You are on page 1of 12

Lời nói đầu

Những năm trở lại gần đây, toàn cầu hóa và thương mại quốc tế đã thúc đẩy
sự phát triển và làm thay đổi mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Một
trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế cũng như thương mại
các quốc gia, khu vực là các công ty xuyên quốc gia. Công ty xuyên quốc gia tác
động đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới và tác động đến nền kinh tế của từng
quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia đã thúc đẩy đầu tư quốc tế, chuyển giao và
phát triển công nghệ, tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực và cuối cùng là thúc
đẩy phát triển thương mại quốc tế.

Tại Việt Nam, các công ty xuyên quốc gia bắt đầu phát triển từ những năm
đầu của thế kỷ XX. Việt Nam đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện vốn tích lũy còn thấp, nên Việt Nam phải tận dụng khai thác
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia
đã xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc cho doanh nghiệp Việt Nam nói riêng mà
cho toàn nền kinh tế Việt Nam nói chung. Sự tham gia của các công ty xuyên quốc
gia đã cải thiện trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị, lao động… cho Việt Nam
tham gia sâu vào thị trường thương mại quốc tế.

Qua quá trình học tập và nghiên cứu học phần “Công ty xuyên quốc gia”,
bản thân em nhận thức được sự ảnh hưởng đặc biệt quan trọng của những công ty
này đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và thương mại quốc tế của Việt Nam nói
riêng. Bài báo cáo này là những phân tích về vai trò của TNCs trong thương mại
quốc tế được tích lũy trong quá trình học tập và nghiên cứu. Và thông qua Tập đoàn
xuyên quốc gia Samsung – Hàn Quốc, vai trò phát triển thương mại quốc tế của
TNCs sẽ được khai thác có hiệu quả qua bài tiểu luận này.
I. Cơ sở lý luận
I.1. Khái niệm
Về bản chất, các khái niệm để nói về TNCs không có sự khác biệt đáng kể so
với MNCs: Đều là những công ty có quy mô lớn về tài sản, có phạm vi hoạt động ở
nhiều nước và tìm kiếm tỷ suất lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Sự khác biệt chỉ là
tên gọi, phản ánh đặc điểm của TNCs trong từng giai đoạn lịch sử phát triển hoặc
thói quen sử dụng từ ngữ của người dùng.
Ta khó có thể đưa ra định nghĩa chính xác về TNCs. Bởi thế, định nghĩa chung
của TNCs của UNCTAD là được cho là phù hợp nhất và được sử dụng như là định
nghĩa cơ bản về TNCs.
UNCTAD: “A transnational corporation is an enterprise that controls assets of
other entities in economies other than its home economy, usually by owning a
certain equity capital stake. An equity capital stake of 10% or more of the ordinary
shares of voting power for an incorporated enterprise, or the equivalent for an
unicorporated enterprise, is normally considered a threhold for the control of
assets”. – Công ty xuyên quốc gia là một doanh nghiệp kiểm soát tài sản của các
chi nhánh thuộc các nền kinh tế khác chứ không phải nền kinh tế trong nước.
Thường bằng cách sở hữu một phần vốn cổ phần nhất định lớn hơn. Vốn góp từ
10% trở lên của cổ phần phổ thông hoặc quyền biểu quyết đối với một doanh
nghiệp đã được thành lập, hoặc tương đương đối với một doanh nghiệp chưa có tư
cách pháp nhân, thường được coi là ngưỡng kiểm soát tài sản.
I.2. Lịch sử hình thành
TNCs xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản chuyển
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chế độ độc quyền. Lịch sử phát triển kinh tế thế
giới đã chứng minh “phân công lao động xã hội ngày càng phát triển thì quy mô sản
xuất kinh doanh trong các công ty ngày càng lớn”. Cho đến nay, TNCs vẫn luôn
phát triển không ngừng bởi nhiều nguyên nhân, điển hình như:
Thứ nhất, tích tụ và tập trung sản xuất ngày càng cao, tất yếu dẫn đến sự hình
thành các TNCs. TNCs ra đời là kết quả phát triển lâu dài của nền sản xuất xã hội,
của sự phát triển về quan hệ kinh tế quốc tế. Chúng bắt nguồn từ sự tích tụ và tập
trung sản xuất cao dẫn đến việc hình thành các tổ chức độc quyền trong nền sản
xuất của chủ nghĩa tư bản trước đây. Sự cạnh tranh tự do còn là nguyên nhân ra đời
nền sản xuất công nghiệp, thúc đẩy phân công lao động mở rộng từ phạm vi nội bộ
quốc gia sang quốc tế, làm cho năng suất lao động cao lên, các tổ chức độc quyền
xuất hiện. Từ giữa thế kỷ XX, một kiểu liên kết mới hình thành và phát triển là
Conglomerate và Concern với quy mô khổng lồ thâu tóm nhiều xí nghiệp ở các lĩnh
vực khác nhau.
