Professional Documents
Culture Documents
Nguyễn Thị Khánh Trâm 31221025441 Cổ Luật
Nguyễn Thị Khánh Trâm 31221025441 Cổ Luật
HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----o0o----
Đề bài:
Phân tích vai trò của lợi ích kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi
ích kinh tế
Bằng những dẫn chứng cụ thể, hãy làm rõ vai trò của nhà nước trong bảo đảm
hài hoà các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam thời gian qua.
Bạn hãy đề xuất những biện pháp xử lý hài hoà mỗi quan hệ: lợi ích cá nhân,
lợi ích nhóm và lợi ích xã hội ở Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG 1 1
KHUÔN KHỔ PHÁP LUẬT CỦA TRIỀU ĐẠI HẬU LÊ VỀ VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ 1
1.3. Trong việc bảo vệ tính mạng, danh dự, nhân phẩm 4
1.3.1. Bảo vệ tính mạng 4
1.3.2. Bảo vệ danh dự, nhân phẩm 5
CHƯƠNG 2 8
MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA PHÁP LUẬT NHÀ HẬU LÊ - NHÀ NGUYỄN, SỰ
KẾ THỪA QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM 8
2.1. Mối tương quan giữa pháp luật nhà Hậu Lê và nhà Nguyễn trong việc bảo
vệ quyền lợi của người phụ nữ 8
2.1.1. Trong lĩnh vực Dân sự 8
2.1.2. Trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình 9
2.1.3. Trong việc bảo vệ tính mạng, danh dự, nhân phẩm 9
2.1.4. Trong nhiều lĩnh vực khác 10
2.2. Sự kế thừa những giá trị tốt đẹp của Quốc Triều hình luật trong việc xây
dựng nhà nước Việt Nam 10
2.2.1. Trong Hiến pháp Việt Nam 11
2.2.2. Trong các văn bản luật khác 11
LỜI NÓI ĐẦU
Trên phương diện của sự đổi mới đất nước, thời đại công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đã mang đến nhiều phát triển thịnh vượng đối mỗi quốc gia nói chung và Việt
Nam nói riêng. Song song với sự hưng thịnh ấy, là quá trình trau dồi, bồi dưỡng, phát
triển và không ngừng đổi mới tư duy, sáng tạo để hoàn thiện hơn trong hệ thống lập
pháp của mỗi quốc gia. Và để làm nên sự trường tồn ấy thì đòi hỏi quá trình lập pháp
cùng với các nhà làm luật cần phải tiệm cận hơn với thực tiễn, luôn đặt sự công bằng,
nghiêm minh lên hàng đầu.
Dựa trên những yếu tố khách quan, bởi sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo,
quá trình lập pháp cũng như các nhà làm luật cổ Việt Nam đã đi theo những lối mòn
của hệ tư tưởng phong kiến với quan niệm “ trọng nam khinh nữ ”, dẫn đến những
điều luật ban hành đã có sự hạn chế về mặt quyền lợi của người phụ nữ. Do đó, địa vị,
tiếng nói cũng như các quyền lợi khác của họ cơ bản là thấp kém, không có sự tôn
trọng, đề cao. Tuy nhiên, đó chỉ chiếm một phần trong lịch sử lập pháp của nước ta,
vẫn còn những bộ luật cổ Việt Nam, đã có một số quy định, chú trọng phần nào đến
quyền lợi và thân phận nhỏ bé của người phụ nữ.
Pháp luật nhà Hậu Lê đã có những bước tiến mới, phát triển với lối tư duy lập
pháp hiện đại, ở một mức độ nào đó, quyền lợi và vai trò của người phụ nữ đã được đề
cao, tôn trọng, quan niệm “ trọng nam khinh nữ ” dần được loại bỏ ra khỏi quá trình
lập pháp. Điều đó, đã tạo nên một sự tiến bộ, mới lạ trong hệ thống pháp luật Việt
Nam mà dường như những Triều đại trước chưa thể thực hiện được.
Kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của pháp luật dưới Triều đại Hậu Lê công
cuộc xây dựng, hội nhập của nhân loại đã được nâng lên một tầm cao mới, vai trò của
nữ giới cũng như nam giới đã được bình đẳng hoá trong hệ thống pháp luật đương
thời. Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra, việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ được
pháp luật nhà Hậu Lê thực hiện như thế nào, với những giá trị nhân văn, tiến bộ ấy đã
được pháp luật đương thời lĩnh hội và định hướng ra sao trong các lĩnh vực đời sống
kinh tế xã hội, liệu rằng, quyền lợi, vai trò của người phụ nữ vẫn còn bị hạn chế hay đã
được nâng lên ở một vị thế cao hơn. Từ những vấn đề đặt ra, để có thể trả lời được, tôi
quyết định chọn đề tài: “Pháp luật nhà Hậu Lê với việc bảo vệ quyền lợi của người phụ
nữ” để thực hiện bài tiểu luận kết thúc học phần môn Cổ luật và Văn hoá pháp lý Việt
Nam.
Chương 1
KHUÔN KHỔ PHÁP LUẬT CỦA TRIỀU ĐẠI HẬU LÊ VỀ VIỆC BẢO
VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
Tuy nhiên, khi quyền tài sản của nữ giới được quy định tại Quốc Triều hình luật, mặc
nhiên họ có tiếng nói, có quyền và vai trò trong xã hội. Điều đó đã được khẳng định
thông qua việc phân chia giữa tài chung, riêng của vợ chồng, người vợ có quyền định
đoạt tài sản cho của mình, hay sự phân chia ngang bằng, mỗi người một phần, đã thể
hiện được quyền sở hữu đối với tài sản riêng, độc lập của vợ, không phụ thuộc vào
người chồng.
1.1.2. Chế định về quyền thừa kế
Quốc Triều hình luật đã quy định rất chặt chẽ cả về nội dung lẫn công thức
phân chia tài sản giữa các thành viên trong gia đình, trong đó, vợ hoặc chồng đều có
quyền có tài sản chung, riêng, các con trong gia đình đều được hưởng một phần tài sản
do cha mẹ để lại mà không phân biệt con trai hay con gái.
Điều đó đã được cụ thể hoá thông qua Điều 388: “Cha mẹ mất cả, có ruộng đất
chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em chị em tự chia nhau, thì lấy một phần 20 số ruộng
đất làm phần hương hoả, giao cho người con trai trưởng giữ, còn thì phân chia nhau”,
Điều 391 quy định: “Người giữ hương hoả có con trai trưởng thì dùng con trai trưởng,
không có con trai trưởng thì dùng con gái trưởng”
Nhìn chung, việc thừa hưởng phần ruộng đất do cha mẹ để lại không còn phân
biệt người nhận tài sản là con trai hay con gái, con trai nhiều phần hơn con gái, mà đã
chia đều cho tất cả các con. Ở một khía cạnh khác, việc giữ hương hỏa, thờ cúng cha
mẹ, tổ tiên đã không còn bắt buộc phải là người con trai trưởng thừa kế, nếu gia đình
không có con trai trưởng thì con gái trưởng sẽ nhận phần giữ hương hoả.
Thông qua hai điều luật nêu trên, người thực hiện nhận thấy rằng, Quốc Triều
hình luật đã phát huy được những giá trị trong tư tưởng lập pháp tiến bộ, không còn đi
theo lối mòn của hệ tư tưởng phong kiến, kỹ năng lập pháp đã hoàn thiện hơn so với
các bộ luật đương thời.
