Professional Documents
Culture Documents
CTXQG
CTXQG
Những năm trở lại gần đây, toàn cầu hóa và thương mại quốc tế đã thúc đẩy
sự phát triển và làm thay đổi mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Một
trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế cũng như thương mại
các quốc gia, khu vực là các công ty xuyên quốc gia. Công ty xuyên quốc gia tác
động đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới và tác động đến nền kinh tế của từng
quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia đã thúc đẩy đầu tư quốc tế, chuyển giao và
phát triển công nghệ, tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực và cuối cùng là thúc
đẩy phát triển thương mại quốc tế.
Tại Việt Nam, các công ty xuyên quốc gia bắt đầu phát triển từ những năm
đầu của thế kỷ XX. Việt Nam đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện vốn tích lũy còn thấp, nên Việt Nam phải tận dụng khai thác
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia
đã xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc cho doanh nghiệp Việt Nam nói riêng mà
cho toàn nền kinh tế Việt Nam nói chung. Sự tham gia của các công ty xuyên quốc
gia đã cải thiện trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị, lao động… cho Việt Nam
tham gia sâu vào thị trường thương mại quốc tế.
Qua quá trình học tập và nghiên cứu học phần “Công ty xuyên quốc gia”,
bản thân em nhận thức được sự ảnh hưởng đặc biệt quan trọng của những công ty
này đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và thương mại quốc tế của Việt Nam nói
riêng. Bài báo cáo này là những phân tích về vai trò của TNCs trong thương mại
quốc tế được tích lũy trong quá trình học tập và nghiên cứu. Và thông qua Tập đoàn
xuyên quốc gia Samsung – Hàn Quốc, vai trò phát triển thương mại quốc tế của
TNCs sẽ được khai thác có hiệu quả qua bài tiểu luận này.
I. Cơ sở lý luận
I.1. Khái niệm
Về bản chất, các khái niệm để nói về TNCs không có sự khác biệt đáng kể so
với MNCs: Đều là những công ty có quy mô lớn về tài sản, có phạm vi hoạt động ở
nhiều nước và tìm kiếm tỷ suất lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Sự khác biệt chỉ là
tên gọi, phản ánh đặc điểm của TNCs trong từng giai đoạn lịch sử phát triển hoặc
thói quen sử dụng từ ngữ của người dùng.
Ta khó có thể đưa ra định nghĩa chính xác về TNCs. Bởi thế, định nghĩa chung
của TNCs của UNCTAD là được cho là phù hợp nhất và được sử dụng như là định
nghĩa cơ bản về TNCs.
UNCTAD: “A transnational corporation is an enterprise that controls assets of
other entities in economies other than its home economy, usually by owning a
certain equity capital stake. An equity capital stake of 10% or more of the ordinary
shares of voting power for an incorporated enterprise, or the equivalent for an
unicorporated enterprise, is normally considered a threhold for the control of
assets”. – Công ty xuyên quốc gia là một doanh nghiệp kiểm soát tài sản của các
chi nhánh thuộc các nền kinh tế khác chứ không phải nền kinh tế trong nước.
Thường bằng cách sở hữu một phần vốn cổ phần nhất định lớn hơn. Vốn góp từ
10% trở lên của cổ phần phổ thông hoặc quyền biểu quyết đối với một doanh
nghiệp đã được thành lập, hoặc tương đương đối với một doanh nghiệp chưa có tư
cách pháp nhân, thường được coi là ngưỡng kiểm soát tài sản.