Thứ hai, sự cạnh tranh, liên kết và tối đa hóa lợi nhuận. Cạnh tranh vì mục tiêu
tối đa hóa lợi nhuận là một trong những quy luật tất yếu để duy trì doanh nghiệp
phát triển trong thị trường, điều đó sẽ dẫn đến hai xu hướng chủ yếu. Thứ nhất, các
doanh nghiệp có lợi thế trong cạnh tranh sẽ thu hút các doanh nghiệp nhỏ lẻ, tính
cạnh tranh chưa cao làm cho quy mô của doanh nghiệp ngày càng mở rộng. Thứ
hai, cạnh tranh kéo dài khiến cho các doanh nghiệp có xu hướng liên kết lại với
nhau hoặc tìm kiếm bên thứ ba để liên kết nhằm tăng khả năng cạnh tranh.
Thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của tiến bộ khoa học, công nghệ. Sự phát triển
của khoa học đòi hỏi cải tạo cơ cấu sản xuất để áp dụng các thành tựu tiến bộ của
khoa học kỹ thuật. Với các doanh nghiệp nhỏ lẻ, quy mô sản xuất còn nhỏ, việc áp
dụng công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất dễ gây ra tình trạng dư thừa và
không đạt được hiệu suất cao nhất. Vì thế, sự hợp nhất của nhiều công ty nhỏ lẻ
cùng một lĩnh vực thành một TNCs hùng mạnh, có khả năng đầu tư phát triển khoa
học kỹ thuật công nghệ để ứng dụng vào kinh doanh sản xuất đã trở thành nhu cầu
tất yếu của các doanh nghiệp.
I.3. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của TNCs có tính chất phức tạp và đa dạng. Tính đa dạng biểu
hiện qua sự phong phú trong mô hình tổ chức TNCs ở các quốc gia, gia đoạn phát
triển. Tính phức tạp thể hiện ở mối liên hệ đan xen về chức năng giữ các bộ phận
của TNCs.
Một đặc điểm khác của TNCs là về cơ cấu tổ chức. Có hai cơ cấu tổ chức
chính của TNCs là cơ cấu tổ chức theo thứ bậc và xu hướng liên kết mạnh mẽ giữa
TNCs. Cơ cấu tổ chức theo thứ bậc được chia làm hai hình thức như sau:
Tổ chức theo chức năng (Functional organization – F). F bao gồm một nhóm
các phòng chức năng riêng biệt được quản lý bởi giám đốc điều hành. Hình thức
này có tính chuyên môn hóa cao và rất có hiệu quả nếu các phòng ban trong công
việc không cần liên kết với nhau. Tổ chức nhiều đầu mối (Multidivisional
organization – MD), ban lãnh đạo quản lý các bộ phận thông qua các chỉ tiêu lợi
nhuận. Hình thức này phù hợp với các công ty đa dạng hoạt động ở các lĩnh vực vì
nó có hiệu quả hơn so với hình thức F. Vì khi đó, mỗi hoạt động của công ty được
quản lý bởi một bộ phận riêng và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Về
phía ban lãnh đạo công ty chủ yếu tập trung vào các vấn đề có tính chiến lược dài
hạn, không cần phải tham gia vào quản lý các bộ phận dưới.
Bên cạnh đó, xu hướng liên kết mạnh mẽ giữa TNCs ngày càng phát triển.
