You are on page 1of 102

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


-----------------------------------------------------

TRƢƠNG NGỌC TÙNG

VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGƢỜI QUAN HỌ


THÔNG QUA LỜI CA DÂN CA QUAN HỌ CỔ

LUẬN VĂN THẠC SĨ


Chuyên ngành: Văn học dân gian

HÀ NỘI – 2014
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRƢƠNG NGỌC TÙNG

VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGƢỜI QUAN HỌ


THÔNG QUA LỜI CA DÂN CA QUAN HỌ CỔ

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Dân gian


Mã số: 60220125

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VIỆT HƢƠNG

HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Mọi trích
dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các số liệu, tên đề tài và kết quả nghiên cứu
trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác.
Hà Nội ngày 15.12.2014
Ngƣời cam đoan

Trƣơng Ngọc Tùng


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

LỜI CẢM ƠN

Trƣớc tiên, tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô đã giảng
dạy lớp Cao học K57 Ngữ văn trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
– Đại học Quốc gia Hà Nội nói chung và các thầy cô giảng dạy chuyên ngành
Văn học dân gian của trƣờng nói riêng, những ngƣời đã truyền đạt cho tôi
những kiến thức chuyên sâu về Văn học và Văn học Dân gian, làm cơ sở cho
tôi thực hiện tốt luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Việt Hƣơng đã tận tình hƣớng
dẫn cho tôi trong thời gian thực hiện luận văn. Mặc dù trong quá trình thực
hiện, có giai đoạn không đƣợc thuận lợi nhƣng những gì cô đã hƣớng dẫn, chỉ
bảo đã cho tôi nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Chân thành cảm ơn Thƣ viện tỉnh Bắc Ninh, các câu lạc bộ Quan họ
trong tỉnh Bắc Ninh, Nhà hát Quan Họ Bắc Ninh, các Liền anh, Liền chị Quan
họ và các Nghệ nhân làng Xuân Ổ, Phú Lâm, Làng Diềm, Lộ Bao và hội
Quan họ ngƣời cao tuổi Tiên Du đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập dữ
liệu và thông tin của luận văn.
Sau cùng tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến thầy hiệu trƣởng và BGH
trƣờng THPT Minh Phú, nơi tôi công tác và gia đình đã luôn tạo điều kiện tốt
nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng nhƣ thực hiện luận văn.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chƣa nhiều
nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận đƣợc ý kiến
góp ý của Thầy/ Cô và các bạn học viên.
Hà Nội tháng 12. 2014
Học viên

Trƣơng Ngọc Tùng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 5
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 7
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................ 11
4. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................. 12
5. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 12
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI ................................................... 13
1.1. Văn hóa và văn hóa ứng xử...................................................................... 13
1.2. Không gian văn hóa Quan họ xứ Kinh Bắc ............................................. 17
1.2.1. Môi trường tự nhiên .............................................................................. 17
1.2.2. Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên ........................................... 19
1.2.3. Môi trường kinh tế................................................................................. 20
1.2.4. Môi trường văn hoá............................................................................... 20
1.3. Khái niệm, nguồn gốc và lịch sử phát triển dân ca Quan họ ................... 22
1.3.1. Khái niệm dân ca Quan họ ................................................................... 22
1.3.2. Khái niệm lời ca dân ca Quan họ cổ .................................................... 24
1.3.3. Nguồn gốc ............................................................................................. 27
1.3.4. Lịch sử phát triển .................................................................................. 22
CHƢƠNG 2. VĂN HOÁ ỨNG XỬ CỦA NGƢỜI QUAN HỌ TRONG
ĐỜI SỐNG ..................................................................................................... 30
2.1. Ứng xử của ngƣời Quan họ với môi trƣờng tự nhiên .............................. 30
2.1.1. Các hình thái văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên nói chung 30
2.1.2. Ứng xử của người Quan họ với tự nhiên .............................................. 32
2.2. Ứng xử của ngƣời Quan họ trong môi trƣờng xã hội .............................. 37
2.2.1. Ứng xử của người Quan họ trong gia đình........................................... 38
2.2.2. Ứng xử của người Quan họ với xã hội.................................................. 42

3
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

CHƢƠNG 3. VĂN HOÁ ỨNG XỬ CỦA NGƢỜI QUAN HỌ TRONG


VĂN BẢN LỜI CA........................................ Error! Bookmark not defined.
3.1. Ứng xử của ngƣời Quan họ thể hiện qua nội dung lời ca ........................ 56
3.1.1. Ứng xử của người Quan họ với môi trường tự nhiên …….…………. 57
3.1.2. Ứng xử của người Quan họ trong gia đình ………………….……….….64
3.1.3. Ứng xử của người Quan họ ngoài xã hội ………………….…………….76
3.2. Phƣơng thức thể hiện lối ứng xử của ngƣời Quan họ qua lời ca ............. 80
3.2.1. Thể thơ, vần nhịp ................................................................................... 81
3.2.2. Ngôn ngữ lời ca Quan họ ...................................................................... 83
3.2.3. Hình tượng trong lời ca ........................................................................ 84
3.2.4. Một số thủ pháp nghệ thuật................................................................... 88
KẾT LUẬN .................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 93

4
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nói đến dân ca Quan họ Bắc Ninh là nói đến một loại hình nghệ thuật
dân gian truyền thống thuần Việt độc đáo, có chiều dài lịch sử và không gian
văn hóa sâu rộng. Sức hút của loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo này đã
vƣơn ra khỏi địa bàn nơi nó sinh ra, lan truyền trong và ngoài nƣớc. Ngày
nay, chúng ta dễ dàng chứng kiến tại các lễ hội, các hội nghị, các trung tâm
vui chơi giải trí và thậm chí trong các đám cƣới ở khắp mọi miền đất nƣớc
hình ảnh liền anh liền chị Quan họ xúng xính tà áo tứ thân, mớ ba mớ bảy e lệ
bên chiếc nón quai thao và ca lên những giai điệu, lời ca mƣợt mà lôi
cuốn…Vì sao dân ca Quan họ lại có sức sống, sự lan tỏa rộng khắp và mạnh
mẽ đến nhƣ vậy, nhất là hiện nay, trong đời sống xã hội hiện đại có rất nhiều
hình thức giải trí khác nhau?
Từ những năm đất nƣớc ta chìm dƣới bom đạn chiến tranh, mặc dầu
còn rất nhiều khó khăn gian khổ hy sinh, song Đảng và Nhà nƣớc ta đã rất
chú trọng công tác nghiên cứu và bảo tồn dân ca Quan họ. Trải qua hơn nửa
thế kỷ, có rất nhiều tác giả đã dày công sƣu tầm, nghiên cứu và để lại khối
lƣợng tác phẩm khá phong phú đa dạng, sâu sắc và nhiều chiều, đem đến cho
ngƣời đọc, ngƣời yêu mến Quan họ một trữ lƣợng kiến thức rất đầy đủ liên
quan tới vùng đất, con ngƣời Quan họ. Song chƣa đủ để chúng ta kết luận
rằng đó là sức hấp dẫn của dân ca Quan họ với công chúng.
Thiết nghĩ, bên cạnh lề lối sinh hoạt, những phép tắc, phong tục, những
giai điệu uyển chuyển hay sự trình diễn của các nghệ nhân Quan họ còn có một
sự đóng góp rất lớn cho sự tồn tại và phát triển, có sức lôi cuốn mạnh mẽ tới
công chúng bao đời của loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo này, ấy chính là
lời ca, đặc biệt là lời ca cổ. Trong lời ca dân ca Quan họ cổ không chỉ chứa

5
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

đựng tình cảm, tình yêu, khát vọng của ông cha ta từ muôn đời trƣớc mà nó còn
mang trong mình một nét văn hóa đậm chất Kinh Bắc: Văn hóa ứng xử. Theo
tài liệu của các nhà nghiên cứu thì chúng ta dễ dàng nhận thấy, văn hóa ứng xử
của nhân dân Kinh Bắc nói chung và ngƣời Quan họ nói riêng đã đƣợc hình
thành và phát triển từ rất lâu đời, tạo ra không gian văn hóa đặc biệt, không thể
trộn lẫn. Nhƣng có thể nói, trong lời ca cổ của các bài dân ca Quan họ đã chứa
đựng nét văn hóa ứng xử của ngƣời Quan họ một các sâu sắc và phong phú đa
dạng, từ cá nhân, gia đình tới xã hội, từ phong tục tập quán lễ hội tới thiên
nhiên, đất nƣớc. Nói cách khác, trong lời ca dân ca Quan họ cổ, ngƣời Quan họ
đã thể hiện một nét văn hóa ứng xử đậm tính nhân văn, nhân bản - cội nguồn
của dân tộc Việt Nam nói chung và ngƣời Kinh Bắc nói riêng. Nghiên cứu dân
ca Quan họ dƣới góc độ văn học dân gian nhìn chung các tác giả trình bày
tƣơng đối phong phú, sâu sắc. Song, thực tế tìm hiểu chúng tôi nhận thấy việc
nghiên cứu lời ca dân ca Quan họ cổ vẫn chƣa thành hệ thống, đại đa số tập
trung vào việc tìm hiểu văn hoá, âm nhạc, không gian sinh hoạt Quan họ...
Không nhiều ngƣời khai thác tìm hiểu Quan họ dƣới góc nhìn văn học dân
gian, đặc biệt là khai thác lời ca cổ khi lời ca tách khỏi âm nhạc.
Trên thực tế tìm hiểu và nghiên cứu, chúng tôi cũng nhận thấy, hiện
nay mặc dầu các bài ca dân ca Quan họ cổ đƣợc sƣu tầm, ký âm tƣơng đối
đầy đủ, song để diễn giải nội dung các bài ca thành một hệ thống thống nhất
giúp ngƣời đọc ngƣời nghe dễ dàng tiếp nhận và cảm thụ đƣợc cái hay, sự sâu
sắc, ý tứ thâm trầm mà các lời bài ca cổ đem lại, đặc biệt từ đó bạn đọc cảm
nhận đƣợc nét văn hóa ứng xử mà tiền nhân gửi gắm trong lời ca cổ thì cho
đến nay chƣa có ai, chƣa có cuốn sách nào đề cập tới. Do đó, đôi khi ngƣời ta
nghe dân ca Quan họ thấy hay mà không hiểu tƣờng tận vì sao hay, chƣa thấy
hết đƣợc thú chơi Quan họ của ngƣời Quan họ. Và thời gian cứ trôi đi, cùng
với sự phát triển nhƣ vũ bão của khoa học kỹ thuật và hàng ngàn hình thức

6
giải trí công nghệ hiện đại, con ngƣời sẽ không có nhiều thời gian để tìm hiểu,
nghiên cứu vốn văn hóa sâu sắc và độc đáo này. Dân ca Quan họ chắc chắn
vẫn tồn tại mãi mãi, nhƣng lời ca cổ với văn hóa ứng xử của ngƣời xƣa sẽ ra
sao khi Quan họ cải biên, Quan họ đài, Quan họ lời mới cứ ngày một lấn át.
Rồi ngày nào đó, thế hệ sau chúng ta có còn ai hiểu rõ tƣờng tận về ông cha
khi tiếp nhận lời ca cổ?
Từ những trăn trở muốn tìm hiểu kho tàng lời ca Quan họ cổ, một tài
sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vô cùng độc đáo và sâu sắc, để thấy
đƣợc văn hóa ứng xử của tiền nhân, chúng tôi mạnh dạn khai thác một khía
cạnh nhỏ trong vô vàn nội dung khác nhau chứa đựng trong lời ca: Văn hóa
ứng xử của ngƣời Quan họ qua lời ca dân ca Quan họ cổ.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Những công trình nghiên cứu, các hội thảo với số lƣợng bài viết về
Quan họ và vùng đất Kinh Bắc rất phong phú và đa dạng trải qua một thời
gian tƣơng đối dài, giúp chúng ta lý giải phần nào vấn đề ở trên. Điển hình là
những nhà nghiên cứu nhƣ: Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý
cùng viết trong cuốn “Quan họ - Nguồn gốc và quá trình phát triển” (Nhà xuất
bản Khoa học Xã hội, 1978). Trong cuốn sách này, cả ba tác giả đã căn cứ từ
những tƣ liệu, tài liệu có nguồn gốc thực tế qua quá trình tìm hiểu các hoạt
động nghệ thuật của Quan họ, kết hợp giữa lý thuyết và thực tế để đi đến việc
kết luận nguồn gốc ra đời và phát triển của nghệ thuật Quan họ. Nhạc sĩ Hồng
Thao với công trình nghiên cứu, sƣu tập bền bỉ “300 bài dân ca quan họ Bắc
Ninh” (Viện Nghiên cứu Âm nhạc, 2002) và “Dân ca Quan họ” (NXB Âm
nhạc 1997). Đây là công trình rất có ý nghĩa và chất lƣợng, là nguồn tài liệu
quý giá cho việc tìm hiểu về vùng đất, văn hoá và con ngƣời Kinh Bắc qua
các bài ca, làn điệu Quan họ cổ. Có thể nói công trình này của nhạc sĩ Hồng
Thao nhƣ là cuốn bách khoa toàn thƣ về lời Quan họ cổ, bởi ông đã dày công

7
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

sƣu tầm, ghi âm, ký âm gần nhƣ tất cả các làn điệu. Ngoài ra, bạn đọc còn
đƣợc cung cấp thêm hàng trăm dị bản khác nhau đƣợc tác giả kèm thêm vào
mỗi bài ca. Hai tác giả Lê Danh Khiêm, Hoắc Công Huynh viết trong cuốn
“Dân ca Quan họ - Lời ca và bình giải” (Trung tâm Văn hoá Quan họ Bắc
Ninh, 2001) với rất nhiều tƣ liệu, cách đánh giá, tìm tòi sâu rộng. Ngoài việc
cung cấp rất nhiều văn bản lời ca dân ca Quan họ cổ, nhóm tác giả còn cắt
nghĩa, giải thích một cách tƣờng tận, dễ hiểu cho bạn đọc các sự vật, hiện
tƣợng đƣợc sử dụng trong giao tiếp của ngƣời Quan họ cũng nhƣ trong lời ca
Dân ca Quan họ. Từ đó bạn đọc hiểu sâu hơn về ca từ đƣợc sử dụng trong bài
ca, thấy đƣợc sự đặc sắc trong văn hoá nghệ thuật Quan họ. Tiếp là nhóm các
tác giả Nguyễn Văn Phú, Lƣu Hữu Phƣớc, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc rất dày
công trong cuốn “Dân ca quan họ Bắc Ninh” (Nhà xuất bản Văn hoá ,1961)
và Dân ca Quan họ, (Nhà xuất bản Âm nhạc,1997). Đây là những công trình
nghiên cứu có quy mô tƣơng đối lớn, các tác giả đã thể hiện sự tâm huyết của
mình trong tình yêu Quan họ bằng sự dày công sƣu tầm, phân tích, đánh giá
đa dạng nhiều chiều. Từ nguồn gốc, quá trình phát triển của Quan họ tới phạm
vi ảnh hƣởng của nó trong đời sống xã hội xƣa và hiện tại. Ở đây chúng ta còn
đƣợc cung cấp thêm về sự khác biệt giữa Quan họ lời cổ và Quan họ hiện đại,
trong mối qua hệ mật thiết giữa văn hoá vùng miền của ngƣời Quan họ và lời
ca. Từ đó, ngƣời đọc sẽ cảm nhận về Quan họ sâu rộng hơn, cảm nhận sự sâu
sắc tinh tế trong lời ca hơn và thêm yêu loại hình nghệ thuật này hơn. Ngay
trong cuốn “Hà Bắc ngàn năm văn hiến”, tập 3 có tựa đề “Đất nƣớc con
ngƣời”, đây là kết quả của hội nghị tổng kết mƣời bảy năm công tác bảo tồn
và bảo tàng (1956-1973), nhiều tác giả trong hội nghị đã có bài phát biểu sâu
sắc, thể tình yêu và trách nhiệm của mình với quê hƣơng Hà Bắc, trong đó
đáng lƣu ý là hai bài viết của tác giả Trần Linh Quý “Làng gốc Quan họ và
bảo tồn, bảo tàng đối với Quan họ” và của tác giả Lê Thị Nhâm Tuyết „Tục

8
kết nghĩa làng chạ cổ truyền và tƣ liệu kết nghĩa làng chạ ở Hà Bắc”. Ở hai
bài viết này, độc giả có thêm kiến thức về Quan họ cũng nhƣ cách thức sinh
hoạt, cách thức diễn xƣớng và ứng xử của ngƣời Quan họ. Cùng thời gian
này, Ty văn hóa Hà Bắc cũng cho ra đời cuốn sách “Một số vấn đề về dân ca
Quan họ”. Cuốn sách tổng hợp bài phát biểu, báo cáo và tham luận của các
nhà quản lí văn hóa ở địa phƣơng vùng Quan họ, các cán bộ nghiên cứu công
tác tại viện Văn học, viện Dân tộc học, viện Âm nhạc, viện Sân khấu, vv…
Nội dung các bài viết đều tập trung vào khai thác tìm hiểu tập tục, nguồn gốc,
lịch sử phát triển của dân ca Quan họ cũng nhƣ phƣơng án bảo tồn, phát triển
Quan họ. Cuốn sách này cũng là một tƣ liệu vô cùng quý báu cho thế hệ sau.
Trong website: www.spnttw.du.vn, tác giả Nguyễn Thế Khoa dành nhiều thời
gian, công sức để sƣu tập, tìm hiểu dân ca Quan họ qua bài viết “Hành trình
sƣu tầm nghiên cứu dân ca Quan họ”. Từ những năm 1972, khi đất nƣớc còn
chia cắt, miền Bắc chìm trong khói bom của giặc Mỹ nhƣng tác giả Trần Văn
Khê cùng nhóm nghiên cứu đã dành tình cảm và trách nhiệm của mình cho
nền nghệ thuật độc đáo của dân tộc và đã cho ra đời hai cuốn “Một số vấn đề
về dân ca Quan họ”, và “Âm nhạc truyền thống Việt Nam và Hát Quan họ”
(Ty Văn hoá Hà Bắc , 1972). Có thể nói đây là những tài liệu vô cùng quý
báu, thể hiện tinh thần yêu nƣớc, yêu văn hóa truyền thống của thế hệ đi
trƣớc. Đặc biệt trong Website tỉnh Bắc Ninh (http://www.bacninh.gov.vn) và
trong từ điển “Bách khoa toàn thƣ mở” (http://vi.wikipedia.org/quanho) cung
cấp tƣơng đối đầy đủ cho bạn đọc các kiến thức liên quan tới loại hình nghệ
thuật này. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết của các tác giả khác đăng trên các
tạp chí, các diễn đàn, các tờ báo của trung ƣơng và địa phƣơng. Nhìn chung
các tác giả đều cho bạn đọc một cái nhìn rất phong phú và đa dạng, nhiều
chiều về dân ca Quan họ và con ngƣời xứ Kinh Bắc. Từ việc sƣu tầm và tham
khảo khoảng trên dƣới 100 tài liệu là những cuốn sách, bài nhận xét, công

9
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

trình nghiên cứu trải dài từ những năm kháng chiến chống Mỹ đến nay, chúng
tôi nhận thấy và tạm chia thành 3 loại:
- Công trình sƣu tầm nghiên cứu các làn điệu Quan họ đặc biệt là Quan
họ cổ dƣới góc độ âm nhạc. Ở loại này chủ yếu là ký âm, ghi lời những bài ca
cổ, những dị bản và một số những lời bài Quan họ cải biên, đổi mới. Trong đó
điển hình là nhạc sĩ Hồng Thao (Phạm Hồng Thao 1932-1996), Lâm Minh
Đức, Nguyễn Trọng Ánh, Đức Miêng… Đặc biệt có giá trị là cuốn “300 bài
dân ca Quan họ Bắc Ninh” do nhạc sĩ Hồng Thao dày công sƣu tầm, ghi âm,
ký âm. Đây có thể nói là nguồn tài liệu vô cùng quý giá về lời ca cổ của Quan
họ. Ở phần này, những bài ca dân ca Quan họ cổ đƣợc sƣu tầm kí âm chính là
căn cứ để so sánh, tìm hiểu nguồn gốc, sự ra đời và phát triển của Quan họ.
Đây cũng là cơ sở đặc biệt về ngôn ngữ cho ngƣời nghiên cứu âm nhạc nói
riêng và nghiên cứu ngôn ngữ lời ca nói chung.
- Những công trình nghiên cứu chung về Quan họ bao gồm: Tìm hiểu
về Quan họ, nguồn gốc phát triển, đặc điểm… của dân ca Quan họ. Ở loại
này, tập trung khá đông đảo các nhà nghiên cứu, phê bình, nhà văn, nhà báo
có tâm huyết và tình yêu với loại hình nghệ thuật độc đáo của dân tộc. Điển
hình là các tác giả: Hồng Thao, Trần Linh Quý, Đặng Văn Lung, Lê Danh
Khiêm, Trần Đình Luyện. Tìm hiểu qua các công trình của các nhà nghiên
cứu, phê bình này ngƣời đọc có thêm rất nhiều kiến thức và cách nhìn phong
phú đa dạng về dân ca Quan họ.
- Những công trình nghiên cứu, những bài viết về vùng văn hóa, vùng đất
và con ngƣời xứ Kinh Bắc. Những tác giả viết về mảng này đều tập trung tìm
hiểu và giới thiệu cho bạn đọc những nét đặc sắc trên quê hƣơng Quan họ nhƣ
phong tục, tập quán, lễ hội, phong cảnh, di tích văn hóa, con ngƣời … từ góc độ
nhân học, tức môi trƣờng nảy sinh dân ca Quan họ. Ở loại này, điển hình là các
tác giả: Trần Đình Luyện, Lê Việt Nga, Đặng Văn Lung, Tô Ngọc Thanh.

10
Trong tất cả những tài liệu đã đƣợc công bố rộng rãi trên các thông tin
đại chúng, mặc dầu đa dạng phong phú, có chất lƣợng và số lƣợng, song căn
cứ từ việc chia loại nhƣ ở trên thì số lƣợng tác giả có tác phẩm, công trình
nghiên cứu về lời ca dân ca Quan họ cổ chƣa nhiều, đặc biệt là tìm hiểu về
văn hóa ứng xử trong lời ca cổ.
Văn hóa ứng xử trong lời ca cổ là một đề tài tƣơng đối rộng, đƣợc hình
thành từ gốc rễ nhân bản và tính cách của ngƣời Quan họ bao đời. Trong quá
trình lao động, sản xuất và sinh hoạt, ngƣời Kinh Bắc đã để lại vốn văn hóa
dân gian vô cùng phong phú và độc đáo. Nhìn từ góc độ xã hội, hiếm thấy có
nơi nào chứa đựng đƣợc nền văn hóa đa dạng và sâu rộng nhƣ ở đây. Chính vì
thế, nghiên cứu tìm hiểu về vùng đất và con ngƣời Kinh Bắc nói chung và dân
ca Quan họ nói riêng, từ trong quá khứ tới hiện tại, rất nhiều tác giả dày công
nghiên cứu, sƣu tầm và để lại khối lƣợng tác phẩm rất có giá trị. Nói các khác,
khi chúng ta quan tâm yêu mến tìm hiểu, nghiên cứu loại hình văn hóa dân
gian đặc sắc này thì nguồn tài liệu liên quan tới nó là tƣơng đối đầy đủ cả về
chất lƣợng và số lƣợng.
Cũng từ sự nghiên cứu tìm hiểu đã trình bày, chúng tôi nhận thấy việc khai
thác khía cạnh văn hóa ứng xử trong lời ca cổ là có cơ sở lý luận và thực tiễn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là văn hoá ứng xử của ngƣời Quan họ
trong không gian sinh hoạt văn hoá Kinh Bắc. Trọng tâm là văn hoá ứng xử
của ngƣời Quan họ thông qua lời ca dân ca Quan họ cổ
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu văn hoá ứng xử của ngƣời Quan họ trong phạm vi lời ca
dân ca Quan họ cổ

11
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

- Phạm vi khảo sát trong 500 bài dân ca Quan họ cổ do các nhà nghiên
cứu sƣu tầm, chỉnh lý hoặc do các nghệ nhân bản xứ lƣu giữ và diễn xƣớng.
3.3. Mục đích nghiên cứu
- Thông qua tìm hiểu nghiên cứu lời ca dân ca Quan họ cổ, thấy đƣợc văn
hóa ứng xử của ngƣời Quan họ, một trong khía cạnh vô cùng đặc sắc của ngƣời
Kinh Bắc, để từ đó giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn, đồng thời cũng đóng
góp vào việc gìn giữ, bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
- Từ kết quả của việc nghiên cứu sẽ là một căn cứ để khẳng định thêm vị thế
của dân ca Quan họ nhƣ một loại hình nghệ thuật tiêu biểu, đặc sắc, độc đáo
đậm đà bản sắc dân tộc cả ở góc độ văn học và văn hóa dân gian.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu chính là
phân tích, so sánh cấu trúc, đặc trƣng thể loại và một số các thao tác nhƣ tổng
hợp, thống kê, khảo sát, điền dã.
3.5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Tổng quan về đề tài
Chƣơng 2. Văn hóa ứng xử của ngƣời Quan họ trong đời sống
Chƣơng 3. Văn hóa ứng xử của ngƣời Quan họ qua lời ca Quan họ cổ

12
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI

Văn hoá là một phạm trù rất rộng liên quan tới quá trình hình thành và
phát triển nhận thức của con ngƣời. Văn hoá ứng xử chính là một trong những
biểu hiện của văn hoá trong cuộc sống của từng bộ tộc, dân tộc, quốc gia.
Trong phạm vi của chƣơng mở đầu, chúng tôi khái quát hai vấn đề này thành
hệ thống làm cơ sở lý luận cho việc lý giải sự hình thành và phát triển của văn
hoá ứng xử của ngƣời Quan họ nói chung và văn hoá ứng xử của ngƣời Quan
họ thông qua lời ca dân ca Quan họ cổ nói riêng.
1.1. Văn hóa và văn hóa ứng xử
Nói đến văn hóa là nói đến hàng nghìn định nghĩa khác nhau. Tùy quốc
gia, tùy dân tộc, tùy vùng miền… mà hình thành nên những nét đẹp văn hóa.
Theo từ điển “Bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia” thì văn hóa là sản phẩm của
loài ngƣời, văn hóa đƣợc tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con
ngƣời và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con ngƣời,
và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa đƣợc truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa đƣợc tái tạo và phát
triển trong quá trình hành động và tƣơng tác xã hội của con ngƣời. Văn hóa là
trình độ phát triển của con ngƣời và của xã hội đƣợc biểu hiện trong các kiểu
và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con ngƣời cũng nhƣ trong giá
trị vật chất và tinh thần do con ngƣời tạo ra. Về khái niệm văn hóa: Từ “văn
hóa” có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa đƣợc dùng theo nghĩa
thông dụng để chỉ học thức, lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ
phát triển của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng, thì văn hóa bao gồm
tất cả, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngƣỡng, phong tục, lối
sống... Cũng theo “Đại từ điển tiếng Việt” của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn
hóa Việt Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên, Nhà

13
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

xuất bản Văn hóa - Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: "Văn hóa là những giá
trị vật chất, tinh thần do con ngƣời sáng tạo ra trong lịch sử". Còn trong “Từ
điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học”, do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung
tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đƣa ra một loạt quan niệm về văn hóa:
“Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
ngƣời sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo và tích lũy qua quá trình
hoạt động thực tiễn, trong sự tƣơng tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự
nhiên xã hội”. [12, tr.32] “Văn hóa là những hoạt động của con ngƣời nhằm
thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát), văn hóa là tri thức, kiến
thức khoa học (nói khái quát); văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội,
biểu hiện của văn minh; văn hóa còn là cụm từ để chỉ một nền văn hóa của
một thời kỳ lịch sử cổ xƣa, đƣợc xác định trên cơ sở một tổng thể những di
vật có những đặc điểm giống nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông
Sơn” [12, tr.38]. Đồng ý kiến này, hai cuốn Xã hội học Văn hóa của Đoàn Văn
Chúc, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa - Thông tin, xuất bản năm 1997, tác giả
cho rằng: “Văn hóa - vô sở bất tại: Văn hóa - không nơi nào không có! Điều
này cho thấy tất cả những sáng tạo của con ngƣời trên nền của thế giới tự
nhiên là văn hóa; nơi nào có con ngƣời nơi đó có văn hóa” [12, tr. 56]. Và
trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho rằng:
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
ngƣời sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tƣơng
tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và xã hội của mình” [49, tr.18].
Cuối cùng, nhận xét về văn hóa, tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp
Quốc UNESCO có viết: “Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc
này khác với dân tộc kia” [3]. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng văn hóa là tất cả

