You are on page 1of 43

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

. .
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
. .

Số: 4152/BC-BKHĐT Hà Nội, ngày 01 tháng 6 năm 2023

BÁO CÁO
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng năm 2023
(Tài liệu phục vụ Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5 năm 2023)
. .

Kính gửi: Chính phủ

Căn cứ chương trình Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5, trên cơ sở
báo cáo của các bộ, ngành trung ương và địa phương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
tổng hợp và xin báo cáo Chính phủ tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng
năm 2023 như sau:
I. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 5 VÀ 5 THÁNG NĂM 2023
Bối cảnh thế giới tiếp tục biến động phức tạp, khó lường. Cạnh tranh
chiến lược nước lớn gay gắt hơn, kéo theo sự tham gia của nhiều quốc gia, khu
vực; chính sách tiền tệ thắt chặt tác động mạnh hơn tới doanh nghiệp, các hoạt
động kinh tế, đầu tư, tiêu dùng toàn cầu; nhiều nền kinh tế lớn tăng trưởng chậm
lại, thậm chí rơi vào suy thoái, trong khi lạm phát vẫn ở mức cao, rủi ro tăng trở
lại; Trung Quốc phục hồi chưa bền vững; rủi ro hệ thống ngân hàng, nợ công, nợ
của doanh nghiệp,… gia tăng; phát triển kinh tế xanh, bảo vệ môi trường vừa là
cơ hội, nhưng cũng là thách thức khi nhiều quốc gia phát triển sử dụng để tạo
hàng rào nhập khẩu;…
Trong nước, Hội nghị Trung ương 7 đã thành công tốt đẹp, quyết định
nhiều chủ trương, nội dung quan trọng. Kỳ họp thứ 5 của Quốc hội được khai
mạc để xem xét, quyết nghị, cho ý kiến về nhiều vấn đề quan trọng được cử tri
cả nước quan tâm như Luật về đất đai, đấu thầu, hợp tác xã, xuất nhập cảnh,…;
cơ chế đặc thù cho Tp. Hồ Chí Minh; giảm thuế giá trị gia tăng,… Nhiều chính
sách, giải pháp được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt, kịp
thời từ đầu năm đã bước đầu phát huy hiệu quả. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định,
lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm. Chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) bình quân 5 tháng tăng 3,55% so với cùng kỳ. Hoạt động sản xuất, kinh
doanh tiếp tục có chuyển biến. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP)
tháng 5 ước tăng 2,2% so với tháng trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế
tạo ước tăng 2,9%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
tháng 5 ước tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước, tính chung 05 tháng tăng
12,6%. Tập trung làm tốt công tác an sinh xã hội, cải thiện đời sống người dân.
2

Các lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch, thông tin tuyên truyền tiếp tục được
quan tâm, đẩy mạnh. Quốc phòng an ninh được bảo đảm, hoạt động đối ngoại
được tăng cường.
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, với vị thế là một nền
kinh tế có độ mở lớn, quy mô còn khiêm tốn và năng lực cạnh tranh quốc tế
còn hạn chế, kinh tế nước ta tiếp tục chịu ảnh hưởng nặng nề bởi bối cảnh
kinh tế thế giới, nhất là xuất nhập khẩu, công nghiệp chế biến chế tạo, thu hút
đầu tư… Hoạt động sản xuất kinh doanh, sản xuất công nghiệp, xuất khẩu, thị
trường bất động sản, đầu tư trong nước và thu hút FDI , tình hình doanh
nghiệp, lao động việc làm,… tiếp tục gặp nhiều khó khăn; khả năng hấp thụ
vốn của nền kinh tế còn hạn chế. Chỉ số quản trị nhà mua hàng (PMI) tháng 5
chỉ đạt 45,3 điểm, kéo dài xu hướng phản ánh sản xuất, đơn hàng yếu đi từ
cuối năm 2022. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) 05 tháng giảm
2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 8,1%). Du lịch có dấu
hiệu chậm lại, khách quốc tế đến nước ta tháng 5 giảm 6,9% so với tháng
trước. Doanh nghiệp đối mặt với thách thức lớn để tồn tại, duy trì sản xuất
kinh doanh, chờ đợi cơ hội tích cực hơn từ thị trường. Tính chung 05 tháng,
có hơn 88 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 22,6% so với cùng
kỳ năm 2022. Do đó, cần có các giải pháp chỉ đạo, điều hành quyết liệt, chủ
động, phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ hơn; phát huy kết quả đã đạt được, tranh
thủ mọi nguồn lực, cơ hội, tận dụng thời gian để phục hồi kinh tế, thực hiện
các giải pháp trong trung và dài hạn như tăng trưởng xanh, kinh tế số, kinh tế
tuần hoàn,...
1. Về công tác chỉ đạo, điều hành
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt, sát sao các bộ,
ngành, địa phương bảo đảm chất lượng, tiến độ các nội dung phục vụ Hội nghị
Trung ương giữa nhiệm kỳ, Kỳ họp thứ 5 của Quốc hội; điều hành linh hoạt, hiệu
quả, thích ứng với tình hình mới của thế giới và trong nước; chỉ đạo Thành viên
Chính phủ làm việc với các địa phương, các địa phương thành lập Tổ công tác
đặc biệt để tháo gỡ ngay vướng mắc cho doanh nghiệp, dự án đầu tư; chấn chỉnh,
tăng cường trách nhiệm trong xử lý công việc của các bộ, cơ quan, địa phương,
cán bộ, công chức.
Tính chung 05 tháng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức hơn 700
cuộc họp, hội nghị, hoạt động đối ngoại; ban hành 25 Nghị định, 101 Nghị quyết,
15 quyết định quy phạm pháp luật, 618 quyết định cá biệt, 36 công điện, 17 chỉ
thị. Tập trung chỉ đạo triển khai các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Bộ Chính trị,
Quốc hội; hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh; tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp, thị
trường bất động sản, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế, tiền sử dụng đất; tăng khả
năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, thực hiện chủ trương giảm lãi suất cho vay, cơ
cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ. Đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ giải
3

ngân vốn đầu tư công; khởi công một số đoạn tuyến cao tốc phía Bắc, khánh
thành một số dự án giao thông trọng điểm, đoạn tuyến cao tốc Bắc – Nam phía
Đông; thu hút FDI. Giải quyết các vấn đề tồn tại lâu năm về một số ngân hàng,
doanh nghiệp yếu kém, dự án chậm tiến độ,…; đẩy nhanh tiến độ quy hoạch; xử
lý vướng mắc, bất cập trong các lĩnh vực y tế, đăng kiểm, quy định phòng cháy
chữa cháy,…
Trong tháng 5, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch điện VIII,
khơi thông nguồn lực đối với các dự án năng lượng điện tái tạo, góp phần bảo
đảm an ninh năng lượng quốc gia; ban hành Công điện số 469/CĐ-TTg, số
470/CĐ-TTg để chỉ đạo thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thị trường bất động sản; Công điện số
436/CĐ-TTg để đôn đốc xử lý đề xuất, kiến nghị của địa phương, bộ ngành; Công
điện số 397/CĐ-TTg chủ động ứng phó với nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm
nhập mặn; Chỉ thị số 15/CT-TTg chỉ đạo đẩy mạnh tiến độ công tác quy hoạch,…
2. Tình hình sản xuất kinh doanh và phát triển các ngành, lĩnh vực
tháng 5 và 5 tháng năm 2023
(1) Về tình hình kinh tế vĩ mô
a) Về chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2023 tăng 0,01% so với tháng 04/2023,
chủ yếu do giá lương thực, thực phẩm tăng, giá điện, nước sinh hoạt tăng do thời
tiết nắng nóng kéo dài, tăng 0,4% so với tháng 12/2022 và tăng 2,43% so với
cùng kỳ năm 2022. Bình quân 5 tháng đầu năm 2023, CPI tăng 3,55% so với
cùng kỳ năm 2022, tiếp tục xu hướng giảm (4 tháng tăng 3,84%) dù đã điều
chỉnh tăng giá điện tăng 3% từ ngày 4/5/2023; lạm phát cơ bản1 tăng 4,83% (04
tháng tăng 5,9%, quý I tăng 5,01%).
Trong mức tăng 0,01% của CPI tháng 5/2023 so với tháng trước, có 08
nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 03 nhóm hàng có chỉ số giá giảm.
(1) 08 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:
- Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng mạnh nhất 1,01%, chủ yếu do thời
tiết nắng nóng kéo dài, dẫn đến nhu cầu sử dụng điện của người dân tăng lên 2;
giá gas tăng 0,31% so với tháng 4/2023 do điều chỉnh tăng 2.000 đồng/bình từ
ngày 01/5/2023 sau khi giá gas thế giới tăng 5 USD/tấn (từ mức 550 USD/tấn
lên mức 555 USD/tấn). Ngược lại, giá dầu hỏa giảm 5,93% so với tháng trước
do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá ngày 04/5/2023, 11/5/2023 và