Hình thức Concern là hình thức các TNCs liên kết với nhau theo chiều ngang thông
qua các quan hệ hợp tác cùng sử dụng bằng phát minh, sáng chế, nghiên cứu và phát
triển… Mô hình này tổ chức vị trí làm việc của từng người rất chặt chẽ nên có tính
hệ thống cao, quyền lực của các quyết định quản lý cao. TNCs hiện đại ngày nay
còn phổ biến hình thức Conglomerate theo chiều dọc. Các TNCs quan hệ với nhau
chủ yếu qua tài chính. Mức độ kiểm soát của công ty mẹ đối với các công ty chi
nhánh phụ thuộc vào tỷ lệ sở hữu cổ phiếu các chi nhánh. So với Concerm, cơ cấu
tổ chức của Conglomerate tinh nhẹ và linh hoạt hơn.
I.4. Chiến lược hoạt động
TNCs coi trọng đến việc xây dựng và thực hiện các chiến lược kinh doanh.
Chiến lược của TNCs có tính dài hạn và thường bao gồm các nội dung cơ bản:
Mở rộng mạng lưới sản xuất: Với TNCs, tiết kiệm chi phí sản xuất và tìm
kiếm thị trường tiêu thụ là các vấn đề quan trọng hàng đầu, quyết định sự tồn tại
phát triển mạnh mẽ của công ty trong chiến lược kinh doanh. Để tiết kiệm chi phí,
TNCs thường mở rộng phạm vi hoạt động theo hướng khai thác nguồn tài nguyên
thiên nhiên như dầu mỏ, than đá, lân thủy sản… và giá các yếu tố đầu vào rẻ. Bên
cạnh đó, TNCs chủ yếu làm việc theo mô hình chiến lược đầu tư mới (GI), được
thực hiện qua con đường xây dựng các cơ sở sản xuất mới ở các nước nhận đầu tư.
Về vấn đề mở rộng thị trường tiêu thụ, TNCs áp dụng chiến lược mở rộng phạm vi
hoạt động theo hướng mua lại và sát nhập (M&A) các công ty hiện có ở nước nhận
đầu tư. Bằng chiến lược này, TNCs có mạng lưới phân phối sẵn có ở thị trường
mới, dễ tiếp cận vào thị trường độc quyền và giảm đối thủ cạnh tranh. Việc lựa chọn
hình thức sở hữu trong chiến lược mở rộng sản xuất ra nước ngoài cũng được các
TNCs rất chú trọng.
Phân phối: Mục tiêu chiến lược phân phối của TNCs là đảm bảo được lợi ích
tổng thể của công ty. Vì vậy, việc xây dựng và điều phối chiến lược phân phối được
thực hiện từ trụ sở chính công ty mẹ, các chi nhánh khác chỉ thực hiện các quyết
định phân phối từ trung tâm và báo cáo số liệu, thông tin về diễn biến của thị trường
về công ty mẹ. Tuy nhiên, trong trường hợp một chi nhánh có mạng lưới phân phối
ở nhiều nước, khó điều phối từ công ty mẹ, hoạch toán lợi nhuận độc lập thì có thể
được tự thiết kế chính sách phân phối. Đặc điểm nổi bật trong chiến lược phân phối
là tối thiểu hóa các chi phí giao dịch. Vì thế, TNCs thường có xu hướng xây dựng
các chi nhánh sản xuất gần thị trường hoặc vùng nguyên liệu. Và đối với một số thị
trường độc quyền, TNCs thường áp dụng chiến lược sáp nhập hay mua lại các cơ sở
phân phối hiện có để thâm nhập được vào thị trường và hạ bớt chi phí giao dịch nhờ
hiệu quả kinh tế theo quy mô. TNCs chú trọng đến các hoạt động quảng bá trong
chiến lược tiêu thụ sản phẩm. Chi phí này thường chiếm tới khoảng 20% giá bán và
có xu hướng ngày càng tăng.