14
những giá trị vật thể và phi vật thể do con ngƣời sáng tạo ra trên nền của thế
giới tự nhiên. [3].
Nhƣ vậy, văn hoá là một phạm trù rất rộng có liên quan tới quá trình
nhận thức và phát triển của loài ngƣời. Một trong khía cạnh biểu hiện của văn
hoá đó là sự ứng xử. Sự ứng xử của mỗi xã hội, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia
đều khác nhau, do đó hình thành nét riêng, độc đáo mang đặc tính, đặc điểm
của xã hội, dân tộc, quốc gia đó, mà chúng ta thƣờng gọi là văn hoá ứng xử.
Bàn về văn hóa ứng xử, theo ý kiến của Tiến sĩ mỹ học Phạm Thế
Hùng thì “Văn hóa ứng xử là sự thể hiện triết lý sống, các lối sống, lối suy
nghĩ, lối hành động của một cộng đồng ngƣời trong việc ứng xử và giải quyết
mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên, với xã hội và từ vi mô đến vĩ mô”
[12, tr.314]. Văn hoá ứng xử của ngƣời Việt đã đƣợc hình thành trong quá
trình giao tiếp qua hàng nghìn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc. Cái đẹp trong văn
hoá ứng xử đƣợc cha ông ta lƣu giữ, truyền lại từ đời này sang đời khac. Ngày
nay mặc dù xã hội đã có nhiều thay đổi nhƣng giao tiếp ứng xử vẫn có tầm
quan trọng đặc biệt. Nó tạo nên các mối quan hệ đẹp có văn hóa, có đạo đức
trong cộng đồng dân cƣ, trong tình bạn, tình yêu, trong gia đình, trong nhà
trƣờng, trong kinh doanh, đàm phán - thƣơng lƣợng khi có những bất đồng có
thể dẫn đến xung đột.
Giao tiếp ứng xử có văn hoá, có đạo đức là cơ sở để có những mối quan
hệ thân thiện trong cộng đồng, quan hệ tình nghĩa trong gia đình, quan hệ hợp
tác trong kinh doanh, là cơ sở để tạo ra mội trƣờng xã hội có lơi cho sức khoẻ
của con ngƣời. Trong cuộc sống hàng ngày ngƣời Việt Nam luôn quan tâm
đến vấn đề giao tiếp, ngƣời Việt Nam do thiên về tình hơn về lý nên khi giao
tiếp con ngƣời luôn đề cao vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ để đảm bảo cho
sự đoàn kết nhất trí, cho cuộc sống vui vẻ hài hoà. Đề cập tới vấn đề này,
trong ca dao Việt Nam có câu:

15
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

“Lời nói chăng mất tiền mua


Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”
Ngƣời Việt Nam luôn nhắc nhở nhau khi giao tiếp, nói năng phải cân
nhắc lựa chọn, tránh kiểu hành xử khiếm nhã làm mất lòng ngƣời khác. Ông
cha ta luôn dạy con cháu: “Ăn phải nhai, nói phải nghĩ”
Hơn nữa ngƣời Việt luôn coi trọng nghĩa tình, những lúc khó khăn, có
công có việc ngƣời ta đến với nhau vì tình chứ không phải vì vật chất, nên
trong văn hoá ứng xử, ngƣời Việt rất coi trọng tinh thần, đặt cái tình, cái nghĩa
lên hàng đầu. Cái đẹp trong văn hoá ứng xử của con ngƣời Việt Nam là cái đẹp
mang tính nhân dân, phục vụ đại đa số nhân dân. Cái đẹp mang tính dân tộc, nó
phản ánh cái đẹp riêng của con ngƣời Việt Nam. Cái đẹp đó còn mang tính
nhân loại vì nó là tia sáng mà tất cả mọi ngƣời trên hành tinh này muốn hƣớng
tới. Cái đẹp đó đậm đà bản sắc dân tộc, bởi bản sắc đó là cái lõi, cái hồn đất,
hồn nƣớc, tinh hoa của dân tộc. Trong những đặc tính mang đậm nhất sắc thái
truyền thống của ứng xử xã hội thì thế ứng xử là nét hoa tinh tế nhất trong các
nét đặc sắc. Đặc biệt nét văn hóa này đƣợc biểu hiện rất rõ, đƣợc cô đọng và
đúc kết trong hai loại hình nổi bật của văn hoá dân gian Việt Nam, đó là ca dao
và tục ngữ. Thế ứng xử trƣớc hết là sự thể hiện triết lý sống của một cộng đồng
ngƣời và đã mặc nhiên trở thành một quan niệm sống, quan niệm lý giải cuộc
sống và mặc nhiên cũng trở thành lối sống, nếp sống, lối hành động của cả một
cộng đồng ngƣời. Văn hoá ứng xử cũng nhƣ cách ứng xử có văn hoá đƣợc hình
thành từ rất sớm và ngày càng phong phú. Nó bao gồm hàng loạt hệ thống: ứng
xử trong gia đình, trong họ mạc làng xã, giữa các dòng họ, giữa các thành viên
trong cộng đồng, giữa tình yêu đôi lứa… Đạo lý của nhân dân ta trong giao tiếp
ứng xử là quan hệ trên dƣới tôn kính.
Ứng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con ngƣời
trƣớc sự tác động của ngƣời khác với mình trong một tình huống nhất định

16
đƣợc thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con ngƣời nhằm
đạt kết quả tốt trong mối quan hệ giữa con ngƣời với nhau. Xét trên bình diện
nhân cách thì bản chất của ứng xử chính là những đặc điểm tính cách của cá
nhân đƣợc thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân
với những ngƣời chung quanh. Hành vi ứng xử văn hóa là những biểu hiện
hoạt động bên ngoài của con ngƣời, đƣợc thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy
nghĩ và cách ứng xử của con ngƣời đối với bản thân, với những ngƣời chung
quanh, trong công việc và môi trƣờng hoạt động hằng ngày. Tuy nhiên hành
vi ứng xử văn hóa của mỗi cá nhân là khác nhau, nó đƣợc hình thành qua quá
trình học tập, rèn luyện và trƣởng thành của mỗi cá nhân trong xã hội. Hành
vi ứng xử văn hóa đƣợc coi là các giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ của mỗi
cá nhân đƣợc thể hiện thông qua thái độ, hành vi, cử chỉ, lời nói của mỗi cá
nhân đó. Nó đƣợc biểu hiện trong mối quan hệ với những ngƣời chung quanh,
trong học tập, công tác, với bạn bè cùng trang lứa và thậm chí ngay cả với
chính bản thân họ.
Đối với ngƣời Quan họ xứ Kinh Bắc, văn hóa ứng xử là nét đẹp trong
cộng đồng mà ở họ đƣợc gìn giữ. Qua bao đời trong đời sống sinh hoạt thể
hiện rõ nhất qua hoạt động văn hóa Quan họ, trở thành yếu tố đặc sắc không
thể thiếu của dân ca Quan họ. Điều này đƣợc thể hiện không chỉ ở hoạt động
diễn xƣớng mà còn rất rõ nét trong lời ca của những bài ca dân ca Quan họ cổ
1.2. Không gian văn hóa Quan họ xứ Kinh Bắc
1.2.1. Môi trường tự nhiên
Vị trí địa lý
Tỉnh Bắc Ninh (Kinh Bắc) thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, tự
ngàn năm đã hình thành vùng dân cƣ đông đúc trù phú. Nơi đây sản sinh ra một
loại hình nghệ thuật đặc sắc đó là dân ca Quan họ. Ngƣời Kinh Bắc gắn bó với
cây lúa nƣớc, nhân dân thuần chất yêu lao động, hài hòa trong các mối quan hệ

17
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

với tự nhiên. Những phong tục tập quán còn lƣu truyền đến ngày nay vẫn giữ
nguyên phẩm chất ấy của họ. Hàng năm, nơi đây có nhiều lễ hội gắn liền với
tâm thức ngƣời Việt. Ngƣời Kinh Bắc yêu quê hƣơng, trân trọng giữ gìn bản
sắc văn hóa. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này trong lễ hội nhƣ phiên
chợ Âm phủ, hội Lim (Thị trấn Lim), hội làng Diềm (Yên Phong), hội làng Phú
Lâm (Xã Phú Lâm)… Ngƣợc dòng lịch sử, quê hƣơng Quan họ có nhiều tên
gọi khác nhau và địa bàn rộng, hẹp khác nhau, vv… qua các triều đại. Từ xa
xƣa đã nổi tiếng một vùng Kinh Bắc, xứ sở của Quan họ. Dƣới thời Pháp
thuộc, cuối thế kỷ XIX, từ ngày 10/10/1895 bắt đầu tồn tại hai tỉnh Bắc Ninh
và Bắc Giang. Từ năm 1963, hai tỉnh đó đƣợc sát nhập lại thành một tỉnh Hà
Bắc rộng lớn với ngót hai triệu rƣởi dân và hơn bốn ngàn rƣởi cây số vuông,
và tỉnh Hà Bắc đó đƣợc xem nhƣ quê hƣơng của dân ca Quan họ. Gần đây tỉnh
Hà Bắc lại đƣợc tách ra thành hai tỉnh là Bắc Ninh và Bắc Giang. Do phần lớn
các làng Quan họ quần tụ trên mảnh đất Bắc Ninh, chỉ có vài làng nằm trên đất
Bắc Giang; nên ngƣời ta vẫn thƣờng nói Kinh Bắc; hay có khi nói Bắc Ninh là
quê hƣơng, là chiếc nôi sinh ra và nuôi dƣỡng các làng Quan họ. Nhƣng về
tổng quát, quê hƣơng ấy vẫn là một vùng đất rộng lớn ở phía Bắc sông Hồng,
nằm trong vùng văn hoá, văn minh châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình, giáp
ranh với các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Hải Hƣng, Quảng Ninh ngày
nay. Tính từ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam đƣờng thẳng chừng 70 km; từ
điểm cực Ðông sang điểm cực Tây đƣờng thẳng chừng 120 km, chia làm 3
vùng rõ rệt: miền núi, trung du và đồng bằng. Nhƣng các làng Quan họ chủ yếu
nằm ở vùng đồng bằng. Từ rất lâu đời, cƣ dân Kinh Bắc là cƣ dân nông nghiệp
lúa nƣớc. Cùng với nông nghiệp, họ cũng sớm có những làng nghề thủ công
chuyên sản xuất một mặt hàng thủ công: nghề gốm ở Thổ Hà, Phù Lãng, nghề
đúc và gò đồng ở Ðại Bái, Lãng Ngâm, Quảng Phú, nghề rèn sắt ở Quế Nham,
Ða Hội, Nga Hoàng, nghề nhuộm ở Ðình Bảng, Phù Lƣu, nghề đóng đồ miếu ở

18
Ðình Cả, Làng Tiêu, nghề kim hoàn, chạm vàng, chạm bạc, khảm trai ở Thị
Cầu, nghề làm tranh dân gian và hàng mã ở Ðông Hồ.
Là cửa ngõ phía Đông Bắc và là cầu nối giữa Hà Nội và các tỉnh trung
du miền núi phía Bắc và trên hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà
Nội - Hải Phòng - Hạ Long, Bắc Ninh có vị trí quan trọng về an ninh quốc
phòng. Vị trí địa kinh tế thuận lợi sẽ là yếu tố phát triển quan trọng và là một
trong những tiềm lực to lớn cần đƣợc phát huy một cách triệt để nhằm phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy quá trình đô thị hoá của tỉnh Bắc
Ninh. Xét trên khía cạnh cấu trúc hệ thống đô thị và các điểm dân cƣ của tỉnh,
Bắc Ninh có vị trí tƣơng tác nhất định với hệ thống đô thị chung toàn vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
1.2.2. Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên
- Về khí hậu, Bắc Ninh thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa
đông lạnh và không khác biệt nhiều so với các tỉnh lân cận của đồng bằng
sông Hồng. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển các vùng rau, hoa quả,
chăn nuôi, tạo ra giá trị lớn trên một đơn vị diện tích. Bên cạnh đó, điều kiện
khí hậu ôn hoà, thuận lợi cũng ảnh hƣởng tới tính cách ngƣời dân nơi đây, và
chúng ta cũng lý giải đƣợc phần nào vì sao ngƣời Kinh Bắc dịu dàng đằm
thắm, tình nghĩa sâu nặng.
- Về địa hình - địa chất. Địa hình của tỉnh tƣơng đối bằng phẳng, có
hƣớng dốc chủ yếu từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông, đƣợc thể hiện qua
các dòng chảy mặt đổ về sông Đuống và sông Thái Bình. Diện tích đồi núi
chiếm tỷ lệ rất nhỏ (0,53%) so với tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phân bố
chủ yếu ở 2 huyện Quế Võ và Tiên Du. [57]. Ngoài ra còn một số khu vực thấp
trũng ven đê thuộc các huyện Gia Bình, Lƣơng Tài, Quế Võ, Yên Phong. Đặc
điểm địa chất mang những nét đặc trƣng của cấu trúc địa chất thuộc vùng trũng
sông Hồng, bề dày trầm tích đệ tứ chịu ảnh hƣởng rõ rệt của cấu trúc mỏng.

19
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Với đặc điểm này địa chất của tỉnh Bắc Ninh có tính ổn định hơn so với Hà Nội
và các đô thị vùng đồng bằng Bắc Bộ khác trong việc xây dựng công trình. Bên
cạnh đó, vùng Kinh Bắc còn có rất nhiều sông, ngoài việc thuận lợi cho giao
thông và thuỷ lợi thì đây cũng chính là điều kiện thuận lợi diễn ra các hoạt
động văn hoá nghệ thuật sông nƣớc nhƣ thi bơi thuyền, hát Quan họ thuyền
1.2.3. Môi trường kinh tế
Các làng nghề Bắc Ninh, nhờ có vị trí liền kề với thủ đô Hà Nội qua
nhiều thế kỷ - Bắc Ninh xƣa và nay vốn là vùng có nhiều nghề thủ công nổi
tiếng nhƣ: làng tranh dân gian Đông Hồ, làng gốm Phù Lãng, làng đúc đồng
Đại Bái, làng rèn Đa Hội, làng dệt Lũng Giang, Hồi Quan, sơn mài Đình
Bảng, chạm khắc Đồng Kỵ, làng nghề Tre trúc Xuân Lai. Bên cạnh đó, do
thuận lợi về địa lý nên vùng Kinh Bắc từ lâu đã trở thành trung tâm thƣơng
mại đƣợc liệt vào hàng sầm uất. Hàng hoá thông thƣơng, con ngƣời vì thế
cũng đƣợc tiếp xúc, va chạm với nhiều thành phần khác nhau từ nhiều nơi đổ
về, do có sự phát triển về kinh tế nên tác động mạnh mẽ tới đời sống văn hoá.
1.2.4. Môi trường văn hoá
Bắc Ninh có tiềm năng văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Là
vùng đất truyền thống văn hoá, có lịch sử từ vùng đất Luy Lâu xƣa, vùng đất
địa linh nhân kiệt, quê hƣơng của Kinh Dƣơng Vƣơng, Lý Bát Đế, nơi hội tụ
của kho tàng văn hóa nghệ thuật đặc sắc với những làn điệu Quan họ trữ tình
đằm thắm đã đƣợc UNESCO công nhân là Di sản phi vật thể đại diện của
Nhân loại, dòng nghệ thuật tạo hình, tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng. Con
ngƣời Bắc Ninh mang trong mình truyền thống văn hóa Kinh Bắc, mang đậm
nét dân gian của vùng trăm nghề nhƣ tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc,
khắc gỗ, vẽ tranh dân gian...
Các di tích lịch sử văn hoá. Bắc Ninh có rất nhiều các di tích lịch sử,
văn hoá, mật độ phân bố các di tích chỉ đứng sau Thủ đô Hà Nội. Các địa

20
phƣơng tập trung nhiều di tích lịch sử xếp hạng quốc gia là Từ Sơn, Yên
Phong, thành phố Bắc Ninh, Tiên Du. Bắc Ninh có nhiều di tích có giá trị lịch
sử văn hoá quan trọng không chỉ trong phạm vi tỉnh mà có ý nghĩa quốc gia,
quốc tế nhƣ: Đền Đô, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Phật Tích, chùa Dạm,
Văn Miếu...
Lễ hội truyền thống: Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có khoảng 41
lễ hội đáng chú ý trong năm đƣợc duy trì. Trong đó có những lễ hội có ý
nghĩa đặc biệt và có tầm ảnh hƣởng lớn nhƣ: Hội chùa Dâu, hội Lim, hội đền
Đô, hội đền Bà Chúa Kho...
Tất cả các lễ hội mang đậm nét đặc trƣng cho lễ hội cổ truyền của vùng
Kinh Bắc độc đáo, đặc sắc mang nhiều tín ngƣỡng về những đấng thần linh,
anh hùng dân tộc. Mỗi lễ hội giống nhƣ một viện bảo tàng sống về văn hóa,
truyền thống, mang đậm bản sắc dân tộc với những lễ nghi tôn giáo và những
trò chơi dân gian.
Tài nguyên du lịch nhân văn của Bắc Ninh khá đa dạng và phong phú
với nhiều loại hình khác nhau, nhƣng nổi bật nhất và đƣợc nhiều ngƣời biết
đến là các di tích lịch sử, văn hoá, tiêu biểu là đình, chùa và dân ca Quan Họ
Bắc Ninh.
Ca múa nhạc. Dân ca Quan họ là một đặc trƣng nổi bật và đặc sắc của Bắc
Ninh, sự nổi tiếng của dân ca Quan họ đã vƣợt ra ngoài biên giới quốc gia.
Từ những đặc điểm về địa lý, lịch sử, kinh tế, chính trị của vùng đất văn
hoá Luy Lâu xƣa, Bắc Ninh ngày nay giúp chúng ta cái nhìn toàn diện, sâu
sắc về con ngƣời Kinh Bắc và nghệ thuật Quan họ độc đáo. Đồng thời cùng
với việc tìm hiểu văn bản lời ca, đặc điểm của vùng đất con ngƣời nơi đây
cũng lý giải các vấn đề có liên quan tới con ngƣời, tập quán, lề lối sinh hoạt
của ngƣời Quan họ trong không gian văn hoá.

21
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

1.3. Khái niệm, nguồn gốc và lịch sử phát triển dân ca Quan họ
Căn cứ từ việc tìm hiểu và nghiên cứu văn bản lời ca dân ca Quan họ cổ
trong không gian diễn xƣớng và sinh hoạt của ngƣời Quan họ, chúng tôi nhận
thấy rằng, việc đƣa ra khái niệm, nguồn gốc và quá trình phát triển của loại
hình nghệ thuật này chỉ mang tính tƣơng đối. Phần do đặc điểm tính chất rất
riêng của Quan họ, phần cũng do hoàn cảnh lịch sử xã hội và nhu cầu thƣởng
thức nghệ thuật của quần chúng nhân dân mỗi giai đoạn khác nhau, hơn nữa,
tuy công trình nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc đã rất phong phú đa dạng
và có chiều sâu về Quan họ, nhƣng khi bàn về vấn đề khái niệm, nguồn gốc
và quá trình phát triển của dân ca Quan họ vẫn chƣa đƣa ra đƣợc sự chuẩn
mực tuyệt đối. Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu này, ngoài những nhận định
trên cơ sở thực tế, chúng tôi vẫn tiếp tục tìm hiểu bổ sung.
1.3.1. Khái niệm dân ca Quan họ
Theo các tác giả Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý trình bày
trong cuốn “Quan họ - Nguồn gốc và phát triển” thì dân ca quan họ Bắc Ninh
(còn gọi là dân ca quan họ Kinh Bắc) là “những làn điệu dân ca của vùng
châu thổ sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam; tập trung ở vùng văn hóa Kinh
Bắc. Tên gọi Quan họ Bắc Ninh không có nghĩa tỉnh Bắc Ninh là chủ thể
chính của thể loại dân ca này. Theo các nhà nghiên cứu, tên gọi di sản này có
thể thay đổi theo thời gian do các chủ thể văn hóa tạo ra” [19, tr.11].
1.3.2. Khái niệm lời ca dân ca Quan họ cổ
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về Quan họ truyền thống (Quan họ
cổ) và Quan họ mới. Theo từ điển Bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia thì Quan
họ truyền thống chỉ tồn tại ở 49 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc Quan họ
truyền thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của ngƣời
dân Kinh Bắc, với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi liền anh,
liền chị phải am tƣờng tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ. Điều này giải thích lý do

22
ngƣời dân Kinh Bắc thích thú "chơi Quan họ", không phải là "hát Quan
họ". Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền
anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Trong Quan họ
truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị đƣợc gọi là hát hội, hát
canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị đƣợc gọi là
hát chúc, mừng, hát thờ. “Chơi Quan họ" truyền thống không có khán giả,
ngƣời trình diễn đồng thời là ngƣời thƣởng thức (thƣởng thức "cái tình" của
bạn hát). Nhiều bài Quan họ truyền thống vẫn đƣợc các liền anh, liền chị
"chơi Quan họ" ƣa thích đến tận ngày nay nhƣ: Hừ la, La rằng, Tình tang, Bạn
Kim Lan, Cái ả, Cây gạo. Còn Quan họ mới còn đƣợc gọi là "hát Quan họ", là
hình thức biểu diễn (hát) Quan họ chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sinh
hoạt cộng đồng Tết đầu Xuân, lễ hội, hoạt động du lịch, nhà hàng,...[57]. Thực
tế, Quan họ mới đƣợc trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Các băng đĩa
CD, DVD về Quan họ ngày nay đều là hình thức Quan họ biểu diễn trên sân
khấu, tức Quan họ mới. Quan họ mới luôn có khán thính giả, ngƣời hát trao
đổi tình cảm với khán thính giả không còn là tình cảm giữa bạn hát với nhau.
Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vƣơn ra ở nhiều
nơi, đến với nhiều thính giả ở các quốc gia trên thế giới. Quan họ mới có hình
thức biểu diễn phong phú hơn Quan họ truyền thống, bao gồm cả hát đơn, hát
đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa... Quan họ mới cải biên các bài truyền thống
theo hai cách: không có ý thức và có ý thức. Dù ít hay nhiều nhƣng hình thức
hát Quan họ có nhạc đệm đƣợc coi là cách cải biên không có ý thức. Đa số
các bài Quan họ mới thuộc dạng cải biên này. Cải biên có ý thức là những bài
đã cải biên cả nhạc và lời của bài Quan họ truyền thống. Loại cải biên này
không nhiều, ví dụ bài "Ngƣời ở đừng về" là cải biên từ làn điệu "Chuông
vàng gác cửa tam quan" (Xuân Tứ cải biên). Hát Quan họ với lời mới đƣợc
nhiều ngƣời yêu thích tới mức tƣởng nhầm là Quan họ truyền thống nhƣ bài

23
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

"Sông Cầu nƣớc chảy lơ thơ" do Mai Khanh soạn lời mới từ làn điệu truyền
thống "Nhất quế nhị lan". Quan họ mới đƣợc ƣa thích hơn Quan họ truyền
thống không phải do không gian và những sinh hoạt theo lề lối cổ của Quan
họ không còn nữa mà một phần do hoạt động "hát Quan họ" ngày nay thƣờng
đƣợc gắn với nhiệm vụ tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá Quan họ trên diện
rộng [17].
Lời ca dân ca Quan họ cổ theo cách hiểu nôm na là lời ca của những
bài ca dân ca Quan họ cổ có từ lâu đời, là bài hát chung của Quan họ và
không có tác giả hoặc chƣa rõ tác giả. Từ việc tìm hiểu đặc điểm của Quan họ
nêu trên, để thuận tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi tạm nêu một khái niệm
về dân ca Quan họ truyền thống và lời ca dân ca Quan họ cổ nhƣ sau: “Dân ca
Quan họ cổ là những bài ca đƣợc sƣu tầm và tìm hiểu từ trƣớc Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, không có tên tác giả sáng tác, đƣợc lƣu truyền và diễn
xƣớng trong các làng Quan họ gốc và gắn với không gian sinh hoạt văn hóa
Kinh Bắc”
Khái niệm này chỉ mang tính tƣơng đối, nó không thể áp dụng hay nhƣ
là một định nghĩa cố định về Dân ca Quan họ cổ khi chúng ta đề cập tới lĩnh
vực này.
1.3.3. Nguồn gốc
Ý nghĩa từ “Quan họ” thƣờng đƣợc tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa
đen về mặt từ nguyên của “quan” và của “họ”. Điều này dẫn đến những kiến
giải về Quan họ xuất phát từ “âm nhạc cung đình” hay gắn với sự tích một
ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh
liền chị ở đó và đã dừng bƣớc để thƣởng thức ("họ"). Tuy nhiên cách lý giải
này đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa Quan họ nhƣ
hình thức sinh hoạt (nghi thức các phƣờng kết chạ khiến anh hai, chị hai suốt
đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xƣớng, cách thức tổ

24
chức và giao lƣu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong
sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian. Một số quan điểm lại cho rằng Quan họ
bắt nguồn từ những nghi lễ tôn giáo dân gian mang yếu tố phồn thực chứ
không phải Quan họ có nguồn gốc từ âm nhạc cung đình, hoặc có quan điểm
nhận định diễn tiến của hình thức sinh hoạt văn hóa "chơi Quan họ" bắt nguồn
từ nghi lễ tôn giáo dân gian qua cung đình rồi trở lại với dân gian. Nhận định
khác dựa trên phân tích ngữ nghĩa từ ngữ trong các làn điệu và không gian
diễn xƣớng lại cho rằng Quan họ là "quan hệ" của một nhóm những ngƣời
yêu Quan họ ở vùng Kinh Bắc. Tuy vậy vẫn chƣa có quan điểm nào đƣợc đa
số các học giả chấp nhận. Quan họ ngày nay không chỉ là lối hát giao duyên
(hát đối) giữa "liền anh" (bên nam, ngƣời nam giới hát Quan họ) và "liền chị"
(bên nữ, ngƣời phụ nữ hát Quan họ) mà còn là hình thức trao đổi tình cảm
giữa liền anh, liền chị với khán giả. Một trong những hình thức biểu diễn hát
Quan họ mới là kiểu hát đối đáp giữa liền anh và liền chị [17].
Kịch bản có thể diễn ra theo nội dung các câu hát đã đƣợc chuẩn bị từ
trƣớc hoặc tùy theo khả năng ứng biến của hai bên hát. Ðây cũng là một vấn
đề phức tạp và chƣa đƣợc giải quyết. Nhƣng cũng cần nắm đƣợc một số ý
kiến chính. Về nguồn gốc lâu đời, đã có những giả thuyết có căn cứ Quan họ
có chung một nguồn gốc lâu đời với hát Lƣợn của ngƣời Tày, hát Ðang của
ngƣời Mƣờng, hát Ghẹo ở Phú Thọ, Xoan ở Hạc Trì (Phú Thọ) Chúng ta cũng
biết lối chơi và tiếng hát Quan họ không ngừng biến đổi theo thời gian. Vì
vậy hệ thống bài ca và lề lối Quan họ mà ta nhận biết đƣợc hôm nay, về căn
bản là những sản phẩm sáng tạo của những thế kỷ sau, nhất là những thế kỷ
của thời kỳ phong kiến độc lập sau này với những mốc lịch sử đáng ghi nhận:
- Thời Lý, Trần với những thành tựu rực rỡ của việc xây dựng văn hoá
văn minh Ðại Việt, nhất là sự nở rộ của những thành tựu văn hoá, nghệ thuật
dân gian, dân tộc, sự trân trọng yêu quý am hiểu văn hoá nghệ thuật của các

25
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

triều Lý, Trần cùng ý thức tự tôn dân tộc phát triển, tất cả, đã ảnh hƣởng trực
tiếp đến bƣớc tiến của Quan họ từ hình thức giao duyên cổ sơ chuyển sang
một sinh hoạt ca hát có lề lối, qui củ và trình độ nghệ thuật mới.
- Tiếp đến thời Lê, nhất là từ thời Lê Thánh Tông (thế kỷ XV) trở đi,
thời thịnh trị, trong đó có những bƣớc tiến trong lĩnh vực văn học của đất
nƣớc, lại thêm đội ngũ trí thức ngày càng đông đảo trên quê hƣơng Quan họ,
khiến đội ngũ sáng tạo đối với Quan họ ngày càng đƣợc bổ sung với những
trình độ mới. Ðến thế kỷ XVIII trở đi, khi nghệ thuật thơ ca trong hệ thống
truyện nôm tiến tới những đỉnh cao, thì dân ca Quan họ mới mang vào trong
mình nó những ngôn ngữ hình tƣợng thực đẹp, thực tế nhị và một nội dung
trữ tình thực sâu sắc". Về mặt làn điệu âm nhạc, sau thế kỷ XVIII, cũng mở ra
sự giao lƣu rộng rãi Bắc Nam...nên các nhạc điệu, ca hát miền Nam, miền
Trung, các điệu Lý, Dặm, phƣờng Vải... đƣợc dịp đến Bắc Ninh nhiều hơn
trƣớc và có nhiều ảnh hƣởng đến dân ca Quan họ. Những năm đầu của thế kỷ
XX, nghệ thuật Chèo, Nhà tơ, Cải lƣơng Nam Bộ, ca Huế... phát triển, gia
nhập vào Quan họ, khiến nhiều bài đƣợc Quan họ cải biên từ hát Chèo (Con
chim khoan đề, Gánh vàng đi đổ, Trống cơm,...) từ hát Nhà Tơ (Ca Trù) nhƣ:
Nhất quế nhị Lan, Giọng Quỳnh, Chim khôn đỗ ngọn thầu dầu, Bút huê
thảo,... Có ý kiến còn cho rằng phần lớn những giá trị nghệ thuật âm nhạc và
thơ ca Quan họ là phần sáng tạo của con ngƣời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, nhất là những bài có làn điệu âm nhạc và lời ca hay. Ý kiến này căn cứ
vào sự trau chuốt của lời ca và sự mở rộng giao lƣu về âm nhạc Quan họ với
âm nhạc nhiều miền của đất nƣớc, nhất là bài bản trong hệ thống giọng Vặt.
Ðó là tóm tắt một số ý chính về nguồn gốc, thời điểm ra đời của dân ca Quan
họ. Tuy nhiên, về nguồn gốc, cần phân biệt một quá trình của sự hình thành
và sự thành hình của sinh hoạt văn hóa Quan họ nói chung và tiếng hát Quan
họ nói riêng. Cho rằng có nguồn gốc chung với dân ca giao duyên của ngƣời

