You are on page 1of 16

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


Khoa Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

BÀI TẬP LỚN


CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
INE 3008
Giảng viên hướng dẫn: TS. Trần Thị Mai Thành
TS. Bùi Thu Trang
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Oanh Thư
Mã số sinh viên: 20050946
Khóa: QH – 2020 – E
Năm học: 2022 – 2023

Hà Nội, Tháng 2 Năm 2023


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
Khoa Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế

BÀI TẬP LỚN


CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
INE 3008
Chủ đề: Vai trò của TNCs trong phát triển thương mại quốc tế tại Việt Nam

Giảng viên hướng dẫn: TS. Trần Thị Mai Thành


TS. Bùi Thu Trang
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Oanh Thư
Mã số sinh viên: 20050946
Khóa: QH – 2020 – E
Năm học: 2022 – 2023

Hà Nội, Tháng 2 Năm 2023


3

Mục lục
4

Lời nói đầu


Những năm gần đây, toàn cầu hóa và khu vực hóa trong nền kinh tế thế giới
đã thúc đẩy sự phát triển và làm thay đổi mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của nền kinh
tế. Một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy toàn cầu hóa và khu vực hóa
cũng như sự phát triển kinh tế các khu vực là các công ty xuyên quốc gia. Công ty
xuyên quốc gia không những tác động đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới mà
còn tác động đến nền kinh tế của từng quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia đã thúc
đẩy phát triển thương mại quốc tế, thúc đẩy đầu tư quốc tế, chuyển giao và phát
triển công nghệ, tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực.

Tại Việt Nam, các công ty xuyên quốc gia bắt đầu phát triển từ những năm
đầu của thế kỷ XX. Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện vốn tích lũy còn thấp, dó đó phải tận dụng khai thác nguồn vốn nước
ngoài. Sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia đã xây dựng nền tảng kinh tế
vững chắc cho doanh nghiệp Việt Nam nói riêng mà cho toàn nền kinh tế Việt Nam
nói chung. Sự tham gia của các công ty xuyên quốc gia đã cải thiện trình độ công
nghệ, máy móc, thiết bị, lao động… cho Việt Nam tham gia sâu vào thị trường
thương mại quốc tế.

Qua quá trình học tập và nghiên cứu học phần “Công ty xuyên quốc gia”,
bản thân em nhận thức được sự ảnh hưởng đặc biệt quan trọng của những công ty
này đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và thương mại quốc tế của Việt Nam nói
riêng. Bài báo cáo này là những phân tích về vai trò của TNCs trong thương mại
quốc tế được tích lũy trong quá trình học tập và nghiên cứu. Và thông qua Tập đoàn
xuyên quốc gia Samsung – Hàn Quốc, vai trò phát triển thương mại quốc tế của
TNCs sẽ được khai thác có hiệu quả qua bài tiểu luận này.
5

I. Cơ sở lý luận
I.1. Khái niệm
Về bản chất, các thuật ngữ về TNCs không có sự khác biệt đáng kể so với
MNCs: Đều là công ty có quy mô lớn về tài sản, phạm vi hoạt động ở nhiều nước và
tìm kiếm tỷ suất lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Sự khác biệt chỉ là tên gọi, phản
ánh đặc điểm nổi bật của TNCs trong từng giai đoạn lịch sử phát triển hoặc thói
quen sử dụng từ ngữ của các học giả.
Vì vậy, khó có thể đưa ra định nghĩa chính xác về TNCs. Bởi thế, định nghĩa
chung của TNCs của UNCTAD là hợp lý hơn cả và được sử dụng như là định nghĩa
cơ bản về TNCs.
UNCTAD: “A transnational corporation is an enterprise that controls assets of
other entities in economies other than its home economy, usually by owning a
certain equity capital stake. An equity capital stake of 10% or more of the ordinary
shares of voting power for an incorporated enterprise, or the equivalent for an
unicorporated enterprise, is normally considered a threhold for the control of
assets”. – Công ty xuyên quốc gia là một doanh nghiệp kiểm soát tài sản của các chi
nhánh thuộc các nền kinh tế khác chứ không phải nền kinh tế trong nước. Thường
bằng cách sở hữu một phần vốn cổ phần lớn nhất định. Vốn góp từ 10% trở lên của
cổ phần phổ thông hoặc quyền biểu quyết đối với một doanh nghiệp đã được thành
lập, hoặc tương đương đối với một doanh nghiệp chưa có tư cách pháp nhân,
thường được coi là ngưỡng kiểm soát tài sản.
I.2. Lịch sử hình thành
TNCs xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản chuyển
từ gia đoạn tự do cạnh tranh sang độc quyền. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã
chứng minh rằng phân công lao động xã hội ngày càng phát triển thì quy mô sản
xuất kinh doanh trong các thực thể công ty ngày càng lớn. Cho đến nay, TNCs vẫn
luôn phát triển không ngừng bởi nhiều nguyên nhân.
Thứ nhất, tích tụ và tập trung sản xuất ngày càng cao, tất yếu dẫn đến sự hình
thành các TNCs. TNCs ra đời là kết quả phát triển lâu dài của nền sản xuất xã hội,
của sự phát triển về quan hệ kinh tế quốc tế. Chúng bắt nguồn từ sự tích tụ và tập
trung sản xuất cao độ dẫn đến việc hình thành các tổ chức độc quyền trong nền sản
xuất của tư bản chủ nghĩa trước đây. Sự cạnh tranh tự do không chỉ làm cho quá
trình tích tụ và tập trung sản xuất tăng lên, mà còn là nguyên nhân ra đời nền sản
xuất công nghiệp, thúc đẩy phân công lao động mở rộng từ phạm vi nội bộ quốc gia
sang quốc tế, làm cho năng suất lao động cao lên, các tổ chức độc quyền xuất hiện.
Từ giữa thế kỷ XX, một kiểu liên kết mới hình thành và phát triển là Conglomerate
6