Chuyển giao và phát triển công nghệ: TNCs chuyển giao công nghệ qua hai
hình thức chủ yếu là chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của cùng một
TNCs và giữa các TNCs. Các TNCs hạn chế chuyển giao công nghệ mới, có tính
cạnh tranh cao cho các chi nhánh của chúng ở nước ngoài, vì sợ lộ bí mật hoặc mất
bản quyền công nghệ do việc nhái lại công nghệ của nước chủ nhà. Chiến lược
chuyển giao công nghệ phụ thuộc nhiều vào chiến lược mở rộng sản xuất ra nước
ngoài của các TNCs và kết cấu thị trường của nước chủ nhà. TNCs đầu tư rất nhiều
cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ, và coi đó là một yếu tố quyết
định thắng lợi trong cạnh tranh.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: TNCs chú trọng đến đào tạo lao động
tại chỗ, có tính ngắn hạn để đáp ứng được yêu cầu công việc của dự án đầu tư, kinh
doanh. Số lao động được gửi đi đào tạo nước ngoài thường rất ít, vì chi phí cao và
mạo hiểm. Tuy nhiên, trong các vị trí công việc quan trọng cấp cao, TNCs có chiến
lược đào tạo rất bài bản và thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt. Trong những năm gần đây, xu hướng liên kết với các cơ sở đào tạo
ngoài công ty tại nước chủ nhà ngày càng được áp dụng phổ biến vì giảm được chi
phí đào tạo, cơ cấu và trình độ đào tạo tại nước chủ nhà được cải thiện nhiều. Chiến
lược đào tạo của TNCs thường hướng tới tập trung vào đối tượng có trình độ hoặc
tay nghề cao, vì những đối tượng này mới đáp ứng được yêu cầu sử dụng công nghệ
cao của TNCs và tạo ra năng suất lao động cao.
I.5. Thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa – dịch vụ giữa các
chủ thể kinh tế có quốc tịch khác nhau, thông qua hoạt động mua bán, lấy tiền tệ
làm trung gian trao đổi. Thương mại quốc tế là một nội dung của quan hệ kinh tế
quốc tế.
Thương mại quốc tế chủ yếu gồm những hoạt động: Xuất khẩu và nhập khẩu
hàng hóa vô hình hoặc hữu hình; Gia công quốc tế; Tái xuất khẩu: Chuyển khẩu;
Xuất khẩu tại chỗ.
Các bên tham gia buôn bán với nhau hình thành và phát triển dựa trên nhu cầu
chủ yếu về lợi nhuận giữa sự chênh lệch giá của các bên tham gia thương mại. Bên
cạnh đó, nhu cầu về các chủng loại khác nhau giữa các sản phẩm của người tiêu
dùng ngày càng khác nhau và đa dạng, khiến việc trao đổi hàng hóa trở thành xu
hướng hiện nay. Khi thực hiện sự trao đổi hàng hóa giữa các bên, các doanh nghiệp
có thêm lợi nhuận từ việc mở rộng quy mô thị trường, điều đó làm cho các công ty
đạt được tính kinh tế của quy mô.
II. Vai trò của công ty xuyên quốc gia trong việc phát triển thương mại
quốc tế tại Việt Nam
II.1. Thực trạng thương mại quốc tế Việt Nam những năm gần đây
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, sau hơn hai năm đầy khó khăn bởi đại dịch
COVID – 19, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa cả năm 2022 đạt kỷ lục
732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm 2021. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu năm
2022 ước tính đạt 371,85 tỷ USD, tăng 10,6% so với năm 2021. Trong năm 2022 có
36 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 94% tổng kim ngạch
xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu ước tính đạt 360,55 tỷ USD, tăng 8,4% so với năm
2021. Trong năm 2022, có 46 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm
tỉ trọng 93,3% tổng kim ngạch nhập khẩu.

2.1-1. Số liệu kim ngạch XNK Việt Nam năm 2022 - Tổng cục thống kê

Từ năm 2016 đến năm 2022, cán cân thương mại xuất nhập khẩu hàng hóa liên
tục đạt thặng dư, với mức xuất siêu năm sau cao hơn năm trước. Năm 2016, xuất
siêu Việt Nam đạt 1,6 tỷ USD; năm 2017 đạt 1,9 tỷ USD; năm 2018 tăng lên 6,46 tỷ
USD; năm 2019 đạt 10,57 tỷ USD, năm 2020 đạt 19,94 tỷ USD, năm 2021 do ảnh
hưởng nặng nề của đại dịch nên xuất siêu chỉ đạt 3,22 tỷ USD.

2.1-2. Nguồn Tổng cục thống kê


Năm 2022, dù còn nhiều khó khăn sau những ảnh hưởng của COVID – 19 và
tình hình bất ổn trên thế giới, xuất siêu vẫn được giữ vững. Đây là sự nỗ lực rất lớn
của các doanh nghiệp Việt Nam.