I.2. Lịch sử hình thành
TNCs xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản chuyển
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chế độ độc quyền. Lịch sử phát triển kinh tế thế
giới đã chứng minh “phân công lao động xã hội ngày càng phát triển thì quy mô sản
xuất kinh doanh trong các công ty ngày càng lớn”. Cho đến nay, TNCs vẫn luôn
phát triển không ngừng bởi nhiều nguyên nhân, điển hình như:
Thứ nhất, tích tụ và tập trung sản xuất ngày càng cao, tất yếu dẫn đến sự hình
thành các TNCs. TNCs ra đời là kết quả phát triển lâu dài của nền sản xuất xã hội,
của sự phát triển về quan hệ kinh tế quốc tế. Chúng bắt nguồn từ sự tích tụ và tập
trung sản xuất cao dẫn đến việc hình thành các tổ chức độc quyền trong nền sản
xuất của chủ nghĩa tư bản trước đây. Sự cạnh tranh tự do còn là nguyên nhân ra đời
nền sản xuất công nghiệp, thúc đẩy phân công lao động mở rộng từ phạm vi nội bộ
quốc gia sang quốc tế, làm cho năng suất lao động cao lên, các tổ chức độc quyền
xuất hiện. Từ giữa thế kỷ XX, một kiểu liên kết mới hình thành và phát triển là
Conglomerate và Concern với quy mô khổng lồ thâu tóm nhiều xí nghiệp ở các lĩnh
vực khác nhau.
Thứ hai, sự cạnh tranh, liên kết và tối đa hóa lợi nhuận. Cạnh tranh vì mục tiêu
tối đa hóa lợi nhuận là một trong những quy luật tất yếu để duy trì doanh nghiệp
phát triển trong thị trường, điều đó sẽ dẫn đến hai xu hướng chủ yếu. Thứ nhất, các
doanh nghiệp có lợi thế trong cạnh tranh sẽ thu hút các doanh nghiệp nhỏ lẻ, tính
cạnh tranh chưa cao làm cho quy mô của doanh nghiệp ngày càng mở rộng. Thứ
hai, cạnh tranh kéo dài khiến cho các doanh nghiệp có xu hướng liên kết lại với
nhau hoặc tìm kiếm bên thứ ba để liên kết nhằm tăng khả năng cạnh tranh.
Thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của tiến bộ khoa học, công nghệ. Sự phát triển
của khoa học đòi hỏi cải tạo cơ cấu sản xuất để áp dụng các thành tựu tiến bộ của
khoa học kỹ thuật. Với các doanh nghiệp nhỏ lẻ, quy mô sản xuất còn nhỏ, việc áp
dụng công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất dễ gây ra tình trạng dư thừa và
không đạt được hiệu suất cao nhất. Vì thế, sự hợp nhất của nhiều công ty nhỏ lẻ
cùng một lĩnh vực thành một TNCs hùng mạnh, có khả năng đầu tư phát triển khoa
học kỹ thuật công nghệ để ứng dụng vào kinh doanh sản xuất đã trở thành nhu cầu
tất yếu của các doanh nghiệp.
I.3. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của TNCs có tính chất phức tạp và đa dạng. Tính đa dạng biểu
hiện qua sự phong phú trong mô hình tổ chức TNCs ở các quốc gia, gia đoạn phát
triển. Tính phức tạp thể hiện ở mối liên hệ đan xen về chức năng giữ các bộ phận
của TNCs.
Một đặc điểm khác của TNCs là về cơ cấu tổ chức. Có hai cơ cấu tổ chức
chính của TNCs là cơ cấu tổ chức theo thứ bậc và xu hướng liên kết mạnh mẽ giữa
TNCs. Cơ cấu tổ chức theo thứ bậc được chia làm hai hình thức như sau:
Tổ chức theo chức năng (Functional organization – F). F bao gồm một nhóm
các phòng chức năng riêng biệt được quản lý bởi giám đốc điều hành. Hình thức
này có tính chuyên môn hóa cao và rất có hiệu quả nếu các phòng ban trong công
việc không cần liên kết với nhau. Tổ chức nhiều đầu mối (Multidivisional
organization – MD), ban lãnh đạo quản lý các bộ phận thông qua các chỉ tiêu lợi
nhuận. Hình thức này phù hợp với các công ty đa dạng hoạt động ở các lĩnh vực vì
nó có hiệu quả hơn so với hình thức F. Vì khi đó, mỗi hoạt động của công ty được
quản lý bởi một bộ phận riêng và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Về
phía ban lãnh đạo công ty chủ yếu tập trung vào các vấn đề có tính chiến lược dài
hạn, không cần phải tham gia vào quản lý các bộ phận dưới.
Bên cạnh đó, xu hướng liên kết mạnh mẽ giữa TNCs ngày càng phát triển.