và Concern với quy mô khổng lồ thâu tóm nhiều xí nghiệp ở các lĩnh vực khác
nhau.
Thứ hai, sự cạnh tranh, liên kết và tối đa hóa lợi nhuận. Cạnh tranh vì mục tiêu
tối đa hóa lợi nhuận là một trong những quy luật tất yếu để duy trì doanh nghiệp
trong thị trường, điều đó sẽ dẫn đến hai xu hướng chủ yếu. Thứ nhất, các doanh
nghiệp có lợi thế trong cạnh tranh sẽ thu hút các doanh nghiệp yếu thế hơn làm cho
quy mô của doanh nghiệp ngày càng mở rộng. Thứ hai, cạnh tranh kéo dài khiến
cho các doanh nghiệp có xu hướng liên kết lại với nhau hoặc tìm kiếm bên thứ ba để
liên kết nhằm tăng khả năng cạnh tranh.
Thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của tiến bộ khoa học, công nghệ. Sự phát triển
của khoa học đòi hỏi sự cải tạo cơ cấu sản xuất để áp dụng các thành tựu mới của
khoa học kỹ thuật. Với các doanh nghiệp nhỏ lẻ, quy mô sản xuất còn nhỏ, việc áp
dụng công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất dễ gây ra tình trạng dư thừa và
không đạt được hiệu suất cao nhất. Vì thế, sự hợp nhất của nhiều công ty nhỏ lẻ
cùng một lĩnh vực thành một TNCs hùng mạnh, có khả năng đầu tư phát triển khoa
học kỹ thuật công nghệ để ứng dụng vào kinh doanh sản xuất đã trở thành nhu cầu
tất yếu của các doanh nghiệp.
I.3. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của TNCs có tính chất đa dạng và phức tạp. Tính đa dạng biểu
hiện qua sự phong phú trong mô hình tổ chức TNCs ở các quốc gia, gia đoạn phát
triển. Tính phức tạp chính là mối liên hệ đan xen về chức năng giữ các bộ phận của
TNCs.
Một đặc điểm nữa của TNCs là về cơ cấu tổ chức. Có hai cơ cấu tổ chức
chính của TNCs là cơ cấu tổ chức theo thứ bậc và xu hướng liên kết mạnh mẽ giữa
TNCs. Cơ cấu tổ chức theo thứ bậc được chia làm hai hình thức.
Tổ chức theo chức năng (Functional organization – F), hình thức này bao
gồm một nhóm các phòng chức năng riêng biệt được quản lý bởi giám đốc điều
hành. Hình thức này có tính chuyên môn hóa cao và rất có hiệu quả nếu các phòng
ban trong công việc không cần liên kết với nhau. Còn tổ chức nhiều đầu mối
(Multidivisional organization – MD), ban lãnh đạo quản lý các bộ phận thông qua
các chỉ tiêu lợi nhuận hơn là các mệnh lệnh trực tuyến. Hình thức này phù hợp với
các công ty đa dạng hoạt động ở các lĩnh vực vì nó có hiệu quả hơn so với hình thức
F. Lúc này, mỗi hoạt động của công ty được quản lý bởi một bộ phận riêng và tự
chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Khi đó, ban lãnh đạo công ty chủ yếu tập
trung vào các vấn đề có tính chiến lược dài hạn.
Bên cạnh đó, xu hướng liên kết mạnh mẽ giữa TNCs ngày càng phát triển.
Hình thức Concern là hình thức các TNCs liên kết với nhau theo chiều ngang thông
7

