna Yoga Anka).
4- Yoga là sự đình chỉ những biến đổi của cái Trí. (Les Aphorismes de
Patanjali , Cách ngôn Patanjali),
Quyển Les Aphorismes de Patanjali được coi như quyển sách giáo
khoa về Yoga bên Ấn Ðộ. Có chỗ để là Les Sutras de Patanjali dịch là
Pháp bổn Patanjali .
Câu : “Sự đình chỉ những biến đổi của cái Trí” có nghĩa là : Phải làm
thế nào cho cái Trí đi tới trạng thái chói sáng như thủy tinh, giống như
một cái hồ phẳng lặng mà nước hết sức trong trẻo và tinh khiết.
5- a/- Yoga là sự áp dụng vào trường hợp riêng biệt của mỗi cá nhân,
những định luật chi phối sự phát triển Tâm Thức.
b/- Yoga là Samadhi.
c/- Yoga là Khoa Học.
d/- Yoga là phương pháp làm cho sự phát triển bình thường của
Tâm Thức trở nên nhanh chóng.
e/- Trong con người những thần lực nầy phát triển không ngừng
và gây ra một áp lực càng ngày càng gia tăng mạnh mẽ cho những
chướng ngại bao bọc chúng. Cuối cùng chúng vượt qua khỏi loài người
và tiến lên hàng Siêu Phàm. Sự diễn tiến chót nầy gọi là Yoga.
Năm định nghĩa chót nầy trích trong quyển Yoga nhập môn
(Introduction au Yoga) của Ðức Bà A. Besant.

SỰ ÍCH LỢI CỦA YOGA


Tại sao người ta học Yoga?
Aáy tại Yoga đem lại cho con người những sự ích lợi phi thường.
Nhờ Yoga con người mở mang Tâm Thức nhanh chóng, nó biến đổi
con người ra một vị Siêu Phàm trước ngày giờ đã định cho nhơn loại
trong Vũ trụ nầy.
Vì thế nên người biết Ðạo đều lo luyện tập Yoga. Nhưng tôi xin nhấn
mạnh chỗ nầy : Phải học với những vị Cao Ðồ của Chơn Sư hay là
những nhà Huyền Bí Học lão luyện có nhiều kinh nghiệm mới khỏi bị tai
hại, vì trong phương pháp tập luyện có nhiều sự nguy hiểm nếu làm sái
cách.
Ðừng nghe theo những ông thầy tầm thường, coi theo sách mà
không hiểu ý nghĩa sâu xa và bóng dáng của những câu kinh rồi thực
hành e cho một ngày kia bị điên khùng không còn phương cứu chữa
nữa.
Trong năm mươi năm nay tôi đã thấy nhiều trường hợp loạn thần
kinh và chết chóc rồi.

NHỮNG ÐIỂM CHÁNH TRONG QUYỂN YOGA NHẬP MÔN


CỦA ÐỨC BÀ A. BESAN

MỤC ÐÍCH SỰ SANH HÓA CỦA VŨ TRỤ.


Vũ trụ sanh ra đây với một mục đích mà thôi : ấy là để giúp cho
Chơn Ngã tiến hóa.

BẢN NGÃ VÀ TÂM THỨC


Trong kinh sách đạo đức có hai danh từ khó giải thích cho rành rẽ
được, ấy là Bản Ngã (Soi) và Tâm Thức (Conscience).
Nói cho đúng trong Thái Dương Hệ của chúng ta chỉ có một Bản Ngã
duy nhất mà thôi.
Bản Ngã đó là Ðức Thái Dương Thượng Ðế (Logos d’un sytème
solaire).
Còn con người là một Ðiểm Linh Quang do Ngài sanh ra.
Muốn cho dễ hiểu xin gọi :
Ðức Thái Dương Thượng Ðế là Ðại Ngã, Ngài là ông Trời, Cha lành
của chúng ta.
Còn một Ðiểm Linh Quang là Tiểu Ngã, Chơn Ngã hay là Chơn Thần.

TÂM THỨC LÀ GÌ ?
Nói đến Tâm Thức thì lại gặp nhiều khó khăn hơn nữa. Thật ra ở vào
trình độ thấp kém của chúng ta, chúng ta không hiểu Tâm Thức là gì cả.
Phải mở tới Huệ Nhãn mới thấy được Tâm Thức và mới thật biết nó.
Các vị Cao Ðồ Chơn Sư định nghĩa Tâm Thức như vầy :
Tâm Thức là sự biểu hiện của một đơn vị duy nhất mà đơn vị duy
nhất nầy vừa là Sự Sống vừa là Sức Mạnh; vừa là Vật Chất vừa là Hình
Dạng một lượt.
Vì thế người ta mới nói : Tâm Thức đồng nghĩa Sự Sống.
Không có Sự Sống nào mà không có Tâm Thức, và cũng không có
Tâm Thức nào mà không có Sự Sống.
Dùng tư tưởng mà phân tích thì thấy Sự Sống là Tâm Thức quay vào
trong, còn Tâm Thức quay ra ngoài là Sự Sống.
Thật là rắc rối, thật là cực kỳ khó khăn.
Ðiều cần thiết là ta nên biết : Tâm Thức là Chơn Ngã, là Sự Sống thì
đủ.

BẢN NGÃ
SỰ LIÊN QUAN GIỮA TIỂU NGÃ VÀ ÐẠI NGÃ
TIỂU NGÃ VÀ ÐẠI NGÃ VẪN LÀ MỘT CHƠN NGÃ DUY NHẤT.
Tiểu Ngã trong con người và Ðại Ngã trong Vũ trụ vẫn là một. Dầu
toàn thể khí lực biểu hiện trong Vũ trụ là thế nào chăng nữa, những khí
lực đó vốn ở trong mình con người dưới trạng thái tiềm tàng, phôi thai.
Những Tiểu Ngã [1], Jivatmas, là những thành phần của Ðại Ngã, tức
là Ðức Thái Dương Thượng Ðế. Bản tánh của Ðại Ngã là bản tánh của
Tiểu Ngã.
Những Tiểu Ngã biểu lộ được những quyền năng của chúng trong vật
chất chỉ khi nào chúng gặp những điều kiện thuận tiện, tức là những cơ
hội tốt cho sự mở mang những quyền năng nầy.
Còn Ngài, Ðức Thái Dương Thượng Ðế, ở trong Vũ trụ nầy, Ngài
không tiến hóa nữa.
Tuy nhiên, trong chốn không gian vô tận, Ngài vẫn có sự tiến hóa
riêng biệt như những Ðức Thái Dương Thượng Ðế khác. Trong tương lai,
Ngài sẽ sanh hóa một Thái Dương Hệ lớn hơn Thái Dương Hệ nầy.
Vì thế mà trong Vô Cực có không biết bao nhiêu Thái Dương Hệ, có
cái lớn hơn cả chục lần, cả trăm lần, cả ngàn lần, cả triệu lần Thái
Dương Hệ của chúng ta.
Thái Dương Hệ của chúng ta chỉ là một hột cát trong Vô Cực.
Nếu quí huynh hiểu được Chơn Ngã ở trong đám vô số Phi Ngã thì
Yoga không còn chi là khó khăn đối với quí huynh. Quí huynh sẽ thực
hành Yoga một cách dễ dàng.

TẠI SAO ÐỨC THƯỢNG ÐẾ Ở TRÊN KHÔNG GIAN


NGOÀI XÁC THÂN TA MÀ CŨNG Ở TRONG LÒNG MÌNH
Mới nghe qua câu nầy thì thấy nó rất lạ tai và trái ngược nhau. Ðức
Thượng Ðế đã ở trong không gian rồi thì làm sao ở trong mình ta được ?
Mà sự thật vẫn thế.
Ấy tại Chơn Thần là con của Ngài, có đủ những quyền năng như Ngài
và đồng bản tánh với Ngài.
Vì thế kinh sách Ðạo Ðức mới gọi con người là Tiểu Thiên Ðịa.
Bởi chưng Chơn Thần là Thượng Ðế ở trong mình ta, cho nên có sự
liên quan mật thiết giữa Ðức Thượng Ðế ở bên ngoài và Ðức Thượng Ðế
ở trong mình ta.
Tuy nhiên, lấy bằng cớ nào chứng chắc rằng có Ðức Thượng Ðế ở
trong mình ta ?
Tư tưởng Ấn Ðộ cho rằng chỉ có một chứng minh chắc chắn sự hiện
diện của Ðức Thượng Ðế bên ngoài là Chơn Ngã trong mình con người.
Tìm được Chơn Ngã là biết được Ðức Thượng Ðế.
Người Ấn tìm Chơn Ngã bằng cách phá vỡ lần lần những bức màn
bao phủ Tâm Thức. Cho tới một ngày kia anh tìm gặp Tâm Thức chỉ còn
có một lớp vỏ bao quanh mình làm bằng chất khí của cõi Niết Bàn mà
thôi. Tới chừng đó anh mới nói Ðức Thượng Ðế có thật.
Anh không chứng minh sự hiện diện của Ðức Thựong Ðế bằng những
lý luận hay những suy luận như người Tây Phương vì Ðức Thượng Ðế
cao hơn và ở ngoài những lý luận. Mặc dầu lý trí có thể dắt dẫn con
người, song nó không chứng minh được “Quả thật có Thượng Ðế” .
Muốn hiểu Ngài thì phải đi vào chốn thâm sâu của Tâm Hồn mình.
Người Ấn dùng cách phủ nhận, anh nói : “Cái nầy không phải là Tâm
Thức. Tôi không phải là cái nầy, nhưng cái nầy thuộc về tôi” . Anh loại
ra lần lần hết cái nầy tới cái kia; các lớp vỏ đối với anh không phải là
Chơn Ngã, không phải là Tâm Thức. Cuối cùng anh thoát ra ngoại giới
và anh biết Vật chất khác hơn Tâm Thức.
Mục đích của Yoga là giúp con người tạo ra những sự liên lạc với
Chơn Ngã, không phải trong sự chớp nhoáng của trực giác, nhưng mà
một cách bền bĩ, thường trực không thể lay chuyển và không thể đổi dời
vì bất biến.

TẠI SAO NGƯỜI ẤN TÌM CHƠN NGÃ ?


Bởi vì ngày sau Chơn Ngã tiến hóa tột bực cao và khai mở toàn vẹn
những quyền năng siêu việt trong mình rồi Chơn Ngã sẽ làm một vị Thái
DươngThượng Ðế và sẽ sanh hóa một Tiểu Vũ Trụ khác như Thái Dương
Hệ của chúng ta bây giờ vậy.
Kinh sách Aán cũng gọi Chơn Thần (Monade) hay Tiểu ngã là Atma
hay Atman, còn Ðức Thượng Ðế là Paramatma hay là Paramatman;
hoặc gọi Chơn Thần là Purusha thì Ðức Thượng Ðế là Purushottama theo
phái Samkhya.

VỀ PHƯƠNG DIỆN YOGA THỰC HÀNH THÌ CON NGƯỜI LÀ NHỊ


NGUYÊN
Thường thường muốn cho rành rẽ ta phân tách con người ra. Ta nói
thật con người là Chơn Nhơn hay Chơn Ngã hoặc Linh Hồn (tùy ý). Con
người có nhiều thể : Thân, Vía, Trí v. v. . , để sử dụng trong những
cảnh giới mà nó phải trải qua.
Sự phân tách nầy rất đúng. Nhưng theo khoa Yoga thực hành thì con
người là Nhị Nguyên : “Trí tuệ và Thể xác hay là một đơn vị Tâm Thức
với những lớp vỏ”.
Ở đây Nhị Nguyên không phải là Ngã và Phi Ngã.
Trong Yoga, Ngã là Tâm Thức cộng thêm với Vật Chất mà nó không
thể coi như là khác lạ hơn nó. Còn Phi Ngã chỉ là Vật Chất mà nó có thể
bị dẹp qua một bên.
Nói rằng con người là Chơn Ngã hay là Tâm Thức thuần túy, là nói
một cách trừu tượng mà thôi.
Thật sự, con người không phải là Chơn Ngã thuần túy hay là Tâm
Thức thuần túy. Trong Vũ Trụ hữu hình mà ta đương sống đây luôn luôn
chúng ta gặp Chơn Ngã với những lớp vỏ của nó, tức là những thể xác.
Mấy thể xác nầy có cái rất tinh vi như Thượng Trí , Kim Thân, Tiên Thể.
Một đơn vị Tâm Thức không thể lìa khỏi Vật Chất, và Chơn Ngã hay
là Chơn Thần Jivatma luôn luôn là một đơn vị Tâm Thức hiệp với Vật
Chất.
Muốn trình bày rõ ràng hơn, Yoga phân biệt trong con người hai căn
bản khác nhau : ấy là Prana và Pradhana.
Prana là Sự Sống và Pradhana là Vật Chất.
Prana không phải chỉ là sanh khí trong xác thân mà thôi, nó còn là
toàn thể sanh lực trong Vũ Trụ, nói cách khác, nó là sự sanh tồn của Vũ
Trụ Càn Khôn.
Thế nên Indra, Ðế Thích có nói : “Ta là Prana”.
Prana đây có nghĩa là toàn thể sanh lực mà trong Yoga coi nó như là
Trí Tuệ.
Còn Pradhana đồng nghĩa với Vật Chất.

TÂM THỨC
SỰ MỞ MANG TÂM THỨC

Muốn mở khai Tâm Thức thì phải hiểu những điều sau đây :
Sự cấu tạo Thái Dương Hệ và sự cấu tạo thân thể con người đều tuân
theo những định luật chung như nhau.
Những định luật chi phối sự khai mở những quyền năng của Chơn
Ngã trong Vũ Trụ, từ tinh vân đỏ rực cho đến Ðức Thượng Ðế vẫn lập lại
in như vậy trong mình con người.
Nếu hiểu được những định luật nầy thì tự nhiên biết được những định
luật kia .

CON NGƯỜI TĂNG TRƯỞNG CÁCH NÀO ?


Nhơn loại trên mặt địa cầu bây giờ đây đã trải qua một sự tiến hóa
dài lâu ở ba Dãy Hành Tinh [2] trước từ lúc đầu thai vào loài Kim
Thạch, rồi qua Thảo Mộc, Cầm Thú, cuối cùng mới tới Con Người hiện
giờ.
Khi bắt đầu luyện tập Yoga thì con người nhờ trong mình có sẵn sức
mạnh chứa trong quá trình tiến hóa nầy thúc đẩy nên tiến rất mau.
Những định luật của Yoga dùng là những định luật tiến hóa của Tâm
Thức trong Vũ Trụ và những nguyên tắc chi phối sự mở mang Tâm Thức
trong cuộc Ðại Tiến Hóa của nhơn loại cũng vẫn là những nguyên tắc
mà người ta thấy trong Yoga và đem áp dụng có phương pháp trong sự
khai mở nhanh chóng Tâm Thức của chúng ta.

LÀM CÁCH NÀO ÐẶNG PHÁT TRIỂN TÂM THỨC


MỘT CÁCH NHANH CHÓNG ?
Phần đông nhơn loại ngày nay đã tiến hóa khá cao, chúng ta là
những người thông minh có học thức, tại sao chúng ta không tìm cách
tiến cho mau lẹ đặng đi tới quả vị Siêu Phàm trong một thời gian ngắn
ngủi.
Duy có phương pháp Yoga do những vị Ðắc Ðạo thành Chánh Quả chỉ
bảo lại mới giúp chúng ta đạt được kết quả tốt đẹp đó.
Muốn luyện tập Yoga, trước nhứt hành giả phải nhớ mãi Chơn lý
nầy :
Những định luật chi phối sự tiến hóa của Hình Dạng và những
định luật chi phối sự tiến hóa Tâm Thức trong Vũ Trụ cũng như
trong Con Người, chúng vẫn in nhau, tức là một.
Nhờ những định luật nầy mà hành giả Yoga mới khai mở được những
quyền năng còn tiềm tàng trong mình.
Như thế, quí huynh hiểu rằng không cần phải sống trong núi non, sa
mạc, khỏi cần phải ẩn mình trong chốn rừng sâu động thẳm mới hiệp
nhứt với Chơn Ngã được, bởi vì Chơn Ngã vẫn ở trong mình ta và chung
quanh ta đây.
Ðức Thượng Ðế đã dự định sẵn trước, Ngài tạo lập Vũ Trụ đặng khai
mở những quyền năng của Chơn Ngã, tại sao ta lại lánh đời ?
Quí huynh hãy đọc lại quyển Thánh Ca Bhagavad Gita là quyển dạy
Yoga độc nhứt vô nhị, từ xưa cho đến nay chưa có quyển nào sánh kịp.
Quí huynh sẽ thấy Ðức Thượng Ðế Krishna không phải ngõ lời với một
thầy Bà La Môn ẩn mình trong chốn tịch mịch hoang vu, mà Ngài dạy
Ðạo cho Arjuna, một chiến sĩ can trường đương cầm binh ra trận, sẵn
sàng chiến đấu.
Chính là tại bãi chiến trường của cõi đời vật chất nầy mà chúng ta
phải thực hành Yoga.
Những ai không chịu nổi những trận cuồng phong của thế sự thì làm
sao đương đầu với những yêu sách của Yoga được ? Nếu quí huynh đã
thất bại trên đường đời rồi thì làm sao thắng được những trận bão lòng
ở nội tâm.
Nếu quí huynh còn bị những sự lo buồn nhỏ mọn của sự đời làm cho
cõi lòng xao xuyến thì làm sao quí huynh có đủ sức lực và gan dạ để
phá tan những chướng ngại dựng lên đặng cản trở vị hành giả Yoga ở
mỗi chặng đường không cho y tiến lên.
Mặc dù không đợi phải tìm chốn sơn cùng, thủy tận ở ẩn mới được an
tịnh đặng luyện tập, nhưng thật ra vẫn có vài cách luyện tập bắt buộc
phải xa lánh chốn phồn hoa đô hội trong một thời gian.
Thiết tưởng lâu lâu cũng nên về chốn đồng quê hay núi non, biển dã
di dưỡng tinh thần để phục hồi sức khỏe đặng phụng sự.
Phải sáng suốt, không nên chấp nê. Nói tóm lại, phải áp dụng những
Ðịnh luật Yoga chi phối sự mở mang Tâm Thức vào trường hợp riêng
biệt của mỗi cá nhân mới tiến mau, mà nhứt là ý chí phải cứng cõi như
sắt đá. Phải cương quyết, không thối bước trước những khó khăn gặp gỡ
giữa đường, không để cái chi lay chuyển được thì sự thành công là vấn
đề thời gian. Phương pháp thực hành có chỉ dạy trong pháp môn Raja
Yoga, nhưng phải tập luyện cho đúng phép mới có hiệu quả và xin nhắc
lại một lần nữa, điều cần thiết là phải nhờ một vị Ðạo Sư chỉ dẫn, đừng
luyện tập một mình về sự “Ðiều Tức” mà có ngày phải mang họa.

SỰ RUNG ÐỘNG CỦA VẬT CHẤT VÀ SỰ BIẾN ÐỔI TÂM THỨC


Xin nhắc lại, về phương diện Yoga thực hành thì Tâm Thức là Chơn
Ngã.
Tâm Thức có nhiều lớp vỏ bọc bao quanh mình gọi là thể xác. Thể
xác nầy làm bằng Vật chất. Có sự liên quan mật thiết giữa Vật chất làm
ra lớp vỏ với Tâm Thức.
Mỗi sự rung động trong Vật chất đều gây ra một sự biến đổi tương
ứng trong Tâm Thức, mà mỗi sự biến đổi trong Tâm Thức cũng phát
sanh một sự rung động tương ứng trong Vật chất.
Khoa Hatha Yoga (Luyện Khí Công) và Raja Yoga (Yoga Vương Giả)
đều lợi dụng sự tương quan nầy. (Xin xem tới đoạn : Sự khác biệt giữa
Hatha Yoga và Raja Yoga).
VỀ PHƯƠNG DIỆN THỰC TẬP

YOGA LÀ SAMADHI
Trước hết ta phải hiểu Samadhi là gì ? Samadhi là trạng thái xuất
thần, trong lúc đó Tâm Thức lìa khỏi thể xác cho đến đỗi thể xác trơ trơ
không còn biết cảm giác nữa.
Tuy nhiên cái Trí vẫn sáng suốt. Khi hành giả trở về nhập xác thì nhớ
hết những sự kinh nghiệm anh thâu thập được ở mấy cõi mà anh đã trải
qua, vì cái Trí ghi vào óc xác thịt những sự hiểu biết đó.
Samadhi vẫn riêng biệt cho mỗi cá nhân.
Một người thường xuất thần qua cõi Trung Giới thì Samadhi của anh
ở tại cõi Trung Giới.
Khi Tâm Thức anh hoạt động ở tại cõi Trung Giới thì Samadhi của
anh ở tại cõi Thượng Giới. Nếu nói Yoga là Samadhi thì Samadhi có
nghĩa là quyền năng lìa khỏi thể xác và tập trung tư tưởng vào bên
trong, tức là nội tâm.
Khi một người ở trạng thái Samadhi thì không có phương thế tầm
thường nào ở thế gian gọi anh trở lại cõi mà anh đã bỏ đi. ( Xin xem
chuyện Ba gương Ðại Ðịnh trong quyển Cách Tu Hành ).
Một vị La Hán xuất thần thì Samadhi của Ngài ở tại cõi Niết Bàn.
Một vị Chơn Sư được năm lần Ðiểm Ðạo thì Samadhi của Ngài khởi
đầu ở tại cõi Niết Bàn rồi lên trên những cõi Hư Không.
(Xin nhớ ngoài bảy cõi của Thái Dương Hệ còn bảy cõi Hư Không cao
hơn bảy cõi của Thái Dương Hệ nhiều lần).
Giấc ngủ khác với Samadhi như thế nào ?
Nên biết khi cái Vía ra khỏi xác thân thì con người mới ngủ. Ta qua
cõi Trung Giới, Tâm Thức ta lúc đó ở tại cõi Trung Giới, nhưng ta còn mê
muội, ta chưa thức tỉnh như lúc thức đây. Ta không thấy, không học hỏi
cái chi được tại cõi nầy. Tuy nhiên, có khi ta thấy những điều xảy ra ở
cõi Trung Giới, nhưng chừng về nhập xác, thức dậy quên hết. Aáy tại ta
chưa biết cách làm cho những Trung Tâm Lực gọi là Luân Xa (Chakras)
của cái Phách và của cái Vía hoạt động, chúng chưa mở ra.
Có thể nói giấc ngủ là sự xuất thần hay là Samadhi tự nhiên, nhưng
trong tình trạng nầy con người không thức tỉnh.
Còn Samadhi là sự xuất thần nhơn tạo mà trong trạng thái nầy con
người vẫn sáng suốt và hiểu biết như lúc thức đây.

YOGA LÀ MỘT KHOA HỌC


Yoga là một khoa học chớ không phải là một ảo tưởng hay là một sự
phát minh vô căn cứ, bay phất phới trong trí tưởng tượng. Nó là một
khoa học thực dụng, một toàn bộ định luật phối hợp với nhau, khi đem
ra thi hành thì thâu thập được một kết quả chắc chắn.
Yoga dùng những luật của Tâm Lý Học [3] để khai mở toàn diện
Tâm Thức con người trong các cõi và áp dụng những luật nầy cho mỗi
trường hợp riêng biệt cá nhân.
Sự áp dụng nói trên đây vẫn đúng và in như những nguyên tắc mà
chúng ta thường thấy áp dụng hằng ngày chung quanh ta trong các
ngành khoa học.
Trí khôn thiêng liêng trong con người có thể hướng dẫn những luật
thiên nhiên trong vài trường hợp như những luật tuyển chọn trong
ngành trồng tỉa, chăn nuôi.
Thí dụ : Người nuôi chim. Anh dùng những chim cu ngói để tạo ra
giống bồ câu có bầu diều lớn ( boulant) và giống bồ câu khổng tước
(pigeon paon).
Còn anh trồng bông. Anh đổi giống hoa hồng dại mọc ở hàng rào
thành ra những bông hường rất đẹp.
Công việc của hai anh làm trong vài năm có những kết quả mà thiên
nhiên phải mất cả trăm ngàn năm mới đạt được.
Cũng như hiện giờ nhờ sự học hỏi, kinh nghiệm và thí nghiệm mà các
kỹ sư canh nông mới tạo ra được các thứ lúa Thần nông có năng suất
cao mà không sợ rầy nâu và sâu bọ phá hại. Mỗi năm bực trung gặt
được hai mùa, đem nguồn lợi cho nông gia rất nhiều.
Các vị kỹ sư cũng tìm ra được thứ lúa trồng ở miền nước mặn nữa.
Tất cả những điều nầy đều nhờ trí thông minh mà thành hình.
Thấy bao nhiêu đây cũng đủ biết rằng Yoga có thể biến đổi con người
ra một vị Siêu Phàm trong vài chục kiếp, nếu áp dụng đúng phép luật
phát triển Tâm Thức trong đời sống hằng ngày.

TRÍ TUỆ
Patanjali định nghĩa Yoga là sự đình chỉ những biến đổi của Trí tuệ.
Mà theo Yoga, Trí tuệ là gì ? Aáy là toàn thể Tâm Thức cá nhân.
Ðịnh nghĩa nầy khác hơn sự học hỏi từng thể trong Huyền Bí Học.
Người ta thực hành được Yoga khi lấy Tâm Lý Học Ðông Phương làm
căn bản. Hiện giờ Tâm Lý Học Tây Phương còn nhiều khuyết điểm, vì nó
rất mới mẻ, phải cần bồi bổ trong nhiều thế kỷ nữa.
Theo Yoga người ta trạng tả Tâm Thức cá nhân như thế nào ?
Trước nhứt Tâm Thức cá nhân thấy sự hiện hữu của sự vật, nó ham
muốn rồi kiếm thế chiếm hữu.
Thế nên nó có ba trạng thái :
1/- Hiểu biết.
2/- Ham muốn.
3/- Hoạt động.
Tại cõi Trần, sự hoạt động chiếm ưu thế.
Ở cõi Trung Giới, sự ham muốn thắng tư tưởng và sự hành động.
Lên Thượng Giới, tư tưởng là quan trọng, còn sự ham muốn và sự
hoạt động là phụ thuộc.
Tới cõi Bồ Ðề thì Lý trí thuần túy (raison pure) điều khiển.
Ở cõi nào cũng có ba trạng thái nầy, nhưng tùy theo cảnh giới thì có
một trạng thái lấn lướt hai trạng thái kia.
Muốn tập Yoga thì phải làm sao cho ba thể : Thân, Vía, Trí rung động
điều hòa với nhau và ở dưới quyền điều khiển của Chơn Nhơn.
Vì thế phải nuôi dưỡng :
1/- Xác thân với những thực phẩm tinh khiết.
2/- Cái Vía với những ý muốn tốt đẹp vị tha.
3/- Cái Trí với những tư tưởng cao thượng, Từ bi, Bác ái.

NHỮNG GIAI ÐOẠN TIẾN TRIỂN CỦA TRÍ TUỆ


Patanjali nói rằng sự tiến triển của Trí Tuệ trải qua năm giai đoạn
khác nhau, còn trong quyển Giảng lý [4] thì Vyasa nói rằng ở cõi nào
cũng có năm giai đoạn nầy cả :
1/- Trong giai đoạn thứ nhứt (Kshipta) cái Trí bị lôi cuốn từ điều nầy
qua điều kia. Aáy là cái Trí bay lượn của nhơn loại còn ấu trỉ.
Nói về con người : đó là cái Trí của đứa con nít không định vào một
chỗ cho lâu, không khác nào con bướm mới đáp xuống bông nầy rồi bay
qua bông kia liền.
Giai đoạn nầy đối chiếu với sự hoạt động tại cõi Trần.
2/- Giai đoạn thứ nhì là sự Lầm Lẫn (Mudha).
Aáy là giai đoạn của thanh niên bị tình cảm chi phối, bồng bột, sôi
nổi, nhưng bắt đầu cảm biết sự vô minh của mình.
Trạng thái nầy cao hơn trạng thái của trẻ thơ, nó đối chiếu với sự
hoạt động tại cõi Trung Giới.
3/- Giai đoạn thứ ba là giai đoạn : bận tâm, lo nghĩ, say đắm, si mê
(Vikshipta), ấy là tình trạng của một người bị một thứ tư tưởng ám ảnh,
hoặc tình yêu, hoặc tham vọng hay là một sự lo lắng nào khác nữa.
Con người không còn là một thanh niên, do đó anh biết anh muốn cái
chi. Tư tưởng mà anh nuôi mãi trong trí, tùy theo bản tánh của nó tốt
hay xấu sẽ hướng dẫn anh vào con đường tà hay chánh, xấu hay tốt và
biến đổi anh thành ra một người điên, một người cuồng tín, một người
anh hùng, một vị hiền triết hay là một vị Thánh nhân.
Không có lý luận nào lay chuyển niềm tin của anh được.
Người nào có ý chí cương quyết như thế thì có thể chuẩn bị đặng
luyện tập Yoga.
Giai đoạn nầy đối chiếu với sự hoạt động tại cõi Hạ Thiên (Plan
mental inférieur).
4/- Giai đoạn thứ tư : giai đoạn nầy gọi là Ekagrata. Hành giả điều
khiển tư tưởng, chớ không phải tư tưởng sai bảo lại anh.
Những sự quyến rủ, những sự cám dỗ của cuộc đời không còn lung
lạc anh được nữa. Ðối với anh chúng là ảo ảnh.
Giai đoạn nầy đối chiếu với sự hoạt động tại cõi Thượng Thiên (Plan
mental supérieur).
5/- Giai đoạn thứ năm : giai đoạn nầy gọi là Niruddha. Chơn Nhơn
điều khiển Phàm Nhơn hay là Con Người. Hành giả có thể bác bỏ hay
chọn lựa một tư tưởng, tùy theo quyết định của ý chí sáng suốt. Anh
tuân theo mạng lịnh của Chơn Nhơn (Linh hồn) và khi anh luyện tập
Yoga thì anh thâu thập được nhiều kết quả tốt đẹp.
Giai đoạn nầy đối chiếu với sự hoạt động tại cõi Bồ Ðề.

NHỮNG ÐIỀU HÀNH GIẢ PHẢI THỰC HÀNH


KHI TỚI GIAI ÐOẠN THỨ BA (VIKSHIPTA).
Sự Phân Biện, Ðoạn Tuyệt và sáu năng lực Trí thức.
Tới giai đoạn thứ ba Vikshipta, hành giả bắt đầu học tập Viveka, tức
là tánh Phân Biện sự Chơn và sự Giả, cái tạm thời phù du và cái vĩnh
cửu trường tồn, cái lành và cái dữ, cái hữu ích và cái vô ích, cái hữu ích
nhiều và cái hữu ích ít.
Học xong bài nầy thì anh bước qua giai đoạn thứ tư - Ekagrata �
Anh chọn lựa một tư tưởng duy nhất là đời sống nội tâm. Anh không
còn ham muốn những thú vui và những điều gì mà thế tục vẫn còn
thèm thuồng. Anh không còn thuộc về cõi đời nầy nữa.
Anh tập tánh Vairagya, tức là Ðoạn Tuyệt. Anh bước thêm một bước
nữa thì tới giai đoạn thứ năm : Niruddha do Chơn Nhơn (Linh hồn) điều
khiển.
Anh tập cho kỳ được sáu đức tánh thuộc về năng lực trí thức gọi là
Shatsampatti.
Trong quyển Con đường của người đệ tử , sáu đức tánh nầy là :
1/- Ðức tánh thứ nhứt : Shama - Sự kiểm soát cái Trí.
2/- Ðức tánh thứ nhì : Dama - Sự kiểm soát giác quan và xác thân
hay là kỷ luật hạnh kiểm.
3/- Ðức tánh thứ ba : Uparati - Khoan dung.
4/- Ðức tánh thứ tư : Titiksha - Kiên nhẫn.
5/- Ðức tánh thứ năm : Shraddha - Ðức tin - Tin cậy.
6/- Ðức tánh thứ sáu : Sanadhana - Ðiềm tĩnh.
Trong quyển Dưới Chơn Thầy sáu đức tánh nầy là :
1/- Tự chủ trong khi tư tưởng.
2/- Tự chủ trong lúc hành động.
3/- Khoan dung.
4/- An phận.
5/- Sự thẳng tới mục đích (Quyết định).
6/- Lòng tin cậy.
- Sáu đức tánh nầy, Shatsampatti, thuộc về trạng thái Ý chí của Tâm
Thức.
- Viveka : Phân Biện thuộc về trạng thái Hiểu Biết.
- Vairagya : Ðoạn Tuyệt thuộc về trạng thái Hoạt Ðộng.
Khi quí bạn học hỏi cái Trí của quí bạn một cách vô tư thì quí bạn có
thể biết quí bạn học tập Yoga được chưa.
Nếu cái Trí quí bạn mới đi tới hai giai đoạn đầu tiên thì quí bạn chưa
chuẩn bị đặng luyện tập Yoga đâu. Dầu quí bạn ướm thử, cũng sẽ thất
bại, đây có nghĩa là quí bạn phải làm chủ được hai phần ba cái Trí thì
mới nên khởi sự.
Trẻ con và thanh niên [5] không thể luyện tập Raja Yoga vì chưa hội
đủ những điều kiện cần thiết.
Nói tóm lại, phải cương quyết, phải nuôi mãi một tư tưởng duy nhất
mới luyện tập Yoga được.
Xin xem tấm bảng năm giai đoạn tiến triển của Trí tuệ dưới đây :
NĂM GIAI ÐOẠN TIẾN TRIỂN CỦA TRÍ TUỆ.

Số thứ tự TIẾNG PHẠN TIẾNG VIỆT Ðức tánh cần thiết TRẠNG THÁI CỦA TÂM THỨC
1 Kshipta tâm thức bay lượn
2 Mudha Lầm lẫn

Viveka
3 Vikshipta Bền tâm lo nghĩ Sự hiểu biết
Phân biện
Vairagya
4 Ekagrata Mục đích duy nhất Sự hoạt động
Ðoạn tuyệt Xả

Shatsampatti
5 Nirudha Tự chủ 6 đức tánh thuộc về năng Ý chí
lực trí thức

BỐN TRẠNG THÁI CỦA TRÍ TUỆ


Bây giờ xin nói về bốn trạng thái của Trí Tuệ :
1/- Trạng thái của Trí Tuệ trong lúc thức gọi là Jagrat.
2/- Trạng thái của Trí Tuệ trong lúc chiêm bao gọi là Svapna.
3/- Trạng thái của Trí Tuệ trong lúc ngủ say gọi là Sushupti.
4/- Trạng thái của Trí Tuệ trong lúc xuất thần gọi là Turiya.
- Jagrat là Tâm Thức của chúng ta dùng trong lúc thức đây
(Conscience à l�état de veille).
- Svapna : Nếu Tâm Thức hoạt động trong cái Vía và ghi được những
sự kinh nghiệm của nó trong óc xác thịt thì người ta gọi nó là Svapna,
tức là trạng thái Tâm Thức trong lúc chiêm bao.
- Sushupti : Khi Tâm Thức hoạt động trong cái Trí thì nó không thể
ghi được những sự kinh nghiệm trong khối óc xác thịt.
Trường hợp nầy là trạng thái Tâm Thức lúc con người ngủ say, ngủ
mê mang. Người ta gọi nó là Sushupti.
- Turiya : Nếu Tâm Thức lìa khối óc xác thịt cho đến đỗi không có
phương pháp ngoại giới nào kêu nó trở lại được, thì con người ở vào
trạng thái xuất thần (Turiya).
Bốn trạng thái nầy đối chiếu với bốn cõi :
1- Jagrat đối chiếu với cõi Trần.
2- Svapna đối chiếu với cõi Trung Giới.
3- Sushupti đối chiếu với cõi Thượng Giới.
4- Turiya đối chiếu với cõi Bồ Ðề.

LÀM SAO PHÂN BIỆT BỐN TRẠNG THÁI NẦY ?


Chúng ta hãy quan sát Tâm Thức lúc con người còn thức đặng tìm
hiểu bốn trạng thái đó.
Thí dụ ta lấy một cuốn sách ra đọc.
Mắt ta xem những hàng chữ - nó đối chiếu với Tâm Thức tại cõi Trần
lúc ta còn thức đây.
Ấy là trạng thái Jagrat.
Nếu ta tìm hiểu ý nghĩa của câu văn thì ta vượt qua hình thức bên
ngoài đặng tìm sự sống bên trong. Ta đi từ trạng thái Jagrat qua trạng
thái Svapna.
Khi ta cho tâm trí ta tiếp xúc với tâm trí của tác giả thì ta qua trạng
thái Sushupti. Tới chừng ta cho tâm trí ta nhập vô tâm trí của tác giả
đặng hiểu câu văn như tác giả đã hiểu thì ta vào trạng thái xuất thần
Turiya.

MỘT THÍ DỤ KHÁC NỮA.


Ta xem một cái đồng hồ.
Ta ở vào trạng thái Jagrat.
Ta nhắm mắt lại, tưởng tượng thấy hình dạng cái đồng hồ thì ta ở
vào trạng thái Svapna.
Khi ta gợi hình ảnh của nhiều cái đồng hồ rồi đi tới một cái đồng hồ
lý tưởng thì ta ở trong trạng thái Sushupti.
Cuối cùng ta đi tới quan niệm trừu tượng của thời gian thì ta ở vào
trạng thái xuất thần Turiya.
Ðức Bà A. Besant đưa ra những thí dụ trên đây, song tôi thấy điều
nầy còn khó với những bạn mới học Ðạo. Xin xem tấm bảng dưới đây :

BỐN TRẠNG THÁI CỦA TÂM THỨC

NG PHẠN TIẾNG VIỆT THÍ DỤ ÐỐI VỚI TÂM THỨC

rat Lúc thức (veille) Ðọc một quyển sách Xem một cái đồng hồ
Tâm Thức hoạt động trong xác thân
apna Lúc chiêm bao (rêve) Hiểu nghĩa câu văn Nhắm mắt tưởng tượng
Tâm Thức hoạt động trong cái một cái đồng hồ
shupti Ngủ say, Ngủ mê mang Tiếp xúc với tâm trí Gợi một cái đồng hồ lý tưởn
(profond sommeil) của tác giả
iya Xuất thần (trance) Thâm nhập vô Tâm Trí Ði tới quan niệm trừu tư
Tâm Thức lìa khỏi khối óc của tác giả của thời gian

THAM THIỀN VÔ CHỦNG (KHÔNG HỘT GIỐNG)


(MÉDITATION SANS SEMENCE)
THAM THIỀN HỮU CHỦNG (CÓ HỘT GIỐNG)
(MÉDITATION AVEC SEMENCE)

1-THAM THIỀN VÔ CHỦNG.


Sao là Tham Thiền Vô Chủng (Không hột giống) ?
Nếu quí bạn có học thức, ưa lý luận, quí bạn suy nghĩ nhiều thì trong
lúc quí bạn lo giải quyết một vấn đề thì quí bạn tham thiền vô chủng.
Các bạn học sanh, sanh viên, các nhà bác học, khoa học, y sĩ, dược
sư, các nhà kỹ thuật, các nhà kỹ nghệ, v.v. . . . đều tham thiền vô
chủng nhiều hay ít tùy theo cấp bực, mỗi người ở mỗi trình độ khác
nhau.

2- THAM THIỀN HỮU CHỦNG


Khi mà sự tưởng tượng mạnh hơn lý luận thì hành giả có thể tham
thiền hữu chủng. Anh tưởng tượng thấy anh quì dưới chơn Ðức Phật,
Ðức Bồ Tát, Ðấng Christ, một vị Chơn Sư và tâm anh nhập vô tâm Ngài.
Có người say mê trong sự tham thiền nầy cả giờ, không còn biết gì
tới ngoại giới cả.
Những người thuộc về hạng Thần bí, những người sùng Ðạo, phần
đông tín đồ các tôn giáo đều tham thiền hữu chủng, mặc dầu có lẽ họ
không biết chi về điều nầy.
NHỮNG CÂU CHƠN NGÔN (MANTRAM)
Ba thể của chúng ta thường dùng là : Thân, Vía, Trí làm bằng những
nguyên tử mà mỗi thứ nguyên tử đều có cách rung động riêng biệt của
nó.
Vì thế mà ba thể Thân, Vía, Trí của chúng ta không bao giờ yên tịnh,
nhứt là cái Trí lao chao hơn hết.
Xin nhớ rằng sự rung động của ba Thể đều sanh ra một sự biến đổi
tương ứng trong Tâm Thức. Mà mỗi sự biến đổi trong Tâm Thức cũng
sanh ra một sự biến đổi tương ứng trong Thể xác.
Nếu ngăn cản được sự rung động trong mỗi thể thì Tâm Thức được
yên tịnh.
Có một phương pháp áp dụng trong trường hợp nầy là niệm những
câu Chơn Ngôn

CHƠN NGÔN LÀ GÌ ?
Mỗi tiếng đều rung động mạnh hay yếu tùy theo thứ. Những vị có
Huệ Nhãn biết được điều nầy nên lựa những tiếng nào rung động hết
sức mạnh mẽ rồi ráp lại thành một câu và làm thế nào mà khi đọc đến
thì âm thinh sanh ra một hiệu quả chắc chắn và nhứt định.
Câu nầy gọi là Chơn Ngôn, Thần Chú. Có câu đọc đến thì gió dông
nổi dậy, sóng bủa ba đào, mưa tuôn xối xả, lửa dậy phừng phừng, khiến
quỉ sai thần, thư trù, ếm đối, v.v. . .
Các nhà Huyền Bí Học đều biết mấy điều nầy là thật, song người ta
thổi phồng nó lên cho nên có nhiều chuyện thành ra dị đoan, phi lý.
Có câu Chơn Ngôn niệm thường thì tâm trí lần lần trở nên yên tịnh và
có những hiệu nghiệm khác nữa. Vì vậy mới có khoa Mantra Yoga.
Tỷ như câu nầy gọi là câu Thần chú Bát Nhã Ba la mật đa, niệm
thường thì cái Trí và cái Vía bớt xao động lần lần :
Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi svaha.
Tàu dịch nghĩa là :
Ði đi, đi qua bờ bên kia, qua tới bờ bên kia. Trí huệ đáo bỉ ngạn.
Câu Chơn Ngôn nước nào thì phải đọc theo tiếng nước đó và trúng
giọng mới có hiệu nghiệm lẹ làng.
Dịch ra tiếng nước khác mất sự linh nghiệm. Cũng nên biết câu Chơn
Ngôn dịch ra từ tiếng thì vô nghĩa.
Tỷ như câu : Om Mani ! Padmé hum !
Người bình thường đọc là : Aùn Ma ni Bát di Hồng .
Dịch ra là : Hột ngọc trong bông sen.
Om hay Aum là Thánh ngữ.
Mani là hột ngọc hay bửu châu.
Padmé là bông sen.
Có khi sau chữ Hum người ta thêm chữ Ri nữa.
Om Mani ! Padmé Hum Ri !
Nhưng tôi xin nói câu Chơn Ngôn nầy có sức mạnh phi thường. Nó
tăng cường tánh tốt cũng như tánh xấu.
Sau cơn nóng giận hay dục tình sôi nổi thì đừng niệm, hai tánh nầy
sẽ phá con người dữ dội.
Chỉ nên niệm khi tấm lòng thanh tịnh mà thôi.
Có những câu chú làm hại người dễ dàng, nhưng hãy nhớ rằng chúng
là cây gươm hai lưỡi chém người mà cũng chém mình nữa, bởi vì Luật
Nhân Quả không dung tha đâu, không trả kiếp nầy thì cũng kiếp sau.
Tôn giáo nào, như Ai Cập Giáo, Ba Tư Giáo, Aán Giáo, Bà La Môn
Giáo, Phật Giáo, Công Giáo, Hồi Giáo, Lão Giáo, cũng đều có những câu
Chơn Ngôn, song chúng thuộc về khoa Bí Truyền, cho nên ít ai biết.