II.2. TNCs đối với thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế
TNCs có vai trò quan trọng đối với những nền kinh tế định hướng xuất khẩu,
qua việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực sản xuất của thế giới. Kiểm soát hơn 50%
mậu dịch quốc tế, TNCs ngày càng thúc đẩy mạnh quan hệ hợp tác phát triển
thương mại các loại sản phẩm hữu hình, vô hình trên phạm vi toàn cầu. Cùng với sự
tham gia sâu rộng của các mạng lưới công ty có nhiều chi nhánh trải khắp toàn cầu
vào quá trình phân công lao động, cơ cấu sản phẩm trao đổi có chiều hướng gia tăng
tỷ trọng những hàng hóa có vốn, kỹ thuật cao và giảm dần tỷ trọng các hàng hóa sử
dụng nhiều lao động. Về cơ cấu đối tác cũng tăng dần tỷ trọng trao đổi của các nước
đang phát triển trên thị trường thế giới, đặc biệt đối với các nước công nghiệp hóa
mới. Bên cạnh đó, TNCs đã tạo ra và khai thác nguồn hàng tiềm năng qua hoạt
động khai thác thị trường tại chỗ với mục tiêu giảm chi phí vận chuyển, hạ giá
thành sản phẩm, phù hợp hơn với thị trường mục tiêu, phục vụ có hiệu quả cho quá
trình tiêu thụ hàng hóa. TNCs thực hiện “hàng hóa” hóa các sản phẩm, bằng phát
minh sáng chế, bí quyết công nghệ, kinh nghiệm quản lý cũng được coi là sản phẩm
được trao đổi trên thị trường qua mua bán, cho thuê, trao đổi có điều kiện… Bằng
cách này, các sản phẩm với chất lượng cao của TNCs đã phá bỏ được những hàng
rào biên giới quốc gia khi chúng kìm hãm quá trình quốc tế hóa lưu thông những
sản phẩm đó. Điều đó đóng góp vào việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và
nâng cao trình độ xã hội hóa sản phẩm trên thế giới.
Tuy nhiên, vì mục đích lợi nhuận, TNCs có thể làm sai lệch các mối quan hệ
hàng hóa tiền tệ qua những hoạt động đầu cơ, nâng giá, trao đổi nội bộ giữa các
công ty chi nhánh với khối lượng lớn có thể dẫn đến tình trạng bất ổn định trong lưu
thông hàng hóa – dịch vụ cũng như nền tài chính – tiền tệ thế giới. Các cuộc khủng
hoảng tài chính – tiền tệ đều có sự bắt nguồn gián tiếp hoặc trực tiếp từ sự tham gia
của TNCs. Vì đó, các nước trên thế giới không phân biệt trình độ phát triển cần đặt
ra những luật lệ khống chế những tác động tiêu cực của TNCs, nhất là trong lưu
thông hàng hóa và tiền tệ.
Vai trò thúc đẩy thương mại quốc tế của TNCs được thể hiện thông qua tổng
kim ngạch xuất khẩu và doanh thu của các công ty chi nhánh ở nước ngoài cũng
như tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của TNCs.
II.3. Trao đổi hàng hóa và dịch vụ của TNCs
Trong việc vận hành của TNCs, công ty mẹ chi phối toàn bộ hoạt động của
TNCs, các công ty con ở nước ngoài thuộc phạm vi điều hành của công ty mẹ.
TNCs chính là một hệ thống mạng lưới công ty, trong đó công ty mẹ giữ vai trò
lãnh đạo, các công ty con có chế độ hạch toán độc lập nhưng phụ thuộc chủ yếu về
tài chính, kỹ thuật công nghệ cũng như định hướng chiến lược phát triển của công
ty mẹ. Trao đổi nội bộ công ty là trao đổi giữa công ty mẹ và công ty con của một
TNCs với nhau. Trao đổi nội bộ là một hình thức kinh doanh để phát triển và giảm
chi phí thường có của TNCs.