quya các quan hệ hợp tác cùng sử dụng bằng phát minh, sáng chế, nghiên cứu và
phát triển… Mô hình này tổ chức vị trí làm việc của từng người rất chặt chẽ nên có
tính hệ thống cao, quyền lực của các quyết định quản lý cao. TNCs hiện đại ngày
nay còn phổ biến hình thức Conglomerate theo chiều dọc. Các TNCs quan hệ với
nhau chủ yếu qua tài chính. Mức độ kiểm soát của công ty mẹ đối với các công ty
chi nhánh phụ thuộc vào tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của nó trong các chi nhánh. So với
Concerm, cơ cấu tổ chức của Conglomerate gọn nhẹ và linh hoạt hơn.
I.4. Chiến lược hoạt động
Khác với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, TNCs rất coi trọng đến việc xây dựng và
thực hiện chiến lược kinh doanh. Chiến lược của TNCs có tính dài hạn và thường
bao gồm các nội dung cơ bản như:
Mở rộng mạng lưới sản xuất: Với TNCs, tiết kiệm chi phí sản xuất và tìm
kiếm thị trường tiêu thụ là các vấn đề sống còn trong chiến lược kinh doanh. Để tiết
kiệm chi phí, TNCs thường mở rộng phạm vi hoạt động theo hướng khai thác nguồn
tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ, than đá, lân thủy sản… và giá các yếu tố đầu
vào rẻ. Bên cạnh đó, TNCs chủ yếu thực hiện chiến lược đầu tư mới (GI), được thực
hiện phổ biến qua con đường cắm nhánh ở nước ngoài, tức là xây dựng các cơ sở
sản xuất mới ở các nước nhận đầu tư. Về vấn đề mở rộng mạng thị trường tiêu thụ,
TNCs thực hiện chiến lược mở rộng phạm vi hoạt động theo hướng mua lại và sát
nhập (M&A) các công ty hiện có ở nước sở tại. Với chiến lược này, TNCs có được
mạng lưới phân phối sẵn có ở thị trường mới, trong đó đặc biệt là dễ tiếp cận vào thị
trường độc quyền và giảm đối thủ cạnh tranh. Việc lựa chọn hình thức sở hữu trong
chiến lược mở rộng sản xuất ra nước ngoài cũng được các TNCs rất chú trọng.
Thông thường, các TNCs lựa chọn theo ba hình thức cơ bản: Hợp tác kinh doanh
trên cơ sở hợp đồng; Liên doanh: 100% sở hữu.
Phân phối: Mục tiêu của chiến lược phân phối của TNCs là đảm bảo được lợi
ích tổng thể của công ty hơn là lợi ích riêng của từng chi nhánh. Vì vậy, việc xây
dựng và điều phối chiến lược phân phối được thực hiện từ đại bản doanh của công
ty mẹ, các chi nhánh khác chỉ thực hiện các quyết định phân phối từ trung tâm và
báo cáo số liệu, thông tin về diễn biến của thị trường về đại bản doanh của công ty
mẹ. Tuy nhiên, trong trường hợp một chi nhánh có mạng lưới phân phối ở nhiều
nước, khó điều phối từ công ty mẹ, hoạch toán lợi nhuận độc lập thì có thể được tự
hoạch định chính sách phân phối. Đặc điểm nổi bật trong chiến lược phân phối là
tối thiểu hóa các chi phí giao dịch trong mạng lưới phân phối toàn cầu của TNCs.
Vì thế, TNCs thường xây dựng các chi nhánh sản xuất gần thị trường hoặc vùng
nguyên liệu. Và đối với một số thị trường độc quyền, TNCs thường áp dụng chiến
lược sáp nhập hay mua lại các cơ sở phân phối hiện có để thâm nhập được vào thị
trường và hạ bớt chi phí giao dịch nhờ hiệu quả kinh tế theo quy mô. TNCs rất chú
8