HAI THỨ ÐẠI ÐỊNH


TÂM THỨC CÓ THỂ HƯỚNG RA NGOÀI
HAY LÀ HƯỚNG VÔ TRONG

Có hai thứ Samadhi : Ðại Ðịnh.


Khi Tâm Thức hướng ra ngoài thì nó tên là Samprajnata Samadhi hay
là Ðại Ðịnh có Tâm Thức (Samadhi avec conscience).
Một thứ hướng vô trong có tên là Asamprajnata Samadhi hay là Ðại
Ðịnh không có Tâm Thức (Samadhi sans conscience).

1- ÐẠI ÐỊNH HƯỚNG RA NGOÀI


Trong lúc ta thức đây, ta lo nghĩ những việc ở ngoài đời đặng giải
quyết. Ta thấy những sự vật.
Tâm Thức ta hướng ra ngoài.
Nếu ý thức rằng những sự vật có ra đây là sự biểu hiện của những
nguyên lý ở mấy cõi cao. Chúng là những hậu quả chớ chẳng phải là
nguyên nhân.
Nếu ta vượt qua khỏi hình dạng thì sự sống sẽ hiện ra.
Chính là Darwin hướng Tâm Thức ra ngoài và lên cao nên mới tìm ra
Luật Tiến Hóa

2- ÐẠI ÐỊNH HƯỚNG VÔ TRONG.


Khi Tâm Thức lìa ngoại cảnh, không còn chú ý tới những sự vật ở bên
ngoài và tìm kiếm sự sống tạo ra chúng nó thì Tâm Thức hướng vô
trong.
Trong lúc Thiền Ðịnh, ta loại trừ từ lớp vỏ, trước hết là Xác Thân, kế
đó là cái Vía, rồi tới cái Trí, đặng tìm Chơn Nhơn, Chơn Ngã trong thâm
tâm thì ta hướng Tâm Thức vô trong.
Tuy nhiên, đây không phải là một việc dễ làm đâu. Phải có một vị
Ðạo Sư dạy phương pháp, dắt dẫn lần lần, ban đầu ra khỏi Xác Thân
hoạt động trong cái Vía, rồi kế đó bỏ cái Vía, hoạt động trong cái Trí,
v.v. . . .
Luôn luôn thuyết rất dễ hành rất khó. Phải có nhiều năm kinh
nghiệm rồi mới giải thích rõ ràng được.
ÐÁM MÂY MÙ.
Sau khi suy nghĩ sâu xa về một vần đề nào rồi và không còn cái để
tìm hiểu nữa thì hãy để cái Trí trống không.
Hãy kiên nhẫn và tiếp tục như thế, đừng ngã lòng.
Tới một ngày kia, hành giả sẽ cảm biết có một đám mây mù dày đặc
bao phủ anh, anh biết anh không trơ trọi một mình nhưng anh không
phân biệt được cái chi cả.
Tâm Thức anh bị treo lơ lửng giữa quãng trống không, tối tăm, mù
mịt.
Nhưng hãy bình tĩnh, thản nhiên, đừng sợ cái chi cả. Hãy nói : “Tôi là
Thượng Ðế” rồi chờ đợi.
Ðám mây sẽ tan lần lần, Tâm Thức anh mở rộng hơn trước. Anh thấy
một cảnh giới cao siêu hiện ra, ban đầu lờ mờ, sau rõ ràng với tất cả sự
huy hoàng của nó.
Phải tiếp tục sự kinh nghiệm nầy. Khi lên cõi Thượng Giới thì hành
giả sẽ nghe được : “Tiếng nói Vô Thinh” .
Tiếng nói nầy hoặc là tiếng nói Chơn Nhơn hoặc là tiếng nói của Chơn
Sư, tùy trường hợp.
Còn việc Tập Trung Tâm Thức trên cõi Bồ Ðề và cõi Niết Bàn vẫn còn
xa vời với chúng ta, nên tôi không đề cập đến.
Ðám mây mù tiếng Phạn là Dharma Megha. Nó có nhiều nghĩa :
1. hoặc đám mây Chơn Lý.
2. hoặc đám mây Công Lý
3. hoặc đám mây Tôn Giáo
4. hoặc đám mây trong Thánh Ðiện Từ Bi
5. hoặc đám mây trên Núi . . . .
tùy theo đoạn văn.
Các bình luận gia không giải nghĩa nhiều về danh từ Dharma Megha.
Họ chỉ nói tất cả những quả tốt gây ra trong quá khứ quần tụ trên đầu
con người rồi ban rải ân huệ xuống như mưa.
Tưởng cũng nên biết rằng : trường hợp trên đây là Tâm Thức rút vào
một thể tinh vi hơn Xác Thân.
Trong lúc Ðại Ðịnh hơi thở nhẹ như đường tơ rồi lần lần dứt hẳn.
Hành giả không thở mà không chết. Hết Ðại Ðịnh thì thở lại như
thường. Ðây là chuyện kỳ lạ mà có thật. Không thở mà vẫn sống, trái
với Luật Vật lý Hồng trần.
Ở Aán Ðộ có những người Yogui Ðại Ðịnh rồi xuất thần, ngồi trơ trơ
cả chục năm trời giữa chốn rừng sâu núi thẳm, không ăn uống mà
không đau ốm, bệnh hoạn và vẫn sống như thường.
Ở tại cõi Trần có không biết bao nhiêu việc mà ta không biết; mà
phần nhiều những việc ta biết ta cũng không tri ra được nguyên nhân.

CÁI TRÍ VÀ BẢN NGÃ


Có người nói :“Nếu cái Trí và mấy thể bị loại ra ngoài rồi thì còn lại
cái chi?”
Patanjali trả lời : “Thì còn khán giả trong nguyên hình của nó” .
Khán giả đây là Bản Ngã.
Và Thông Thiên Học thì nói : “Còn Chơn Thần” .
Tới đây chấm dứt cuộc hành hương của nó. Aáy là điểm cao hơn hết
mà nhơn loại đạt được. Nếu con người phát triển trọn vẹn những quyền
năng của nó trong năm cõi từ cõi Hồng Trần cho đến cõi Niết Bàn xuyên
qua ba cõi Trung Giới, Thượng Giới và Bồ Ðề thì con người thành một vị
Siêu Phàm được năm lần Ðiểm Ðạo. Chơn Nhơn nhập làm một với Chơn
Thần.

VỀ QUAN ÐIỂM NẦY PHÁI SAMKHYA


GẶP NHỮNG NỖI KHÓ KHĂN.
Phái Samkhya cho vấn đề nầy khó giải quyết. Khi quang cảnh không
còn nữa thì khán giả sẽ ra sao ? Khán giả không còn là khán giả nữa, vì
còn cái chi mà quan sát.
Câu trả lời duy nhất là như vầy: “Bản Ngã hiện nguyên hình” .
Khi Bản Ngã vượt lên khỏi Nhị nguyên là Vật Chất và Tinh Thần thì
nó không còn thể nào biểu hiện ra được nữa. Nó ở trong trạng thái tiềm
tàng, phôi thai.
Ðức Bà A. Besant nói : Phái Samkhya đi xa hơn sự thật. Thật ra sau
khi Chơn Thần khắc phục Vật chất thì nó điều khiển chớ không còn nô lệ
nữa.
Khi Chơn Nhơn cổi bỏ lần lần những thể của nó, từ thể nầy tới thể kia
trên con đường Hồi Hương hay là Phản Bổn Hườn Nguyên thì ánh sáng
càng ngày càng hiện ra rực rỡ

PHÁI SAMKHYA GIẢI THEO CÔNG TRUY


Riêng tôi, tôi xin nói : Phái Samkhya giải như thế là theo khoa Công
Truyền. Tới chỗ đó thì bị bít lối, không đi tới được. Lý luận như thế rất
đúng, không ai cãi nổi, nhưng còn thiếu sót.
Theo khoa Bí Truyền, sau khi con người thành một vị Siêu Phàm, gọi
là một vị Chơn Tiên thì trước mặt Ngài có bảy đường tiến hóa khác
nhau., Ngài muốn theo dõi đường nào thì tự ý.
Bảy con đường đó là :
1/- Hoặc nhập vào Niết Bàn, ở vào trạng thái tinh thần gọi là mặc áo
Sambhogakaya. Danh từ nầy có nhiều nghĩa, không biết ở đây thật
đúng là cái chi.
2/- Hoặc nhập vào Niết Bàn, sau làm một vị Hóa Thân của Thượng
Ðế gọi là Avatar trong một Vũ trụ khác.
3/- Hoặc làm một vị Nirmanakaya, sanh ra những thần lực để cho
Quần Tiên Hội dùng đặng độ đời.
4/- Hoặc vào hàng Ðại Thiên Thần.
5/- Hoặc dự vào việc thành lập Dãy Hành Tinh thứ Năm.
6/- Hoặc vào Bộ Tham Mưu của Ðức Thái Dương Thượng Ðế đem chỉ
thị của Ngài khắp các Dãy Hành Tinh.
7/- Hoặc giữ xác phàm, lãnh một nhiệm vụ trên Thiên Ðình đặng
giúp cơ tiến hóa và thâu nhận Ðệ Tử.
Trên bực Aseka (A sơ ka) Chơn Tiên còn những bực cao hơn nữa
như :
1- Ðế Quân.
2- Bồ Tát.
3- Phật.
4- Ngọc Ðế.
5- Phổ Tịnh Ðại Ðế v.v. . . .
Nấc thang tiến hóa cao tột trời, không biết đâu là giới hạn, nó không
chấm dứt ở bực Siêu Phàm đâu.

TÂM THỨC CỦA VÀI HẠNG NGƯỜI


Tâm Thức của người còn dã man bị thể xác bao bọc, nó bị hạn chế
nhiều lắm. Nó không biết ý niệm trừu tượng là sao.
Tâm Thức của chúng ta hoạt động ở trong cái Vía nhiều hơn ở trong
Xác Thân.
Khi chu vi của vòng tròn còn dễ xuyên qua thì trung tâm càng thêm
mạnh mẽ và tới một ngày kia cái vòng tròn biến mất. Không còn chu vi,
mà đâu đâu cũng là trung tâm, nghĩa là không còn giới hạn nữa.
Có một điều nên biết, chúng ta không điều khiển được Bản Ngã mà
chỉ kiểm soát được những xác thể mà thôi.. Chúng là những phần tử
của Phi Ngã.
Bản Ngã hay Chơn Ngã không hề tuân theo một kỷ luật nào cả. Nó
ngự trị huy hoàng trong mình chúng ta. Nó là chủ nhơn chớ không phải
là tôi tớ.
Từ lớp vỏ nầy đến lớp vỏ kia, cả thảy đều ở dưới quyền điều khiển
của Bản Ngã, từ thể nầy tới thể kia đều để nó sử dụng cho tới ngày nào
con người biết được trọn vẹn ý nghĩa của câu kinh nầy trong
Upanishad : “Anh là Bản Ngã trường tồn bất diệt vô cùng vinh quang.”

HAI ÐẠI PHƯƠNG PHÁP TÌM CHƠN NGÃ TRONG YOGA.


Có hai đại phương pháp tìm Chơn Ngã :
1- Phương pháp thứ nhứt : Dùng Chơn Ngã tìm Chơn Ngã.
2- Phương pháp thứ nhì : Dùng Phi Ngã tìm Chơn Ngã.

PHƯƠNG PHÁP THỨ NHỨT


Hành giả theo phương pháp thứ nhứt thì dùng năng lực Bồ Ðề. Anh
không ngớt đi sâu vào nội tâm [15] , đối với anh cảnh vật ở ngoài cõi
đời vẫn vô thường. Anh không ngó ngàng tới nữa. Anh cho giác quan là
những chướng ngại. Anh biết rằng Chơn Ngã ở trong mình anh, anh cố
gắng loại ra lần lần những lớp vỏ ở ngoài, vì chúng chỉ là những y phục
của Chơn Ngã.
Anh tham thiền liên tục không hề gián đoạn, anh bắt đầu loại ra
những tư tưởng hữu hình, kế đó sống trong trừu tượng. Ðây có nghĩa là
anh đi từ cảnh Sắc giới lên tới cảnh Vô Sắc giới của Thượng Thiên qua
cõi Bồ Ðề, rồi cuối cùng qua cõi Niết Bàn. Nơi đây anh gặp Chơn Ngã uy
nghiêm, hào quang rực rỡ. Tuy nhiên, dầu ở đây Chơn Ngã vẫn còn bao
mình bằng một lớp vỏ rất mảnh mai làm bằng nguyên tử của cõi Niết
Bàn.
Những nhà Siêu Hình Học, những nhà Triết Học, những nhà Thần Bí,
những nhà Ðạo Ðức theo con đường sùng tín đều áp dụng phương pháp
nầy.

PHƯƠNG PHÁP THỨ NHÌ


Ấy là con đường của các nhà Khoa Học, các nhà Bác Học, các nhà
Huyền Bí Học theo đuổi.
Hành giả dùng Trí Tuệ quan sát, học hỏi, chiêm nghiệm, thí nghiệm
và phân tách những hình thức đặng tìm Chơn Ngã.
Anh khảo cứu những hiện tượng thiên nhiên, rồi loại bỏ từ hình thức
nầy tới hình thức kia, sau khi đã học hỏi xong.
Anh nói : “Mấy cái nầy đối với tôi rất lạ lùng.” Nhưng mà các nhà
Bác Học, các nhà Khoa Học chỉ tìm kiếm ở tại Hồng Trần nầy mà thôi.
Còn các nhà Huyền Bí Học đi xa hơn nữa.
Các Ngài dùng những quan năng siêu việt, như Thần Nhãn, Thiên
Nhãn, Huệ Nhãn đặng học hỏi từ cõi Trung Giới lên tới cõi Thượng Giới
và Bồ Ðề.
Tại hai cõi Trung Giới và Thượng Giới, các Ngài thấy : những hình
thức vẫn còn biến đổi, vô thường, chúng không phải là Chơn Ngã.
Qua cõi Bồ Ðề là nơi “Ðồng nhất ngự trị” , hành giả mới biết được sự
thật sau nầy:
Ở trên mấy cảnh cao của cõi Bồ Ðề, con người là một với những kẻ
khác.
Ta hiểu biết kẻ khác như ta hiểu biết tư tưởng của ta sanh ra hay là
những cử động tay chơn ta. Bởi vì ta có thể đi vô Tâm Thức của kẻ khác
và tưởng in như họ tưởng vậy. Ta xem xét họ từ bên trong chớ không
phải từ bên ngoài.
Bạn ta ở trong lòng ta, mà ta cũng ở trong lòng bạn ta vậy.
Nói rằng : “Tất cả biển Ðông đều thâu vô trong một giọt nước biển là
đúng với sự thật”, chớ không phải chuyện sai ngoa, hoang đường đâu.
Tại cõi Trần với trí hóa còn eo hẹp, chúng ta không quan niệm nổi
điều nầy mà cũng không ai tin trừ ra những vị đã có kinh nghiệm, nghĩa
là làm Ðệ Tử Chơn Sư và đã được Ðiểm Ðạo.
Lên tới cõi Niết Bàn là Thế Giới Thiêng Liêng Ðại Ðồng, hành giả mới
thấy Chơn Ngã và mới thật biết Vạn Vật Nhứt Thể . Nơi đây tất cả chỉ là
một.
Hai phương pháp nầy vốn thuộc về Yoga. Ông Patanjali vẫn có bàn
đến. Chúng không phản đối nhau đâu.

NHỮNG TRỞ NGẠI CHO SỰ LUYỆN TẬP YOGA.


- Ai cũng có thể luyện tập Yoga chăng ?
- Tôi tưởng không phải ai ai cũng luyện tập Yoga được, mặc dầu ai ai
cũng có thể luyện tập vài tư thế Yoga, trừ ra cách hô hấp luyện khí
công.
Tập luyện Yoga cho đúng phép thực là cực kỳ khó khăn, rất khổ
nhọc.
Ông Patanjali có nói những trở ngại cho sự luyện tập Yoga, tôi xin kể
ra cho huynh nghe.
1- Bệnh hoạn.
2- Sầu não, lo buồn.
3- Hoài nghi, do dự.
4- Cẩu thả, bất cẩn.
5- Biếng nhác.
6- Khát khao danh vọng.
7- Xét đoán sai lầm, ý niệm không chơn chánh.
8- Sai lạc đường lối, chiều hướng.
9- Không chừng đổi, bất ổn.
10- Khốn khổ, nguy nan.
11- Thất vọng.
12- Nóng nảy.

BA ÐIỀU KIỆN ÐỂ THÀNH CÔNG


Phải hội đủ ba điều kiện nầy mới thành công về phương diện thực
hành :
1/- Lòng ham muốn mãnh liệt.
2/- Ý chí cứng cỏi như sắt đá, không chi lay chuyển được.
3/- Trí thông minh sắc bén, linh động.

TINH LUYỆN BA THỂ


Sự mở mang những năng lực thuộc về Tâm Thức, còn sự tinh luyện
thể xác thuộc về phương diện Vật chất.
Ðức Bà A. Besant và tất cả những nhà Huyền Bí Học đều nói rằng :
“Nếu trước tiên không tinh luyện ba thể hoạt động là Thân,Vía, Trí thì
tốt hơn là đừng luyện tập Yoga”.
Phải làm sao cho ba thể nầy trở nên trong sạch, thanh khiết thì sự
luyện tập mới đem lại kết quả tốt đẹp.
Ðức Bà A. Besant cũng có nói : “Những tư tưởng và những sự ham
nuốn tốt đẹp, cao thượng, đó là bí quyết của sự tiến bộ.”
Tại sao thế ? Bởi vì tia sáng của Tâm Thức cao siêu từ những cảnh
trên giọi xuống phải xuyên qua Hạ Trí, cái Vía rồi mới tới Xác thân. Nếu
ba thể nầy trong sạch, tinh khiết thì tia sáng thiêng liêng hoạt động dễ
dàng, nó đem lại cho con người những sự hiểu biết Huyền Bí cần thiết
cho sự tiến hóa nhanh chóng của cá nhân. Hãy xem ánh sáng mặt trời
khi nó giọi qua một tấm kiếng trắng trong trẻo thì nó vẫn rực rỡ, ta
thấy những hình ảnh rõ ràng.
Trái lại, nó đi qua một tấm kiếng màu dơ dáy, đóng đầy bụi đất thì
nó sẽ lu mờ. Những vật của ta thấy cũng biến hình, đổi sắc làm cho ta
phải lầm lạc.
Cũng như khi ta mang kiếng trắng và kiếng màu mà xem vạn vật thì
sự thấy của ta trong hai trường hợp đều khác nhau rất xa. Kiếng màu
làm cho ta thấy không đúng sự thật.
Vì mấy lẽ trên đây mà sự tinh luyện ba thể Thân, Vía, Trí rất cần
thiết cho sự thành công mỹ mãn của những người theo Chánh Ðạo.

YOGA VÀ HẠNH KIỂM


Học Yoga có cần hạnh kiểm tốt không ?
Thật ra thì không cần. Hạnh kiểm không cần thiết. Yoga không liên
quan gì tới Luân lý hay Phong hóa cả.
Cũng như luyện tập thể dục và học quyền cước đâu có cần tới tánh
tình tốt hay xấu.
Yoga là Khoa học Tâm lý khác hẳn Luân lý và Phong hóa.
- Vậy thì sao trước khi học Yoga phải giữ Giới Luật gọi là Yama và
Niyama ?
- Aáy là tại bên Chánh Ðạo người ta muốn hành giả Yogi có một căn
bản Ðạo Ðức, bởi vì khi thành công rồi, vị Yogi nào không có lòng nhơn
cứu dân độ thế thì sẽ thành ra một Ðại Quỉ Vương, bước qua đường Bàn
Môn Tả Ðạo, khuấy rối thiên hạ. Không phải dễ mà diệt trừ mau lẹ đâu.
Ðọc truyện kiếm hiệp ta đã thấy những gương tàn ác của những kẻ
võ nghệ cao cường tuyệt luân mà hết sức ích kỷ, giết người không gớm
tay, nhưng chung cuộc, ác lai ác báo.
Không ai tránh khỏi Luật Nhân Quả Báo Ứng cả.
Bên Chánh Ðạo hay bên Tả Ðạo cũng áp dụng chung những định luật
mở mang Tâm Thức in như nhau, cho nên phép tắc cao cường, song chỉ
khác một điều trong sự hành động mà thôi.
Aáy là :
Một bên thì luôn luôn hi sanh đặng cứu nhơn độ thế, tuân theo Thiên
mạng.
Một bên thì chỉ lo thỏa thích lòng ham muốn ích kỷ, giết hại chúng
sanh, không sợ Luật Luân Hồi Nhân Quả. Vì ỷ mình thần thông quảng
đại, nên trổ tánh tự phụ, kiêu căng.

muc lục|chú thích |chương 1| chương 2 |chương 3 |chương 4 | chương 5

CHƯƠNG THỨ NHÌ

CÓ BAO NHIÊU THỨ YOGA ?


- Có bao nhiêu thứ Yoga ?
- Yoga là một danh từ tổng quát, phải thêm một danh từ khác nữa
trước chữ Yoga mới biết Yoga đó thuộc về loại nào.
Tỉ như : Karma Yoga, Hatha Yoga.
Không biết thật đúng có bao nhiêu thứ Yoga. Hiện thời người ta biết
mười một thứ Yoga như :
1- Hatha Yoga.
2- Karma Yoga.
3- Jnana Yoga.
4- Bhakti Yoga.
5- Laya Yoga.
6- Mantra Yoga.
7- Kriya Yoga.
8- Shiva Yoga.
9- Yantra Yoga.
10- Mudra Yoga.
11- Raja Yoga.
Nhưng ông P. Brunton có nói, trong lúc ông đi du lịch đặng tìm Ðạo,
ông gặp nhiều phái Yoga khác, hành giả luyện tập một cách kín đáo nên
ít ai biết .
- Mười một thứ Yoga nầy khác nhau thế nào ?
Tôi xin nói vắn tắt vài lời về mỗi thứ mà thôi. Nếu huynh muốn rõ
những chi tiết xin đọc những quyển riêng giải về khoa đó.
1- HATHA YOGA.
Hatha Yoga là một khoa luyện Âm Dương hiệp nhất. Nó giống khoa
luyện Khí công của người Tàu.
Vần HA tiêu biểu cho Mặt Trời là Dương.
Vần THA tiêu biểu cho Mặt Trăng là Âm.
Khoa nầy dùng cách hô hấp và phương pháp thể dục để thâu thập sinh
lực vô mình. Có thể gọi nó là Khoa Luyện Trường Sanh.
Còn ba khoa Karma Yoga, Jnana Yoga, Bhakti Yoga mà khoa Triết Học
Aán gọi là ba Margas hay là ba Con Ðường (trois sentiers).
2- KARMA YOGA.
Là con đường Hành động (Sentier de l’action).
3- JNANA YOGA.
Là con đường Minh Triết (Sentier de la Sagesse).
4- BHAKTI YOGA.
Là con đường Sùng Tín (Sùng Ðạo) hay là con đường của Tình Thương
(Sentier de l’amour).
5- LAYA YOGA.
Cũng gọi là Kundalini Yoga vì Yoga nầy chuyên lo mở luồng Hỏa Hầu
Cung đa li ni, nó ảnh hưởng tới các Luân Xa (les Chakras).
6- MANTRA YOGA.
Dùng Thần Chú đặng làm cho cái Trí trở nên yên tịnh và còn nhiều sự
hữu ích khác.
7- KRIYA YOGA.
Tu theo cách khổ hạnh nhưng cũng học hỏi, cũng thờ phượng, cũng
hiến dâng vậy.
Kriya Yoga có vài chỗ giống như Hatha Yoga. Nó cũng dùng phương
pháp luyện tập thể dục làm căn bản, nó nhắm vào sự làm chủ giác
quan, nhờ thế mới điều khiển sự hô hấp dễ dàng. Người ta biết rằng
nhịp thở tùy thuộc những trạng thái của Tâm Thức. Lúc giận hờn, sợ
sệt, vui mừng, nhứt là lúc dục tình sôi nổi thì thân mình run rẩy, hơi thở
hổn hển mau lẹ. Nếu lúc đó định trí thì hơi thở chậm đi, thân mình trở
lại yên tịnh như trước.
Trong quyển Autobiographie d’un Yogi của tu sĩ Paramhansa
Yogananda, Cử nhân Văn khoa, huynh Nguyễn hữu Kiệt dịch ra để tên
là Xứ Phật Huyền Bí nơi trương 174 - 175 có một đoạn nói về Pháp môn
Kriya Yoga như sau :
“Người Yogi dùng tư tưởng dẫn luồng sinh lực đi theo một đường vòng
xuyên qua sáu bí huyệt của tủy xương sống (từ bí huyệt trên đỉnh đầu
xuống các bí huyệt ở cuống họng, ở tim, ở rún, ở lá lách và xương
mông) rồi đi ngược trở lên để khép một vòng tròn tương đương với
mười hai cung Hoàng Ðạo, tượng trưng vũ trụ trong con người (Tiểu
Thiên Ðịa). Một lần công phu chừng nửa phút đồng hồ vòng quanh
xương sống theo pháp môn Kirya Yoga giúp cho con người thực hiện
một sự tiến bộ bằng một năm tiến hóa thông thường.
Một lần phép công phu Kriya Yoga thực hiện trong vòng một ngày đem
đến cho người Yogi một sự tiến hóa tâm linh tương đương với một ngàn
năm tiến hóa tự nhiên và công phu của một năm tu luyện sẽ đưa đến
kết quả bằng 365.000 năm. Như thế, pháp môn Kriya Yoga giúp cho
hành giả thực hiện trong ba năm tu luyện công phu, một sự tiến bộ
vượt bực mà theo đà tiến hóa tự nhiên, nó phải cần đến 10.000 thế kỷ.
Tuy nhiên muốn theo con đường tắt của pháp môn Kriya Yoga, chỉ có
những người Yogi đã được huấn luyện thuần thục dưới sự chỉ dẫn của
các vị Chơn Sư, nhờ đó họ chuẩn bị thể xác lẫn tinh thần đến mức tuyệt
đỉnh, khả dĩ tiếp nhận cái quyền năng phát triển bằng sự công phu tu
luyện thường xuyên”.
Kriya Yoga tăng tuổi thọ và mở rộng tâm thức, nó kiểm soát trực tiếp
tinh thần nhờ sanh lực. So sánh với con đường chậm chạp và không
chắc chắn của Thần học (Théologie) thì Kriya Yoga giống như chiếc máy
bay với cổ xe ngựa đời xưa.
Ðọc đoạn trên đây, chắc chắn tất cả bạn Ðạo đều muốn theo pháp môn
Kriya Yoga. Nhưng quí bạn hãy đọc đoạn chót và suy nghĩ kỹ lưỡng mấy
câu sau đây :
“Chỉ có những người Yogi thuần thục đã được huấn luyện dưới sự chỉ
dẫn của các vị Chơn Sư”.
Vậy thì trước khi thực hành pháp môn Kriya Yoga chúng ta phải tự hỏi
chúng ta đã thành những vị Yogi chính tông chưa ? Ðược Chơn Sư huấn
luyện chưa ? Nếu chưa thì đừng tập. Phương pháp nầy sẽ làm cho luồng
Hỏa Hầu đi như tôi đã nói trước đây : Luồng Hỏa vô trong và đi xuống
thì cũng bị tai hại, mà nó đi lên cũng bị tai hại nếu lòng còn mơ tưởng
nguyệt hoa.
Ðiều hay hơn hết là phải lo :
- Lánh dữ,
- Làm lành,
- Rửa lòng trong sạch đặng phụng sự như lời Phật dạy, khỏi sợ những
sự nguy hiểm nào cả.
Một lẽ nữa, Paramhansa Yogananda tu theo pháp môn Kriya Yoga đã
lâu rồi mà chưa đắc đạo thành chánh quả làm một vị Siêu Phàm A Sơ
Ca (Aseka). Bao nhiêu đây cũng đủ để thấy dầu ly gia cắt ái như huynh
Yogananda cũng không phải dễ mà thực hiện cho đúng pháp môn Kriya
Yoga đâu.
Vì vậy chớ ham luyện tập theo Huyền Bí Học trong khi mình chưa hội đủ
điều kiện đặng làm một vị Yogi.
Tôi xin nói Kriya Yoga nầy khác hẳn Kriya Yoga trong quyển Những cách
ngôn về Yoga của Patanjali (Les Aphorismes du Yoga de Patanjali).

8- SHIVA YOGA.
Shiva Yoga dùng nguyên tắc Siêu hình học.
9- YANTRA YOGA.
Tham thiền về ý nghĩa thần bí của vài thứ hình của Kỷ Hà Học .
10- MUDRA YOGA.
Dùng ấn và chú.
11- RAJA YOGA.
Raja Yoga : Yoga Vương Giả, là Chúa Tể các thứ Yoga. Nó cao hơn hết.
Nó chia làm tám giai đoạn hay là tám thời kỳ tập sự.
Thời kỳ thứ nhứt : Yama (Da ma).
Thời kỳ thứ nhì : Niyama (Ni da ma).
Thời kỳ thứ ba : Asana (A sa na) : Tư thế.
Thời kỳ thứ tư : Pranayama (điều tức ) : Kiểm soát sanh lực Prana.
Thời kỳ thứ năm : Pratyahara : Kiểm soát giác quan
Thời kỳ thứ sáu : Dharana (Ða ra na) : Ðịnh trí.
Thời kỳ thứ bảy : Dhyana : Tham thiền.
Thời kỳ thứ tám : Samadhi (Sa ma đi) : Ðại định, Xuất thần.
Ba thời kỳ chót : thứ sáu, thứ bảy và thứ tám là SAMYAMA.

1-YAMA : Giới.
Yama gồm năm giới :
1- Không làm hại người và vật, không hung bạo từ trong tư tưởng, ý
muốn, cho tới lời nói, việc làm.
2- Chơn thật, không nói dối bất câu dưới hình thức nào.
3- Ngay thật, không trộm cắp.
4- Trinh khiết, tuyệt dục từ trong tư tưởng.
5- Nghèo, thanh bần, không vì tư lợi.

2- NIYAMA : Qui Luật.


Niyama gồm năm điều :
1- Sancha : Trong sạch trong tất cả, từ trong thâm tâm cho tới bên
ngoài, y phục, xác thân.
2- Santasha : An phận.
3- Tapas : Khổ hạnh, tự nghiêm khắc với mình.
4- Svadhyaya : Phát triển bản ngã, kỷ luật tư tưởng, làm chủ cái trí.
5- Ishvara Pranidhana : Tư tưởng luôn luôn hướng về Thượng Ðế, có
thể nói là chiêm ngưỡng Ðức Thượng Ðế (Cung hiến).
3- ASANA : Tư thế.
4- PRANAYAMA : Ðiều tức.
Về phương diện thực tập là sự kiểm soát sanh lực Prana, sự điều
khiển cách thở.
5- PRATYAHARA.
Là quyền năng ngăn ngừa cái Trí khỏi bị ảnh hưởng những cảm giác
của xác thịt.
6- DHARANA : Ðịnh Trí.
7- DHYANA : Tham Thiền.
8- SAMADHI : Ðại Ðịnh , Xuất thần.
Trong Ðạo Ðức phải nhiều năm Tham Thiền rồi mới đi tới Ðại Ðịnh.
Lúc nầy hành giả bỏ xác thân lên mấy cõi cao, xác thân mê man không
còn biết cảm giác chi nữa. Nhưng mà chừng trở về nhập xác, hành giả
nhớ hết những điều đã kinh nghiệm.
Ở ngoài đời, các nhà khoa học, các nhà bác học cũng phải Ðại Ðịnh
vậy. Nhưng họ chuyên lo các vấn đề vật chất thuộc về bên ngoài.
Tuy nhiên người học Ðạo có thể Ðại Ðịnh trong một mức độ nhỏ bé là
:
Ngày đêm cứ thấy mình quì dưới chơn Sư Phụ hoặc dưới chơn Ðức Bồ
Tát hay là Ðức Phật

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HATHA YOGA (LUYỆN KHÍ CÔNG)


và RAJA YOGA (YOGA VƯƠNG GIẢ)
- Có sự khác biệt giữa Hatha Yoga và Raja Yoga không ?
- Có, nhưng muốn thật hiểu thì trước hết ta nên nhớ kỹ những điều
sau đây: (xin nhắc lại).
Thật Ta là Chơn Nhơn, Chơn Ngã hay là Linh Hồn. Ta có thể xác bao
bọc, nhờ những thể xác nầy Ta mới hành động được ở mấy cõi Trời.
Luôn luôn có sự liên quan mật thiết giữa Ta và những thể của Ta. Mỗi
sự rung động của Vật chất cấu tạo những thể đều biến đổi Tâm Thức,
mà mỗi sự biến đổi của Tâm Thức cũng sanh ra một sự rung động trong
Vật chất cấu tạo mấy thể.
Hatha Yoga và Raja Yoga đều lợi dụng sự tương quan nầy.

HATHA Y O G A.
Hatha Yoga chế ngự xác thịt, làm phát triển một số cơ quan điều
khiển những lực ở trong mình. Nhờ vậy mà hành giả có vài quyền năng
mà người đời cho là phi thường.
Xưa kia, cơ quan của bộ tiêu hóa, tuần hoàn, hô hấp, bài tiết như tì,
vị, tim, phổi, thận, bàng quang, tiểu trường, đại trường đều thuộc về
quyền kiểm soát của Tâm Thức. Người luyện Hatha Yoga dùng ý chí
kiểm soát lại những cơ quan nầy. Khi thành công rồi họ có thể làm cho
trái tim ngừng đập mà không chết.
Có vị cho chôn sống từ ba tháng tới hai, ba năm tùy theo công phu
luyện tập. Ðào lên thì họ sống lại, xác họ không rã như xác thường.
Có vị nuốt đinh sắt, miểng chai, uống ắc xít mà vẫn trơ trơ.
Hatha Yoga làm cho cái Vía hoạt động, nhưng sự khuyết điểm lớn lao
của nó là khởi đầu ở tại cảnh thấp hơn hết. Nó kích thích những cơ quan
của xác thịt và của cái Vía mà không ảnh hưởng chi tới phần đối chiếu
trong hai thể nầy trong hai thể cao là Thượng Trí và Bồ Ðề. Sự hành
động của nó bị hạn chế.
Mà cái nguy hiểm đáng sợ hơn hết là Hatha Yoga kiếm thế kiểm soát
những sự rung động của Vật chất đặng tạo ra sự biến đổi trong Tâm
Thức.
Nhưng mà Vật chất vẫn cứng rắn, khó ép buộc nó phải theo chiều
hướng của ta muốn. Hãy đề phòng : Sự cố gắng có thể làm cho tê liệt
hay làm cho teo lại một vài cơ quan mà sự hoạt động rất cần thiết cho
sự biến đổi Tâm Thức như : não tủy thần kinh, hạch mũi [6] , hạch óc.
Vì vậy mà các nhà Huyền Bí Học chỉ luyện tập Raja Yoga chớ không
luyện Hatha Yoga.

MỘT SỰ BIỂU DIỄN PHI THƯỜNG.


Trong tạp chí Người Thông Thiên Học (The Theosophist), tháng năm,
năm 1922 có đăng một bài tường thuật của Ðức Bà A. Besant về quyền
năng của ông Swami Sitaramji tóm tắt như sau đây :
�Cách đây vài tuần, ông Swami Sitaramji có ghé viếng Adyar, ông là
một trong những người Aán có những quyền năng truyền tử lưu tôn,
khẩu khẩu tương truyền từ đời nầy qua đời kia. Ông Swami Sitaramji
nói rằng : Ông vào rừng tu luyện phép Sarvabhakshatvam là quyền
năng ăn được tất cả mà không hề chi.
Dưới đây là chứng thư của bác sĩ T.S. Tirumurti cấp cho ông :
Ngày 12 tháng 9 năm 1921.
Ông Swami Sitaramji có biểu diễn những quyền năng của ông tại rạp
hát của Dưỡng đường Trung Ương, trước mặt những vị y sĩ giải phẫu,
những y sĩ và sinh viên y khoa, ông thực hành những điều sau đây :
1- Aên miểng chai.
2- Aên những đinh sắt.
3- Aên những sọ dừa.
4- Aên những miếng cây.
5- Aên một con bọ cạp.
6- Uống ắc xít A zô tít (Acide azotique).
7- Aên những đá sỏi.
8- Aên Acenít (phụ tử)
9- Uống thủy ngân.
10- Nhai nuốt những cục than cháy đỏ.
11- Uống chì nấu chảy ra nước.
Xong rồi người ta đem rọi kiếng ông, chụp hình và giao cho ông tấm
hình đã rửa.
T.S. Tirumurti.
3e Médecin Hôpital Général A. Lakshmipathy
B.A.M.B. et C.M.
Ngày 14 tháng 9 năm 1921, người ta rọi kiếng thấy những vật ông
nuốt biến thành những hạt nhỏ và những mảnh. Ông nói : “chúng lần
lần tiêu mất hết.”

RAJA Y O G A.
Ta biết rằng bảy thể của con người liên quan mật thiết với năm cõi
Trời.
1-2 : Xác thịt và cái Phách, liên quan mật thiết với cõi Trần hay là Hạ
Giới.
3 : Cái Vía, liên quan mật thiết với cõi Dục Giới hay là cõi Trung Giới.
4 : Cái Trí, liên quan mật thiết với cõi Hạ Thiên, tức là bốn cảnh thấp
của cõi Thượng Giới hay là cõi Trí Tuệ.
5 : Thượng Trí, liên quan mật thiết với cõi Thượng Thiên tức là ba
cảnh cao của cõi Thượng Giới hay là cõi Trí Tuệ.
6 : Kim Thân hay Thể Bồ Ðề, liên quan mật thiết với cõi Bồ Ðề cũng
gọi là cõi Trực Giác.
7 : Tiên Thể hay là Thể Thiêng Liêng, liên quan mật thiết với cõi Niết
Bàn hay là cõi Thiêng Liêng.
Nhờ sự liên quan mật thiết nầy mà ta:
a- Mới dùng Xác thân và cái Phách để học hỏi và kinh nghiệm ở cõi
Trần được (Hạ Giới).
b- Dùng cái Vía để học hỏi và kinh nghiệm ở cõi Dục Giới (Trung
Giới).
c- Dùng Hạ Trí để học hỏi và kinh nghiệm ở cõi Hạ Thiên.
d- Dùng Thượng Trí để học hỏi và kinh nghiệm ở cõi Thượng Thiên.
e- Dùng Kim Thân để học hỏi và kinh nghiệm ở cõi Bồ Ðề.
f- Dùng Tiên Thể để học hỏi và kinh nghiệm ở cõi Niết Bàn.
Muốn cho sự học hỏi và kinh nghiệm có kết quả tốt đẹp thì trước hết
bốn thể thấp : Thân, Phách, Vía, Hạ Trí phải được tinh khiết bởi vì
chúng là những cửa sổ mở ra để cho ta quan sát cảnh vật ở bên ngoài.
Chúng phải trống trải mới được. Nếu chúng bị những bức màn giăng
ngang thì ta không thấy rõ. Vạn vật đối với ta đều biến đổi màu sắc và
hình thù. Ðiều nầy không khác nào ta mang kiếng màu mà xem một
bức tranh.
Trái với Hatha Yoga, tập luyện theo phương pháp Raja Yoga thì sinh
viên dùng ý chí kiểm soát những sự biến đổi của Tâm Thức và chế ngự
được ba thể : Thân, Vía, Trí. Chúng nó ở dưới quyền sai khiến của sinh
viên và trở nên lành mạnh tốt đẹp, linh mẫn.
Trước kia chúng cám dỗ và quyến rủ con người vào đường tội lỗi, bây
giờ đây chúng trở nên những đứa tớ thành thật, trung tín lo phục vụ con
người và không còn ương ngạnh như xưa. Nhờ thế Tâm Thức cao siêu
mới mở mang mau lẹ và thay thế Tâm Thức tầm thường của con người.
Sinh viên sống một đời sống tinh thần cao thượng và bước tới cửa Ðạo
dễ dàng.
Nói tóm lại, Raja Yoga đem lại những lợi ích cho con người chớ không
có những mối nguy hại như Hatha Yoga.
HAI THÍ DỤ VỀ VIỆC NÍN THỞ.
Các Thầy Bùa đều dặn lúc vẽ bùa phải nín thở mới có hiệu nghiệm.
Họ không biết khi nín hơi thở thì cái Trí yên lặng, tức là Ðịnh Trí. Phải
Ðịnh Trí thì tư tưởng sanh ra mới mạnh mẽ.
Phương pháp nín thở thuộc về khoa Luyện Khí Công Hatha Yoga.
Theo Raja Yoga phải chú ý vào công việc đang làm thì cái Trí không
xao lãng. Ðịnh Trí cách nầy rất dễ, không nín thở. Nín thở thì mệt lắm,
có khi mạch máu nhỏ trong phổi yếu thì nó bị đứt, hành giả khạc ra
máu rất nguy hiểm. Ai biết chắc các mạch máu nhỏ trong phổi của mình
mạnh hay yếu và lúc nào nó mạnh, lúc nào nó yếu mà đề phòng. Thế
nên phải thận trọng (xin đọc chuyện huynh Brahma thuật lại cho ông P.
Bruton nghe).
Khi tham thiền đúng phép thì hơi thở nhẹ lần rồi tới một lúc kia nó
dứt hẳn mà hành giả không chết, chừng giựt mình mới thở lại. Ai kinh
nghiệm rồi thì biết

VÀI CÁCH NÍN THỞ THEO PHƯƠNG PHÁP HATHA YOGA.