Với sự khai thác mang tính hiện đại trong kỹ thuật lập pháp, từ hệ tư tưởng Nho
giáo “trọng nam khinh nữ” mà nhà làm luật đã thay đổi, cải tiến, khiến cho quyền và
lợi ích của người phụ nữ trong xã hội cũ được tôn trọng, bình đẳng. Điều đó đã làm
cho nhiều nhà nghiên cứu sử học, cổ luật,.. “đi từ sự ngạc nhiên này đến sự ngạc nhiên
khác”1
1.2. Trong lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình
Trong xã hội phong kiến đương thời, nền tảng đạo đức gia đình luôn được coi là
kim chỉ nam, bởi gia đình là nơi gắn bó, nuôi dưỡng đạo đức và dẫn dắt con người
trong
1
Phạm Văn Đồng, Văn hoá và đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tr27
việc gìn giữ phong tục, tập quán cổ truyền. Chính vì vậy, dựa trên quan điểm Nho giáo
lạc hậu “tam tòng tứ đức” mà người phụ nữ trong xã hội cũ phải tuân theo những quy
tắc bất diệt “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Nguyên tắc khắc
nghiệt đó đã trói buộc, hạn chế đi quyền lợi của họ trong quan hệ Hôn nhân và Gia
đình.
Ngoài những mặt hạn chế tất yếu của lịch sử phong kiến, Quốc Triều hình luật
không những bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ thông qua lĩnh vực Dân sự mà trong
quan hệ Hôn nhân và Gia đình, phụ nữ cũng chiếm giữ một vị trí vô cùng quan trọng,
được hưởng một số quyền thiết thực, mà các Triều đại trước kia không quy định.
1.3. Trong việc bảo vệ tính mạng, danh dự, nhân phẩm
Dưới góc độ của hệ tư tưởng Nho giáo đương thời, vấn đề về bảo vệ tính mạng,
danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ vẫn được xem là hạn chế trong kỹ thuật lập
pháp, bởi khi nhìn nhận ở khía cạnh khách quan thì sự phân biệt, đối xử giữa nam giới
và nữ giới được cho không được công bằng, quyền lợi của người đàn ông được đặt lên
cao hơn người phụ nữ.
Tuy nhiên, đến với Triều đại nhà Hậu Lê thì vai trò và quyền lợi của người phụ
nữ không còn được xem là thấp kém bởi, Quốc Triều hình luật đã dành ra những điều
luật riêng nhằm quy định về việc bảo vệ tính mạng, danh dự, và nhân phẩm của người
phụ nữ.
1.3.1. Bảo vệ tính mạng
Với chế định về bảo vệ tính mạng, Điều 113 đã quy định: “Con gái tự bán mình
mà không có ai bảo lĩnh thì người mua cùng người viết văn khế, người làm chứng thảy
đều bị xử tội xuy, trượng như luật, đòi lại tiền trả cho người mua và huỷ bỏ văn khế”,
hay bộ luật Hồng Đức đã quy định các khung hình phạt, trách nhiệm pháp lý đối với
các quan lại khi họ phạm vào tội hiếp dâm, cưỡng bức, xâm hại đến thân thể những
người phụ nữ, con gái mới lớn.
Điều đó đã được quy định cụ thể thông qua Điều 402: “Quyến rũ con gái chưa
chồng, thì xử như tội gian dâm thường và phải nộp tiền tạ, nhiều ít tính theo bậc sang
hèn, trả cho cha mẹ người con gái, người con gái bị quyến rũ không phải tội”, hay
Điều 403 quy định “Hiếp dâm thì xử tội lưu hay tội chết và phải nộp tiền tạ hơn tiền tạ
về tội gian dâm thường một bậc”.
Trong trường hợp vi phạm những tội nêu trên mà làm cho người phụ nữ bị
thương thì xử tội nặng hơn tội đánh người bị thương một bậc, nếu làm người phụ nữ
chết thì tất cả điền sản của người có tội sẽ bị tịch thu để trả cho bên thiệt hại (bên gia
đình người con gái). Bên cạnh đó, Quốc Triều hình luật cũng đã quy định về việc xử
phạt nghiêm khắc đối những người có hành vi gian dâm với con gái dưới 12 tuổi được
quy định ở Điều 404, bộ luật này.