26
Việt và các dân tộc thiểu số gần gũi, bởi lẽ, dân ca Quan họ có cái lõi ít biến
đổi nhất là đối đáp giao duyên nam nữ. Nói vậy, chỉ đúng một phần, vì chƣa
thấy rõ những đặc trƣng quan trọng khác của dân ca Quan họ cả về âm nhạc,
lời ca, lề lối sinh hoạt ca hát. Ai cũng biết rằng, dân ca Quan họ so với mọi
loại dân ca của ngƣời Việt và các dân tộc thiểu số là một bƣớc tiến mới về
chất và lƣợng của trình độ âm nhạc dân gian, thơ ca dân gian, nghệ thuật ca
hát dân gian, những lề lối, quy ƣớc về sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian,...
phải có những điều kiện nhƣ thế nào đó là đạt tới trình độ văn hoá, nghệ thuật
cao ở mức độ nào đó khiến dân ca Quan họ không thể là hát Ví, hát Ðúm, hát
Trống quân, hát Ghẹo,... mà là hát Quan họ nhƣ hệ thống giá trị nhiều mặt về
văn hoá, nghệ thuật mà ngày nay ta còn nhận biết. Nhiệm vụ của việc tìm
nguồn gốc, quá trình phát triển dân ca Quan họ cần minh chứng những điều
kiện lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hoá... của thời điểm thành hình dân ca Quan
họ với những giá trị văn hoá, nghệ thuật đặc trƣng, không thể chỉ dừng lại ở
nguồn gốc của dân ca giao duyên nói chung.
Nhƣ vậy, về nguồn gốc ra đời của Quan họ mặc dầu có rất nhiều tác giả
có uy tín nghiên cứu, song cho đến nay vẫn chƣa có tài liệu nào minh chứng
rõ ràng về điểm khởi đầu của loại hình nghệ thuật này. Chúng tôi khi tìm hiểu
nghiên cứu sự ra đời của Qua họ, cũng căn cứ từ các tài liệu viết về Quan họ
và thực tế điền dã đã tạm thời đƣa ra kết luận: Dân ca Quan họ có nguồn gốc
bản địa, xuất hiện từ lâu đời và gắn chặt với đặc điểm con ngƣời, vùng đất
Kinh Bắc.
1.3.4. Lịch sử phát triển
Bắc Ninh là nơi khơi nguồn văn hóa Quan họ. Nói đến Quan họ là nói
đến nền văn hoá tổng thể hợp thành từ nhiều yếu tố văn hóa hóa nghệ thuật
dân gian trong một quá trình lịch sử lâu dài, có nhiều tầng, nhiều lớp trong
một chỉnh thể văn hóa; gắn bó với văn hóa, văn minh làng xã, thu hút và biểu

27
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

hiện những ƣớc mơ; tập hợp và hành động chung cho những nguyện vọng,
những khao khát của con ngƣời xứ Bắc từ nhiều đời đối với quyền sống,
quyền hƣởng hạnh phúc của con ngƣời trên bình diện văn hóa - xã hội. Nền
văn hóa Quan họ là do các lối chơi Quan họ của cộng đồng xây dựng lên,
luôn luôn đƣợc cộng đồng sàng lọc trong dòng chảy lịch sử. Việc khôi phục
và bảo tồn những tinh hoa nhất, bản sắc độc đáo, đậm đà nhất trong nền văn
hóa Quan họ là phải khôi phục và bảo tồn kho tàng bài bản của Quan họ, cách
hát và kỹ thuật hát dân ca Quan họ (Quan họ cổ) và cuối cùng là lối chơi
Quan họ. Làng Viêm Xá (làng Diềm), thành phố Bắc Ninh có đền thờ vua Bà.
Truyền rằng, Vua Bà chính là ngƣời đã sáng tác ra các làn điệu dân ca Quan
họ đầy tình tứ và quyến rũ. Nét đặc trƣng, độc đáo nhất của làng Diềm chính
là “nghề chơi” Quan họ với nghệ thuật và phong cách hát Quan họ vừa cổ
xƣa, vừa độc đáo, vừa phong phú, điêu luyện. Trong số 44 làng Quan họ, làng
Diềm còn duy trì đƣợc đội Quan họ đông tới hàng trăm ngƣời, đủ các thế hệ
liền anh liền chị. Từng bọn Quan họ, mỗi nhóm liền anh, liền chị khi gặp gỡ
có thể cất giọng hát tuỳ theo nhu cầu, tâm trạng cảm xúc. Việc truyền dạy hát
dân ca Quan họ đƣợc quan tâm ngay trong gia đình, không phụ thuộc, hay
chờ đợi việc tổ chức lớp học. Chính “cái nôi” văn hóa này là nơi sản sinh ra
văn hóa Quan họ với những làn điệu dân ca Quan họ trữ tình, đằm thắm; hình
thức tổ chức sinh hoạt văn hóa mang tính chất dân gian, nhƣng lại nghiêm
ngặt, khắt khe đòi hỏi ngƣời chơi am tƣờng tiêu chuẩn, tuân theo lề luật. Điều
này đã cắt nghĩa cho nhu cầu "chơi Quan họ" vốn chỉ tồn tại nguyên nghĩa tại
44 làng Quan họ gốc - những làng thuộc các vùng quê đƣợc gọi là địa linh
nhân kiệt. Về quá trình phát triển của dân ca Quan họ, nhiều ý kiến lấy mốc
thời Lý, Trần (XI -XIV) rồi thời Lê sơ (XV), thời Lê Trung hƣng (XVIII),
thời Nguyễn (XIX) là những chặng tiến triển khác nhau, đƣa dần dân ca Quan
họ đạt đến những đỉnh cao của cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên,

28
nếu đối chiếu với những công trình nghiên cứu về thơ ca và thể loại thơ trong
lịch sử thơ ca Việt Nam, thì trƣớc thế kỷ XVI chƣa thể tồn tại phổ biến loại
thơ lục bát, trong khi đó, lời của những bài ca đƣợc thừa nhận là cổ nhất nhƣ
Hừ la, La rằng và tuyệt đại bộ phận lời ca đều là loại thơ lục bát hoặc lục bát
biến thể. Vậy có thể giả định rằng dân ca Quan họ với hệ thống bài ca cổ nhất
mà ta nhận biết đến hôm nay, về cơ bản đƣợc hình thành khoảng cuối thế kỷ
XVI? Còn trƣớc đó, có dân ca Quan họ nhƣ ta nhận biết hôm nay hay không,
chƣa có căn cứ gì đáng tin cậy. Văn hóa Quan họ là một di sản văn hóa quý
giá không của riêng vùng Kinh Bắc biểu hiện những quan niệm đẹp đẽ, trong
sáng, chất phác của ngƣời dân lao động sống trên mảnh đất Kinh Bắc xƣa và
nay. Tất cả hợp lại mảnh đất tốt để dân ca Quan họ, hay nói rộng hơn là
những sinh hoạt văn hóa Quan họ ra đời và phát triển.
Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính
phủ Công ƣớc UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng
9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), Quan họ đã đƣợc công nhận là di sản phi
vật thể đại diện của nhân loại sau Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian Văn
hóa Cồng chiêng Tây Nguyên và cùng đợt với Ca Trù [57].

29
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

CHƢƠNG 2
VĂN HOÁ ỨNG XỬ CỦA NGƢỜI QUAN HỌ TRONG ĐỜI SỐNG

2.1. Ứng xử của ngƣời Quan họ với môi trƣờng tự nhiên


2.1.1. Các hình thái văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên nói chung
Văn hoá, bên cạnh thành tố tƣ tƣởng, còn bao gồm hàng loạt những hệ
thống hành vi, ứng xử của con ngƣời đối với nhau và đối với tự nhiên (cách
thức sản xuất, tôn giáo, phong tục tập quán, nghệ thuật…). Những hệ thống
ứng xử này là những tín hiệu mang tính biểu trƣng. Tuy nhiên, không phải ở
đâu, lúc nào các hình thái biểu trƣng này cũng giống nhau mà tuỳ theo hệ tƣ
tƣởng về bản thể luận (ontology), vũ trụ luận (cosmology) của từng xã hội,
từng thời kỳ mà cách thức biểu tƣợng hoá và ý nghĩa của các khuôn mẫu ứng
xử ấy có sự khác nhau. Ví dụ về phong tục tang lễ chẳng hạn: Cùng là ứng xử
với ngƣời thân trong gia đình ngƣời đã chết thì ngƣời Bahna ở Tây Nguyên có
phong tục bỏ mả, ngƣời Thái ở Điện Biên, sau khi chôn thì cào bằng mộ còn
ngƣời Việt thì lại có phong tục cải cát sau ba đến bốn năm [12, tr.64].
Mặt khác, các hình thái biểu tƣợng còn phụ thuộc vào môi trƣờng sống
của từng xã hội, từng thời kỳ (có thể là chất liệu, có thể là cách thức hành
động mà con ngƣời cần phải làm để thích nghi với môi trƣờng sống). Vì thế
mới có các nền văn hoá khác nhau nhƣ nền văn hoá du mục, nền văn hoá lúa
nƣớc, nền văn hoá sa mạc và nền văn hoá băng đảo…
Các hình thái văn hoá đầu tiên của loài ngƣời liên quan đến nhu cầu căn
bản nhất của con ngƣời: Đó là nhu cầu sinh tồn. Để sinh tồn họ phải ăn, ở và
mặc. Đó cũng là những quan hệ đầu tiên của con ngƣời với môi trƣờng.
Những dấu ấn của mối quan hệ ấy trong buổi sơ khai của loài ngƣời vẫn còn
đƣợc nhận thấy trong văn hoá ăn, ở và mặc của con ngƣời trong xã hội ngày
nay: Nhà ở (nguyên liệu, kiểu dáng và kích thƣớc) của ngƣời Eskimo chắc

30
chắn khác với nhà ở của ngƣời Ai-Cập hay ngƣời Việt Nam; Ngƣời Mông
Cổ- với nền văn hoá du mục truyền thống- chắc chắn ăn thịt sẽ nhiều hơn
ngƣời Việt Nam; Hay tại sao cƣ dân vùng sa mạc lại mặc mầu trắng và trùm
kín ngƣời nhƣ vậy… Tất cả những cái đó không thể có cách giải thích nào
khác tốt hơn ngoài cách lý giải về sự tác động trực tiếp của môi trƣờng tự
nhiên ở từng nơi và con ngƣời phải thích nghi với những kiểu môi trƣờng ấy
để tồn tại và phát triển.
Ngay cả những hình thái văn hoá cao cấp nhƣ nghệ thuật chẳng hạn, từ
buổi bình minh của loài ngƣời, chúng ta đã nhận thấy những dấu ấn mà môi
trƣờng tự nhiên tác động lên những tác phẩm nghệ thuật âm nhạc (ví dụ
những bài dân ca hay cách hát của ngƣời miền núi cao, hay miền đại dƣơng
nhƣ ngƣời Indonesia) hoặc tạo hình trong hang động ( chắc chắn những hình
vẽ trong hang động của các bộ tộc Á châu không thể có những chú tuần lộc
nhƣ trong các hình vẽ của một số bộ tộc ở Canada đƣợc)...
Sống môi trƣờng nào thì con ngƣời phải kiếm ăn theo cách tƣơng ứng:
Những cƣ dân tại các hòn đảo chắc chắn phải kiếm ăn bằng nghề săn bắt cá,
cƣ dân trên các thảo nguyên phải biết chăn nuôi, du mục. Những ngƣời sống
bên những cánh rừng trên lục địa lại kiếm ăn bằng săn bắn, hái lƣợm… Quá
trình lao động sản xuất ra của cải vật chất này dần dần tạo thành những
phƣơng thức sản xuất nhất định, đến lƣợt nó phƣơng thức sản xuất lại quy
định lối sống, tức là văn hoá của xã hội ấy. Có thể nói, hoạt động sản xuất của
cải vật chất là hoạt động sống căn bản nhất của con ngƣời và chính nó quyết
định nhiều nhất đến sự hình thành và phát triển văn hoá của từng xã hội. Nhƣ
thế, có thể nói, tuy gián tiếp nhƣng ở đây cũng không phải ai khác mà chính là
môi trƣờng đã quy định sự hình thành và phát triển của mỗi một nền văn hoá
nói chung và một hình thái biểu tƣợng nào đó nói riêng. Có thể đƣa ra đây
một ví dụ nhƣ sau: Ngôi nhà cộng đồng - một biểu thị văn hoá - trong quá

31
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

trình đƣợc biểu tƣợng hoá có bị chi phối bởi môi trƣờng kiếm sống? Câu trả
lời là có, nhƣng gián tiếp. Ngôi nhà cộng đồng của ngƣời Ê - đê ở Tây
Nguyên là biểu trƣng của cái gì? Ngày nay - bằng dân tộc học so sánh các nền
khoa học - đã chứng minh đƣợc rằng: Ngƣời Ê - đê có cội nguồn từ các bộ tộc
miền Nam Đảo (Giống ngƣời Nam Đảo từ trƣờng ca Đam San, đến ngôn ngữ
đặc trƣng là những phụ âm tắc và đặc biệt là nghi lễ chặt cây để làm chiếc ghế
dài trong nhà rông giống hệt nhƣ nghi lễ chặt cây của ngƣời Nam Đảo khi họ
tiến hành lấy cây đẽo chiếc thuyền độc mộc để mang theo thuyền lớn). Mà
ngƣời Nam Đảo thì sinh sống chủ yếu bằng nghề đi biển và săn bắt hải sản.
Vì thế, chắc ngôi nhà rông của ngƣời Ê - đê là ẩn dụ về chiếc thuyền biển - về
mặt văn hoá chắc chắn nó gợi nhớ đƣợc cội nguồn của họ. Môi trƣờng không
chỉ tác động đến cuộc sống vật chất của con ngƣời mà nó còn tác động đến
tâm trí, tƣ tƣởng và đời sống tinh thần của con ngƣời.
Từ những tổng hợp ở trên thì rõ ràng con ngƣời ở bất cứ nơi đâu, xã hội
nào cũng đều có đặc điểm riêng biệt mà khi nhắc tới Quan họ ngƣời ta không
thể không quan tâm tới bản sắc văn hóa Kinh Bắc, đặc biệt là văn hóa ứng xử
của ngƣời Quan họ.
2.1.2. Ứng xử của người Quan họ với tự nhiên
Từ cuộc sống thanh lịch, phong nhã giản dị, đầy tình nghĩa với nƣớc
với làng, ngƣời dân Vũ Ninh - Kinh Bắc đã để lại cho hậu thế nhiều tập tục
tốt đẹp, đậm đà tính dân tộc, đầy đủ nhân phẩm cao quý. Quan hệ ứng xử, cƣ
xử hàng ngày, những vật dùng thông thƣờng, những ngày hội hè… đâu đâu
cũng biểu hiện đầy đủ những tình cảm đẹp đẽ nhất, cô đọng nhất của ngƣời
Việt. Những mơ ƣớc về lẽ sống, tình cảm với quê hƣơng, những trí tuệ trong
lao động, sản xuất, trong cuộc sống đã đƣợc ông cha gửi gắm vào kho tàng cổ
tích, ca dao, dân ca. Kho tàng ấy ngày càng đƣợc bổ sung thêm phong phú cả
về nội dung lẫn tƣ tƣởng và sự truyền cảm đến ngƣời đọc ngƣời nghe.

32
Ngƣời Kinh Bắc tự xa xƣa đã có truyền thống yêu quê hƣơng đất nƣớc.
Cũng nhƣ các địa phƣơng khác thuộc vùng đồng bằng trung du Bắc bộ, trừ
vùng thị xã Bắc Ninh, Thị Cầu, Đáp Cầu, Dƣơng Ổ, Đào Xá… là có một tầng
lớp tiểu thƣơng, tiểu chủ, ngƣời làm thủ công còn lại hơn 40 làng Quan họ,
nguồn sống chính là nông nghiệp trồng trọt trên ruộng đất rất lâu đời. Cây lúa
là loại cây chủ yếu, tuyệt đại bộ phận diện tích đất và thời gian của ngƣời
nông dân dành cho việc cấy lúa. Do đó văn hóa nơi đây phần nhiều chịu ảnh
hƣởng của nền văn minh lúa nƣớc nói chung. Các làng Quan họ tập trung ở
cửa sông, ven sông, ven đƣờng đi xứ xƣa kia, về mặt cơ cấu xã hội đã hình
thành một tầng lớp dân nghèo. Trải qua thời gian và những biến cố lịch sử,
nhân dân Kinh Bắc dần hình thành những thói quen, tập tục tạo ra nét văn hóa
riêng. Do vị trí và những điều kiện lịch sử xã hội đã khiến Bắc Ninh trở thành
một trung tâm kinh tế - văn hoá tiêu biểu của cả nƣớc, một vùng quê đậm đặc
các nghề thủ công và làng nghề truyền thống, với những sắc thái văn hoá
riêng trên nền tảng văn hoá tiểu nông ở vùng châu thổ Bắc bộ. Đặc điểm cơ
bản cƣ dân ở đây lấy cây lúa nƣớc, trồng rau màu, chăn nuôi gia súc làm
nguồn sống chính, còn làm thợ hay buôn bán chỉ là nghề phụ. Vì vậy làng
nghề ở đây thuộc loại đa canh, đa nghề. Dù thế, tổ chức xã hội và đời sống
văn hoá cơ bản vẫn là văn hoá cộng đồng của cƣ dân tiểu nông. Sinh hoạt tín
ngƣỡng, tôn giáo, các hoạt động văn hoá cộng đồng phản ánh đời sống tâm
linh, văn hoá cộng đồng của cƣ dân nông nghiệp lúa nƣớc ở miền châu thổ
Bắc bộ: Thờ tổ tiên, thần, phật, nhớ ơn ngƣời có công với dân với nƣớc, với
làng xóm quê hƣơng, cầu mong mƣa thuận gió hoà, ngƣời của sinh sôi, gia
đình họ hàng, xóm làng đoàn kết, hoà thuận. Tất nhiên, vùng Quan họ Kinh
Bắc tuy mang những nét chung của nền văn minh lúa nƣớc đồng bằng châu
thổ Bắc bộ, nhƣng có nhiều nét độc đáo khác với vùng khác. Văn hoá của

33
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

những làng Quan họ có nhiều sắc thái riêng, thể hiện mối quan hệ, sự ứng xử
của con ngƣời Kinh Bắc với môi trƣờng tự nhiên, cụ thể:
- Làng nghề: Nhƣ đã trình bày ở trên, ngoài việc lấy nguồn sống chủ
yếu là nông nghiệp, các làng Quan họ còn kết hợp với việc sản xuất ra các sản
phẩm phục vụ đời sống. Mỗi làng thƣờng chọn cho mình một nghề riêng,
phƣơng thức sản xuất phổ biến nhỏ lẻ theo từng hộ gia đình. Kỹ thuật sản
xuất thủ công, sự phân công lao động theo giới tính, lứa tuổi và theo từng loại
hình công việc. Ở làng gốm Phù Lãng, đàn ông thƣờng làm đất, xây và đun
lò, phụ nữ chuốt sản phẩm và đem bán. Làng tơ tằm Vọng Nguyệt thì phụ nữ
lại đảm nhận trách nhiệm hái dâu, chăn tằm ƣơm tơ. Các làng làm đồ sắt, đồ
đồng nhƣ Đa Hội, Đại Bái, Quảng Bố đàn ông làm hết những phần việc nặng,
phụ nữ chỉ có nhiệm vụ nội trợ và bán hàng. Làng làm giấy Đống Cao, làng
tranh dân gian Đông Hồ cũng đều có sự phân công lao động tƣơng tự. Có
những làng nghề sản xuất và bán sản phẩm quanh năm, nhƣng cũng có làng
chỉ theo thời vụ, tận dụng mọi nguồn lực lao động trong gia đình. Điều đặc
biệt ở đây chính là trong quá trình sản xuất cũng chính là quá trình truyền dạy
nghề. Những bậc ông bà cha mẹ truyền dạy cho con cháu mình trực tiếp bằng
kinh nghiệm thực tế. Mối quan hệ xã hội của các làng thủ công và của những
gia đình làm nghề vừa bền chặt, vừa rộng mở. Đa số các làng nghề ở đây đều
có thờ tổ nghề tức thờ ngƣời đầu tiên sáng tạo và gây dựng nghề của làng, vì
thế sắc thái sinh hoạt văn hoá cộng đồng của các làng nghề vùng Quan họ thể
hiện rõ nét qua ngày giỗ tổ sƣ. Điển hình là làng nghề đúc đồng Đại Bái, hàng
năm, có 3 ngày lễ lớn để tƣởng nhớ đến vị Tổ sƣ đó là ngày xuân tế 6 tháng 2,
ngày thu tế 16 tháng 8 và ngày giỗ 29 tháng 9. Trong những ngày này, các gia
đình, các phƣờng thợ mang những sản phẩm tiêu biểu đặt lên bàn thờ Tổ sƣ,
sau đó dâng lễ tiến hành lễ tế. Những cụ trùm đại diện các họ lớn trong làng
thực hiện việc lễ tế rất trang nghiêm thành kính.

34
- Tục thờ Thành hoàng, thờ Phật: Thờ Thành hoàng và thờ Phật là một
tập tục rất phổ biến ở vùng đồng bằng trung du Bắc bộ, song ở đây, các làng
Quan họ lại có rất nhiều điểm khác biệt. Trừ một số làng nhƣ Thanh Sơn,
Xuân Ái, Sen Hồ có một số nhân dân theo đạo Công giáo, còn lại đều thờ các
vị tƣớng có công với đất nƣớc, điển hình nhƣ Trƣơng Hống, Trƣơng Hát là
hai vị có công chống quân Lƣơng. Một số làng còn thờ các tƣớng có công từ
thời Hùng Vƣơng, các tƣớng theo Thánh Gióng đuổi giặc Ân, các tƣớng của
Hai Bà Trƣng, Lý Bôn và các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau này [39].
Một số vùng khác, đình thƣờng là nơi tụ họp của ngƣời dân đồng thời
cũng là nơi duy nhất thờ thành hoàng làng một cách thƣờng trực. Nhƣng trong
hầu hết các làng Quan họ, thành hoàng làng đƣợc thờ ở các nghè, chỉ vào đám
rƣớc thần mới về đình cúng tế trong những ngày hội, ngày đóng đám. Đến khi
rã đám, lại rƣớc về vị trí cũ. Do đó trƣớc khi trở thành trung tâm tín ngƣỡng
tôn giáo, đình chỉ là nơi công cộng tụ họp nhân dân để bàn việc dân làng. Dấu
vết này khá đậm ở các làng Quan họ.
- Tục kết ƣớc kết giải: Nhƣ vừa trình bày ở trên thì việc thờ Thành
hoàng có liên quan đến tục kết ƣớc, kết chạ giữa hai làng với nhau. Tục này
còn có tên gọi khác nhƣ kết ƣớc, ăn giải… Nguyên nhân, điều kiện xã hội dẫn
đến sự kết ƣớc, kết chạ giữa các làng có thể từ thời kỳ rất xa và cũng trải qua
nhiều chặng đƣờng, có nhiều sự thay đổi về nội dung, hình thức theo sự thay
đổi của xã hội. Nhƣng trong ký ức của dân làng thì thƣờng sự kết ƣớc ấy có
liên quan tới đình, đến Thành hoàng, hay đến những nhân vật có danh vọng ở
hai làng. Ví dụ (theo tài liệu của tác giả Trần Linh Quý - Bƣớc đầu tìm hiểu
quê hƣơng và lề lối hát Quan họ) thì làng Bò Sơn, Y Na thờ chung một thánh
là Hắc quang Quý Minh nên kết làm chạ anh em truyền đời; làng Khúc Toại
với Hữu Chấp kết ƣớc là do hai ông tiến sĩ thời Lê Hồng Đức (Thế kỷ XV) ở
hai làng chơi thân có ơn nghĩa với nhau, hiện nay hai làng vẫn thờ hai vị tiến

35
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

sĩ này; hoặc điển hình nhƣ làng Lũng Giang kết nghĩa với làng Tam Sơn vì
dân Lũng Giang đƣợc dân làng Tam Sơn giúp việc kéo gỗ làm đình thời Lê
Cảnh Hƣng...
- Tục thờ Phật và hát Kể hạnh:
Theo một số tài liệu nghiên cứu về lịch sử Kinh Bắc thì từ rất sớm Bắc
Ninh đã trở thành trung tâm Phật giáo, đặc biệt trong thời nhà Lý. Gắn liền
với sự phồn thịnh của đạo Phật là sự phát triển của các hội chùa. Chủ trì hội
chùa là Vua, Hoàng hậu hoặc các đại thần, các cao tăng chủ trì các buổi đàm
luận về Phật pháp để giáo huấn cho nhân dân và thông qua đó thấy đƣợc sự
nhiệm màu của Phật pháp. Hội chùa của vùng Quan họ thƣờng đƣợc tổ chức
vào ngày riêng ở một số làng, nhƣng cũng có khi gộp cả hội đình lại để tổ
chức một thể. Thƣờng thì hội chùa bắt đầu từ mùng 4 tháng Giêng cho đến hạ
tuần tháng 2. Trong hội chùa, ngoài các nghi lễ truyền thống còn có tục hát
Kể hạnh. Hát Kể hạnh diễn ra khi khách đến hội, các cụ cao tuổi đứng xếp
hàng hai bên nghênh tiếp và bắt đầu hát. Nội dung các điệu hát là chào mừng
hội bạn và thể hiện tấm lòng hiếu khách, hoan hỉ khi đƣợc tiếp đón khách.
Bên khách cũng cất tiếng hát đáp lại, đại ý là cũng bày tỏ lòng thành kính đối
với đức Phật và sự hân hoan khi đƣợc tiếp đón tận tình. Hát xong họ mới mời
nhau vào chiếu và cuộc đối đáp chuyện trò bằng lời ca bắt đầu. Những câu
hát, làn điệu cho cuộc hát này rất riêng, không sử dụng trong canh hát Quan
họ thông thƣờng [39].
- Tục thờ các đền miếu và hát Chầu văn: Ngày nay một số nơi trong
vùng Quan họ vẫn con thờ Bà Chúa Thƣợng Ngàn, Liễu Hạnh công chúa,
Đức Thánh Trần… nhƣ Thị Cầu, Niềm, Cổ Mễ, Khúc Toại, Suối Hoa… Ở
những đền này thƣờng có nhảy đồng và hát Chầu văn. Tín đồ của loại thờ
cúng này phần đông là thị dân. Có những ngƣời vừa là cung văn vừa đi hát
Quan họ.