Tôi xin kể cho huynh nghe vài cách thở do nhiều sách Hatha Yoga
dạy khác nhau rồi sau sẽ đề cập tới sự nguy hiểm.
I- TẨY SẠCH HAI LÀ PHỔI.
(Nettoyage des poumons)
a/- Một quyển dạy : Bịt lổ mũi bên trái, hít khí trời vô lổ mũi bên
phải; rồi bịt lổ mũi bên phải thở ra lổ mũi bên trái. Cứ thay đổi, hít vô
bên nầy rồi thở ra bên kia, vài lần như vậy.
b/- Một quyển khác cũng dạy như vậy, song dặn lúc hít vô đếm trong
trí 1, 2, 3, 4. Khi thở ra lổ mũi bên kia thì đếm tới 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7. 8,
nhưng căn dặn nếu hít vô đếm tới 4 mà chưa thấy phổi đầy khí trời thì
đếm thêm hoặc một hay là hai lần nữa, nghĩa là 1, 2, 3, 4, 5, hoặc 6.
Khi hít vô đếm tới 5 thì thở ra đếm tới 10. Khi hít vô đếm tới 6 thì thở ra
đếm tới 12.
c/- Một quyển nữa dạy : Phải xem đồng hồ. Nếu hít vô 5, 6 giây thì
thở ra phải 9, 10 giây.

II- NHỊP THỞ TIẾT ÐIỆU.


(Respiration rythmique)
a/- Một quyển dạy : Hít vô đếm 1, 2, 3, 4.
Nín thở đếm 1, 2, 3, 4.
Thở ra đếm 1, 2, 3, 4.
b/- Một quyển dạy : Phải xem đồng hồ.
Hít vô: Nín thở:
Thở ra :
a. 2 giây 8 giây 4
giây
b. 3 giây 12 giây 6
giây
c. 4 giây 16 giây 8
giây
d. 5 giây 20 giây 10
giây
e. 6 giây 24 giây 12
giây

c/- Một quyển dạy :


Hít vô : Nín thở : Thở
ra :
5 giây 2 giây 5
giây

Có người Ấn đi đến mức :


Hít vô : Nín thở :
Thở ra :
20 giây 80 giây 40
giây

Xin hỏi : Mỗi sách đều mỗi dạy khác nhau, ai biết mình có thể hạp
với cách nào đặng tập theo ?
Cái nguy hại là ở chỗ đó
muc lục|chú thích |chương 1| chương 2 |chương 3 |chương 4 | chương 5

CHƯƠNG THỨ BA

NHỮNG NGUY HẠI KHI COI THEO SÁCH LUYỆN HƠI THỞ HAY
LÀ HỌC VỚI MỘT ÔNG THẦY TẦM THƯỜNG KHÔNG KINH
NGHIỆM.
- Vậy thì không nên tập theo Hatha Yoga hay sao ?
- Nên tập mà cũng không nên tập.
Nên tập là khi nào học với một ông thầy lão luyện có nhiều kinh
nghiệm.
Còn không nên tập là coi theo sách mà tập một mình.

SỰ NGUY HIỂM CỦA HATHA YOGA


LÀ LUYỆN TẬP HƠI THỞ SÁI CÁCH.
Trong quyển kinh Markanday Purana có nói như vầy : “Hành
giả Yoga dốt nát thì sẽ bị điếc, khùng điên, mất trí nhớ, câm, đui mù và
bị sốt nặng.”
Ðây là tùy theo trường hợp nặng, nhẹ. Dốt nát là không biết gì về
Huyền Bí Học coi theo sách luyện tập một mình hay là học với một ông
thầy tầm thường, không thông hiểu một mảy may về những luật Huyền
bí của Vũ Trụ làm phát triển Tâm Thức.
Sự nguy hiểm vốn ở trong sự luyện hơi thở trước nhứt, kế đó là vài
tư thế làm hại cho hạch mũi và hạch óc mà chỉ có những nhà Huyền Bí
Học lão luyện mới rõ mà thôi.
- Tại sao nguy hiểm ?
- Bởi vì các tế bào trong mình con người tùy theo hơi thở mà có một
chiều hướng riêng. Bây giờ thay đổi cách thở thì chúng thay đổi chiều
hướng. Sự thay đổi nầy có lợi hay có hại cho các cơ thể của con người ?
Muốn thật biết phải mở Thần nhãn mới quan sát được.

TÁM TRƯỜNG HỢP ÐIỂN HÌNH.


Tôi xin kể tám trường hợp điển hình :
Một ở Ấn Ðộ thuở xưa.
Bảy ở Việt Nam ngày nay cho quí huynh nghe :

MỘT TRƯỜNG HỢP Ở ẤN ÐỘ THUỞ XƯA.


Quí bạn nào có đọc quyển L’Inde secrète dịch ra là ÐÔNG PHƯƠNG
HUYỀN BÍ trang 50 thì thấy :
Ông Paul Brunton có thuật chuyện nầy :
Brama nói : Thuở nhỏ tôi là một đứa trẻ ít nói và thích sống cô đơn.
Tôi không thấy gì là vui thú trong những trò chơi của các bạn tôi vì
thế tôi luôn luôn tránh họ và thích đi dạo một mình ở những nơi vườn
cây hay ngoài đồng vắng. Ít người biết được những gì diễn ra trong tâm
hồn kín đáo của một đứa trẻ : tôi sống cách biệt với mọi người và tôi
cảm thấy rằng đời không có gì vui. Vào năm tôi 12 tuổi, tình cờ tôi nghe
lóm được câu chuyện giữa những người lớn, họ nói về vấn đề Yoga. Ðó
là lần đầu tiên tôi nghe nói đến danh từ ấy và những gì tôi nghe trong
câu chuyện cũng đủ làm cho tôi tò mò muốn biết thêm. Tôi chất vấn
nhiều người và góp nhặt được vài quyển sách nói về vấn đề Yoga, trong
đó tôi đọc được nhiều điều thú vị về các nhà đạo sĩ Yogi. Cũng như con
ngựa dong ruổi trên sa mạc mong mỏi tìm được ngọn suối mát ở tận
chân trời, trí óc tôi khao khát sự hiểu biết, nhưng tôi chỉ có một mình và
không làm sao tiến hơn được nữa.
Một hôm tình cờ tôi lật một quyển sách và thấy trong đó có câu :
“Muốn tiến bộ trên đường tu luyện pháp môn Yoga, phải nhờ có sự chỉ
dẫn của một danh sư”. Những lời nầy làm cho tôi thắc mắc băn khoăn.
Một danh sư. Tôi hiểu ngay rằng muốn tìm được Thầy không còn
cách nào khác hơn là bỏ nhà ra đi ngao du thiên hạ. Tự nhiên là tôi
không thể trông đợi nơi sự cho phép của cha mẹ tôi. Không biết phải
làm thế nào, tôi bèn lén lút luyện thử một vài phép hô hấp mà tôi đã
góp nhặt được những tài liệu trong các sách. Phép luyện nầy thay vì có
ích, lại làm hại cho tôi : Tôi không biết rằng phép khí công nầy rất nguy
hiểm nếu nó không có sự dìu dắt của một bậc danh sư. Nhưng vì tôi quá
nóng ruột nên không thể chờ đợi mãi được.
Sau vài năm tập luyện lén lút một mình, cái hậu quả bất ngờ đem
đến là tôi bị đứt một mạch máu trên đỉnh đầu dường như nó là chỗ chịu
đựng yếu nhứt. Tôi cảm thấy toàn thân tôi giá lạnh và sức yếu dần,
máu chảy lênh láng ở chỗ vết thương, tôi tưởng rằng tôi sắp chết. Hai
giờ sau đó, tôi nhìn thấy một linh ảnh lạ lùng, hình như tôi thấy gương
mặt đạo mạo của đạo sĩ già hiện ra và nói với tôi : “Con thấy chăng
phép luyện ngăn cấm đối với kẻ phàm tục có thể đưa con đến một tình
trạng nguy hiểm là dường nào. Con hãy nhớ lấy bài học nầy.” Cái hình
ảnh biến mất nhưng lạ thay từ đó trở đi tôi cảm thấy khá hơn và không
bao lâu sức khỏe của tôi bình phục trở lại. Nhưng này ông hãy xem cái
thẹo hãy còn đây.
Brama cúi đầu đưa cho chúng tôi xem cái thẹo nhỏ hiện ra rõ ràng
trên đỉnh đầu. Y nói tiếp: “Sau khi tai nạn đó xảy ra, tôi bèn ngưng việc
luyện hơi thở và chờ đợi để cho thời gian làm giảm bớt những sự ràng
buộc gia đình .

BẢY TRƯỜNG HỢP Ở VIỆT NAM.


Sau đây là bảy trường hợp ở Việt Nam :
1- Trường hợp thứ nhứt : Một ông bạn tập theo cách Tẩy sạch hai lá
phổi có một tuần lại nói với tôi : “Ðau nhói trái tim”, ông bạn đó bỏ liền
tới nay vẫn mạnh khỏe.
2- Trường hợp thứ nhì : Một ông bạn tập sao không biết mà trong
lúc nín thở đứt mạch máu trong phổi rồi thổ huyết. Vài năm sau từ trần.
3- Trường hợp thứ ba : Một bà hư óc điên điên khùng khùng, người
nhà phải chở vô Dưỡng Trí Viện Biên Hòa, rồi sau bỏ mình tại đó.
4- Trường hợp thứ tư : Một ông lớn tuổi, đau bao tử, ốm gầy lần
mòn rồi cũng bỏ xác. Chính là tôi có khuyên ông nên bỏ cách luyện
đó đi, nhưng ông trả lời : “Thở như vậy khỏe quá” .
5- Trường hợp thứ năm : Một ông bạn ngồi theo một tư thế luồng
Hỏa Hầu khởi sự đi; thay vì đi lên nó lại đi xuống và vô trong kích thích
dục tình đến cực điểm, về sau không được tin tức.
6- Trường hợp thứ sáu : Một ông bạn chỉ ăn cơm với giấm, luyện hơi
thở đặng trường sinh bất tử. Ông bạn đó nói chuyện đạo với tôi nhiều
lần nhưng không được tỉnh trí cho lắm.
7- Trường hợp thứ bảy : Một bà và một cô gái, con của bà, tới thăm
tôi rồi nói: “Thầy tôi dạy hai mẹ con tôi luyện mà bây giờ chỗ trái tim
nóng mãi” . Tôi hỏi : “Ông sư dạy bà và cô đây có chỉ phương pháp
cho bà và cô sửa chữa không ?” Bà đó trả lời : “Thầy tôi có hốt thuốc
cho tôi uống nhưng không hết.” Tôi chỉ than thầm. Tôi cắt nghĩa cho bà
nghe : Có lẽ là phương pháp Tâm thận tương giao nhưng sái cách.
Trừ ra ông bạn thứ nhứt thoát khỏi nạn hiểm nghèo còn sáu trường
hợp sau thật bi đát.
Chỉ có bà và cô gái vốn xa lạ, tôi mới gặp lần thứ nhứt, còn mấy vị
kia đều quen thuộc với tôi, tôi cũng biết mấy ông thầy dạy những cách
luyện tập ấy nữa.
Tôi xin nêu ra những trường hợp nầy cho quí bạn hiểu đặng phòng.
Tôi còn biết nhiều trường hợp khác nữa song không muốn nói ra. Xác
thân con người là một bộ máy cực kỳ huyền diệu, tinh vi hơn cả triệu
lần cái máy đồng hồ. Nếu giao phó tánh mạng cho kẻ dốt nát thì có
ngày ăn năn không kịp.

TẠI SAO MẤY ÔNG THẦY DẠY NHỮNG CÁCH LUYỆN TẬP ÐÓ
LẠI KHÔNG ÐIÊN KHÙNG, KHÔNG CHẾT ?
- Tại sao mấy ông thầy dạy những cách luyện tập đó lại không điên
khùng, không chết ?
- Tôi xin trả lời liền. Mấy ông có luyện tập đâu mà điên khùng hay
chết. Nếu mấy ông luyện tập thì mấy ông đã điên khùng hay chết mất
rồi, đâu còn sống đến ngày nay đặng hại mấy đệ tử. Những sách Huyền
Bí Học đều nói bóng dáng hay tượng trưng. Mấy ông đọc sách hiểu theo
ý mấy ông rồi bảo học trò tập luyện như vậy. Học trò thấy thầy mình
khỏe mạnh thì tin bằng lời, cố công luyện tập. Những trò bị hại toàn là
những trò ra sức làm đúng theo lời thầy chỉ dạy trong một thời gian.
Những trò khác luyện tập sơ sài trong một vài ngày rồi bỏ luôn thì
không có gì hết. Thậm chí có người mê tín cho đến đỗi nói như vầy :
“Thầy tôi dạy trúng mà tại tôi làm sái”. Nói cho đúng lý, khi học trò
luyện tập thì ông thầy phải coi chừng đặng sửa chữa kẻo học trò bị hại;
đó là bổn phận của ông thầy. Không được phép lấy mắt ngó, để tỏ ra
mình bất lực. CHÚNG TA CHỚ NÊN QUÊN RẰNG TRONG ÐẠO ÐỨC, CHỈ CHO NGƯỜI TA
LUYỆN SÁI CÁCH THÌ TỘI NẶNG BẰNG NON, KIẾP SAU SẼ TRẢ QUẢ ÐÓ, CHẠY TRỐN
ÐƯỜNG NÀO CŨNG KHÔNG KHỎI.

Dầu sao bên Aán Ðộ vẫn chưa nghe trường hợp học với một ông thầy
mà mang tai họa vào thân như bên mình.
Theo qui luật của Quần Tiên Hội phải Ðắc đạo thành Chánh quả làm
một vị Siêu Phàm mới được phép thâu Ðệ tử. Dưới một bực là những vị
La Hán chỉ được phép làm Sư Huynh. Tôi xin trưng ra một bằng chứng
cụ thể là câu : “ Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”. Chính là Ðức
Phật mới được phép làm thầy mà thôi, bởi vì Ðức Phật là Giáo Chủ của
các vị Tiên Thánh, các vị Thiên Thần. Các vị Ðệ tử của Ngài cũng chưa
được phép làm Sư Phụ.
Còn chúng ta phàm phu tục tử, mình tự độ mình chưa xong thì độ ai
được bây giờ. Mình tự dạy mình là điều hay hơn hết.
- Mà tại sao người ta nói : Tu phải luyện ?
- Ðúng vậy, tu phải luyện. Luyện đây là luyện tánh tình cho thật tốt
chớ không phải luyện cho trường sanh hoặc có những phép tắc, những
thần thông.

CHÚNG TA CÓ ÐỦ NHỮNG ÐIỀU KIỆN ÐỂ LUYỆN TẬP


CHO ÐÚNG PHÉP YOGA CHƯA ?
Nêu ra câu hỏi nầy thì xin thành thật trả lời rằng : Trong chúng ta
chưa ai hội đủ những điều kiện để làm một hành giả Yoga tức là một vị
Yogi chân chính.
Mười giới trong Yama và Niyama thật là gắt gao. Dầu cho là luyện khí
công Hatha Yoga hay là Yoga nào khác chăng nữa, bước đầu tiên cũng
phải giữ trọn vẹn mười giới đó mới học được chơn truyền, mới thành ra
thật là một vị Yogi.
Nội một giới thứ ba là Chủ nghĩa độc thân, tuyệt dục, trừ ra một số
rất ít gọi là những hột gạo cội của nhơn loại , thì tất cả vẫn chưa giữ
được điều nầy nói chi tới chín giới kia. Cả thảy đều quá sức con người
đang sống trong xã hội văn minh tân tiến ngày nay, đầy dẫy những thói
xa hoa phóng túng, lung lạc, cám dỗ.
Tuy nhiên, người ta có thể luyện tập vài tư thế đặng cho thân thể
khỏe mạnh, tráng kiện nhưng không phải thiệt là hành giả Yoga.
Các vị Yogi có một nếp sống khác thường. Các Ngài chỉ ở chốn yên
tịnh một mình, tránh xa những chỗ phồn hoa đô hội và độc thân. (Xin
đọc quyển Ðông Phương Huyền Bí.)
Nhưng dầu cho luyện đặng trường sinh bất lão, xin nhắc lại : có tài
chỉ đá hóa vàng mà không có đủ những đức tánh do Thiên Ðình qui định
thì chưa được Chơn Sư thâu nhận làm Ðệ Tử, chưa được Ðiểm Ðạo. Bởi
chưng con người chưa diệt được tánh ích kỷ, chưa biết phụng sự nhơn
loại, vì vô minh nên chịu đau khổ lầm than từ đời nầy qua đời kia; nói
trắng ra, hành giả chưa mở lòng Từ Bi Bác Aùi, chưa biết Bố Thí, chưa
biết chia sớt những sự đau khổ của kẻ khác, chưa ra công dìu dắt những
người còn ở trong chốn tối tăm ra nơi sáng suốt; nói tóm lại là chưa biết
Hi Sinh (Xin đọc lại đoạn “ Sự tiến hóa của nhân loại nhắm vào mục
đích nào” của quyển Cách Tu Hành.)
muc lục|chú thích |chương 1| chương 2 |chương 3 |chương 4 | chương 5

CHƯƠNG THỨ TƯ

SÁU TRƯỜNG TRIẾT HỌC ẤN ÐỘ.


Mục đích của Triết học là giải thoát sự đau khổ của con người.
Bên Ấn Ðộ có sáu Trường Triết Học, mỗi Trường dạy một giáo lý độc
lập và đầy đủ. Con người luyện tập đúng theo những phương pháp chỉ
dạy sẽ được thoát đọa Luân Hồi.
Sáu Trường nầy chia ra làm hai phái : Phái Prakriti và Phái Purusha.

1- PHÁI PRAKRITI.
Prakriti có nghĩa là : Cội rễ Vật Chất, Tàu gọi là Hổn Nguơn Nhất Khí.
Theo Phái Prakriti thì con người phải hiểu biết Vật Chất và thống trị
nó. Nhờ vậy con người mới thoát ra khỏi sự kềm hãm của nó.
Phái nầy gồm ba Trường :
1/- Trường Vaysheshika - Thắng Luận.
2/- Trường Nyaya - Luận lý học.
3/- Trường Mimamsa - Nguyên tắc chỉ huy.

2- PHÁI PURUSHA.
Purusha có nghĩa là Tinh Thần.
Theo Phái Purusha thì phải làm cho Tinh Thần tiến hóa, con người
mới thoát đọa Luân Hồi.
Phái nầy gồm ba Trường :
1/- Trường Samkhya hay Sankhya - Số Luận - Hệ thống của số.
2/- Trường Yoga của Patanjali - Du Già.
3/- Trường Védanta -Phệ Ðàn Ðà.
Xin tóm tắt giáo lý của sáu Trường như sau :

PHÁI VẬT CHẤT


VAYSHESHIKA - THẮNG LUẬN.
Giáo Chủ là Rishi Kanada.
Vaysheshika do chữ Vayshesha mà ra.
Vayshesha có nghĩa là đặc điểm.
Theo Trường nầy Vũ trụ chia ra làm bảy hạng, bao hàm hết những
điều mà con người có thể hiểu. Cái quan trọng hơn hết là Vayshesha
hay là đặc điểm, nó làm ra dòng giống cá nhân.
Giáo lý nguyên tử là căn bản của phương pháp nầy, vì mọi vật trong
Vũ trụ sanh ra đều do sự kết hợp của những nguyên tử.
Những nguyên tử thì không chia ra được, chúng nó nhỏ lắm, con mắt
không thấy được.
Theo thuyết nguyên tử nầy, Kanada trạng tả vạn vật rất tỉ mỉ. Mục
đích Khoa Triết Học của Ngài là đạt tới chỗ tận thiện tận mỹ và sự giải
thoát tuyệt đối của linh hồn, nhờ sự hiểu biết chắc chắn về thế giới hữu
hình nầy. Khoa Triết Học đây tuy là duy vật nhưng nó đi tới mục đích
Tinh Thần. Nó làm cho linh hồn tiến hóa, đại để là nhờ sự học hỏi vật
chất, nhứt là sự hiểu biết cái xác thân nầy.

TRƯỜNG CHÁNH LÝ NYAYA.


Giáo Chủ là Rishi Gautama.
Nyaya nghĩa là Luận Lý Học.
Nó có thể xem như là khoa học của Lý Trí, bởi vậy nó quan hệ nhứt
là tới cái Trí của con người. Gautama công nhận giáo lý nguyên tử của
Kanada, nhưng mục đích cốt yếu của hệ thống Ngài là lập những
phương pháp lý luận đúng đắn nhờ phép Tam đoạn luận (syllogisme)
hoàn bị gồm có :
a/- Ðại tiền đề (La majeure).
b/- Tiểu tiền đề hay là Hậu đề (La mineure).
c/- Ðoán án (La conclusion).
Thí dụ : Ðại tiền đề : Tất cả con người đều chết.
Tiểu tiền đề : Anh là con người.
Ðoạn án : Thì anh sẽ chết.
Ðó là đường đi đến sự đoạt được Chơn lý. Sau khi giải bày phương
pháp Luận Lý Học rồi, Nyaya kết luận rằng : con người được giải thoát
là nhờ sự suy luận chính chắn và ngay thẳng, con người lìa khỏi sự hiểu
biết sai lầm, mập mờ. Thâu thập được Chơn lý toàn vẹn rồi con người
trở xuống Trần vô ích, con người đã thoát kiếp Luân Hồi.

TRƯỜNG DI MAN TÁC MIMAMSA.


Giáo Chủ là Rishi Jaimini.
Hệ thống nầy xem xét khoa học Nhân Quả và xác định coi mỗi việc
làm có sự phản động trong thế giới vô hình và hữu hình như thế nào và
sanh ra nơi đó hiệu quả chắc chắn làm sao.
Ðức Jaimini cũng giải thích tại sao những nghi lễ tôn giáo có ảnh
hưởng tới nhân quả con người.
Mimamsa cũng gọi là Triết Học của Luân Lý và Việc Làm, nghĩa là
Triết Học của Hành Ðộng và Bổn Phận. Sau khi giải thích Luật Nhân Quả
và Thiên Trách nó trạng tả bản tánh thật của bổn phận và những việc
phải làm mỗi ngày. Nó có quan hệ nhứt là tới cái Vía, nó giúp cho thể
nầy tiến hóa. Nhờ làm những việc bác ái càng ngày càng nhiều, chung
cuộc con người không bị bắt buộc đi đầu thai nữa; giờ giải thoát đã đến.
Người học Ðạo để ý đến sự dạy dỗ của ba Trường nầy thì thấy :
Trường Thắng Luận Vaysheshika dạy con người học rành rẽ về Xác
thịt.
Trường Chánh Lý Nyaya dạy con người luyện cái Trí cho linh hoạt.
Trường Di Man Tác Mimamsa dạy con người mở mang cái Vía cho nó
trở nên tinh khiết.

PHÁI TINH THẦN


TRƯỜNG SỐ LUẬN SANKHYA.
Giáo Chủ là Rishi Kapila
Sankhya chú trọng đến Chơn Nhơn. Chơn Nhơn là Tinh thần trong
con người. Trường nầy dạy rằng Chơn Nhơn ngồi xem Vật chất Prakriti
tiến hóa, vì Vật chất chứa sẵn tinh lực trong mình. Chơn Nhơn tuy ngồi
xem Vật chất tiến hóa mà nó cũng tiến hóa và tăng trưởng mãi mãi. Sự
tiến hóa của Chơn Nhơn vẫn tự nhiên và dễ dàng từ kiếp nầy qua kiếp
kia, không cần sự cố gắng cho tới khi nào nó chấm dứt. Ðến lúc đó
Chơn Nhơn trở nên trọn lành, nó tách ra khỏi Vật chất cũng như trái
chín mùi lìa cây. Sự tiến hóa của Chơn Nhơn chấm dứt thì không còn
Luân Hồi nữa.

TRƯỜNG DU GIÀ YOGA.


Giáo Chủ là Patanjali.
Patanjali công nhận thuyết Sankhya là đúng, nhưng Ngài cho rằng
muốn Chơn Nhơn lìa khỏi vật chất thì phải có sự cố gắng. Sự cố gắng đó
thế nào ? Phải cố gắng thống trị cái Trí bằng cách Ðịnh trí, Tham thiền,
Nhập định và vài phương pháp luyện tập đặng mở và dùng những quan
năng tinh vi khác hơn ngũ quan.
Với phương pháp đó người ta đi tới Ðại Ðịnh (Samadhi), lúc nầy Chơn
Nhơn lìa vật chất trong chốc lát đặng hiệp nhứt với Thượng Ðế (Yoga :
Union à Dieu). Sự hiệp nhứt nầy sẽ vĩnh viễn sau khi con người bỏ xác
và chấm dứt sự tiến hóa của Chơn Nhơn ở cõi Trần.

TRƯỜNG PHỆ ÐÀN ÐÀ.


Giáo Chủ là Rishi Vyasa.
Védanta chỉ thích hợp với những người tiến hóa đã cao. Trường nầy
nói với con người như vầy : Sự hiểu biết cùng tột, ngươi hãy tìm trong
mình ngươi, ngươi sẽ gặp, ngươi đừng tìm kiếm ở ngoài ngươi. Nếu
ngươi muốn biết Ðức Thượng Ðế thì Ngươi hãy tự biết ngươi đã, bởi vì
Chơn Nhơn và Ðức Thượng Ðế đều vẫn là một. Sự phân tích một giọt
nước biển đủ cho ta biết biển cả làm bằng những chất chi hợp lại. Chơn
Nhơn đối với Thượng Ðế cũng thế. Nếu ngươi muốn tự biết ngươi thì
ngươi phải lìa khỏi Vật chất và thắng phục nó.
Muốn thành công con người phải nhờ phương pháp Yoga .
Yoga nầy khác với Yoga của Patanjali, dầu rằng nó trùng tên.
Yoga hay là sự hiệp nhứt với Thượng Ðế chia ra làm năm nhánh :
Hatha Yoga (theo con đường luyện hô hấp).
Bhakti Yoga (theo con đường tín ngưỡng).
Karma Yoga (theo con đường hành động).
Jnana Yoga (theo con đường trí tuệ).
Raja Yoga (Chúa tể các Yoga).
Học hết sáu hệ thống nầy rồi suy nghĩ, chúng ta phải công nhận sáu
vị Giáo chủ toàn là những bực Ðại Giác ngộ. Mấy ngàn năm trước người
ta đã biết vạn vật do những nguyên tử cấu thành, thật là đáng cho
người đời nay bái phục.
Trên đây là nói tổng quát sáu Trường Triết Học Aán. Còn nhiều chi
tiết nữa và rất khó. Muốn hiểu phải đọc riêng nhiều quyển giải về mỗi
Trường, bởi vì mấy quyển đó bổ túc lẫn nhau, có quyển thiếu sót điều
nầy, có quyển thiếu sót điều kia.
Bây giờ xin nói vài lời về Prakriti và Purusha.

PURUSHA VÀ PRAKRITI THEO PHÁI SANKHYA.


1- PURUSHA.
Khởi đầu thì phái Sankhya nói rằng Vũ trụ có ra đây do hai yếu tố
nguyên thủy đối chọi nhau : Aáy là Tinh Thần (Purusha : Esprit) và Vật
Chất (Prakriti) hay đúùng hơn nữa là những Chơn Thần (les Esprit) và
Vật Chất.
Tinh Thần là Purusha, ấy là Con Người, một cá nhân. Purusha là một
đơn vị Tâm Thức. Tất cả những Purusha đều đồng bản tánh với nhau.
Nhưng cả thảy đều khác nhau.
Mỗi Purusha đều có ba đặc tánh :
1- Ðặc tánh thứ nhứt là : Sự nhận ra, nó sẽ biến thành quyền năng
Hiểu biết.
2- Ðặc tánh thứ nhì là : Sự Sống hay là Prana sau thành ra sự Hoạt
động.
3- Ðặc tánh thứ ba là : Sự bất di bất dịch, bất biến sau thành ra Ý
chí.
Theo phái Védanta (Phệ Ðàn Ðà) thì ba đặc tánh nầy lấy tên là Chit -
Sat -Ananda.
- Quyền năng Hiểu biết là Chit.
- Sự Sống và Sức mạnh là Sat.
- Sự bất biến, tinh hoa của vĩnh cữu là Ananda.
2- PRAKRITI.
Ðối chiếu với Tinh Thần Purusha là Vật Chất Prakriti.
Prakriti là một, duy nhất, còn Purusha thì hằng hà sa số.
Bản tánh của Prakriti là liên tục, không dứt ngang, còn bản tánh của
Purusha là gián đoạn, cách đoạn (intermittent).
Chiết tự Prakriti, thì Pra là cội rễ, có nghĩa là ở ngoài, còn Kri là làm.
Prakriti có nghĩa là : sản xuất, sanh sản (Produire).
Prakriti có ba đặc tánh gọi là ba Gu na (Guna) tiếng Phạn là :
1- Sattva : Hòa Thanh - Tiết Ðiệu - Harmonie, Rythme.
2- Rajas : Ðộng - Activité.
3- Tamas : Tịnh - Inertie.
Nhờ Tiết Ðiệu, Hòa Thanh mà Quyền năng hiểu biết thành ra sự Hiểu
biết.
Nhờ Ðộng mà sự Sống thành ra sự Hoạt động.
Nhờ Tịnh mà sự Bất biến thành ra Ý chí.
Khi ba đặc tánh : Ðộng, Tịnh, Hòa Thanh quân bình, thì Vật chất nằm
yên, người ta gọi nó là chất chết.
Nhưng khi Tinh Thần Purusha nhập vô Vật chất thì có một sự biến đổi
lớn lao, nó làm mất sự thăng bằng, Vật chất có sự Sống, có Hình dạng
và Hoạt động.

QUAN NIỆM CỦA PHÁI VÉDANTA - PHỆ ÐÀN ÐÀ.


Theo phái Phệ Ðàn Ðà thì Bản Ngã là một, duy nhất, hiện diện khắp
nơi, vô sở bất tại (Omniprésent). Giống như dĩ thái nó thấm nhuần vạn
vật, chủ trị và nuôi sống tất cả. Bản Ngã vốn đại đồng, nó vừa là sự
Sống, vừa là Tâm Thức, vừa là Chí Phúc một lượt (Sat - Chit - Ananda).
Triết lý của phái Phệ Ðàn Ðà cao hơn quan niệm của phái Sankhya.
Sự khác biệt lớn lao giữa hai phái Sankhya và Védanta là :
Theo phái Sankhya thì Bản Ngã Purusha là khán giả chớ không phải
là kẻ đóng tuồng, diễn viên.
Còn phái Védanta nói rằng, Bản Ngã Purusha đóng tuồng, ngoài
Purusha ra thì cả thảy đều là Maya (ảo ảnh). Chính là Purusha hành
động.
Như kinh Upanishad : Chơn Thần [7] muốn thấy thì nó có mắt, nó
muốn nghe thì nó có tai, nó muốn suy nghĩ thì nó có cái Trí. Con mắt, lổ
tai, cái Trí có đây là nhờ Chơn Thần sanh chúng nó ra.
Chơn Thần chiếm lấy Vật chất đặng biểu lộ quyền năng của mình.
Ðây là điểm chỉ rõ sự khác biệt giữa hai Trường Sankhya và Védanta.
Xin nhắc lại : Theo phái Sankhya thì sự hiện diện của Chơn Thần
Purusha làm phát động những đức tánh của Prakriti và chính là Prakriti
hành động chớ không phải Purusha.
Còn theo phái Védanta thì có một mình Chơn Thần Purusha mà thôi.
Chơn Thần hoạt động. Nó tưởng tượng sự giới hạn thì Vật chất hiện ra.
Nó lấy Vật chất nầy đặng biểu lộ quyền năng của nó.
Ðức Bà A. Besant nói rằng : Phái Sankhya nhìn xem Vũ trụ theo
phương diện khoa học, còn Phái Védanta thì quan sát Vũ trụ theo quan
điểm của Huyền Bí Học.

VÀI LỜI VỀ ANTAHKARANA.


Theo kinh sách Phệ Ðàn Ðà thì cái Trí là cơ quan bên trong. Phái Phệ
Ðàn Ðà dùng danh từ Antahkarana để ám chỉ cái Trí. Họ nói :
Antahkarana gồm bốn phần : Manas - Bouddhi - Ahamkara và Chitta.
Ý nghĩa của bốn danh từ nầy như sau đây :
1- Manas : Nguyên lý của sự xét đoán (Principe de jugement).
2- Bouddhi : Bồ Ðề : Minh Triết.
3- Ahamkara : Aûo ảnh của Phàm nhơn (Illusion de la personnalité).
4- Chitta hay Chetah : Tư tưởng, Sự khôn ngoan (pensée,
intelligence).
Tổng hợp của bốn danh từ nầy thì không biết chúng ám chỉ cái chi.
Theo Tự điển Rhéa thì Antahkarana có hai nghĩa :
Một là : Cơ quan sâu kín nối liền con người với bản chất thiêng liêng
của nó (le sens intime qui relie l’homme encarné à son essence
spirituelle).
Hai là : Sự liên lạc giữa Thượng Trí và Hạ Trí (lien entre le Manas
supérieur et la Manas inférieur).
Antahkarana còn một tên nữa là Antarindriyani (sens intérieur) cơ
quan bên trong .
Theo Ðức Bà A. Besant thì Manas, Bouddhi, Ahamkara là ba cạnh của
một hình tam giác gọi là Chitta.
Chitta không phải là một yếu tố thứ tư mà nó là tổng số của ba yếu
tố kia.
Ta gặp ở đây ý niệm của ba ngôi trong một đơn vị.
muc lục|chú thích |chương 1| chương 2 |chương 3 |chương 4 | chương 5

CHƯƠNG THỨ NĂM

VÀI LỜI VỀ QUYỂN NHỮNG CÁCH NGÔN VỀ YOGA CỦA


PATANJALI
(Les aphorismes du Yoga de Patanjali).

AI ÐEM YOGA DẠY LẦN ÐẦU TIÊN TẠI QUẢ ÐỊA CẦU ?
Theo ý nghĩa cao siêu của nó, Yoga là phương pháp mở mang Tâm
Thức đặng tiến mau chóng đến bực Siêu Phàm.
Ai đem Yoga dạy lần đầu tiên tại quả Ðịa Cầu nầy và hồi nào ?
Ngoài đời không ai rõ biết điều nầy. Nhưng ta có thể nói Yoga đã có
hồi các Ðấng Chí Tôn từ Kim Tinh qua Ðịa Cầu giúp đỡ nhơn loại trong
sự mở mang trí thức và phát triển tinh thần kể ra đã 16 triệu rưởi năm,
sau khi lập Quần Tiên Hội.
Lúc đầu tiên, người ta dạy Yoga trong các Thánh đường, trong các
Ðạo viện, Tu viện ở hai châu Lémurie và Atlantide cho những tín đồ đã
được chọn lựa kỹ càng về phẩm hạnh.
Nhưng về sau một phần của Yoga được truyền ra ngoài nhưng mà
tinh hoa là Khoa Mật hay là Bí Truyền không hề bị tiết lộ.

NHỮNG SÁCH DẠY VỀ YOGA.


Những sách dạy về Yoga viết bằng Phạn Ngữ rất nhiều, mà chỉ có
một số rất nhỏ được dịch ra tiếng Anh, Pháp, Ý, Ðức . . .
Những quyển kinh Upanishad nhỏ (Upanishads mineurs) gọi là một
trăm lẻ tám , là loại sách đặc biệt dạy về Yoga. Người ta chỉ dịch có vài
quyển mà thôi.
Kế đó là những bản văn gọi là Tantras [8]. Chúng chứa đựng tất cả
sự mầu nhiệm của Huyền Bí Học và chia ra làm ba loại :
Một loại dạy về phù phép thuộc về Chánh Ðạo (Magie Blanche).
Một loại dạy về phù phép thuộc về Tả Ðạo (Magie Noire).
Một loại nữa dạy về phù phép, làm lợi cũng được, làm hại cũng được,
tức là nửa tà nửa chánh (Magie Grise).
Quyển Thánh Ca Bhagavad Gita vẫn giải về các thứ Yoga song không
chỉ phương pháp thực hành đặng đi tới mục đích.

QUYỂN NHỮNG CÁCH NGÔN VỀ YOGA CỦA PATANJALI


LÀ QUYỂN SÁCH GIÁO KHOA.
Bên Ấn Ðộ người ta coi quyển nầy như là một cuốn sách giáo khoa
bực nhứt dạy về Yoga.
Vẫn biết không phải Patanjali bày ra Yoga, nhưng ông nhờ Tham
thiền và lấy những sự kinh nghiệm của ông hiệp với những sự kinh
nghiệm của nhiều nhà Yogi khác viết thành quyển Những cách ngôn về
Yoga hết sức hay, đứng đầu các sách Yoga.
Nhưng phải nhìn nhận rằng câu văn của Patanjali rất gọn ghẽ, rất
đích xác, cho nên có chỗ tối nghĩa. Ðộc giả phải nhờ những nhà Yogi
chuyên môn giải thích mới hiểu được.
Xưa nay đã có xuất bản nhiều quyển Giảng lý những cách ngôn nầy,
viết bằng chữ Bắc Phạn (Sanscrit), có một phần dịch ra Anh ngữ. Song
quyển có giá trị hơn hết vốn của tác giả Vyasa.
TIỂU SỬ CỦA PATANJALI.
Tới ngày nay cũng không ai biết thật đúng tiểu sử của Patanjali.
Ông sanh ra năm nào ? Tại đâu ?
Có người nói ông sanh lối 300 năm trước Tây lịch kỷ nguyên, có
người lại tưởng ông là nhà Văn phạm Patanjali sống lối 200 hay là 250
năm trước Chúa Giáng Sinh. Phân phân bất nhứt.
Người ta chỉ biết ông thuộc về phái Raja Yoga. Phái nầy đứng đầu các
phái Yoga khác.
NỘI DUNG QUYỂN NHỮNG CÁCH NGÔN VỀ YOGA.
Quyển Những cách ngôn về Yoga chia ra làm bốn phần :
Phần thứ nhất : Chiêm ngưỡng (Contemplation) gồm 51 qui tắc.
Phần thứ nhì : Trạng tả sự thực hành (Description de la pratique)
gồm 55 qui tắc.
Phần thứ nhì nầy cũng gọi là Kriya Yoga hay là Yoga của đời sống
hằng ngày (Yoga de la vie courante).
Phần thứ ba : Những quyền năng (Les pouvoirs psychiques) gồm 54
qui tắc.
Phần thứ tư : Sự Ðộc lập (L’indépendance) gồm 34 qui tắc Xét kỹ thì
quyển nầy viết cho những bực Thầy Yoga dùng và những người sanh ra
đã có sẵn bản tánh Yoga, tức là những vị đã tập luyện Yoga nhiều kiếp
trước, chớ không phải để cho các trẻ nhỏ mới vô lớp chót sơ đẳng đâu.
Bước đầu tiên mà bảo Chiêm Ngưỡng, Ðại Ðịnh thì chắc chắn tín đồ
sẽ ngượng nghịu không biết phải làm sao. Tất cả sẽ rớt hết, sẽ ngã lòng
rồi buông trôi.
Chưa biết tư tưởng do đâu sanh ra, chưa học cách kiểm soát chúng
nó, không Ðịnh trí được mà bảo Tham thiền, Ðại Ðịnh là để cái cày
trước con trâu, sẽ thất bại.
Thật ra phải sống với Yoga rồi mới nói chuyện Yoga được. Nếu coi
theo sách rồi lên diễn đàn, e cho có bữa gặp những người Yogi chánh
tông thì họ biết mình dốt đặc, không khác nào một người tay ngang đọc
thiệu nghề võ, chưa biết phân miếng ra sao mà nói tới việc sử dụng
quyền cước.
Dưới Chơn Thầy đã dạy : “Ðừng kiếm thế khoe khoang những
điều con không có, bởi vì sự giả trá ngăn cản tinh quang Chơn
Lý. Tinh quang nầy phải xuyên qua lòng con cũng như ánh sáng mặt
trời giọi qua tấm kiếng trong trẻo vậy.”
“ Chớ nên có ý khoe mình hay tỏ dấu thông minh” .
Vậy chúng ta phải thận trọng cho lắm. Chớ nên để mang tiếng vạch
áo cho người xem lưng hay là múa gậy rừng hoang.
Biết thì nói biết, không biết thì nói không biết. Chúng ta còn là những
trẻ nít mới năm, ba tuổi, đương tập đi trên đường Ðạo, còn té lên té
xuống. Không biết thì học cho biết; chúng ta chưa tới bực trọn sáng
trọn lành, nên khiêm tốn một chút.
KRIYA YOGA
HAY LÀ YOGA CỦA ÐỜI SỐNG HẰNG NGÀY.
Ở đây tôi xin trình bày về Kriya Yoga là phần thứ nhì của quyển
Những cách ngôn về Yoga của Patanjali mà thôi.
Kriya Yoga gồm ba phần :
Một là : Chuẩn bị thể xác (Tapas : Préparation du corps).
Hai là : Học hỏi Bản Ngã (Swadhyaya : Eùtude du moi).
Ba là : Tập trung tư tưởng về Thượng Ðế ( Isvara Pradhidhana:
Concentration en Dieu).

I.- CHUẨN BỊ THỂ XÁC (TAPAS).


Tapas có nhiều nghĩa : đốt, nhiệt lực, hăng hái, nhiệt tâm. Thường
thường người ta dùng với ý nghĩa : thái quá, quá độ, quá sức, quá ư
nghiêm khắc, quá ư khổ hạnh. Trong đoạn nầy có ý nghĩa là : thanh lọc
sự hành động đặng tiến tới Yoga, tức là Chuẩn bị xác thân.

TẠI SAO PHẢI CHUẨN BỊ XÁC THÂN ?