trọng đến các hoạt động quảng cáo trong chiến lược tiêu thụ sản phẩm. Chi phí này
thường chiếm tới khoảng 20% giá bán và có xu hướng ngày càng tăng.
Chuyển giao và phát triển công nghệ: TNCs chuyển giao công nghệ qua hai
hình thức chủ yếu là chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của cùng một
TNCs và giữa các TNCs với nhau. Các TNCs rất hạn chế chuyển giao công nghệ
mới, có tính cạnh tranh cao cho các chi nhánh của chúng ở nước ngoài, vì sợ lộ bí
mật hoặc mất bản quyền công nghệ do việc bắt chước, cải biến hoặc nhái lại công
nghệ của nước chủ nhà. Chiến lược chuyển giao công nghệ phụ thuộc rất nhiều vào
chiến lược mở rộng sản xuất ra nước ngoài của các TNCs và kết cấu thị trường của
nước chủ nhà. TNCs chi phí rất lớn cho các hoạt động R&D công nghệ, và coi đó là
một yếu tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: TNCs thường chú trọng đến đào tạo
lao động tại chỗ, có tính ngắn hạn để đáp ứng được yêu cầu công việc của dự án đầu
tư, kinh doanh. Số lao động được gửi đi đào tạo nước ngoài rất hạn chế, vì chi phí
cao và mạo hiểm. Tuy nhiên, trong các vị trí công việc quan trọng cấp cao, TNCs có
chiến lược đào tạo rất bài bản và thường xuyên cập nhật thông tin, nâng cao trình độ
chuyên môn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt. Trong những năm gần đây, xu hướng liên
kết với các cơ sở đào tạo ngoài công ty tại nước chủ nhà ngày càng được áp dụng
phổ biến vì giảm được chi phí đào tạo, cơ cấu và trình độ đào tạo tại nước chủ nhà
được cải thiện nhiều. Chiến lược đào tạo của TNCs thường nhắm vào đối tượng có
trình độ hoặc tay nghề cao, vì những đối tượng này mới đáp ứng được yêu cầu sử
dụng công nghệ cao của TNCs và tạo ra năng suất lao động cao.
I.5. Thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa – dịch vụ giữa các
chủ thể kinh tế có quốc tịch khác nhau, thông qua hoạt động mua bán, lấy tiền tệ
làm trung gian trao đổi. Thương mại quốc tế là một nội dung của quan hệ kinh tế
quốc tế.
Thương mại quốc tế chủ yếu gồm những hoạt động: Xuất khẩu và nhập khẩu
hàng hóa vô hình hoặc hữu hình; Gia công quốc tế; Tái xuất khẩu: Chuyển khẩu;
Xuất khẩu tại chỗ.
Các bên tham gia buôn bán với nhau hình thành và phát triển dựa trên nhu cầu
chủ yếu về lợi nhuận giữa sự chênh lệch giá của các bên tham gia thương mại. Bên
cạnh đó, nhu cầu về các chủng loại khác nhau giữa các sản phẩm của người tiêu
dùng ngày càng khác nhau và đa dạng, khiến việc trao đổi hàng hóa trở thành xu
hướng hiện nay. Khi thực hiện sự trao đổi hàng hóa giữa các bên, các doanh nghiệp
có thêm lợi nhuận từ việc mở rộng quy mô thị trường, điều đó làm cho các công ty
đạt được tính kinh tế của quy mô.
9

II. Vai trò của công ty xuyên quốc gia trong việc phát triển thương mại quốc
tế tại Việt Nam
II.1. Thực trạng thương mại quốc tế Việt Nam những năm gần đây

Theo số liệu của Tổng cục thống kê, sau hơn hai năm đầy khó khăn bởi đại dịch
COVID – 19, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa cả năm 2022 đạt kỷ lục
732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm 2021. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu năm
2022 ước tính đạt 371,85 tỷ USD, tăng 10,6% so với năm 2021. Trong năm 2022 có
36 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 94% tổng kim ngạch
xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu ước tính đạt 360,55 tỷ USD, tăng 8,4% so với năm
2021. Trong năm 2022, có 46 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm
tỉ trọng 93,3% tổng kim ngạch nhập khẩu.