Với những chế định nêu trên, các nhà làm luật đã có những khung hình phạt xác
đáng nhằm trừng trị những kẻ phạm tội. Song song với đó là sự tiến bộ, nhân văn trong
kỹ thuật lập pháp hiện đại, khi các nhà làm luật không những bảo vệ cho quyền lợi của
người phụ nữ phong kiến, mà ngay cả những bé gái khi ở độ tuổi chưa trưởng thành
cũng được bảo vệ một cách đặc biệt quan trọng.
KẾT LUẬN
Trong xã hội phong kiến đương thời, vai trò và quyền lợi của người phụ nữ mặc
nhiên được coi là không quan trọng, tất yếu bởi mọi người đề cao tư tưởng Nho giáo,
đi theo lối mòn với quan niệm “ trọng nam khinh nữ ”. Điều đó, phần nào đã dẫn đến
quá trình lập pháp của các Triều đại phong kiến trước mang đậm lối tư duy lệch lạc,
không tiến bộ, vị thế của người phụ nữ dường như không được đề cao trong giai cấp
xã hội.
Tuy nhiên, đến với Triều đại Hậu Lê, Quốc Triều hình luật đã vượt lên trên bờ
cõi của những hạn chế về học thuyết Nho giáo, với chế độ phong kiến đương thời, đã
mang đến nhiều sự tiến bộ, hiện đại, tính nhân văn sâu sắc trong từng lĩnh vực đời
sống xã hội: dân sự, hôn nhân, gia đình, tư pháp, cùng với các quan hệ xã hội khác.
Quốc Triều hình luật đã được xem như một bộ luật điển hình, hoàn thiện nhất trong
lịch sử nhà nước và pháp luật phong kiến Việt Nam bởi sự tiếp cận, lĩnh hội với lối tư
duy lập pháp hiện đại, quy định rõ, tường tận về những điều lệ, bảo vệ quyền lợi của
người phụ nữ trong xã hội cũ.
Chương 2
2.1. Mối tương quan giữa pháp luật nhà Hậu Lê và nhà Nguyễn trong việc
bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ
Tồn tại ở một thời đại mà tư tưởng về đạo đức Nho giáo luôn được xem là
chuẩn mực, thước đo cho mọi hành vi của con người, với những quan niệm khắt khe,
sự bất bình đẳng trong gia đình, xã hội giữa nam giới và nữ giới đã khiến cho địa vị
của người phụ nữ dần được đánh giá là thấp kém hơn cả. Tuy nhiên, khi Quốc Triều
hình luật ra đời, đã đánh dấu cột mốc to lớn đối với quyền lợi của người phụ nữ, họ
được tôn trọng hơn và được pháp bảo vệ trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Thế nhưng, câu hỏi được đặt ra, liệu rằng khi Triều đại nhà Lê suy yếu thì
quyền lợi và vai trò của người phụ nữ có còn được pháp luật bảo vệ? Để trả lời được
câu hỏi trên, trước hết cần phải hiểu rõ các Triều đại đi sau, cụ thể là pháp luật nhà
Nguyễn đã kế thừa pháp luật nhà Lê như thế nào trong việc bảo vệ quyền lợi của người
phụ nữ.