36
- Tuồng, Chèo và hát Nhà Tơ trong vùng Quan họ: Tất cả các hội làng
Quan họ bao giờ cũng có một đêm hát Tuồng, hát Chèo và nhất thiết là hát
Nhà tơ. Hát Nhà tơ là tên gọi của dân Quan họ chỉ những làng chuyên đi hát,
phân nhau giữ cửa đình, đến hội thì các đào, kép lên hát. Khi hát các nghệ
nhân thƣờng kết hợp với một số động tác múa, ngƣời biểu diễn mặc quần, thắt
chặt lƣng nhƣng cởi trần. Đến khi tan hội họ lại về làng sản xuất nông nghiệp.
Tuồng, Chèo ở vùng Quan họ không khác mấy so với các vùng khác.
- Hát Ví, hát Trống quân, hát Xẩm, Múa rối trong vùng Quan họ:
Trong các làng Quan họ, ngoài hát Quan họ truyền thống, các nghệ nhân cũng
biết hát các loại hình nghệ thuật khác nhƣ Chèo, Trống quân, Ví, Xẩm.
Nhƣng các hình thức hát này chỉ mang tính chất thêm vào cho canh hát đƣợc
phong phú, hoặc cũng có khi đôi bên mời nhau hát. Do đó, tại vùng Quan họ,
không có làng nào nổi tiếng về hát các loại hình nghệ thuật này. Riêng Múa
rối thì chỉ có gánh Múa rối Thuận Thành, Trà Xuyên. Hàng năm, khi làng vào
đám, thƣờng dành cho một đêm để diễn trò múa rối. Nội dung là một tích
truyện đã cố định, có đầu, có cuối. Phƣờng rối này không đi biểu diễn ở nơi
khác [39].
Nhƣ vậy, trải qua hàng mấy nghìn năm lịch sử, Bắc Ninh đã từng là
một huyện Luy Lâu dƣới thời Bắc thuộc trƣớc công nguyên đã thành một
trung tâm văn hoá của cả nƣớc một thời, tuy có sự giao lƣu với tất cả các loại
hình nghệ thuật, song Kinh Bắc vẫn giữ nguyên bản sắc văn hoá bản địa.
2.2. Ứng xử của ngƣời Quan họ trong môi trƣờng xã hội
Ngƣời Bắc Ninh - Kinh Bắc có truyền thống yêu nƣớc giữ nƣớc, hiếu
học. Tính cách hài hoà nền nã hiền thục, cởi mở và nghĩa tình, gia phong nề
nếp. Trong các mối quan hệ từ gia đình đến ngoài xã hội, chúng ta đều nhận
thấy một bản sắc văn hoá ứng xử đậm đà sâu sắc của những liền anh liền chị

37
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Quan họ. Hình thành và lƣu giữ từ ngàn năm, tính cách ấy của con ngƣời Bắc
Ninh điển hình cho nền văn hoá lúa nƣớc vùng đồng bằng châu thổ Bắc bộ
2.2.1. Ứng xử của người Quan họ trong gia đình
Nhƣ bao vùng quê khác, đất Kinh Bắc tự xa xƣa hình thành rất nhiều tập
quán chung, chịu ảnh hƣởng sâu sắc của đạo đức lễ giáo phong kiến. Các ảnh
hƣởng của văn hoá Đông phƣơng đặc biệt là Trung Quốc với nét văn hoá và
tƣ tƣởng Nho giáo, Đạo giáo nhƣ Lão Tử, Trang Tử, Khổng Tử, bên cạnh đó
còn có sự ảnh hƣởng rất lớn của Phật giáo, tất cả ăn sâu vào tiềm thức của
nhân dân kết hợp với đặc điểm con ngƣời nơi đây tạo thành nét độc đáo, riêng
biệt. Những điều này đƣợc thể hiện rõ rệt trong văn hoá ứng xử trong gia đình
của ngƣời Quan họ xứ Kinh Bắc.
2.2.1.1. Tục thờ tổ tiên
Trong tục thờ cúng tổ tiên, ngƣời Việt nói chung coi trọng việc cúng
giỗ vào ngày mất (còn gọi là kỵ nhật) thƣờng đƣợc tính theo âm lịch (hay còn
gọi là ngày ta). Họ tin rằng đó là ngày con ngƣời đi vào cõi vĩnh hằng. Không
chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn đƣợc thực hiện đều đặn vào các ngày
mồng một (còn gọi là ngày sóc), ngày rằm (còn gọi là ngày vọng), và các dịp
lễ Tết khác trong một năm nhƣ: Tết Nguyên đán, Tết Hàn thực, Tết Trung
thu, Tết Trùng cửu, Tết Trùng thập... Những khi trong nhà có việc quan trọng
nhƣ dựng vợ gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử..., ngƣời Việt cũng
dâng hƣơng, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ
ơn khi công việc thành công. Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của ngƣời Việt là
từ niềm tin ngƣời sống cũng nhƣ ngƣời chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ
trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn
dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lƣu giữa cõi dƣơng và cõi
âm. Đây là một lễ vô cùng quan trọng, bởi nhớ đến ông bà tổ tiên là sự thể
hiện lòng thành kính với vong linh ngƣời đã khuất, không phụ thuộc vào việc

38
làm giỗ lớn hay nhỏ. Chỉ với chén nƣớc, quả trứng, nén hƣơng cũng giữ đƣợc
đạo hiếu.
Tục thờ tổ tiên hình thành từ truyền thống uống nƣớc nhớ nguồn của
nhân dân Việt Nam nói chung và vùng Kinh Bắc nói riêng. Hầu hết các làng
Quan họ đều thờ tổ tiên ông bà ông vải, kết hợp với thờ Phật. Những gia đình
thờ tổ tiên và thờ Phật không theo đạo Công giáo thì ngƣời ta gọi chung là
bên Lƣơng, còn theo Công giáo thờ chúa Giê-su gọi tắt bên đạo.
Trong gia đình ngƣời Việt nói chung thƣờng có một bàn thờ tổ tiên,
ông bà (hay còn gọi ông Vải). Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn
thờ khác nhau. Biền, bàn thờ là nơi tƣởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của ngƣời
đã khuất. Hai cây đèn tƣợng trƣng cho mặt trời, mặt Trăng, hƣơng là tinh tú.
Hai bát hƣơng để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thƣờng có hai cành hoa cúc
giấy, với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Ở giữa có trục "vũ trụ" là khúc
trầm hƣơng dƣới dạng khúc khuỷu, vƣơn lên trong bát hƣơng. Nhiều gia đình
đặt xen giữa đèn và hƣơng là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả
(tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhƣng mỗi loại quả đều có ý
nghĩa của nó), phía trƣớc bát hƣơng để một bát nƣớc trong, coi nhƣ nƣớc
thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con
cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới...
Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt tại nơi cao ráo, sạch sẽ và trang trọng
nhất trong nhà (gian giữa đối với nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà tầng).
Trên bàn thờ thì bày bát hƣơng, chân đèn, bài vị hay hình ảnh ngƣời quá cố, chỗ
thắp nến. Đồ cúng cơ bản không thể thiếuhƣơng, hoa, chén nƣớc lã. Ngoài ra có
thể có thêm mâm cỗ mặn. Sau khi tàn hai phần ba tuần hƣơng, thì có thể hạ lễ.
Theo đạo Phật, con cháu nhớ tới ngày húy kị của ngƣời đã khuất mà cúng chay
thì ông bà càng hƣởng nhiều phƣớc lộc, không bị đọa đày địa ngục, chóng đƣợc
siêu thoát, ngƣợc lại con cháu cậy có nhiều tiền của giết nhiều súc sanh cúng

39
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

cùng tiền vàng quần áo giả thì ông bà càng đọa chìm trong địa ngục, mà con
cháu không biết, cứ nghĩ là mình cúng ông bà mình nhiều quần áo, ô tô, tiền
vàng là ông bà mình sung sƣớng lắm. Việc thắp hƣơng trên bàn thờ bao giờ cũng
phải thắp theo số lẻ: 1, 3, 5, 7, 9, 11,... mà tránh thắp số chẵn nhƣ 2, 4, 6, 8, 10,...
Ngƣời ta quan niệm rằng, số lẻ là dƣơng nên nó phù hợp hơn với tổ tiên (ngƣời
dƣơng thắp cho ngƣời âm). Loại hƣơng thẳng gồm 2 phần: chân hƣơng màu
hồng đỏ, bụi hƣơng thơm. Có một loại hƣơng vòng bao gồm nhiều vòng hƣơng,
có buộc dây, đƣợc đặt trên que sắt trong bình hƣơng. Khi thắp hƣơng, ngƣời ta
phải để hƣơng sao cho thật thẳng, tránh để hƣơng bị nghiêng, méo hay siêu đổ
khiến đốm lửa giữa các nén hƣơng không đều nhau, làm hƣơng bị tắt lửa, hƣơng
tàn xuống có thể gây cháy những đồ lễ vật trên bàn thờ hoặc gây hỏa hoạn. Khi
thắp hƣơng, nếu thắp 3 nén thì sau khi cắm nén thứ nhất (gọi là nén tâm), thì
cắm nén thứ 2 bên tay trái (tức bên phải từ trong nhà nhìn ra, rồi cắm tiếp nén
thứ 3 bên tay phải.
Các gia đình trong vùng Quan họ thƣờng sắp xếp khu thờ tự ở gian
giữa căn nhà, phía trƣớc án thờ là bộ trƣờng kỷ hoặc làm bằng gỗ tốt (đối với
gia đình khá giả) hoặc bằng tre (với gia đình ít có điều kiện). Trên án thờ
(thƣờng bố trí ngay trên nóc tủ buých phê) bao giờ cũng có 1 bát hƣơng to đặt
chính giữa, bát hƣơng này là chung cho tất cả các vong tiên tổ, thổ công thổ
địa. Bên trái và bên phải đặt thêm mỗi bên 2 bát hƣơng nhỏ hơn thờ ông bà cụ
tổ. Ngoài ra, trên mặt án thờ còn có bày bài vị của bà cô tổ. Bà cô tổ là thiếu
nữ thác trẻ đƣợc thờ phụng nhƣ là một biểu trƣng của sự chở che cho cả gia
đình. Hàng năm, cứ đến ngày giỗ của một trong các vong tổ kể trên thì cả nhà
lại tập trung quây quần, nếu có điều kiện thì làm dăm ba mâm mời cô dì chú
bác, không thì cúng hoa quả, nhƣng nhất thiết phải hƣơng hoa cẩn thận. Ngoài
ra, các ngày rằm, mùng một và đặc biệt là ngày lễ xá tội vong nhân (rằm
tháng bảy âm lịch), ngƣời ta thƣờng làm những thứ mà ngƣời dƣơng gian

40
đang sử dụng bằng giấy nhƣ voi, ngựa, các đồ dùng quần áo, khăn xếp, mũ
nón … quen gọi hàng mã để cúng, dân Kinh Bắc gọi là chút lòng thành biếu
các cụ tổ tiên, mong các cụ về phù hộ độ trì cho con cháu đƣợc bình an, phát
tài, phát lộc.
Những ngƣời thân trong gia đình chẳng may ốm đau bệnh tật chết, nếu
trong ngày cúng cửu trùng mà gia đình cảm thấy có gì đó chƣa yên tâm thì
mời thầy đồng về cúng vong, mong vong nhập vào ngƣời thân để từ ngƣời
đƣợc vong nhập, những ngƣời sống giao tiếp hỏi xem có gì chƣa phải, chƣa
đúng hoặc cũng có thể hỏi xem ngƣời mất cần gì, thiếu gì. Bài gọi vong về
của bà đồng Hoà làng Ó có đoạn: “Lạy vong, thƣơng vong đi gọi nhớ vong đi
tìm. Lạy vong, để thỉnh vong về, hợp vai thì ngự, hợp vế thì ngồi. Vong sống
khôn thác thiêng hãy soi đƣờng chỉ lối cho gia trung biết đƣờng mà lội, biết
lối mà đi. Vâng lạy vong, vong còn ở dƣới đồng bằng hay trên đỉnh núi, lạy
vong về hồi tâm chuyển hƣớng cho gia trung biết đƣờng mà lội biết lối mà đi,
vong về hợp vai thì ngự, hợp vế thì ngồi, lạy vong…” Đó chính là sự ứng xử
mang sự kính trọng của hậu thế đối với tiền nhân.
2.2.1.2. Tục thờ Bà cô Ông mãnh
Bà cô ông mãnh là từ mà dân gian dùng cho những ngƣời chết trẻ, chƣa
lập gia đình. Đối với ngƣời Quan họ cho rằng vì chết trẻ nên bà cô ông mãnh
rất linh thiêng. Nếu cảm thấy "hợp" ngƣời thân nào thì sẽ phù hộ độ trì rất
nhiều. Nếu thờ cúng bà cô ông mãnh không đến nơi đến chốn sẽ bị quở phạt.
Bà cô ông mãnh lẽ ra cũng nên thờ cúng với tổ tiên, nhƣng dân gian quan
niệm rằng bà cô ông mãnh tuổi thấp nên chƣa thể hƣởng hƣơng hoa cùng các
cụ đời trƣớc đƣợc. Giống nhƣ trên cõi dƣơng gian, trẻ con chỉ ngồi riêng một
mâm khi ăn giỗ nên bà cô ông mãnh cũng đƣợc thờ riêng 1 bàn thờ. Bàn thờ
bà cô ông mãnh đƣợc đặt dƣới gầm hƣơng án bàn thờ tổ tiên. Cũng có thể đặt
cùng trên bàn thờ tổ tiên nhƣng bát nhang phải thấp hơn thờ gia tiên 1 bậc.

41
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Cũng có thể lập riêng bàn thờ nhƣng phải thấp hơn bàn thờ tổ tiên. Bài trí bàn
thờ bà cô ông mãnh rất đơn giản, sơ sài. Chỉ đặt bài vị (hoặc ảnh), bát nhang,
chén nƣớc, bình hoa, đôi đèn... Ngƣời ta cúng vào ngày sóc vọng, ngày kỵ,
giỗ Tết giống thờ tổ tiên. Nếu ngƣời cúng ngang hàng với bà cô ông mãnh thì
chỉ lâm râm khấn mà không cần lễ. Nếu thuộc hàng dƣới thì phải khấn và lễ.
Khi gia đình gặp chuyện về sức khỏe, vật chất... ngƣời ta cúng bà cô ông
mãnh để đƣợc phù hộ độ trì cho mọi sự đƣợc hanh thông và tốt hơn.
2.2.1.3. Tục thờ người mới chết
Những ngƣời mới mất chƣa đƣợc thờ chung với tổ tiên mà đƣợc lập
một bàn thờ riêng tại gian thờ hoặc gian nhà ngang. Đƣợc bài trí tƣơng đối sơ
sài: một bát nhang, bài vị (hoặc ảnh), lọ hoa, chén nƣớc, ngọn đèn... Trong
vòng 100 ngày (tính từ ngày an táng xong), ngƣời ta đều thắp hƣơng cơm
canh trƣớc khi gia đình ăn cơm, mời ngƣời mới mất thụ hƣởng. Lúc này, linh
hồn ngƣời chết còn quyến luyến ngƣời thân, "hồn vía còn nặng" chƣa thể siêu
thoát đƣợc, vẫn còn luẩn quẩn xung quanh nhà. Những ngƣời sống không
muốn tin vào sự thật là họ vừa mới mất đi một ngƣời thân, làm vậy để dịu nỗi
buồn. Nhƣng có nơi chỉ cúng 49 ngày (tức lễ chung thất).
Sau 3 năm khi ngƣời mới mất đƣợc bốc mộ, bát nhang ngƣời mới mất
sẽ đƣợc rƣớc lên bàn thờ tổ tiên (phong tục của ngƣời miền Bắc (Ninh Bình).
Sau lễ trừ phục (còn gọi là đàm tế) bàn thờ ngƣời mới mất sẽ đƣợc loại bỏ
cùng những đồ thờ riêng, đƣa ảnh chân dung và bát nhang lên bàn thờ tổ tiên,
đặt hàng dƣới. Trƣờng hợp không có bàn thờ tổ tiên thì sẽ vẫn giữ lại nhƣ cũ,
chỉ cần yết cáo tổ tiên lên bàn thờ tổ [23].
2.2.1.4. Ứng xử của người Quan họ với người thân trong gia đình
Đối với ngƣời Quan họ, chữ tình rất đƣợc coi trọng. Từ trong gia đình
đến ngoài xã hội, tình cảm, tình thƣơng yêu sâu sắc luôn là nét đẹp mang bản
sắc văn hoá bản địa. Ngƣời Quan họ tâm niệm rằng, tình cảm con ngƣời luôn

42
quan trọng nhất. Vì thế, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ cũng đối xử với
nhau mang đậm tính nhân văn, nhất là mối quan hệ tình cảm trong gia đình
ruột thịt. Điều này dễ dàng nhận ra khi chúng ta đến thăm bất kỳ một gia đình
nào trong các làng Quan họ gốc. Ngƣời xƣa quan niệm: “Gia đình phải có gia
giáo - giáo dục đạo đức, phẩm chất, nhân cách cho con cái; gia lễ - đảm bảo
kỷ cƣơng, có thứ bậc, ngôi vị trong gia đình; gia pháp - những phép tắc, luật
lệ, khuôn phép của gia đình để giáo dục con trẻ trong gia đình; gia phong - nề
nếp, lề thói mà mỗi ngƣời trong gia đình phải tuân thủ theo hết sức nghiêm
ngặt”. Văn hóa ứng xử trong gia đình đƣợc ngƣời Quan họ đề cao và rất coi
trọng. Những giá trị đạo đức xã hội của tƣ tƣởng Nho giáo đƣợc cha ông răn
dạy, chỉ bảo con cái từ thuở mới lọt lòng đến khi trƣởng thành đƣợc thể hiện
rất rõ trong ca dao, tục ngữ. Đó là những bài học ứng xử về hiếu nghĩa, đạo
làm con: “Một lòng thờ mẹ, kính cha. Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”; tình
thƣơng yêu anh em ruột thịt: “Anh em nhƣ chân, nhƣ tay. Nhƣ chim liền
cánh, nhƣ cây liền cành”, “Em thuận, anh hòa là nhà có phúc”... Tính cách
nền nã, sâu sắc, thân thiện của ngƣời Quan họ chịu ảnh hƣởng từ văn hoá ứng
xử trong gia đình. Trong gia đình, dù đông ngƣời đến mấy thì họ luôn sống
theo nguyên tắc truyền thống của dân tộc Việt là trên kính dƣới nhƣờng. Việc
cãi cọ, gây mất đoàn kết là việc hết sức tối kỵ ở đây. Vào ngày lễ tết, nhất
thiết con cái phải có hành động quan tâm cụ thể tới cha mẹ, ông bà. Thông
thƣờng, ngƣời con dâu có trách nhiệm đi chợ mua các đồ cần thiết để làm lễ
báo hiếu cha mẹ. Lễ báo hiếu thƣờng niên diễn ra vào ngày mùng Một tết
Nguyên Đán. Ngƣời Quan họ tâm niệm chọn ngày mồng Một tháng Giêng là
ngày khởi đầu cho tất cả mọi sự trong năm, mà cha mẹ, ông bà chính là ngƣời
khởi sinh ra gia đình, vì thế ngày đầu năm làm việc báo hiếu không những thể
hiện tình cảm của con cháu mà còn hy vọng sự may mắn sẽ đến với cả nhà
trong suốt một năm. Cũng trong suốt ba ngày tết, ngƣời Quan họ kiêng kỵ to

43
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

tiếng. Có gì không phải thì nín nhịn, chờ qua tết mới giải quyết. Tục lệ xƣa,
ngƣời Quan họ khi đi xa lâu ngày mới về thăm gia đình thì trƣớc khi làm lễ
bái tổ tiên và diện kiến ông bà bố mẹ phải tắm gội sạch sẽ, và lễ ba vái. Trong
ngày lễ xá tội vong nhân, mọi ngƣời phát tâm ăn chay và đi chợ Âm Dƣơng
(Chợ ở làng Ó tức làng Xuân Ổ) mua đồ cúng chúng sinh để dâng lễ tạ tội với
mong muốn các bậc sinh thành đƣợc trƣờng thọ và khoẻ mạnh. Trong những
ngày lễ trọng đại của năm, trẻ con luôn đƣợc ngƣời lớn quan tâm đặc biệt,
ngoài việc mừng tuổi là lời huấn dạy những điều hơn lẽ thiệt. Ngƣời cha
thƣờng lấy câu chuyện của ông bà làm tấm gƣơng răn dạy (xƣa ở các làng
Quan họ gốc, việc mừng tuổi cho con cháu thƣờng là quần áo, pháo tét, đồ
hàng, không mừng tiền).
Trong gia đình ngƣời Quan họ nói chung họ đối xử, răn dạy bằng tất cả
niềm thƣơng yêu. Rất hiếm thấy ngƣời lớn dùng roi vọt hay lời quát mắng
thậm tệ. Chính vì thế, tập tục cƣ xử trong gia đình ảnh hƣởng rất lớn tới cách
ứng xử ngoài xã hội, đồng thời cũng tạo nên nét đặc sắc của ngƣời dân bản
địa, căn nguyên của văn hoá ứng xử của ngƣời Quan họ lƣu truyền đến nay.
2.2.2. Ứng xử của người Quan họ với xã hội
2.2.2.1. Truyền thống yêu nước, giữ nước
Do hệ thống giao thông thuỷ bộ thuận lợi nên Bắc Ninh, Bắc Giang
sớm có mối liên hệ trao đổi, giao thƣơng với nhiều vùng của đất nƣớc, kể cả
nƣớc ngoài nhƣ Trung Quốc, Ấn Ðộ, một vài nƣớc phƣơng Tây. Luy Lâu là
một trung tâm giao thƣơng từ rất sớm trên các tỉnh này. Nơi đây sớm trở
thành một vùng kinh tế có thế mạnh đồng bằng, trung du, miền núi. Và, đặc
biệt quan trọng là cƣ dân Kinh Bắc có truyền thống cần cù, thông minh sáng
tạo trong lao động. Nên, cho đến thế kỷ XI, cùng với sự ra đời Nhà nƣớc Ðại
Việt triều Lý, Kinh Bắc đã trở thành một vùng kinh tế mạnh của đất nƣớc,
làm nền cho sự phát triển mọi mặt chính trị, văn hoá, xã hội....

44
Hàng nghìn năm, trong lịch sử chống ngoại xâm, vùng đất và con ngƣời
Kinh Bắc đƣợc lịch sử cả nƣớc giao cho trọng trách là "đất phên dậu phía Bắc
của Thăng Long", một thế đứng: Trƣớc mắt kẻ thù mạnh, hung hãn, luôn
mang dã tâm xâm lƣợc; đằng sau là kinh đô - danh dự thiêng liêng của đất
nƣớc - buộc phải giữ gìn, bảo vệ. Chính thế đứng và trọng trách lịch sử ấy đã
hun đúc nên phẩm chất anh hùng, mƣu lƣợc, quyết chiến thắng của ngƣời dân
Bắc ninh Bắc giang để họ viết nên những trang sử vàng chói lọi về lịch sử
chống ngoại xâm : chiến thắng Nhƣ Nguyệt - thế kỷ XI; những Nội Bàng,
Bình Than, Vạn Kiếp, chống quan Nguyên Mông, thế kỷ XIII; chiến thắng
Chi Lăng - Xƣơng Giang quyết định kết thúc thắng lợi 10 năm kháng chiến
chống quân Minh, thế kỷ XV...Truyền thống ấy, trong các cuộc kháng chiến
chống Pháp sau này đã đƣơc phát huy với những địa danh nổi tiếng Yên Thế,
Ðình Bảng.. .. Gian khổ nhiều, mất mát, hy sinh nhiều cho sự sống còn của
quê hƣơng, đất nƣớc suốt chiều dài lịch sử, nên, con ngƣời ở quê hƣơng này
còn đƣợc lịch sử hun đúc phẩm chất, tình cảm yêu thƣơng sự sống, yêu
thƣơng con ngƣời, một phẩm chất cơ bản của ngƣời anh hùng và ngƣời nghệ
sĩ. Chính những phẩm chất, tình cảm cao quý này sẽ chi phối mọi sáng tạo
của ngƣời dân Kinh Bắc trong mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực văn hoá, nghệ
thuật, trong đó, có Quan họ. Về lịch sử phát triển văn hoá, Kinh Bắc cũng là
một vùng có những đặc điểm tƣơng đối riêng và nổi bật. Khảo cổ học đã
chứng minh vùng Kinh Bắc có sự tụ cƣ lần lƣợt của nhiều luồng cƣ dân từ lâu
đời, trong đó yếu tố văn hoá Việt cổ giữ vai trò chủ thể. Tiến trình phát triển
văn hoá bản địa trên đất này không diễn ra êm ả, xuôi dòng, mà, đã đụng đầu
trực diện với sự đồng hoá văn hoá gắn liền với mƣu đồ sáp nhập lãnh thổ của
một kẻ thù mạnh, kẻ thắng trận và đô hộ quê hƣơng này, đất nƣớc này, khi
đứt, khi nối, hàng nghìn năm. Trong cuộc đụng đầu lịch sử hàng nghìn năm
ấy, kết quả lịch sử đã chứng minh: nền văn hoá bản địa trên quê hƣơng này

45
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

không những không bị đồng hoá, tiêu diệt mà ngƣợc lại, nền văn hoá ấy vẫn
tiếp tục phát triển giá trị, bản sắc riêng, để rồi, khi đất nƣớc độc lập, vùng văn
hoá dân gian xứ Kinh Bắc lại trở thành vùng văn hoá nền tảng của văn hoá,
văn minh Thăng Long nƣớc Ðại Việt, thế kỷ XI. Cuộc thử thách lớn lao và
kéo dài trong trận chiến giữ gìn, phát triển giá trị, bản sắc văn hoá, nghệ thuật
quê hƣơng, đã có những cống hiến lớn lao cho công cuộc xây dựng văn hoá
đất nƣớc, quê hƣơng [23].
2.2.2.2. Truyền thống hiếu học khoa bảng
Trong lịch sử khoa cử của các triều đại, kể từ khoa thi đầu tiên, 1075,
triều Lý, đến khoa thi cuối cùng, 1919, triều Nguyễn, trong 845 năm, có 187
Khoa (đại Khoa) ngƣời Hà Bắc dự thi 145 Khoa, đỗ đƣợc 645 tiến sĩ và tƣơng
đƣơng tiến sĩ, chiếm hơn 1/4 tiến sĩ cả nƣớc. Trạng nguyên là học vị cao nhất,
vinh dự nhất trong khoa cử thời xƣa thì Hà Bắc có hơn 1/3 số trạng nguyên cả
nƣớc, chƣa kể những ngƣời đỗ đầu thi đình trong những kỳ thi không lấy đỗ
trạng nguyên. Lấy học vị đại khoa (thái học sinh, tiến sĩ, tam khôi) là mốc để
xét, thì, đất Hà Bắc một thời ngót nghìn năm đã có số lƣợng đỗ nhiều, nhiều
ngƣời đỗ rất cao, nhiều ngƣời đỗ trẻ nhất, so với cả nƣớc. Có làng đƣợc gọi là
"Làng nghè" (nghè là tên nôm của học vị tiến sĩ) nhƣ làng Kim Ðôi (nay
thuộc huyện Quế Võ), làng Tam Sơn (nay thuộc huyện Tiên Sơn)...Có dòng
họ nhiều đời nối tiếp, cha con, anh em đồng khoa, đồng triều nhƣ dòng họ
Thân ở Yên Ninh (Yên Dũng nay thuộc Việt Yên), dòng họ Nguyễn ở Vĩnh
Kiều (xƣa thuộc Ðông Ngàn nay thuộc Tiên Sơn)...Có nhà sinh 5 con trai đều
đỗ tiến sĩ cả 5 ngƣời và ngƣời đỗ trẻ nhất là Nguyễn Nhân Thiếp: đỗ tiến sĩ 15
tuổi (khoa 1466). Tao Ðàn, hội thơ văn đầu tiên, duy nhất trong thời phong
kiến, do Lê Thánh Tông, vị vua hay bậc nhất một thời, thế kỷ XV, đã tuyển
chọn danh nhân cả nƣớc lấy 28 ngƣời, gọi là nhị thập bát tú (28 vì sao sáng),
để xƣớng hoạ thi ca, thì gần nửa là ngƣời Kinh Bắc, trong đó có Phó nguyên

46
suý và Sái - phu Tao Ðàn là ngƣời Kinh Bắc, có nhà 2 ngƣời nhƣ họ Nguyễn
ở Kim Ðôi, họ Ngô ở Tam Sơn... Một đội ngũ trí thức đại khoa đông đảo đến
các ngõ, các làng, lại phần đông am hiểu và sáng tạo thơ ca, cho nên, một
hình thái sinh hoạt văn hoá dân gian làng xã nhƣ Quan họ chắc chắn thu hút
sự tham gia sáng tạo của đội ngũ này [23]. Chính vì thế, những ngƣời nghiên
cứu Quan họ ngày nay đã tìm thấy trong Quan họ mối quan hệ gắn bó giữa
sáng tạo bác học và sáng tạo dân gian, sự đan xen, hoà nhập giữa lao động
sáng tạo của ngƣời trí thức và ngƣời bình dân.
2.2.2.3. Tục kết bạn
Tục kết bạn trong Quan họ có những chi tiết khác nhau giữa các làng,
nhƣng cũng có những nét chung. Có nơi nhƣ Thị Cầu, Làng Yên, Ngang
Nội… trong cùng một thời gian, nhóm Quan họ này kết bạn 2,3 nhóm Quan
họ khác và sự kết bạn ấy có khi chỉ kéo dài vài, ba năm rồi lại kết với nhóm
khác. Có nơi nhƣ Bồ Sơn - Y Na , hai nhóm nam nữ Quan họ đã kết bạn với
nhau rồi thì không kết bạn với nhóm thứ ba và có tục lệ không bao giờ lấy
nhau, giữ đƣờng đi lối lại trọn đời. Có nơi nhƣ Diềm và Bịu, hai nhóm đã kết
bạn thì không kết bạn với nhóm thứ ba. Không những thế, cả bên nam, bên
nữ, mỗi bên còn gây dựng một nhóm bé Quan họ để dẫn dắt họ lại kết bạn với
nhau, cứ thế, hết thế hệ này đến thế hệ khác, hàng trăm năm, tạo nên một tình
bạn truyền đời. Những nhóm Quan họ này thƣờng có tục không lấy nhau
thành vợ thành chồng. Có nơi nhƣ Thị Cầu, Ngang Nội, Sen Hồ...chỉ có Quan
họ nam , nên chỉ mới và kết bạn với Quan họ nữ ở nơi khác. Có nơi có cả
Quan họ nam và Quan họ nữ, khi đi tìm bạn để kết ở làng khác, thƣờng rủ
nhau một nhóm nam và một nhóm nữ làng này đến kết bạn với một nhóm nữ
và một nhóm nam làng kia, tạo nên tình bạn tay tƣ hoặc còn gọi là bộ bốn.
Tuy có những điểm khác nhau trong tục kết bạn nhƣng nhìn chung có những
điểm giống nhau:

47
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

- Ðã là Quan họ kết bạn thì phải khác giới, khác làng, đều là anh, là chị,
là em của nhau, rất ít khi Quan họ đã kết bạn lấy nhau thành vợ thành chồng.
Dù giữ tình bạn kết trong một số năm, hoặc trọn đời, hoặc truyền đời thì các
Quan họ vẫn cƣ xử thân thiết, quý trọng, giữ đƣờng đi lối lại thăm hỏi khi vui
buồn đến trọn đời.
- Khi đi hội hè hoặc đi ca hát ở đâu, các Quan họ kết bạn thƣờng hẹn rủ
nhau cùng đi. Mỗi khi làng có hội lệ, hoặc những việc vui mừng Quan họ kết
bạn cũng thƣờng mời nhau đến nhà ca hát.
- Cũng có sự đùm bọc lẫn nhau về vật chất những khi một ai đó trong
nhóm Quan họ kết bạn gặp hoạn nạn, khó khăn.
- Trong giao tiếp thƣờng giữ gìn phong độ lịch sự từ ngôn ngữ, cử chỉ,
khi đứng, khi ngồi; từ chén nƣớc, miếng trầu, mâm cơm thết bạn...đều biểu lộ
sự tôn trọng, quý mến lẫn nhau. Không có sự suồng sã, thô lỗ, trong giao tiếp
Quan họ.
Nhƣ vậy tục kết bạn của ngƣời Quan họ có rất nhiều nét khác biệt so
với những địa phƣơng khác. Nếu nhƣ ở Phú Thọ có tục kết giao Tƣơng hƣơng
giữa hai làng mà trong đó lấy một ngày cố định trong năm để đi lại và cũng
chỉ có bậc cao niên mới duy trì tục này thì ở các làng Quan họ gốc, việc kết
bạn Quan họ đi liền với việc hát Quan họ và kết chạ. Sự khác biệt của việc kết
bạn Quan họ đã tạo nét riêng, đặc biệt góp phần tạo nên phong cách của ngƣời
Quan họ trong ứng xử.
2.2.2.4. Tục rủ bọn
Muốn đi hát Quan họ phải có bọn: bọn nam hoặc nữ. Từ “bọn” xƣa có
lẽ không mang nhiều nghĩa xấu nhƣ hiện nay. Có nơi do các anh nhớn Quan
họ, chị nhớn Quan họ đứng ra rủ bạn cho các em bé Quan họ. Nhƣng cũng có
nhiều nơi do lòng yêu thích ca hát Quan họ, còn gọi là chơi Quan họ, những
chàng trai, cô gái, 15, 16, 17 tuổi tự rủ nhau thành bọn rồi tìm đến một vài anh

48
nhớn, chị nhớn hoặc vài cụ Quan họ để học ca hát, rồi nhờ các bậc đi trƣớc
đƣa đƣờng, chỉ lối, bắc cầu cho tìm nơi kết bạn... Mỗi bọn Quan họ thƣờng có
4, 4, 6 ngƣời và đƣợc đặt tên từ chị Hai, chị Ba, chị Tƣ, chị Năm hoặc anh
Hai, anh Ba, anh Tƣ, anh Năm, có đôi làng có đến anh Sáu, chị Sáu. Nếu số
ngƣời đông đến 7, 8 ngƣời thì có thể đặt thêm: anh Ba (bé), chị Tƣ (bé) v.v...
mà không đặt anh Bẩy, chị Tám v.v.... Không có chị cả, anh cả trong bọn
Quan họ. Khi ra hội hoặc giao tiếp giữa các Quan họ, thƣờng gọi nhau bằng
tên anh Hai, chị Ba... hoặc liền anh Quan họ, liền chị Quan họ mà không gọi
tên thật. Vùng Quan họ, xƣa, trong khẩu ngữ, ngƣời ta không nói đàn ông,
đàn bà để phân biệt nam, nữ mà nói: liền ông, liền bà. Trong một bọn Quan
họ, tuy chia ra anh Hai, Ba, Tƣ, Năm... nhƣng họ sống bình đẳng, đùm bọc,
thƣơng yêu, gắn bó cùng nhau. Cả ngày lao động, nhƣng đêm đến, họ thƣờng
rủ nhau ngủ bọn ở nhà một anh nhớn, chị nhớn nào đấy để học câu luyện
giọng. Trƣớc tiên là học đủ lối, đủ câu; luyện giọng sao cho mẫm, cho nền,
cho vang, cho ngọt, cho nẩy, cho rền. Sau đó là tập nói năng, lề lối ứng xử,
giao tiếp, rồi mới tiến đến chỗ đi hát hội, kết bạn, hát canh, hát thi. Cao hơn
nữa là biết đặt câu (sáng tác lời thơ làm lời ca), bẻ giọng (phổ nhạc cho thơ)
và ứng đối kịp thời. Những bọn Quan họ này thƣờng là bạn trọn đời cả trong
ca hát và ở đời thƣờng. Họ phải ghép và luyện sao cho từng đôi một thật hợp
giọng nhau để đi ca hát. Thƣờng mỗi đôi hát một số bài, lần lƣợt thay nhau
cho trọn canh hát. Có những đôi nam, đôi nữ nổi tiếng đủ lối, đủ câu, giọng
vang nhƣ chuông...trong giới Quan họ trong những thời điểm khác nhau, ở
những thế hệ khác nhau.
2.2.2.5. Mời và tiếp khách Quan họ
Một nhóm Quan họ này muốn mời một nhóm Quan họ đến nhà mình ca
hát một canh thì cũng phải biết mời theo lề lối. Sau khi đã hẹn trƣớc ngày sẽ
sang mời, nhóm đi mời thƣờng đi ít nhất là hai ngƣời mang theo một cơi trầu

49
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

đến làng Quan họ của bạn. Khi đến nơi, bên chủ thƣờng đã tụ họp đủ cả nhóm
Quan họ ở nhà hẹn nào đấy để đón. Trƣớc nhóm Quan họ và có cả thày, mẹ
của anh Hai, hoặc chị Ba (căn nhà đã hẹn), những ngƣời mời phải đặt cơi trầu
lên bàn rồi trang trọng nói: ... "Năm, năm mới, tháng, tháng xuân, trƣớc là
thăm thày, thăm mẹ, chúc thày, chúc mẹ sống lâu, giàu bền, sau là thăm anh
Hai, anh Ba, anh Tƣ, anh Năm, đƣơng (đông). Quan họ liền anh, chúc đƣơng
Quan họ liền anh năm mới thêm tài, thêm lộc, sau nữa là ngỏ lời xin phép
thày mẹ, mời anh Hai, anh Ba, anh Tƣ.... đƣơng Quan họ liền anh, đến ngày X
tháng Y, đến vui hội cùng làng em, cùng chúng em ca vui một canh cho vui
dân, vui hội, cho chị em chúng em học đòi đối lối, đôi câu...". Thƣờng là
Quan họ bạn nhận lời, làm cơm thết bạn và thế nào tối hốm đó cũng "ca dăm
câu" để mừng cuộc hội ngộ, sau đó, bên đƣợc mời ân cần tiễn đƣa bên đi mời
một đoạn đƣờng dài khỏi làng mình mới trở lại. Sau khi biết bạn nhận lời, bên
đi mời về tấp nập sửa soạn: Luyện tập ca hát, lo xếp đặt, trang hoàng căn nhà
sẽ là nơi gặp gỡ ca hát, lo đóng góp tiền nong mua sắm thức ăn, thức uống, lo
ngƣời nấu nƣớng khéo léo v.v... Ðúng hẹn khách đến, bên chủ phải ra tận đầu
làng đón khách đƣa về điểm sẽ hát. Với nét mặt hồ hởi, hân hoan thái độ ân
cần niềm nở, chủ lấy thau, khăn mặt, mời khách đi rửa mặt, chân tay rồi đón
khách vào nhà. Trong nhà đón khách đã kê, xếp bàn, ghế, giƣờng phản sạch
sẽ, gọn gàng với đông đảo các bậc cha mẹ, bạn bè cùng mừng vui đón khách.
Mời khách uống nƣớc, xơi trầu, chuyện trò thăm hỏi thân tình thắm thiết.
Nƣớc uống mời Quan họ, nhiều nơi pha trà ƣớp hƣơng sen, hoặc hƣơng sói,
hƣơng ngâu, hƣơng nhài, hƣơng bƣởi. Miếng trầu cũng phải bổ miếng cau,
lạng miếng vỏ sao cho mịn đƣờng dao. Cau chọn loại vừa đến hạt - Lá trầu
tìm cho đƣợc là trầu ngon vừa cay vừa thơm. Vỏ ngon nhất vẫn là loại vỏ sen,
mềm, mịn, dày cùi, vị chát ngọt. Nếu trời lạnh, trong miếng trầu têm cánh
phƣợng có cài thêm chút quế hoạch chút hồi cho thêm thơm, thêm nồng, thêm

50
đƣợm. Có nơi nhuộm vôi trắng thành vôi hồng. Sau khi mời trầu, nƣớc, Quan
họ bắt đầu vào canh hát. Ðến chừng nửa đêm, Quan họ chủ thƣờng mời Quan
họ khách ăn tiệc mặn, hoặc tiệc ngọt hoặc cả hai.
2.2.2.6. Tiệc mặn Quan Họ
Tuỳ theo từng làng, cũng có những nét riêng. Nhƣng nhìn chung, cỗ
mời Quan họ ăn thƣờng là cỗ to, bày ba dàn trên mâm khi mới bƣng lên.
Những món ăn thƣờng là những món trong cỗ ngày hội, ngày khao: các loại
giò (giò nạc, giò mỡ, giò thủ, giò hoa...), măng, miến, mọc, bóng... cỗ to
nhƣng quan trọng nhất vẫn là Lời chào cao hơn mâm cỗ. Các Quan họ chủ
chia nhau ân cần mời mọc Quan họ khách: "Năm, năm mới, tháng, tháng
xuân, mỗi năm có một lần vui hội...Thôi thì, bây giờ canh đã quá khuya, anh
em chúng em xin mời chị Hai, chị Ba, chị Tƣ, chị Năm... Quan họ uống chén
rƣợu mừng xuân, mừng hội, vui bàu, vui bạn... rồi sau đây lại ca xƣớng cho
tan canh mãn võ, cho tàn đêm ngày ... đấy ạ". Những làng có tục mời Quan họ
rƣợu thì thƣờng mỗi ngƣời bƣng một chén rƣợu nhỏ mời từng ngƣời, vừa
mời, vừa hát bài:
Ðôi tay nâng chén rượu đào / Ðổ đi thì tiếc, uống vào thì say
Tay nâng đĩa muối, đĩa gừng / Gừng cay muối mặn, xin đừng quên
nhau...
Nhƣng có nơi không mời Quan họ uống rƣợu thì dù bữa ăn có sửa soạn
to đến đâu, Quan họ cũng gọi là cơm Quan họ mà không gọi là Cỗ Quan họ.
Xƣa, tục không mời uống rƣợu khi mời Quan họ ăn khi hát đƣợc các Quan họ
ở Diềm và Bịu giữ thành lệ. Tiệc ngọt Quan họ bao gồm các món bánh ngọt
và chè thƣờng làm vào các ngày hội lệ của làng. Có khi có cả cam, bƣởi, mía.
Tuỳ theo từng nơi có các loại bánh: Bánh chƣng, bánh giò, bánh gai, bánh
mật, bánh xu xê, bánh chè lam ngũ vị, bánh bỏng v.v... Các loại chè: chè
đƣờng bột lọc, chè đỗ đãi, chè con ong v.v... Ăn xong, Quan họ lại tiếp tục ca

51
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

hát, và ngay khi các Quan họ khách ăn uống, Quan họ chủ chỉ cử ngƣời tiếp,
còn các nhóm Quan họ khác trong làng vẫn có thể ca hát cùng nhau. Quan họ
giã bạn (Chia tay) vào khoảng canh tƣ (gần sáng) . Không phải chỉ cƣ xử nhƣ
vậy vào những dịp mời Quan họ đúng dịp hội làng mà mỗi khi mời Quan họ
vào những dịp vui mừng nào đó để ca hát cũng đều cƣ xử, mời đón, thết đãi
nhƣ vậy. Khi, trong những nhóm Quan họ đã kết bạn hoặc có tình ý thân, có
ngƣời đau yếu, hoạn nạn, họ cũng thƣờng rủ nhau đi thăm hỏi, quà cáp, có khi
góp nhau lại để giúp đỡ cả về tiền. Trong sinh hoạt văn hoá Quan họ thật sự
tồn tại một tình ngƣời thắm thiết thuỷ chung. Cùng với sự bình đẳng, tƣơng
thân, tƣơng ái, ngƣời Quan họ rất coi trọng những ngƣời đi trƣớc, các lớp
Quan họ trƣớc, biết ứng xử có trƣớc, có sau, có trên, có dƣới. Những việc
làm, những lời răn bảo, khuyên can, chỉ dẫn... của ngƣời đi trƣớc thƣờng đƣợc
tôn trọng. Sự có mặt của các Quan họ lớp trƣớc trong mọi cuộc sum họp ca
xƣớng Quan họ thƣờng là niềm tự hào, niềm vui của Quan họ lớp trẻ. Bao giờ
các bậc đi trƣớc cũng đƣợc đối xử quí trọng chân thành. Mối quan hệ này liên
quan chặt chẽ đến sự bảo tồn và phát triển các thành tựu văn hoá, nghệ thuật
Quan họ nói chung, màu sắc, phong cách đa dạng của mỗi làng nói riêng.
2.2.2.7. Ngôn ngữ, cử chỉ trong giao tiếp Quan họ
Ngày xƣa, ngƣời các vùng không có Quan họ đến với vùng Quan họ
thƣờng có nhận xét: "Ngƣời quan họ nói nhƣ có văn có sách". Ngôn ngữ của
ngƣời Quan họ là một ngôn ngữ giàu chất thi ca của ca dao, tục ngữ, chuyện
nôm, nhất là truyện Kiều. Ví dụ nói: "Bây giờ gặp mặt nhau đây mà cứ ngỡ
nhƣ là chuyện chiêm bao... "Câu nói này khiến ta liên tƣởng đến những chữ
đã dùng trong 2 câu thơ truyện Kiều:
Bây giờ gặp mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao

52
Ví dụ nói để khen bạn: "Thƣa anh Hai, anh Ba... thật là thơm cây, thơm
rễ, ngƣời giồng (trồng) cũng thơm, đấy ạ!". Câu nói này khiến ta nghĩ ngay
đến câu ca dao:
Người như hoa quế thơm lừng
Thơm cây, thơm rễ, người giồng (Trồng) cũng thơm.
Ngôn ngữ giao tiếp của ngƣời Quan họ tuy mềm mại, khéo léo, tinh
thế, nhiều khi bóng bẩy, lững lờ... nhƣng không gợn lên những ẩn ý dối trá,
lừa lọc mà đậm đà tình ngƣời, sự tôn trọng giữa ngƣời và ngƣời luôn hƣớng
tới sự giàu đẹp của ngôn ngữ. Vì vậy, ngƣời Quan họ không thích, không
chấp nhận sự thô kệch, vụng về trong ngôn ngữ. Cho nên, khi các em bé đƣợc
các anh nhớn, chi nhớn Quan họ rủ bọn để luyện ca hát thì cũng hƣớng dẫn
các em "học ăn, học nói, học gói, học mở" để sau này giao tiếp trong Quan
họ. Ngƣời Quan họ cũng rất coi trọng sự lịch thiệp, thanh nhã trong mọi
việc cử chỉ giao tiếp. Từ việc đỡ ô, đỡ nón khi đón bạn, nâng cơi giầu (trầu)
mời bạn, nâng chén nƣớc, chén rƣợu, đến dáng đi, dáng đứng, thế ngồi, cái
miệng, đôi mắt, tƣ thế khi chuyện trò cùng bạn.v.v.... gần nhƣ đều có chuẩn
mực thế này là phải, là duyên, thế kia là không phải, vô duyên. Có những
ngƣời, những nhóm hát hay, thuộc nhiều bài, nhƣng cử chỉ giao tiếp kém cũng
không có nhiều bạn muốn hát cùng, muốn kết bạn, thậm chí kết bạn rồi cũng
lại nhạt dần rồi thôi. Một chùm hoa bƣởi đặt trong cơi trầu, một nhành hoa sói
cài trên mái tóc nép kín vào vành khăn hoặc dấu trong khăn tay... vốn là sự
tinh tế của ngƣời Quan họ. Phong tục, lề lối trong hát Quan họ là một hệ
thống qui ƣớc không thành văn, không do một ai ban bố, nhƣng, từ đời này
qua đời khác, những quy ƣớc ấy lần lƣợt ra đời và đƣợc mọi ngƣời tuân thủ,
tuy có những chi tiết khác nhau nhƣng mang tính thống nhất cao trong toàn
vùng Quan họ. Hệ thống qui ƣớc ấy đƣợc hình thành do những yêu cầu tồn
tại, duy trì, phát triển hoạt động ca hát Quan họ, nhƣng cũng chịu sự chi phối

53
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

trực tiếp của toàn bộ phong tục tập quán của cộng đồng dân cƣ vùng Quan họ,
trở nên một bộ phận gắn bó khăng khít với toàn bộ phong tục tập quán của
một vùng văn hoá [17].
Nhƣ vậy, thông qua cách ứng xử của ngƣời Quan họ trong đời sống,
chúng ta thấy đây là một truyền thống có tự lâu đời, đƣợc lƣu truyền và gìn
giữ, mang bản sắc văn hoá Kinh Bắc, đặc biệt là trong hoạt động lễ hội và hát
Quan họ. Từ việc tìm hiểu vùng đất và con ngƣời, chúng ta thấy Kinh Bắc là
nơi có nhiều thuận lợi về địa lý, kinh tế xã hội. Trải qua thăng trầm của lịch
sử, Kinh Bắc hội tụ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà, hình thành bản sắc
văn hoá độc đáo. Đây cũng là điều kiện căn bản nuôi dƣỡng bản chất con
ngƣời Kinh Bắc: Nặng tình, trọng nghĩa. Ngƣời Quan họ sinh ra, lớn lên trên
mảnh đất có truyền thống văn hoá lâu đời, kinh tế thông thƣơng phát triển
hình thành nét văn hoá ứng xử đặc trƣng: Tế nhị, lịch sự. Đó cũng là sự tiêu
biểu của văn hoá Việt Nam – Một nền văn hoá duy tình. Từ việc tìm hiểu văn
hoá ứng xử của ngƣời Quan họ, chúng ta còn thấy sự thống nhất giữa con
ngƣời thực tế với nội dung các bài ca Quan họ. Điều này sẽ thấy rõ hơn khi
tìm hiểu văn bản lời ca Quan họ, đặc biệt là lời ca dân ca Quan họ cổ.

54
CHƢƠNG 3
VĂN HOÁ ỨNG XỬ CỦA NGƢỜI QUAN HỌ
TRONG VĂN BẢN LỜI CA

Cho đến nay, chƣa có con số chính thức cuối cùng về số bản lời ca
Quan họ. Theo con số sƣu tầm, ghi chép đƣợc của Ðoàn dân ca Quan họ thì
có gần 250 bản lời ca. Có tài liệu nói có 500 bản lời ca. Nếu tính theo số bài
bản về bài hát (ca khúc và lời) thì có trên dƣới 200 bản, và nếu mỗi bài ca đều
có 2 lời thì ta có trên dƣới 400 bài lời ca. Nhạc sỹ Hồng Thao trong quá trình
ghi âm trực tiếp các nghệ nhân diễn xƣớng cũng sƣu tầm đƣợc 300 bài dân ca
lời cổ. Lời ca cho một bài dân ca, nhìn chung thống nhất trong cả vùng,
nhƣng cũng có những dị bản. Trong trƣờng hợp có những chữ khác nhau
trong lời ca, khác nhau về giai điệu bài ca cũng thƣờng gây nên tranh cãi,
nhiều khi gay gắt trong giới Quan họ. Nhƣng, nhƣ một thói quen trong nếp
nghĩ và nhiều khi kiên định giữ nếp nghĩ này: "Ông bà, bố mẹ, anh chị làng
tôi ca thế, chúng tôi cũng ca thế". Ngƣời Kinh Bắc xƣa (ngày nay gồm Bắc
Ninh và Bắc Giang) hát Quan họ trong suốt bốn mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông)
nhƣng đặc biệt là vào mùa Xuân, lúc hoa cỏ đang khoe sắc đua hƣơng, vạn
vật đang sinh sôi nảy nở, đất trời, cảnh vật nhƣ mở ra để đón nhận lòng ngƣời
và cũng là dịp diễn ra nhiều hội hè, đám xá nhất…Vào những ngày này, nếu
không có Quan họ thì ngƣời dân nhƣ cảm thấy thiếu cái gì đó rất lớn, sẽ kém
vui… Bởi Quan họ nhƣ một món ăn tinh thần đã ăn sâu vào tiềm thức, tâm
hồn, tồn tại hàng thế kỷ qua tại vùng quê cổ kính này.
Ở vùng Kinh Bắc, từ khi mới đƣợc sinh ra, trẻ thơ đã đƣợc ông, bà, cha,
mẹ hát ru bằng những làn điệu dân ca Quan họ truyền thống và cứ nhƣ vậy khi
lớn lên ngƣời ta vẫn không thể quên đƣợc những làn điệu dân ca độc đáo này,
các thế hệ tiếp nối nhau hát Quan họ, ngƣời trƣớc truyền dạy ngƣời sau. Ngày

55
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

nay, từ trẻ em đến ngƣời già tóc bạc đều biết hát Quan họ…nhiều ngƣời con của
quê hƣơng đi xa cũng không thể nào quên đƣợc những âm vang tha thiết đó,
những hƣơng vị đặc trƣng của quê nhà. Nói đến chơi Quan họ là nói đến một lối
chơi có quy củ, nền nếp, buộc ngƣời chơi phải tuân thủ theo luật chơi gồm nhiều
thể loại: hát đối, hát giao duyên, hát canh, hát kết chạ, hát lễ hội, hát mời nƣớc,
mời trầu…chơi cho chỉ nổi kim chìm, chơi cho lở đất long trời mới xứng là trai
gái Kinh Bắc. Nhƣng không chỉ có thế, Quan họ còn có lối hát tự do, ngẫu hứng
thể hiện sự phóng khoáng trong những canh hát ngày Xuân. Hát để thay cho nói,
tâm sự gửi cả vào trong câu hát, đó cũng là cái tình của ngƣời Quan họ đã thấm
thía, lan tỏa ngàn đời ở đây. Tất cả nét văn hoá ứng xử đó đƣợc lƣu giữ và phát
triển từ rất lâu đời tồn tại ở xứ Kinh Bắc đến tận ngày nay. Nhƣng có thể nói,
những văn hoá ứng xử đƣợc hình thành và phát triển đó, khi tìm hiểu lời ca dân
ca Quan họ cổ, chúng ta một lần nữa có căn cứ để thấy rõ ràng một không gian
văn hoá Quan họ Kinh Bắc, đậm đà, sâu sắc mà không có nơi nào so sánh đƣợc.
Điều này củng cố thêm vững chắc đặc điểm của ngƣời Quan họ trong ứng xử và
sinh hoạt văn hoá, đặc biệt trong loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo: Dân ca
Quan họ Bắc Ninh.
3.1. Ứng xử của ngƣời Quan họ thể hiện qua nội dung lời ca
Trong quá trình tìm hiểu, khảo sát phân tích, phân loại khoảng 500 lời
ca dân ca Quan họ cổ, chúng tôi đã thống kê và tạm thời sắp xếp thành các
nhóm:
- Các bài dân ca cổ Quan họ có nội dung liên quan đến văn hoá ứng xử
của ngƣời Quan họ với môi trƣờng tự nhiên gồm: 97/500 bài và hàng trăm bài
gián tiếp hoặc có liên quan tới nhau.
- Các bài dân ca cổ Quan họ có nội dung phản ánh văn hoá ứng xử của
ngƣời Quan họ trong gia đình gồm: 235/500 bài và hàng trăm bài gián tiếp
hoặc có liên quan tới nhau.

56
- Các bài dân ca cổ Quan họ có nội dung phản ánh văn hoá ứng xử của
ngƣời Quan họ đối với xã hội gồm: 168/500 bài và hàng trăm bài gián tiếp
hoặc có liên quan tới nhau.
BẢNG THỐNG KÊ CÁC NỘI DUNG PHẢN ÁNH
TRONG LỜI CA DÂN CA QUAN HỌ CỔ
STT Nội dung phản ánh Số lượng
Văn hoá ứng xử của ngƣời Quan họ với môi trƣờng tự
1 nhiên thể hiện trong lời ca dân ca Quan họ cổ 97/500 bài
Văn hoá ứng xử của ngƣời Quan họ trong gia đình thể
2 hiện trong lời ca dân ca Quan họ cổ 235/500 bài
Văn hoá ứng xử của ngƣời Quan họ đối với xã hội thể
3 hiện trong lời ca dân ca Quan họ cổ 168 bài

3.1.1. Ứng xử của người Quan họ với môi trường tự nhiên


Cũng nhƣ những vùng quê khác nhau thuộc đồng bằng châu thổ Bắc
bộ, ngƣời Kinh Bắc xa xƣa gắn bó mật thiết với cây lúa, với thiên nhiên, quê
hƣơng đất nƣớc. Họ luôn lạc quan, tin tƣởng và trân trọng giá trị mà môi
trƣờng sống đem lại. Trong hơn 500 bài ca dân ca lời cổ mà chúng tôi khảo
sát, đối chiếu, so sánh, hình ảnh sinh hoạt cộng đồng bên cây đa bến nƣớc con
đò nhƣ là khắc sâu vào tâm khảm của con ngƣời nơi đây. Bằng thủ pháp nghệ
thuật độc đáo của ca dao truyền thống và vận dụng tài tình nhịp điệu các thể
loại thơ ca dân tộc, những bài ca cổ đã đem đến cho ngƣời đọc, ngƣời nghe
nhiều thú vị và hấp dẫn.
Từ hệ thống lời ca Quan họ, ngƣời Quan họ đã phác vẽ tài tình về một
quê hƣơng với một tình yêu chân thật, tự nhiên mà thắm thiết. Trƣớc hết, đó
là một quê hƣơng "sơn thuỷ hữu tình", những "đƣờng về Quan họ",
những "đầu làng có chiếc giếng khơi", những "cây gạo chon von", một "quán
Dốc chợ Cầu", một "quán trắng phố Nhồi", những cửa chùa rộng mở ngày hội

57
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

cho trai thanh gái lịch về sum vầy ca xƣớng, những đêm trăng suông "nửa
đêm về sáng trăng bằng ngọn tre", những"dòng sông phẳng lặng nƣớc đầy",
một sông Dâu "ba bốn chiếc thuyền kề", những bến đò ngang "vẳng tiếng gọi
đò" và "trăng nƣớc một màu", những hội bơi chải, hội chùa Tiêu... quanh
miếu, quanh đền... những "mùa Xuân chơi hội thong dong", những"mùa Hè
tắm mát ở sông Lục Hà (Lục đầu)", và "trăm thứ hoa nó liền đua nở" v.v... Từ
biển mặn, đầm lầy, ô trũng, qua bao thế hệ nhọc nhằn, cần cù và sáng tạo mới
có một cảnh sắc quê hƣơng ấy.
Gắn liền với thiên nhiên, cảnh sắc ấy là những con ngƣời "nhƣ trúc mọc
ngoài trời", có vẻ đẹp tâm hồn toả lên từ đôi mắt "lấp lánh, nhấp nhánh" nhƣ
sao trời, có cái duyên trong nét cƣời "lúng liếng", trong vành nón ba tầm thao
tua "mùi (màu) bông dâu", biết làm cho "một nong tằm là ba nong kén... chín
nén tơ..." biết gắn bó đời mình với những "thửa ruộng năm sào... đôi tôi cấy,
đôi ngƣời gặt...", biết chăm sóc, nuôi dạy con cái với ƣớc mơ "đỗ liền ba khoa",
coi "đèn sách văn chƣơng" là một trong những chuẩn lớn của một tài trai, biết
trọng tình, trọng nghĩa, trọng ân, trọng mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời, biết
nhìn con ngƣời với mọi vẻ đẹp: "trăm hoa đẹp nhất hoá ngƣời"... Cảnh ấy,
ngƣời ấy lại gắn liền với những ngày tháng trẩy hội mùa Xuân, mùa Thu,
những canh hát thâu đêm "bổng trầm non nỉ..." ... đã tạo nên một quê hƣơng
Quan họ với một tình yêu quê hƣơng nồng đƣợm, thiết tha.
Trong hệ thống mấy trăm đoạn thơ, bài thơ... của lời ca Quan họ hàm
chứa nhiều khía cạnh tâm hồn, tình cảm của con ngƣời Quan họ, do đó, giá trị
nội dung tƣ tƣởng của lời ca Quan họ cũng vô cùng phóng phú nhƣ sự phong
phú của chính con ngƣời và đời sống tâm hồn, tình cảm của con ngƣời Quan
họ. Những sự khao khát yêu thƣơng và đƣợc yêu thƣơng trong tình bạn, tình
yêu nam nữ, tình ngƣời vẫn là nội dung cơ bản, xuyên suốt hệ thống lời ca.
Cùng với những tình cảm giữa ngƣời và ngƣời ấy, lời ca Quan họ tuy phác vẽ
một cách tự nhiên nhƣ không bao giờ chú ý, nhƣng lại gây một ấn tƣợng sâu