2.1-1. Số liệu kim ngạch XNK Việt Nam năm 2022 - Tổng cục thống kê

Từ năm 2016 đến năm 2022, cán cân thương mại xuất nhập khẩu hàng hóa liên
tục đạt thặng dư, với mức xuất siêu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2016, xuất
siêu Việt Nam đạt 1,6 tỷ USD; năm 2017 đạt 1,9 tỷ USD; năm 2018 tăng lên 6,46 tỷ
USD; năm 2019 đạt 10,57 tỷ USD, năm 2020 đạt 19,94 tỷ USD, năm 2021 do ảnh
hưởng nặng nề của đại dịch nên xuất siêu chỉ đạt 3,22 tỷ USD.
10

2.1-2. Nguồn Tổng cục thống kê

Năm 2022, dù còn nhiều khó khăn sau những ảnh hưởng của COVID – 19 và
tình hình bất ổn trên thế giới, xuất siêu vẫn được giữ vững. Đây là sự nỗ lực rất lớn
của các doanh nghiệp Việt Nam.
II.2. TNCs đối với thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế
TNCs có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những nền kinh tế định hướng xuất
khẩu, thông qua việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực sản xuất của thế giới. Kiểm
soát hơn 50% mậu dịch quốc tế, TNCs ngày càng thúc đẩy mạnh quan hệ hàng hóa,
tài chính trên phạm vi toàn cầu. Cùng với sự tham gia sâu rộng của các mạng lưới
công ty có chi nhánh dày dặc vào quá trình phân công lao động quốc tế, cơ cấu hàng
hóa dịch vụ trao đổi có chiều hướng gia tăng tỷ trọng những hàng hóa có vốn, kỹ
thuật cao và giảm dần tỷ trọng các hàng hóa sử dụng nhiều lao động. Về cơ cấu đối
tác cũng tăng dần tỷ trọng trao đổi hàng hóa và dịch vụ của các nước đang phát triển
trên thị trường thế giới, đặc biệt đối với các nước công nghiệp hóa mới. Bên cạnh
đó, TNCs đã tạo ra và khai thác nguồn hàng tiềm năng qua hoạt động khai thác thị
trường tại chỗ dẫn tới giảm chi phí vận chuyển, hạ giá thành sản phẩm, phù hợp hơn
với thị trường mục tiêu, phục vụ có hiệu quả cho khâu tiêu thụ hàng hóa của công
ty. TNCs thực hiện “hàng hóa” hóa các sản phẩm, bằng phát minh sáng chế, bí
quyết công nghệ, kinh nghiệm quản lý cũng được coi là sản phẩm được trao đổi trên
thị trường qua mua bán, cho thuê, trao đổi có điều kiện… Bằng cách này, cá sản
phẩm với chất lượng cao của TNCs đã phá bỏ được những hàng rào biên giới quốc
gia khi chúng kìm hãm quá trình quốc tế hóa lưu thông những sản phẩm đó. Điều đó
đóng góp vào việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao trình độ xã
hội hóa sản phẩm trên thế giới.
11

Tuy nhiên, vì mục đích lợi nhuận, TNCs có thể làm biến dạng các mối quan hệ
hàng hóa tiền tệ qua những hoạt động đầu cơ, nân giá, trao đổi nội bộ giữa các công
ty chi nhánh với một khối lượng lớn có thể dẫn đến tình trạng mất ổn định trong lưu
thông hàng hóa – dịch vụ cũng như nền tài chính – tiền tệ thế giới. Các cuộc khủng
hoảng tài chính – tiền tệ đều có sự bắt nguồn gián tiếp hoặc trực tiếp từ sự tham gia
của TNCs. Vì đó, các nước trên thế giới không phân biệt trình độ phát triển cần đặt
ra những luật lệ khống chế những tác động tiêu cực của TNCs, nhất là trong lưu
thông hàng hóa và tiền tệ.
Vai trò thúc đẩy thương mại quốc tế của TNCs được thể hiện thông qua tổng giá
trị xuất khẩu và doanh thu của các công ty chi nhánh ở nước ngoài cũng như tổng
giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của TNCs.
II.3. Trao đổi hàng hóa và dịch vụ của TNCs
Trong việc vận hành của TNCs, công ty mẹ chi phối toàn bộ hoạt động của
TNCs, các công ty con ở nước ngoài thuộc phạm vi điều hành của công ty mẹ.
TNCs chính là một hệ thống mạng lưới công ty, trong đó công ty mẹ giữ vai trò
lãnh đạo, các công ty con có chế độ hạch toán độc lập nhưng phụ thuộc chủ yếu về
tài chính, kỹ thuật công nghệ cũng như định hướng chiến lược phát triển của công
ty mẹ. Trao đổi nội bộ công ty là trao đổi giữa công ty mẹ và công ty con của một
TNCs với nhau. Trao đổi nội bộ là một hình thức kinh doanh để phát triển và giảm
chi phí thường có của TNCs.
Một đặc điểm cần chú ý là trao đổi giữa các công ty chi nhánh trong nội bộ
TNCs ở các nước ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị
thương mại của nhiều nước. Sự trao đổi này thường đi cùng với giá chuyển giao,
tức là giá cả không dựa trên cơ sở quan hệ cung và cầu, mà là giá thỏa thuận giữa
các công ty chi nhánh trong cùng một TNCs. Tình trạng này có thể làm thiệt hại đến
nước chủ nhà. Đây là vấn đề cần lưu ý đối với các nước đang phát triển, nhất là ở
Việt Nam hiện nay.
III. Samsung trong thương mại quốc tế tại Việt Nam
III.1. Giới thiệu chung về Samsung
Samsung là một tập đoàn xuyên quốc gia của Hàn Quốc được sáng lập bởi CEO
Lee Byung Chul vào ngày 1/3/1938, có trụ sở chính đặt tại Samsung Town, Seocho,
Seoul, Hàn Quốc. Khởi nghiệp như một công ty thương mại nhỏ, 30 sau khi thành
lập, Samsung đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh ở khắp các lĩnh vực như chế
biến thực phẩm, dệt may, bảo hiểm, chứng khoán. Samsung tham gia vào lĩnh vực
điện tử vào cuối thập kỷ 60. Ba trụ cột chính hiện nay của Samsung là Samsung
Electronics (điện tử), Samsung Heavy Industries (đóng tàu) và Samsung
Engineering & Samsung C&T (xây dựng). Samsung có tầm ảnh hưởng lớn đến sự
12