Xác thân con người vốn trọng trược và nặng nề vì sự dinh dưỡng
không đúng với Luật Trời, gọi là Phép Vệ Sinh. Bây giờ phải làm sao cho
nó trở nên nhẹ nhàng, trong sạch, nhạy cảm.
Ta nên hiểu điều nầy, những sự rung động từ mấy cảnh cao đưa
xuống phải vô cái Trí, qua cái Vía, cái Phách, cái óc xác thịt rồi cuối
cùng mới diễn ra bằng lời nói, chữ viết hay là việc làm.
Nếu cái óc to sớ không đáp ứng được với sự rung động mau lẹ nầy
thì con người không thu thập được cái gì tốt đẹp hay thanh bai. Con
người sẽ tiến hóa chậm.
Ta hãy xem gương nầy thì biết : Một ông thầy đờn giỏi gặp một cây
đờn tốt mà mấy sợi dây đờn to thì cũng không thể nào khảy ra những
tiếng thanh tao được.
Nếu ta thí dụ thầy đờn giỏi là một Linh hồn tiến hóa, cây đờn tốt là
thân thể khỏe mạnh và những dây đờn to là khối óc nặng nề thì ta thấy
dầu cho một Linh hồn thông minh mà gặp một khối óc nặng nề thì
không thể nào trổ tài được.
Tuy nhiên, có một phương pháp làm cho cái óc và những dây thần
kinh trở nên mảnh mai trong một thời gian ngắn ngủi, con người mới trở
nên sáng suốt mau lẹ. Phương pháp đó là Yoga.
Nhưng phải đi từ từ, từ chỗ thấp lên chỗ cao, từ chỗ dễ đến chỗ khó.
Không nên hấp tấp mà mang tai họa vào thân.
Một đứa trẻ mới năm, ba tuổi mà bảo nó trong vòng vài, ba năm lớn
bằng những người ba, bốn mươi tuổi được không ?
Suy ra bao nhiêu đây thì hiểu Tạo Vật không có bay nhảy như con
người.
CHUẨN BỊ CÁCH NÀO ?
Ðiều cần thiết nên biết trước nhứt là Xác thân mỗi người mỗi khác,
mặc dầu cả thảy đều làm bằng xương thịt, máu huyết như nhau, nhưng
thể xác và từ điển của người nầy vẫn khác đôi chút với thể xác và từ
điển của người kia.
Ðây là do Luật Nhân Quả và Luật Tiến Hóa hành động.
Vì vậy sự dinh dưỡng xác thân của người nầy có thể không hạp với
xác thân của người kia. Nói một cách tổng quát, không thể áp dụng triệt
để cách sống của những người Aán Ðộ cho những người Tây Phương
hay là những người Trung Hoa.
YOGA KHÔNG LẠ GÌ VỚI DÂN CHÚNG ẤN.
Mỗi buổi sớm mai, cả muôn người Aán, từ công nhân, thợ thuyền,
cho tới những người hành nghề tự do, những viên chức công sở, tư sở
đều có tập vài tư thế Yoga theo sự hiểu biết của họ; cũng có người
tham thiền mặc dầu họ không phải là người Yogi chánh tông. Họ cũng
đọc một đoạn Thánh kinh hay vài trương sách Triết học trước khi đi làm
việc.
NHỮNG VỊ YOGI CHÁNH TÔNG.
Mấy vị nầy độc thân từ nhỏ, họ trường chay và giữ giới luật rất
nghiêm khắc. Họ chia ra nhiều hạng.
Phương pháp luyện tập của họ, từ thức ăn cho tới những tư thế vẫn
khác nhau, tùy theo căn cơ và trình độ tiến hóa của Tâm Thức.
CÁC THỨC ĂN KHÔNG HẠP VỚI NHỮNG NGƯỜI YOGI ẤN.
Thuở xưa, một nhà Yogi trứ danh là Swatmarama Swami có làm một
bản thống kê các thứ đồ ăn không hạp với những người Yogi Ấn như sau
đây :
Những thức ăn đắng, chua, nồng, kích thích (irritant), nóng và mặn,
trầu, trái táo (Jujubier), dầu mè, hột cải cay, mù tạt (moutarde), các
thức uống làm cho choáng váng (boison capiteuse) như rượu, cá, thịt dê
và các thứ khác, một thứ tàm đậu (pois chiche), trái cây hay rau lăn bột
chiên (peignets), nước bơ (babeurre), tỏi, assa foetide là một thứ nhựa
lấy ở cây Férule ở Ba tư rất hôi để trị bịnh co rút gân, thịt.
NHỮNG MÓN NÊN DÙNG.
Lúa mì, gạo, lúa mạch, bơ sữa, gừng khô, dưa leo, kẹo, các thứ rau,
nước lã trong sạch. Mấy thức ăn nầy, người tu hành nước nào cũng
dùng được cả.
NHỮNG ÐIỀU PHẢI CỬ.
Ban sơ lúc mới tập phải tiết dục, bớt lần lần sự giao hiệp, tránh
những điều kích thích, những công việc nặng nhọc, không tắm buổi sớm
mai, không nhịn đói nhiều ngày, không lười biếng, không lân la với
những người tánh nết không được tốt.
Ðây là những điều mà người mới nhập môn nên biết và tuân theo.
Sau khi thành một người Yogi thiệt thọ rồi thì sẽ sửa nếp sống lại.
Có một điều tôi tưởng cũng phải nói là ở Ấn Ðộ, người Yogi cử mè và
táo. Trái lại, người Tàu, người Nhật, người Việt Nam thích dùng mè và
táo vì hai món nầy bổ dưỡng.
Mấy chục năm trước, tôi có thấy một toa thuốc Tịch Cốc trong đó có
mè đen, táo đen và nhiều vị thuốc Bắc [10] .
NHỮNG NGƯỜI ÐI QUÁ MỨC TRUNG BÌNH.
Có những tân tín đồ cao hứng, đương đi giữa đường muốn ca thì ca,
muốn hát thì hát, muốn múa thì múa.
Ở Aán Ðộ, người ta coi việc đó là thường, không ai để ý tới, hoặc đi
ngang qua lấy mắt nhìn mà thôi.
Nếu ở mấy xứ khác, như ở xứ mình chẳng hạn, gặp mấy người như
vậy thì cho là khùng, chẳng những bu lại coi mà còn chọc ghẹo là khác
nữa.
Cũng có những tín đồ đi quá mức trung bình. Họ hành hạ xác thân
không thể tưởng tượng được như người ta thường gặp ở mé sông Hằng
Hà (Gange). Tỷ như có người đâm đui mắt đặng đừng thấy đường, có
người thì làm cho đớ lưỡi không nói được, có người thì treo cánh tay lên
cho đến khi nó teo lại và khô rom, có người thì quấn chơn vào cổ v.v. . .
.
Họ tưởng tập như vậy là mở mang ý chí và tập cho nó cứng cỏi. Họ
làm những chuyện điên rồ. Họ hành hạ xác thân tức là hành hạ Ðức
Thượng Ðế ở trong mình họ, như trong quyển Thánh Ca đã nói.

LUYỆN TẬP TÂM TÁNH VÀ TRÍ HÓA.


Câu 28 và câu 29 của Phần thứ Hai nói về sự luyện tập Tâm Tánh
và Trí Hóa như sau đây :
28 : Khi mà sự bợn nhơ bị tám cánh tay của Yoga tiêu diệt rồi thì
ánh sáng của sự Minh Triết sẽ phát hiện ra nhờ sự hiểu biết của đức
tánh Phân Biện.
29 : Tám cánh tay của Yoga là :
- Giới : Yama
- Luật : Niyama
- Ðiều tức : Pranayama
- Tư thế : Asana
- Kiểm soát giác quan : Pratyahara
- Ðịnh Trí : Dharana :
- Tham Thiền : Dhyana : SAMYAMA
- Ðại Ðịnh : Samadhi :
Tám cánh tay nầy tượng trưng tám giai đoạn của Raja Yoga mới nói
trên đây.
Người thường thì lấy làm lạ : mỗi người chỉ có hai cánh tay mà ông
nầy lại có tám tay [11] .Có lẽ người ta cũng cho là chuyện dị đoan phi
lý.
Nhưng trong Ðạo Ðức có những chuyện bóng dáng và tượng trưng,
phải hiểu nghĩa mới được.
Ba qui tắc 30 - 31 - 32 kể ra năm Giới và năm Luật.
Theo quyển Những cách ngôn về Yoga thì như vầy :
YAMA.
1. Không nhục mạ, không làm mất lòng.
2. Không láo xược.
3. Không trộm cắp.
4. Không ham nhục dục.
5. Không chiếm hữu về cho mình.
NIYAMA.
1. Sự trong sạch.
2. An phận.
3. Chuẩn bị Xác thân.
4. Học hỏi Bản Ngã.
5. Tập trung tư tưởng về Thượng Ðế.
Chữ Phạn có nhiều nghĩa, dầu dịch ra với những danh từ khác nhau
xong xét ra với nghĩa nào cũng hữu lý cả, nhưng cao thấp khác nhau.
ÐIỀU TỨC.
Luyện tập hơi thở đúng phép thì lợi ích rất nhiều, đem sanh lực Prana
vô mình, thân thể khỏe mạnh, minh mẫn, sáng suốt. Luyện sái cách thì
tai hại chẳng nhỏ, như đứt mạch máu trong phổi, trong óc, thành ra
phế nhân rồi bỏ mạng.
Phải học với một vị Ðạo sư có Thần nhãn chỉ dẫn cho mình mới
không sợ những sự nguy hiểm có thể xảy ra bất ngờ.
Ðiều tốt hơn hết là thở dài hơi theo môn thể dục Âu Tây trong khi
mình chưa gặp Minh sư.
Tôi xin khuyên mấy bạn chớ nên luyện Ðơn Ðiền, vì Tùng Thái Dương
(Plexus solaire) có liên quan mật thiết với bộ thần kinh. Luyện sái cách
thì điên khùng, chẳng bao lâu thì mất mạng. Trước khi từ trần thì đau
bụng dữ dội trong nhiều tháng.
Tôi đã biết có người chết rồi mới vài năm nay và bây giờ năm 1974,
cũng có vài bạn trẻ thanh niên khùng khùng điên điên vì ham luyện
Yoga mà không có người Yogi chánh tông hướng dẫn.
Tôi xin nói một lần nữa rằng mấy ông thầy dạy cách luyện đó không
luyện gì hết, mấy ổng biểu người ta làm những điều mà mấy ổng không
làm. Nếu mấy ổng làm, mấy ổng đã điên khùng và chết mất rồi đâu còn
sống tới ngày nay đặng báo hại người khác. Nhưng luật Nhân Quả
không dung tha đâu. Dầu họ tránh được tội trên dương thế, chớ làm sao
thoát được luật Báo Ứng tuần huờn sau nầy. Gieo giống chi sẽ gặt giống
nấy.
TƯ THẾ.
Trong Hatha Yoga có những tư thế, người Aán vì nhờ tánh cách di
truyền của thể xác và từ điển nên tập được. Còn mấy giống dân khác
tập theo những tư thế đó thường thì có hại cho xác thân, nhứt là hai
hạch ở trong đầu là hạch mũi (corps pituitaire) và hạch óc (glande
pinéale), còn lâu lâu tập một lần thì không sao. Hư hạch mũi thì mắt mở
trao tráo mà không thấy đường. Còn hư hạch óc thì không chuyển di tư
tưởng được.
Có một tư thế ngồi theo đó và thở thì trong một thời gian sau luồng
Hỏa Hầu Kundalini khởi sự đi lên. Nhưng hãy cẩn thận.
Nếu luồng hỏa đi vô trong và xuống dưới thì cực kỳ nguy hiểm. Dục
tình sôi nổi, không khi nào ngăn cản được, kềm chế được, chẳng khác
đứng trước miệng cọp.
Nếu nó đi lên mà trong lòng còn say hoa đắm nguyệt thì nó đốt mấy
chỗ bợn nhơ trong cái Phách làm lở lói nhiều chỗ trong thân mình cho
tới chết, không thuốc chi chữa lành, có khi nó tăng cường tánh kiêu
căng tự phụ đáng sợ.
Xưa nay đã có nhiều người mất mạng rồi. Các vị Thánh nhơn đã thấy
nhiều gương khờ dại nên cảnh cáo những người tân tín đồ khá thận
trọng.

TƯ TƯỞNG, Ý MUỐN, LỜI NÓI VÀ VIỆC LÀM.


Trong hai giai đoạn đầu : Giới và Luật (Yama và Niyama) có nói rồi
nên không lập lại ở đây.
Qui tắc 12 của Phần thứ Hai đề cập đến Cạt Ma (Karma) tức là Nhân
Quả.
Qui tắc 24 : Sự Dốt nát (Vô minh) là nguồn cội của sự đau khổ, vì
bởi lầm lạc.
Qua Phần thứ Ba : Những Quyền năng, Patanjali mới nói đến việc
Ðịnh Trí, Tham Thiền và Ðại Ðịnh.

II - HỌC HỎI BẢN NGÃ.

Bản Ngã là gì ? Tại sao phải học hỏi Bản Ngã ?


BẢN NGÃ LÀ GÌ ?
Bản Ngã có ba nghĩa, tùy theo người ta dùng trong ba trường hợp
khác nhau.

1- Trước nhứt : Bản Ngã có nghĩa là Chơn Thần, một Ðiểm Linh
Quang của Thượng Ðế, con của Ngài.
2- Kế đó : Bản Ngã có nghĩa là Chơn Nhơn, đại diện cho Chơn Thần.
3- Cuối cùng : Bản Ngã có nghĩa là Phàm Nhơn, đại diện cho Chơn
Nhơn.

BA NGÔI CỦA CON NGƯỜI.


1. Chơn Thần (Monade)
2. Chơn Nhơn (Soi supérieur, Eùgo, Individualité)
3. Phàm Nhơn (Personnalité, Soi inférieur)
là ba Ngôi của Con Người. Bởi vì Con Người là một vị Tiểu Thượng Ðế
cho nên cũng có ba Ngôi như cha mình là Ðức Thượng Ðế.

TẠI SAO PHẢI HỌC HỎI BẢN NGÃ ?


Phải học hỏi Bản Ngã vì hai lý do sau đây :
Một là : Ðể phân biệt Bản Ngã với những lớp vỏ bao phủ nó, cũng gọi
là những thể của nó dùng.
Bởi vì Con Người thường lầm lộn Bản Ngã với thể xác cho nên mới
gây ra muôn vàn tội lỗi buộc trói mãi Con Người vào bánh xe Luân Hồi.
Hai là : Ðặng hiểu biết bổn phận Con Người phải làm cái chi cho hạp
với cơ Trời, tức là đúng với ý muốn của Ðức Thượng Ðế.
Vậy ta nên bàn sơ lược về hai lý do trên đây.
SỰ LẦM LỘN BẢN NGÃ VỚI CÁC THỂ XÁC.
Thường thường Con Người lầm lộn Bản Ngã với các thể xác, bởi vì
không biết mình là Bản Ngã, nói một cách dễ hiểu mình là Linh Hồn,
còn thể xác là một thứ khí cụ để cho mình sử dụng. Linh Hồn không
phải là xác thân nầy đâu. Nó có tất cả bảy thể xác khác nhau như sau
đây :
1. Xác thân (Corps physique).
2. Phách (Double éthérique).
3. Vía (Corps astral).
4. Hạ Trí (Corps mental inférieur).
5. Thượng Trí hay là Nhân Thể (Corps mental supérieur ou Corps
causal).
6. Kim Thân hay là Thể Bồ Ðề (Corps Bouddhique).
7. Tiên Thể hay là Thể Thiêng Liêng (Corps Atmique ou Corps
Spirituel)

TẠI SAO CON NGƯỜI CÓ BẢY THỂ ?


Muốn biết tại sao Con Người có bảy thể thì phải hiểu tương lai đã
định sẵn cho mỗi Chơn Thần.
Chơn Thần ngày sau sẽ thành một vị Thượng Ðế và sẽ sanh hóa một
Tiểu Vũ Trụ khác in như Thái Dương Hệ nầy vậy.
Thái Dương Hệ của chúng ta có :
1. Bảy cõi.
2. Bảy Dãy Hành Tinh. Mỗi Dãy Hành Tinh gồm bảy bầu Hành Tinh
khác nhau.
3. Trên mỗi bầu Hành Tinh đều có nhân vật sanh hóa và tiến hóa.
Muốn tạo lập thì phải có đủ quyền năng, những sự hiểu biết và
những kinh nghiệm cần thiết. Vì thế, khi xuống Trần, Chơn Thần (xin
gọi là Con Người cho dễ hiểu) phải học hỏi :
 Sự tạo lập bảy cõi của Thái Dương Hệ.
 Sự sanh hóa các loài vật trên Dãy Ðịa Cầu chúng ta.
Bây giờ xin nói qua về bảy cõi của Thái Dương Hệ và các loài vật trên
Dãy Ðịa Cầu mà thôi. Chúng ta là những bé thơ mới học những mẫu tự
A, B, C của Huyền Bí Học mà chưa thiệt thuộc, nói chi tới sự sanh hóa
Vũ Trụ Càn Khôn.

BẢY CÕI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ.


Bảy cõi của Thái Dương Hệ bắt trên kể xuống như sau đây:
1- Cõi Thái Cực hay là Tối Ðại Niết Bàn (Plan Adi ou
Mahaparanirvana).
2- Cõi Lưỡng Nghi hay là Ðại Niết Bàn (Plan Anupadika ou
Paranirvana).
3- Cõi Tứ Tượng hay là cõi Niết Bàn (Plan Atmique ou Nirvana)
4- Cõi Bồ Ðề (Plan Bouddhique).
5- Cõi Thượng Giới hay cõi Trí Tuệ (Monde Céleste ou Plan Mental).
6- Cõi Trung Giới hay là cõi Tinh Quang, cõi Dục Giới (Plan Astral ou
Plan Émotionnel).
7- Cõi Hạ Giới hay cõi Hồng Trần (Monde ou Plan physique).
SÁU CÕI TRÊN Ở ÐÂU ?
Cõi Trung Giới bắt đầu từ trung tâm trái đất lên gần tới mặt trăng.
Cõi Thượng giới hay Cõi Trí Tuệ từ trung tâm trái đất lên khỏi mặt
trăng xa lắm, v.v. . .
BẢY CÕI ÐỀU THÂM NHẬP NHAU.
Tuy nhiên, sáu cõi trên : cõi Trung Giới, cõi Thượng Giới, cõi Bồ Ðề,
Niết Bàn, Ðại Niết Bàn, Tối Ðại Niết Bàn vẫn ở chung quanh ta, trước
mặt ta và trong mình ta nữa, bởi vì bảy cõi đều thâm nhập nhau.
Chất khí ở cảnh cao mảnh mai, tốt đẹp, rung động mau lẹ và chun
thấu qua các chất khí làm mấy cảnh thấp.
Không biết giải nghĩa sao cho rành. Xin nói tại cõi Trần nầy trong
nước có không khí thì biết khí trời chun ở trong nước được.

CÕI THƯỢNG THIÊN VÀ CÕI HẠ THIÊN.


Mỗi Cõi còn chia ra làm bảy Cảnh. Riêng Cõi Thượng Giới hay Trí Tuệ
chia ra làm hai cõi:
 Cõi Thượng Thiên (Plan Mental Supérieur) gồm ba cảnh cao, là
cảnh thứ nhứt, cảnh thứ nhì và cảnh thứ ba.
 Cõi Hạ Thiên (Plan Mental inférieur) gồm bốn cảnh thấp, là cảnh
thứ tư, cảnh thứ năm, cảnh thứ sáu và cảnh thứ bảy.
Cõi Thượng Thiên cũng gọi là cõi Vô Sắc Giới (Monde Aroupa), bởi vì
ở cõi nầy tư tưởng không có hình dạng như mấy cõi dưới mà nó xẹt ra
từ lằn.
Cõi Hạ Thiên cũng gọi là cõi Sắc Giới (Monde Roupa), bởi vì ở Cõi nầy
tư tưởng có hình dạng

SỰ LIÊN QUAN GIỮA BẢY THỂ CỦA CON NGƯỜI


VỚI NĂM CÕI CỦA THÁI DƯƠNG HỆ.
Bảy Thể của Con Người liên quan với năm Cõi của Thái Dương Hệ
(Xin gọi năm cõi Trời cho tiện).
1-2 . Xác thân và cái Phách cấu tạo bằng chất Hồng Trần làm ra Ðịa
Cầu nầy. Xác thân để hoạt động, còn cái Phách để thu hút sanh lực
Prana vô mình đặng nuôi các tế bào.
3. Cái Vía cấu tạo bằng chất Thanh Khí, cũng gọi là chất Tinh Quang
làm ra cõi Trung Giới. Nó cũng để biểu hiện tình cảm và ý muốn. Khi
qua cõi Trung Giới, Con Người sẽ sử dụng nó như sử dụng Xác thân tại
cõi Hồng Trần.
4. Hạ Trí cấu tạo bằng bốn chất Trí Tuệ thấp làm ra cõi HạThiên. Nó
sanh ra những tư tưởng hữu hình và để học hỏi, phân biện, xét đoán,
ghi nhớ, tưởng tượng. Khi Con Người lên cõi Hạ Thiên thì dùng nó như
dùng Xác thân.
5. Thượng Trí cấu tạo bằng ba chất Trí Tuệ cao làm ra cõi Thượng
Thiên. Nó sanh ra những tư tưởng trừu tượïng, vô hình. Con Người sẽ
dùng nó khi lên cõi Thượng Thiên.
6. Kim Thân hay là Thể Bồ Ðề cấu tạo bằng chất Bồ Ðề làm ra cõi Bồ
Ðề. Nó là Thể Trực Giác và Bác Aí. Con Người sẽ dùng nó khi lên cõi Bồ
Ðề.
7. Tiên Thể hay là Thể Thiêng Liêng cấu tạo bằng chất Âm Dương
Khí làm ra cõi Niết Bàn. Khi Con Người Ðắc Ðạo làm một vị Siêu Phàm
nhập vào cõi Niết Bàn thì sử dụng nó.
Thấy như vầy ta mới biết Tạo Công rất chu đáo và tất cả những điều
Trời làm đều tốt đẹp. Chỉ tại Con Người làm cho mọi việc trở nên xấu
xa.
Nếu không có Xác thân thì không thể hoạt động tại cõi Trần được.
Không có cái Vía, không qua cõi Trung Giới được.
Không có Hạ Trí không sao lên cõi Hạ Thiên bây giờ, bởi vì Cõi nào
Thể nấy.
Ðiều nầy không khác nào con cá thì sống ở dưới nước, còn con chim
thì bay trên trời.
Bây giờ ta mới hiểu Hồn Ma mất xác thân. Họ ở trong cái Vía tại cõi
Trung Giới nên ta không thấy họ. Họ không có Xác thân nên họ cũng
không thấy thân hình ta mà họ thấy cái Vía ta.

NHƠN SANH TIỂU THIÊN ÐỊA.


Bởi Con Người có ba Ngôi và trong mình có đủ các chất khí đã cấu
tạo ra Trời Ðất cho nên kinh sách xưa mới gọi Con Người là Tiểu Thiên
Ðịa rất đúng.

ÐI VÒNG KHẮP DÃY ÐỊA CẦU.


Không phải Con Người và các loài vật chỉ sanh tại Ðịa Cầu nầy mà
thôi. Con Người phải đi vòng quanh khắp bảy Bầu Hành Tinh của Dãy
Ðịa Cầu.
Ban đầu nhơn vật ở Bầu thứ Nhứt A đặng học hỏi và kinh nghiệm
[12]. Xong rồi qua Bầu Hành Tinh thứ Nhì B.
Hết ở Bầu thứ Nhì B thì qua Bầu Hành Tinh thứ Ba C là Hỏa Tinh
(Mars).
Hết ở Bầu Hỏa Tinh thì qua Bầu thứ Tư D là Ðịa Cầu của chúng ta.
Hết ở Ðịa Cầu thì qua Bầu thứ Năm E là Thủy Tinh (Mercure).
Hết ở Bầu thứ Năm E là Thủy Tinh thì qua ở Bầu thứ Sáu F.
Hết ở Bầu thứ Sáu F thì qua Bầu thứ Bảy G.
Ði giáp một vòng bảy Bầu Hành Tinh thì gọi làhết một cuộc Tuần
Huờn (Une Ronde).
Nhơn vật trở lại Bầu thứ Nhứt học hỏi và kinh nghiệm thêm. Lần thứ
Nhì cũng phải đi giáp một vòng bảy Bầu Hành Tinh, gọi là hết cuộc Tuần
Huờn thứ Nhì.
Nhơn vật phải đi bảy lần như vậy, nghĩa là bảy cuộc Tuần Huờn mới
có sự thay hồn đổi dạng. Con Người sẽ thành một vị Siêu Phàm gọi là
Tiên Thánh.
Thú vật đầu thai làm Người hay là Tinh Linh, gọi là Ngũ Hành tùy
theo loại.
Thảo mộc đầu thai làm Thú vật.
Kim thạch đầu thai làm Thảo mộc.
Tinh Chất thứ Ba đầu thai làm Kim thạch.
Tinh Chất thứ Nhì đầu thai làm Tinh Chất thứ Ba.
Tinh Chất thứ Nhứt đầu thai làm Tinh Chất thứ Nhì.
Ðây là nói một cách tổng quát mà thôi. Còn nhiều chi tiết khác không
thể giải ra đây.
Có một điều nên nhớ là trên mỗi Bầu Hành Tinh đều có những bài
học khác nhau cho nhơn vật, càng ngày càng thêm khó khăn.
Những Linh Hồn hay Loài Vật nào bê trễ, không cố gắng hoặc còn
yếu đuối sẽ bị bỏ lại sau sự Phán Xét Cuối Cùng (Jugement dernier). Số
phần của họ sẽ định đoạt ở Dãy Hành Tinh sanh sau Dãy Ðịa Cầu chúng
ta.
(Xin xem quyển Sự sanh hóa các giống dân trên Dãy Ðiïa Cầu của
tôi).

PHẢI HỌC HỎI BẢN NGÃ MỚI TRÁNH GÂY RA


NHỮNG TỘI LỖI VÀ TIẾN MAU.
Việc học hỏi Bản Ngã còn những sự hữu ích khác nữa là tránh gây ra
những tội lỗi và tiến mau.
Nếu thật Con Người là Chơn Thần mà Phàm Nhơn là đại diện của
Chơn Nhơn thì đáng lẽ Con Người phải làm những việc từ thiện, hữu ích
cho đồng loại.
Tại sao cho tới ngày nay, người ta đã xưng mình là văn minh tiến bộ
mà còn làm nhiều tội ác gớm ghê nhắc tới rùng mình mọc ốc ? Có thể
nói Con Người còn ác độc hơn loài mãnh thú cọp, beo, hùm, sói. Tại sao
vậy ? Tội lỗi của Con Người ở đâu mà ra ?
TAM ÐỘC : THAM, SÂN, SI.
Phật Giáo cho rằng : Tham, Sân, Si là nguồn gốc các tội lỗi của con
người.
Tham, Sân, Si không phải do Phật Giáo bày ra mà vốn dịch ba Phạn
Ngữ : Raga, Dosa, Moha. Vậy nói là Aán Giáo thì đúng hơn.
RAGA : Pháp dịch là Désir : Ham muốn. Tàu dịch là Tham.
DOSA : Pháp dịch là Colère, Haine : Giận dữ, Thù hận. Tàu dịch là
Sân, nên thêm chữ Hận nữa : Sân Hận.
MOHA : Pháp dịch là Erreur, Illusion : Sự lầm lạc, Aûo tưởng. Tàu
dịchh là Si, Tà Kiến
Tham, Sân, Si là tánh xấu của Con Người, nhưng tại sao Con Người
lại có tánh xấu nầy ?
Muốn hiểu lý do thì nên biết tánh xấu của ba Thể : Thân, Vía, Trí.

TÁNH XẤU CỦA BA THỂ.


Xác thân u mê, bởi vì nó rất ham ăn, hốc uống, ưa ngủ nghê chơi
bời, biếng nhác, không chịu siêng năng làm việc.
Cái Vía ưa những sự rung động dữ dội, nó hay ganh gổ, ham mê
nhục dục, giận hờn, nóng nảy, mắng nhiếc, rủa sả, v.v. . . .
Cái Trí thì chia rẽ và kiêu căng, tự phụ, khinh thường thiên hạ, tự tôn
tự đại, phách lối, xấc xược, không ngớt ham bay nhảy, chẳng chịu định
vào một chỗ cho lâu. Rõ ràng là chúng Tham. Sân. Si một lượt.
TẠI SAO CON NGƯỜI LẠI GÂY RA TỘI LỖI ?
Tánh xấu của ba Thể : Thân, Vía, Trí là như thế, nhưng tại sao Con
Người lại gây ra tội lỗi ?
Aáy tại Con Người đồng hóa với ba Thể. Tánh nết của ba Thể làm ra
tánh nết của Con Người.
Khi Con Người chưa phân biện được cái nào thật là ý muốn của mình,
còn cái nào là ý muốn của Xác thân, của cái Vía hay là của cái Trí thì
Con Người làm những điều đáng tiếc, có khi phải ăn năn, hối hận, song
cũng đã muộn rồi.
Tưởng cũng nên biết tại sao Thân, Vía [13] và cái Trí lại có tánh nết ?
Thân, Vía, Trí đều làm bằng những nguyên tử. Ðứng riêng rẽ thì mỗi
nguyên tử chỉ có sự sống mà thôi. Nhưng khi hiệp nhau lại thành một
thân xác thì thân xác nầy lại có ý thức gọi là tánh nết riêng biệt của nó.
Thật là kỳ lạ.
Cũng nên biết cái Vía rất quỉ quyệt. Nó có kinh nghiệm nên biết rằng
nếu nó cấu kết với cái Trí và khi thuyết phục được Con Người thực hành
điều nó ham muốn thì sự vui thích của nó sẽ tăng lên thập bội.
Ta thường nghe ông X nói: “ Tôi thích cái nầy ”; ông Y nói : “Tôi ưa
cái kia”. Nhưng hãy đề phòng : Cái Vía ưa thích chớ không phải Con
Người ưa thích đâu.
CÁI CHI LÀM RA TÁNH NẾT ?
Người ta thường nói : Tại tánh tôi như vậy.
Như thế Con Người chiều theo tánh nết của mình chớ chưa làm chủ
nó.
Mà cái chi làm ra tánh nết Con Người ?
Aáy là những tư tưởng, những ý muốn lập đi lập lại mãi rồi biến
thành sự hành động.
Một khi cái Trí và cái Vía rung động theo một cách thế nào rồi thì cứ
theo cách thế đó mãi. Như vậy thành ra thói quen. Mà mỗi khi có thói
quen rồi thì khó mà thay đổi chiều hướng nó. Phải có chí khí, có gan dạ,
thành thật nhìn nhận những nhược điểm của mình rồi lo bồi bổ và sửa
chữa. Không vậy thì từ kiếp nầy qua kiếp kia, cả chục kiếp như vậy,
tánh nào tật nấy.
Vì thế mà các bậc Tiền Bối có nhiều kinh nghiệm thường nhắc nhở
chúng ta : mỗi lần sanh ra một tư tưởng quấy quá, xấu xa thì phải lập
tức sanh ra một tư tưởng tốt đẹp, thanh cao đối lập với tư tưởng trước
đó.
Thí dụ : một tư tưởng tham lam nảy sanh trong trí ta thì ngay trong
lúc đó ta phải nói trong lòng như vầy : “Tôi rất chơn chánh, tôi rất nhơn
từ ”.
Tư tưởng chơn chánh và tư tưởng nhơn từ đánh đuổi tư tưởng tham
lam ra khỏi Trí ta.
Nhưng phải đề phòng. Có khi tư tưởng không tốt đẹp xông vô Trí ta
thình lình bắt ta hành động tức khắc, ta sa ngã vì không kịp đối phó với
nó.
Vì thế các vị Ðạo Sư mới dạy chúng ta mỗi ngày phải Tham Thiền
những tánh tốt đặng tạo ra một tòa thành trì kiên cố để bảo hộ ta, kẻ
nghịch không thể xâm chiếm được. Tòa thành trì nầy là một Hình Tư
Tưởng mạnh mẽ. Ta phải tuân theo những lời căn dặn, nếu muốn tiến
mau và được an toàn trên con đường hành hương.
TỰ CHỦ
Tất cả nhơn loại, trừ ra một số rất ít Học Ðạo và Hành Ðạo thì bao
nhiêu còn lại không khác nào những người còn ngủ mê, bởi vì còn ở
dưới quyền sai khiến của ba Thể : Thân, Vía, Trí.
Cả ngàn kiếp rồi, Con Người không biết rằng ba Thể : Thân, Vía, Trí
phải phục vụ mình, trái lại để chúng điều khiển mình theo ý muốn của
chúng nên gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi. Cứ vay rồi trả, trả rồi
vay, lẩn quẩn mãi trong vòng nghiệp chướng, chưa thoát ra ngoài được.
Thế nên tiến rất chậm.
Muốn đi cho mau thì phải làm chủ lại ba Thể, mà thật ra không phải
là việc dễ làm đâu.
Lúc đầu tiên ta ướm thử chống lại chúng nó thì thấy hoàn toàn thất
bại, chúng nó mạnh hơn ta, đè bẹp ta dễ dàng. Nhưng phải theo đúng
phương pháp và bền chí thì sẽ thành công. Không phải luyện tập nội
kiếp nầy mà thôi, mấy kiếp sau cũng phải tiếp tục công việc đã thực
hành trong kiếp hiện tại cho tới khi nào thành một vị Siêu Phàm mới
chấm dứt.
Làm chủ ba Thể thì san bằng một nửa những sự khó khăn gặp trên
đường Ðạo.
Tuy nhiên, hiểu là một việc mà thực hành là một việc khác nữa. Hãy
đề phòng. Khi nói chuyện thì ta bảo : Phải làm chủ ba Thể, nhưng
chừng thực hành thì ba Thể làm chủ lại ta. Ta phải chịu tỏ ra bất lực.
Ðừng quên rằng Con Người là Chơn Thần có đủ quyền năng như Ðức
Thượng Ðế. Nếu Con Người quyết định rèn luyện Ý chí cho cứng cỏi thì
việc trau dồi tâm tánh, sửa trị ba Thể không có chi là khó khăn đâu.
Chỉ tại ta say mê những thú vui vật chất, phù du, mộng ảo, nói mà
không chịu thực hành, hay là thực hành cho lấy có nên không được cái
kết quả như ý muốn.
TẠI SAO PHẢI TỰ CHỦ ?
Tại sao phải tự khắc kỷ, tự chủ ?
Phải tự chủ mới được Chơn Sư thâu nhận làm Ðệ Tử và chỉ dạy cách
luyện tập đặng bước vào cửa Ðạo. Vào trong Thánh Ðiện rồi thì 14, 15
kiếp sau, hoặc có thể mau hơn, mới tiến đến bực Siêu Phàm, là mục
đích đã định sẵn cho nhơn loại trong Thái Dương Hệ nầy.
Phải hiểu lẽ ấy mới thấy tu hành là hữu ích vô cùng và biết rõ mục
đích của sự luyện tập Yoga.
Nếu Con Người chỉ giong ruổi theo con đường đời đầy dẫy chông gai
và gió bụi, cứ sanh rồi tử, tử rồi sanh, vui buồn lẫn lộn từ thế hệ nầy
qua thế hệ kia thì phải trải qua mấy muôn kiếp Luân Hồi mới có thể
được thành Chánh Quả làm một vị Chơn Tiên.
THỰC HIỆN CHƠN NGÃ.
Phải học hỏi Bản Ngã mới biết phải làm cách nào đặng khắc kỷ và
bắt buộc ba Thể : Thân, Vía, Trí tuân theo mạng lịnh của mình và sống
đúng theo cơ Tiến Hóa.
Ngày nào điều khiển được ba Thể, ngày đó mới nói được mình đã bắt
đầu thực hiện Chơn Ngã. Việc nầy đòi hỏi nhiều công phu và phải trải
qua nhiều giai đoạn.
Tôi nói bắt đầu, bởi vì phải được năm lần Ðiểm Ðạo, làm một vị Siêu
Phàm thì việc thực hiện Chơn Ngã mới hoàn toàn thành công. Tới bực La
Hán còn sợ vấp ngã.
Khi được Ðiểm Ðạo lần thứ Nhứt thì Phàm Nhơn nhập làm một với
Chơn Nhơn.
Tới chừng được năm lần Ðiểm Ðạo, Chơn Nhơn nhập một với Chơn
Thần.
Tới chừng đó Con Người mới thực hiện được Chơn Ngã, mới được
hoàn toàn giải thoát và bước vào đường Tiến Hóa của những vị Siêu
Phàm. Con Người không còn ở dưới quyền sai khiến của giác quan nữa.
III - TẬP TRUNG TƯ TƯỞNG VỀ THƯỢNG ÐẾ.

Những người Sùng Ðạo, dầu thuộc về Tôn Giáo nào cũng vậy : Aán
Giáo, Phật Giáo, Công Giáo, Hồi Giáo v.v. . . đều tập trung tư tưởng về
Ðấng mình thờ phượng. Có người thì quì trước bàn thờ cả giờ mà không
biết mệt mỏi.
Tập trung tư tưởng về Ðức Thượng Ðế tức là tin tưởng triệt để nơi
Ngài.
Nên biết có hai vị Thượng Ðế. Một vị ở ngoài là Chủ Tể Thái Dương
Hệ, còn một vị ở trong mình ta là Chơn Thần, cũng gọi là Tiểu Ngã.
Tập trung tư tưởng về Ðức Thượng Ðế cũng có nghĩa là ta cứ nhớ mãi
ta là Ðức Thượng Ðế. Nếu ta có chí khí thì việc chi ta cũng có thể làm
được, miễn là đừng nửa đường bỏ cuộc. Ðức Thượng Ðế chỉ tạo ra
những gì tốt đẹp thì ta cũng phải làm in như Ngài vậy. Ta phải loại ra
khỏi tâm trí những điều thấp hèn, ô trược, chỉ lo thực hành những điều
cao quí, thanh bai, Từ Bi, Bác Aùi, đem hạnh phúc lại cho mọi người,
làm cho tất cả được vui vẻ đẹp lòng.
Nói tóm lại chỉ có bốn câu thôi :
1- Lánh dữ .
2- Làm lành.
3- Rửa lòng trong sạch.
4- Phụng sự vô tư lợi.
Từ xưa đến nay và mai sau nữa, Chư Phật và các vị Giáo Chủ đều
dạy như thế vì đó là Thiên Ý.

SỬA ÐỔI SỐ MẠNG.


Tin tưởng nơi Trời thì an phận, tức là bằng lòng với số phận của
mình, chớ không oán Trời trách Ðất, bởi vì biết rằng chính là những
hành vi của mình kiếp trước chỉ định số phận và hoàn cảnh của mình
kiếp nầy do theo Luật Nhân Quả chớ không phải ý muốn của Trời. Trời
không có một mảy bất công. Nhưng an phận không phải là khoanh tay
mà ngó và chỉ chịu đựng mà thôi.
Trái lại, phải tìm đủ mọi cách để sửa đổi hoàn cảnh, đào tạo cho
mình những tánh tốt chưa có. Câu : “ Có Trời mà cũng có Ta, Tu là cội
phúc” rất đúng với Chơn Lý. Có định mạng mà cũng có tự do ý chí. Ta
có quyền sửa đổi số phận của ta, dầu không được trọn vẹn chớ cũng
được hơn phân nửa và đồng thời ta cũng xây dựng tương lai của kiếp
sau, làm cho nó tốt đẹp hơn bây giờ.
Trong cuốn Idylle du Lotus blanc có ba câu nầy [14] :
Có ba Chơn Lý tuyệt đối không bao giờ mất được, nhưng có thể
không biểu lộ ra vì không người diễn tả.
Nói một cách khác ba Chơn Lý nầy do Quần Tiên Hội gìn giữ, chúng
không bao giờ mất được, nhưng có lúc người ta không biết là tại không
ai công bố chúng .
1.- Ðại Chơn Lý thứ Nhứt : Linh Hồn Con Người vốn trường sanh bất
tử. Tương lai của nó là tương lai của một việc mà sự phát triển và
huy hoàng vốn vô tận vô biên.
2.- Ðại Chơn Lý thứ Nhì : Nguyên lý ban phát Sự Sống vốn ở trong
mình ta và ở ngoài ta. Nó không bao giờ chết và đời đời chí thiện.
Nó không thấy được, nghe được, cảm được, nhưng mà ai muốn
nhận thức nó thì nhận thức được.
3.- Ðại Chơn Lý thứ Ba : Mỗi cá nhân đều là người tự lập luật lệ cho
mình, tự ban phát cho mình sự vinh quang hay sự đen tối, tự cầm
vận mạng mình, tự ban thưởng mình hay tự hành phạt mình.
Những Chơn Lý nầy quan trọng như Sự Sống, mà cũng giản dị như
tâm hồn giản dị nhứt.
Hãy lấy chúng làm thực phẩm nuôi dưỡng kẻ đói khát .
Hiểu câu Chơn Lý thứ Nhứt thì Con Người không còn sợ những sự
hành phạt dưới Aâm Ty, Ðịa Ngục hay là phải nhờ sự cứu rỗi mới thoát
khỏi đọa Luân Hồi.
Mỗi người phải tự cứu lấy mình chớ không ai cứu mình được. Sự giúp
đỡ có thể tùy theo lúc hay tùy trường hợp nào đó nhưng cũng là tạm
thời, không được vĩnh viễn trường tồn.
Tương lai Con Người rất rực rỡ và sự phát triển sẽ không bờ bến.
Về Chơn Lý thứ Nhì : Ðức Thượng Ðế rất nhơn từ, cõi đời là sự biểu
thị của Ngài, còn Con Người là một thành phần của Ngài. Khi Con Người
đi đến một trình độ tiến hóa khá cao thì biết được Ngài.
Về Chơn Lý thứ Ba : Tức là Luật Nhân Quả. Con Người gieo giống chi
thì gặt giống nấy.
Chính tự mình đem mình lên cao hay là tự mình đem mình xuống
thấp.
Ba Chơn Lý nầy liên quan với sự Học Hỏi Bản Ngã và sự Chiêm
Ngưỡng Ðức Thượng Ðế. Quí bạn đọc rồi suy nghĩ sẽ thấy nhiều điều
hay.

PHẦN THỨ TƯ CỦA QUYỂN NHỮNG CÁCH NGÔN VỀ YOGA.


Phần thứ Tư là Phần chót của quyển Những cách ngôn về Yoga của
Patanjali để tên là KAIVALYA, dịch nghĩa là ÐỘC LẬP hay TỰ DO
(Indépendance ou Liberté).
Kaivalya là trạng thái Giác Ngộ.
Trên con đường hành hương phát triển dài thăm thẳm, Tiểu Ngã
(Purusha) tức là Chơn Thần đã đoạt được mục đích để dành sẵn cho nó.
Ba Gu na (Gounas) tức là ba Trạng Thái : Ðộng (Rajas), Tịnh
(Tamas) và Hòa Thanh (Sattva) đã thành trống rỗng, không còn ảnh
hưởng chi đối với Tiểu Ngã nữa. Tiểu Ngã đã trụ vào bản tánh thật sự
của nó tức là Tâm Thức thuần túy (Pure conscience) nhưng Kaivalya
không phải là mức cuối cùng của cuộc Hành Trình.
Huyền Bí Học nói rằng : Kaivalya chỉ là một giai đoạn trong sự phát
triển vô biên của Tâm Thức.
Xin nhớ rằng : Trước mặt vị Siêu Phàm có bảy đường tiến hóa khác
nhau, Ngài muốn chọn con đường nào tùy ý.
Còn nhiều bực cao minh hơn nữa là : Ðế Quân, Bồ Tát, Phật, Ngọc
Ðế, Phổ Tịnh Ðại Ðế, v.v. . .

NHỮNG SÁCH GIẢI VỀ NHỮNG CÁCH NGÔN


VỀ YOGA CỦA PATANJALI.
Những sách Phạn Ngữ về loại nầy rất nhiều mà người ta mới dịch
tiếng Anh có vài quyển, chưa đủ vào đâu.
Về Pháp Ngữ có bốn quyển sau đây :
 Mircéa Eùliade - Patanjali et le Yoga.
 I.K. Taimni – La science du Yoga.
 W. Jude – Commentaire sur les aphorismes du Yoga de Patanjali.
 E. Wood - La pratique du Yoga ancien et moderne. Quyển nầy dễ
hiểu hơn hết.
Nhưng mà trước hết nên đọc quyển Introduction au Yoga (Yoga nhập
môn) của Ðức Bà A. Besant (tức Ðường vào Yoga).