Hình thức Concern là hình thức các TNCs liên kết với nhau theo chiều ngang thông
qua các quan hệ hợp tác cùng sử dụng bằng phát minh, sáng chế, nghiên cứu và phát
triển… Mô hình này tổ chức vị trí làm việc của từng người rất chặt chẽ nên có tính
hệ thống cao, quyền lực của các quyết định quản lý cao. TNCs hiện đại ngày nay
còn phổ biến hình thức Conglomerate theo chiều dọc. Các TNCs quan hệ với nhau
chủ yếu qua tài chính. Mức độ kiểm soát của công ty mẹ đối với các công ty chi
nhánh phụ thuộc vào tỷ lệ sở hữu cổ phiếu các chi nhánh. So với Concerm, cơ cấu
tổ chức của Conglomerate tinh nhẹ và linh hoạt hơn.
I.4. Chiến lược hoạt động
TNCs coi trọng đến việc xây dựng và thực hiện các chiến lược kinh doanh.
Chiến lược của TNCs có tính dài hạn và thường bao gồm các nội dung cơ bản:
Mở rộng mạng lưới sản xuất: Với TNCs, tiết kiệm chi phí sản xuất và tìm
kiếm thị trường tiêu thụ là các vấn đề quan trọng hàng đầu, quyết định sự tồn tại
phát triển mạnh mẽ của công ty trong chiến lược kinh doanh. Để tiết kiệm chi phí,
TNCs thường mở rộng phạm vi hoạt động theo hướng khai thác nguồn tài nguyên
thiên nhiên như dầu mỏ, than đá, lân thủy sản… và giá các yếu tố đầu vào rẻ. Bên
cạnh đó, TNCs chủ yếu làm việc theo mô hình chiến lược đầu tư mới (GI), được
thực hiện qua con đường xây dựng các cơ sở sản xuất mới ở các nước nhận đầu tư.
Về vấn đề mở rộng thị trường tiêu thụ, TNCs áp dụng chiến lược mở rộng phạm vi
hoạt động theo hướng mua lại và sát nhập (M&A) các công ty hiện có ở nước nhận
đầu tư. Bằng chiến lược này, TNCs có mạng lưới phân phối sẵn có ở thị trường
mới, dễ tiếp cận vào thị trường độc quyền và giảm đối thủ cạnh tranh. Việc lựa chọn
hình thức sở hữu trong chiến lược mở rộng sản xuất ra nước ngoài cũng được các
TNCs rất chú trọng.
Phân phối: Mục tiêu chiến lược phân phối của TNCs là đảm bảo được lợi ích
tổng thể của công ty. Vì vậy, việc xây dựng và điều phối chiến lược phân phối được
thực hiện từ trụ sở chính công ty mẹ, các chi nhánh khác chỉ thực hiện các quyết
định phân phối từ trung tâm và báo cáo số liệu, thông tin về diễn biến của thị trường
về công ty mẹ. Tuy nhiên, trong trường hợp một chi nhánh có mạng lưới phân phối
ở nhiều nước, khó điều phối từ công ty mẹ, hoạch toán lợi nhuận độc lập thì có thể
được tự thiết kế chính sách phân phối. Đặc điểm nổi bật trong chiến lược phân phối
là tối thiểu hóa các chi phí giao dịch. Vì thế, TNCs thường có xu hướng xây dựng
các chi nhánh sản xuất gần thị trường hoặc vùng nguyên liệu. Và đối với một số thị
trường độc quyền, TNCs thường áp dụng chiến lược sáp nhập hay mua lại các cơ sở
phân phối hiện có để thâm nhập được vào thị trường và hạ bớt chi phí giao dịch nhờ
hiệu quả kinh tế theo quy mô. TNCs chú trọng đến các hoạt động quảng bá trong
chiến lược tiêu thụ sản phẩm. Chi phí này thường chiếm tới khoảng 20% giá bán và
có xu hướng ngày càng tăng.