phát triển kinh tế, truyền thông, chính trị và văn hóa tại Hàn Quốc. Từ những năm
90, Samsung mở rộng hoạt động trên quy mô toàn cầu, tập trung vào lĩnh vực điện
tử, điện thoại di động và chất bán dẫn.
Samsung thâm nhập vào thị trường Việt Nam từ năm 1996 với một liên doanh
quy mô nhỏ. Năm 2008, Samsung chính thức nhận giấy phép đầu tư và bắt đầu khởi
công xây dựng nhà máy sản xuất tại Bắc Ninh, Việt Nam. Tính đến thời điểm hiện
tại, Samsung đã đầu tư và xây dựng 4 nhà máy lớn ở Việt Nam để sản xuất linh kiện
và các thiết bị điện tử, điện thoại di động, TV, điều hòa.... Việt Nam được chọn là
một trong nhiều thị trường tiềm năng của Samsung khi có nền chính trị ổn định,
nguồn lao động giá rẻ dồi dào, khách hàng tiềm năng lớn.
III.2. Samsung đối với thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế
Công nghiệp điện tử là ngành công nghiệp trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân,
có vị trí then chốt và tác động lan tỏa đến các ngành công nghiệp khác. Nó đồng
thời là thước đo trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và tiềm lực kinh tế của một
quốc gia. Hiểu được sự quan trọng của công nghiệp điện tử đối với một quốc gia
đang trong tiến trình hiện đại hóa đất nước, Samsung đã đầu tư xây dựng nhà máy
lắp ráp sản xuất công nghệ cao tại Việt Nam. Sự tham gia vào thị trường kinh tế
Việt Nam của Samsung không chỉ giải quyết được vấn tạo đề việc làm mà còn thúc
đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam.
So với các năm trước đây thì tỷ trọng đóng góp của SamSung trong kim ngạch
xuất khẩu ngày càng tăng và tạo ra những con số vô cùng ấn tượng. Năm 2012, tập
đoàn Samsung Việt Nam đã xuất khẩu 12,9 tỷ USD chiếm 11,3% kim ngạch xuất
khẩu của cả nước. Đến năm 2017, tập đoàn Samsung Việt Nam xuất khẩu 54,4 tỷ
USD, chiếm 25,4% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thống kê của Tổng cục Hải
Quan cho biết, điện thoại và các linh kiện điện thoại là một trong những mặt hàng
tăng trưởng mạnh nhất trong 3 quý vừa qua. Năm 2018 có 2 tháng (tháng 3 và tháng
8) kim ngạch xuất khẩu Việt Nam đạt mức cao kỷ lục trên 21 tỷ USD. Để có sự tăng
trưởng vượt bậc đó đều nhờ vào kim ngạch xuất khẩu điện thoại trong 2 tháng này
đều đạt trên 5 tỷ USD.
Theo số liệu thống kê của Samsung Việt Nam năm 2021, vượt qua những khó
khăn do dịch COVID – 19, kim ngạch xuất khẩu của Samsung Việt Nam đạt 65,5 tỷ
USD, tăng 16% so với năm 2020.
Các sản phẩm máy vi tính và kinh kiện điện tử ngày càng đa dạng hóa các sản
phẩm theo nhu cầu của thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu. Tốc độ tăng
trưởng của nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện đã vượt qua dệt may trở thành
nhóm hàng xuất khẩu chủ lực lớn thứ hai kể từ năm 2019 đến nay.
13