1974

HẾT
muc lục|chú thích |chương 1| chương 2 |chương 3 |chương 4 | chương 5 | đầu sách

trang nhà l trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử l trang thơ l hình ảnh l bài
vở

Chú thích
[1] Trong quyển Á Châu Huyền Bí trương 20, Ðức Tuệ Tĩnh nói : “Thượng Ðế và
tôi chỉ là một”.
Trong cuốn nầy Ðức Tuệ Tĩnh cũng dạy về Nhân Quả nơi trương 14, 25, 94, 95.
Trương 14 : “Các bạn thấy rằng nếu tôi cứ tiếp tục gây sự giá lạnh chung quanh
tôi, sự đông giá sẽ phản ứng vào mình tôi trước khi tôi kết thúc và tôi sẽ bị chết
cóng, đó là cái kết quả mà tôi đã gặt hái được do việc làm của mình. Trái lại, nếu tôi
chỉ làm việc lành, tôi sẽ gặt hái kết quả của việc lành ấy một cách trường cửu.”
Trương 25 : “Làm như vậy tôi đã lạm dụng cái định luật toàn vẹn đó, định luật
nầy cũng đúng đắn như những định luật của âm nhạc chẳng hạn. Nếu tôi cứ tiếp tục
lạm dụng hoài, thì không những luật ấy sẽ đốt cháy những vật tôi đã tạo nên, mà
còn đốt cháy thiêu luôn cả người sáng tạo, là chính tôi nữa.”
Trương 94, 95 : “Các bạn hãy tập làm điều lành mà không cần nghĩ đến hậu
quả . . . . . y cũng sẽ cảm thấy rằng có linh hồn Ðấng Christ đứng ở bên
cạnh y. . . . . .”
[2] Ba Dãy Hành Tinh nầy là : Dãy thứ Nhứt, Dãy thứ Hai và Dãy thứ Ba là Dãy
Nguyệt Tinh (Chaine lunaire). Dãy thứ Ba đã tan rã và để lại một di tích là Mặt
Trăng bây giờ.
Khác với Tâm Lý Học của chúng ta đang học.
[3]
[4] Giảng lý Những cách ngôn về Yoga của Patanjali.
[5] Trừ ra những bạn có căn lành kiếp trước.
[6] Nếu hạch mũi sưng thì hai con mắt mở trao tráo mà không thấy đường.
[7] Purusha có nghĩa là Chơn Thần hay Bản Ngã.
[8] Tantra hay Tantras có hai nghĩa :
Một là : Kinh Thánh Aán gồm 160 quyển giải về Con Người dưới hình thức “Cuộc
đối thoại giữa Shiva và Durga.”
Durga là trạng thái Âm của Shiva. Các thứ kinh công truyền thuộc về loại Hiển
(Eùsotérique) đều gọi Durga là Nữ Thần. Tàu gọi là Diêu Trì Kim Mẫu, Ðức Mẹ Thế
Giới.
Hai là : Chơn ngôn, Thần chú.
[9] Vyasa nầy không phải là Ðức Bồ Tát, ngày nay là Ðức Phật Thích Ca. Vyasa
nầy cũng gọi là Badarayana, giáo chủ của phái Triết học Védanta. Nhưng phải nói
chỉ có một phần của những cuốn Giảng lý được dịch ra mà thôi.

[10] Tôi không dùng toa nầy, vì thấy Tịch Cốc chỉ có ích lợi cho những ai đi
nhiều ngày trong rừng sâu mà không có đồ ăn, chớ không phải Tịch Cốc đặng luyện
trường sanh.
[11] Tôi thấy trong hai cái chùa có hình người tám tay, người ta cho là một ông
Phật.
[12] Bầu thứ Nhứt A, Bầu thứ Nhì B, Bầu thứ sáu F và Bầu thứ Bảy G không có
đất cát cho nên chúng vô hình. Chúng nó làm bằng chất khí thanh bai hơn đất cát
nên ta không thấy.
[13] Phật Giáo gọi cái Vía là Ý.
[14] Ba câu nầy vốn của Chơn Sư Hilarion chép vô.
[15] Quí bạn hãy đọc quyển Á Châu Huyền Bí trang 20 và 64, 65, 66 nói về
chuyện tìm Chơn Ngã trong nội tâm và mở rộng tình thương.
Tiện đây tôi xin nói rằng các vị Chơn Sư bên ThôngThiên Học lo công việc của
Thiên Ðình ngày đêm không ngớt, các Ngài vẫn độc thân, không hề lập gia đình.
Nhưng mà có vị thâu nhận Ðệ Tử đặng phụ tá các Ngài. Ðời sống của các Ngài khác
hẳn đời sống của các vị Chơn Sư nói trong quyển Á Châu Huyền Bí. Các Ngài đã
nhập vào cõi Niết Bàn rồi, nhưng tình nguyện ở lại cõi Trần lấy xác phàm để giúp đỡ
nhơn loại, còn mấy vị Chơn Sư trong quyển Á Châu Huyền Bí mới nói tới cõi Bồ Ðề,
bằng trình độ của một vị La Hán, chớ chưa nói tới cõi Niết Bàn.
Những vị La Hán có quyền ở tại cõi Bồ Ðề tu hành thêm cho đến khi được nhập
vào cõi Niết Bàn mới được hoàn toàn giải thoát, khỏi bị Luân Hồi nữa.
trang nhà l trang sách l bản tin l thiền học l tiểu sử l trang thơ l hình ảnh l
bài vở

muc lục|chú thích |chương 1| chương 2 |chương 3 |chương 4 | chương 5 | đầu sách

CÁC LOẠI YOGA ?

trích trong Nói Chuyện Yoga

Có bao nhiêu thứ Yoga ?


Yoga là một danh từ tổng quát, phải thêm một danh từ khác nữa trước chữ Yoga mới biết Yoga
đó thuộc về loại nào.
Tỉ như : Karma Yoga, Hatha Yoga.
Không biết thật đúng có bao nhiêu thứ Yoga. Hiện thời người ta biết mười một thứ Yoga như :
1- Hatha Yoga.
2- Karma Yoga.
3- Jnana Yoga.
4- Bhakti Yoga.
5- Laya Yoga.
6- Mantra Yoga.
7- Kriya Yoga.
8- Shiva Yoga.
9- Yantra Yoga.
10- Mudra Yoga.
11- Raja Yoga.
Nhưng ông P. Brunton có nói, trong lúc ông đi du lịch đặng tìm Ðạo, ông gặp nhiều phái Yoga
khác, hành giả luyện tập một cách kín đáo nên ít ai biết .
- Mười một thứ Yoga nầy khác nhau thế nào ?
Tôi xin nói vắn tắt vài lời về mỗi thứ mà thôi. Nếu huynh muốn rõ những chi tiết xin đọc những
quyển riêng giải về khoa đó.
1- HATHA YOGA.
Hatha Yoga là một khoa luyện Âm Dương hiệp nhất. Nó giống khoa luyện Khí công của người
Tàu.
Vần HA tiêu biểu cho Mặt Trời là Dương.
Vần THA tiêu biểu cho Mặt Trăng là Âm.
Khoa nầy dùng cách hô hấp và phương pháp thể dục để thâu thập sinh lực vô mình. Có thể gọi
nó là Khoa Luyện Trường Sanh.
Còn ba khoa Karma Yoga, Jnana Yoga, Bhakti Yoga mà khoa Triết Học Aán gọi là ba Margas hay
là ba Con Ðường (trois sentiers).
2- KARMA YOGA.
Là con đường Hành động (Sentier de l’action).
3- JNANA YOGA.
Là con đường Minh Triết (Sentier de la Sagesse).
4- BHAKTI YOGA.
Là con đường Sùng Tín (Sùng Ðạo) hay là con đường của Tình Thương (Sentier de l’amour).
5- LAYA YOGA.
Cũng gọi là Kundalini Yoga vì Yoga nầy chuyên lo mở luồng Hỏa Hầu Cung đa li ni, nó ảnh hưởng
tới các Luân Xa (les Chakras).
6- MANTRA YOGA.
Dùng Thần Chú đặng làm cho cái Trí trở nên yên tịnh và còn nhiều sự hữu ích khác.
7- KRIYA YOGA.
Tu theo cách khổ hạnh nhưng cũng học hỏi, cũng thờ phượng, cũng hiến dâng vậy.
Kriya Yoga có vài chỗ giống như Hatha Yoga. Nó cũng dùng phương pháp luyện tập thể dục làm
căn bản, nó nhắm vào sự làm chủ giác quan, nhờ thế mới điều khiển sự hô hấp dễ dàng. Người ta
biết rằng nhịp thở tùy thuộc những trạng thái của Tâm Thức. Lúc giận hờn, sợ sệt, vui mừng, nhứt là
lúc dục tình sôi nổi thì thân mình run rẩy, hơi thở hổn hển mau lẹ. Nếu lúc đó định trí thì hơi thở
chậm đi, thân mình trở lại yên tịnh như trước.
Trong quyển Autobiographie d’un Yogi của tu sĩ Paramhansa Yogananda, Cử nhân Văn khoa,
huynh Nguyễn hữu Kiệt dịch ra để tên là Xứ Phật Huyền Bí nơi trương 174 - 175 có một đoạn nói về
Pháp môn Kriya Yoga như sau :
“Người Yogi dùng tư tưởng dẫn luồng sinh lực đi theo một đường vòng xuyên qua sáu bí huyệt
của tủy xương sống (từ bí huyệt trên đỉnh đầu xuống các bí huyệt ở cuống họng, ở tim, ở rún, ở lá
lách và xương mông) rồi đi ngược trở lên để khép một vòng tròn tương đương với mười hai cung
Hoàng Ðạo, tượng trưng vũ trụ trong con người (Tiểu Thiên Ðịa). Một lần công phu chừng nửa phút
đồng hồ vòng quanh xương sống theo pháp môn Kirya Yoga giúp cho con người thực hiện một sự
tiến bộ bằng một năm tiến hóa thông thường.
Một lần phép công phu Kriya Yoga thực hiện trong vòng một ngày đem đến cho người Yogi một
sự tiến hóa tâm linh tương đương với một ngàn năm tiến hóa tự nhiên và công phu của một năm tu
luyện sẽ đưa đến kết quả bằng 365.000 năm. Như thế, pháp môn Kriya Yoga giúp cho hành giả thực
hiện trong ba năm tu luyện công phu, một sự tiến bộ vượt bực mà theo đà tiến hóa tự nhiên, nó phải
cần đến 10.000 thế kỷ. Tuy nhiên muốn theo con đường tắt của pháp môn Kriya Yoga, chỉ có những
người Yogi đã được huấn luyện thuần thục dưới sự chỉ dẫn của các vị Chơn Sư, nhờ đó họ chuẩn bị
thể xác lẫn tinh thần đến mức tuyệt đỉnh, khả dĩ tiếp nhận cái quyền năng phát triển bằng sự công
phu tu luyện thường xuyên”.
Kriya Yoga tăng tuổi thọ và mở rộng tâm thức, nó kiểm soát trực tiếp tinh thần nhờ sanh lực. So
sánh với con đường chậm chạp và không chắc chắn của Thần học (Théologie) thì Kriya Yoga giống
như chiếc máy bay với cổ xe ngựa đời xưa.
Ðọc đoạn trên đây, chắc chắn tất cả bạn Ðạo đều muốn theo pháp môn Kriya Yoga. Nhưng quí
bạn hãy đọc đoạn chót và suy nghĩ kỹ lưỡng mấy câu sau đây :
“Chỉ có những người Yogi thuần thục đã được huấn luyện dưới sự chỉ dẫn của các vị Chơn Sư”.
Vậy thì trước khi thực hành pháp môn Kriya Yoga chúng ta phải tự hỏi chúng ta đã thành những
vị Yogi chính tông chưa ? Ðược Chơn Sư huấn luyện chưa ? Nếu chưa thì đừng tập. Phương pháp nầy
sẽ làm cho luồng Hỏa Hầu đi như tôi đã nói trước đây : Luồng Hỏa vô trong và đi xuống thì cũng bị
tai hại, mà nó đi lên cũng bị tai hại nếu lòng còn mơ tưởng nguyệt hoa.
Ðiều hay hơn hết là phải lo :
- Lánh dữ,
- Làm lành,
- Rửa lòng trong sạch đặng phụng sự như lời Phật dạy, khỏi sợ những sự nguy hiểm nào cả.
Một lẽ nữa, Paramhansa Yogananda tu theo pháp môn Kriya Yoga đã lâu rồi mà chưa đắc đạo
thành chánh quả làm một vị Siêu Phàm A Sơ Ca (Aseka). Bao nhiêu đây cũng đủ để thấy dầu ly gia
cắt ái như huynh Yogananda cũng không phải dễ mà thực hiện cho đúng pháp môn Kriya Yoga đâu.
Vì vậy chớ ham luyện tập theo Huyền Bí Học trong khi mình chưa hội đủ điều kiện đặng làm một
vị Yogi.
Tôi xin nói Kriya Yoga nầy khác hẳn Kriya Yoga trong quyển Những cách ngôn về Yoga của
Patanjali (Les Aphorismes du Yoga de Patanjali).

8- SHIVA YOGA.
Shiva Yoga dùng nguyên tắc Siêu hình học.
9- YANTRA YOGA.
Tham thiền về ý nghĩa thần bí của vài thứ hình của Kỷ Hà Học .
10- MUDRA YOGA.
Dùng ấn và chú.
11- RAJA YOGA.
Raja Yoga : Yoga Vương Giả, là Chúa Tể các thứ Yoga. Nó cao hơn hết. Nó chia làm tám giai
đoạn.

MANTRA YOGA

Sau khi xét tới bản chất của các Công năng Thiêng liêng vốn ẩn tàng
dưới danh xưng và hình tướng GĀYATRĪ Devì, giờ đây ta sẽ xét tới
GĀYATRĪ mantra. Nhờ vào GĀYATRĪ mantra, ta có thể thỉnh cầu và sử
dụng công năng của GĀYATRĪ Devì để phát triển tâm thức con người và
đạt tới mục tiêu tối hâậu của nỗ lực con người, đó là: sự Thực Chứng
Chơn Ngã. Nhưng trước khi thử ra sức khảo sát và tìm hiểu GĀYATRĪ
mantra, ta nên biết môật mantra thực sự là gì. Sự tham thiền GĀYATRĪ
(GĀYATRĪ upāsanā) hòa lẫn với kỹ thuâật Yoga trong các giai đoạn cao
siêu và không ai có thể thẩm định rốt ráo được các khía cạnh khác nhau
của GĀYATRĪ upāsanā mà thông thường không quen thuôậc với lý thuyết
và kỹ thuâật Yoga. Ngành Yoga đăậc thù vốn đăậc biêật có dính dáng tới sự
tham thiền GĀYATRĪ (GĀYATRĪ upāsanā) chính là Mantra Yoga. Ðiều
này giúp ích rất nhiều cho kẻ chí nguyêận, nhất là đối với kẻ sơ cơ. Nó
dường như là không quen thuôậc khi mang danh xưng “đao to búa lớn”
Mantra Yoga, nhưng mọi người đều hiểu sự tham thiền lâập đi lâập lại
(japa) Mantra Yoga cốt yếu là kỹ thuâật phát triển tinh thần bằng cách
thực hành japa.
Môật số rất lớn những người môậ đạo trên khắp thế giới thực hành japa
và phép thực hành này không bị hạn chế nơi những người Ấn Ðôậ như
môật số người lầm tưởng. Người Thiên Chúa giáo La Mã có phép lần
tràng hạt, còn người Hồi giáo có phép tasbeih. Nhưng nhiều người thực
hành japa môật cách khá máy móc mà không hiểu được lý thuyết hoăậc
kỹ thuâật của nó. Hâậu quả là họ chỉ có thể thành tựu được những kết quả
có tính cách khá hời hợt và hạn hẹp. Quả thâật là khi yếu tố sùng tín
mạnh mẽ và người ta thành khẩn nỗ lực sống trên đời, thì người ta vẫn
có thể tiến bôậ đáng kể mà không hiểu nhiều về lý thuyết japa. Ðiều này
không có nghĩa là kiến thức về Mantra Yoga thâật là vô ích và ta không
nên dùng trí thông minh của mình khi áp dụng kỹ thuâật đơn giản có
những lực mạnh mẽ đang hoạt động, chúng biểu hiêận ra măậc dù ta
không có được sự hiểu biết thích đáng. Môật người thợ máy vào nhà bạn
để sửa môật chiếc quạt điêận có thể dễ dàng xử trí môật công viêậc thông
thường, nhưng vì kiến thức của y có tính cách thực nghiêậm và hạn hẹp,
cho nên y không thể giải quyết được những vấn đề lớn lao và phức tạp
có dính dáng tói viêậc dùng điêận. Muốn giải quyết điều này cần phải có
môật kỹ sư điêu luyêận có đầy đủ kiến thức khoa học.
Mantra Yoga là môật đề tài có tầm mức khá rôậng lớn măậc dù chỉ có ít
nguyên lý cốt yếu làm nền tảng cho nó. Xung quanh kiến thức căn bản
và cốt yếu về khoa học, trải qua hàng thế kỷ, đã phát triển nên môật kho
tài liêậu rôậng lớn măậc dù khá tầm phào mà ta thường gọi là khoa học
Mantra (Mantra Shāstra). Trái với Mantra Yoga, Mantra Shāstra này có
liên quan chủ yếu với sự áp dụng khoa học để đạt được các mục tiêu cá
nhân và ích kỷ trong khi Mantra Yoga chỉ có môật mục tiêu duy nhất –
phát triển bản chất tinh thần của ta. Măậc dù các nguyên lý căn bản
được sử dụng trong Mantra Yoga và Mantra Shāstra đều như nhau và có
tính cách khoa học, song sự khác nhau căn bản về đôậng cơ thúc đẩy
khiến cho viêậc áp dụng các nguyên lý này khác nhau rất nhiều. Viêậc áp
dụng bất kỳ khoa học nào vì các mục đích cá nhân (và nhất là các mục
đích đôậc ác) bao giờ cũng có kèm theo đủ thứ điều nguy hiểm; và để
phòng ngừa ta cần phải dùng nhiều công cụ có thể giữ cho kẻ chí
nguyêận tránh khỏi các nguy hiểm đó. Vì lý do này, kỹ thuâật Mantra
Shāstra rất tỉ mỉ và cần tuân thủ rất nghiêm ngăật các quy tắc được đề
ra bởi những người đã soạn thảo ra các kỹ thuâật ấy. Trong kinh Purānas
có đề câập tới viêậc con quỷ Vritra (kẻ thù của Indra), vì thốt ra mantra
với môật sự lên xuống giọng (svara) sai lầm, đã tự giết mình thay vì giết
kẻ thù. Ðối tượng của môật mantra càng cao siêu và càng có tính cách
tinh thần, thì kỹ thuâật càng đơn giản và viêậc sử dụng nó môật cách thông
minh càng ít nguy hiểm. Ta cần phải lưu ý từ “môật cách thông minh” vì
ngay cả viêậc dùng các mantras như Pranava (âm tiết linh thiêng Om)
cũng đòi hỏi phải tuân theo môật vài điều kiêận măậc dù các điều kiêận này
thuôậc môật loại khác. Dù sao đi nữa, vì ta đang bàn tới đề tài Mantra
Yoga, nhất là liên quan tới Japa trong GĀYATRĪ, cho nên ta không cần đi
sâu vào các vấn đề này ở đây.
Giáo lý căn bản làm nền tảng cho Mantra Yoga, đó là: tất cả vũ trụ
rắn chắc và hữu hình mà ta thấy xung quanh ta chẳng qua được tạo
thành bởi đủ thứ rung đôậng và năng lượng hoạt đôậng ở các mức đôậ khác
nhau. Những sự viêậc vốn dường như rắn chắc và có thực xiết bao,
không giống như dáng vẻ bên ngoài của chúng, mà chỉ là kết quả tương
tác của đủ thứ năng lượng và tâm thức. Ðiều này dường như là môật
giáo lý hoang đường chỉ mới cách đây môật nửa thế kỷ khi người ta coi
như vâật chất được tạo thành bởi các nguyên tử vâật chất bất hoại. Nhưng
sự tiến bôậ của khoa học - nhất là của vâật lý học và hóa học trong thế kỷ
này – đã bổ chứng cho giáo lý này hầu như là trọn vẹn môật cách rất bất
ngờ. Những điều khám phá về bản chất của nguyên tử đã làm thay đổi
hoàn toàn ý tưởng của ta về vâật chất và giờ đây, ta coi như toàn thể vũ
trụ vâật lý không phải là môật khối các nguyên tử cứng rắn bền chắc, mà
là môật sự tác dụng phi thường của đủ thứ năng lượng. Các khoa học gia
đã tìm thấy rằng điều dường như là môật vũ trụ hữu hình đối với các giác
quan, té ra hầu như là không gian trống rỗng. Người ta đã tính toán
rằng nếu mọi nguyên tử hiêận diêận trong cơ thể môật người được tụ tâập
lại và mọi không gian trống rổng trong các nguyên tử này đều bị loại trừ
thì ta sẽ thu được chỉ môật chấm nhỏ đến nỗi mà muốn thấy được nó thì
cần phải có môật kính lúp. Và ngay cả chấm vâật chất này cũng chỉ có thể
bao gồm năng lượng theo công thức nổi tiếng của Einstein E=mc²; công
thức này chứng tỏ rằng vâật chất và năng lượng có thể chuyển đổi lẫn
cho nhau. Ðến nỗi mà ta có thể coi hầu như đã chứng tỏ được rằng vâật
chất hồng trần thực tế chẳng qua chỉ là môật tác dụng đa tạp của đủ thứ
năng lượng ở các mức đôậ khác nhau. Các vị Rishis đã đi sâu thêm nữa
vào vấn đề cấu tạo vũ trụ này; nhờ vào các quyền năng siêu phàm của
mình, các Ngài đã khám phá ra rằng các yếu tố vô hình của vũ trụ (như
tư tưởng và cảm xúc) vẫn có môật cơ sở vâật chất – ta dùng từ “vâật chất”
theo nghĩa rôậng nhất – nhưng vâật chất tinh vi mà chúng tác đôậng
thông qua đó cũng có bản chất cốt yếu chỉ là môật khối rung đôậng và là
tác dụng của đủ thứ năng lượng. Khi khảo cứu rốt ráo, người ta cũng
tìm thấy rằng các thế giới tinh vi – mà kho tài liêậu tôn giáo của ta
thường gọi là sūkshma lokas – vốn dựa vào đủ thứ rung đôậng và năng
lượng. Các hôậi nghiên cứu tâm linh đã tiến hành khảo cứu khoa học hiêận
tượng truyền tư tưởng và điều này đã chứng tỏ rằng các tư tưởng cũng
rất có thể là có bản chất rung đôậng; nhưng từ lâu rồi, các huyền bí gia
đã thừa biết sự kiêận này và đã sử dụng nó để truyền thông với nhau và
để làm những viêậc khác.
Những sự khảo cứu thêm nữa bằng các phương pháp Yoga cho thấy
rằng chẳng những mọi thế giới biểu lôậ đều dựa vào các rung đôậng và đủ
thứ năng lượng, mà mọi rung đôậng này còn có liên hêậ với nhau và có
thể được truy nguyên từ môật giai đoạn tinh vi này cho tới môật giai đoạn
khác mãi đến khi chúng chấm dứt nơi môật rung đôậng sơ cấp, căn bản,
trùm khắp – ta có thể coi như mọi rung đôậng cấu thành vũ trụ biểu lôậ
bắt nguồn từ rung đôậng này. Mối liên hêậ của các rung đôậng cấu thành
khác nhau này đối với rung đôậng căn bản nhất như cũng chẳng khác
nào mối liên hêậ của các lá và cành của môật cái cây đối với thân cây.
Ngay cả trong lãnh vực khoa học hiêận đại, ta đang dần dần ý thức được
rằng mọi khoa học đều có liên quan với nhau và thực ra đều thoát thai
từ khoa học cơ bản duy nhất bao hàm và bao trùm tất cả.
Khoa học đã không thể phát hiêận hoăậc phân loại mọi rung đôậng hoạt
đôậng ngay cả trên cõi hồng trần và có lẽ sẽ chẳng bao giờ có thể làm
được điều này vì chúng thâật là phức tạp và tinh vi. Vì vâậy, ta chẳng thể
nào hy vọng dùng các phương pháp thông thường để khảo sát trọn vẹn
được các rung đôậng cực kỳ phức tạp và tinh vi hoạt đôậng trên mọi cõi –
hồng trần và siêu hồng trần. Thế thì bằng cách nào mà ta có thể biết
được chúng đều thoát thai từ môật nguồn duy nhất ? Chỉ có môật cách
duy nhất để biết được – môật cách rốt ráo và theo đúng nghĩa – bất cứ
điều gì có bản chất tinh vi, đó là: siêu viêật được nó trong tâm thức ta.
Ðể biết được Māya là gì, ta phải siêu viêật được sự hão huyền của nó. Ðể
biết được Nghiêập là gì, ta phải vượt lên trên sự vâận hành của nó bằng
cách trở nên không còn Nghiêập. Tương tự như vâậy, để biết được bản
chất của rung đôậng cơ bản này – nó vốn bao gồm mọi rung đôậng khác
và là nền tảng của vũ trụ biểu lôậ – ta cần dùng các phương pháp Yoga
để siêu viêật được thế giới mà nó tạo ra trong tâm thức ta. Chỉ khi thực
hiêận được điều này thì bâậc Cao đồ mới có thể biết được bản chất của cái
rung đôậng cơ bản mà ta gọi là Nāda và các khía cạnh Thực tại Tối hâậu
mà Nāda được tạo ra trong đó và bởi đó, nghĩa là Shabda Brahman.
Trong thuyết Mantra Yoga có môật sự kiêận khác mà ta phải thấu hiểu,
đó là: rung đôậng là nền tảng của hình tướng – ta dùng từ “hình tướng”
theo nghĩa rôậng nhất. Vũ trụ biểu lôậ có đầy dẫy vô số và đủ thứ hình
tướng mà ta nhâận biết được bằng các giác quan vâật lý và siêu vâật lý.
Mỗi môật trong các hình tướng này được tạo ra bằng rung đôậng và có thể
bị biến đổi bằng cách thay đổi rung đôậng. Ðiều này đăậc biêật đúng đối
với các hình tướng vốn có tính cách tự nhiên và được tạo ra theo môật
kiểu mẫu bởi các lực Tự nhiên vốn hoạt đôậng đằng sau chúng, chẳng
hạn như môật cái cây, môật cơ thể con người hoăậc môật thái dương hêậ. Các
hình tướng có bản chất nhân tạo – vốn được tạo ra do sự tương tác
ngẫu nhiên của các lực tự nhiên hoăậc thông qua tác nhân con người –
thuôậc về môật phạm trù khác. Măậc dù các hình tướng này được duy trì do
sự tương tác của các lực và rung đôậng diễn ra giữa các nguyên tử cấu
thành, song không có rung đôậng bao trùm tách rời khỏi các lực này như
trong trường hợp các cơ thể sống.
Ta có thể minh họa tuyêật vời viêậc “rung đôậng có thể tạo ra các hình
tướng” bằng cách kéo môật cái cung cứa vào cạnh của môật bản mỏng
trên đó có rắc môật số cát. Rung đôậng do cái cung tạo ra hất tung các
hạt cát lên và khi các hạt cát này an vị, thì các kiểu mẫu đẹp đẽ được
tạo thành tùy theo bản chất của rung đôậng. Những kiểu mẫu này được
gọi là các Hình Chladni. Nhiều thí nghiêậm được tiến hành ở cả Ấn Ðôậ và
Châu Ấu đã chứng tỏ rằng các rung đôậng mà các nhạc cụ tạo ra có thể
tạo các hình tướng trên môật màn ảnh, hình tướng này tùy thuôậc vào týp
âm nhạc đăậc thù được tạo ra. Thâật vâậy, người ta tin rằng viêậc biểu diễn
đủ thứ hêậ thống âm giai trưởng và thứ (rāgas và rāginis) trong âm
nhạc Ấn Ðôậ bằng đủ thứ hình tướng xác định, vốn dựa vào viêậc dùng
thần nhãn để quan sát các hình tướng như thế. Dù sao đi nữa, những
khảo cứu huyền bí học – khoa học mantras dựa vào những khảo cứu
này – đã chứng tỏ rằng đằng sau mọi hình tướng sống đôậng đều có môật
rung đôậng đăậc thù vốn giữ cho các thành phần khác nhau của hình
tướng cố kết lại với nhau thành ra môật tổng thể hữu cơ; khi rung đôậng
đó không còn nữa thì hình tướng rã rời tan nát. Anāhata shabda (âm
thanh mâật niêậm) - mà các kẻ chí nguyêận của môật vài trường phái thần
bí học nghe thấy – là môật rung đôậng như thế. Các rung đôậng này không
nhất thiết diễn ra trên cõi hồng trần. Chúng có thể diễn ra trên các cõi
khác nhau, bản chất của chúng tùy thuôậc vào bản chất của hình tướng
và sự sống vốn làm linh hoạt hình tướng. Cấu tạo giải phẫu của các cơ
thể siêu hồng trần vốn tinh vi và khó hiểu đối với tâm thức óc phàm đến
nỗi mà ta không thể hy vọng làm gì hơn là chỉ thoáng thấy được các
nguyên lý tổng quát. Nhưng măậc dù không thể hiểu được các chi tiết, ta
không nên lầm tưởng rằng các hình thể tinh vi này hoạt đôậng môật cách
ngẫu nhiên. Quy luâật ngự trị tối cao trong mọi địa hạt của vũ trụ biểu
lôậ, và mọi hiêận tượng tự nhiên với chi tiết tỉ mỉ nhất đều bị quy luâật chi
phối, măậc dù các phép lạ đôi khi dường như có thể xảy ra. Các Cao đồ
huyền bí học – vốn tạo ra cái gọi là các phép lạ – chỉ sử dụng các quy
luâật mà ta không biết. Ngay cả các vị này cũng không vượt trên điều tất
yếu là hoạt đôậng theo các quy luâật Tự Nhiên.
Môật nguyên lý quan trọng khác mà ta phải hiểu khi xét tới thuyết
Mantra Yoga đó là: rung đôậng chẳng những là nền tảng của hình tướng
mà cũng cần thiết cho sự biểu lôậ tâm thức. Cách thức đơn giản nhất
khiến ta có thể hiểu được mối quan hêậ này giữa rung đôậng và tâm thức,
đó là: nghiên cứu sâu sắc cơ chế cảm giác, bằng cách nào mà tâm thức
ngự bên trong nhâận biết được ngoại giới xung quanh ta thông qua các
giác quan. Ðây chỉ là vấn đề kiến thức khoa học, theo đó ta tri thức
được ngoại giới thông qua đủ thứ rung đôậng. Các rung đôậng ánh sáng
tạo ra các cảm giác nhìn thấy, các rung đôậng âm thanh tạo ra cảm giác
nghe thấy v..v.. Nếu những rung đôậng này bị cắt bỏ hoàn toàn, thì sự
biểu lôậ của tâm thức trên cõi hồng trần sẽ không còn nữa và tâm thức
sẽ triêật thoái vào trong thể tinh vi kế tiếp chẳng hạn như trong trường
hợp ngủ, tê mê hoăậc giai đoạn tối hâậu của Yoga (samādhi). Ðây là môật
đề tài khá phức tạp bao hàm nhiều ngành khoa học chẳng hạn như sinh
lý học, tâm lý học, vâật lý học v...v...và ở đây ta không thể hoăậc không
cần đi sâu thêm nữa vào chi tiết. Sự kiêận cơ bản mà ta phải thấu hiểu
và ghi nhớ, đó là: rung đôậng, hình tướng và tâm thức đều có liên quan
rất mâật thiết với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau theo đủ mọi kiểu. Mối liên
hêậ này giữa ba thứ bắt rễ nơi tiến trình sơ cấp biểu lôậ từ Thực tại và vì
vâậy trí năng (vốn bị hão huyền ràng buôậc) khó lòng thấu hiểu được.
Như ta đã nêu rõ rồi, toàn thể vũ trụ biểu lôậ cốt yếu là kết quả của môật
rung đôậng bao hàm và bao trùm tất cả tên là Nāda. Bằng cách biến
phân và chia nhỏ ra thêm nữa, rung đôậng tinh vi nhất này làm nảy sinh
ra đủ thứ rung đôậng vốn làm nền tảng cho mọi hiêận tượng Tự Nhiên và
tạo ra đủ thứ hình tướng. Những hình tướng này – với đủ thứ mức đôậ
phức tạp, được kiến tạo bởi các diễn trình tiến hóa lâu dài – cung ứng
các hiêận thể cho tâm thức và khiến cho nó có thể hoạt đôậng trên các cõi
khác nhau theo đủ thứ kiểu cách, ảnh hưởng tới hoăậc bị ảnh hưởng bởi
hiêận tượng của các cõi này. Như vâậy, ta ắt thấy toàn thể vũ trụ biểu lôậ
chính là môật sự tương tác của ba thực tại hiêận tồn căn bản này mà bình
thường ta không thể tách rời chúng ra khỏi nhau được.
Khi đã hiểu rõ được những ý tưởng cơ bản này, ta có thể hiểu thấu
thuyết Mantra Yoga đến môật chừng mực nào đó. Nếu rung đôậng có liên
quan tới cả hình tướng lẫn tâm thức – như ta đã nêu rõ ở các chương
trước – thì nhờ vào rung đôậng, môật măật ta có thể tạo ra đủ thứ hiêận
tượng tự nhiên, măật khác ta có thể gây ra những thay sự thay đổi về
tâm thức. Mantra Shāstra là môật khoa học trong đó người ta dùng các
mantras để tạo ra môật vài kết quả chuyên biêật có tính cách thế tục.
Chẳng những ta có thể phát triển môật vài thần thông (tức siddhis) nhờ
vào các mantras – điều này được rõ trong Yoga Sūtras (IV-1), mà ta
còn có thể tạo ra các hiêận tượng có tính cách tầm phào nhất. Kho tài
liêậu Tantra đầy dẫy những mantras như thế. Khoa học này chẳng có gì
mang tính chất tâm linh. Nó cũng giống hêật như bất kỳ khoa học nào
khác trong đó ta có thể sử dụng các quyền năng ẩn tàng trong môật vài
tổ hợp âm thanh theo nhiều cách khác nhau, đôi khi vì những mục đích
ích kỷ và đôậc ác. Nhiều phép thực hành tà thuâật vốn dựa vào viêậc sử
dụng môật vài mantras.
Măật khác Mantra Yoga là cái ngành Yoga trong đó người ta sử dụng
các quyền năng ẩn tàng trong môật vài tổ hợp âm thanh để phát triển
tâm thức con người. Japa (nghĩa là viêậc lâập đi lâập lại các mantras về
măật hồng trần hoăậc tâm trí) tạo ra các rung đôậng trên các cõi khác
nhau; các rung đôậng này ảnh hưởng tới các hiêận thể (tức koshas) của
kẻ chí nguyêận và những thay đổi được tạo ra trong các hiêận thể khiến
cho kẻ chí nguyêận có thể đạt tới các lớp tâm thức sâu thẳm của mình.
Các rung đôậng từ từ sắp xếp lại vâật chất của các hiêận thể khác nhau, và
làm cho các hiêận thể này hài hòa đến nỗi mà các trạng thái tâm thức
mới mẻ có thể biểu lôậ thông qua các hiêận thể đó.
Cần nhớ rằng tâm thức vĩnh hằng của Ðấng Tối Cao lúc nào cũng đâập
vào các bức vách của tâm trí chúng ta ở khắp nơi, và chỉ có tính không
thụ cảm hoăậc thiếu nhạy cảm của các hiêận thể mới ngăn cản chúng
không giảm hạ tâm thức này (ít ra là môật phần nào) đưa xuống các cõi
thấp. Chúng ta giống như các máy thu thanh đắm mình trong môật biển
sóng điêận xuất phát từ các đài phát thanh trên khắp thế giới. Ta có thể
bắt được bất kỳ tâập hợp các làn sóng nào mà ta có thể chỉnh hợp được.
Nhưng các máy thu thanh của ta thường có môật phẩm chất rất tồi vì
thiếu phát triển hoăậc cho dù chúng có phẩm chất tốt thì chúng cũng
không được hiêậu chỉnh môật cách thích đáng. Như vâậy, chúng chỉ có thể
được “chỉnh hợp” với các trạng thái tâm thức và tư tưởng thông thường.
Các trạng thái tâm thức tinh vi hơn ở ngoài tầm của chúng. Vấn đề tu
thân (sādhana) chính là tẩy trược và làm cho hài hòa mọi hiêận thể sao
cho chúng có thể được chỉnh hợp với các trạng thái tâm thức cao siêu
cùng với mọi vẻ đẹp, sự minh triết, sự an bình và chí phúc (ānanda) của
chúng. Mantra Yoga là môật trong nhiều phương pháp khiến cho ta có
thể tạo ra được điều này. Cũng có những phương pháp khác mà ở đây
ta không quan tâm tới.
Sau khi xét tới những nền tảng lý thuyết tổng quát của Mantra Yoga,
giờ đây ta có thể quan tâm tới vấn đề chuyên biêật bản chất của các
mantras và chúng được sử dụng như thế nào trong viêậc phát triển các
lớp sâu thẳm của tâm thức con người. Từ “mantra” có nhiều hàm ý.
Nhưng ở đây nó được dùng để chỉ bất kỳ tổ hợp âm thanh đăậc thù nào
mà viêậc lăập lại có thể tạo ra môật vài kết quả xác định. Ta cũng sẽ không
kể đến tất cả mọi mantras nào nhắm tới viêậc tạo ra những kết quả có
liên quan với các mục tiêu trần tục (dù là tốt hay xấu), mà sẽ chỉ hạn
chế vào các mantras vốn có các mục tiêu thuần túy tâm linh và vì vâậy
đuợc dùng trong viêậc tu thân (sādhana). Tóm lại, ta có thể nói rằng
mục tiêu của mọi mantras như thế chính là viêậc tẩy trược và làm cho
hài hòa các hiêận thể của kẻ chí nguyêận sao cho chúng trở nên càng
ngày càng bén nhạy với các lớp tinh vi của tâm thức tinh thần chính y.
Khi y bước vào tiếp xúc với các lớp này, y trở nên càng ngày càng tri
thức được các Thực tại mà tâm thức chính y là môật biểu hiêận riêng
phần.
Các mantras được xây dựng như thế nào ? Ðâu là bản chất cốt yếu
của chúng ? Vì môật mantra cốt yếu là môật tổ hợp các âm thanh và các
âm thanh có thể được biểu diễn bằng bôậ mẫu tự của môật ngôn ngữ, cho
nên các mantras được xây dựng bằng cách sắp xếp các chữ của bôậ mẫu
tự theo môật vài chuyển vị và tổ hợp với những chỉ định cần thiết để
phát âm môật cách đúng đắn và chính xác. Hiển nhiên là điều này chỉ có
thể được thực hiêận bởi môật người nào biết được các tính chất tinh vi của
các âm thanh khác nhau tương ứng với các chữ của bôậ mẫu tự, nhất là
các tính chất của đủ thứ chuyển vị và tổ hợp của các âm thanh này. Ðó
là vì các tính chất hoăậc các hiêậu quả do tổ hợp của các chữ này tạo ra
không phải là trung bình số học của các tính chất của các chữ riêng lẽ,
cũng như các tính chất của môật hợp chất hóa học không phải là trung
bình số học của các tính chất của các nguyên tử cấu thành. Carbon,
hydrogen và nitrogen đều là các thành phần thông thường của hầu hết
các hợp chất vốn tham gia vào chế đôậ ăn uống hằng ngày của ta, nhưng
tổ hợp đăậc thù của ba nguyên tố này – mà ta biết là acid hydrocyanic –
là môật chất đôậc gây chết người. Như vâậy, chẳng ai có thể tiên đoán
được hiêậu quả do môật vài tổ hợp âm thanh tạo ra mà không thí nghiêậm
và khảo cứu rốt ráo. Và những thí nghiêậm này phải được thực hiêận
chẳng những trên cõi hồng trần, mà còn trên các cõi siêu hồng trần, sao
cho ta có thể xác định được hiêậu quả tổng côậng được tạo ra đối với các
hiêận thể của kẻ chí nguyêận. Các hiêậu quả của môật mantra càng sâu
đâậm, thì chúng càng mất nhiều thời giờ để xuất hiêận trong cuôậc đời của
kẻ chí nguyêận, nhưng các sự biến đổi ắt lâu bền và có tính cách cơ bản.
Từ những điều nêu trên, ta ắt thấy rằng chỉ các Cao đồ và Huyền bí gia
vĩ đại – các cõi tinh vi của thái dương hêậ ta hiêận ra trước linh thị nội giới
của các Ngài giống như môật quyển sách mở ngỏ – mới có thể xây dựng
được các mantras. Chỉ những người nào có thể biết được hiêậu quả của
các âm thanh và tổ hợp của chúng trên mọi cõi, mới có đủ tư cách xây
dựng các mantras và truyền các mantras này lại cho những kẻ nào bản
thân vốn không thể thấy được các hiêậu quả nêu trên mà lại có thể thu
được lợi ích bằng cách sử dụng các mantras ấy. Các vị Cao đồ như thế
được gọi là các Rishis. Các vị Cao đồ đăậc thù vốn đã phát hiêận hoăậc xây
dựng môật mantra sau khi đã khảo cứu đạt yêu cầu hoăậc khổ hạnh sùng
tín (tức tapasya) được gọi là vị Rishi của mantra đăậc thù đó.
Như ta đã nêu rõ trước kia, môật mantra là môật tổ hợp đăậc thù của
môật vài chữ trong bôậ mẫu tự Bắc Phạn được sắp xếp theo môật cách nào
đó để tạo ra môật kết quả chuyên biêật. Mỗi môật trong các chữ thành
phần này – vốn tiêu biểu cho môật âm thanh đăậc thù – đều có môật công
năng hoăậc mãnh lực nào đó vốn cố hữu nơi nó cũng giống như môật vài
tính chất vốn cố hữu nơi mọi loại nguyên tử hóa học. Các công năng
chuyên biêật này liên kết với các chữ (hoăậc đúng hơn là các âm thanh
mà chúng tiêu biểu) vốn bắt rễ nơi cõi cao nhất của thái dương hêậ và vì
vâậy có thể hoạt đôậng trên mọi cõi cấu thành thái dương hêậ. Người ta ra
sức truyền đạt ý tưởng này trong giáo lý nổi tiếng, theo đó các chữ của
bôậ mẫu tự Bắc Phạn xuất phát từ cái trống (damaru) của Shiva. Cái
trống của Shiva là môật biểu tượng của rung đôậng âm thanh nguyên
thủy (Nāda) vốn là nền tảng của vũ trụ biểu lôậ; phát biểu theo đó các
chữ xuất phát từ damaru, thực sự có nghĩa là các công năng tinh vi (cố
hữu nơi các âm thanh tương ứng) bắt rễ nơi các Ðại Công năng (tức
Shakti) vốn duy trì các thế giới đang biểu lôậ thông qua mãnh lực của cái
âm thanh bí nhiêậm tên là Nāda. Từ điều nêu trên, ta không nên để cho
mình lầm tưởng rằng tiếng Bắc Phạn là môật ngôn ngữ được ưu đãi và có
môật địa vị đăậc biêật nào đó trong hêậ thống thiết kế Tự Nhiên. Các công
năng tinh vi chuyên biêật ở nơi các âm thanh do các chữ tạo ra chứ
không phải là các biểu tượng được dùng thay cho các âm thanh. Người
ta đề câập tới bôậ mẫu tự tiếng Bắc Phạn vì các vị Rishis – vốn triển khai
khoa học này – đã làm viêậc và thí nghiêậm với bôậ mẫu tự của ngôn ngữ
này.
Vì trong bôậ mẫu tự tiếng Bắc Phạn có 52 chữ và các chữ này có thể
được sắp xếp theo đủ thứ kiểu cách, cho nên ta có thể tạo ra hầu như là
vô số hiêậu quả nhờ vào các mantras. Do đó, bất cứ người nào biết được
các mãnh lực cố hữu nơi các âm thanh do các chữ này tạo ra đều có
trong tầm tay của mình môật công năng ghê gớm. Nhưng vì các hiêậu quả
được tạo ra bởi môật sự chuyển vị và tổ hợp nào đó của các chữ không
phải là tổng số của các hiêậu quả được tạo ra bởi các chữ cá biêật, cho
nên khoa học này không dễ dàng như dáng vẻ biểu kiến của nó; muốn
tạo ra môật hiêậu quả được xác định trước thì ta cần phải hiểu biết sâu
sắc về các cõi tinh vi và cần phải thí nghiêậm kỹ lưỡng. Ðây là môật đề tài
rất phức tạp không dễ hiểu, nhất là vì kiến thức thuần túy đã bị trôận lẫn
với nhiều phép thực hành bất hảo và nguy hiểm cũng như là trò hỏa
mù. Ở đây, mục đích của ta chỉ là thấu hiểu các nguyên tắc cơ bản làm
nền tảng sao cho ta có thể hiểu được kỹ thuâật lăập đi lăập lại tham thiền
(japa).
Giờ đây, ta xét tới viêậc dùng các mantras trong sự thực hành tâm
linh. Ðây là môật đề tài khó hiểu bao hàm kỹ thuâật Yoga và ở đây ta
không thể bàn tới nó môật cách rốt ráo; nhưng vì sự tham thiền
GĀYATRĪ (GĀYATRĪ upāsanā) phần lớn có nghĩa là sự lăập đi lăập lại
(japa) của GĀYATRĪ mantra, cho nên ta có thể bàn môật cách ngắn gọn
tới các nguyên lý làm nền tảng cho japa.
Japa là viêậc lăập đi lăập lại môật mantra đã chọn sẵn với mục đích tạo ra
môật vài sự thay đổi trong tâm trí ta; về lâu về dài, những sự thay đổi
này có kết quả là tạo ra sự du nhâập các công năng và thần lực từ các
cõi cao cũng như là các kinh nghiêậm về các trạng thái tâm thức cao
siêu. Mantra có thể được thốt ra lớn tiếng, thì thầm lăậng lẽ hoăậc lăập đi
lăập lại trong trí. Viêậc lăậng lẽ lăập đi lăập lại vốn hữu hiêậu hơn viêậc thốt ra
lớn tiếng, nhưng viêậc lăập đi lăập lại hoàn toàn trong trí có hiêậu quả cao
nhất và là japa theo nghĩa chân thực của từ này. Những âm thanh vâật lý
được thốt ra lớn tiếng tác đôậng lên thể xác, những âm thanh được thốt
ra lăậng lẽ tác đôậng lên thể phách (tức pranamaya kosha). Viêậc lăập đi lăập
lại mantra (có ý nghĩa) trong trí tự nhiên là tác đôậng lên tâm trí. Japa
lớn tiếng và lăậng lẽ thâật là dễ hiểu, nhưng người ta thấy thâật là khó hiểu
sự lăập đi lăập lại (japa) trong trí nghĩa là gì ?
Japa trong trí có nhiều giai đoạn. Nó bắt đầu với viêậc lăập đi lăập lại
mantra trong trí, tâm trí chỉ có ý thức về các âm thanh được tạo ra.
Trong giai đoạn thứ hai, ý nghĩa của mọi từ được khơi dâậy trong tâm trí
cùng với âm thanh của từ. Trong giai đoạn thứ ba, toàn thể ý tưởng làm
nền tảng cho mantra thế chỗ cho ý nghĩa của các từ riêng rẽ. Ý tưởng
trùm khắp là môật điều gì đó khác hẳn chuỗi ý nghĩa mà các từ liên tiếp
khơi dâậy. Ta ắt ý thức được điều này nếu ta ra sức tách rời hoàn toàn ý
tưởng trùm khắp ra khỏi các từ và siêu viêật được sự hạn chế của ngôn
ngữ. Thoạt đầu, khi ta lăập đi lăập lại mantra trong trí thì ý tưởng trùm
khắp làm nền tảng cho mantra cứ xuất hiêận đi xuất hiêận lại; nhưng nhờ
viêậc thực hành và định trí, ý tưởng trở nên ít nhiều cố định trong tâm trí
và cứ hiêận diêận hoài hoài. Trong giai đoạn này, mantra được lăập đi lăập
lại trong trí, nhưng các từ hoàn toàn ở nơi hâậu trường của tâm trí và
được dùng vào cùng loại mục đích với các nốt nhạc trổi lên trên môật
tānpura khi người ta hát ra tiếng môật bài ca Ấn Ðôậ. Ðây là mức tối đa
mà kẻ chí nguyêận thông thường có thể đạt được trong viêậc thực hành
japa; nếu y hoàn thành các điều kiêận khác mà người ta đề câập sau này,
thì y có thể thu được lợi ích đáng kể và tiến rất gần tới mục đích của
mình. Nhưng nếu y quyết tâm đạt tới mục tiêu của mình chỉ nhờ vào
Mantra Yoga không thôi, thì y cần phải có thêm môật điều gì nữa; điều
này cốt ở viêậc siêu viêật được ý tưởng tồn tại trên cõi tâm trí và bước vào
tiếp xúc với thực tại đằng sau mantra vốn vượt ngoài tầm của tâm trí.
Chính ở đây mà y bước vào địa hạt Yoga.
Trong Yoga Sùtras của Patanjali (I-42 và 43), người ta có nói bóng
gió tới tiến trình siêu viêật (hoăậc vượt ngoài tầm) tâm trí này.