1
CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống, năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm
dịch vụ y tế và giáo dục.
2
Giá điện sinh hoạt tháng Năm tăng 2,62% so với tháng trước; giá nước sinh hoạt tăng 2,19%.
4

22/5/2023; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở giảm 0,15% do giá thép giảm khi giá
quặng sắt trên thị trường thế giới giảm.
- Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,24% so với tháng trước, trong đó
giá dịch vụ du lịch trọn gói tăng 0,67%; nhà khách, khách sạn tăng 0,38% do
nhu cầu đi du lịch tăng cao trong dịp nghỉ lễ 30/4 và 01/5.
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,24% (làm CPI chung tăng 0,08
điểm phần trăm), trong đó: Lương thực tăng 0,29% 3 (làm CPI chung tăng 0,01
điểm phần trăm); thực phẩm tăng 0,22%4 (làm CPI chung tăng 0,05 điểm phần
trăm); ăn uống ngoài gia đình tăng 0,26%5 (tác động làm CPI tăng 0,02 điểm
phần trăm) do nhu cầu tiêu dùng tăng do thời tiết nắng nóng và dịp nghỉ lễ 30/4
và 1/5.
- Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,23%, chủ yếu ở mặt hàng đồ dùng
cá nhân tăng 0,46%; hàng chăm sóc cơ thể tăng 0,33%; dịch vụ phục vụ cá nhân
tăng 0,29%; dịch vụ hiếu hỉ tăng 0,22%.
- Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,16% do nhu cầu tiêu dùng
tăng trong thời tiết nắng nóng. Trong đó, giá điều hòa nhiệt độ tăng 0,61% so
với tháng trước; giá quạt điện tăng 0,41%; máy đánh trứng, trộn đa năng tăng
0,87%; máy xay sinh tố, máy ép hoa quả tăng 0,01% và thiết bị gia đình lớn
có động cơ tăng 0,2%.
- Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,13% do nhu cầu tiêu dùng đồ uống giải
khát tăng, cụ thể: Giá nước khoáng tăng 0,16% so với tháng trước; nước giải
khát có ga tăng 0,14%; nước quả ép tăng 0,47%. Rượu các loại tăng 0,13%; bia
các loại tăng 0,21% và thuốc hút tăng 0,02%.
- Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,1% do nhu cầu tiêu các mặt
hàng mũ nón, giày dép và dịch vụ may mặc tăng trong mùa hè. Trong đó, giá
quần áo may sẵn tăng 0,08%; mũ nón tăng 0,31%; giày dép tăng 0,11%; dịch vụ
may mặc tăng 0,26% và dịch vụ giày dép tăng 0,27%.
- Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,04%, chủ yếu do tăng giá một số loại
thuốc cảm cúm và vitamin do nhu cầu tăng vào thời tiết giao mùa.
(2) 03 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm:

3
Chỉ số nhóm gạo tăng 0,27% (Gạo tẻ thường tăng 0,28%; gạo tẻ ngon tăng 0,23%; gạo nếp tăng 0,2%) do giá
gạo xuất khẩu tiếp tục ở mức cao. Bên cạnh đó, giá các mặt hàng lương thực chế biến khác như giá mỳ sợi, mỳ,
phở, cháo ăn liền tháng Năm tăng 0,53% so với tháng trước; bột mì tăng 0,48%; bột ngô tăng 0,25% và bánh mì
tăng 0,37%.
4
Giá thịt lợn tháng Năm tăng 1,32% do nhu cầu ăn uống của người dân tăng trong dịp nghỉ lễ 30/4-1/5; giá thịt
bò tăng 0,04%; giá nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 0,87%; giá dầu mỡ ăn và chất béo khác tăng 0,09%. Bên
cạnh các mặt hàng tăng giá, một số mặt hàng thực phẩm trong tháng có giá giảm so với tháng trước: Giá thịt gia
cầm giảm 0,17% do nguồn cung được bảo đảm; giá trứng các loại giảm 1,21%; giá thủy sản tươi sống giảm
0,06%; giá quả tươi, chế biến giảm 1,94%.
5
Giá uống ngoài gia đình tăng 0,83%; giá ăn ngoài gia đình tăng 0,18%; đồ ăn nhanh mang đi tăng 0,26%.
5

- Nhóm giáo dục giảm 0,1% (tác động làm CPI chung giảm 0,01 điểm phần
trăm) do một số địa phương điều chỉnh giảm mức học phí sau khi đã thu theo
Nghị quyết số 165/NQ-CP của Chính phủ6.
- Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,17% do giá phụ kiện điện thoại thông
minh giảm.
- Nhóm giao thông giảm 2,98% (tác động làm CPI chung giảm 0,29 điểm
phần trăm), chủ yếu do: Giá xăng trong nước giảm 7,83% (tác động làm CPI
chung giảm 0,28 điểm phần trăm) do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong
nước vào ngày 04/5/2023, 11/5/2023 và 22/5/2023; giá nhóm phương tiện đi lại
giảm 0,07%. Ngược lại, một số mặt hàng tăng giá như: Giá vận tải hành khách
bằng đường bộ tăng 0,06%; đường sắt tăng 2,53%; đường hàng không tăng
0,45% do nhu cầu đi lại dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5 tăng; phí thuê ô tô, xe máy tự lái
tăng 0,08%; phí học bằng lái xe tăng 0,57% do nhu cầu cao; giá dịch vụ bảo
dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,19%, trong đó giá sửa chữa xe máy tăng 0,18%
và sửa chữa xe đạp tăng 0,23%.
Lạm phát cơ bản tháng 5/2023 tăng 0,27% so với tháng trước và tăng 4,54%
so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 5 tháng đầu năm 2023, lạm phát cơ bản tăng
4,83% so với cùng kỳ năm 2022, cao hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,55%).
Nguyên nhân chủ yếu do bình quân giá xăng dầu trong nước 5 tháng đầu năm 2023
giảm 15,27% so với cùng kỳ, giá gas giảm 8,51%, kiềm chế tốc độ tăng của CPI
nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính lạm phát cơ bản.
b) Về thị trường tiền tệ, hoạt động ngân hàng và thị trường chứng khoán
Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chắc chắn, linh hoạt, chủ động, kịp
thời, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế
vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu, góp phần ổn định kinh tế vĩ
mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, thích ứng kịp thời với diễn biến thị
trường trong và ngoài nước, duy trì ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối. Trong
đó:
- Điều hành nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt nhằm hỗ trợ thanh khoản
cho các tổ chức tín dụng ổn định thị trường tiền tệ, hỗ trợ tăng cung tiền, giảm
mặt bằng lãi suất trên cơ sở bám sát chỉ đạo của Chính phủ, mục tiêu điều hành
chính sách tiền tệ và theo dõi sát diễn biến thị trường tiền tệ, tình hình vốn khả
dụng của các tổ chức tín dụng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục
duy trì các phiên chào mua giấy tờ có giá hàng ngày với kỳ hạn phù hợp, khối
lượng chào mua 10.000 tỷ đồng/kỳ hạn/phiên, lãi suất chào mua ở mức
5,0%/năm.
6
Yêu cầu các địa phương giữ ổn định mức thu học phí năm học 2022-2023 như năm học 2021-2022 để tiếp tục
hỗ trợ cho người dân
6