3.2-1. Theo Tổng cục thống kê

Là mặt hàng chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng
trưởng của mặt hàng điện tử và linh kiện có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng
chung của kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong năm 2011, xuất khẩu về điện
tử, linh kiện mới chỉ chiếm 4,8% tổng kim ngạch xuất khẩu thì trong năm 2015, con
số đã tăng lên gấp đôi, chiếm 9,6% và tăng đều qua các năm sau đó.
Năm 2021, xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện đứng thứ 2 trong 8 nhóm
hàng đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD của Việt Nam, tốc độ tăng lần lượt các năm
trong giai đoạn 2011-2021 là: 2011 tăng 29,9%; năm 2012 tăng 68,4%; năm 2013
tăng 35,5%; năm 2014 tăng 7,5%; năm 2015 tăng 36,5%; năm 2016 tăng 21,5%;
năm 2017 tăng 38,6%; năm 2018 tăng 12,5%; năm 2019 và năm 2020 cùng tăng
22,8%; năm 2021 ước tính tăng 14,4%. Bình quân cả giai đoạn 2011-2021 tăng
27,3%.
Hiện nay, Việt Nam đã trở thành nơi sản xuất điện thoại lớn nhất của Samsung,
chiếm tới 60% tổng lượng điện thoại bán ra của Tập đoàn này trên toàn cầu. Kể từ
khi Samsung phát triển đầu tư tại Việt Nam, từ một nước chủ yếu xuất khẩu nông
lâm ngư nghiệp và các nguyên liệu thô, Việt Nam đã nhanh chóng chuyển dịch cơ
cấu xuất khẩu sang các sản phẩm linh kiện điện tử, máy móc, các sản phẩm mang
tính chế biến cao. Đây là những tín hiệu đáng mừng về sự phát triển sản xuất cũng
như xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện, dự báo những năm tăng trưởng mạnh
mẽ của nền kinh tế Việt Nam.
III.3. Samsung trong trao đổi hàng hóa và dịch vụ
14

Đại diện Samsung Việt Nam cho biết, chuyển giao công nghệ là vấn đề quan
trọng mà một nền kinh tế đang nổi lên như Việt Nam cần dành sự quan tâm đặc
biệt. Đối với một nền kinh tế đang nổi lên như Việt Nam, chuyển giao công nghệ là
vấn đề quan trọng. Cần phải hiểu rõ là chuyển giao cái gì, chuyển giao cho ai, cũng
như những lợi ích gắn liền với việc chuyển giao công nghệ. Samsung đã hợp tác
chặt chẽ với Bộ Công Thương Việt Nam nhằm tổ chức các chương trình hỗ trợ các
doanh nghiệp Việt nâng cao năng lực quản trị, tăng cường chất lượng sản phẩm
bằng cách hoàn thiện quy trình sản xuất, giảm tỷ lệ lỗi, từ đó giảm chi phí, tăng lợi
nhuận.
Số lượng doanh nghiệp Việt Nam là nhà cung ứng cấp 1 của Samsung đã gia
tăng mạnh mẽ, từ con số 4 doanh nghiệp vào năm 2014 lên 51 doanh nghiệp năm
2022, tương đương tăng hơn 12 lần.
Từ năm 2015, Samsung đã triển khai các chương trình tư vấn cải tiến năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao
năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh. Các chương trình này do đội ngũ chuyên
gia Hàn Quốc trực tiếp hướng dẫn. Đến nay, đã có 379 doanh nghiệp được tư vấn và
ghi nhận mức độ cải tiến năng suất gia tăng đáng kể, trung bình tăng hơn 39%, cải
tiến hơn 52% lỗi chất lượng, giảm hơn 36% lượng hàng hóa tồn kho…
Samsung cam kết hỗ Việt Nam trở thành một trung tâm của khu vực về khoa
học và công nghệ. Do đó, vấn đề chuyển giao công nghệ một cách hiệu quả là điều
hết sức cần thiết.
Mặc dù vậy, thời gian qua, các doanh nghiệp sản xuất gặp nhiều khó khăn do chi
phí sản xuất tăng như giá vận tải, kho bãi, giá nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất
vẫn ở mức cao khiến chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng…
Một số nhóm hàng do các doanh nghiệp FDI, Tập đoàn Samsung giảm sản
lượng sản xuất do nhu cầu thị trường suy giảm, đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng của cả
sản xuất công nghiệp và xuất khẩu.
Vì thế, cần chú ý là trao đổi giữa các công ty chi nhánh trong nội bộ Samsung ở
các nước ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị thương mại
của nhiều nước. Tình trạng này có thể làm thiệt hại đến nước chủ nhà. Đây là vấn đề
cần lưu ý đối với Việt Nam hiện nay.
Kết luận
Samsung cố gắng xây dựng toàn cầu hóa phát triển công ty. Tập đoàn samsung
luôn tiếp thu những khoa học kĩ thuật mới và thay đổi xu hướng mới, sau đó
samsung đã bắt đầu toàn cầu hóa. Trở thành tập đoàn toàn cầu, không gian mà
Samsung tìm kiếm lợi nhuận dường như không có giới hạn. Samsung đẩy mạnh ứng
15