58
sắc về một quê hƣơng với cảnh, với ngƣời... mãi mãi chiếm lĩnh tình yêu của
con ngƣời. Chính những tình cảm chủ đạo ấy trƣớc hết đã góp phần hun đúc
nên tâm hồn, tình cảm, tài năng... của ngƣời Quan họ, và, cùng với sức sống
dài lâu nhiều khi kỳ diệu của tiếng hát Quan họ, những tình cảm chủ đạo trên
mãi mãi thấm sâu trong lòng ngƣời nghe Quan họ, góp phần tạo nên những
tâm hồn nhậy cảm, gắn bó với sự yêu thƣơng giữa con ngƣời với con ngƣời,
giữa con ngƣời cùng muôn vật, muôn loài. Về ứng xử với tự nhiên, trong lời
các bài ca cổ, luôn xuất hiện hình ảnh gắn liền với cuộc sống sinh hoạt, lao
động sản xuất với sự hiểu biết sâu sắc và thái độ trân trọng. Ngƣời Quan họ
luôn coi đó là ngƣời bạn tri âm, tri kỷ:
“Lên rừng xem ba mươi sáu thứ chim
Thứ chim chèo bẻo, thứ chim chích chòe …
….. Một nong tằm là ba nong kén
Một nong kén là chín nén tơ”
Thoạt đầu, ngƣời đọc cứ ngỡ đây là bài ca dao thuộc đồng bằng Bắc
Bộ. Song đọc kỹ toàn bộ lời bài ca, chúng ta thấy nội dung mang âm hƣởng
và đặc điểm của ngƣời Kinh Bắc. Toàn bộ bài ca, tác giả dân gian đã cho
ngƣời đọc thấy cuộc sống sinh hoạt và những hiểu biết của họ về tự nhiên,
những đối tƣợng trong cuộc sống hết sức gần gũi, gắn bó. Đầu tiên, bài ca nói
về ba mƣơi sáu thứ chim. Ngƣời đọc tƣởng bài ca sẽ nói đủ từng ấy loại,
nhƣng không, có lẽ đó chỉ là cái cớ để những câu tiếp theo chứa đựng nhận
thức của con ngƣời với những gì mà thiên nhiên bạn tặng.
Người giồng tre cho tôi biết thứ tre
Thứ tre chẻ lạt, thứ tre làm nhà
Cây tre, một loại cây tuyệt vời mà thiên nhiên đã ƣu ái cho con ngƣời,
đặc biệt là ngƣời dân cấy lúa. Tác dụng của nó thật hữu ích. Từ việc lấy nó
làm vật liệu sản xuất ra thúng mủng, nong nia, dần sàng, câu ca mô tả rất ngắn

59
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

nhƣng đầy đủ thông qua hai tiếng chẻ lạt. Những ai từng làm nông nghiệp sẽ
hiểu rõ hơn tác dụng của cây tre trong việc làm ra những vật dụng nhƣ thế
này. Cao hơn nữa, hữu ích hơn nữa, cây tre còn dùng để làm nhà. Nhƣ vậy,
ngƣời dân Kinh Bắc không những hiểu sự hữu ích và tận dụng nó nhƣ là món
quà thiên nhiên ban tặng mà còn thể hiện thái độ trân trọng, biết ơn. Do đó,
không chỉ ngƣời giồng (trồng) tre mới biết tác dụng của cây tre, mà bao đời
nay ngƣời dân Việt Nam đã coi cây tre nhƣ ngƣời bạn tri kỉ vì đã chở che, bảo
vệ họ trong hoà bình cũng nhƣ khi có giặc ngoại xâm. Câu ca ngắn, cô đọng
ấn tƣợng khiến ngƣời đọc liên tƣởng tới Đức Thánh Gióng nhổ tre ngà đuổi
giặc Ân, hay hình ảnh thơ Nguyễn Duy trong bài thơ Cây tre, sao mà gần gũi,
sao mà dễ thƣơng đến thế.
Bốn câu tiếp của bài ca mô tả hai món ăn quen thuộc trong bữa ăn của
ngƣời Việt: Cà và chanh. Đây là hai sản vật rất sẵn, thƣờng đƣợc trồng quanh
năm. Trong bữa cơm của ngƣời Quan họ, ngoài những món ngon dùng để đãi
khách mỗi khi có lễ hội thì quả cà, bát canh rau muống với lát chanh thƣờng
không thể thiếu. Ngƣời Kinh Bắc quan niệm, những thức ăn dân dã ngoài là
món ăn còn nhƣ là kỉ niệm, là hình ảnh của quê hƣơng. Trong ca dao cũng có
câu “Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tƣơng” Nhƣ
vậy món cà và chanh xuất hiện trong bài ca cổ Trên rừng ba mƣơi sáu thứ
chim này không hề là vô tình. Nó hiện hữu trong lời ca nhƣ nhắc nhở mọi
ngƣời về sự mộc mạc thân quen mà dù sau này ai đó có giàu sang phú quý thì
cũng chớ đừng phụ nghĩa cà thâm, dƣa khú.
Người giồng cà, cho tôi biết thứ cà
Thứ cà tia tía, thứ cà xanh xanh
Người giồng chanh cho tôi biết thứ chanh
Thứ chanh ăn quả, thứ chanh gội đầu

60
Vùng Quan họ nằm trên dải của sông Cầu, sông Đuống, sông Cà Lồ. Ở
hai bên bờ sông là những bãi đất màu mỡ thích hợp trồng các loại cây ngắn
ngày nhƣ tƣơng đỗ đậu lạc. Thứ đất bãi tốt này đặc biệt phù hợp với cây dâu,
nguồn thức ăn cho con tằm. Từ xa xƣa nhân dân Kinh Bắc đã có nghề chăn
tằm ƣơm tơ dệt vải, có lẽ cây dâu đã giúp con ngƣời rất nhiều lợi ích nên tác
giả dân gian Quan họ đã dành dung lƣợng của bài ca tới bốn câu:
Người trồng dâu cho tôi biết thứ dâu
Thứ dâu ăn quả, thứ dâu nuôi tằm
Một nong tằm là ba nong kén
Một nong kén là chín nén tơ
Chắc chắn rằng, không chỉ riêng vùng Kinh Bắc mới có nghề trồng dâu
chăn tằm, nhƣng hình ảnh và lợi ích của nghề này đƣợc khắc hoạ trong dân
gian thì còn khá khiêm tốn. Điều này cho thấy, đối với những sản vật xung
quanh, ngƣời Quan họ rất trân trọng. Chúng ta thấy họ đúc kết chỉ qua 2 câu
ca cuối mà tất cả lợi ích của công việc đem lại. Đây một mặt thấy đƣợc cái lợi
của nghề trông dâu, mặt khác họ cũng nhắn nhủ cho con cháu rằng thiên
nhiên là lộc trời cho, chỉ cần chăm chỉ làm lụng thì kết quả sẽ nhƣ ở trên.
Cái hay của bài ca cổ này, ngoài việc gieo vần điệu tựa ca dao, hình ảnh
thân thuộc gần gũi, dễ thuộc, dễ nhớ còn thú vị ở sự logic trong việc chuyển
đối tƣợng nói tới ngay trong cùng một câu ca. Nào là chim, nào là tre, nào là
cà, chanh rồi cuối cùng là dâu tằm. Đối tƣợng đƣợc nói đến trong bài ca tƣởng
nhƣ chẳng ăn nhập gì với nhau, ấy vậy mà xuyên suốt cả bài, ngƣời đọc cứ
cảm nhƣ chúng nằm trong một chỉnh thể có quy tắc, quy luật riêng.
Cùng phản ánh đối tƣợng nhƣ bài ca trên, trong 500 bài ca cổ, thì có tới
hơn 90 bài nói về cảnh vật, cây cối, hoa lá, đất đai, sông suối. Cái hay, chất
trữ tình chung đó là tác giả dân gian Quan họ đã rất khéo léo mƣợn đối tƣợng
thiên nhiên để tỏ bày tâm tƣ tình cảm của mình. Trong văn học trung đại, việc

61
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

lấy cảnh tả tình, lấy thơ tỏ chí là việc thƣờng thấy của các chí sĩ. Song đối
tƣợng đọc tác phẩm của họ cũng phải là những ngƣời có học thức. Điều rất
tuyệt vời ở tất cả những lời bài ca Quan họ cổ ấy là chất dân gian dễ hiểu, dễ
nhớ và phù hợp với mọi đối tƣợng ngƣời nghe.
Trong các bài “Lý Thiên Thai”, “Một trăm thứ hoa”, “Giăng thanh gió
mát”, “Cây trúc xinh”, “Nhác trông phong cảnh lạ thay”, “Có búp chuối non”,
...v.v đều có chung nhận định trên. Thiên nhiên luôn là bầu bạn, là ngƣời tri
âm tri kỉ. Thiên nhiên đƣợc phản ánh trên nhiều phƣơng diện, nhiều góc độ,
từ cây đa bến nƣớc sân đình đến sao sa trăng lặn. Khác với văn học viết, lời ca
dân ca Quan họ cổ thƣờng chọn thời điểm, nhân vật, đối tƣợng nói đến là
những gì gần gũi nhất, thân thiết nhất, dễ hiểu nhất, nhƣng cũng vô cùng ý nhị
kín đáo, sâu sa. Điển hình là bài “Lý Thiên Thai”, “Trèo lên cây bƣởi hái
hoa”, “Rủ nhau đi cấy xứ Đƣơng”, “Bóng quế giãi thềm” …:
“Xăm xăm bước xuống vườn chanh
Thấy hoa muốn hái sợ cành lắm gai
Trèo lên trên núi Thiên Thai
Thấy đôi chim loan phượng ăn xoài biển Đông
Một trăm thứ hoa
Trăm hoa nở cả tháng giêng
Còn một hoa cải nở riêng tháng mười
(Cụ Bánh làng Ngang Nội, thu thanh ngày 2.8.1974)

Trèo lên cây bưởi hái hoa


Người ta hái hết bốn tôi chiết cành
Chiết cành để cội cho cây
(Người ca: Cụ Xon và cụ Quế làng Hoài Thị, thu thanh ngày 25.9.1974)
Rủ nhau đi cấy xứ Đương

62
Lột nứa đan giần, vót nứa đan giần
Rủ nhau đi cấy xứ Đương
Cấy cho vưa Thuấn ở đồng Lịch Sơn
Đồng Lịch Sơn, đồng chua nước mặn
(Người ca: Cụ Bánh làng Viêm Xá, thu thanh ngày24.9.1973)
………………
Trông ánh giăng hoa tươi lạ lùng
Hóa ra lòng cợt giăng, hây hẩy gió đông
Thơm nực một vùng thơm xa”
……….
Trấn thủ lưu đồn
Giai xinh gái lịch, trấn thủ lưu đồn
Ngày thời canh điếm tối thời việc quan
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Miệng ăn kham khổ phàn nàn cùng ai
Măng tre, măng trúc, măng mai
Măng giang, măng nứa lấy ai bạn cùng
Nước trong xanh con cá vẫy vùng
(Người ca: Cụ Khảm làng Ngang Nội, thu thanh ngày 28.8.1974) [48].
Nhƣ vậy, rõ ràng ở đây chúng ta thấy, tình cảm của ngƣời Kinh Bắc đối
với tự nhiên thông qua lời ca dân ca Quan họ cổ là tình cảm thấm đƣợm tình
yêu, sự gắn bó sâu sắc giữa chủ thể sống với môi trƣờng xung quanh. Đó là sự
ứng xử rất riêng của ngƣời Quan họ, một tình yêu luôn gắn chặt với những sự
vật, sự việc và hiện tƣợng gần gũi trong đời sống.
Tình yêu ấy lại càng sâu sắc khi ngƣời Quan họ xây và giữ gìn quê
hƣơng mình không chỉ bằng mồ hôi, tâm sức và trí tuệ mà còn bằng máu,
nƣớc mắt, bằng những mất mát, hy sinh lớn lao trong suốt trƣờng kỳ lịch sử

63
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

giữ nƣớc và dựng nƣớc khi lịch sử và đất nƣớc đặt trọng trách cho quê hƣơng
này là "phên dậu phía Bắc của Thăng Long". Hơn thế nữa, văn hoá ứng xử
này của họ trong lời ca cổ rất phù hợp và trùng khớp với văn hoá ứng xử của
ngƣời Quan họ đƣơng đại với giới tự nhiên.
3.1.2. Ứng xử của người Quan họ trong gia đình
Tình cảm gia đình là một trong những vấn đề đƣợc nói nhiều nhất
không riêng ở lời ca cổ Quan họ mà còn trong ca dao, trong các tác phẩm của
văn học viết. Nhƣng có thể nói, với lời ca trong các bài dân ca Quan họ lời cổ
thì mảng đề tài này là vô cùng phong phú và sâu sắc. Nó hình thành từ thủa xa
xƣa và đƣợc nhân dân Kinh Bắc nuôi dƣỡng, đúc kết, phát triển thành một nét
văn hoá mang đậm vùng Quan họ. Đó là sự kết tinh qua thời gian, không gian
lịch sử và xã hội tạo thành nét văn hoá ứng xử mà ngƣời dân nơi đây thể hiện,
không chỉ đƣợc phản ánh qua lời ca cổ mà còn đồng nhất với tính cách, đạo
đức của con ngƣời. Trong khoảng 500 bài ca dân ca Quan họ lời cổ đƣợc
khảo sát thì vấn đề ứng xử của ngƣời Quan họ trong gia đình thì có tới 235
bài phản ánh trực tiếp và hàng trăm bài gián tiếp, chiếm non nửa số bài đƣợc
khảo sát. Nội dung tổng quát của hệ thống lời ca Quan họ về ứng xử gia đình
là sự mơ ƣớc, khát khao về hạnh phúc của cuộc sống; trong đó, ngƣời với
ngƣời sống trong thƣơng yêu, tình cảm vợ chồng, mẫu tử, cha con, tình yêu
nam nữ… là hạt nhân cơ bản của hạnh phúc. Sự mơ ƣớc, khát khao đó đƣợc
biểu hiện trong những lời ca khi chúc mừng, khi cầu xin... trong hát nghi lễ
(hát lễ thờ, hát mừng chạ, hát cầu đảo...), thiết tha, đằm thắm, say mê khi hát
về tình yêu nam nữ, về tình bạn trọn đời ... của Quan họ. Trong lời ca Quan
họ cần lƣu ý: ngƣời ta ít khi dùng chữ yêu mà hầu hết dùng chữ thƣơng; ít khi
xƣng hô, gọi nhau bằng những chữ “chàng, nàng, mình, ta, anh, em...” mà hay
dùng chữ “ngƣời”, ngay cả trong những bài bộc lộ sâu sắc những tình cảm
của tình yêu nam nữ.

64
Về chữ thƣơng và chữ yêu, trong khẩu ngữ dân gian xƣa cũng ít khi
dùng chữ yêu nói về tình yêu nam nữ. Cho đến đầu thế kỷ XX, khi đến nhà
gái dạm hỏi, bà mối hoặc ông mối cũng thƣờng nói: "Hai cháu đã thƣơng
nhau...", hoặc "Hai cụ đã thƣơng đến các cháu...", hoặc "Đã thƣơng thì thƣơng
cho chót...". Cha mẹ căn dặn đôi vợ chồng mới cƣới cũng thƣờng nói: "Các
con đã thƣơng nhau thì phải giữ cho đến đầu bạc răng long, mãn chiều, xế
bóng...", ít khi ngƣời ta dùng chữ yêu để chỉ tình yêu nam nữ. Về chữ Ngƣời
trong lời ca Quan họ: "Ngƣời ơi, Ngƣời ở đừng về", "Ngƣời về để nhện giăng
mùng" "... Ngƣời ra đứng mũi, tôi ra chịu sào...". "Kẻ Bắc, ngƣời
Nam..." khiến ta liên tƣởng đến chữ Ngƣời trong các câu thơ Truyện Kiều:
...Người đâu gặp gỡ làm chi...
...Người mà đến thế thì thôi...
Chữ "ngƣời" chứa đựng những tình cảm đậm đà, sâu sắc, tinh tế, trong
mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời của một thời, không hoàn toàn bao hàm
của chữ ngƣời dùng trong ngôn ngữ thơ ca hiện nay. Trong ngôn ngữ lời ca
cổ, các đại từ nhân xƣng số ít nhƣ “ta, tôi”, số nhiều nhƣ “chúng ta”, “chúng
tôi”, “đôi ba ngƣời” đƣợc sử dụng ở hầu hết các bài ca mà thƣờng do các liền
anh sử dụng khi hát đối đáp. Các liền chị thì ít dùng, thƣờng thì họ đáp lại
bằng “em”, “chúng em”. Cũng nhƣ từ “thƣơng”, từ “ngƣời”, các đại từ nhân
xƣng này một phần do đặc điểm xƣng hô của ngƣời Kinh Bắc, mặt khác nó
cũng chứa đựng một sự ý nhị kín đáo, tôn trọng nhau trong cách ứng xử giữa
ngƣời Quan họ cũng nhƣ giữa các làng Quan họ mỗi khi một trong các làng
có hội. Chúng ta có thể hình dung việc sử dụng đại từ xƣng hô qua một số bài
nhƣ “Chuông vàng gác cửa tam quan”, “Nguyệt gác mái đình”, “Dƣới giời
mấy kẻ biết ra”, “Nhƣ ruộng năm sào” vv… Đây chính là một trong những
nét đặc sắc văn hoá ứng xử của ngƣời Quan họ.

65
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Ảnh hƣởng của ca dao, ngôn ngữ lời ca Quan họ có những nét tƣơng
đồng với ca dao dân ca truyền thống. Bên cạnh đó, ngôn ngữ Quan họ có
những nét riêng, thể hiện tính độc đáo của lời ca Quan họ. Từ ngôn ngữ trong
ca dao và không chỉ dung ở mức độ mộc mạc giản dị nhƣ ca dao, qua quá
trình chắt lọc, gọt giũa, ngƣời nghệ sỹ nghệ nhân Quan họ đã tạo nên một thứ
ngôn ngữ hết sức chau chuốt trong lời ca. Vì thế, câu Quan họ vừa có sức gợi
cảm nhƣ ca dao, vừa lắng đọng sâu xa nhƣ những bài thơ trữ tình đặc sắc:
Bây giờ chia rẽ đôi nơi
Kẻ về người ở như khơi mạch sầu
Ruột tằm chín khúc quặn đau
Lòng này có tỏ cho nhau hỡi lòng
Ca dao và dân ca khác tỏ tình một cách bộc trực, dân dã:
Cô kia đi đường này với ta
Trồng ngô, ngô tốt trồng cà cà sai
Cô kia đi đường ấy với ai
Trồng bông bông héo trồng khoai khoai hà
Đôi khi suồng sã:
Gặp em anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không?
Còn trong Quan họ, nhiều bài vẫn là lời tỏ tình nhƣng rất ý tứ, tế nhị:
- Thuyền thúng là thuyền thúng ơi
Có về Quan họ cho tôi cùng về
- Trông mong đã mấy thu chầy
Duyên giời đưa lại hôm nay gặp người [48].
Ngôn ngữ lời ca Quan họ một mặt mang chất mộc mạc của ca dao, mặt
khác lại khá bóng bẩy, văn hoa do đƣợc dày công gọt giũa và đặc biệt, do ảnh
hƣởng từ văn học viết vào Quan họ. Khi những tác phẩm thành văn, nhất là

66
truyện thơ Nôm ảnh hƣởng không nhỏ tới Quan họ, làm cho ngôn ngữ của
dân ca này trở nên trau chuốt hơn. Câu thơ đƣợc gọt giũa, gia công một cách
kỹ thuật hơn, có bài Quan họ chú ý chải chuốt từng câu, từng chữ một cách
cầu kỳ, lời ca nghe phảng phất nhƣ kiểu thơ mới:
Đàn tri âm canh khuya, nghe nẻo xa, trên lầu hoa
Du dương tiếng hát đàn cùng ca, dịp dịu dàng thiết tha
Nghe đàn ca như chim oanh hót
Tiếng tơ tiếng trúc, lời nguyệt thoa, động lòng vàng thiết tha
Nội dung ca dao dân ca khác thƣờng đƣợc diễn tả bằng một ngôn ngữ
dễ hiểu với lối so sánh, ẩn dụ, liên tƣởng vừa cụ thể vừa gần gũi bằng những
hình ảnh quen thuộc với cuộc sống đời thƣờng. Tình yêu đôi lứa trong ca dao
hay đƣợc ví nhƣ “lửa mới nhen”, nhƣ “đèn mời khêu”, nhƣ “lúa đòng đòng”,
dải lụa đào” v.v… Cô gái trong ca dao cũng thƣờng đƣợc ví với những mơ,
mận, đào, tấm lụa, giọt mƣa. Trong Quan họ, những chàng trai cô gái lại đƣợc
ví với những “cánh phƣợng song loan”, “cành quế, gỗ xoan đào, đôi câu đối
v.v…. Trong lời ca thƣờng có nhiều tính từ, trạng ngữ chỉ trạng thái, những
sắc thái cảm xúc khác nhau, những tâm trạng, tình cảm đa dạng nhƣ “âm
thầm, xót xa, thiết tha, bùi ngùi, bát ngát, vẩn vơ, bồi hồi, xa xôi v.v…” trong
hàng loạt kiểu câu:
- Từ khi đá biết tuổi vàng
Lòng càng thắm thiết dạ càng ngẩn ngơ
- Chăn đơn gối chiếc lạnh lung
Nửa thì tôi đắp nửa phòng tình nhân
- Nhớ lời hẹn ước ba sinh
Xa xôi ai có thấu tình này chăng?
- Hôm qua em bận việc nhà
Lòng em bối rối như là Quan họ mong … (48)

67
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Đọc lời ca Quan họ, chúng ta tƣởng nhƣ đang tiếp xúc với nguồn ngôn
ngữ thơ ca của truyện Nôm lúc bấy giờ. Ngôn ngữ bác học xâm nhập vào lời
ca Quan họ, tạo nên sự đa dạng nhƣng cũng phức tạp hơn trong cách biểu
hiện nội dung. Quan họ dùng nhiều điển tích, điển cố, ngôn ngữ văn chƣơng
bác học vào việc sáng tạo lời ca. Ở những mức độ khác nhau, Quan họ vận
dụng những tác phẩm văn học thành văn có khác nhau. Có bài Quan họ tiếp
thu nguyên vẹn từ tác phẩm thành văn nhƣ lời ca bài Quan họ “Sầu đong càng
lắc càng đầy” lấy nguyên từ một đoạn trong “Truyện Kiều” mà không cần sửa
đổi:
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dộng lại một ngày dài ghê
Mây tần khóa kín song the
Bụi hồng lạc nẻo đi về chime bao
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao
Mặt tơ tưởng mặt lòng ngao ngán lòng
Buồng văn lạnh giá hơi đồng
Trúc xe ngọn thỏ tơ trùng phím loan
Hay các câu trong bài “Lâm tri chút ngãi đèo bòng” cũng đƣợc lấy ở
những đoạn khác nhau trong “Truyện Kiều”:
- Lâm tri chút ngãi đèo bòng
Hỏi người còn nhớ hay lòng đã quên
- Chữ chung tình gánh nặng đôi bên
Dưới dòng nước chảy đôi bên có cầu
- Những là đắp nhớ đổi sầu
Tuyết sương nhuộm nửa mái đầu hoa râm…
Lại có những bài Quan họ sửa đổi đôi câu ít chữ trong tác phẩm thành
văn để phù hợp với hoàn cảnh của mình nhƣ trong Kiều có câu:

68
Lầu thâu gió mát trăng thanh
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi
Khi về hỏi liễu chương đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay…
Sang Quan họ, sửa lại là:
Đêm qua gió mát trăng thanh
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi
Ai về nhắn liễu chương đài
Cành xuân đã bẻ cho người tình chung…
Hoặc trong Kiều có câu:
Hàn gia ở mé Tây thiên
Dười dòng nước chảy bên trên có cầu
Mấy lòng hạ cố đến nhau
Trong Quan họ lại là:
Có lòng hạ cố đến nhau
Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã nhiều … [48].
Cũng có khi Quan họ chỉ mƣợn tích truyện, mƣợn điển cố để sáng tác
hoặc bài Quan họ chỉ mang hơi hƣớng của tác phẩm thành văn (do ảnh hƣởng
của lối viết): Bài Quan họ “Ngại ngùng một bƣớc một xa” mƣợn tích Hạnh
Nguyên cống Hồ trong truyện “Nhị độ mai”; Bài “Phú Trƣơng Chi” mƣợn
truyện “Trƣơng Chi”- câu chuyện dân gian đã đi vào nhiều tác phẩm thành
văn với những hình tƣợng đẹp; bài “ Gió lọt song đào” mƣợn tích Bà Nha gảy
đàn cho Tử Kỳ; bài “Đỉnh núi non thần” mƣợn điển tích “Đỉnh giáp non
thần”v.v…. Những điển cố “Cầu Ô Thƣớc”, “sông Ngân”, “ngựa Hồ”, “chim
Việt”, “Châu Trần”, “Liễu Chƣơng Đài”…; những “trƣớng huỳnh”, “chèo
quế”, “trúc mai”, “nguyệt lão”, “tri âm”, “đá vàng”, “bong chim tăm cá”,
“phong vân”, “phong trần”, “bui hồng hồ điệp”, giấn hòe, cát đằng… chiếm

69
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

không ít trong lời ca Quan họ. Theo thống kê của nhà nghiên cứu Đặng Văn
Lung, trong 500 bài, Quan họ vận dụng thơ “Lục Vân Tiên” hai lần, “Nhị Độ
Mai” vài lần, “Nữ tú tài” năm lần. Riêng “Truyện Kiều”: 55 lần.
Nhƣ vậy chúng ta thấy một điều đó là tại sao ngƣời Quan họ với bề
dày truyền thống văn hoá mang bản sắc bản địa lại dễ dàng để những yếu tố
này xâm nhập vào trong lời ca nhƣ vậy? Để lý giải điều này, một mặt chúng
ta xem xét trên phƣơng diện rộng đó là sự ảnh hƣởng rất lớn của văn hoá
Trung Quốc trong suốt ngàn năm Bắc thuộc. Thời trung đại gắn liền với lễ
nghĩa gia phong, với quy tắc ứng xử nghiêm nghặt của đạo Nho. Mặt khác,
xét góc độ hẹp, mảnh đất Kinh Bắc chính là cái nôi sinh ra rất nhiều hiền tài,
những tri thức này đóng góp không nhỏ vào việc sáng tác chỉnh sửa cho lời
ca. Chính vì vậy đã xuất hiện sự giao thoa hai yếu tố dân gian và bác học. Sự
ứng xử này, xét cho cùng cũng là điều thƣờng tình. Tuy nhiên, với ngƣời
Quan họ, khi họ đƣa văn học bác học vào lời ca thì nghiễm nhiên nó đã bị
Quan họ hoá. “Truyện Kiều” đã đƣợc Quan họ dành cho sự quan tâm đáng kể,
bởi Quan họ tìm thấy ở Kiều sự đồng cảm sâu xa. Quan họ tiếp thu Kiều, đem
Kiều ra thử thách với cuộc sống hàng ngày, đƣa thơ Kiều ra cọ sát với từng
tâm trạng cụ thể, từng thời gian cụ thể, từng con ngƣời cụ thể. Phần lớn dân
ca đối đáp nhƣ Ví Hải Hƣng. Ví Hà Tây, vì Nghệ Tĩnh … sử dụng Kiều chủ
yếu để thi tài đó và đáp:
Truyện Kiều anh đã đọc thông
Trăm năm tạc một chữ đồng với ai?
Vận Kiều, bao giờ Quan họ cũng nhằm vào nội dung và nghệ thuật,
thƣờng là sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh. Quan họ dùng những câu Kiều hợp
lòng mình. Học cách sử dụng ngôn ngữ trau chuốt từng từ để thể hiện tâm
trạng mình. Quan họ cũng không ngại sử dụng những điển cố trong Kiều nhƣ
Chƣơng Đài, Tấn Tần; những ẩn dụ tƣợng trƣng nhƣ “đá vàng”, “mây mƣa”,

70
“tuyết sƣơng”, “nguyệt hoa”; những khuôn mẫu: “đá biết tuổi vàng”, “nhện
vƣơng tơ lòng”, “tháo cũi sổ lồng”... Nhiều khi, ngôn ngữ Kiều và ngôn ngữ
Quan họ rất gần nhau, xen lẫn nhau giƣa câu vận Kiều và câu sáng tác:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
Người về chốn cũ phòng hương
Tôi ngồi tôi nghĩ gan trường quặn đau
Tơ hồng ghét bỏ chi nhau
Chửa vui sum họp đã sầu đôi nơi
Lối văn hoa bóng bảy chải chuốt ở thơ Kiều đã trở nên khá nhuần
nhuyễn trong một số bài Quan họ:
Tôi tiếc thay người sắc nước hương trời
Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa
Hoặc:
… Một lời lan huệ đá vàng thủy chung…
Và chính lối nói ấy mang đến cho lời Quan họ vẻ tế nhị ngọt ngào:
Tiện đây hỏi một đôi điều
Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng
Quan họ tiếp thu Kiều có chọn lọc. Từ nguyên văn một câu thơ nói về
sự chia tay giữa Kiều và Thúc Sinh:
Người vào chung gối loan phòng
Nàng ra tựa bong đèn chong canh dài
Quan họ đã sửa đổi ít nhiều để phù hợp với sinh hoạt Quan họ, đồng
thời khắc sâu tâm trạng nhớ nhung trong tình yêu:
Tôi về người nhớ tôi chăng
Tôi về tựa bong đèn chong canh chầy

71
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Khi đã đƣợc nghe trọn vẹn nhiều canh hát Quan họ với hàng trăm bài
ca nối tiếp nhau từ đầu đến cuối, đối đáp nam nữ, tiếng bổng, tiếng trầm,
thanh trong, thanh đục... rồi suy ngẫm trƣớc hệ thống lời ca Quan họ, nhiều
ngƣời cảm thấy ngay từ canh hát đầu tiên, sau đó ngày càng lắng đọng, ghi
sâu trong tiềm thức, trong xúc cảm của ta về sự khao khát yêu thƣơng và đƣợc
yêu thƣơng giữa con ngƣời với con ngƣời.
Mở đầu canh hát ngƣời Quan họ đã biểu lộ ngay nỗi vui mừng vừa trân
trọng, vừa thân thiết trƣớc cảnh "sum họp trúc mai", "tứ hải giao tình", "bốn
bể giao hoà...", với ý nghĩa "tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm", "càng
sâu nghĩa bể càng dài tình sông"...
Một canh hát Quan họ, trƣớc hết, là sự sum vầy bàu bạn trong tình sâu,
nghĩa nặng, là sự thực hiện một khát khao gặp mặt, giao hoà, sau nhiều ngày
đêm khắc khoải, chờ mong tơ tƣởng:
...Ngày thì luống những âm thầm
Ðêm nằm ít cũng tám, chín, mười lần chiêm bao... (Giọng La rằng)
Thế rồi canh hát cứ tiếp diễn, tiến triển cùng với sự thôi thúc, đan xen
của hai tình cảm mãnh liệt nhất của tuổi trẻ là tình yêu nam nữ và tình bạn,
tình nghĩa kết giao. Ngƣời ta hát với nhau về ân sâu, nghĩa nặng, vì chỉ có ân
sâu, nghĩa nặng, chỉ có tình gắn liền với nghĩa, với ân thì thƣơng yêu kia mới
thật, mới sâu, mới bền, mới chung thuỷ:
... Nghĩa người tôi bắc lên cân
Tạc lên bia đá, để bên dạ vàng...
... Ðem vàng mà bắc lên cân
Bên vàng nặng chín, bên ân nặng mười
Canh hát càng về khuya thì tiếng hát Quan họ càng bổng, trầm, non nỉ,
tình ngƣời Quan họ càng nồng đƣợm, thiết tha.
...Dây nào xe bốn chúng tôi
Se chín lần kép, se mười lần đơn...