- Điều hành tín dụng: Tiếp tục chỉ đạo tổ chức tín dụng hướng tín dụng vào
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng
nền kinh tế; thực hiện các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong
tiếp cận vốn tín dụng; đa dạng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đơn giản hóa thủ tục
cho vay, niêm yết công khai, minh bạch các thủ tục, quy trình vay vốn; nâng cao
hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm khách hàng để tăng cường cho
vay không có bảo đảm bằng tài sản...; đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, hiệu
quả; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Đến
ngày 15/5/2023, huy động vốn tăng 2,04% (huy động VND tăng 3,57%, huy động
ngoại tệ giảm 14,43%), tín dụng đối với nền kinh tế tăng 2,69% 7 (tín dụng VND
tăng 2,39%, tín dụng ngoại tệ tăng 9,35%) so với cuối năm 2022.
- Điều hành lãi suất: Giữ ổn định lãi suất điều hành sau 02 lần giảm và
thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp để phấn đấu giảm lãi suất cho vay như
khuyến khích tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí để ổn định mặt bằng lãi suất cho
vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh; làm
việc với các ngân hàng thương mại đề nghị giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ
doanh nghiệp, nền kinh tế phục hồi sản xuất kinh doanh. Đến nay, về cơ bản mặt
bằng lãi suất đã ổn định, lãi suất tiền gửi và cho vay mới có xu hướng giảm dần.
Lãi suất tiền gửi bình quân của các ngân hàng thương mại ở mức khoảng
6,19%/năm (giảm 0,29% so với cuối năm 2022); lãi suất cho vay bình quân VND
ở mức khoảng 9,22%/năm (giảm 0,7%/năm so với cuối năm 2022)8.
- Điều hành tỷ giá: Tiếp tục điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với tình
hình thị trường trong và ngoài nước, thực hiện can thiệp thị trường linh hoạt
nhằm ổn định thị trường ngoại tệ. Từ giữa tháng 4 đến nay, tỷ giá giao dịch
trên thị trường chủ yếu giao dịch trong khoảng 23.450 -23.474 VND/USD.
VND duy trì tương đối ổn định so với một số đồng tiền trên thế giới, thanh
khoản thị trường thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy
đủ, kịp thời. Tiếp tục mua được ngoại tệ từ các TCTD, bổ sung Dự trữ ngoại
hối Nhà nước. Ngày 19/5/2023, tỷ giá trung tâm ở mức 23.680 VND/USD,
tăng 0,25% so với cuối năm 2022; tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường
liên ngân hàng khoảng 23.435 VND/USD, giảm 0,59% so với cuối năm 2022;
tỷ giá niêm yết mua/bán của Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương ở
mức 23.280/23.620 VND/USD, giảm 0,56%/0,46% cuối năm 2022. 
 - Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu: Công tác
thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam chú trọng và tăng cường nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm các rủi
ro, tồn tại và sai phạm của tổ chức tín dụng, góp phần bảo đảm an ninh, kỷ luật
7
Dư nợ tín dụng đến ngày 29/5 chỉ tăng 3,08% (cùng kỳ năm 2022 tăng 7,93%).
8
Lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân gia quyền phát sinh mới trong kỳ báo cáo của 44 NHTM.
7

trên thị trường tiền tệ, ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại Nhà nước tiếp tục
đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các tổ chức tín dụng cũng như tham gia
hỗ trợ, xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém. Các ngân hàng thương mại cổ phần
về cơ bản tập trung củng cố, chấn chỉnh toàn diện các mặt tài chính, quản trị, xử
lý nợ xấu, tăng cường các biện pháp kiểm soát nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch
trong hoạt động. Tiếp tục triển khai quyết liệt các nhiệm vụ được giao tại Đề án
689. Đến cuối tháng 3/2023, tỷ lệ nợ xấu nội bảng tiếp tục được kiểm soát dưới
3%. Trong 3 tháng đầu năm 2023, toàn hệ thống đã xử lý được khoảng 50,2
nghìn tỷ đồng nợ xấu.
- Diễn biến thị trường vàng: Giá vàng trong nước biến động cùng chiều
với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 25/5/2023, bình quân giá vàng thế giới ở
mức 2.005,44 USD/ounce, tăng 0,06% so với tháng 4/2023 do lo ngại về những
bất ổn của hệ thống tài chính và dấu hiệu suy thoái kinh tế. Bên cạnh đó, giá
vàng thế giới tăng mạnh sau quyết định tăng lãi suất lần thứ 10 liên tiếp của Cục
Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) vào ngày 03/5/2023, tăng lãi suất cơ bản thêm 0,25
điểm phần trăm đưa lên mức 5%-5,25%, cao nhất kể từ mùa hè năm 2007.
Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 5/2023 tăng 1,02% so với tháng trước; tăng
3,97% so với tháng 12/2022; tăng 0,44% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 5
tháng đầu năm 2023 tăng 0,62%.
- Về thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN): Có 448 mã niêm yết; quy
mô giao dịch bình quân tháng 5 đạt 6,56 nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% so với tháng
trước; bình quân 5 tháng đạt 5,6 nghìn tỷ đồng, giảm 27,3% so với năm 2022.
Kể từ khi Nghị định 08/2023/NĐ-CP có hiệu lực thi hành (từ ngày
05/3/2023 đến ngày 26/5/2023), khối lượng TPDN phát hành là 25,5 nghìn tỷ
đồng, chiếm 96,7% khối lượng phát hành kể từ đầu năm 2023 9; khối lượng mua
lại trước hạn 40,5 nghìn tỷ đồng. Một số doanh nghiệp đã đàm phán với nhà đầu
tư để kéo dài kỳ hạn hoặc chuyển khoản nợ sang tài sản khác. Dư nợ TPDN tại
thời điểm ngày 26/5/2023 khoảng 1,09 triệu tỷ đồng, chiếm 11,5% GDP năm
2022, trong đó trái phiếu của các doanh nghiệp bất động sản chiếm khoảng 33%,
tổ chức tín dụng chiếm khoảng 31%, các doanh nghiệp sản xuất, thương mại và
lĩnh vực khác chiếm 36%. So với tín dụng ngân hàng, quy mô thị trường TPDN
hiện bằng khoảng 8,9%.
- Về thị trường chứng khoán: Trong tháng 5, diễn biến thị trường chứng
khoán có các phiên tăng, giảm đan xen, có xu hướng tăng. Tính đến ngày
30/5/2023, VN-Index đạt 1.078,05 điểm, tăng 2,8% so với cuối tháng trước, tăng

9
Trong 5 tháng đầu năm 2023 (tính đến ngày 19/5/2023) đã phát hành 26,4 nghìn tỷ đồng, chủ yếu của doanh
nghiệp bất động sản (94%); cơ cấu nhà đầu tư chủ yếu là các tổ chức tín dụng (chiếm 74%), nhà đầu tư cá nhân
chỉ chiếm 0,6%; 94% trái phiếu phát hành có tài sản đảm bảo.
8

7% so với cuối năm 2022; quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 5.599 nghìn
tỷ đồng, tăng 7,1% so với cuối năm 2022.
Hiện có 753 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên 2 Sở giao dịch
chứng khoán, 856 cổ phiếu đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM và 7,06 triệu tài
khoản đầu tư chứng khoán. Giá trị giao dịch tháng 5 bình quân đạt 14,25 nghìn
tỷ đồng/phiên, tăng 6,6% so với tháng trước, bình quân 5 tháng đạt khoảng 12,3
nghìn tỷ đồng, giảm 39% so với bình quân năm 2022.

Tiếp tục hoàn thiện các đề án lớn về chiến lược phát triển, cơ cấu lại thị
trường chứng khoán, thành lập sàn giao dịch vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo... Đồng thời, đã tích cực làm việc với các tổ chức xếp hạng thị trường
như FTSE Russell và MSCI nhằm tìm hiểu các tiêu chí phân loại thị trường của
các tổ chức này và trao đổi thông tin về các nỗ lực từ phía các cơ quan quản lý
của Việt Nam để đảm bảo các điều kiện thực hiện mục tiêu nâng hạng thị trường
chứng khoán.