dụng công nghệ mới vào sản phẩm, samsung sẽ nghiên cứu nhu cầu của khách hàng
và đáp ứng tốt nhất bằng việc đưa ra những mẫu sản phẩm công nghệ mang tính đột
phá. Thành công lớn nhất của Samsung là xây dựng được văn hoá doanh nghiệp.
Nguồn nhân sự năng động và sáng tạo là giá trị cốt lõi để Samsung phát triển lâu
dài. Bên cạnh ngành mũi nhọn là sản xuất điện thoại linh kiện điện tử, việc phát
triển thêm một số lĩnh vực kinh doanh mới là chiến lược hợp lý trong bối cảnh hiện
nay.
Samsung đã có đóng góp to lớn trong sự phát triển nền kinh tế Việt Nam nói
chung và thương mại quốc tế Việt Nam nói riêng. Không chỉ nâng cao tỷ trọng khu
vực sản xuất công nghệ, linh kiện điện tử, dịch vụ… mà còn góp phần chuyển dịch
cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu điện
thoại di động lớn nhất thế giới, vượt qua cả thị trường tỷ dân Trung Quốc. Việc
Samsung quyết định xây dựng trung tâm nghiên cứu và phát triển tại Hà Nội, Việt
Nam chứng tỏ Việt Nam là một đất nước có tiềm năng trong phát triển kinh tế của
các TNCs nói chung và Samsung nói riêng. Hành động của Samsung chính là nền
tảng to lớn cho các công ty TNCs đầu tư phát triển Việt Nam, đưa Việt Nam tiến
nhanh trên con đường hội nhập, phát triển, đặc biệt là trong sự nghiệp hiện đại hóa,
công nghiệp hóa của Việt Nam.
Tập đoàn Samsung là tập đoàn dẫn đầu về lĩnh vực điện tử của Hàn Quốc, đã
khẳng định thương hiệu vững chắc tại thị trường trong nước và quốc tế. Trải qua
nhiều gia thời kì khó khăn và thử thách với những chiến lược thất bại, nhưng
Samsung sau thời gian trải nghiệm toàn cầu hóa đầu tiên, Samsung lại quyết tâm
vực dậy với làn sóng toàn cầu hóa những lần tiêp theo được chuẩn bị kỹ càng hơn.
Động lực để Samsung mạnh mẽ hơn là do toàn cầu hóa đã trở thành xu hướng tất
yếu không thể lùi bước. Với sự chuẩn bị chu đáo, làn sóng toàn cầu hóa những lần
tiếp theo của Samsung vẫn đi theo hướng tấn công với mũi nhọn vẫn là sản xuất
điện thoại, linh kiện điện tử đã đạt được những thành tựu to lớn khẳng định thương
hiệu của mình trên trường quốc tế.
Samsung trong môi trường toàn cầu hóa cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh
là yếu tố cấp thiết và cần phải tiến hành ngay để giúp tập đoàn chiếm lĩnh thị trường
trong nước và rộng bước tiến ra toàn cầu. Có nhiều chiến lược, dự án này được xuất
phát từ nhu cầu phát triển của tập đoàn, trong bối cảnh thị trường dù khó khăn
nhưng vẫn tiềm năng, đòi hỏi samsung phải tiếp tục tăng trưởng. Đặc biệt với chiến
lược toàn cầu hóa, samsung cần phải thay đổi để tăng tính chuyên nghiệp, thay đổi
mô hình kinh doanh và bổ sung nguồn lực chất lượng cao cho thị trường mới.
16

You might also like