“Tatra sabdārtha-jnāna-vikalpaih samkīrnā savitarkā”


“Savitarka Samādhi là trạng thái samādhi trong đó kiến thức (vốn chỉ
dựa vào từ ngữ), kiến thức thực sự và kiến thức thông thường (vốn dựa
vào nhâận thức giác quan hoăậc lý luâận) hiêận diêận trong môật trạng thái
hổn hợp và tâm trí luân phiên chuyển dịch giữa ba loại kiến thức này”.

“Smrti parisuddhau svarūpasnyevārtha-mātranirbhāsā nirvitarkā”.


“Người ta đạt tới Nirvitarka Samādhi khi đã làm sáng tỏ trí nhớ, khi
tâm trí có thể nói là mất đi bản chất cốt yếu của nó, và chỉ riêng kiến
thức thực sự về đối tượng chiếu sáng (thông qua tâm trí).
Ta không thể đi sâu vào các chi tiết của vấn đề này – nó vốn có dính
dáng tới giai đoạn sơ khởi của samādhi – nhưng ta có thể trình bày
(môật cách ngắn gọn) môật ý tưởng tổng quát về tiến trình này. Có ba
điều dính dáng tới japa trong trí. Ðiều thứ nhất là các từ của mantra và
các ý nghĩa của chúng. Ðiều thứ hai là ý tưởng vốn đôậc lâập với các từ
hoăậc là ý nghĩa. Ðiều thứ ba chính là thực tại vốn là đối tượng của japa.
Khi các từ và ý nghĩa của chúng (được gọi là shabda trong câu kinh I-
42) hoàn toàn lui vào trong hâậu trường và chỉ có ý tưởng chiếm lĩnh
trong tâm thức, thì người ta đạt tới giai đoạn mà đoạn văn vừa qua có
đề câập tới. Khi chẳng những các từ và ý nghĩa biến mất ra khỏi tâm
thức, mà tâm thức của kẻ chí nguyêận còn trở nên dung hợp với ý tưởng
đến nỗi mà y không còn có ý thức về bản thân nữa, thì người ta đạt đến
giai đoạn mà câu kinh I-43 có đề câập tới. Trong giai đoạn này, thực tại
– vốn là mục tiêu của mantra – ló dạng trong tâm thức và người ta đạt
đến giai đoạn cuối cùng. Ðây chính là cái gọi là mantra-siddhi (thực
chứng nhờ vào mantra).
Măậc dù ta không thể truyền đạt các sự viêậc này thông qua các từ
ngữ, song ta có thể minh họa tiến trình này môật cách bất toàn bằng
cách xét tới mantra nổi tiếng. “Om Namah Shivāya (Om, kính chào
Ðấng Siva). Môật kẻ chí nguyêận có thể lăập lại mantra này trong trí mà
không chú ý tới ý nghĩa của các từ. Hoăậc là y có thể nhớ lại ý nghĩa của
mỗi từ riêng biêật khi y lăập đi lăập lại nó vào lúc japa trong trí. Hoăậc là y
có thể ra sức khơi dâậy trong tâm trí mình thái đôậ hoàn toàn hiến dâng
bản thân cho Ðấng Chúa Tể mà toàn thể mantra tiêu biểu. Khi y có thể
làm điều này và – trong môật chừng mực nào đó – có thể tách rời ý
tưởng trùm khắp này ra khỏi các từ và ý nghĩa của chúng, thì y đang ở
vào địa vị tiến bước cuối cùng. Ðiều này trước hết loại trừ ra khỏi tâm
trí y – môật cách hoàn toàn – các từ và ý nghĩa của chúng, rồi đến loại
trừ ý thức về “Bản Ngã”. Khi y có thể làm như vâậy môật cách thành công
và hạ trí đã bị diêật trừ (tạm gọi như vâậy), thì trong tâm trí chỉ có trạng
thái (bhāva) hoàn toàn hiến dâng bản thân, và viêậc hoàn toàn hiến
dâng bản thân có nghĩa là tri thức về Ðấng mà tâm trí được hiến dâng
lên. Ðiều này có thể có dạng môật darsana (linh ảnh) hoăậc chỉ là môật tri
thức trực tiếp – ở đủ thứ mức đôậ – về cái Thực tại mà ta gọi là Siva, tùy
thuôậc vào tính khí và các tích lũy kinh nghiêậm (samskāras) trước kia
cũng như là tình trạng tiến hóa của kẻ chí nguyêận.
Vì vâậy ta ắt thấy rằng trong các giai đoạn cao siêu của Mantra Yoga,
sự lăập đi lăập lại (japa) theo nghĩa thông thường không còn nữa và kẻ chí
nguyêận nhâập vào môật loại samādhi. Chỉ trong những giai đoạn sơ khai
thì japa theo nghĩa thông dụng mới được dùng trên con đường Mantra
Yoga. Nó hòa lẫn với Rāja Yoga trong giai đoạn cuối cùng. Ðiều này thâật
là rõ ràng khi xét theo các câu kinh II-44 và II-45 trong Yoga-Sūtras.
Ta nên lưu ý rằng ý nghĩa chính thống của svādhyāya chính là japa, còn
Īshvara pranidhāna có nghĩa là hiến dâng bản thân cho Ðấng Thiêng
liêng đã được chọn lọc (Ishta Devatā) của mình.
Ta cũng sẽ thấy mối quan hêậ của bốn giai đoạn này của japa với bốn
loại Vāk (từ). Vāk có 4 loại: vaikharì, madhyamā, pashyanti và parā.
Loại thứ nhất là loại thấp nhất hoăậc thô trược nhất, loại mà ta dùng
trong ngôn ngữ thông thường. Loại cuối cùng là loại cao nhất, có liên
quan tới trạng thái tâm thức siêu tâm trí và vượt ngoài tầm óc tưởng
tượng của con người. Xét về japa, điều quan trọng nhất mà kẻ sơ cơ cần
nhớ, đó là: nó không chỉ là viêậc máy móc lăập đi lăập lại môật công thức
hoăậc môật danh hiêậu. Nó có nghĩa là sự phân cực mọi công năng của cá
nhân hướng về môật mục tiêu xác định và thực hiêận được môật mục đích
xác định. Vì công năng của mỗi chữ trong môật mantra rốt cuôậc bắt
nguồn từ cõi cao nhất, cho nên nó có thể ảnh hưởng tới mọi cõi, từ cõi
hồng trần cho tới cõi Niết Bàn. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra nếu
mọi hiêận thể đều tham dự vào hành đôậng chung. Nếu người ta muốn
thành tựu được phát tâm chí nguyêận và ý chí tinh thần, tất cả phải hoạt
đôậng, phải lôi kéo người ta đi theo môật hướng. Phản tác đôậng theo sau
tác đôậng và tương đương với nó; chính vị sādhaka phải phát khởi tác
đôậng trên bất kỳ cõi nào, nếu y muốn thu được mantra. Nếu y khơi dâậy
các xúc cảm của mình đối với Ishta Devatā (Ðấng Thiêng liêng đã được
chọn lọc), thì bhakti (lòng sùng tín) sẽ dần dần trào dâng lên bên trong
tâm hồn y. Nếu y ra sức tìm hiểu bản chất Ishta Devatā của mình thì sự
phân biêận tâm linh (viveka) sẽ ló dạng trong tâm trí y. Nếu y cảm thấy
mong ước mãnh liêật Ðấng Thân thương, thì y sẽ tiến gần hơn tới Ngài.
Nếu y tăng cường sự hiến dâng bản thân thì chỉ lúc bấy giờ lòng từ bi
(kriptā) mới giáng xuống y. Kẻ nào chẳng làm điều gì ắt chẳng thu được
điều gì chẳng những nơi cõi hồng trần mà còn nơi cõi tâm linh nữa.
Rất nhiều người sùng đạo (vị sādhus và sanyāsis) giả hiêậu cứ đi lang
thang rao giảng “triết lý hoàn toàn hiến dâng bản thân” cho những kẻ
chưa học được lớp vỡ lòng về sự tu thân (sādhanā) kết quả tất yếu của
giáo lý dối gạt và “đao to búa lớn” này là biến kẻ sùng tín thông thường
thành ra môật cá nhân thụ đôậng và tiêu cực, thiếu nghị lực, sáng kiến và
nhiêật tình, môật đối tượng thích hợp cho sự lợi dụng của những người
bản thân thường có nhiều sáng kiến và sức bâật nhưng chẳng hề xuất
sắc về măật thâật sự sùng tín hoăậc hoàn toàn hiến dâng bản thân cho
Thượng Ðế. Viêậc hoàn toàn hiến dâng bản thân và hoàn toàn từ bỏ
(samkalpa) cũng có môật vai trò nào đó trong sự phát triển của linh hồn,
song những điều này chỉ xảy ra vào giai đoạn cuối cùng khi linh hồn đã
chăật đứt các xiềng xích thông thường và sẵn sàng thực hiêận sự chìm lăận
cuối cùng vào trong cõi Hư Vô của Ðiều Chưa biết. Viêậc khuyên người
thường (hoăậc ngay cả kẻ chí nguyêận) từ bỏ các mục tiêu bình thường
của con người (purushārtha) và tùy thuôậc vào Thượng Ðế trong mọi
chuyêận cũng chẳng khác nào viêậc yêu cầu môật người – vốn không thể
định trí trong năm phút vào môật vấn đề thông thường – thực hành
samādhi. Kẻ chí nguyêận cần phải ý thức ngay từ đầu rằng người ta
không thể thu được bất cứ điều gì trong tự nhiên mà không cần nỗ lực,
không thể thu được điều gì môật cách đôật ngôật và trước khi đạt được bất
kỳ loại thành tựu có giá trị và thành công nào thì người ta phải nỗ lực
lâu dài, kiên trì và có định hướng môật cách thông minh.
Ta ắt thấy rằng người ta chỉ có thể thành công trong japa khi mọi
công năng và năng lực của kẻ chí nguyêận được tâập trung và phân cực
theo chiều hướng mục tiêu của mình. Viêậc máy móc lăập đi lăập lại các âm
thanh trên cõi hồng trần hoăậc viêậc lơ đễnh lăập đi lăập lại tư tưởng trên
cõi tâm trí không thể đưa người ta đi rất xa được măậc dù nó ắt phải tạo
ra môật hiêậu quả nào đó và tạo ra các xu hướng (samskāras) thuâận lợi
tùy theo mức đôậ định trí và sùng tín. Chính nỗ lực phối hợp hoăậc tổng
côậng – theo như ta nói hiêận nay – mới cần thiết cho sự thành công
trong Mantra Yoga cũng như là trong các loại Yoga khác. Vì thế đó mà
môật mantra chỉ có thể được sử dụng thành công bởi môật kẻ chí nguyêận
vốn rất thành khẩn với mục tiêu của mình (và phối hợp japa với
sādhanā). Quả thâật là loại thái đôậ này không thể phát triển môật cách
đôật ngôật. Nó từ từ phát triển khi người ta vâận dụng japa thành khẩn,
trường kỳ và các yếu tố giới luâật tự giác khác vốn nên đi kèm theo japa.
Nếu cứu xét cuôậc đời của các bâậc thánh và hiền triết vốn sử dụng japa
để hoàn thành các mục tiêu của mình, thì ta ắt ý thức được cần phải nỗ
lực ghê gớm mới đảm nhiêậm được viêậc này môật cách thành công.
Samartha Rāma Dās (sư phụ của Shivaji) và Tyāga Rāja (vị nhạc sĩ
bâậc thánh nổi tiếng ở miền Nam Ấn Ðôậ) là các ví dụ điển hình của viêậc
thực chứng Chơn Ngã nhờ vào Mantra Yoga. Ðây chẳng phải là những
nhân vâật chính trong thần thoại mà là những nhân vâật lịch sử, cuôậc đời
của họ đã được bảo tồn tới từng chi tiết nhỏ nhăật nhất. Người ta nói
rằng Samartha Rāma Dās thực hiêận japa đứng nơi Godāvari từ 6 đến 12
tiếng đồng hồ trong 12 năm, còn Tyāga Rāja mỗi ngày bỏ ra tới 16
tiếng đồng hồ để japa trong môật thời kỳ chừng 20 năm.
Ðâu phải kẻ chí nguyêận nào cũng có được sự thành khẩn hoăậc
năng lực nhất tâm theo đuổi mục đích sống của mình như thế. Người ta
cũng chẳng cần có được mức đôậ thôi thúc khủng khiếp này trước khi
thực hành japa. Ðời sống tinh thần không hề được kiến tạo trong môật
quãng ngắn ngủi của cuôậc đời. Nhưng có môật điều mà ta phải ý thức
được, đó là: nó phải được kiến tạo vào môật lúc nào đó, và nếu ta muốn
thoát khỏi sự đau khổ của kiếp sống trong vòng sinh tử luân hồi
(samsāra) đầy hão huyền và hạn chế, thì ta phải làm như vâậy càng sớm
càng tốt. Nó chỉ có thể được xây dựng bằng môật loại nỗ lực gắng gỏi,
kiên trì và thông minh nào đó. Và nỗ lực này bao hàm toàn bôậ bản thể
của ta. Môật nỗ lực hạn chế trong môật thời kỳ hạn hẹp, dựa vào những
điều linh tinh chỉ gồm có các nghi lễ [vốn mang danh hiêậu] (anusthāna)
có thể thỏa đáng đối với các mục tiêu hạn hẹp, nhưng thâật là vô nghĩa
đối với cái tiến trình vô biên và không thể tiên đoán được bao hàm
trong sự thực chứng Chơn Ngã. Ðiều quan trọng là ta phải khởi sự và
tiếp tục đi theo hướng mục tiêu với tất cả sự thành khẩn mà ta có thể
có được, không để cho tiến trình này suy thoái thành ra môật chuyêận
cơm bữa. Khi japa và các tiến trình hổ trợ cho nó trở thành môật chuyêận
cơm bữa, thì hiêậu năng của nó bị giảm thiểu rất nhiều. Nó không bị triêật
tiêu vì có môật vài lực và công năng cố hữu nơi chính các âm thanh vốn
ắt phải ảnh hưởng tới các hiêận thể của ta. Những điều này từ từ xây
dựng nên các khuynh hướng (samskarās) thuâận lợi và chuẩn bị cho kẻ
chí nguyêận có được môật sự cố gắng chân thực sau này; nhưng tiến trình
ấy vô cùng châậm và hầu như chẳng thỏa đáng để cho ta thấy bất kỳ kết
quả xác định nào trong địa hạt tâm trí và cuôậc sống của kẻ chí nguyêận
mà y có thể trông đợi hoăậc mong muốn.

Hết
(Trích dịch từ quyển GĀYATRĪ của I.K.Taimni)

PHÁP MÔN KARMA YOGA


trích trong
Ba Con Đường Hợp Nhất Dẫn Đến Sự Hợp Nhất

BA CON ÐƯỜNG MÔỘT MỤC ÐÍCH

Các bâậc hiền triết đã miêu tả ba con đường giải thoát để chúng ta chọn con đường nào hạp với
mình. Ðường thì có ba nhưng trên môật phương diêận nào đó, chúng chỉ là môật. Là vì tuy điều kiêận bên
ngoài và phương pháp có khác chớ chúng cùng nhằm môật mục đích là dẫn đến Bản Ngã duy nhứt. Ba
con đường đó – mà triết lý Ấn Ðôậ gọi là ba Margas – là con đường Karma hay là con đường Hành
Ðôậng, con đường Jnana hay con đường Minh Triết và con đường Bhakti hay là con đường Sùng Tín.
Khởi đầu ba con đường đó khác nhau nhưng cuối cùng, chúng hợp làm môật, vì rằng con đường nầy
sẽ tan hòa trong con đường kia và cùng có những đăậc tính hêật nhau. Khi bạn đi đến mức cuối dù là
của Karma Yoga, hay của Bhakti Yoga, kết quả vẫn là môật: sự hợp nhất với Thượng Ðế. Các đức tánh
cần thiết vẫn hêật nhau và người nào đạt được sự toàn thiêận trong môật con đường đó sẽ có đầy đủ
những đức tánh được rèn luyêận trên hai con đường kia.
Với những phương pháp khác nhau và mục đích giống nhau ba con đường đó được trình bày
trong phần đẹp nhất và phổ biến nhiều nhất của kinh sách Ấn Ðôậ, trong Thánh Ca Đức Thượng Ðế,
trong bài thuyết pháp của Đức Krishna – trong kinh Bhagavad Gita. Trong kinh nầy, ba con đường
được diễn tả rõ ràng với mục đích của chính nó. Chính ở kinh nầy, chúng ta học hỏi sự minh triết
phát sanh thế nào ở lòng hành giả, làm thế nào hành đôậng có thể thực hiêận với môật tấm lòng xả ly,
không tha thiết nên không trói buôậc con người vào bánh xe sanh tử, luân hồi; và cũng trong kinh
nầy, chúng ta cũng sẽ học thế nào Thượng Ðế sẽ găập hành giả trên môật của ba con đường và giáng
phúc cho người. Dù người hành hương chọn con đường nầy hay con đường nọ, anh đều tiến đến Bản
Ngã thiêng liêng; dù anh tìm Bản Ngã nầy bằng hành đôậng, bằng minh triết hay bằng lòng sùng tín,
anh sẽ găập Ngài chắc chắn vì Chơn Ngã là duy nhất cũng là mục tiêu của ba con đường.

VẠN VÂỘT ÐỀU TÌM THƯỢNG ÐẾ

Nếu chúng ta quay mắt nhìn vạn vâật hay toàn thể thế giới bao la, chúng ta sẽ thấy tất cả đều tìm
Ðức Thượng Ðế thiêng liêng. Khắp mọi nơi, trong mọi chiều hướng, dù dưới danh từ nầy hay sắc
tướng nọ, dù hữu ý hay vô tâm, vạn vâật đều cố gắng tiến đến Chơn Thần tối cao. Thái Dương tìm
Thượng Ðế khi nó phóng tia sáng xuyên qua không gian; biển cả tìm Thượng Ðế khi nó cuôận lên
những ngọn sóng châập chùng; giông gió tìm Thượng Ðế khi nó thổi rào rào trên măật đất. Cũng để
tìm Thượng Ðế mà cây cối trong rừng giương nhánh, mà đôậng vâật lần mò từ bước môật; nhân loại
cũng đang tìm Ngài với những phương pháp đôi khi thanh cao nhưng lắm khi lại điên cuồng, sai lạc.
Cái khuynh hướng ấy của vạn vâật, cái sự kiêận ấy của mỗi sắc tướng, ngày xưa, được gọi là sự tìm
kiếm Ðấng Thiêng Liêng. Khoa học hiêận đại cũng nhâận thấy khuynh hướng đó và gọi nó với danh từ
Tiến Hóa. Như vâậy, dù chúng ta quay về người xưa hay người nay, chúng ta đều nhâận thấy lòng hoài
bão hướng thượng và sự quán xét nôậi tâm.
Tại sao muôn loài vạn vâật đều tìm kiếm Thượng Ðế như vâậy ? Tại sao Thượng Ðế là mục tiêu cuối
cùng của tất cả cố gắng ? Là vì Thượng Ðế ngự sẵn ở lòng vạn vâật: dù trong đại dương, trong kim
thạch, trong thảo môậc, trong thú cầm hay trong con người. Thượng Ðế vẫn hiêận diêận nhưng ẩn dưới
màn hư ảo bên ngoài. Linh hồn tối cao ngự trị ở Thái Dương cũng như trong quả tim, và khi sinh vâật
tìm hạnh phúc thì thâật sự là tìm Ngài. Quả thế, sự tìm hạnh phúc dù có lầm lạc đi nữa, vẫn là sự lần
mò của môật sinh vâật để tiến đến Ngài, nghĩa là tiến đến sự Bình An. Vâng. Linh Hồn tối cao là sự
Bình An muôn thuở, vô biên và bất diêật, và cái mà chúng ta gọi là sự sung sướng chẳng qua là môật
phản ảnh biến dạng của nó xuyên qua ngoại cảnh bao quanh. Biết thế, chúng ta đừng để mình lạc
bước trong ảo tưởng bên ngoài mà phải cố tìm sự sống bên trong xuyên qua sắc tướng hữu hình. Khi
tìm hạnh phúc, tất cả đều tiến đến sự sống ấy, và Đức Krishna, hóa thân của Thượng Ðế nói: “Kẻ
nào thấy được Thượng Ðế ngự đồng đều trong vạn vâỘt, kẻ ấy thấy “(Thánh Ca Bhagavad
Gita, XIII, 27).

Những con đường mà chúng tôi trình bày sau đây là ba con đường chánh, theo đó người ta tìm
Thượng Ðế môật cách ý thức. Trong những giai đoạn đầu, sự tìm kiếm có tánh cách vô ý thức, ấy là
môật sự hoài bão mù quáng hướng về sự sung sướng, sự thỏa mãn, sự vui vầy. Sau đó, sự tìm kiếm
trở nên ý thức: người ta nhâận thấy rõ điều người ta tìm và phương cách áp dụng. Dù ý thức hay
không, sự tìm kiếm vẫn tiếp tục, còn phương pháp và mục đích được nhâận định rõ hay không là tùy
vào trình đôậ tiến hóa của mỗi linh hồn. Khi lần bước trên các con đường ấy, con người vươn lên khỏi
[1]
các ảo ảnh gây ra do đăậc tính của thiên nhiên, các đăậc tính được gọi là gounas . Chính ba gounas
nầy bịt mắt mọi người, che lấp Chơn Ngã, tạo nên ảo ảnh khiến con người rất khó nhâận định sự thâật.
Khi tiến trên ba con đường, con người vừa vượt qua khỏi ba gounas, vừa sử dụng nó, đồng thời cũng
tâập vâận dụng những phương pháp hoạt đôậng, minh triết và sùng tín cốt để phân biêật giữa Bản Ngã
và giác quan, Bản Ngã và trí tuêậ. Chừng nào con người vượt qua khỏi ba gounus, con người tìm được
Linh Hồn tối thượng.

CON ÐƯỜNG KARMA YOGA


Con đường mà chúng ta học hôm nay là Con Ðường Hành Ðôậng (Karma Marga hay Karma Yoga).
Phần đông nhân loại đều đi trên con đường đó, nhưng đi môật cách mù quáng, vô ý thức, không nhâận
thức mục tiêu cùng không biết rõ phương pháp. Khi tìm hiểu lịch sử của dân tôậc chúng ta, chúng ta
thấy pháp môn Karma thúc giục con người hành đôậng đủ cách, đeo đuổi đủ thứ mục đích và không
ngớt truy tầm các dục lạc bên ngoài; trong các hoạt đôậng nầy, họ cố thu thâập nhiều, nhờ tâập trung
tư tưởng nhiều, họ càng tiến lên Thượng Ðế. Khi miêật mài hành đôậng, con người nói: “Tôi hành
đôộng, tôi cảm xúc, tôi kinh nghiêộm, tôi vui, tôi buồn .” Y không biết rằng tất cả các hành đôậng,
các cảm xúc, các nỗi vui buồn đó thuôậc về khí lực của Tạo Hóa, còn Linh Hồn tối thượng thì không
làm gì cả, không cảm xúc gì cả, và khí lực ấy chu du theo môật cuôậc tuần hoàn vô tâận.

DỤC VỌNG THẤP HÈN VÀ TÍNH BẤT ÐÔỘNG (Tamas)


Ở bước đầu, y hành đôậng vì kết quả: y muốn hưởng lạc. Nếu y ăn không ngồi rồi, không làm gì
cả, y không có môật lạc thú gì và lúc nào cũng khổ. Nếu y ở không mãi như vâậy, y sẽ gầy mòn, sẽ
chết. Thế nên con người phải chiến thắng tính bất đôậng Tamas của thiên nhiên, nó biểu lôậ trong sự
tối tăm, lười biếng, thẩn thờ. Các bạn hãy nhìn nhân loại và sẽ lưu ý thấy rằng những người có thể
đáp ứng với những đôậng cơ cao hơn rất ít. Kêu gọi họ học hỏi không ích gì, vì họ không thích học. Họ
chưa thưởng thức được thú vui trí thức và cũng không hiểu gì về ước vọng tâm linh. Họ đang trầm
mình trong sự bất đôậng, âm u, trong sự ngu dốt mịt mờ và thích yên thân trong cảnh đó. Làm sao
thúc giục họ hành đôậng ? Thà hoạt đôậng cách nào cũng được hơn là không hoạt đôậng gì cả. Tốt hơn
là có môật khí lực dùng sai hơn là không có môật khí lực gì, không có môật hành đôậng nào. Ta phải thúc
giục họ hoạt đôậng. Lúc đầu, thiên nhiên dùng các ham muốn tục tằn, thô lỗ như là mũi nhọn, roi vóc
để buôậc con người hành đôậng, vì các ham muốn ấy hạp với bản chất họ. Nhưng về sau, các dục vọng
ấy bị xem là hèn hạ, làm con người mất phẩm giá, thoái hóa và ngu đần, nhưng lúc đầu chúng nó rất
cần cho sự phát triển con người để xé tan tấm màn bất đôậng năậng nề. Tuy xấu xa, chúng nó còn quí
hơn là sự chết, sự bất đôậng. Như vâậy các hoạt đôậng bắt nguồn từ sự tham dục là lời dạy đầu tiên để
thiên nhiên nhằm khuyến khích con người hoạt đôậng để tiến hóa. Tuy bị bài xích, các điều xấu xa có
cái vị trí, cái chức vụ của chúng đối với những cá nhân lười biếng, đê hèn. Vì vâậy, Thượng Ðế nói
Ngài hiêận diêận trong các tâật xấu của những kẻ xấu xa, trong những gì thúc đẩy chúng hoạt đôậng để
phát sinh hành đôậng.

DỤC VỌNG THANH CAO THAY DỤC VỌNG THẤP HÈN (Rajas)
Trên con đường hoạt đôậng, lần lần con người được kích thích bằng sự ham muốn hưởng kết quả
thanh cao; nhờ vâậy, tánh Rajas (đôậng) phát triển ở y. Bây giờ y lại hoạt đôậng quá đôậ trong mọi chiều
hướng. Ở y, khí lực trở nên dồi dào, hùng dũng hung hăng và hiếu chiến. Y lao mình vào ngoại giới
để thỏa mãn những đòi hỏi của giác quan và trí thức. Trong mục đích nầy, y hoạt đôậng không ngừng.
Những kết quả nầy có thể xếp vào hai loại: môật loại để hưởng ngay ở cõi nầy, loại kia để hưởng ở
cõi trên. Nếu chúng ta quay mắt nhìn lại các thời kỳ ít vâật chất hơn, trong đó nhờ ảnh hưởng hùng
hâậu của tôn giáo, con người nhìn nhâận linh hồn bất tử không phải ở đầu môi nhưng là môật ý niêậm
chính yếu của đời sống và cảm biết mình là trường tồn, bất diêật; vào các thời kỳ đó, mọi hành đôậng
đều phát sinh từ lòng ham muốn hưởng lạc thú ở cõi Svarga (cõi Cực lạc). Hoạt đôậng con người tuy
chưa mấy thanh cao và còn nhằm mục đích hưởng quả, nhưng y có thể từ bỏ nhiều điều, hy sinh
nhiều viêậc như tài sản chẳng hạn với mục đích được phong phú ở bên kia cửa tử, được hạnh phúc ở
cõi siêu hình. Như thế, vào các thời kỳ đó, con người muốn hưởng kết quả của hành đôậng ở cõi trên
chớ không phải ở cõi trần vâật chất nầy.
Trái lại, nếu chúng ta xem xét lối hoạt đôậng của nhân loại bây giờ, nếu chúng ta nghiên cứu con
đường mà người Âu Mỹ đã dấn thân vào và người Ðông Phương càng ngày càng hướng theo, chúng
ta sẽ nhâận thấy rằng cái kết quả mà con người chờ đợi là hành đôậng, cái lợi thế khiến y hoạt đôậng và
tiến đến mục tiêu, phải được hưởng ở cõi trần. Cái kết quả đó, cái lợi đó là sự tăng gia của cải, sự thu
thâập và giữ gìn tài sản vâật chất. Chúng ta hãy tìm hiểu các nước Âu Châu. Các nước nầy làm viêậc
luôn tay để gia tăng sự sung sướng. Tôi có thể gọi cái đó là môật lối hoạt đôậng bêậnh hoạn. Con người
chỉ được xem là có hoạt đôậng khi nào hoạt đôậng của y mang lại những kết quả vâật chất. Hoạt đôậng
có thể xem là hoạt đôậng khi nào nó tạo ra những kết quả trong cõi hữu hình, ở ngoại cảnh hay trong
cõi vâật chất ô trược. Chắc bạn có găập nhiều người mê say khoa học. Trong khi nhà bác học làm viêậc
chỉ vì yêu khoa học thuần túy, công chúng chỉ thiết tha đến những điều phát minh, hăng say với các
kết quả găật hái được. Vì sao thế ? Là vì khoa học tiến bôậ giúp nhân loại thỏa mãn các ham muốn vâật
chất và gia tăng tài sản vâật chất. Trước mắt ta, sự vâật gia tăng môật cách nhanh chóng. Giữa những
phương tiêận thỏa mãn dục vọng và sự đào tạo dục vọng mới mà sự thỏa mãn đòi hỏi những phương
cách mới, dường như có môật sự chiến đấu không ngừng. Chúng ta cũng chứng kiến môật sự chiến đấu
liên tục giữa những tay sành chơi, ham mê tiền tài, dục lạc, thích cảm xúc mới, ưa hoạt đôậng lạ và
những nhà bác học cố gắng thỏa mãn các ham muốn đó đồng thời căậm cụi phát minh những điều
mới lạ để kích thích những dục vọng mới và cũng để tạo công viêậc cho mình. Như vâậy, nhân loại ước
mong gia tăng tổng số dục lạc thuôậc loại đang hưởng. Họ đã chuyển mau lẹ: các cuôậc du hành thuở
trước đòi hỏi cả năm bây giờ có thể thực hiêận trong môật vài tháng, và các cuôậc du lịch lúc trước phải
kéo dài cả tháng nay chỉ còn thu ngắn trong vài tuần hay vài ngày. Nhưng con người có được hạnh
phúc hơn không, các ham muốn của anh có được thỏa mãn không ? Không ! Họ gọi mãi nhà bác
học : “Các ông hãy tìm cho tôi môột đôộng lực mới, môột cái gì hơn hơi nước, môột cái chi như
điêộn để giúp chúng tôi chu du thế giới trong hai ngày, để bay trên trái đất nhanh chóng
hơn. Chúng tôi chán hơi nước rồi và muốn môột cái chi khác di chuyển chúng tôi mau hơn .”

Sự di chuyển nhanh chóng đó có làm cho con người sung sướng hơn không ? Con người có thực
hiêận được môật bước tiến tinh thần nào không khi anh có thể làm trong môật ngày môật công viêậc xưa
kia đòi hỏi cả năm ? Di chuyển mau, đóng tàu lớn, đó là các cố gắng quan trọng của nhân loại. Vừa
rồi, các báo nói môật con người mới có thể phát hiêận ở cõi trần phục sinh vì nhờ khoa học sáng chế
các thức ăn hóa học, con người không cần trồng tỉa và hoạt đôậng như ngày nay. Sự quả quyết này
sai lạc hoàn toàn vì sự theo đuổi dục lạc không bờ bến. Người ta có thể thu thâập nhiều hơn, chứa
chấp đủ thứ mà vẫn chán nản, bất bình, bởi vì trong các điều đó, người ta không tìm được Linh Hồn
tối thượng, và linh hồn con người sẽ luôn luôn đau khổ bao giờ nó không được ẩn trú trong Linh Hồn
tối thượng ấy. Bởi vâậy, khi con người lao mình vào lối hoạt đôậng nầy, y không bao giờ được thỏa
mãn. Con người có thể chiến đấu trọn môật đời để được sang giàu, nhưng họ vẫn bất mãn, và giữa
các tài sản to lớn của y, y vẫn ước mong môật cái gì nữa. Vì vâậy, Ðức Bàn Cổ nói lấy bơ rưới vào lửa
để dâập tắt lửa còn dễ hơn là dâập tắt dục vọng bằng cách cung cấp cho nó những điều mà chúng nó
đòi hỏi. Lý do là khi môật dục vọng được thỏa mãn, Chơn Ngã (nó ngự trên cao các dục vọng) thúc
giục linh hồn tiến bước để tìm môật thứ thỏa mãn thâm diêậu hơn.

XẢ LY, DỨT BỎ
Sau môật thời gian, người tu theo pháp môn hành đôậng ý thức được điều nầy. Anh nhâận thấy lúc
nào cũng bất mãn, phâật ý, các nguyên nhân bất mãn càng nảy sinh và sự chán chê càng cay đắng và
sâu đâậm. Chừng đó anh mới phản ứng và ý thức rằng ở cõi trần không ai được thỏa mãn và hài lòng.
Chừng ấy anh mới thốt lên: “Tôi muốn thoát ly cõi trần, tôi muốn dứt bỏ thất tình lục dục, vì
nếu ta quyến luyến cõi nầy, dù ta có hành đôộng nhiều đi nữa, ta không thể tìm được sự
bình an hay sự thỏa mãn .” Thế rồi, vì chán chê, anh tạm thời bịt tai trước những kêu gọi của giác
quan và tìm sự bình an trong môật đời sống tịch mịch, u nhàn. Tuy nhiên, anh cũng buồn rầu mà
nhâận thấy môật cách chua cay rằng không phải xa lánh lục trần kích thích mà anh có thể dâập tắt lửa
lòng. Anh nhâận thấy sự ham muốn hưởng thụ theo đuổi anh đến tâận rừng sâu. Hình ảnh các điều
ham muốn không buông tha anh dễ dàng và trí não anh vẫn còn hướng vào các hình ảnh ấy. Xác
thân anh được trú ẩn là môật điều, nhưng anh vẫn là những con mồi của dục vọng, anh vẫn còn bị
xâu xé bởi các tình dục của bản ngã thấp hèn vì dục vọng không thể dâập tắt bằng sự trừ bỏ các điều
phát sinh ra nó, vì gốc rễ của nó đã ăn sâu vào bản chất của con người. Thế là muốn diêật trừ nó, con
người phải tiến sâu hơn trên con đường hành đôậng.

Chừng đó, trong sự vắng vẻ, tiếng nói của Ðức Thượng Ðế mới vọng đến anh. Giữa sự im lăậng,
tiếng của sự Minh Triết trường cửu mới nổi lên: “Bằng sự bất đôộng, con người không thể thoát
ly hành đôộng và cũng không thể nào đạt sự toàn thiêộn” (Bhagavad Gita, III, 4). Không phải
bởi sự bất đôậng bên ngoài mà nhờ sự thoát ly ách dục vọng bên trong con người tiến đến con đường
hành đôậng. Người ta không thể đoạt được sự giải thoát bằng cách ép buôậc thân thể đừng hoạt đôậng.
Trước khi linh hồn được giải thoát, chúng ta phải hành đôậng. Chính hành đôậng đem lại sự giải thoát,
sự tự do và dạy con người môật bài học quý báu hơn là sự di chuyển xác thân từ thành thị đến rừng
sâu. Con người thường rút được bài học khác từ nguồn thiêng liêng đó. Bài học ấy là con người sống
ở cõi trần mà phải thoát trần, nghĩa là phải xả ly, dứt bỏ mọi sự thiết tha, ràng buôậc. Anh biết anh
phải hành đôậng nhưng phải thay đổi đôậng cơ hành đôậng. Anh phải tiếp tục đi trên con đường hành
đôậng nhưng lý do khiến hành đôậng phải đổi mới và có môật tính cách thiêng liêng. Cũng Tiếng Nói ấy,
cũng vị Chưởng Giáo ấy dạy thêm cho linh hồn chán nản, mêật nhọc nhưng tìm sự giải thoát: “Hỡi
con, người vô minh hành đôộng với lòng tham dục, còn các bâộc thánh nhân hành đôộng với
mục đích bảo tồn nhân loại và không tham luyến điều gì.” (Bhagavad Gita, III, 25).