Bên cạnh đó, tiếp tục tăng cường công tác quản lý, giám sát, thanh tra,
kiểm tra các công ty đại chúng và tổ chức kinh doanh chứng khoán nhằm đảm
bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường; đã ban hành 146 quyết định xử phạt,
với tổng số tiền xử phạt 14,6 tỷ đồng.

c) Về thu, chi ngân sách nhà nước (NSNN)


Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước 5 tháng đầu năm ước đạt 778 nghìn
tỷ đồng, bằng 48% dự toán, bằng 95,3% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó,
thu nội địa đạt 48,4% dự toán, bằng 98,5%; thu từ dầu thô đạt 61,6% dự toán,
giảm 11,2%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 44,55% dự
toán, giảm 19,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Tổng số tiền đã miễn, giảm, gia hạn ước tính đến hết tháng 5 khoảng 63,16
nghìn tỷ đồng, trong đó: miễn, giảm khoảng 25,16 nghìn tỷ đồng; gia hạn khoảng
38 nghìn tỷ đồng.
Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước 5 tháng đầu năm ước đạt 653,1
nghìn tỷ đồng, bằng 31,5% dự toán, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2022, trong
đó: chi đầu tư phát triển ước đạt 21,6% dự toán Quốc hội quyết định, bằng
22,22% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao; chi trả nợ lãi ước đạt 41,8% dự
toán; chi thường xuyên ước đạt 38,6% dự toán.
Các nhiệm vụ chi ngân sách trong 5 tháng đầu năm được thực hiện theo dự
toán, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà
nước và thanh toán các khoản nợ đến hạn, đảm bảo kinh phí phòng, chống dịch,
các nhiệm vụ chi an sinh xã hội, chăm lo cho các đối tượng hưởng lương, lương
9

hưu và trợ cấp xã hội từ NSNN. Bên cạnh đó, thực hiện Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ, đã thực hiện xuất cấp 18,3 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để
khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cứu trợ, cứu đói cho nhân dân trong dịp
Tết Nguyên đán và giáp hạt đầu năm.
Cân đối ngân sách trung ương và ngân sách các cấp địa phương được đảm
bảo. Tính đến ngày 25/5/2023, đã thực hiện phát hành gần 162,3 nghìn tỷ đồng
trái phiếu Chính phủ, kỳ hạn bình quân 12,18 năm, lãi suất bình quân 3,8
%/năm.
d) Về đầu tư phát triển
- Vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước thực hiện 5 tháng năm 2023 ước
đạt 177 nghìn tỷ đồng, bằng 25,5% kế hoạch năm và tăng 18,4% so với cùng kỳ
năm trước (cùng kỳ năm 2022 bằng 24,9% và tăng 10,8%).
Ước thanh toán từ đầu năm đến ngày 31/5/2023 theo báo cáo của Bộ Tài
chính là 157.095,4 tỷ đồng, đạt 22,22% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ
giao10, tương đương cùng kỳ năm 2022 (22,37%) tuy nhiên về số tuyệt đối cao
hơn 41.172,9 tỷ đồng (cao hơn 35,5%) so với số vốn kế hoạch đầu tư vốn
NSNN đã giải ngân trong 5 tháng đầu năm 2022. Trong đó: vốn trong nước là
153.733,7 tỷ đồng (đạt 22,64% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao), vốn nước
ngoài là 3.361,6 tỷ đồng (đạt 12,02% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao).
Có 07 bộ, cơ quan trung ương và 24 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt
trên 25% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao11; 44 bộ, cơ quan trung ương và
29 địa phương giải ngân dưới mức trung bình của cả nước (22,22% kế hoạch
Thủ tướng Chính phủ giao)12.
- Vốn đầu tư nước ngoài: Tính đến 20/05/2023, tổng vốn đăng ký cấp
mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà
ĐTNN đạt gần 10,86 tỷ USD, bằng 92,7% so với cùng kỳ, tăng 10,6 điểm phần
trăm so với 4 tháng đầu năm (04 tháng chỉ bằng 82,1% so với cùng kỳ). Vốn
thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 7,65 tỷ USD, giảm 0,8%
so với cùng kỳ năm 2022. Ngoài vốn đầu tư điều chỉnh giảm thì vốn đầu tư mới

10
Nếu tính so với số kế hoạch bao gồm cả số vốn các địa phương phân bổ vượt kế hoạch vốn cân đối NSĐP được
Thủ tướng Chính phủ giao thì tỷ lệ giải ngân đạt 14,66% kế hoạch; cùng kỳ năm 2022 đạt 17,09% kế hoạch.
11
Một số Bộ, địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt cao gồm: Ngân hàng phát triển Việt Nam (100%), Tiền Giang
(49,22%), Đồng Tháp (46,9%), Thành phố Hải Phòng (44,37%), Long An (43,51%), Tây Ninh (40,66%), Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (40,04%).
12
Trong đó:
- Đối với Bộ Xây dựng: Hiện nay đang trình cấp có thẩm quyền cho phép điều chỉnh kế hoạch đầu tư vốn 105 tỷ
đồng sang Đại học Quốc gia Hà Nội. Trường hợp được cấp có thẩm quyền cho phép, tỷ lệ giải ngân của Bộ Xây
dựng là 6,8% kế hoạch được giao.
- Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Nếu không tính khoản hỗ trợ lãi suất của các ngân hàng thương mại
(23.965,093 tỷ đồng), tỷ lệ giải ngân của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đạt 25,1% kế hoạch được giao.
10

và GVMCP tiếp tục tăng hơn so với cùng kỳ. FDI đăng ký tháng 5 đạt gần 2 tỷ
USD, gấp 2,2 lần cùng kỳ năm trước. Cụ thể:
+ Vốn đăng ký cấp mới có 962 dự án mới được cấp phép (tăng 66,4% so
với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký đạt hơn 5,26 tỷ USD (tăng 27,8% so với cùng kỳ).
+ Vốn đăng ký điều chỉnh có 485 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư
(tăng 22,8% so với cùng kỳ), tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt gần 2,28 tỷ USD
(giảm 59,4% so với cùng kỳ).
+ Vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 1.278
lượt với tổng giá trị vốn góp đạt hơn 3,32 tỷ USD, giảm 5,6% về số dự án và
tăng 67,2% so với cùng kỳ năm trước. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào
18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt hơn 6,64 tỷ USD, chiếm
61,2% tổng vốn đầu tư đăng ký và giảm 2,5% so với cùng kỳ. Ngành hoạt động
tài chính, ngân hàng đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư hơn 1,53 tỷ USD, chiếm
hơn 14,1% tổng vốn đầu tư đăng ký và tăng hơn 12 lần so với cùng kỳ. Các
ngành kinh doanh bất động sản, hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ xếp
thứ 3 và 4 với tổng vốn đăng ký đạt lần lượt là gần 1,16 tỷ USD (giảm 61,3%)
và 481 triệu USD (tăng 28,3%). Còn lại là các ngành khác.
Xét về số lượng dự án mới, công nghiệp chế biến chế tạo cũng là ngành
dẫn đầu về số dự án mới (chiếm 29,5%) và điều chỉnh vốn (chiếm 55,1%). Bán
buôn, bán lẻ dẫn đầu về số giao dịch GVMCP (chiếm 41,3%).
Đã có 82 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam trong 05 tháng
đầu 2023. Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư hơn 2,53 tỷ USD,
chiếm hơn 23,3% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, giảm 14,3% so với cùng kỳ
2022; Nhật Bản đứng thứ hai với gần 2,1 tỷ USD, chiếm gần 19,1% tổng vốn
đầu tư, gấp gần 2,2 lần so với cùng kỳ. Trung Quốc đứng thứ 3 với tổng vốn đầu
tư đăng ký gần 1,61 tỷ USD, chiếm 14,8% tổng vốn đầu tư, tăng 41,9% so với
cùng kỳ. Tiếp theo là Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc,..
Xét về số dự án, Hàn Quốc dẫn đầu cả về số dự án mới (chiếm 17,4%), số
lượt điều chỉnh vốn (chiếm 25,2%) và GVMCP (chiếm 28,5%).
Tính lũy kế đến ngày 20/05/2023, cả nước có 37.238 dự án còn hiệu lực
với tổng vốn đăng ký gần 447,67 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt gần 281,65 tỷ USD, bằng gần 62,9% tổng
vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Về đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài: Trong 5 tháng đầu năm 2023,
11

tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài cấp mới và điều chỉnh đạt gần
316,4 triệu USD (bằng 93,5% so với cùng kỳ). Trong đó, có 47 dự án được cấp
giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, với tổng vốn đăng ký đạt hơn 142,7 triệu
USD (bằng 48,6% so với cùng kỳ); có 16 lượt dự án điều chỉnh với tổng vốn đầu
tư tăng thêm gần 173,7 triệu USD (gấp gần 3,9 lần so với cùng kỳ). Có 20 quốc
gia, vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam trong 05 tháng đầu năm 2023. Dẫn
đầu là Canada với 01 dự án đầu tư mới và 01 dự án điều chỉnh vốn, tổng vốn
đầu tư đăng ký đạt hơn 150,2 triệu USD, chiếm 47,5% tổng vốn đầu tư. Tiếp
theo lần lượt là Singapore, Lào, Cuba,… Lũy kế đến 20/05/2023, Việt Nam đã
có 1.648 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư Việt Nam
gần 22,1 tỷ USD. Trong đó, có 141 dự án của các doanh nghiệp có vốn nhà
nước, với tổng vốn đầu tư ra nước ngoài gần 11,67 tỷ USD, chiếm gần 52,8%
tổng vốn đầu tư cả nước.
(2) Về tình hình sản xuất, kinh doanh
a) Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản
Sản xuất nông nghiệp tháng 05/2023 chủ yếu tập trung chăm sóc lúa đông
xuân tại các địa phương phía Bắc; chăm sóc, thu hoạch lúa, hoa màu vụ đông
xuân và xuống giống lúa hè thu tại các địa phương phía Nam. Chăn nuôi phát
triển khá, tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm được kiểm soát chặt chẽ. Sản xuất
lâm nghiệp ổn định, các địa phương tiếp tục trồng rừng mới tập trung theo kế
hoạch. Hoạt động nuôi trồng thủy sản đạt kết quả tích cực do áp dụng mô hình
nuôi tôm chất lượng cao hiệu quả.
- Về trồng trọt: Vụ lúa đông xuân năm 2023 cả nước gieo cấy được
2.952,1 nghìn ha, bằng 98,7% vụ đông xuân năm 2022, trong đó các địa phương
phía Bắc đạt 1.067,3 nghìn ha, bằng 99%; các địa phương phía Nam đạt 1.884,8
nghìn ha, bằng 98,5%. Năng suất gieo trồng ước đạt 68,3 tạ/ha, tăng 1,5 tạ/ha;
sản lượng thu hoạch ước đạt 20,2 triệu tấn, tăng 184,6 nghìn tấn. Diện tích lúa
đông xuân năm nay giảm 40,2 nghìn ha, trong đó: Các địa phương phía Bắc
giảm 10,8 nghìn ha, các địa phương phía Nam giảm 29,4 nghìn ha, chủ yếu do
chuyển đổi sang đất phi nông nghiệp phục vụ quá trình đô thị hóa và chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, mùa vụ, chuyển sang trồng cây hàng năm, cây lâu năm hoặc
nuôi trồng thủy sản cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Một số địa phương có diện
tích lúa đông xuân giảm nhiều bao gồm: Hà Nội giảm 1,1 nghìn ha; Hưng Yên
giảm 1,2 nghìn ha; Vĩnh Phúc giảm gần 3 nghìn ha; Bạc Liêu giảm 5 nghìn ha;
Vĩnh Long giảm 6,6 nghìn ha; Sóc Trăng giảm 7,8 nghìn ha.
12

Ở phía Bắc, tiến độ thu hoạch dự kiến chậm hơn so với cùng kỳ năm
trước do thời tiết lạnh kéo dài. Năng suất gieo trồng lúa vụ đông xuân ước đạt 64
tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha so với vụ đông xuân năm trước do thời tiết thuận lợi, cơ cấu
giống lúa phù hợp có khả năng chống chịu sâu bệnh cao; sản lượng lúa đông
xuân ước đạt 6,8 triệu tấn, tăng 128,2 nghìn tấn.
Ở phía Nam, tính đến trung tuần tháng 05/2023 cơ bản đã thu hoạch xong
lúa đông xuân. Theo báo cáo từ các địa phương, năng suất lúa đông xuân năm
2023 ước đạt 70,7 tạ/ha, tăng 1,4 tạ/ha so với vụ đông xuân năm 2022 do thời
tiết tương đối thuận lợi cho cây lúa sinh trưởng, phát triển và các mô hình trồng
lúa ứng dụng công nghệ cao tiếp tục được nhân rộng; sản lượng ước đạt 13,3
triệu tấn, tăng 56,5 nghìn tấn. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã kết
thúc vụ lúa đông xuân 2023 với diện tích gieo cấy đạt 1.478,7 nghìn ha, giảm
28,2 nghìn ha so với vụ đông xuân năm trước; năng suất đạt 72,2 tạ/ha, tăng 1,4
tạ/ha; sản lượng đạt 10,7 triệu tấn, tăng 8,1 nghìn tấn.
Cùng với thu hoạch lúa đông xuân, đến trung tuần tháng 05/2023, các địa
phương phía Nam đã gieo trồng được 1.126,7 nghìn ha lúa hè thu, bằng 97,9%
cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.035,6 nghìn
ha, bằng 97,4%. Tiến độ gieo trồng lúa hè thu năm 2023 chậm hơn so với năm
trước chủ yếu do thời tiết nắng nóng và mưa đến muộn. Hiện lúa hè thu đang ở
giai đoạn trổ bông, cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt. Các địa phương đã thực
hiện rà soát cơ cấu mùa vụ và bố trí lịch thời vụ sản xuất lúa để tránh hạn, áp
dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến, quản lý tốt nguồn nước. Cùng với việc gieo cấy
lúa, các địa phương trên cả nước đang tiến hành gieo trồng cây hoa màu. Trong
đó, diện tích khoai lang và đậu tương, lạc tiếp tục giảm so với cùng kỳ năm
trước chủ yếu do hiệu quả kinh tế không cao.
- Về chăn nuôi: Chăn nuôi trâu, bò trong tháng ổn định. Chăn nuôi lợn và
gia cầm hồi phục do dịch bệnh kiểm soát tốt, người chăn nuôi chủ động được
nguồn giống và giá thịt lợn hơi có dấu hiệu tăng13. Chính quyền địa phương và
các cơ quan chuyên ngành cần triển khai các giải pháp phòng, chống dịch bệnh,
tổ chức hiệu quả việc tiêm vắc xin; giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời các ổ
dịch mới phát sinh; xử lý nghiêm các trường hợp vận chuyển, mua bán trâu, bò
trái phép không rõ nguồn gốc. Tốc độ tăng số lượng gia súc, gia cầm so với
cùng thời điểm năm trước: Lợn (2,6%), gia cầm (1,3%), bò (1,2%) tăng; trong
khi trâu (-2,0%) giảm.

13
Tính đến ngày 22/5/2023, giá thịt lợn hơi cả nước dao động trong khoảng 51.000 - 55.000 đồng/kg. Chỉ số giá
thịt lợn hơi tháng 5/2023 tăng 0,82% so với tháng trước
13

Tính đến ngày 23/5/2023, cả nước không còn dịch tai xanh; dịch lở mồm
long móng còn ở Thái Nguyên, Gia Lai; dịch cúm gia cầm còn ở Hà Nội, Quảng
Ngãi; dịch viêm da nổi cục còn ở Thái Nguyên, Quảng Bình, Quảng Ngãi và
dịch tả lợn châu Phi còn ở 8 địa phương chưa qua 21 ngày.
- Về lâm nghiệp: Diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước tháng
5/2023 ước đạt 28,2 nghìn ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm
nghiệp trồng phân tán đạt 6,7 triệu cây, tăng 0,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt
1.956 nghìn m3, tăng 2,8%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, diện tích rừng
trồng mới tập trung ước đạt 97,9 nghìn ha, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2022;
số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 41,7 triệu cây, tăng 5,3%; sản lượng gỗ
khai thác đạt 6.583,2 nghìn m3, tăng 3,3%. Diện tích rừng bị thiệt hại 14 trong
tháng là 332,8 ha, gấp 2,6 lần cùng kỳ, trong đó diện tích rừng bị chặt, phá là
88,3 ha, giảm 14,2%; diện tích rừng bị cháy là 244,5 ha, gấp 10,9 lần. Tính
chung 5 tháng đầu năm 2023, cả nước có 886,7 ha rừng bị thiệt hại, tăng 78% so
với cùng kỳ, trong đó diện tích rừng bị chặt, phá là 444,5 ha, giảm 1,4%; diện
tích rừng bị cháy là 422,2 ha, gấp 11,7 lần.
- Về thủy sản: Sản lượng thủy sản tháng 5/2023 ước đạt 783,3 nghìn tấn,
tăng 2,1% so với cùng kỳ năm 2022, bao gồm: Cá đạt 566,4 nghìn tấn, tăng
2,2%; tôm đạt 100,3 nghìn tấn, tăng 2%; thủy sản khác đạt 116,6 nghìn tấn, tăng
1,7%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước đạt 421 nghìn tấn, tăng
2,5% so với cùng kỳ, trong đó: Cá đạt 284,5 nghìn tấn, tăng 2,3%; tôm ước đạt
87,6 nghìn tấn, tăng 2,2%.
Sản lượng thu hoạch cá tra trong tháng tăng so với cùng kỳ do phần lớn
diện tích nuôi cá tra hiện nay thuộc các vùng nuôi của doanh nghiệp có chu trình
sản xuất khép kín nên vẫn giữ được mức lợi nhuận mặc dù giá cá tra nguyên liệu
trong tháng giảm so với tháng 04/202315. Sản lượng cá tra trong tháng ước đạt
145,6 nghìn tấn, tăng 1% so với cùng kỳ.
Sản lượng tôm trong tháng tăng so với cùng kỳ do áp dụng mô hình nuôi
tôm thẻ chân trắng thâm canh và bán thâm canh hiệu quả. Sản lượng tôm thẻ
chân trắng ước đạt 58,8 nghìn tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ; sản lượng tôm sú
ước đạt 22,6 nghìn tấn, tăng 1,8%.
Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng ước đạt 362,3 nghìn tấn, tăng
1,8% so với cùng kỳ do thời tiết ngư trường thuận lợi cùng với giá xăng, dầu ổn
định nên hoạt động khai thác có nhiều chuyển biến tích cực. Sản lượng thủy sản