Một đặc điểm cần lưu ý là trao đổi giữa các công ty chi nhánh trong nội bộ
TNCs ở các nước ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị
thương mại của nhiều nước. Sự trao đổi này thường đi cùng giá chuyển giao, tức là
giá cả không dựa trên cơ sở quan hệ cung và cầu, mà là giá thỏa thuận giữa các
công ty chi nhánh trong cùng một TNCs. Tình trạng này có thể làm thiệt hại đến
nước chủ nhà. Đây là vấn đề cần lưu ý đối với các nước đang phát triển, nhất là ở
Việt Nam hiện nay.
III. Samsung trong thương mại quốc tế tại Việt Nam
III.1. Giới thiệu chung về Samsung
Samsung là một tập đoàn xuyên quốc gia của Hàn Quốc được sáng lập bởi CEO
Lee Byung Chul vào ngày 1/3/1938, có trụ sở chính đặt tại Samsung Town, Seocho,
Seoul, Hàn Quốc. Khởi nghiệp như một công ty thương mại nhỏ, 30 sau khi thành
lập, Samsung đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh ở khắp các lĩnh vực như chế
biến thực phẩm, dệt may, bảo hiểm, chứng khoán. Samsung tham gia vào lĩnh vực
điện tử vào cuối thập kỷ 60. Ba trụ cột chính hiện nay của Samsung là Samsung
Electronics, Samsung Heavy Industries và Samsung Engineering & Samsung C&T.
Samsung có tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, truyền thông, chính trị và
văn hóa tại Hàn Quốc. Từ những năm 90, Samsung mở rộng hoạt động trên quy mô
toàn cầu, tập trung vào lĩnh vực điện tử, điện thoại di động và chất bán dẫn.
Samsung thâm nhập vào thị trường Việt Nam từ năm 1996 với một liên doanh
quy mô nhỏ. Năm 2008, Samsung chính thức nhận giấy phép đầu tư và bắt đầu khởi
công xây dựng nhà máy sản xuất tại Bắc Ninh, Việt Nam. Tính đến thời điểm hiện
tại, Samsung đã đầu tư và xây dựng 4 nhà máy lớn ở Việt Nam để sản xuất linh kiện
và các thiết bị điện tử, điện thoại di động, TV, điều hòa.... Việt Nam được chọn là
một trong nhiều thị trường tiềm năng của Samsung khi có nền chính trị ổn định,
nguồn lao động giá rẻ dồi dào, khách hàng tiềm năng lớn.
III.2. Samsung đối với thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế
Công nghiệp điện tử là ngành công nghiệp trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân,
có vị trí then chốt và tác động lan tỏa đến các ngành công nghiệp khác. Nó đồng
thời là thước đo trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và tiềm lực kinh tế của một
quốc gia. Hiểu được sự quan trọng của công nghiệp điện tử đối với một quốc gia
đang trong tiến trình hiện đại hóa đất nước, Samsung đã đầu tư xây dựng nhà máy
lắp ráp sản xuất công nghệ cao tại Việt Nam. Sự tham gia vào thị trường kinh tế
Việt Nam của Samsung không chỉ giải quyết được vấn tạo đề việc làm mà còn thúc
đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam.
So với các năm trước đây thì tỷ trọng đóng góp của Samsung trong kim ngạch
xuất khẩu ngày càng tăng và tạo ra những con số vô cùng ấn tượng. Năm 2012, tập
đoàn Samsung Việt Nam đã xuất khẩu 12,9 tỷ USD chiếm 11,3% kim ngạch xuất
khẩu của cả nước. Đến năm 2017, tập đoàn Samsung Việt Nam xuất khẩu 54,4 tỷ
USD, chiếm 25,4% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thống kê của Tổng cục Hải
Quan cho biết, điện thoại và các linh kiện điện thoại là một trong những mặt hàng
tăng trưởng mạnh nhất trong 3 quý vừa qua. Năm 2018 có 2 tháng (tháng 3 và tháng
8) kim ngạch xuất khẩu Việt Nam đạt mức cao kỷ lục trên 21 tỷ USD. Để có sự tăng
trưởng vượt bậc đó đều nhờ vào kim ngạch xuất khẩu điện thoại trong 2 tháng này
đều đạt trên 5 tỷ USD.
Theo số liệu thống kê của Samsung Việt Nam năm 2021, vượt qua những khó
khăn do dịch COVID – 19, kim ngạch xuất khẩu của Samsung Việt Nam đạt 65,5 tỷ
USD, tăng 16% so với năm 2020.