2.1.1. Trong lĩnh vực Dân sự
Đối với chế định về quyền tài sản, Hoàng Việt Luật Lệ đã quy định rõ các điều
luật thể hiện quyền thừa kế đối với tài sản của người phụ nữ, cụ thể là Điều 83: “Khi
phân chia gia tài, điền sản thì không phân biệt con của thê, thiếp, nô tì sinh ra mà phải
chia đều cho số con”, “Tài sản của hộ mà đồng tông quả là không có người thừa kế thì
giao cho con gái họ nhận lãnh”.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, trong chế định về quyền tài sản Quốc Triều
hình luật và Hoàng Việt Luật Lệ đã không có sự phân biệt giữa người thừa kế là con
trai hay con gái. Tuy nhiên, đối với Quốc Triều hình luật, quyền thừa hưởng tài sản
của “con vợ lẽ, nàng hầu thì phải kém hơn” (Điều 388), “Điền sản vợ chồng làm ra thì
chia làm hai, vợ chồng mỗi người một phần” (Điều 375), đối với Bộ luật Gia Long thì
không có sự phân biệt giữa con của thê, thiếp hay nàng hầu, tất cả đều được phân chia
bằng nhau. Điều đó đã trở thành một điểm tiêu biểu, tiến bộ trong hệ thống pháp luật
nhà Nguyễn. Thế nhưng, bởi chịu sự ảnh hưởng to lớn của hệ tư tưởng Nho giáo, nên
hệ thống pháp luật nhà Nguyễn đã không quy định một cách cụ thể như Quốc Triều
hình luật, quyền lợi về tài sản của người phụ nữ hoàn toàn phụ thuộc và dưới sự quản
lý của người chồng.
2.1.3. Trong việc bảo vệ tính mạng, danh dự, nhân phẩm
Mặc dù, hệ thống pháp luật của Triều đại nhà Nguyễn được xây dựng dựa trên
cơ sở tư tưởng chính trị - đạo đức Nho giáo, thế nhưng, các nhà làm luật vẫn luôn đề
cao tính mạng, danh dự và nhân phẩm của người phụ nữ phong kiến. Điển hình tại
Điều 94 quy định: “tuy đã nộp đồ sính lễ nhưng chưa đến ngày nghinh hôn mà nhà trai
đến cưỡng bách đón dâu thì chủ hôn nhà trai bị phạt 50 roi”, hay quyền lợi của người
phụ nữ được thể hiện ở chỗ, dù nhà trai hay nhà gái bội ước thì đều bị xử phạt như
nhau, không có sự phân biệt giữa nhà trai và nhà gái. Ngoài ra, Hoàng Việt Luật Lệ xử
phạt rất nghiêm khắc đối với những kẻ thực hiện hành vi xâm phạm thân thể, cưỡng
đoạt, ức hiếp trẻ em và phụ nữ, trường hợp vi phạm sẽ bị xử “thắt cổ” theo Điều 105.
Như vậy, so với Quốc Triều hình luật, Bộ luật Gia Long đã có những khung
hình phạt nặng và khắc nghiệt hơn đối với những kẻ phạm vào điều cưỡng bức, chiếm
đoạt. Tuy nhiên, đối với chế định bảo vệ danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ trong
hôn nhân thì Quốc Triều hình luật đã có cái nhìn rộng hơn và xác đáng hơn trong việc
xử phạt cũng như bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ.
2.2. Sự kế thừa những giá trị tốt đẹp của Quốc Triều hình luật trong việc
xây dựng nhà nước Việt Nam
Quốc Triều hình luật và Hoàng Việt Luật Lệ đều đã mang lại những giá trị nhân
văn sâu sắc trong việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Tuy nhiên, khi soi rọi trên
hệ trục tư tưởng Nho giáo, Bộ luật nhà Lê đã thực sự cho chúng ta biết rõ về những
gạch nối giữa: quá khứ - hiện tại - tương lai, các quy định về quyền lợi của người phụ
nữ là thông điệp nhân văn, tiến bộ, tân kỳ mà Quốc Triều hình luật đã để lại cho nhà
nước ta ngày hôm nay. Nhiều chế định giải quyết các mối quan hệ về hôn nhân, gia
đình, dân sự, tư pháp,... trong việc xây dựng nhà nước Việt Nam phần nào đã kế thừa
những giá trị tốt đẹp của Quốc Triều hình luật.
KẾT LUẬN