14
Số liệu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tính đến 15/5/2023.
15
Giá cá tra nguyên liệu tháng 5/2023 tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long dao động từ 27.000-29.000 đồng/kg,
giảm 1.000 đồng/kg so với tháng trước.
14

khai thác bao gồm: Cá đạt 281,9 nghìn tấn, tăng 2,2%; tôm đạt 12,7 nghìn tấn,
tăng 0,8%, thủy sản khác đạt 67,7 nghìn tấn, tăng 0,1%. Sản lượng thủy sản khai
thác biển ước đạt 346,9 nghìn tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, sản lượng thủy sản ước đạt 3.420,3
nghìn tấn, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản
khai thác ước đạt 1.583,1 nghìn tấn, giảm 0,3%; sản lượng thủy sản nuôi trồng
ước đạt 1.837,2 nghìn tấn, tăng 2,9%.
b) Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp tháng 05/2023 có dấu hiệu khởi sắc hơn so với
tháng 04/2023, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 05/2023 ước tính tăng
2,2% so với tháng trước và tăng 0,1% so với cùng kỳ năm 2022. Tuy nhiên, do
tình hình kinh tế thế giới những tháng đầu năm 2023 gặp nhiều khó khăn, đơn
hàng xuất khẩu giảm, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất công nghiệp trong
nước, tính chung 5 tháng đầu năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp
giảm 2% so với cùng kỳ năm trước16. IIP tháng 5/2023 ước tính tăng 2,2% so
với tháng trước17 và tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, so với
cùng kỳ năm trước, ngành chế biến, chế tạo giảm 0,5%; ngành khai khoáng
giảm 2,9%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5%; ngành cung cấp nước,
hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,8%.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, IIP ước tính giảm 2% so với cùng kỳ
năm 2022 (cùng kỳ năm 2022 tăng 8,1%). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo
giảm 2,5% (cùng kỳ năm 2022 tăng 8,9%), làm giảm 1,7 điểm phần trăm vào
mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 0,8%, đóng góp 0,1 điểm
phần trăm; ngành khai khoáng giảm 3,5%, làm giảm 0,5 điểm phần trăm; ngành
cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,4%, đóng
góp 0,1 điểm phần trăm trong mức tăng chung.
Chỉ số sản xuất 5 tháng đầu năm 2023 của một số ngành trọng điểm cấp
II giảm so với cùng kỳ năm 2022: Sản xuất xe có động cơ giảm 10,1%; sản xuất
giấy và các sản phẩm từ giấy giảm 8,5%; sản xuất trang phục giảm 8,3%; sản
xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 5,9%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ
giảm 5,8%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 5,6%; sản xuất kim loại
giảm 5,5%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm

16
Tốc độ tăng chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm các năm 2019-2023 so với cùng kỳ năm trước lần
lượt là: 9,5%; 1,7%; 10%; 8,1%; -2%.
17
Tốc độ tăng chỉ số IIP tháng 5/2023 so với tháng trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn là:
Thái Nguyên tăng 3,3%; Hải Dương tăng 3,1%; Bình Dương tăng 2,6%; Bắc Giang tăng 2,1%; Thành phố Hồ Chí
Minh tăng 1,5%; Long An tăng 1,2%; Quảng Ninh tăng 1%; Vĩnh Long tăng 0,7%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 2,9%;
Hải Phòng giảm 10% ...
15

5,1%. Ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành tăng cao so với cùng kỳ: Khai thác
quặng kim loại tăng 13%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng
12,7%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 8,6%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu
huỷ rác thải, sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị cùng tăng
8,1%; sản xuất đồ uống tăng 6,5%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng
6,3%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 5,4%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm
2022 tăng ở 49 địa phương và giảm ở 14 địa phương trên cả nước. Một số địa
phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao do ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo; ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao 18. Ngược lại, một số địa phương
có chỉ số IIP tăng thấp hoặc giảm do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành
khai khoáng và ngành sản xuất, phân phối điện giảm19.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực 5 tháng đầu năm 2023 tăng cao so
với cùng kỳ năm 2022: Đường kính tăng 31,1%; xăng, dầu tăng 13,5%; vải dệt
từ sợi nhân tạo tăng 10,6%; phân hỗn hợp NPK tăng 9,2%; thuốc lá điếu tăng
8,6%; Tivi tăng 7%. Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ
năm trước: Ô tô giảm 24%; thép thanh, thép góc giảm 20,1%; điện thoại di động
giảm 16,4%; vải dệt từ sợi tự nhiên và linh kiện điện thoại cùng giảm 10,1%;
quần áo mặc thường giảm 9,8%.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời
điểm 01/5/2023 tăng 0,8% so với cùng thời điểm tháng 04/2023 và giảm 4,8%
so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước
không đổi so với thời điểm tháng 04/2023 và giảm 1,8% so với cùng kỳ; doanh
nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,4% và giảm 2,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tăng 1,1% và giảm 5,9%. Theo ngành hoạt động, số lao động đang
làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng tăng 0,1% so với cùng thời
điểm tháng 04/2023 và tăng 0,4% so với cùng kỳ năm 2022; ngành chế biến, chế
tạo tăng 0,9% và giảm 5,1%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước

18
Địa phương có chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 5 tháng đầu năm 2023 tăng cao so với
cùng kỳ năm trước: Gia Lai tăng 21,7%; Tuyên Quang tăng 18,6%; Bắc Giang tăng 15,9%; Phú Thọ tăng 15,3%;
Hải Phòng tăng 13,4%; Nam Định tăng 13,3%; Kiên Giang tăng 13,1%; Phú Yên tăng 12,3%; Hậu Giang tăng
8,3%. Địa phương có chỉ số sản xuất của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao: Hậu Giang tăng 270,9%;
Thái Bình tăng 63,3%; Nam Định tăng 12%.
19
Địa phương có chỉ số sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 5 tháng đầu năm 2023 giảm so với
cùng kỳ năm trước: Quảng Nam giảm 36,7%; Bắc Ninh giảm 19,1%; Vĩnh Long giảm 16,6%; Sóc Trăng giảm
16,5%; Đà Nẵng giảm 4,8%; Hòa Bình giảm 4,6%. Các địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối
điện 5 tháng đầu năm 2023 giảm so với cùng kỳ năm trước: Hà Giang giảm 33,4%; Lai Châu giảm 28,5%; Sơn
La giảm 11,9%; Hòa Bình giảm 6,2%; Đà Nẵng giảm 2,7%. Địa phương có chỉ số sản xuất ngành khai khoáng 5
tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ năm trước giảm: Vĩnh Long giảm 66,5%; Hà Giang giảm 27,5%; Bà Rịa -
Vũng Tàu giảm 9,1%; Sóc Trăng giảm 6%.
16