Các sản phẩm máy vi tính và kinh kiện điện tử ngày càng đa dạng hóa các sản
phẩm theo nhu cầu của thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu. Tốc độ tăng
trưởng của nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện đã vượt qua dệt may trở thành
nhóm hàng xuất khẩu chủ lực lớn thứ hai kể từ năm 2019 đến nay.

3.2-1. Theo Tổng cục thống kê


Là mặt hàng chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng
trưởng của mặt hàng điện tử và linh kiện có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng
chung của kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong năm 2011, xuất khẩu về điện
tử, linh kiện mới chỉ chiếm 4,8% tổng kim ngạch xuất khẩu thì trong năm 2015, con
số đã tăng lên gấp đôi, chiếm 9,6% và tăng đều qua các năm sau đó.
Năm 2021, xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện đứng thứ 2 trong 8 nhóm
hàng đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD của Việt Nam, tốc độ tăng lần lượt các năm
trong giai đoạn 2011-2021 là: 2011 tăng 29,9%; năm 2012 tăng 68,4%; năm 2013
tăng 35,5%; năm 2014 tăng 7,5%; năm 2015 tăng 36,5%; năm 2016 tăng 21,5%;
năm 2017 tăng 38,6%; năm 2018 tăng 12,5%; năm 2019 và năm 2020 cùng tăng
22,8%; năm 2021 ước tính tăng 14,4%. Bình quân cả giai đoạn 2011-2021 tăng
27,3%.
Hiện nay, Việt Nam đã trở thành nơi sản xuất điện thoại lớn nhất của Samsung,
chiếm tới 60% tổng lượng điện thoại bán ra của Tập đoàn này trên toàn cầu. Kể từ
khi Samsung phát triển đầu tư tại Việt Nam, từ một nước chủ yếu xuất khẩu nông
lâm ngư nghiệp và các nguyên liệu thô, Việt Nam đã nhanh chóng chuyển dịch cơ
cấu xuất khẩu sang các sản phẩm linh kiện điện tử, máy móc, các sản phẩm mang
tính chế biến cao. Đây là những tín hiệu đáng mừng về sự phát triển sản xuất cũng
như xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện, dự báo những năm tăng trưởng mạnh
mẽ của nền kinh tế Việt Nam.
III.3. Samsung trong trao đổi hàng hóa và dịch vụ
Đại diện Samsung Việt Nam cho biết, chuyển giao công nghệ là vấn đề quan
trọng mà một nền kinh tế đang nổi lên như Việt Nam cần dành sự quan tâm đặc
biệt. Đối với một nền kinh tế đang nổi lên như Việt Nam, chuyển giao công nghệ là
vấn đề quan trọng. Cần phải hiểu rõ là chuyển giao cái gì, chuyển giao cho ai, cũng
như những lợi ích gắn liền với việc chuyển giao công nghệ. Samsung đã hợp tác
chặt chẽ với Bộ Công Thương Việt Nam nhằm tổ chức các chương trình hỗ trợ các
doanh nghiệp Việt nâng cao năng lực quản trị, tăng cường chất lượng sản phẩm
bằng cách hoàn thiện quy trình sản xuất, giảm tỷ lệ lỗi, từ đó giảm chi phí, tăng lợi
nhuận.
Số lượng doanh nghiệp Việt Nam là nhà cung ứng cấp 1 của Samsung đã gia
tăng mạnh mẽ, từ con số 4 doanh nghiệp vào năm 2014 lên 51 doanh nghiệp năm
2022, tương đương tăng hơn 12 lần.
Từ năm 2015, Samsung đã triển khai các chương trình tư vấn cải tiến năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao
năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh. Các chương trình này do đội ngũ chuyên
gia Hàn Quốc trực tiếp hướng dẫn. Đến nay, đã có 379 doanh nghiệp được tư vấn và
ghi nhận mức độ cải tiến năng suất gia tăng đáng kể, trung bình tăng hơn 39%, cải
tiến hơn 52% lỗi chất lượng, giảm hơn 36% lượng hàng hóa tồn kho…
Samsung cam kết hỗ Việt Nam trở thành một trung tâm của khu vực về khoa
học và công nghệ. Do đó, vấn đề chuyển giao công nghệ một cách hiệu quả là điều
hết sức cần thiết.