72
Có những bài hát cứ láy đi láy lại 3, 4, lần bằng một âm hƣởng xoáy
sâu vào lòng ngƣời:
...Nay tôi tưởng đến người, mai tôi nhớ đến đôi ba người tình duyên...
... ơ này anh Hai ơi! ơ này anh Ba ơi! Cái chút tình sâu, trăm em xin đợi,
nghìn em xin chờ, chờ từ đây...
... Sông sâu nước chảy đá mòn
Tình thâm mong trả, nghĩa còn đấy đây
Mong cho sum họp những ngày... [48].
Ngƣời Quan họ ứng xử bằng một tấm lòng, trân trọng lẫn nhau, trân
trọng con ngƣời, nền tảng của tình yêu, tình bạn, nên họ phát hiện tinh tế
những vẻ đẹp tâm hồn và hình thể của nhau. Sự phát hiện ấy lại đƣợc hát lên
cho nhau, vì nhau, nên tiếng hát kia càng thấm sâu vào xúc cảm ngƣời hát,
ngƣời nghe:
... Trúc xinh, trúc mọc đầu đình
Anh Hai xinh, anh Hai đứng một mình cũng xinh
Trúc xinh, trúc mọc bờ ao
Anh Ba xinh, anh Ba đứng nơi nào cũng xinh
Trúc xinh, trúc mọc đầu chùa
Không yêu em lấy đạo bùa cho phải yêu
Cây trúc, trong văn chƣơng bác học cũng thƣờng gặp, thƣờng là biểu
tƣợng cho một nhân cách đã đến đỉnh, một bản lĩnh sinh sôi, nảy nở vừa mềm
mại, uốn lƣợn từ trong kẽ đá nhô ra, vừa cứng rắn thách thức cùng bão giông,
mƣa, tuyết... Anh Hai, anh Ba, anh Tƣ, chị Hai, chị Ba, chị Tƣ... cũng mang
vẻ đẹp vẹn toàn ấy, hơn cả vẻ đẹp vẹn toàn ấy, nên "đứng một mình", "đứng
nơi nào" cũng xinh. Cho nên "không yêu em (tôi) lấy đạo bùa cho phải yêu".
Câu kết bài ca bộc lộ rõ ràng cũng một bản lĩnh xứng đôi với bản lĩnh, cốt
cách của trúc và với một tình cảm mãnh liệt về sự thƣơng yêu và đƣợc yêu.

73
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Canh hát càng về khuya, càng nhiều những bài hát nhƣ vậy đƣợc hát với tình
cảm "nhƣ tỉnh nhƣ mê", "nhƣ là chiêm bao"..
Ngƣời Quan họ ƣớc mơ sự hoà hợp, gắn bó sắt son, chung thuỷ. Nâng
chén rƣợu xuân mời bạn khi gần tàn canh hát, trƣớc lúc chia tay, ngƣời Quan
họ hát:
... Tay nâng đĩa muối đĩa gừng
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau
Một sự thuỷ chung kể cả vàng cũng không đổi được:
... Dù ai cho bạc, cho vàng
Chẳng bằng trông thấy mặt chàng hôm nay
Dù ai trao nhẫn lồng tay,
Chẳng bằng trông thấy mặt ngay bây giờ
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Nghĩa người đi gió về mưa xót thầm
Rõ ràng đôi chữ đồng tâm
Khi đã tàn canh hát, theo phong tục Quan họ, không thể không chia tay
trƣớc khi trời sáng hoặc khi mặt trời đã xế về tây (trong hát ngày hội), ngƣời
Quan họ hát với nhau những bài hát giã bạn với tất cả nỗi niềm quyến luyến,
nuối tiếc sự "sum họp trúc mai", "loan phương sánh bầy", "rồng được gặp
mây" mà "trăm năm mới có một ngày":
...Người về em vẫn khóc thầm
Ðôi bên vạt áo ướt đầm như mưa
Người ơi! Người ở đừng về!...
"Người ơi! Người ở đừng về" ngày nay đã trở thành lời níu kéo nặng
tình, nặng nghĩa... trong bao cuộc chia tay từ Nam chí Bắc của đất nƣớc và ở
cả nƣớc ngoài, có lẽ vì trong tiếng hát níu giữ kia của Quan họ đã ẩn tàng một

74
tấm lòng, những nỗi niềm của Quan họ đối với bạn trong cả chiều dài lịch sử
đi tìm bạn tri âm, tri kỷ.
Ðã có niềm vui họp mặt thì cũng có nỗi buồn chia xa. Buồn đến "ruột
héo, dạ sầu" nhƣng Quan họ vẫn hy vọng, hẹn hò để hy vọng:
... Khăn áo người gửi lại đây
Nhớ thương xếp để dạ dày này bao quên
Quan họ về, đến hẹn lại lên!
Âm vang "đến hẹn lại lên" đã là âm vang ám ảnh, ẩn quất, dứt, nối...
bao thế hệ Quan họ nhƣ một lời nguyện ƣớc, một hy vọng về hạnh phúc, một
sự trông đợi khôn nguôi. Có lẽ vì vậy, bốn chữ "đến hẹn lại lên", đƣợc hát lên
khi về kết của một bài giã bạn "Con nhện giăng mùng" , cũng trở nên lời hẹn
ƣớc của bao cuộc chia tay hôm nay ở nhiều miền đất nƣớc. Cũng chỉ bằng
bốn chữ ấy thôi, con ngƣời hôm nay đã nói đƣợc bao điều muốn nói và nói
đƣợc cả những điều chẳng thể nói ra, trong giây phút tạm biệt. Tạo nên cầu
nối này của quá khứ và hiện tại là hiệu quả thẩm mỹ đã trở thành bất tử của
sinh hoạt văn hoá Quan họ, của ca hát Quan họ, nhƣng trong đó, những điểm
đỉnh của những thành tựu nghệ thuật cứ óng ánh, lấp lánh bao đời nhƣ thế
buộc ta phải tìm hiểu, khám phá, học tập không ngừng.
Tóm lại, sự khao khát yêu thƣơng và đƣợc yêu thƣơng giữa ngƣời với
ngƣời, đƣợc biểu hiện ở nhiều sắc thái tình cảm của tình bạn, tình yêu nam
nữ... cùng với những đỉnh điểm nghệ thuật của thơ ca, âm nhạc Quan họ, đã
trở thành nội dung tình cảm, tƣ tƣởng chủ đạo trong hệ thống lời ca Quan họ
cổ, và trong lời ca cổ đó, văn hoá ứng xử của ngƣời Quan họ đã đƣợc hình
thành và in đậm, xuyên suốt, góp phần tạo nên những giá trị của Quan họ
cũng nhƣ tạo mối tƣơng quan giữa lời ca cổ và con ngƣời Quan họ ngày nay.
Đó là mối quan hệ thống nhất, logic và hầu nhƣ rất ít thay đổi.

75
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

3.1.3. Ứng xử của người Quan họ ngoài xã hội


Mối quan hệ ngoài xã hội thể hiện trong lời ca cổ tƣơng đối phong phú
đa dạng. Từ gần nhất là cây đa bến nƣớc sân đình đến xa hơn, rộng hơn là non
nƣớc, là quan hệ con ngƣời với cộng đồng, cá nhân với xã hội, nghĩa vua tôi.
Tất cả dƣờng nhƣ tạo thành nét riêng của vùng đất Kinh Bắc. Điều đặc biệt là,
khi tìm hiểu mối quan hệ ứng xử của ngƣời Quan họ thể hiện trong lời ca dân
ca Quan họ cổ này, chúng tôi thấy rất trùng hợp với những đặc điểm mà con
ngƣời Quan họ xa xƣa và đƣơng đại đã và đang lƣu giữ. Điều này cho thấy sự
thống nhất cao giữa nội dung có trong văn bản dân ca Quan họ cổ với hiện
thực đời sống. Điều này rất thuận tiện khi chúng ta đi tìm hiểu đặc tính của
con ngƣời Quan họ ở nhiều phƣơng diện, trong đó có văn hoá ứng xử.
Cũng nhƣ hai nội dung đã trình bày ở trên, đối với văn hoá ứng xử của
ngƣời Quan họ thể hiện qua lời ca dân ca Quan họ cổ, mảng ửng xử với ngoài
xã hội thì, nguồn liệu trƣớc hết để xây dựng và sáng tạo ngôn ngữ lời ca Quan
họ là thơ ca dân gian, đặc biệt là ca dao. Ngƣời nghệ sỹ Quan họ đã giành
nhiều thời gian và tâm sức cho việc tích lũy vốn thơ ca dân gian của dân tộc,
vốn ngôn ngữ dân tộc. Trong quá trình sáng tạo ngôn ngữ lời ca, nghệ nhân
Quan họ đã vận dụng và phát huy những khả năng sẵn có của ngôn ngữ ca
dao địa phƣơng, chắt lọc những gì tinh túy nhất để đƣa vào bài Quan họ. Từ
những câu ca dao mộc mạc, trong sáng , giản dị:
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
đến những câu gan ruột bộc bạch nỗi lòng ngƣời đang yêu:
Ngày ngày ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
Trông người người vẫn ngẩn ngơ…
Đó là tình yêu không kết trái, ngƣời Quan họ đã mƣợn lời ca dao để nói
lên tâm trạng của mình bởi các cảm, cách nghĩ của ngƣời Quan họ, xét cho
cùng, cũng là cách cảm cách nghĩ của con ngƣời nói chung.

76
Nhiều bài Quan họ đã đạt đến trình độ cao trong việc sử dụng ngôn ngữ
nghệ thuật từ ca dao. Chính ngôn ngữ ấy đã tạo ra hơi thơ liền mạch có sức
bộc bạch nội tâm con ngƣời trong buổi chia tay giã bạn:
Người về ra ngẩn vào ngơ
Đêm năm canh em vẫn đợi chờ sầu âu
Người về cởi áo cho nhau
Người về cởi áo gối đầu lấy hơi
Người về đằng ấy xa xôi
Xin người ở lại với tôi bên này
Cái hay cái đẹp của câu thơ một phần nhờ sử dụng những biện pháp tu từ
một cách linh hoạt, tài tình nhằm làm tăng sức thể hiện đa dạng của ngôn ngữ.
Quan họ sử dụng nhiều phƣơng pháp nhân hóa, ẩn dụ. Lối ví von so sánh nhƣ ở
ca dao trở nên khá phổ biến trong lời ca quan họ. Trong một số bài ca Quan họ
có kiểu lặp từ và lặp kết cấu nhƣ “Duyên tìm tôi, đôi tôi lại tìm duyên. Hai
chúng ta đƣơng đi tìm nhau” hay “ Nay tôi tƣởng đến ngƣời, mai tôi nhớ đôi ba
ngƣời tình duyên”; “ Lòng tôi không trăng gió, tôi không phải là ngƣời gió
trăng” v.v…. Nhà nghiên cứu văn học dân gian Đặng Văn Lung cho rằng
những câu lặp nhƣ thế có bóng dáng cổ, chứng tỏ Quan họ là một hiện tƣợng
cổ. Chúng tôi nghĩ, muốn lần tìm hiện tƣợng cổ của Quan họ, phải xét trên
nhiều mặt, còn những kiểu lặp từ và lặp kết cấu từ nhƣ trên, trƣớc hết là một
thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo nên sự chặt chẽ thống nhất trong kết cấu bài ca.
Nhƣ đã nói ở trên, ngƣời Quan họ vốn phóng khoáng, lịch sự, ƣa giao
du giao thiệp. Tính cách ấy khiến cho nghệ nhân Quan họ càng ngày càng
phát triển tài năng và bút pháp của mình. Nghệ nhân Quan họ đi nhiều. Tri
thức dân gian từ nhiều ngả dội vào và ngƣng đọng trong con ngƣời Quan họ.
Quan họ du nhập vào trong kho tàng dân ca địa phƣơng mình nhiều phong
cách mới, nhiều màu sắc mới của những địa phƣơng khác nhau, làm vốn bài
ca ngày càng phong phú đa dạng.

77
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Trong lời ca Quan họ không chỉ có ngôn ngữ mang tính địa phƣơng với
một số loại từ cổ nhƣ “bấy chày”, “vui tày” hoặc ngôn ngữ giữ chất cổ mà
ngày nay ít dùng nhƣ “giăng, giời, nhời, bối tơ …” mà còn có ngôn ngữ du
nhập tƣ ngoài vào nhƣ “ mần răng, chi mô”… . Một số từ lúc đầu có nghĩa,
qua thời gian dài di chuyển, biến đổi, đã chuyển dần từ chỗ có nghĩa đến chỗ
mất nghĩa: “Tôi lý cây đa” thành “Tôi lới cây đa”, sang đến bài “Cây trúc
xinh”, chuyển là “Cây trúc mọc qua lới nọ…” hay những tiếng “mần răng bán
bán” trong “Lý con sáo” sau này chỉ còn là “bán ban”, “giăng giằng giăng”.
Trong quá trình phát triển, ngôn ngữ lời ca có những biến đổi nhất định, nhƣ
câu Quan họ “Em là con gái Bắc Ninh” có thể biến thành “Em là con gái Tiên
Sơn” hoặc “Vui tày đám hội đốt cây nhang trầm” đƣợc đổi là “Vui bằng đám
hội đốt cây nhang trầm”. ở đây, từ cổ “tày” đã đƣợc thay thế là “băng”. Ảnh
hƣởng của quan hệ giao lƣu với ca dao, ngôn ngữ lời ca Quan họ có những
nét tƣơng đồng với ca dao dân ca truyền thống. bên cạnh đó, ngôn ngữ Quan
họ có những nét riêng, thể hiện tính độc đáo của lời ca Quan họ.
Nói tới giao tiếp Quan họ là nói tới một mảng giá trị trong lối sống, là văn
hoá giao tiếp một thời. Quan họ kết bạn thể hiện một cách ứng xử đẹp. Vẻ đẹp
đó đƣợc thể hiện từ phong độ lịch sự trang nhã bên ngoài cho đến ngôn ngữ, cử
chỉ khi đứng, khi ngồi, khi mời chào … đều biểu thị sự tôn trọng quý mến.
“Mấy khi khách đến chơi nhà
Đốt than quạt nước chuyên trà khách xơi
Trà này ngon lắm người ơi
Mỗi người mỗi chén, bõ công tôi chuyên trà”.
Khách đến Quan họ mời nƣớc mời trầu. Dân gian có câu “miếng trầu là
đầu câu chuyện”, nhƣng ngƣời Quan họ mời trầu vẫn có dáng vẻ quyến rũ,
đắm say riêng- “Yêu nhau cau sáu bổ ba. Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mƣời”.
Trầu phải têm cánh phƣợng (cách têm của cô Tấm) và ngƣời ta mời trầu bằng

78
giọng ca đẹp, lời ca hay, khiến ngƣời về phải “Để áo lại đây/ nhớ thƣơng em
xếp dạ này bao quên/ Ngƣời về đến hẹn lại lên”. Tất cả những cuộc hát nhƣ
vậy vây toả ra khắp đó đây trong hội, làm nên niềm vui và vẻ đẹp đặc trƣng
của lễ hội vùng Kinh Bắc.
Ngôn ngữ thể hiện trong lời ca dân ca Quan họ cổ là ngôn ngữ giàu
chất thi vị, chắt lọc từ ca dao tục ngữ, từ truyện Nôm, giàu tính hình tƣợng,
giàu biểu cảm. Ngôn ngữ ấy cũng hấp thụ cả tinh hoa của những thơ ca bác
học… để rồi tạo nên sắc thái riêng, góp phần tạo nên những giá trị riêng của
bài ca Quan họ. Ngôn ngữ trau chuốt của thể thơ bốn chữ hoặc lục bát, cùng
với nghệ thuật sử dụng vần, điệu công phu, những hình ảnh nên thơ, nên nhạc
đã làm lời ca Quan họ đạt đến độ hoàn mĩ.
Nhƣng chính sự mộc mạc của ngôn từ, qua cách đối đáp (phải không
ngừng thay đổi nhịp) lại tạo thành một sức mạnh riêng làm xao xuyến lòng
ngƣời và đọng mãi dƣ âm của bài ca. Hình ảnh trau chuốt là cái đẹp đƣợc lí
tƣởng hóa còn ngôn từ mộc mạc sự mộc mạc tiếng nói đích thực của trái tim.
Tiếng hát Quan họ có vai trò tích cực trong cuộc sống. Trƣớc hết nội dung lời
ca Quan họ là mơ ƣớc khát khao về hạnh phúc tình yêu. Trái ngƣợc hẳn với
quan niệm hôn nhân khắt khe của lễ giáo phong kiến trong ca từ quan họ, tình
yêu của trai thanh gái lịch thật khỏe khoắn đắm say. Họ đến với nhau bằng
tấm lòng trân trọng, nhƣng giàu hồn nhiên. Lời hát thắm thía, nồng nàn:
Xuống sông bơi trải Cái giòn cái giã
Lên bãi trồng na Để cả cho tôi
Ba bốn chúng ta Nơi đứng nơi ngồi
Như con chỉ rối Càng trông càng vắng
Mặt trời đã tối Cổ tay người trắng
Đám hội đã tan Như nõn chuối tàu
Cái phận hồng nhan Con mắt bồ câu

79
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Người đem về cả Lông mày lá liễu


(Ngƣời ca: Cụ Quyển làng Lũng Giang, thu thanh ngày 16.7.1973) [48].
Câu kết này của bài ca bộc lộ rõ ràng một bản lĩnh xứng đôi, đó là bản
lĩnh Quan họ khi yêu. Ngƣời Quan họ càng mơ ƣớc hoà hợp, gắn bó, thuỷ
chung bao nhiêu thì lời hát giã bạn càng quyến luyến, nuối tiếc, níu kéo lòng
ngƣời lại bấy nhiêu. Chính tiếng nói thiết tha, đầy trao gửi xe kết trong hệ
thống lời ca đã tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt cho các làn điệu dân ca Quan họ.
Gắn với xã hội ấy là những con ngƣời có vẻ đẹp tâm hồn toả ra từ đôi
mắt “lúng liếng”, cái duyên trong nụ cƣời “lúm đồng tiền”, trong vành “nón
ba tầm thao tua”, biết làm “một nong tằm thành năm nong kén”, biết gắn đời
mình với những thửa ruộng “năm sào” với những canh hát thâu đêm “bổng
trầm, năn nỉ …”, cảnh và ngƣời ấy đã tạo nên một quê hƣơng Quan họ và một
tình yêu quê hƣơng nồng thắm thiết tha. Sẽ là vô cùng xót xa đau đớn cho
ngƣời Quan họ nếu phải chứng kiến sự phôi pha các giá trị Văn hóa, tinh thần
mà nhiều thế hệ dày công tạo dựng.
Chính những tình cảm ấy đã góp phần hun đúc nên tâm hồn, tài năng
của ngƣời Quan họ. Những làn điệu dân ca kì diệu tồn tại bền lâu từ bao đời
nay, tắm đẫm thiên nhiên đất trời Kinh Bắc. Di sản văn hóa tinh thần ấy đã
phả hơi thở nồng nàn vào trái tim con ngƣời bằng bầu không khí thơ mộng và
quyến rũ, chúng nhƣ chất phù sa màu mỡ lắng đọng vào hồn thơ Hoàng Cầm
để làm nên một hồn thơ Kinh Bắc - mềm mại, đa tình, tinh tế, trong trẻo mà
đậm đà tình ngƣời, lấp lánh tài hoa.
3.2. Phƣơng thức thể hiện lối ứng xử của ngƣời Quan họ qua lời ca
Xét toàn bộ 500 bài ca dân ca Quan họ cổ từ nhiều phƣơng diện khác
nhau, chúng tôi nhận thấy một sự phong phú đa dạng trong phƣơng thức thể
hiện lối ứng xử của ngƣời Quan họ. Từ nét văn hoá vùng miền sâu đậm đến

80
phong cách con ngƣời Kinh Bắc vừa mộc mạc chân chất vừa ý nhị kín đáo, tất
cả tạo thành một bản sắc văn hoá mà không nơi nào có đƣợc.
3.2.1. Thể thơ, vần nhịp
Một trong những đặc điểm của thể thơ lục bát là luật bằng trắc thể hiện
luật phối thanh của thể thơ này.
Người về (B) em vẫn (T) khóc thầm (B)
Ðôi bên (B) vạt áo (T) ướt đầm (B) như mưa (B)
Nhƣ vậy, nếu theo lệ phổ biến nhƣ trên thì các thanh ở câu sáu chữ cũng
nhƣ ở câu tám chữ nếu đứng vào hàng chẵn nhƣ chữ thứ 2, 4, 6 phải tuân theo luật
bằng trắc nhƣ ví dụ kể trên, còn những chữ đứng vào hàng lẻ nhƣ chữ thứ 1, thứ 3,
thứ 5, thứ 7 không buộc phải theo luật bằng trắc thật nghiêm ngặt.
Có những trƣờng hợp một cặp thơ sáu tám, do yêu cầu sáng tạo của âm
nhạc, khi hát ngƣời hát lại hát 4 chữ cuối của câu 6 chữ sau đó mới bắt vào
toàn câu 6 chữ và câu tám chữ cũng bị biến đi thành 11 chữ khi hát:
Lên tận tiên cung
Bực mình lên tận tiên cung
Gọi ông tơ (hồng) xuống hỏi (thăm) ông (một) đôi lời
Trêu ghẹo chi tôi
Lỡ nào trêu ghẹo chi tôi
Lênh đênh bèo nổi hoa trôi qua thì...
Có những vài câu 6 chữ bị cắt ra làm 3 và thêm nhiều tiếng đệm lót:
Sáng cả (cái) đêm (hôm) rằm...
(Là cái) sáng giăng (à) xuông...
Sáng cả (cái) đêm hôm (à) rằm...
Lời của đoạn hát trên chỉ là câu 6 chữ trong một cặp thơ 6/8:
Giăng xuông sáng cả đêm rằm
Nửa đêm về sáng giăng bằng ngọn tre.

81
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Sự đảo lộn, thêm bớt chữ nhƣ vậy đã tạo điều kiện cho sự sáng tạo của
âm nhạc đồng thời khắc hoạ thật đậm, sâu, thành công, một đêm giăng xuông
thao thức, vắng lặng đến mênh mông...
Ngoài thể thơ lục bát (với các dạng biến thể), một số lời Quan họ còn
sử dụng thể thơ 4 chữ:
Mồng năm chợ ó
Quan họ dồn về
Hội vui lắm lắm...
Cũng có khi dùng thể thơ song thất lục bát:
Con gà sống đang đêm gáy giục
Ðể gọi chàng dạy học kẻo khuya
Chàng ơi dậy học kẻo khuya
Dầu hao thiếp chịu, đèn mờ thiếp khêu...
Ðôi khi có những đoạn thơ 7 chữ, có vần, nhƣng không tuân thủ những
quy tắc về niêm, luật, bằng trắc, đối... của thơ nƣớc ngoài.
... Tôi với người Châu, Trần là ngãi
Xin người đừng già kén kẹn hom
Tiếng thị phi luống những om sòm
Thôi thấm thoát ngựa hồ qua cửa sổ
Kết của Bài "Tuấn Khanh chàng" là một bài 7 chữ 4 câu:
Trộm nghe danh giá động lòng nho
Cung quế hương đưa trải mấy thu
Ðạn ngọc giang tay buồng đàn thước
Sông ngân chờ dịp bắc cầu Ô
Có cả những bài gần nhƣ văn xuôi, không vần:
Ngày hôm qua tôi thấy con chim thước nó báo tin
Quan họ (ấy mấy chơi, ấy mấy) sang chơi

82
Tôi cũng biết rằng ngay hôm nay Quan họ đến chơi nhà, ấy mấy
vui tôi mới lại thêm vui, ấy mấy vui, mới lại thêm vui...
Nhƣ vậy, trong hệ thống lời ca Quan họ, ngƣời nghệ sĩ Quan họ đã biết sử
dụng tài tình biến hoá thể thơ lục bát và tạo nên những bài ca theo thể thơ này có
thể tồn tại độc lập mà vẫn có những giá trị nghệ thuật thơ ca ở trình độ cao.
Nhƣng khi cần thiết, ngƣời Quan họ cũng sử dụng một số thể thơ khác kể cả văn
xuôi để làm lời ca và cũng có những thành công ở những mức độ khác nhau.
3.2.2. Ngôn ngữ lời ca Quan họ
Ngôn ngữ thi ca trong lời ca Quan họ đạt tới những thành tựu nghệ
thuật đặc sắc, độc đáo. Một ngôn ngữ khi thì mộc mạc đồng quê, khi thì trau
chuốt tài hoa nhƣng bao giờ cũng giàu tính hình tƣợng, sâu đậm nghĩa tình.
Ngôn ngữ ấy đã thu hút nhiều tinh hoa của nghệ thuật ngôn ngữ thơ ca
dân gian, thơ ca bác học... để rồi tạo nên sắc thái riêng với những giá trị nổi
bật, góp phần tạo nên những giá trị riêng của bài ca quan họ.
Ta có thể tìm hiểu một số thành tựu tiêu biểu của ngôn ngữ thơ ca trong
lời ca quan họ Sự mộc mạc và sự trau chuốt Có một số lời ca quan họ, nếu
tách riêng lời ca thành văn bản, thì bƣớc đầu tiếp xúc, có khi ta chƣa thấy hết
cái đẹp, cái hay của lời ca đó, nhất là cảm thụ theo góc độ thi ca thuần tuý.
Ví dụ, lời bài ca “Cây kiêu”
Cây kiêu xanh tốt Quan họ giồng
Nước trong gách lấy một chum
Hoa thơm ngắt lấy một chùm cầm tay
Răng đen hạt đậu Quan họ nhường cũng đen
Nhƣng khi tiếng hát rộn ràng bài hát đó lên, ta bị cuốn hút dần vào bài
ca, và, trong nhiều xúc cảm, thì một xúc cảm gây ấn tƣợng sâu sắc trong ta là:
sự mộc mạc của ngôn từ lời ca đã đƣa ta đến bắt gặp một dáng dấp, một
phong cách, một dạng hình, một tâm hồn... cũng hết sức mộc mạc nhƣng rất