Ðến đây, xảy ra môật sự thay đổi thâật sự. Con người không cúi đầu lao mình vào các hoạt đôậng
bên ngoài và trốn cái địa vị mà Luâật Nhân Quả đã định cho anh. Anh không bỏ bê phâận sự đối với gia
đình, đối với quê hương, nhưng anh hành đôậng với môật tinh thần mới, môật linh hứng mới. Nếu địa vị
của anh là thu nhâập tài sản, anh cứ thu nhâập. Nhưng khi kẻ vô minh thu nhâập để hưởng lạc, anh
không chút thiết tha. Tài sản đến với anh, anh giữ gìn với tư cách là người quản lý chớ không phải
như môật chủ nhân. Anh hành đôậng cho nhân loại chớ không phải cho mình. Anh dùng tài sản ấy để
tạo công ăn viêậc làm cho nhân dân nghèo khổ. Anh sẽ lâập những kế hoạch vĩ đại, anh sẽ suy tư và
hành đôậng cực nhọc cho nhân loại. Khi mọi người làm viêậc cho mình, cho bà con mình, anh làm viêậc
cho kẻ khác và dùng khả năng của mình để giúp đời.

TỪ BỎ KẾT QUẢ


Chừng ấy, môật khuynh hướng tế nhị hiêận ra. Công tác bảo tồn nhân loại có thể ẩn môật mục đích
riêng tư, có thể bắt nguồn từ những đôậng cơ vi tế, có thể nhằm những kết quả thuôậc môật loại khác.
Thâật vâậy, người có những kế hoạch vĩ đại lo âu công viêậc bất thành. Anh muốn thành công và đôậng
cơ thúc giục anh hoạt đôậng do môật phần ở sự ham muốn ấy, ở sự vui sướng thấy công viêậc thành
tựu. Có thể anh còn ước mong được kẻ khác thương mến, biết ơn hay thán phục. Như thế, anh ham
muốn môật lợi ích cho riêng mình. Anh không nên hoài bão như thế. Khi môật yếu tố cá nhân xen vào,
anh bị ràng buôậc bởi hành đôậng, anh bị trói buôậc bởi kết quả.

Vì thế, Ðức Chưởng Giáo đã dạy anh rằng sự từ bỏ hành đôậng không giải thoát khỏi ách hành
đôậng, rằng các bâậc thánh nhân chỉ hành đôậng giúp đời, Ðấng ấy nay dạy anh môật bài học khác thâm
thúy hơn để giúp anh tiến môật bước khác trên con đường hành đôậng: Ngài dạy anh phải từ bỏ mọi
kết quả của hành đôậng hãy dứt khoát với các đôậng cơ ích kỷ, trong tình thương và hoan lạc. Bài học
được tóm tắt trong lời nầy : “Con chỉ lo hành đôỘng mà thôi, đừng khi nào nghĩ đến kết quả”,
dù kết quả ấy là sự cảm mến và tri ân. Ðừng bao giờ nghĩ đến kết quả, đừng khi nào liên hiêập kết
quả và nguyên nhân. Ngài thêm: “Con đừng để kích thích bởi kết quả và cũng đừng buông trôi
trong sự ăn không, ngồi rồi .” (Bhagavad Gita, II, 47).

Sự dứt bỏ nay đã hoàn toàn. Không còn hoạt đôậng vì muốn sung sướng ở cõi thế; không còn
hoạt đôậng vì ham lạc thú ở Thiên Ðàng; không còn hoạt đôậng vì muốn được cảm mến hay tri ân, mà
từ bỏ các ham muốn và không màng kết quả. Thành công đến ? Cũng được. Thất bại ? Cũng không
sao. “Phải bình thản ở thất bại cũng như trong thành công : đó là sự quân bình ở yoga ”
(Bhagavad Gita, II, 48). Bình thản trong thành công cũng như trong thất bại, trong cơn vui cũng như
trong lúc buồn, trong khi vinh quang cũng như trong lúc tủi nhục, trong tình thương cũng như trong
sự oán ghét. Cái chi thuôậc phàm ngã đê hèn không được dính líu đến hoạt đôậng. Hành đôậng là công
tác của Thượng Ðế, dù kết quả như thế nào, nó cũng phát xuất từ Ngài. Bạn thiết lâập môật kế hoạch
giúp đời nhưng kế hoạch thất bại. Ðó là môật điều tốt. Bạn thiết lâập môật kế hoạch giúp đời và kế
hoạch ấy thành công. Cũng tốt. Mục đích của anh không phải là sự thành công, mục đích của anh
không phải là sự thất bại. Anh chỉ nhằm môật mục đích : làm tròn phâận sự. Kết quả của hành đôậng dù
tốt, dù xấu, anh phải thản nhiên và bình tĩnh. Chỉ có hành đôậng là phâận sự. Bí quyết của con đường
hành đôộng là : “Không tìm kiếm hành đôộng khi nó không đến; đừng từ chối nó khi xảy ra,
vui vẻ hành đôộng khi bổn phâộn bắt buôộc; sẵn sàng ngồi không khi không có điều gì thuôộc
bổn phâộn mình. Hãy tuyêột nhiên bình thản đối với mọi kết quả.” Trên con đường hành đôậng,
nếu con người có được thái đôậ ấy, anh có thể ở trong điêận ngọc, đền vàng, ăn những cao lương mỹ
vị, sống giữa gấm vóc ngọc ngà, mà vẫn bình thản, an nhiên. Tất cả các món đó còn cũng tốt, mất
cũng tốt, vì chỉ có giác quan cảm xúc chúng nó (Bhagavad Gita, V, 9), còn anh thì bình thản, an tĩnh.
Các vâật bên ngoài không khiến anh vui thích hay chán chê. Khi chúng nó đến, anh không xua đuổi,
khi chúng nó đi, anh không buồn phiền. Khi anh phải từ bỏ đền đài đến ở nhà tranh vách lá; khi anh
phải rời bỏ gấm vóc, lụa là để măậc quần vải áo bô, nếu thay vì món ngon vâật lạ, anh phải đỡ lòng với
cơm hẩm canh rau, sự thay đổi đó không can hêậ gì. Anh không mến tiếc của cải đã mất, không xua
đuổi nếu chúng đến tay. Anh sung sướng trong chòi tranh cũng như trong điêận ngọc, anh sung sướng
trong điêận ngọc cũng như trong chòi tranh. Không cái nào khiến anh ham mê, không cái nào khiến
anh khổ sở. Ðó chỉ là khí lực bên ngoài của Tạo Vâật, ảo ảnh nhất thời của vâật chất. Các vâật đó có
nghĩa gì đối với anh vì anh không màng kết quả và chỉ cố gắng làm tròn bổn phâận mình. Sống ở cõi
trần mà lòng lúc nào cũng tuyêật đối thản nhiên trong sự giàu sang cũng như trong sự bần cùng,
trong cảnh vui cũng như trong cảnh buồn, trong lúc vinh cũng như trong khi nhục, lúc nào cũng thỏa
mãn, cũng an vui, cũng bình thản, môật đời sống như thế mới tuyêật diêậu, mới thanh cao, mới khó
khăn. Ai sống được như vâậy mới chứng tỏ rằng mình đã đi gần trọn con đường hành đôậng để hòa hợp
với Thượng Ðế. Anh đã tiến đến giai đoạn mà mọi Pháp Môn đều hòa với nhau làm môật, mà Thiên Ý
biểu lôậ cho ai đã vén được màn ảo ảnh của vâật chất.
Từ đời sống đó – cái đời sống không xin xỏ chi cả, không kiếm tìm chi cả, từ đời sống đó, nảy
sinh sự minh triết. Là vì làm sao người ta có thể sai lạc khi mắt đã quen phân biêật giữa hoạt đôậng
bên ngoài với Bản Ngã duy nhất, đã biết từ bỏ kết quả trong khi hành đôậng ? Con người ấy trở nên
thánh thiêận bằng hành đôậng, cũng như nhiều kẻ khác đã thánh thiêận bằng sự suy tư, bằng sự thiền
định hay bằng lòng sùng tín, các pháp môn khác nhau nhưng hòa hợp với nhau khi cuôậc hành hương
đi đến giai đoạn cuối cùng.

HIẾN DÂNG

Ðến lúc ấy, hành giả được xem như xứng đáng để găập Ðấng Tối Cao. Khi đôi mắt được tinh luyêận
sạch dục vọng, chúng nó sẽ thấy Ngài xuyên qua tấm màn vâật chất. Khi lòng người tinh luyêận sạch
dục vọng, nó sẽ thấy ở đáy sâu, linh hồn duy nhất và đại đồng. Khi mắt trông thấy Ðấng Tối Cao,
hiêận thân của sự Mỹ Lêậ muôn đời, hành giả bước môật bước chót nữa trên con đường hành đôậng :
bước chót ấy là bài học hiến dâng.

Bài học nầy cũng do vị Chưởng Giáo khuyến dạy, cũng phát xuất từ môật nguồn thiêng liêng. Môật
khi linh hồn đã tinh luyêận và học qua thế nào là hoạt đôậng nghĩa vụ, thế nào là sự từ khước các kết
quả của hoạt đôậng để sống hợp với Thiên Ý, linh hồn học bài học tối thượng: “Nhân loại bị trói
buôộc bởi các hành đôộng ngoại trừ các hành đôộng hiến dâng” (Bhagavad Gita, III, 42). Bây
giờ tất cả hành đôậng được thực hiêận không phải để đạt ước mong nào đó mà trong mục đích cung
hiến cho Ðấng Tối Cao. Con người phải trở thành môật côậng sự viên với Thượng Ðế, môật bầu bạn với
Ðấng Hóa Công. Lúc đầu, anh hành đôậng vì kết quả; đoạn anh hành đôậng để giúp đời; kế đó, anh
hành đôậng để làm tròn bổn phâận với môật tâm bình an không màng kết quả; sau cùng, anh tâập hành
thiêận trong mục đích hiến dâng; từ nay các hành đôậng của anh đều là những hành đôậng tôn sùng,
cung hiến Ðấng Chí Tôn. Ðến giai đoạn nầy của con đường hành đôậng, anh hưởng được sự hân hoan
của Thượng Ðế. Sự an lạc thiêng liêng sẽ tràn ngâập lòng anh. Vì anh tâập từ bỏ phàm ngã thấp hèn
nên Chơn Ngã sẽ hiêận ở lòng anh, thấm nhuần lòng anh. Anh thấy anh là môật với Ðấng Tối Cao. Từ
nay, những phâận sự anh thi hành là những hoạt đôậng hiến dâng và anh hưởng được sự an lạc của kẻ
hiến dâng. Từ nay, anh dự phần vào đời sống của Ðấng Thượng Ðế, anh là vâận hà truyền đạt khí lực
của Ngài. Dưới mắt anh, các hành đôậng đều là những sự hiến dâng cho Ngài, Ðấng Hóa Công duy
nhất, Ðấng Hy Sinh duy nhất, Ðấng Ban Rải cho muôn loài, Ðấng Thu Nhâận mọi kết quả và hưởng
lấy vì tất cả đều tâập trung về Ngài. Khi sự hiến dâng ấy hoàn toàn rồi, khi đời sống chỉ biết ban cho
mà không bao giờ thu nhâận, khi nó phát huy ánh sáng mà không đòi hỏi chi cho mình, khi Thái
Dương chói sáng đến khắp chân trời để cung phụng Ðấng Tối Cao mà không chút tự hào, chừng đó
trên con đường hành đôậng, con người bước vào giai đoạn An Lạc Tuyêật Vời. Anh đã đạt được mục
đích, anh đã hòa hợp với Thượng Ðế.
Như vâậy, để kết luâận, chúng ta có thể nhắc lại giáo lý và lời hứa của Ðức Chưởng Giáo mà chúng
ta đã cố gắng tìm hiểu để sống môật cuôậc sống thanh cao, an lạc. Giáo lý ấy, lời hứa ấy nằm trong lời
hùng dũng sau đây :

“MôỘt khi bản ngã được tinh luyêỘn để giác quan có thể không thiết tha, không ghét bỏ
giữa vạn vâỘt hữu tình, khi nó được chủ trị bởi Chơn Ngã, thì con người sẽ tiến hành trong
Sự Bình An .”
“Ðó là tâm trạng của Ðức Thượng Ðế, hỡi con của Pritha. Không ai đã đi đến đó mà lầm
lạc bao giờ. Ðến giờ lâm chung, ai còn được tâm trạng đó, người ấy sẽ tiến lên cõi Niết
Bàn” (Bhagavad Gita).

1
Ba thứ khí lực đào tạo vạn vâỘt của Tạo Hóa (Sattva, Rajas,
Tamas) hay Shiva, Vishnou và Brahma là 3 Ngôi trong tôn giáo
Ấn ÐôỘ.

PHÁP MÔN JNANA YOGA

trích trong
Ba Con Đường Hợp Nhất Dẫn Đến Sự Hợp Nhất

PHÁP MÔN MINH TRIẾT RẤT KHÓ KHĂN

Hôm qua, chúng ta tìm hiểu cách thức tìm Chơn Ngã bằng hành đôậng. Học pháp môn nầy, chúng
ta đã thấy hành giả tiến như thế nào từ sự say đắm đến sự xả ly, thực hành sự xả ly như thế nào
trong đời sống và phải hiến dâng như thế nào trong đời sống để tiến đến Ðấng Tối Cao. Chiều hôm
nay, chúng ta học môật pháp môn khác mà người ta gọi là Jnana Yoga hay con đường Minh Triết. Con
đường nầy chỉ dành cho môật số ít người chứ không phải cho quảng đại quần chúng, vì nó có những
nguy hiểm không thấy ở các pháp môn khác nhất là cho những kẻ sơ cơ. Ở pháp môn “hành đôộng”
hay pháp môn “tôn sùng” không có sự hiểu lầm tai hại, sự lẫn lôận đáng tiếc; sự lạc lối hoàn toàn
thường xảy ra ở các giai đoạn cuối cùng của con đường “minh triết” nếu hành giả không được
chuẩn bị cẩn thâận. Chúng ta sẽ lần lượt miêu tả con đường ấy từ giai đoạn đầu đến giai đoạn cuối.
Chúng ta sẽ tìm xem nó dẫn dắt chúng ta như thế nào từ cuôậc đời thế tục đến Ðấng Tối Cao. Chúng
ta đi từ bước như vâậy để hiểu nó kỹ càng, để đừng sa vào những cạm bẫy đang đợi chờ những kẻ tu
hành bất cẩn.

PHÁP MÔN MINH TRIẾT LÀ CON ÐƯỜNG TRÍ TUÊỘ


Tôi đã nói con đường nầy không phải dành cho đa số. Nó khởi đầu từ trí tuêậ thuần túy (mà nó sẽ
vượt xa ở giai đoạn cuối cùng) và bắt buôậc hành giả phải có môật trí tuêậ tế nhị, quảng bác và sâu sắc.
Giác quan cần được chế ngự, trí tuêậ cần được trau dồi. Sự tinh luyêận nầy không nhằm mưu cầu lợi
lôậc mà để hưởng sự an lạc của trí tuêậ thuần túy về sau. Trí tuêậ không được ô nhiễm bởi những ham
muốn phát sinh do sự hiểu biết và nhằm thỏa mãn các dục vọng đê hèn. Cũng như tôi đã nói môật
hôm, hiêận nay trí tuêậ thường được sử dụng để tìm các thú vui vâật chất; khoa học cũng chỉ được khai
thác để gia tăng tài nguyên và tiêận nghi vâật chất. Những ai chuẩn bị theo con đường Minh Triết, phải
vươn lên khỏi các dục vọng, phải lánh xa các cám dỗ của giác quan và phải tìm trong sự hiểu biết và
về sau, trong sự minh triết, môật phần thưởng tự nó rất đầy đủ mà không cần sự lợi ích nào thêm. Sự
lười biếng phải được diêật trừ, nếu không hành giả sẽ sa lầy và không sao tiến được. Khi bước sang
giai đoạn hoạt đôậng thì tất cả sinh lực phải tâập trung vào sự thu thâập kiến thức.

THU THÂỘP KIẾN THỨC LÀ MÔỘT NGUỒN VUI.


Trong các giai đoạn đầu của con đường Minh Triết kiến thức được thu thâập cho chính nó. Khuynh
hướng của những người Jnani 2 là thu thâập kiến thức để hưởng sự sung sướng được tìm môật ý mới,
được đa văn quảng kiến, được tăng gia trí lực. Ðó là hoài bão duy nhất của họ. Những người đó ít
nhưng có rải rác khắp nơi, họ không màng danh lợi, không tìm sự khen tăậng của bạn bè hay sự thỏa
mãn của dục vọng. Họ quí mến kiến thức vì kiến thức là môật nguồn vui. Họ tìm được phần thưởng
ngay trong sự sưu tầm. Cho đến lúc chết, họ say mê kiến thức. Họ muốn biết bản chất của vũ trụ và
con người, muốn hiểu tâận gốc lẫn ngọn đời sống của nhân sinh, muốn tiến sâu vào các bí ẩn của tạo
vâật, muốn đồng hóa tất cả các kiến thức thu nhâập được ở ngoại hình.

THẾ NÀO LÀ KIẾN THỨC ?


Nhưng kiến thức không phải là minh triết, như tôi nói. Kiến thức phát sinh từ sự quan sát các
hiêận tượng, sự tâập trung và sắp xếp các điều quan sát, tự tìm kiếm môật qui tắc nhằm tâập hợp, sắp
xếp và liên kết các hiêận tượng riêng rẽ rồi rút ra môật giả thuyết chung có thể áp dụng cho tất cả.
Ðoạn, sinh viên mới áp dụng giả thuyết đó cho các hiêận tượng khác, và thí nghiêậm nó đủ cách để
xem nó có đúng không. Sau đó anh mới nói: “Tôi đã thí nghiêộm nhiều lần và kết quả vẫn đúng
theo giả thuyết của tôi.” Chừng đó kết quả mới được xem là môật luâật thiên nhiên có thể đem ra áp
dụng môật cách chắc chắn. Môật nhà bác học luôn luôn làm viêậc như thế: ông dò xét cẩn thâận, quan
sát tỉ mỉ với môật sự kiên nhẫn vô biên, dọ hỏi tạo vâật từ tháng nầy đến tháng kia, từ năm nầy sang
năm nọ cho đến khi nào câu trả lời luôn luôn giống nhau và trở thành môật sự thâật vững chắc như
tảng đá. Chừng ấy khoa học mới căn cứ trên đó để tiến đến những sự phát minh mới. Nếu quí vị
muốn hiểu rõ phương cách thu thâập kiến thức, quí vị hãy xem gương nhà bác vâật Anh trứ danh
Darwin mà người đồng thời ông và các thế hêậ sau đều thán phục. Ông cẩn thâận vô cùng; khi thí
nghiêậm về môật thứ thảo môậc, ông đổi chất đất, điều chỉnh ánh sáng, xem xét các điều kiêận xung
quanh, cho cây nầy nhiều hơn, cây kia ít hơn, thay đổi đủ cách và mỗi lần ông ghi rành mạch kết
quả. Và ông thí nghiêậm như thế cả trăm lần, để đừng kết luâận vôậi vàng, để đừng xem môật lần là
toàn thể, để đừng lẫn lôận các nguyên nhân hay đừng xem hiêận tượng xảy ra ngẫu nhiên như là môật
trâật tự bất di, bất dịch. Sự tâận tụy tìm chân lý và sự chân thành của nhà bác học thâật là đáng kính vì
nó đòi hỏi biết bao khổ nhọc. Ðó là sự tôn kính Thần Chơn Lý biểu lôậ trong các luâật thiên nhiên.

TÌM HIỂU CÁI LỚN CẢ CÁI NHỎ


Ðối với môật người tìm tòi như thế, không có cái gì là lớn hay nhỏ trong tạo hóa. Tất cả hiêận tượng
đều được quan sát môật cách chính xác như nhau, dù là quỹ đạo của Thái dương hay sinh vâật trong
giọt nước. Có ai biết được chân lý ẩn nơi nào, có ai đoán được phải hướng về đâu để đi đến môật phát
minh ? Rất có thể sự lưu chuyển của môật nguyên tử quan sát trong kính hiển vi còn giúp chúng ta
hiểu công trình của Hóa Công hơn là sự vâận chuyển của ngôi sao chổi hiêận ra trong môật lúc rồi biến
hút trong không gian vô tâận. Không có chi là lớn, không có chi là nhỏ, tất cả chỉ đều là biểu lôậ của
Hóa Công và có thể che giấu bí quyết của Tạo Vâật. Khi môật người nghiên cứu như thế, anh sẽ thấy
Ðấng Hóa Công hành đôậng tỉ mỉ, khéo léo, chính xác, tuyêật diêậu trong viêậc sáng tạo môật nguyên tử
cũng như trong sự thiết lâập môật Hêậ thái dương. Anh đinh ninh tất cả những cái trong Thái dương đều
đáng học hỏi và không bỏ qua môật kẹt xó tối tăm nào. Ðó là đường lối của các nhà bác học quyết chí
học hỏi, tìm tòi. Tôi kể quí vị nghe môật ngụ ngôn nêu rõ đăậc điểm nầy mà quí vị sẽ găập ở các giai
đoạn đầu của con đường Minh Triết. Môật văn sĩ trứ danh Nga tác giả nhiều truyêận ngắn mà chắc quí
vị có đọc, tôi muốn nói ông Tourgueieff, có viết môật truyêận chỉ rõ Tạo Hóa rất tỉ mỉ trong công viêậc
nhỏ mọn, ti tiêận cũng như trong công trình vĩ đại, nguy nga. Ông thuâật lại rằng ông có đến môật cái
miếu đăật trong môật đôậng đá. Miếu rất trang nghiêm và lớn đến đỗi không ai thấy ranh giới nơi nào
mà chỉ thấy bóng tối mênh mông. Tất cả bằng đá: nóc, nền, côật, vách. Ði sâu vào miếu, ông thấy
môật bà tiên vóc vạc to lớn, hình dáng đẹp đẽ, gương măật uy nghiêm. Bà quả là hiêận thân của quyền
năng, tình thương và trí tuêậ. Trong đôậng đá bao la, bà ngồi yên, chú hết tâm trí vào công viêậc của
bà, trong lúc mấy ngón tay của bà nắn nót không ngừng. Chung quanh bà, môật sự yên lăậng hoàn
toàn. Ông nghĩ chắc bà đang tạo khối óc của môật vị anh hùng hay môật vị triết gia, môật công viêậc khó
khăn đòi hỏi môật cố gắng lớn lao. Ông tiến đến vừa run sợ vừa kính cẩn và hỏi bà đang làm gì. Bà
ngước đầu lên và trả lời với giọng dịu dàng nhưng sang sảng trong sự im lăậng: “Ta đang năộn chân
sau của con bò chét .”
Ðó là bài ngụ ngôn. Ý nghĩa của nó khá rõ. Nó nói lên cách thức làm viêậc của bà tiên mà những
đêậ tử của sự hiểu biết cần nhâận định rõ : theo bà, mọi viêậc đều phải được làm cho hoàn hảo. Viêậc
nhỏ cũng như viêậc lớn, viêậc yếu hèn cũng như viêậc dũng mãnh đều chứa đựng tinh hoa của Tạo
Vâột và hành giả phải nghiên cứu tất cả chúng nó môật cách kiên trì và kính cẩn để soi sáng các bí ẩn
thiên nhiên. Có thế, kiến thức mới phát triển, khoa học mới xương minh.

KIẾN THỨC VÔ BIÊN


Kính hiển vi phát minh thế giới mênh mông của các vâật vô cùng nhỏ bé, còn kính viễn vọng thám
hiểm thế giới vô biên của các vâật vô cùng lớn. Ở trên, ở dưới, khắp sáu phương, chúng ta có thể
khảo cứu trong môật cõi bao la hứa hẹn biết bao phát minh mới lạ. Tiếng nói của sự hiểu biết trổi lên
khắp nơi. Thế giới nầy đến thế giới của Thái Dương Hêậ cần được nghiên cứu và chinh phục. Và đến
môật ngày kia, con người thoát khỏi các giới hạn do thể xác tạo ra để sang các cõi khác của Hêậ Thái
Dương. Từ cõi hữu hình, anh tiến sang cõi Trung Giới mà mắt phàm không nhìn thấy. Ở đó, anh phải
thu thâập những kiến thức thuôậc các sự vâật mới. Trí tuêậ anh càng mở rôậng, những sự kiêận chưa biết,
những bí ẩn lạ lùng sẽ lần lượt hiêận ra trước đôi mắt say mê. Khi anh chinh phục được cõi Trung Giới,
thì cõi Trung Giới sẽ lôậ dạng với vô số sự vâật cần quan sát, vô số kinh nghiêậm cần thu hoạch. Giả sử
anh chinh phục xong ba cõi Hồng trần, Trung giới và Thượng giới, anh cũng chỉ biết được ba cõi nhỏ
mà thôi trong khi phần vũ trụ vô biên chưa khám phá lan rôậng tít mù xa. Ví dụ anh chinh phục hành
tinh nầy xong đến hành tinh khác cho đến khi anh quen thuôậc với tất cả như chúng ta quen thuôậc với
thành phố chúng ta đang ở bây giờ. Sau đó, anh sẽ tiến đến các Thái dương hêậ khác trong vũ trụ
mênh mông. Như thế, chừng nào anh mới đạt được ranh giới của sự hiểu biết ? Chừng nào trí thức
con người tự nhâận là kiêật sức để dừng chân ? Kiến thức nầy thêm vào kiến thức nọ, thế giới nầy
chồng vào thế giới kia, hêậ thống nầy chất lên hêậ thống khác, nhưng cõi chưa hiểu biết vẫn còn mênh
mông, giới chưa khám phá vẫn còn bát ngát và sự khao khát hiểu biết vẫn còn thúc giục tâm hồn.
3
Người ta thuâật xưa kia có môật cây trụ lửa cao ngất, trong đó Thần Mahadeva hiêận diêận khắp nơi.
Thần Brahma bay lên ngọn trụ lửa vẫn còn lan rôậng tít mù sâu phía dưới. Chuyêận nầy có thể xem là
môật bức tranh miêu tả Thượng Ðế vô biên, Ngài biểu lôậ trong tất cả thế giới, ở mỗi thế giới môật ít với
môật phần quyền năng của Ngài. Sự hiểu biết không có giới hạn, sự khảo sát cũng thế. Linh hồn chơi
vơi trong vực thẳm vô biên và sau cùng, cái trí mêật mỏi, chán nản phải ngưng đôi cánh tìm tòi.

ÐẠI NGÃ TRONG VẠN VÂỘT


Tuy nhiên, trong lúc tìm hiểu ấy, trong lúc thu nhâập kiến thức ấy, tâm con người lắng nghe được
tiếng nói của Linh Hồn. Linh Hồn ẩn dưới màn hư ảo (maya) nói rằng các hình hài không có thâật,
rằng vĩnh cửu và vô biên là môật, và con người không cần hoạch đắc sự hiểu biết toàn vẹn mà phải
nhâận thức được cái Ðại Ngã thiêng liêng dưới màn hư ảo. Có thế, anh mới có thể đạt được sự minh
triết, vì anh có thể bước từ sự hiểu biết sang sự minh triết bất cứ lúc nào trên con đường tìm học, lý
do là Ðại Ngã ẩn ở khắp nơi “Không có cái chi dù lay đôậng hay đứng yên mà có thể ở ngoài Ðại Ngã.”
Con người hiêận nay chưa hiểu rõ câu nhất thể tán vạn thù, chưa ý thức được rõ ràng sự hiêận diêận
của Ðại Ngã thiêng liêng trong vạn vâật. Trong sự tìm tòi diêậu vợi vì sự vâật nhiều vô số, trên con
đường tìm học mênh mông vì sự khảo sát rộng bao la, đến môật lúc nào con người không sao không
chán nản. Anh cảm thấy tuy không rõ ràng nhưng chắc chắn rằng anh phải ngưng tìm hiểu sự vâật,
thôi quan sát ngoại cảnh để quay mắt vào nôậi tâm. Anh cần ngắm trung tâm bên trong thay vì nhìn
vòng tròn bên ngoài, vì ở bên ngoài, dù anh lục soát khắp vũ trụ, anh cũng không tìm ra Ðại Ngã.
Nhưng nếu anh hướng mắt vào trong, Ðại Ngã hiêận ra cùng khắp.

SỰ PHÂN BIÊỘN VÀ XẢ LY
Chừng đó, ở lòng anh, môật tia sáng rọi vào từ từ nhưng mỗi lúc môật thêm sáng tỏ : ấy là viveka
hay là sự phân biêận. Ánh sáng đó giúp anh phân biêật sự trường tồn trong các điều tạm bợ, cái Ðại
Ngã trong sự vâật, Ðấng Duy Nhất trong vạn thù, và mục đích của mọi sự tìm tòi là Ðấng vô thủy vô
chung, trường tồn bất diêật. Anh bắt đầu phân biêật dáng ngoài và bản thể, điều chơn với lẽ giả, đó là
bước đầu của anh từ sự hiểu biết đơn giản đến sự hiểu biết toàn chân. Ðến khi anh ý thức rõ ràng
Ðấng trường tồn trong sự vâật vô thường, anh mới bước chân vào giai đoạn cao của con đường Ðạo.
Kết quả của sự phân biêận nầy là Vairagya: anh sợ bóng dáng bên ngoài, muốn lánh xa và ẩn trốn
vào nơi nào cách biêật người đời để sống yên lăậng, cô liêu, xa gia đình trong sự an tĩnh của thiên
nhiên. Tuy nhiên, đến mức tiến nầy, ảo ảnh vẫn chưa tan, vẫn còn che lấp Chơn Ngã. Hiêận tượng
hào nháng của phỉnh lừa và như trẻ con, chúng ta tưởng các đồ chơi của chúng ta đang nói, đang
cười và con búp bê của chúng ta biết trò chuyêận, biết vui buồn. Ngoại cảnh tiếp tục trói buôậc chúng
ta bằng những sợi dây chắc dường như dây sắt, nhưng kỳ thâật các sợi dây ấy mong manh như tơ
nhêận vì nó chỉ là hư ảo.

SÁU HẠNH
Tuy nhiên, nhờ biết phân biêận, con người lần lần xả ly ảo ảnh và tin chắc rằng con người có thể
tiến lên. Anh còn nhâận thức rằng có sáu đức tánh cần tâập luyêận ít nhiều trước khi tiến đến Ðại Ngã.
Nên biết rằng trên con đường tiến hóa khó khăn, kẻ thù đôậc hại nhất của chúng ta chính là con người
mình, nghĩa là bản thể thấp hèn của xác và vía nó ghìm chúng ta vào ô trược. Thế nên con người
phải chiến đấu không ngừng để đạt sự bình thản hầu khai mở những quyền năng rất cần trong các
đoạn chót của con Ðường.

Trong sáu đức tánh nói trên, hai đức tánh đầu là sự kiểm soát cái trí và sự kiểm soát xác
thân để chúng nó không còn có thể quấy rầy anh và không khi nào hoạt đôậng để đáp ứng với các
kích thích bên ngoài. Anh phải có môật thái đôậ cởi mở để thông cảm với vạn vâật, và khoan dung đối
với mọi người để nhâận thấy chỉ có môật mục đích duy nhất dưới mọi phương pháp khác nhau, và biết
rõ các con đường đều dẫn đến môật mục tiêu duy nhất. Anh phải tâập bền chí, nếu không thể tìm Ðại
Ngã vì có bền lòng, linh hồn mới trở nên mạnh mẽ. Môật linh hồn yếu đuối không sao tiến đến Ðại
Ngã thiêng liêng bằng con đường Minh Triết. Hạnh thứ năm là lòng tin; anh phải ý thức nguồn gốc
thiêng liêng của anh và tin rằng không có gì mà anh không thể thực hiêận. Sau cùng anh phải đạt
được sự quân bình khiến lòng anh không bao giờ bị dao đôậng. Vì khi lòng dao đôậng, con người
không sáng suốt và Ðại Ngã không thể hiêận ra.

Khi con người đạt được các hạnh nầy, người ta nói anh đã được chuẩn bị để tiến đến sự giải thoát
và sẵn sàng trình diêận để bước vào con đường Minh Triết nhờ các kinh nghiêậm đã thu thâập, nhờ trí
tuêậ sắc bén, nhờ lý luâận tinh vi cũng như các đức tánh quí báu khác. Tiến đến mức nầy, anh được gọi
là adhikari, nghĩa là người đã được chuẩn bị hoàn toàn để nhâận giáo lý tối hâậu : sự minh triết của
Ðại Ngã.

SỰ MINH TRIẾT

Thế nào là Minh Triết ? Minh Triết là hiểu biết trực tiếp Ðại Ngã, là sự nhâận thức Duy Nhất Vô
Biên và Trường Tồn, là quan năng thấy Ðại Ngã khắp nơi và phâận biêật nó dưới các màn ảo ảnh, Ðức
Krishna đã giải thích nó trong câu sau đây: “Hỡi Goudaresha, Ta là linh hồn ngự trong vạn vâột.
Ta là bước đầu, quãng giữa và đoạn chót của vạn vâột.” Kế đó, Ngài giải thích thêm: “Khiêm
tốn, tự hạ, hiền lành, khoan dung, ngay thâột, phụng sự Chơn Sư, thanh khiết, kiên gan, tự
chủ, bình thản trước các cám dỗ của giác quan, vị tha, hiểu biết tường tâộn các nỗi đau khổ
của sự sinh tử, của già nua, bêộnh tâột; xả ly đối với gia đình, nhà cửa, giữ tâm trí quân bình
trước các biến cố xảy ra, môột lòng tôn sùng Ta và không hợp nhất với kẻ khác; tới lui
những nơi vắng vẻ, lạnh nhạt trước đám đông; vững lòng trong minh triết Adhyama; nhâộn
thức mục đích của minh triết. Những điều trái với các hạnh trên là vô minh. Ðó là Ánh Sáng
của các ánh sáng. Minh Triết, mục tiêu của Minh Triết, bước cùng của Minh Triết ngự ở lòng
mọi người” (Bhagavad Gita, XIII).
Theo lời giải thích của chính Ðức Krishna thì Minh Triết là thế. Khi Ngài đề câập sự quyết tâm của
người chí nguyêận trên con Ðường Minh Triết, Ngài nhớ đến Adhikari và giải thích sự Minh Triết như là
sự hiểu biết Bản Chất của Ðấng Tối Cao. Ngoài điều nầy, tất cả là vô minh. Kiến thức là vô minh nếu
nó hạn chế ở ngoại cảnh. Khoa học là vô minh nếu nó chỉ nghiên cứu hiêận tượng hư ảo. Minh triết chỉ
có trong sự tìm hiểu Ðại Ngã, trong bản chất Nó và trong sự hiêận diêận của nó ở khắp nơi

ÐẠI NGÃ DUY NHẤT VÀ BẤT ÐÔỘNG

Chúng ta hãy tìm hiểu phần nào sự Minh Triết đó. Ðại Ngã là duy nhất. Sự dị đồng thuôậc ngoại
cảnh, đó là màn hư ảo che giấu sự Duy Nhất trong đời sống duy nhất, sự sống duy nhất, Thượng Ðế
duy nhất. Ngoài sự duy nhất ấy, không có gì nữa cả. Ðại Ngã vô vi. Hoạt đôậng thuôậc Prakriti. Cái
màn bao giấu Ðại Ngã là sự diễn tiến của các gounas. Sự dị đồng và các hoạt đôậng của Tạo Hóa chỉ
liên hêậ đến hình dáng bên ngoài, hình dáng hữu hình của sự Duy Nhất. Sự biến chuyển vâật nầy
thành vâật khác, sự sinh tử, già nua, sự thay đổi thường xuyên trong các sinh vâật, đó chẳng qua là
bánh xe hoạt đôậng của các gounas, còn Ðại Ngã thì bất đôậng. Toàn thể là Ðấng Tối Cao bị bao phủ
trong hư ảo, là Vishnou và trò chơi của Người, là cuôậc diễn tiến thông thường của Vũ Trụ. Ðó là
tưởng tượng của Ðấng Tối Cao. Các sắc tướng thay đổi theo người và do đó mà hư ảo. Sự sống chính
là Ngài và Ngài là tất cả. “Kẻ nào biết được chính Prakriti hoạt đôộng, còn Ðại Ngã vốn bất
đôộng, người ấy biết đúng” (Bhagavad Gita, XIII). Ðó là kết quả của sự phân biêận, của cái thấy
sáng suốt giữa Ðại Ngã và các màn hư ảo của Tạo Vâật nó bao bọc và che giấu. Ðại Ngã vốn vô vi.
Những hoạt đôậng gán cho Nó chỉ thuôậc Tạo Vâật bên ngoài. Chơn Ngã ở khắp nơi, ẩn trong tất cả,
vượt qua vạn vâật. Môật lần nữa, lời của Minh Triết đến với chúng ta: “Thâột sự, Ishvara ngự đồng
đều khắp nơi .” (Bhagavad Gita,XIII).

ÐẠI NGÃ NGỰ ÐỀU TRONG VẠN VÂỘT

Bài học khó khăn làm sao ? Ðồng ngự khắp nơi trong các vâật thấp kém, xấu xa cũng như trong
các thể huy hoàng, cao cả, trong nguyên tử của hạt bụi cũng như ở Thái Dương của Vũ Trụ; thế là
cái Ngã của kẻ trụy lạc cũng là cái Ngã của bâậc thánh nhân. Bài học nầy cao quí làm sao ! Ý nghĩa
nầy tốt đẹp làm sao ? Ý nghĩa đó là Ðấng Tối Cao vẫn hêật nhau trong vạn vâật vì toàn thể Vũ Trụ là
biểu hiêận của Ngài. Ngài há không nói: “Ta là sự gian lâộn của con bạc và là sự huy hoàng của
những vâột nguy nga !” Bạn hiểu bài học đó không ? Bạn hiểu ý nghĩa của nó đối với Vũ Trụ
không ? Nó nói lên rằng muốn được minh triết hoàn toàn, con người phải trải qua tất cả kinh
nghiêậm. Bạn đã thấy Ðại Ngã trong các điều đẹp đẽ, cao sang, quyền quí nhưng bạn có thấy nó ở
các viêậc xấu xa, ti tiêận, hèn hạ không ? Nếu bạn thấy được như vâậy, thì không cái gì tốt, cái gì xấu vì
tất cả đều là thành phần của Ngài, vì tất cả đều cần thiết cho sự tiến hóa. Mỗi món đều có môật chỗ
trong cơ trời, mỗi vâật đều có môật vị trí trong toàn thể. Vì các bạn lưu ý thấy các sự dị đồng nên các
bạn thấy sự bất toàn. Bạn chỉ thấy môật phần chứ không phải toàn thể. Ấy cũng như bạn xem môật
tấm thảm phía bề trái, với những đầu dây, gút chỉ nên không thấy mẫu hình dêật trên thảm. Bạn hãy
xem bề măật, trên đó màu đen cũng gần như những màu rực rỡ khác, mỗi màu có môật vai trò riêng.
Ðại Ngã thiêng liêng ấy là môột trong vạn vâật và không có vâật nào ở ngoài Nó. Không có vâật nào ở
ngoài toàn thể. Mắt phàm của chúng ta chỉ thấy sự bất toàn mà không thấy cái Ngã đang tinh luyêận
để đến chỗ hoàn toàn. Toàn thể đều tiến đến sự hoàn toàn: cái xấu hướng về cái đẹp, cái dại khờ
hướng về cái thông minh. Vì vâậy, bạn hãy cố thấy Ðại Ngã ở khắp nơi, ẩn đều trong vạn vâật rồi sự
phân biêận sáng suốt sẽ đến với bạn và Ðại Ngã sẽ hiêận ra huy hoàng.

ÐẠI NGÃ HẤP DẪN : TA LÀ NGÀI

Sau đây là môật bài học khác : tất cả những gì hiêận có và quyến rủ, tất cả những chi đẹp đẽ và
hấp dẫn đều nhờ Ðại Ngã bên trong mới được thế. Nếu yếu tố thiêng liêng nầy vắng bóng thì sự hấp
dẫn không còn. Bạn có nhớ chăng khi bà Maitreyi cầu xin chồng dạy mình bài học về sự trường tồn
thì ông nói: “Hãy xem kỹ: người chồng đáng yêu không phải chính vì ông mà nhờ Ðại Ngã
ông mới đáng yêu. Hãy xem, người vợ đáng yêu không phải chính vì bà, mà nhờ Ðại Ngã bà
mới đáng yêu. Hãy xem: đứa con đáng yêu không phải vì nó mà nhờ Ðại Ngã nó mới đáng
yêu. Hãy xem, tài sản đáng yêu không phải chính ví nó, mà nhờ Ðại Ngã nó mới đáng yêu.
Phải, cho đến thần thánh đáng yêu không phải vì thần thánh, mà nhờ Ðại Ngã thần thánh
mới đáng yêu.” Vị thánh giải thích như vâậy cho người vợ ngồi nghe chăm chỉ thế nào là Ðại Ngã
huyền bí, thế nào là tình thương nhiêậm mầu nó phát xuất từ mỗi sinh vâật riêng rẽ đến các sinh vâật
khác. Tình yêu là sự Ðại Ngã tìm chính mình trong kẻ khác. Ngài còn kể nhiều ví dụ khác để chứng tỏ
rằng sự vâật đáng mến vì Chơn Ngã bên trong chứ không phải do ảo ảnh bao bọc nó “Ta phải thấy,
phải nghe Ðại Ngã và suy ngẫm Nó.” Ðó là bí quyết của sự trường tồn. Ðó là lời dạy của vị Thánh
cho vợ yêu thương của Ngài; đó là lời của vị Chưởng Giáo dạy môn đêậ về minh triết thâm diêậu. Khi
bài học nầy học xong thì “Bạn là cái Ðó.” Khi bài học nầy được hiểu rõ thì “Ta là Ngài” và sự dị
đồng sẽ không còn. Ðó là tâm trạng của người Jnani [2]. Tâm trạng ấy vươn trên mọi biến chuyển của
các gounas và thoát hẳn khỏi bánh xe luân chuyển của Tạo Vâật. Chỉ có môật Ðấng Duy Nhất, ngoài
ra, không còn chi nữa. Bài học nầy, cắt dứt các dây liên hêậ và giải thoát con người. Ở con người ấy,
mọi dục vọng đều tiêu tan, mọi hoạt đôậng tri thức đều lắng dịu. Người không làm gì cả vì các gounas
vâận chuyển xuyên qua anh. Thâật ra, phàm ngã hoạt đôậng với xác thân và trí óc, còn anh thì thản
nhiên bất đôậng. Ðó là thuyết vô vi. Ðó là bí quyết của sự Minh Triết.
MINH TRIẾT VÀ HIÊỘN TƯỢNG

Như vâậy, ta phải sống như thế nào ? Trước khi giải đáp, tôi xin quí bạn nghe môật chuyêận lạ để
giúp quí bạn phân biêật thế nào là Minh triết thâật, thế nào là Minh triết giả. Môật quyển kinh có thuâật
[3]
chuyêận Ðức Krishna, các Gopis và vị Thánh Durvasa. Vị Thánh nầy môật năm chỉ ăn có môật lần và
mỗi lần ăn, ông ăn rất nhiều. Các nàng Gopis có phâận sự đem thức ăn cho Ngài. Họ mua sắm thức
ăn ngon, đựng trong môật chồng dĩa rồi mang dâng lên Ngài. Khi họ đến gần đôậng Ngài thì găập môật
dòng sông chảy ngang qua rất mạnh. Họ không qua được mới quay về bạch với Ðức Krishna : Chúng
tôi phải làm sao ? Nếu chúng tôi không vượt qua được dòng nước ồ ạt, Ðức Durvasa sẽ giâận và khi
Ngài giâận thì vũ trụ sẽ cháy tan tành. Ðức Krishna mỉm cười bảo : Hãy trở lại con sông và nói nhân
danh Ta: “Hỡi sông ! Nếu Krishna là Bramachari [4], ngươi hãy quay dòng lại .” Các nàng Gopis
nói với nhau : chung quanh Ngài toàn là Gopis mà sao lại nói Ngài đôậc thân ? Nhưng họ tin ở sự minh
triết của Ngài nên trở lại dòng sông và nói lên lời Ngài. Khi nghe xong lời nầy, con sông quay dòng và
các nàng Gopis đi ngang qua bên môật vách nước. Khi các nàng dâng thức ăn lên, vị Ðại Hiền ăn dĩa
nầy qua dĩa nọ và ăn hết thức ăn. Khi đến giờ về, họ cũng không qua được sông. Họ nói “Làm sao
mình qua sông ?” Họ bèn nhờ Ngài giúp đỡ. Ngài nói: Các con hãy đến con sông và nói : “ Hỡi sông
! Nếu Ðại Ðức Durvasa chỉ ăn không khí thôi, thì sông hãy quay dòng để chúng tôi qua.” Các nàng
Gopis tự nhủ : “Coi, Ngài ăn hết đồ ăn mình mang lại không còn môột miếng thừa, vâộy mà nói
Ngài chỉ sống với không khí !” Nhưng họ không biết làm gì khác hơn nên họ tiến đến con sông và
nói : “Hỡi sông, Nếu Ðại Ðức Durvasa chỉ ăn không khí mà thôi thì sông hãy quay dòng để
chúng tôi qua .” Môật lần nữa, khi nghe lời nầy thì con sông quay dòng để cho các nàng qua. Các
nàng mới thuâật chuyêận lại cho Ðức Krishna và cầu xin Ngài giải thích. Ngài mới dạy rằng môật khi con
người đã được sự minh triết, thì lòng không còn liên hêậ đến hành đôậng, không còn vương vấn với sự
vâật xung quanh. Người Jnani chân chính vượt cao khỏi hành đôậng và không xúc đôậng với hiêận tượng
bên ngoài.