Mặc dù vậy, thời gian qua, các doanh nghiệp sản xuất gặp nhiều khó khăn do chi
phí sản xuất tăng như giá vận tải, kho bãi, giá nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất
vẫn ở mức cao khiến chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng…
Một số nhóm hàng do các doanh nghiệp FDI, Tập đoàn Samsung giảm sản
lượng sản xuất do nhu cầu thị trường suy giảm, đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng của cả
sản xuất công nghiệp và xuất khẩu.
Vì thế, cần chú ý là trao đổi giữa các công ty chi nhánh trong nội bộ Samsung ở
các nước ngày càng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị thương mại
của nhiều nước. Tình trạng này có thể làm thiệt hại đến nước chủ nhà. Đây là vấn đề
cần lưu ý đối với Việt Nam hiện nay.
Kết luận
Samsung đang nỗ lực gây dựng toàn cầu hóa phát triển công ty. Tập đoàn luôn
tiếp thu những khoa học kĩ thuật mới và thay đổi xu hướng mới. Trở thành tập đoàn
toàn cầu, Samsung tìm kiếm lợi nhuận dường như không có giới hạn trên các không
gian. Samsung đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới vào sản phẩm, Samsung nghiên
cứu nhu cầu của khách hàng và đáp ứng tốt nhất bằng việc đưa ra những mẫu sản
phẩm công nghệ mang tính đột phá. Thành công lớn nhất của Samsung là xây dựng
được văn hoá doanh nghiệp. Nguồn nhân sự năng động và sáng tạo là giá trị cốt lõi
để Samsung phát triển lâu dài. Bên cạnh ngành mũi nhọn là sản xuất điện thoại linh
kiện điện tử, việc phát triển thêm một số lĩnh vực kinh doanh mới là chiến lược hợp
lý trong bối cảnh hiện nay.
Samsung đã có đóng góp to lớn trong sự phát triển nền kinh tế Việt Nam nói
chung và thương mại quốc tế Việt Nam nói riêng. Không chỉ nâng cao tỷ trọng khu
vực sản xuất công nghệ, linh kiện điện tử, dịch vụ… mà còn góp phần chuyển dịch
cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu điện
thoại di động lớn nhất thế giới, vượt qua cả thị trường tỷ dân Trung Quốc. Việc
Samsung quyết định xây dựng trung tâm nghiên cứu và phát triển tại Hà Nội, Việt
Nam chứng tỏ Việt Nam là một đất nước có tiềm năng trong phát triển kinh tế của
các TNCs nói chung và Samsung nói riêng. Hành động của Samsung chính là nền
tảng to lớn cho các công ty TNCs đầu tư phát triển Việt Nam, đưa Việt Nam tiến
nhanh trên con đường hội nhập, phát triển, đặc biệt là trong sự nghiệp hiện đại hóa,
công nghiệp hóa của Việt Nam.
Tập đoàn Samsung là tập đoàn dẫn đầu về lĩnh vực điện tử của Hàn Quốc, đã
khẳng định thương hiệu vững chắc tại thị trường trong nước và quốc tế. Trải qua
nhiều gia thời kì khó khăn và thử thách với những chiến lược thất bại, nhưng
Samsung sau thời gian trải nghiệm toàn cầu hóa đầu tiên, Samsung lại quyết tâm
vực dậy với làn sóng toàn cầu hóa những lần tiêp theo được chuẩn bị kỹ càng hơn.
Động lực để Samsung mạnh mẽ hơn là do toàn cầu hóa đã trở thành xu hướng tất
yếu không thể lùi bước. Với sự chuẩn bị chu đáo, làn sóng toàn cầu hóa những lần
tiếp theo của Samsung vẫn đi theo hướng tấn công với mũi nhọn vẫn là sản xuất
điện thoại, linh kiện điện tử đã đạt được những thành tựu to lớn khẳng định thương
hiệu của mình trên trường quốc tế.
Samsung cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh là yếu tố cấp thiết và cần phải
tiến hành ngay để giúp tập đoàn chiếm lĩnh thị trường trong nước và rộng bước tiến
ra toàn cầu.

You might also like