nóng, hơi nước và điều hòa không khí không đổi và giảm 1,7%; ngành cung cấp
nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,1 và giảm 1,3%.
c) Khu vực dịch vụ
Nhu cầu tiêu dùng, ăn uống, vui chơi giải trí của người dân tăng cao hơn
tháng trước do nghỉ lễ 30/4 và 01/5 kéo dài. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu dịch vụ tiêu dùng tháng 05/2023 ước tính tăng 1,5% so với tháng 04/2023 và
tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2022. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 12,6% so với cùng kỳ,
trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 22,1% và doanh thu du lịch lữ
hành tăng 89,4%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 05/2023
ước đạt 519 nghìn tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng 04/2023 và tăng 11,5% so với
cùng kỳ. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 2.527,1 nghìn tỷ đồng, tăng 12,6% so với cùng kỳ
(cùng kỳ năm 2022 tăng 9,3%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 8,3% (cùng kỳ năm
2022 tăng 6%). Đây là tốc độ tăng cao nhất so với cùng kỳ các năm từ 2015 trở lại
đây và tăng 28,3% so với 5 tháng đầu năm 2019 - năm trước khi xảy ra dịch Covid-
19.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa 5 tháng đầu năm 2023 ước đạt 1.993,6 nghìn tỷ
đồng, tăng 10,7% so với cùng kỳ (loại trừ yếu tố giá tăng 6,9%). Trong đó, nhóm
hàng lương thực, thực phẩm tăng 14,6%; may mặc tăng 11,1%; đồ dùng, dụng cụ,
trang thiết bị gia đình tăng 4,8%; phương tiện đi lại (trừ ô tô) tăng 4,2%; vật phẩm
văn hoá, giáo dục tăng 1,9%. Doanh thu bán lẻ hàng hóa 5 tháng đầu năm 2023 so
với cùng kỳ năm trước của một số địa phương như sau: Bắc Ninh tăng 19,6%; Bình
Định tăng 14,8%; Bình Dương tăng 13,8%; Thanh Hóa tăng 12,1%; Hải Phòng
tăng 10,6%; Quảng Ninh tăng 9,9%; Cần Thơ tăng 9,8%; Đồng Nai tăng 8,7%; Hà
Nội tăng 7,9%; Đà Nẵng tăng 6,2%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 6,1%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 5 tháng đầu năm 2023 ước đạt 268,3
nghìn tỷ đồng, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu 5 tháng đầu năm
2023 so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương như sau: Đà Nẵng tăng
40,3%; Cần Thơ tăng 27,2%; Đồng Nai tăng 23,6%; Thành phố Hồ Chí Minh
tăng 23,4%; Quảng Ninh tăng 21,8%; Hải Phòng tăng 14,4%; Hà Nội tăng 11,9%.
Doanh thu du lịch lữ hành 5 tháng đầu năm 2023 ước đạt 11,6 nghìn tỷ
đồng, tăng 89,4% so với cùng kỳ do kỳ nghỉ lễ 30/4 và 01/5 kéo dài. Doanh thu 5
tháng đầu năm 2023 của một số địa phương so với cùng kỳ năm trước như sau: Đà
Nẵng gấp 3,5 lần; Hải Phòng gấp 3,2 lần; Hà Nội gấp 3 lần; Bình Thuận tăng
17

75,2%; Khánh Hòa tăng 71,5%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 43,5%; Cần Thơ
tăng 32,6%; Quảng Ninh tăng 28,6%; Lâm Đồng tăng 18,7%.
Doanh thu dịch vụ khác 5 tháng đầu năm 2023 ước đạt 253,6 nghìn tỷ
đồng, tăng 15,8% so với cùng kỳ. Cụ thể mức tăng, giảm 5 tháng đầu năm 2023
so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương như sau: Bình Thuận tăng
59,5%; Đà Nẵng tăng 54,8%; Gia Lai tăng 29,6%; Ninh Thuận tăng 23,5%; Bắc
Giang tăng 21,5%; Tiền Giang tăng 17,5%; Lâm Đồng tăng 12,5%; Quảng Ninh
tăng 12,3%; Bình Định tăng 11,7%; Hà Nội tăng 9,1%; Cần Thơ tăng 8%; Hải
Phòng tăng 4,4%; Quảng Nam giảm 1,1%; Quảng Bình giảm 3,8%; Thành phố
Hồ Chí Minh giảm 6,4%.
Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 5/202320 ước đạt 916,3 nghìn lượt
người, giảm 6,9% so với tháng trước và gấp 5,3 lần cùng kỳ năm trước. Tính
chung 5 tháng đầu năm 2023, khách quốc tế đến nước ta ước đạt gần 4,6 triệu
lượt người, gấp 12,6 lần cùng kỳ năm trước nhưng vẫn chỉ bằng 63% so với
cùng kỳ năm 2019 - năm chưa xảy ra dịch Covid-19.
d) Xuất, nhập khẩu hàng hóa: Kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng 05/2023
tăng khá cao so với tháng 04/2023 do hoạt động xúc tiến thương mại được thúc đẩy
mạnh mẽ. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa21 tháng 05/2023 ước đạt
55,86 tỷ USD, tăng 5,3% so với tháng trước và giảm 12,3% so với cùng kỳ năm
trước. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng
hóa ước đạt 262,54 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất
khẩu giảm 11,6%; nhập khẩu giảm 17,9%22. Cán cân thương mại hàng hóa 5 tháng
đầu năm 2023 ước tính xuất siêu 9,8 tỷ USD.
-Về xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sơ bộ tháng 4/2023 đạt
27,86 tỷ USD, cao hơn 324 triệu USD so với số ước tính.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 5/2023 ước đạt 29,05 tỷ USD, tăng
4,3% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 7,79 tỷ USD,
tăng 1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 21,26 tỷ USD,
tăng 5,5%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Năm
giảm 5,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 5,9%, khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 5,8%.

20
Kỳ báo cáo từ ngày 21/4/2023-20/5/2023.
21
Ước tính tổng trị giá xuất khẩu, nhập khẩu tháng 5/2023 do Tổng cục Hải quan cung cấp ngày 26/5/2023. Tổng
cục Thống kê ước tính trị giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu tháng 5/2023 dựa trên số liệu sơ bộ về trị
giá xuất, nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu đến hết ngày 25/5/2023 do Tổng cục Hải quan cung cấp.
22
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 5 tháng đầu năm 2022 đạt 307,96 tỷ USD, tăng 16,7% so với cùng kỳ
năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 154,1 tỷ USD, tăng 17,3%; nhập khẩu đạt 153,86 tỷ USD, tăng 16%.
18

Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước
đạt 136,17 tỷ USD, giảm 11,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực
kinh tế trong nước đạt 35,19 tỷ USD, giảm 13,2%, chiếm 25,8% tổng kim
ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 100,98
tỷ USD, giảm 11,1%, chiếm 74,2%.
Trong 5 tháng đầu năm 2023 có 23 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu
trên 1 tỷ USD, chiếm 87,4% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 07 mặt hàng xuất
khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 65,4%). Về cơ cấu, nhóm hàng nhiên liệu và khoáng
sản ước đạt 1,77 tỷ USD, chiếm 1,3%; nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt
120,24 tỷ USD, chiếm 88,3%; nhóm hàng nông sản, lâm sản ước đạt 10,79 tỷ USD,
chiếm 7,9%; nhóm hàng thủy sản ước đạt 3,37 tỷ USD, chiếm 2,5%.
- Về nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa sơ bộ tháng 4/2023 đạt
25,21 tỷ USD, thấp hơn 822 triệu USD so với số ước tính.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 5/2023 ước đạt 26,81 tỷ USD, tăng
6,4% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 9,31 tỷ USD,
tăng 3,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 17,5 tỷ USD, tăng 7,8%. So
với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Năm giảm 18,4%,
trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 24,6%; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài giảm 14,7%.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước
đạt 126,37 tỷ USD, giảm 17,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực
kinh tế trong nước đạt 43,95 tỷ USD, giảm 18,5%; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 82,42 tỷ USD, giảm 17,5%.
Trong 5 tháng đầu năm 2023 có 24 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1
tỷ USD, chiếm tỷ trọng 81,2% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 03 mặt hàng nhập
khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 41,6%). Về cơ cấu, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước
đạt 118,31 tỷ USD, chiếm 93,6%, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng
cụ phụ tùng chiếm 43,9%; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 49,7%.
Nhập khẩu tư liệu sản xuất 05 tháng giảm 18,2% so với cùng kỳ năm trước (04
tháng giảm 15,7%), cho thấy nhu cầu đầu vào sản xuất trong nước tiếp tục chậm
lại. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng ước đạt 8,06 tỷ USD, chiếm 6,4%.
Về thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa 5 tháng đầu năm 2023, Hoa Kỳ
là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 37,2 tỷ
USD. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch
ước đạt 43,4 tỷ USD. Trong 5 tháng đầu năm 2023, xuất siêu sang Mỹ ước đạt
31,2 tỷ USD, giảm 22% so với cùng kỳ năm trước; xuất siêu sang EU 12,6 tỷ
19