MINH TRIẾT THÂỘT, MINH TRIẾT GIẢ

Ðến đây, hành giả còn găập môật lầm lạc khác. Nhiều người nói là minh triết nhưng chỉ minh triết ở
đầu môi chớ thâật sự không phát triển được nôậi tâm; họ nói : “Tôi là Ðấng Tối Cao” nhưng lòng dao
đôậng với mọi sự vâật : ở người dục vọng còn nhiều, kỷ luâật chưa có, ngày ngày chạy theo sở thích của
giác quan nhưng nói: “chỉ có thể xác tôi cảm xúc còn tôi thì bất đôộng”; người ấy lầm đường và
không thành thâật. Là vì người Jnani chân chính sử dụng các gounas chứ không bị gounas sử dụng.
Người dùng chúng nó để đạt mục đích đăật để cho vũ trụ chúng ta nhưng không để tâm xao xuyến vì
chúng. Những ai không chống nổi với các cám dỗ của thể xác mà nói : “chỉ thể xác tôi hành đôộng,
còn tôi là Ðấng Tối Cao”, người ấy nói để mà nói chứ không minh triết chút nào, y sẽ trở nên hư
hỏng và sa đọa. Người minh triết có thể đảm trách bất kỳ hoạt đôậng nào để tiến lên Ðấng Tối Cao,
nhưng lúc nào anh cũng chỉ là môật vâận hà bảo trì thế giới. Anh nhâận cảm hứng từ bên trong chứ
không phải từ bên ngoài. Anh dùng các dụng cụ của anh như môật chủ nhân chứ không dấn thân vào
viêậc như môật kẻ tôi đòi. Anh được tự do chứ không bị trói buôậc. Trên con đường đạo, khi con người
chỉ thỏa mãn xác thân mà miêậng thì thốt những lời minh triết, anh sẽ là miếng mồi của ảo vọng và
ngăn trở bước tiến của linh hồn. Vì lẽ đó, công viêậc của các Chưởng Giáo bị xoay chiều theo các dục
vọng riêng tư và kinh Vêậ Ðà được dùng để chữa lỗi cho những tâm hồn hèn hạ. Người ta nói đã giữ
được lòng bình thản nhưng thâật sự thì không. Ðể tránh nguy hại nầy, ngày xưa bài học nói trên chỉ
dạy cho những ai có những đức hạnh cần thiết. Người nào mà ham muốn không còn, dục vọng đã
tắt, người nào đã chán chê thế cuôậc, người ấy mới đáng trở thành đêậ tử, mới được Chơn Sư ban
truyền bí giáo.
Con đường Minh Triết là thế; những khó khăn của nó là thế. Ai theo nó môật cách sáng suốt sẽ
thoát trần và sống môật đời sống tự do.

MINH TRIẾT VÀ TÔN SÙNG

Tuy nhiên, bạn đừng quên rằng sự giải thoát nầy chỉ nhằm mục đích cá nhân chứ không phải để
phụng sự Thiên cơ. Dù sự giải thoát ấy có dài đến cả triêậu năm thì bạn cũng cần bước thêm môật
bước nữa mới tiến đến sự toàn thiêận. Kinh Upanishad dạy rằng Chơn Ngã không thể tìm bằng sự hiểu
biết suông mà bằng sự hiểu biết hợp với sự tôn sùng. Người ta có thể đạt được sự giải thoát bằng
minh triết và tiến lên Janaloka dành cho các vị thánh để thoát khỏi bánh xe luân hồi sinh tử. Nhưng
môật đời toàn thiêận là môật đời sống không đòi hỏi chi cả và luôn luôn an lạc ngay trong cảnh tôi đòi
bao giờ Ðấng Chí Tôn còn biểu hiêận, bao giờ Ðức Ishvara còn hoạt đôậng. Ðời sống toàn thiêận ấy là
kết quả của sự kết hợp của Minh Triết và Tôn Sùng.

[3]
Các cô chăn cừu, bạn đồng chơi với Krishna.
[4]
Người đôỘc thân tạm.
PHÁP MÔN BHAKTI YOGA. [5]

trích trong
Ba Con Đường Hợp Nhất Dẫn Đến Sự Hợp Nhất

ÐỊNH NGHĨA

Ðức Giáo Chủ Shri Krishna nói: “Những ai hướng tâm trí về ta và tôn sùng ta với môột tấm
lòng hòa hợp, với môột tín ngưỡng nhiêột thành, những kẻ ấy rất vững bước trên đường đạo.”
Ngài nói thêm : “Hướng tâm trí vào Ðấng Vô Hiêộn (Non manifeste) là môột viêộc vô cùng khó
khăn cho những người còn mang năộng xác phàm. Quả thâột, ớ Partha, những ai đã xả ly vì
ta, đã quyến luyến ta và cầu nguyêộn ta môột cách chân thành, ta sẽ đưa họ qua sông mê,
biển khổ, vì tâm trí họ đã đăột trọn ở ta.” Ðó là những lời mà Thánh Sư Krishna đã dạy đêậ tử yêu
dấu của Ngài. Những ai hướng tâm vào Ðấng Ishvara môật cách chân thành và thờ phượng, tin tưởng
Ngài, những kẻ ấy sẽ được Ngài cứu vớt ra khỏi cảnh trầm luân khổ hải, nơi đây, biết bao linh hồn đã
chìm đắm từ kiếp nầy sang kiếp nọ và ước nguyêận được giải thoát ra. Lòng môậ đạo ấy, sự chiêm
ngưỡng ấy, sự tôn sùng ấy được chứa đựng trong chữ Bhakti hay tình thương mến, và con đường tu
bằng tình thương được gọi là Bhakti Yoga mà chúng ta tìm hiểu trong buổi nói chuyêận hôm nay.

TẠI SAO NGƯỜI BHAKTA TÔN THỜ ÐẤNG BIỂU HIÊỘN

Con đường Minh Triết và con đường Tình Thương khác biêật nhiều từ đầu đến cuối. Ðến mục tiêu
cũng có vẻ không giống nhau, nhưng kỳ thâật chúng nó là môật. Trên con đường Minh Triết, hành giả
tìm sự sống duy nhất, tìm Ðấng Vô Biên, Ðấng Trường Cửu, Ðấng Vô Hiêận ẩn ở vạn vâật và thấm
nhuần muôn loài, và tìm sự phân biêận, sự minh triết. Nhờ vâậy người lần lần ý thức được Chơn Ngã,
tiến đến ý niêậm “Ta là Ngài” và đồng hóa hoàn toàn với Ðấng Tối Cao, đôậc nhất vô nhị. Khi ta tìm
hiểu mục tiêu của người tu theo con đường tình thương, ta thấy Ðấng mà họ thành thâật mến yêu,
thờ phượng và tin tưởng, Ðấng ấy cũng chẳng qua là Ðấng Ishvara, Ðấng Tối Cao được nhân cách
hóa, Ðức Thượng Ðế biểu hiêận trong môật hình thể để dễ được mến yêu, sùng bái.

Trên thực tế, lòng yêu mến, tôn sùng chỉ có thể phát triển, khi nào nó được hướng về môật Ðấng
được biểu hiêận trong giới hạn của môật cá thể. Dù chúng ta quan niêậm cá thể môật cách rôậng rãi thế
nào đi nữa, dù chúng ta có hủy diêật tất cả những gì có thể giới hạn nó, nhưng khi chúng ta còn nghĩ
đến môật cá thể nhân cách hóa, thì quan niêậm ấy vẫn đưa đến ý niêậm giới hạn. Và sự giới hạn nầy là
đăậc tính của Ðấng Ishvara tối cao, của Ðấng Tạo Hóa. Ngài phải tự giới hạn để biểu hiêận, để vũ trụ
có thể tồn tại và chính Ðấng Hóa Công biểu hiêận ấy mà vạn vâật đều khao khát, tôn sùng.
Chúng ta còn để ý rằng Ðức Ishvara tối cao mà người Tây phương gọi là “Thượng Ðế cá nhân”
thỉnh thoảng còn biểu hiêận bằng những hóa thân (Avatars) để hiến cho nhân loại môật cá nhân cụ thể
hầu tiêận khai mở lòng tôn sùng và kêu gọi sự kính mến, hiến dâng. Theo tín ngưỡng của người Ấn Ðôậ
cũng như theo nhiều tín ngưỡng khác, Ðấng Tối Cao biểu hiêận không những như là Ðấng Chúa Tể
của vũ trụ mà còn dưới hình thức con người thanh cao, khả kính để hấp dẫn lòng người. Có thế nhân
loại mới tiện tôn thờ. Vì lòng hạ cố đối với sự yếu đuối, ươn hèn, vì sự thương xót trí hóa thấp kém
của chúng ta, mà vẫn giữ môật vài nét tâận thiêận, tâận mỹ của Ngài.

Khi chúng ta tìm hiểu các tín ngưỡng và các tôn giáo trên hoàn cầu, chúng ta nhâận thấy điều nầy
được phổ biến khắp nơi và môật hình thể nửa người, nửa thánh được tôn kính ở bàn thờ. Và tuy chúng
ta biết rằng trên hình thể nầy còn có môật Ðấng Tối Cao, và trên Ðấng Ishvara còn có Ðấng Chí Tôn
đôậc nhất vô nhị, chúng ta không thể rời chân Ðấng Biểu Hiêận vì tâm tư chỉ có thể an nghỉ và trú ẩn
nơi Ngài. Dù dưới danh hiêậu Kamachadra hay Sri Krishna hay dưới danh hiêậu Ðức Ky Tô hay Ðức
Phâật, chúng ta vẫn nhâận thấy nhân loại ước nguyêận được tôn thờ môật Nhân vâật và tìm ở các cảm xúc
tôn giáo môật sự thỏa mãn mà môật quan niêậm trừu tượng không thể mang lại được. Ðối với ai tu theo
con đường Tình Thương, nhân vâật tôn thờ phải là mục tiêu của con đường. Là vì làm sao nhân loại có
thể mến thương sự sống vô biên hay không gian vô tâận và làm sao con người có thể an nghỉ trong
lòng Thượng Ðế nếu không có các giới hạn biến mọi vâật thành sự “thâỘt” đối với chúng ta.

BHAKTI VÀ SỰ DỨT BỎ, HIẾN DÂNG

Trên con đường Tình Thương, hành giả tìm Ðấng Chí Tôn của mình theo thể thức đó.
Nhưng thứ tình thương nào gợi hứng anh ? Thứ tôn sùng nào phấn khởi anh ? Thứ gì thấm nhuần con
người anh và làm rung đôậng mỗi sợi tơ của đời sống anh cho đến nỗi đối với anh cái chi cũng là hư
ảo ngoại trừ Ðấng anh kính yêu, và cái chi cũng đều mờ ám trước hào quang của Ngài ? Vị hiền triết
có thể xem là hiêận thân của Tình Thương và lòng tôn kính là Narada có truyền lại cho chúng ta
những giáo lý về Tình Thương, Ngài diễn tả Nó, nhấn mạnh các đăậc điểm của Nó và dạy chúng ta
những gì ta muốn đào dưỡng lòng mến yêu, tôn kính của chúng ta.

Narada khởi đầu nói về bản chất của Bhakti : Bhakti là “sự tôn kính tôột đôộ môột Ðấng Cao Cả ”
[6]
. Sau đó Ngài trình bày nhiều định nghĩa của chính Ngài. Theo Ngài, lòng tôn kính là nồng cốt của
con đường Bhakti nhưng Bhakti còn vượt khỏi lòng tôn kính nữa. Narada giải thích Tình Thương theo
quan niêậm của Vyasa, Garga và Sandilya rồi Ngài nói: “Tình thương mến là sự hiến dâng tất cả
hành đôộng cho Ðức Thượng Ðế và sự cảm thấy mình vô cùng đau khổ khi quên Ngài .” Lời
nầy diễn tả chính xác thế nào là tình thương mến : trọn đời hiến dâng cho Ðấng Chí Tôn và sự đau
khổ khi vắng Ngài. Nếu lòng người bị che đâậy bởi sự ham mê môật vâật nào đó, nếu có môật sợi mây
đến phân cách tâm anh và Ðức Thượng Ðế dù trong khoảnh khắc, sự quên lãng ấy sẽ tạo cho anh
môật đau khổ vô ngần. Ðó là lời dạy của Narada mà những ai khao khát, ngưỡng môậ đều rõ biết. Tiếp
đó, Ngài miêu tả con người đã đạt được tình thương đó như sau: “Khi con người đạt được tình
thương mến rồi, anh trở nên chí thiêộn, trường tồn và tự thấy thỏa mãn; môột khi đã được nó
rồi, con người không còn ham muốn gì cả, không buồn phiền, không oán ghét, không ham
dục lạc, không theo đuổi những mục tiêu ích kỷ: ngay lúc biết được tình thương, lòng
người ngây ngất, an lạc.” Ngài thêm môỘt đoạn sau: “Người ta không thể quyến rủ anh
chạy theo dục vọng vì bản chất của anh là sự xả ly.”

THẾ NÀO LÀ TÌNH MẾN YÊU THƯỢNG ÐẾ ?

Sự thương mến, tôn sùng là như thế, theo lời của môật vị có thể xem là hiêận thân của nó. Làm
sao ta có thể có sự thương mến và tôn sùng đó ? Các giai đoạn của con đường thương mến như thế
nào ? Khi lòng người chỉ có những tình thương thấp kém làm sao ta có thể hướng lên Tình Thương
tuyêật đối ? Khi tâm trí con người còn đeo đuổi các dục vọng của giác quan, làm sao ta có thể ý thức
Ðấng Duy Nhất toàn tri ? Khi chúng ta còn sống trong ảo ảnh, còn bâận bịu với những mối tình hèn
hạ, còn dẫm sâu dưới bùn nhơ, làm sao ta có thể tiến đến tình thương cao thượng của Narada ?

Chúng ta cần phải vạch rõ các giai đoạn của pháp môn tình thương nầy. Chúng ta hãy khởi đầu
bằng chỗ bất toàn để cố gắng tiến đến chỗ hoàn toàn. Chúng ta có thể đang ngây ngất vì lòng tôn
sùng cao đẹp, có thể bị chóa mắt bởi tình thương huy hoàng, nhưng chúng ta cần tìm hiểu tình
thương nảy nở trong lòng ta như thế nào, và với thứ nhiên liêậu nào, ta phải dinh dưỡng ngọn lửa tôn
sùng như thế nào để ta có thể trở thành ngọn lửa thiêng ấy.

Tình thương phàm tục có thể gợi cho chúng ta môật ý niêậm về tình thương thiêng liêng. Quan sát
nó, chúng ta có thể hiểu qua môật vài đăậc điểm của người Bhakta. Ðối tượng tôn thờ có thể khác
nhưng đăậc điểm vẫn hêật nhau. Quí vị hãy nghĩ trong chốc lát về môật thứ tình thương nồng nhiêật
nhất, thuần khiết nhất, thanh cao nhất mà quí vị có thể có đối với môật kẻ thân yêu. Rồi quí vị hãy
phân tích kỹ càng đời sống của quí vị và xem nó được biến đổi như thế nào. Quí vị sẽ thấy tất cả sự
vâật đều trở nên lạnh nhạt trước sự cao đẹp của mối tình đó. Quí vị có thể đang chạy theo giàu sang,
đang đam mê văn chương, đang thích thú học hỏi rồi bỗng nhiên ở chân trời xa của đời sống, môật
hình ảnh kiều diễm hiêận ra khiến bạn yêu mến với tất cả sự nồng nàn của phần hồn. Trước sự vinh
quang và mỹ lêậ của hình ảnh đó, tâm trí của bạn biến chuyển hẳn. Trước lòng từ ái và phong phú
của vị ấy, tài sản mất hết giá trị; trước lời lẽ hoa mỹ của Ngài, văn chương tỏ ra thô kêậch, kiến thức
giống như những chiếc lá khô. Sự vui sướng nhất của bạn là được gần gũi Ngài, là để trọn bản thể
thấm nhuần tình thương mến Ngài. Tất cả dục lạc đều mất tính cách hấp dẫn, tất cả màu sắc đều trở
nên âm u. Ðối với quí vị, Ngài không những là môật người bạn mà còn là môật người hướng đạo, môật
ông thầy, môật tình quân với tất cả những hạnh cao, đức tốt.

Lòng yêu thương Ngài biến đổi trọn vẹn đời sống bạn. Dưới ánh sáng tỏa ra từ Kim thân Ngài, tất
cả đều nhuôậm màu sắc mới. Bạn hãy tưởng tượng môật tình thương như thế cao vút tâận trời xanh,
thâm sâu như lòng biển, môật tình thương môật ngày trở nên cao cả nhờ sự hoàn thiêận của Ðấng bạn
yêu mến, mỗi lúc càng trở nên nồng nàn bởi các đức hạnh của Ngài, môật tình thương như thế không
bao giờ gây sự mỏi mêật, nhàm chán. Khi bạn tưởng tượng như thế thì bạn sẽ có môật ý niêậm sơ lược
về tình yêu của kẻ chí nguyêận đối với Ðấng họ tôn thờ.

Trong môật buổi giảng đạo ở Mỹ, Ðại Sư Vivekananda thuâật môật chuyêận khá thú vị để dẫn chứng
rằng phần đông người đời ít yêu mến Ðức Thượng Ðế. Ngài nói môật hôm môật câậu thanh niên thưa với
môật tu sĩ rằng câậu muốn tìm Thượng Ðế. Vị tu sĩ mỉm cười và lăậng thinh. Câậu thanh niên thưa lại
nhiều lần và nhiều lần bày tỏ khát vọng tìm Thượng Ðế của câậu. Sau nhiều ngày, vị tu sĩ mới dẫn
câậu ra con sông nơi ông tắm mỗi buổi mai. Khi hai người xuống tắm, ông mới nhâận câậu thanh niên
dưới nước và giữ câậu ở đó. Câậu thanh niên vùng vẫy để trồi lên. Môật lúc lâu, vị tu sĩ đỡ câậu ra khỏi
nước và hỏi: “Con ạ, khi con ngộp nước như thế, con ao ước điều gì ?” CâỘu nói: “Môột ít
không khí.” “Nếu người học đạo khao khát Thượng Ðế như vâộy, người sẽ tìm được Ngài.
Nếu con tìm Ngài như thế ấy, Ngài sẽ thương yêu con.”

Nhưng có bao nhiêu người khao khát như vâậy ? Có bao nhiêu người thành thâật muốn tìm Thượng
Ðế như vâậy ? Khi họ găập môật khó khăn, họ quên mất Ngài và khát vọng tìm Ngài cũng tiêu tan. Khi
câậu thanh niên ngôập nước, vùng vẫy nhô lên, chớ người chí nguyêận ngay lúc ngôập thở cũng chỉ nhớ
đến Thượng Ðế và tự nhủ nếu phải chết dưới sông, anh sẽ chết để có thể tìm Ngài nhanh chóng.
Trên đường đời, chúng ta ham muốn đủ thứ : chúng ta ao ước phú quí, công danh, ham muốn vui
chơi, chiếm hữu. Môật tấm lòng đã tham như vâậy làm sao còn có chỗ dành cho Thượng Ðế mến yêu ?
Sách Thiên Chúa Giáo dạy không có chỗ cho Ðấng Ky Tô trong quán trọ, và thâật sự, tâm ta cũng như
môật quán trọ dẫy đầy lữ khách. Như vâậy, làm sao ta có thể đón tiếp Ngài ?

NGƯỜI BHAKTA NUÔI DƯỠNG XÁC THÂN NHƯ THẾ NÀO ?

Tuy nhiên, chúng ta không nên thất vọng, và hãy tìm xem có lối nào dẫn vào pháp môn tình
thương. Ðến đây, giáo lý của Ðại Sư Ramanaja sẽ giúp chúng ta nhiều vì Ngài thường giảng dạy về
những bước đầu của sự phát triển lòng sùng tín và tình thương chân thâật.

Khi giảng dạy những giai đoạn sơ cấp ấy, Ðại Sư khởi sự bằng những bước đầu ngay lúc con
người còn sống trong thể xác ở cõi trần. Trước hết Ngài nghĩ đến xác thân và chỉ bảo cách thức trông
nom nó, đồng thời Ngài nêu các đức hạnh cần cho thể xác để mở lòng từ ái thiêng liêng. Cái hạnh
đầu tiên là viveka (tánh phân biêận) mà Ngài giảng dạy theo môật ý nghĩa đơn giản nhất, khi Ngài áp
dụng nó vào sự chọn lựa thức ăn. Muốn xác thân trở thành môi vâật cho môật linh hồn thấm nhuần
tình thương thiêng liêng, con người phải giữ gìn nó thanh khiết, phải tỏ ra sáng suốt trong sự chọn
lựa thức ăn. Anh không nên dùng môật thức ăn nào có thể gây đau đớn cho sinh vâật. Người tu theo
con đường thương mến không thể là nguyên nhân đau đớn, là nguồn thống khổ cho những sinh vâật
đàn em còn ở những nấc thấp trên chiếc thang tiến hóa. Anh không nên ăn môật thứ gì phát xuất từ
môật sinh vâật biết đau. Không môật tu sĩ Bhakta nào chịu mó đến môật thức ăn như vâậy. Là vì nếu dùng
môật thức ăn như thế, chẳng những anh sẽ làm ô uế thân anh mà còn hạ thấp linh hồn : anh tỏ ra
thù ghét thay vì nhân từ, ích kỷ thay vì vị tha; anh gây đau đớn cho những con vâật hiền lành thay vì
bảo vêậ nó, anh từ bỏ môật lối sống hiền hòa để tìm những món ăn khoái khẩu. Thế là anh chà đạp
tình thương. Trong sự lựa chọn rất cần thiết nầy, sự tinh khiết cần được tôn trọng vì các thể thanh
của chúng ta rất dễ bị ô uế do ảnh hưởng bên ngoài, và chúng ta phải giữ gìn cẩn thâận để không
cảm nhiễm những điều dơ bẩn, từ bên ngoài lẫn bên trong. Sự thanh khiết còn cần được giữ gìn để
cho xác thân trở nên môật linh miếu mà tu sĩ Bhakta sẽ sử dụng thường trên con đường sùng tín. Ðại
Sư dạy thêm: “thức ăn thanh khiết, tâm trí thanh khiết, luôn luôn nhớ tưởng Thượng Ðế”: đó
là nếp sống của người Bhakta.

DIÊỘT TRỪ MỌI HAM MUỐN


NGOẠI TRỪ NGUYÊỘN VỌNG NGƯỠNG MÔỘ ÐỨC THƯỢNG ÐẾ.

Ðó là những biêận pháp đầu tiên dành cho những ai muốn tìm Thượng Ðế, muốn vun quén ở lòng
cái hạnh thiêng liêng là tình thương. Sau đó, Ðại Sư dạy thêm rằng hành giả còn phải diêật trừ mọi
dục vọng, ngoại trừ nguyêận vọng duy nhất là tâập trung tâm trí vào Ðức Thượng Ðế, là ngưỡng môậ
Ngài. Trong lòng anh không còn môật ham muốn nào khác. Nguyêận vọng ấy phải lan khắp châu thân
anh và thấm nhuần các phần tử con người anh. Tất cả ham muốn đều phải nhường chỗ cho nguyêận
vọng tha thiết ấy. Ðiều nầy phải được thực hiêận từ giây từ phút. Khi anh cố gắng tâập trung như vâậy,
anh mới ý thức rằng trí anh lau chau, tản mác, lúc nào cũng nhớ đến viêậc nầy, chuyêận nọ, chớ không
thể trụ vào sự chiêm ngưỡng Ðấng Tối Cao. Nhưng khi Arjuna than phiền tâm trí anh xao xuyến như
gió và rất khó chủ trị, Ðại Sư há không đáp: “Nó có thể kềm chế được bằng sự kiên tâm thực
hành ?” Vâậy hành giả phải cố gắng trụ tâm vào Thượng Ðế. Mỗi lần nó quay sang viêậc khác, anh
phải kéo lại và hướng nó vào Ðấng Tối Cao. Anh phải chọn những thời khắc nhất định để trầm tư,
chiêm ngưỡng, để đăật hết tâm trí vào Ngài.

Ðó chỉ là những bước đầu. Ở giai đoạn nầy hành giả sùng bái vào giờ khắc nhất định, nhưng về
sau sẽ sùng bái suốt ngày. Anh chiêm ngưỡng thường để rồi sự chiêm ngưỡng sẽ trở nên liên tục.
Nhưng như thế cũng chưa đủ. Sự thực hành nầy sẽ đưa đến môật lối sống không còn có đăậc tính ban
đầu của lòng sùng đạo. Bây giờ hành giả có thể thích thú trong sự trầm tư chiêm ngưỡng. Trong sự
liên hoan đó, anh có thể quên tất cả. Bây giờ, anh thích sùng bái vì được sung sướng trong những
giờ phút nầy.

HÃY BỐ THÍ, BAN CHO.


Tuy nhiên, người Bhakta không tìm lợi lạc riêng. Anh tìm cách bố thí, ban cho mãi mãi cốt để diêật
trừ lòng ích kỷ và tính tham của con người. Bước tiến trong giai đoạn nầy là giúp đời. Anh không nên
chiêm ngưỡng mãi mà phải ban rải tình thương cho kẻ khác và cố gắng giúp đỡ những kẻ cô thế
nghèo nàn. Anh không thể trừ tánh chiếm hữu nếu anh không tâập từ bỏ để nhường kẻ khác. Hãy
cho, cho mãi, cho hoài vì cho là đăậc tính của tình thương. Tình thương không đòi chi cả ngoài sự ban
cho; tình thương không hỏi gì cả ngoại trừ quyền tiêu pha cho kẻ khác; tình thương không buôậc ai
trả ơn, đáp nghĩa. Tình thương không cầu xin vui sướng cho riêng mình. Nó chỉ xin được lan tràn
khắp nơi được tạo hạnh phúc cho kẻ khác. Vì lẽ lòng chúng ta khắc nghiêật và ích kỷ, nên chúng ta
thấy ngay trong các tôn giáo lòng ích kỷ của con người dưới những hình thức tế nhị. Vàng ròng của
tôn giáo bị ô uế là thế. Thường khi tôn giáo - môật cái chi thanh cao, trong sạch hơn tất cả – trở nên
suy bại và con người mang lòng ích kỷ vào những nơi tế tự và biến chuyển Thánh Ðiêận thành môật
chỗ bán buôn. Nơi nào không có sự ban cho, nơi ấy không có chỗ cho Thượng Ðế.

Vì vâậy, hành thiêận là môật điều mà hành giả phải tâập luyêận. Trong nhân loại, tình thương rất ít oi.
Khi chúng ta yêu thương, chúng ta mãi đòi được đền đáp: bản ngã của chúng ta thấp kém thế nào !
Yêu thương như thế đâu phải là yêu thương mà là tính toán. Ðó là môật hình thức tế nhị của lòng vị
kỷ. Tình thương cao cả chỉ biết tuôn ra tự nhiên. Nó chỉ cầu xin môật điều là được thương mến. Người
giàu lòng thương chỉ ước nguyêận được ban rải tình thương của mình.

MÔỘT VÀI ÐỨC HẠNH CẦN TÂỘP


Các sự luyêận tâập nầy giúp hành giả cảm thấy tình thương chân thâật và lòng yêu mến Ðức Chí
Tôn. Kế đó, hành giả phải luyêận các đức tánh: thanh khiết, ngay thẳng, thành thâật, từ ái, rất cần để
đạt tình thương thiêng liêng. Chúng ta hãy tìm hiểu các đức tánh nầy và quan sát lòng mình xem có
những đức tánh đó không. Khi chúng ta bắt đầu rèn luyêận những đức tánh thiếu là chúng ta tiến trên
con đường Bhakti.

CHỌN BẠN HIỀN

Sự giao du với những người hiền đức là môật điều tốt. Thay vì kết bạn với những kẻ chơi bời, nông
nổi, chúng ta nên cầu thân, giao hữu với những ai tiến hóa cao, biết dành nhiều thì giờ thảo luâận các
vấn đề tâm linh hay chiêm ngưỡng các Chơn Sư, Ðại Ðức. Tác đôậng của hoàn cảnh rất đáng lưu ý: tư
tưởng của những kẻ ta giao du ảnh hưởng chúng ta rất nhiều; tâm trí chúng ta lần lần nhuôậm màu
sắc của tánh tình họ. Nếu chúng ta kết bạn với những người ăn chơi, chểnh mảng, nếu chúng ta tiếp
xúc mãi với những còn nhiều vô minh, làm sao ta có thể tâập trung hết tâm tư vào Ðại Ngã thiêng
liêng, làm sao ta có thể tìm được Ðức Thượng Ðế ? Hãy cố sống môật cuôậc đời an tĩnh mà không quên
phâận sự thay vì hoạt đôậng để cầu vui. Ta hãy tìm kiếm các bâậc thánh nhân, hiền triết để nhâận những
tư tưởng thanh cao của các ngài vì sự sống chung với những người mến yêu Thượng Ðế có khả năng
khuyến khích chúng ta trên đường Ðạo.

ÐỌC SÁCH HAY.

Chúng ta hãy đọc những sách hay, những sách có khả năng mở mang lòng tôn sùng và nêu trước
mắt ta những gương cao quí của các thánh nhân. Chúng ta đừng phí thì giờ với những sách nhảm
nhí, hãy bỏ thói quen đụng đâu đọc đó. Chúng ta không có thì giờ để mất. Khi bạn đọc, bạn hãy chọn
những sách hữu ích cho bạn. Ví dụ bạn học luâật, bạn đâu có thích đọc chuyêận đời xưa mà đọc sách
luâật, đọc lịch sử luâật các nước và tìm hiểu phong tục các dân tôậc. Bạn gạt môật bên những sách không
giúp ích bạn. Chúng ta cũng phải hành đôậng như thế khi chúng ta tâập yêu mến Ðức Thượng Ðế. Cho
đến chừng nào chúng ta mới hoạt đôậng vì Thượng Ðế như chúng ta hoạt đôậng cho thanh danh ? Cho
đến chừng nào chúng ta hăng say tìm Thượng Ðế như chúng ta mãi mê theo đuổi những chuyêận tầm
phào ? Chơn Sư không thiếu, đường đạo không ẩn. Có thiếu chăng là tấm lòng, là tình thương, là
nguyêận vọng. Chính các khuyết điểm nầy làm cho chúng ta bê trễ chứ không phải dốt nát cách thức
tu hành. Vì vâậy Narada khuyên tránh các sách nhảm nhí, các cuôậc cãi cọ vô bổ và suy niêậm các kinh
sách thánh hiền.

MÔỘT KHÚC QUANH

Sau cùng khi chúng ta tiến từ bước môật để trải qua giai đoạn đầu, môật ngày kia, Ðức Thượng
Ðế mà chúng ta tìm kiếm hết lòng, chân thành ngưỡng môậ, theo dõi không ngừng, Ðức Thượng Ðế
sẽ hiêận ra cho người chí nguyêận. Ðến lúc ấy, môật biến chuyển xảy ra, đánh dấu môật khúc quanh của
đời người. Môật yếu tố mới bôậc lôậ ở lòng, môật luồng cảm xúc lạ tràn vào tâm khảm: từ nay, con người
đổi mới hoàn toàn. Khi Thượng Ðế hiêận ra như thế, dù ta chỉ thấy thoáng qua vẻ đẹp của Ngài, dù
chỉ môật tia hào quang của Ngài chiếu vào tâm ta, con người bên trong của ta sẽ thức tỉnh, tâm trí
của ta sẽ chấn đôậng, chúng ta sẽ đương nhiên quay lưng lại ngoại cảnh để hướng mắt nhìn Ngài. Bạn
có nhớ chăng môật câu rất ý nghĩa và sâu sắc trong kinh Bhagavad Gita, câu nói rằng khi chúng ta
thấy được Ðấng Tối Cao thì các dục vọng của giác quan, các mùi vị, các ham muốn, các chiếm hữu,
các xu hướng đều tan biến hết ?

Bây giờ thâật sự, con đường đạo mới chiếu diêậu huy hoàng và sự an lạc mới rung chuyển trọn bản
thể con người. Ðã biết bao lần rồi, hành giả kêu gọi Ðức Thươïng Ðế ? Ðã biết bao lâu rồi, lòng anh
chỉ ao ước được thấy Ngài ? Ðã biết bao lần, anh nói: “Làm sao trong lúc trầm tư, con biết được
Ngài, dưới trạng thái nào hỡi Thượng Ðế, con phải tưởng nhớ Ngài ?” Khi Thượng Ðế hiêận ra
trong hào quang rực rỡ, vạn vâật đều úa tàn, phai lạt. Quả đất đổi khác từ khi ánh sáng đó rọi vào.
Mây mù còn có thể nổi lên; lỗi lầm, nhu nhược còn có thể ngăn đường, nhưng hành giả đã thấy, đã
hiểu, đã nhớ, và các điều nầy đã khuyến khích anh, an ủi anh trong mọi cố gắng. Chừng đó, Thượng
Ðế mới nói với con người ấy: “Vì con đã dứt bỏ tánh ích kỷ, sự bạo đôộng, tính kiêu căng, dục
vọng, lòng tham, tánh nóng, vì con đã diêột ngã và ôn hòa, con xứng đáng trở thành môột tu
sĩ Bà La Môn.” Anh cũng trở nên xứng đáng được nhìn Ðức Thượng Ðế. Vô ngã và bình an, anh trở
thành tấm gương của Linh Hồn cao cả, anh tan hòa trong Ðại Ngã, và trở thành môật với vạn vâật; anh
nhâập vào Ðức Thượng Ðế. Ðó là lời của Ðức Krishna và lời hứa của Ðức Chí Tôn.

HÒA HỢP

Những ai đã tâập luyêận được như thế, đã thanh lọc phàm ngã thấp hèn, đã chân thành sùng bái,
đã trở nên bình tĩnh, thản nhiên; những ai không gây ác, những kẻ bao trùm tất cả trong tình thương
mà không trừ loại môật ai, những ai thương mến vạn vâật như bà mẹ thương mến đứa con đầu lòng,
những người ấy xứng đáng đứng trước sự hiêận diêận của Ðấng Tối Cao ! Họ vươn lên gần Ðức Thượng
Ðế ! Họ đã được chuẩn bị cho sự an lạc đời đời. Quả thế, vì tình thương là Ðức Thượng Ðế. Những ai
mà toàn thân đều thấm đượm tình thương, những người ấy là hình ảnh của Thượng Ðế. Là vì tình
thương của Thượng Ðế, Thượng Ðế là Tình Thương. Ðâu có cái chi có thể tách riêng họ và thực thể
của họ ? Ðâu còn có hàng rào cách biêật Linh Hồn và Thượng Ðế ? Linh hồn tràn đầy tình thương mến
Ðấng Tối Cao, Tình Thương vô biên. Cũng như dòng sông họp với các rạch khác để chảy ra biển cả,
linh hồn tràn đầy tình thương cũng bay về nguồn thương yêu vô tâận, về Ðấng Tối Cao. Nước của
dòng sông hòa với nước của đại dương và trở nên đồng nhất về bản thể cũng như về tính chất. Ðâu
còn có cái chi phân tách chúng nó ? Ðâu còn cái chi phân tách linh hồn với Thượng Ðế ? Linh hồn đã
biết Ðấng Tối Cao của mình, nó lễ bái, kính yêu và sống trong Ngài, hòa hợp với Ngài vĩnh viễn cũng
như Ngài là nó. Bây giờ, Linh hồn đã được sự minh triết và Thượng Ðế hết bảo: Linh hồn hãy đến Ta,
hãy tiến đến cõi tối cao của Ta mà nói: “Linh hồn là Ta.” Linh hồn là Ngài. Ðó là mức chót của con
đường, là kết quả của tình thương. Tình thương là Thượng Ðế và tình thương càng thanh cao, nồng
thắm, nó càng cao quí thiêng liêng. Tình thương yêu phàm tục giữa con người cũng san bằng mọi trở
ngại, cũng kết hợp những kẻ thương yêu đến đỗi không còn có cái ta riêng rẽ, không còn cái của
anh, của tôi. Trong tình yêu thường tình của con người, kẻ thương mến cảm thấy mình là môật với kẻ
mình mến yêu, không môật phút giây cách biêật. Phải chăng ta có cảm giác những gì thuôậc chúng ta
đều là của người chúng ta yêu quí và không có môật cái chi cách biêật giữa ta và người ? Ðối với Linh
Hồn và Thượng Ðế, cũng thế: tuy phải phân chia để có thể tôn thờ, lễ bái hầu đánh thức các quyền
năng tiềm tàng, những Linh Hồn toàn thiêận hợp làm môật với Thượng Ðế để phụng sự, để giúp đời, để
cứu vớt nhân loại cũng như Ngài đã giúp họ, đã cứu vớt họ. Trong sự hòa hợp hoàn toàn nầy, hoạt
đôậng của Ngài cũng là hoạt đôậng của Linh Hồn, Người Bhakta trở thành Ðấng Cứu Thế. Người quả
thâật là Thượng Ðế và những chi Thượng Ðế làm, Người đều làm được, cả công viêậc tạo thành và hủy
diêật vũ trụ, vì Người đã hòa hợp với Ngài.

QUYỀN NĂNG

Ðâu có điều gì mà xứ Ấn nầy không thể làm nếu nó có môật vài vị Bhakta, không phải bhakta ở
đầu môi, mà chân thành tâận đáy lòng và trọn đời. Nếu môật hay hai vị như vâậy sinh trưởng trên xứ
Ấn, với môật lòng yêu thương hùng dũng bao gồm tất cả thì nước nầy có thể được cứu vớt trong
khoảnh khắc. Khả năng của tình thương là vô biên. Quí vị nhớ chăng gương sùng tín của chàng
thanh niên Prahlada ? Không có chi hại câậu được, thuốc đôậc không thể giết câậu, lửa không thể đốt
câậu, núi không thể đè câậu. Vì sao ? Vì lòng sùng tín của câậu hoàn toàn, vì câậu tôn thờ Thượng Ðế với
tất cả sự nhiêật thành của lòng câậu ngay trong những lúc khó khăn, nguy hiểm. Không ai có thể hại
người sùng tín chân thành: khí giới không thể giết hại người, nước không thể nhâận chết người. Là vì
Người là Ðấng Vĩnh Cửu, là Sự Sống Trường Tồn. Vì vâậy Narada nói: “Bản thể của người là sự
yêu mến, tôn sùng. Tình Thương là trường cửu.”

Tiếc thay ! Làm sao ta có được môật người như vâậy để giúp đỡ chúng ta ? Chừng nào ta có được
môật người như vâậy để dạy dỗ ta ? Chúng ta chưa có thể được như người, tình thương ở ta chưa có
thể đưa chúng ta đến quả vị tiên thánh, nhưng với tình thương hiêận có của chúng ta, chúng ta há
không thể giúp đỡ kẻ khác tốt hơn, thúc giục kẻ khác tiến mau hơn sao ? Chúng ta hãy nhớ : khi
nhiều dòng nước nhỏ bé hiêập lại, chúng sẽ tạo môật dòng sông hùng dũng. Chúng ta hãy hướng dòng
suối yêu thương và tôn kính của chúng ta đến chân Thượng Ðế. Chúng ta hãy hiến tình thương của
lòng chúng ta dù nó còn lợt lạt, chúng ta hãy hiến nguyêận vọng của chúng ta, dù nó còn thô hèn,
chúng ta hãy hiến lòng tôn kính của chúng ta dù nó còn mong manh, chúng ta hãy hiến dâng tất cả
dưới chân Ngài, hiêận thân của tình thương, của sự toàn thiêận. Ước mong thay những tia thương mến
của chúng sẽ tạo thành môật ngọn lửa vĩ đại để tinh luyêận xứ ta, để giúp đỡ nhân dân ta ! Khi nguyêận
vọng đã có thì kết quả cũng sẽ có. Ước mong sao chúng ta có thể góp sức vào công trình vĩ đại đó !
[5]
Pháp môn tu bằng cách phát triển tình thương. Khi tình
thương hướng về nhân loại, đó là lòng từ ái, khi nó hướng về môỘt
Ðấng Thiêng Liêng, ấy là sự kính mến, tôn sùng. Người tu theo
pháp môn nầy là Bhakta (LDG).
[6]
Kinh Narada Soutra, dịch giả E.T.Sturdy,

You might also like