Chuyển giao và phát triển công nghệ: TNCs chuyển giao công nghệ qua hai
hình thức chủ yếu là chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của cùng một
TNCs và giữa các TNCs. Các TNCs hạn chế chuyển giao công nghệ mới, có tính
cạnh tranh cao cho các chi nhánh của chúng ở nước ngoài, vì sợ lộ bí mật hoặc mất
bản quyền công nghệ do việc nhái lại công nghệ của nước chủ nhà. Chiến lược
chuyển giao công nghệ phụ thuộc nhiều vào chiến lược mở rộng sản xuất ra nước
ngoài của các TNCs và kết cấu thị trường của nước chủ nhà. TNCs đầu tư rất nhiều
cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ, và coi đó là một yếu tố quyết
định thắng lợi trong cạnh tranh.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: TNCs chú trọng đến đào tạo lao động
tại chỗ, có tính ngắn hạn để đáp ứng được yêu cầu công việc của dự án đầu tư, kinh
doanh. Số lao động được gửi đi đào tạo nước ngoài thường rất ít, vì chi phí cao và
mạo hiểm. Tuy nhiên, trong các vị trí công việc quan trọng cấp cao, TNCs có chiến
lược đào tạo rất bài bản và thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt. Trong những năm gần đây, xu hướng liên kết với các cơ sở đào tạo
ngoài công ty tại nước chủ nhà ngày càng được áp dụng phổ biến vì giảm được chi
phí đào tạo, cơ cấu và trình độ đào tạo tại nước chủ nhà được cải thiện nhiều. Chiến
lược đào tạo của TNCs thường hướng tới tập trung vào đối tượng có trình độ hoặc
tay nghề cao, vì những đối tượng này mới đáp ứng được yêu cầu sử dụng công nghệ
cao của TNCs và tạo ra năng suất lao động cao.
I.5. Thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa – dịch vụ giữa các
chủ thể kinh tế có quốc tịch khác nhau, thông qua hoạt động mua bán, lấy tiền tệ
làm trung gian trao đổi. Thương mại quốc tế là một nội dung của quan hệ kinh tế
quốc tế.
Thương mại quốc tế chủ yếu gồm những hoạt động: Xuất khẩu và nhập khẩu
hàng hóa vô hình hoặc hữu hình; Gia công quốc tế; Tái xuất khẩu: Chuyển khẩu;
Xuất khẩu tại chỗ.
Các bên tham gia buôn bán với nhau hình thành và phát triển dựa trên nhu cầu
chủ yếu về lợi nhuận giữa sự chênh lệch giá của các bên tham gia thương mại. Bên
cạnh đó, nhu cầu về các chủng loại khác nhau giữa các sản phẩm của người tiêu
dùng ngày càng khác nhau và đa dạng, khiến việc trao đổi hàng hóa trở thành xu
hướng hiện nay. Khi thực hiện sự trao đổi hàng hóa giữa các bên, các doanh nghiệp
có thêm lợi nhuận từ việc mở rộng quy mô thị trường, điều đó làm cho các công ty
đạt được tính kinh tế của quy mô.
II. Vai trò của công ty xuyên quốc gia trong việc phát triển thương mại
quốc tế tại Việt Nam
II.1. Thực trạng thương mại quốc tế Việt Nam những năm gần đây
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, sau hơn hai năm đầy khó khăn bởi đại dịch
COVID – 19, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa cả năm 2022 đạt kỷ lục
732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm 2021. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu năm
2022 ước tính đạt 371,85 tỷ USD, tăng 10,6% so với năm 2021. Trong năm 2022 có
36 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 94% tổng kim ngạch
xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu ước tính đạt 360,55 tỷ USD, tăng 8,4% so với năm
2021. Trong năm 2022, có 46 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm
tỉ trọng 93,3% tổng kim ngạch nhập khẩu.
2.1-1. Số liệu kim ngạch XNK Việt Nam năm 2022 - Tổng cục thống kê
Từ năm 2016 đến năm 2022, cán cân thương mại xuất nhập khẩu hàng hóa liên
tục đạt thặng dư, với mức xuất siêu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2016, xuất
siêu Việt Nam đạt 1,6 tỷ USD; năm 2017 đạt 1,9 tỷ USD; năm 2018 tăng lên 6,46 tỷ
USD; năm 2019 đạt 10,57 tỷ USD, năm 2020 đạt 19,94 tỷ USD, năm 2021 do ảnh
hưởng nặng nề của đại dịch nên xuất siêu chỉ đạt 3,22 tỷ USD.