83
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

đáng yêu của con ngƣời lao động một thời, con ngƣời ấy phải đƣợc miêu ta
bằng ngôn từ ấy.
Chính sự mộc mạc nghệ thuật, không giống sự dễ dãi của ngôn từ lời ca
Quan họ đã gây xúc cảm cho từ ngƣời lao động ít đến những bậc đại khoa,
những thi sĩ có tài. Bài “Còn giời còn nước còn non”
Còn giời còn nước còn non
Còn cô bán rượu tôi còn say sưa
Những là ao ước khách thơ
Bấy lâu tôi vẫn đợi chờ người ngoan
Riêng lòng lòng vẫn mong sao
Trăm điều xin hãy trông vào một tôi
Là một trong những bài minh chứng cho điều này. Một ngôn ngữ đầy
hình tƣợng, âm thanh: có cảnh, có tình, cảnh tình hoà quyện và "bổng trầm, non
nỉ..." âm thanh. Từ cảnh ấy, tình ấy, nổi bật lên con ngƣời "tài trai" và "thục nữ",
con ngƣời khao khát, đắm say vẻ đẹp của thiên nhiên, của tình ngƣời.
Cho nên, dù ngôn từ lời ca Quan họ đƣợc thể hiện trong dạng mộc mạc,
hoặc trau chuốt, bóng bảy, đều đạt tới hiệu quả nghệ thuật cao. Ðƣợc nhƣ vậy
chính vì ngƣời sáng tạo lời ca biết gạn lọc, lựa chọn ngôn từ ở trình độ cao, có
một trình độ tích luỹ, am hiểu sâu rộng về thơ ca dân gian và cao hơn hết là sự
rung cảm nghệ thuật tinh tế, chân thành.
3.2.3. Hình tượng trong lời ca
Ngôn ngữ trong lời ca Quan họ cũng giàu tính hình tƣợng nhƣ ngôn
ngữ thơ ca dân gian nói riêng và ngôn ngữ thơ ca nói chung. Ta có thể tìm
hiểu một số thành tựu về thủ pháp xây dựng hình tƣợng trong lời ca Quan họ.
Có những hình tƣợng đã quen thuộc và đƣợc khẳng định giá trị nghệ thuật
trong thơ ca và nghệ thuật tạo hình từ rất sớm, ví dụ hình tƣợng cây trúc trong
thơ ca và hội hoạ, điêu khắc... từ nhiều thế kỷ. Hình tƣợng cây trúc ta thƣờng
gặp ấy đã trở nên biểu tƣợng cốt cách, phẩm chất của ngƣời quân tử: Cứng

84
rắn, vƣơn thẳng, sức sống dẻo dai, bền vững trƣớc mọi thử thách; ý chí kiên
định; nhân cách thanh cao...
Nhƣng hình tƣợng cây trúc trong lời ca Quan họ lại mang những biểu
tƣợng gần gũi với phong độ, cốt cách, phẩm chất đẹp đẽ của ngƣời bình dân:
Hôm nay xum họp trúc mai
Tình trong một khắc, nghĩa dài trăm năm...
(La Rằng)
Hoặc
“Ăn ở trong rừng”:
Ba bốn năm ăn ở trong rừng
Chim kêu vượn hót nửa mừng nửa lo
Sa chân nhỡ bước xuống đò
Sông sâu sào ngắn khôn dò biển Đông
Gió đông sương lúc mạn thuyền
Một đàn con én dập dìu vào ra
Gió đông sương, nghe con vượn ru con
Đêm đông sương, nghe con vượn ru con [48].
Hay nhất có lẽ là hình tƣợng cây trúc trong bài Cây trúc xinh. Ngƣời Quan
họ đã dành cả một bài ca cho trúc, không phải cho trúc quân tử mà cây trúc xinh,
cây trúc gần gũi, đáng yêu, quen thuộc, biểu tƣợng cho anh Hai, anh Ba, chị Hai,
chị Ba... xinh; đứng một mình cũng xinh; đứng nơi nào cũng xinh.
Hình tƣợng cây trúc trong lời ca Quan họ đã dẫn đến một biểu tƣợng
không hoàn toàn lặp lại biểu tƣợng quen thuộc của trúc mà đã biến hoá đi
thành một biểu tƣợng về vẻ đẹp theo góc độ thẩm mĩ của ngƣời bình dân,
ngƣời Quan họ. Ðó là cây trúc xinh thì bài ca mới có thể về kết với lời thơ
gắn bó mãnh liệt, lời tỏ tình nồng nàn, kiên định:
Không yêu em lấy đạo bùa (cho) phải yêu

85
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Sự trùng hợp có biến hoá trong thủ pháp xây dựng hình tƣợng giữa nghệ
thuật bác học, chính thống và nghệ thuật ngôn ngữ trong thơ ca quan họ ở bài Cây
trúc xinh đã để lại cho đời một bài lời ca hay và một hình tƣợng đặc sắc.
Hình tƣợng con đò, con thuyền đƣợc biểu hiện khá thành công trong
nhiều bài ca Quan họ. Một quê hƣơng sông, nƣớc, đồng chiêm, hết thế hệ này
đến thế hệ khác gắn bó với những chiếc đò ngang, đò dọc, những chiếc
thuyền thúng suốt mùa mƣa úng, những chiếc thuyền buôn trên nhiều ngả
sông xuôi ngƣợc... đã khiến con đò, con thuyền trên sóng nƣớc đi vào cảm
hứng nghệ thuật và trở nên hình ảnh gửi gắm biết bao nỗi niềm tâm sự về thân
phận con ngƣời, về cuộc đời. Có bài khảo cứu đã thống kê thấy có 63 bài lời
ca có chữ thuyền hoặc đò.
Có khi thuyền nhƣ ngƣời bạn tri âm trong những đêm "trăng in mặt
nƣớc" để cùng ngƣời bồng bềnh trên sông nƣớc quê hƣơng, thƣởng thức
những thú vui tao nhã:
Ngồi tựa mạn thuyền
Trăng in mặt nước càng nhìn non nước càng xinh
Có khi thuyền, đò hiện lên nhƣ biểu tƣợng về một sự "mong manh"
trong cuộc đời "bãi biển mông mênh" để cho ngƣời chờ, ngƣời đợi, ngƣời
gọi... và ngƣời tin con đò kia sẽ đến, vẫn "nhất tâm đợi chờ, dù "gọi đò chẳng
thấy đò thƣa" trong suốt cả bài ca "Gọi đò". Có khi thuyền, đò, bè mảng là
biểu tƣợng của một thân phận, một cuộc đời, một tình duyên... đi trong cuộc
đời nhƣ đi trong một dòng sông nhiều nghềnh thác:
Có ai xuôi về
Cho tôi nhắn lời về
Cho tôi nhủ lời về
Nhắn cùng bầu bạn xuống bè xuôi đông
Lên thác (thì ai ơi) xuống ghềnh

86
Lên thác đã vậy, xuống ghềnh thì sao?
Có yêu nhau (thì) ngỏ cửa ra vào [48].
Thuyền, đò trong nƣớc lặng, sóng yên thì ít mà trong sự nổi nênh, lênh
đênh, dòng dành... thì nhiều. Tuy nhìn và miêu tả thành công sự nổi lênh đênh
của thuyền, đò trên sóng nƣớc nhƣ con ngƣời đi trong cuộc đời nhiều ghềnh
thác, nhƣng ngƣời quan họ không bi quan mà, về kết các bài ca thƣờng là
những lời nhắn nhủ về một niềm tin:
Có yêu nhau... thì đá cũng như vàng
hoặc:
Muốn cho gần bến gần thuyền
Gần thày, gần mẹ nhân duyên cũng gần...
Do yêu cầu đối giọng, đối lời trong ca hát Quan họ, nên ngƣời Quan họ
nhiều khi rất thành công trong nghệ thuật sáng tạo nên những cặp đôi hình
tƣợng đối xứng trong những cặp đôi bài ca đối đáp.
Bài "Ngồi tựa mạn thuyền" và bài "Ngồi tựa song đào" là một cặp đôi
bài ca đối đáp. Chính vì vậy ở 2 bài ca này ta thấy một cặp đôi hình tƣợng
đối xứng.
Ở bài "Ngồi tựa mạn thuyền", ngƣời Quan họ đã vẽ lên hình tƣợng
những con ngƣời tài trai, phong nhã yêu thiên nhiên "sơn thuỷ hữu tình",
"giăng in mặt nƣớc"; yêu những thú vui thanh cao: thơ, rƣợu, đàn ca... Ðúng
là "văn nhân, tài tử"' một thời.
Khi nghe hát trọn vẹn lời ca, cùng một lúc nổi lên hai hình tƣợng:
những liền anh Quan họ với vẻ đẹp hình thể, tâm hồn vẹn toàn và phía sau,
kín đáo nhƣng cũng khá rõ, là hình tƣợng liền chị Quan họ có tâm hồn biết
trân trọng và phát hiện để nâng niu, để hƣớng tới, để yêu quý những vẻ đẹp
của bạn mình. Một bài lời ca có 3 câu mà có những thành tựu đặc sắc nhƣ vậy
về nghệ thuật ngôn từ, và cũng nói đƣợc nhiều điều khó nói mà muốn nói nhƣ

87
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

vậy, thì, bài đối lại phải đáp ứng sao cho ít nhất cũng "tƣơng hằng", nhƣ cách
nói quan họ và nếu hay hơn, giỏi hơn thì lại càng đặc sắc.
Bài đối lại là bài "Lúng liếng" thƣờng do các anh hát. Tìm đƣợc từ "Lúng
liếng" để đối xứng với từ "Lóng lánh" của bài 1 thì thật là một thành công
vƣợt bực: cũng một kiểu cấu tạo từ lấp láy; cũng thiết tha gọi tới nét duyên
nhất của bạn mình là nét cƣời "lúng liếng" với đôi má lúm đồng tiền; cũng
bộc lộ sự trân trọng, yêu quý luôn dành cho bạn; và cũng đồng thời gợi lên
hình tƣợng liền chị, liền anh, tinh tế, thông minh, duyên dáng, tài hoa trong vẻ
đẹp vẹn toàn.
Cùng với sự đối xứng của âm điệu âm nhạc của hai bài ca, ngƣời Quan
họ đã sáng tạo nên một cặp bài ca đối và một cặp hình tƣợng đối xứng rất
thành công theo lề lối ca hát trong Quan họ: đối nhạc, đối lời (ý, tình, hình
ảnh, hình tƣợng, từ ngữ...).
3.2.4. Một số thủ pháp nghệ thuật
Ngƣời Quan họ rất tài tình trong việc sử dụng nhũng từ có ý nghĩa xác
định cụ thể, để mở ra sự trừu tƣợng, sự hàm ý phong phú, sâu rộng, làm cho
lời ca ít lời mà sâu sắc, luôn luôn rộng mở về ý, khiến ngƣời nghe, ngƣời cảm
thụ phát huy đƣợc khả năng liên tƣởng, tƣởng tƣợng, cảm xúc.
Thí dụ:
... Năm canh, sáu khắc, người ơi!
Người cười nửa miệng, em vui nửa lòng
Ngƣời cƣời nửa miệng, em vui nửa lòng: cửa nửa miệng, vui nửa lòng,
vừa là những hình ảnh cụ thể, là những từ mang tính xác định, nhƣng lại để
ngƣời nghe rơi vào sự liên tƣởng, tƣởng tƣợng đạt tới cảm xúc, nhận thức ở
những mức độ khác nhau của sự vô hạn, và cũng rất trừu tƣợng về sự gắn bó
tình cảm, gắn bó thân phận giữa ngƣời cửa nửa miệng và em vui nửa lòng.

88
Cũng sử dụng thủ pháp ấy, nhƣng tinh tế, sâu sắc, kín đáo đến mức
nghe lâu, ngẫm lâu mới thấy ý muốn nói, mà khi đã thấy rồi thì lại thấy ý tình
muốn nói kia thật rõ ràng, không cầu kỳ ẩn dấu.
Thí dụ:
Người về để nhện giăng mùng
Năm canh luống những lạnh lùng cả năm
"Nhện giăng tơ" là hình ảnh thƣờng gặp, nhƣng nhện giăng mùng thì
ít gặp. Nhện giăng tơ thƣờng là hình ảnh của sự tơ vƣơng, vƣơng vấn, vƣơng
vít... một cách mong tinh tế trong tình yêu. Nhƣng nhện giăng mùng thì lại
gợi ý khác. Mùng là tiếng cổ để chỉ cái màn chống muỗi ngày nay ta vẫn
dùng. Mùng gợi lên sự giăng mắc, bịt bùng. Nhện giăng mùng lại đặt sau
Ngƣời về - sự chia ly, xa, vắng - khiến ta nghĩ tới sự quạnh vắng, cô đơn,
thƣơng nhớ... giăng mắc bịt bùng vây toả khi phải chia xa cùng ngƣời. Mong
manh, nhƣng suốt cả năm canh cũng chẳng vƣợt nổi sự vây bủa, bịt bùng ấy.
Từ những hình ảnh cụ thể, xác định đã mở ra sự vẫy vùng vô hạnh của tƣởng
tƣợng và cảm xúc để ngƣời hát, ngƣời nghe đồng cảm với sự bịt bùng trong
nỗi buồn chia xa mênh mông vô hạn.
Lời thơ trong lời ca Quan họ gắn bó, có ảnh hƣởng qua lại đối với ca
dao, lời các dân tộc khác, lời thơ trong hệ thống truyện Nôm khuyết danh,
hoặc truyện Nôm có tác giả, nhất là với truyện Kiều.
Khi nói tới mối liên hệ này, sẽ không khoa học nếu chỉ giới thiệu rằng
khi sáng tạo lời ca Quan họ, ngƣời Quan họ chỉ hoàn toàn học tập Truyện Kiều,
mà cần nghĩ thêm rằng Nguyễn Du khi sáng tạo truyện Kiều đã thu hút những
tinh hoa của thơ ca dân gian, trong đó không loại trừ hệ thống lời ca Quan họ,
nhất là Nguyễn Du có quê mẹ ở quê hƣơng Quan họ và đã từng sống trên quê
hƣơng này với thời thơ ấu cũng nhƣ khi đã trƣởng thành. Mối liên hệ giữa lời
ca Quan họ và lời thơ Truyện Kiều tồn tại dƣới nhiều dạng thức.

89
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Có khi giống nhau nguyên văn từng đoạn:


... Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày...
Nếu đoạn thơ trên là một đoạn thơ mƣợn từ Truyện Kiều - cũng có thể
tin nhƣ vậy - cũng chứng tỏ ngƣời sáng tạo lời ca Quan họ đã sành về nghệ
thuật thơ ca khi chọn lựa đoạn thơ ấy nói điều phải nói.
Nhƣng dạng trên không nhiều mà sự giống nhau từng câu, từng cặp lục
bát, hoặc nhiều chữ trong một câu... diễn ra nhiều hơn. Ðiều này chứng tỏ
ngƣời quan họ khi làm lời ca đã luôn giữ quyền chủ động, bản lĩnh sáng tạo
của mình.
Trong nghệ thuật làm lời ca, ngƣời Quan họ đã biết sử dụng thể loại
thơ, nhất là thể loại thơ lục bát với tất cả mọi dạng biến thể của thể loại này,
biết thu hút những tinh hoa của nghệ thuật thơ ca dân gian, dân tộc, nhất là
những tác phẩm nổi tiếng của dân tộc nhƣ Truyện Kiều, biết sử dụng ngôn
ngữ thơ ca để xây dựng nên những hình tƣợng trữ tình đặc sắc, những đoạn
thơ, câu thơ, ý thơ mới chỉ cần đọc diễn cảm, chƣa cần hát, đã khiến ngƣời
nghe xúc động, bồi hồi vì tình, vì ý... của thơ.
Chính vì những thành tựu trong nghệ thuật thơ ca nhƣ vậy, nên nhiều
bài lời ca Quan họ có giá trị độc lập của thơ ca. Liên kết những bài lời ca có
giá trị thơ ca cao với sự sáng tạo âm nhạc và những giọng hát hay, đẹp của
ngƣời Quan họ, chúng ta đã có những bài hát sống mãi.

90
KẾT LUẬN

1. Vùng đất Kinh Bắc có điều kiện thuận lợi về mặt tự nhiên và xã
hội, là trung tâm văn hoá chính trị của đồng bằng châu thổ sông Hồng,
nơi sản sinh ra nhiều anh tài kiệt xuất của dân tộc và cũng là cái nôi
nuôi dƣỡng phát triển các hình thức văn hoá nghệ thuật dân gian. Từ
việc nghiên cứu cho thấy dân ca Quan họ Bắc Ninh có nguồn gốc từ
bản địa, đƣợc phát triển cùng với lịch sử văn hoá của vùng đất Kinh
Bắc, nơi hội tụ các yếu tố tạo thành bản sắc văn hoá đặc sắc độc đáo.
2. Con ngƣời xứ Kinh Bắc thừa hƣởng những điều kiện thuận lợi
ấy, họ mang trong mình vôn văn hoá truyền thống của nền văn hoá lúa
nƣớc xa xƣa và hình thành một nét ứng xử rất riêng, mang bản sắc đặc
trƣng vùng miền. Ngƣời Bắc Ninh trọng nghĩa nặng tình, cƣ xử nền nã,
thân thiện. Điều này đƣợc thể hiện không chỉ trong đời sống, sinh hoạt
mà còn trong các lễ hội, các hình thức sinh hoạt văn hoá nghệ thuật
khác nhau, điển hình là trong không gian diễn xƣớng hát Quan họ. Từ
việc tìm hiểu vùng đất và con ngƣời, chúng ta thấy Kinh Bắc là nơi có
nhiều thuận lợi về địa lý, kinh tế xã hội. Trải qua thăng trầm của lịch
sử, Kinh Bắc hội tụ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà, hình thành
bản sắc văn hoá độc đáo. Đây cũng là điều kiện căn bản nuôi dƣỡng
bản chất con ngƣời Kinh Bắc: Nặng tình, trọng nghĩa. Ngƣời Quan họ
sinh ra, lớn lên trên mảnh đất có truyền thống văn hoá lâu đời, kinh tế
thông thƣơng phát triển hình thành nét văn hoá ứng xử đặc trƣng: Tế
nhị, lịch sự. Đó cũng là sự tiêu biểu của văn hoá Việt Nam – Một nền
văn hoá duy tình. Từ việc tìm hiểu văn hoá ứng xử của ngƣời Quan họ,
chúng ta còn thấy sự thống nhất giữa con ngƣời thực tế với nội dung
các bài ca Quan họ. Chính từ việc thừa hƣởng vốn văn hoá truyền

91
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

thống ấy mà ngƣời Quan họ đã kết tinh cái đẹp, cái hay thể hiện trong
lời ca, đặc biệt phong cách sống, sự ứng xử thành nét văn hoá mang đặc
điểm vùng đất Kinh Bắc.
3. Những nét đẹp độc đáo của vùng đất Kinh Bắc cùng con ngƣời nơi
đây, đồng nhất trong lời ca của các bài dân ca Quan họ lời cổ. Đó là
văn hoá ứng xử của họ với quê hƣơng tha thiết, với gia đình, tình yêu,
tình bạn nghĩa tình thuỷ chung… Tất cả đều đƣợc minh chứng trong
nội dung đã đề cập ở trên, và một lần nữa khẳng định sức sống, tầm
quan trọng của Dân ca Quan họ nói chung và lời ca dân ca Quan họ cổ
nói riêng. Khi tìm hiểu văn hoá ứng xử của ngƣời Quan họ thông qua
lời ca dân ca Quan họ cổ chúng ta thấy một lối chơi có quy củ, nền nếp,
buộc ngƣời chơi phải tuân thủ theo luật chơi gồm nhiều thể loại: hát đối,
hát giao duyên, hát canh, hát kết chạ, hát lễ hội, hát mời nƣớc, mời
trầu…chơi cho chỉ nổi kim chìm, chơi cho lở đất long trời mới xứng là
trai gái Kinh Bắc. Nhƣng không chỉ có thế, Quan họ còn có lối hát tự do,
ngẫu hứng thể hiện sự phóng khoáng trong những canh hát ngày Xuân.
Hát để thay cho nói, tâm sự gửi cả vào trong câu hát, đó cũng là cái tình
của ngƣời Quan họ đã thấm thía, lan tỏa ngàn đời ở đây. Tất cả nét văn
hoá ứng xử đó đƣợc lƣu giữ và phát triển từ rất lâu đời tồn tại ở xứ Kinh
Bắc đến tận ngày nay. Nhƣng có thể nói, những văn hoá ứng xử đƣợc
hình thành và phát triển đó, khi tìm hiểu lời ca dân ca Quan họ cổ, chúng
ta một lần nữa có căn cứ để thấy rõ ràng một không gian văn hoá Quan họ
Kinh Bắc, đậm đà, sâu sắc mà không có nơi nào so sánh đƣợc. Điều này
củng cố thêm vững chắc đặc điểm của ngƣời Quan họ trong ứng xử và
sinh hoạt văn hoá, đặc biệt trong loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo:
Dân ca Quan họ Bắc Ninh

92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Trọng Ánh (2000), Âm nhạc Quan họ, Viện âm nhạc


2. Lê Văn Ba (1994), Chử Đồng Tử - Tiên Dung, vùng đất con ngƣời, Nhà
xuất bản Văn hóa thông tin
3. Bách khoa toàn thƣ mở, Quan họ: http://vi.wikipedia.org/quanho.
4. Chi hội Quan họ Thị Cầu (2005), Hương sắc Thị Cầu, lƣu hành nội bộ
5. Ngô Duy Cƣơng (1983), Tìm hiểu nghệ thuật phổ thơ sáu - tám trong dân
ca Quan họ, luận văn tốt nghiệp đại học ngành Lý luận âm nhạc Nhạc viện
Hà Nội
6. Lê Tùng Dƣơng (2000), Quan họ thời micrô, báo Văn hóa, số 549
7. Đại Nam nhất thống chí (1971), tập 4, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội
8. Đoàn dân ca Quan Họ (2004), 35 năm đoàn dân ca Quan họ (1969-2004),
Sở văn hóa thông tin tỉnh Bắc Ninh
9. Lâm Minh Đức (2004), Từ ngữ, điển tích dân ca Quan họ, Nxb Văn hóa
thông tin
10. Lâm Minh Đức (2005), Dân ca QHBN - 100 bài lời cổ, Nhà xuất bản
Thanh Niên
11. Lê Sỹ Giáo (1998), Các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian ở lễ hội
truyền thống, Tạp chí Văn học dân gian, số 1
12. Phạm Thế Hùng (2013), Văn hoá và văn hoá ứng xử, Nxb Văn hoá
13. Trần Văn Khê (1972), Âm nhạc truyền thống Việt Nam và hát Quan ho,
Nxb Văn hoá Dân tộc
14. Lê Danh Khiêm, Hoắc Công Huynh (2001), Dân ca quan họ - Lời ca và
bình giải, Trung tâm Văn hoá quan họ Bắc Ninh
15. Lê Danh Khiêm (2004), Tìm hiểu hát Trống quân Bắc Ninh, Trung tâm
VHTT Bắc Ninh

93
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

16. Nguyễn Xuân Kính, Phan Lan Phƣơng (2005), Tập văn học dân gian
người Việt, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội
17. Nguyễn Thế Khoa, Hành trình sưu tầm nghiên cứu dân ca Quan họ,
website: www.spnttw.du.vn
18. Mã Giang Lân, Nguyễn Đình Bƣu (1981), Hát ví đồng bằng Hà Bắc, Ty
văn hóa Hà Bắc
19. Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý (1978), Quan họ - Nguồn
gốc và quá trình phát triển, Nxb Khoa học Xã hội
20. Trần Đình Luyện, Trần Quốc Vƣợng (1981), Một Hà Bắc cổ trong lòng
đất, Ty văn hóa - thông tin Hà Bắc
21. Trần Đình Luyện (1986), Lịch sử Hà Bắc tập I, Hội đồng lịch sử Hà Bắc
22. Trần Đình Luyện (1996), Địa chí Tân Yên, UBND huyện Tân Yên
23. Trần Đình Luyện (1997), Văn hiến Kinh Bắc tập I, Sở Văn hóa - Thông
tin Bắc Ninh
24. Trần Đình Luyện, Huy Cờ (1999), Danh nhân Kinh Bắc, Nxb Văn hoá
dân tộc
25. Trần Đình Luyện (1999), Luy Lâu - Lịch sử văn hóa, Sở Văn hoá thông
tin Bắc Ninh
26. Trần Đình Luyện (2002), Văn hiến Kinh Bắc tập II, Sở văn hóa - Thông
tin Bắc Ninh
27. Trần Đình Luyện (2003), Lễ hội Bắc Ninh, Sở VHTT tỉnh Bắc Ninh
28. Trần Đình Luyện (2006), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Kinh Bắc,
Sở Văn hoá thông tin Bắc Ninh
29. Đức Miêng (2002), Yêu một Bắc Ninh, Nxb Âm nhạc
30. Lê Việt Nga (2006), Thần tích, sắc phong các vị thần, thành hoàng làng
tỉnh Bắc Ninh, Bảo tàng Bắc Ninh

94
31. Lê Việt Nga (2012), Di sản văn hóa về truyền thống hiếu học tỉnh Bắc
Ninh, Bảo tàng Bắc Ninh
32. Lê Việt Nga (2013), Di tích lịch sử văn hóa tỉnh Bắc Ninh, Bảo tàng tỉnh
Bắc Ninh
33. Nhà xuất bản Văn học, Nguyễn Du và Truyện Kiều (1990)
34. Nhiều tác giả (1972) Một số vấn đề về dân ca quan họ, Ty Văn hoá Hà
Bắc
35. Nhiều tác giả (2005), Hội Lim - Truyền thống và hiện đại, Sở văn hóa
thông tin tỉnh Bắc Ninh
36. Nhiều tác giả (2005), Thơ văn người Tiên Du, Phòng Văn hoá thông tin -
Thể dục thể thao Tiên Du
37. Nhiều tác giả (2006), Không gian văn hóa Quan họ Bắc Ninh - Bảo tồn
và phát huy, Viện văn hóa thông tin, Sở văn hóa thông tin Bắc Ninh
38. Nhiều tác giả (2006), Nghệ nhân Quan họ làng Viêm Xá, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội
39. Nhiều tác giả (2006), Vùng văn hóa Quan họ Bắc Ninh, Viện văn hóa, Sở
văn hóa thông tin tỉnh Bắc Ninh
40. Nhiều tác giả (2006), Quan họ Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp bảo
tồn, Sở văn hóa thông tin Bắc Ninh
41. Nhiều tác giả (2011), Không gian văn hóa Quan họ, Sở văn hóa thông tin
tỉnh Bắc Ninh
42. Nhiều tác giả (2011), Truyện cổ, ca dao, tục ngữ các làng Quan họ,
Trung tâm văn hóa tỉnh Bắc Ninh
43. Nguyễn Văn Phú, Lƣu Hữu Phƣớc, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc (1961), Dân
ca Quan họ Bắc Ninh, Nxb Văn hoá
44. Trần Linh Quý (2004), Trên đường tìm về Quan họ, Nxb Văn hóa thông
tin

95
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

45. Nguyễn Đình Tấn, Nguyễn Văn Phú, Lƣu Hữu Phƣớc, Nguyễn Viêm, Tú
Ngọc (1997), Dân ca quan họ, Nhà xuất bản âm nhạc
46. Hồng Thao, Tô Ngọc Thanh (1986), Tìm hiểu âm nhạc cổ truyền, Nxb
Âm nhạc
47. Hồng Thao (1997), Dân ca Quan họ, Nxb bản Âm nhạc
48. Hồng Thao (2002), 300 bài dân ca quan họ Bắc Ninh, Viện nghiên cứu
âm nhạc
49. Phạm Minh Thảo (2003), Nghệ thuật ứng xử của người Việt, Nxb Văn hóa
thông tin
50. Lê Toàn (1989), Tìm hiểu một số thủ pháp Quan họ hóa trong những bài
Quan họ có nguồn gốc du nhập, Sở VHTT Bắc Ninh
51. Trung tâm văn hóa Quan họ (1998), Những lời ca Quan họ, Sở văn hóa
thông tin Bắc Ninh
52. Trung tâm văn hóa thông tin Bắc Ninh (2007), Đến với Quan họ lời mới,
Sở văn hóa thông tin Bắc Ninh
53. Thích Quảng Tuệ (2006) Một số phong tục nghi lễ dân gian Việt Nam,
Nxb Lao Động
54. Ty văn hóa Hà Bắc (1971), Kinh Bắc phong thổ đời Lê
55. Lê Vân (2002), Hát ru ba miền, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
56. Anh Vũ (1981), Quan họ ra nguồn, Trƣờng ca, Hội văn nghệ Hà Bắc
57. http://www.bacninh.gov.vn/

96
MỘT SỐ HÌNH ẢNH ĐIỀN DÃ (Nguồn: Tác giả tự chụp)
Các cụ cao tuổi trong lễ rƣớc linh vị từ đình làng Lộ Bao về núi Lim:

Cảnh hát đối đáp lời cổ Quan họ:

97
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Hát quan họ trên thuyền tại đình Cả đồi Lim:

Giao lƣu hát Quan họ lời cổ tại đình làng Xuân Ổ (làng Ó):

98
Tác giả cùng đội Quan họ thiếu nhi làng Phú Lâm:

Liền chị Đặng Thị Nguyệt, phó chủ tịch Quan họ ngƣời cao tuổi Tiên Du

99
Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Nghệ sỹ Ƣu tú Quang Vinh cùng tác giả tại làng Diềm - Yên Phong:

Nghệ sỹ Ƣu tú Thuý Hƣờng cùng tác giả trong đêm diễn tại đồi Lim

100

You might also like