USD, giảm 3,6%; xuất siêu sang Nhật Bản 521 triệu USD (cùng kỳ nhập siêu
564 triệu USD); nhập siêu từ Trung Quốc 23,6 tỷ USD, giảm 16,7%; nhập siêu
từ Hàn Quốc 10,8 tỷ USD, giảm 38,3%; nhập siêu từ ASEAN 3,4 tỷ USD, giảm
41,3%.
Cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ tháng Tư xuất siêu 2,66 tỷ
USD ; 4 tháng xuất siêu 7,56 tỷ USD; tháng Năm ước tính xuất siêu 2,24
23

tỷ USD. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa
ước tính xuất siêu 9,8 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 0,24 tỷ USD).
Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 8,76 tỷ USD; khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 18,56 tỷ USD.
đ) Về tình hình đăng ký doanh nghiệp
Số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường trong 5 tháng đầu
năm 2023 đạt 94.959 doanh nghiệp, giảm 3,7% so với cùng kỳ năm 2022, gấp
1,2 lần mức bình quân doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường giai
đoạn 2018-2022 (77.235 doanh nghiệp). Cụ thể:
- Trong tháng có 12.098 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn
đăng ký là 103.741 tỷ đồng, giảm 9,5% về số doanh nghiệp và giảm 17,5% về
vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2022. Tính chung 5 tháng, số doanh nghiệp
thành lập mới là 61.970 doanh nghiệp, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm 2022.
Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 5 tháng năm 2023 là
1.393.683 tỷ đồng (giảm 43% so với cùng kỳ năm 2022), trong đó, số vốn đăng
ký của doanh nghiệp thành lập mới là 568.711 tỷ đồng (giảm 25,3% so với cùng
kỳ năm 2022). Có 21.111 lượt doanh nghiệp đang hoạt động đăng ký tăng vốn
trong 5 tháng năm 2023 (giảm 4,5% so với cùng kỳ năm 2022) với số vốn đăng
ký tăng thêm đạt 824.972 tỷ đồng (giảm 51% so với cùng kỳ năm 2022). Vốn
đăng ký bình quân trên một doanh nghiệp trong 5 tháng năm 2023 đạt 9,2 tỷ
đồng, giảm 24,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Theo khu vực kinh tế, các doanh nghiệp thành lập mới đa phần có quy mô
nhỏ (từ 0 - 10 tỷ đồng) với 56.905 doanh nghiệp (chiếm 91,8%, tăng 1,2% so
với cùng kỳ năm 2022), chủ yếu thuộc nhóm ngành Dịch vụ với 46.522 doanh
nghiệp, chiếm 75,1% tổng số doanh nghiệp thành lập mới, tăng 1,4% so với năm
ngoái. Nhóm ngành Công nghiệp và Xây dựng có 14.825 doanh nghiệp gia nhập
thị trường, chiếm 23,9% tổng số doanh nghiệp thành lập mới, giảm 8,2% so với
cùng kỳ năm 2022. Khu vực Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản ghi nhận 623

23
Tháng Tư ước tính xuất siêu 1,51 tỷ USD.
20

doanh nghiệp thành lập mới, chiếm 1% tổng số doanh nghiệp thành lập mới,
giảm 31,8% so với cùng kỳ năm trước.
Có 03/06 khu vực trên cả nước có số doanh nghiệp đăng ký thành lập tăng
so với cùng kỳ năm 2022: Đồng bằng Sông Hồng (19.866 doanh nghiệp, tăng 6%);
Trung du và miền núi phía Bắc (3.041 doanh nghiệp, tăng 2,0%); Đông Nam Bộ
(25.352 doanh nghiệp, tăng 1%). Các khu vực còn lại ghi nhận số doanh nghiệp
đăng ký thành lập giảm so với cùng kỳ năm 2022 gồm: Bắc Trung Bộ và Duyên
hải miền Trung (7.594 doanh nghiệp, giảm 14,5%); Đồng bằng Sông Cửu Long
(4.452 doanh nghiệp, giảm 14,7%) và Tây Nguyên (1.665 doanh nghiệp, giảm
17,8%).
Số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong tháng
5/2023 là 74.607 người, giảm 16,6% so với cùng kỳ năm 2022. Tổng số lao
động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong 5 tháng năm 2023 là
405.983 lao động, giảm 7,2% so với cùng kỳ năm 2022.
- Tháng 5/2023 ghi nhận có 5.952 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động,
tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2022. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động
trong 5 tháng năm 2023 là 32.989 doanh nghiệp, giảm 7,4% so với cùng kỳ năm
2022, gấp 1,5 lần mức bình quân giai đoạn 2018-2022 (22.560 doanh nghiệp).
- Trong tháng 5/2023, cả nước có 11.304 doanh nghiệp rút lui khỏi thị
trường, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó có: 5.364 doanh nghiệp
đăng ký tạm ngừng kinh doanh, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2022; 4.717 doanh
nghiệp chờ làm thủ tục giải thể, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm 2022; 1.223
doanh nghiệp đã giải thể, chấm dứt tồn tại, giảm 8,7% so với cùng kỳ năm 2022.
Tính chung 5 tháng, có 88.040 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng
22,6% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, phần lớn là các doanh nghiệp lựa
chọn hình thức tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn (chiếm 62,7%), cụ thể:
+ Số lượng doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh là 55.193 doanh
nghiệp, tăng 20,3% so với cùng kỳ năm 2022. Phần lớn doanh nghiệp tạm
ngừng kinh doanh trong 5 tháng năm 2023 có thời gian hoạt động ngắn, dưới
5 năm với 26.805 doanh nghiệp (chiếm 48,6%); tập trung chủ yếu ở quy mô
nhỏ (dưới 10 tỷ đồng) với 49.267 doanh nghiệp (chiếm 89,3%, tăng 18,8% so
với cùng kỳ năm 2022).
+ Số doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể là 25.498 doanh nghiệp, tăng
34,1% so với cùng kỳ năm 2022. Các doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể tập
trung chủ yếu ở quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng với 22.542 doanh nghiệp (chiếm
88,4%, tăng 33,8% so với cùng kỳ năm 2022).
21

+ Số doanh nghiệp giải thể là 7.349 doanh nghiệp, tăng 6,5% so với cùng
kỳ năm 2022. Trong đó, có 13/17 ngành kinh doanh chính có số lượng doanh
nghiệp giải thể tăng so với cùng kỳ năm 2022. Phần lớn doanh nghiệp giải thể
trong 5 tháng năm 2023 có thời gian hoạt động ngắn (dưới 5 năm) với 5.065
doanh nghiệp (chiếm 68,9%) và tập trung chủ yếu ở quy mô vốn từ 0 - 10 tỷ đồng
với 6.321 doanh nghiệp (chiếm 86%, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2022).
(3) Về một số lĩnh vực xã hội
Công tác bảo đảm an sinh xã hội, lao động, việc làm, cải thiện đời sống
người dân được triển khai tích cực. Các lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch, thông
tin tuyên truyền tiếp tục được quan tâm, đẩy mạnh, đoàn thể thao Việt Nam tham
dự SEA Games 32 lần đầu tiên đạt ngôi vị số 1 trong một kỳ SEA Games không tổ
chức ở Việt Nam. Theo dõi chặt chẽ diễn biến dịch bệnh Covid-19 mới phát sinh,
chủ động triển khai, hướng dẫn người dân các biện pháp phòng ngừa, không để
ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế, đời sống xã hội. An toàn, an ninh, an dân,
quốc phòng được giữ vững; hoạt động đối ngoại được đẩy mạnh, đi vào thực
chất.
Cụ thể như sau:
a) Về lao động, việc làm và an sinh xã hội
Tình hình lao động, việc làm 5 tháng đầu năm 2023: Tính đến hết ngày
31/5/2023, có 509.903 người lao động bị ảnh hưởng việc làm như mất việc, thôi
việc, giảm giờ làm, tạm hoãn hợp đồng lao động hoặc nghỉ việc không hưởng
lương (khoảng 3,4% tổng số lao động trong doanh nghiệp)24. Trong đó, số lao
động bị mất việc, thôi việc là 279.409 nghìn người (chiếm 54,79% số lao động bị
ảnh hưởng). Tình trạng lao động bị mất việc, giãn việc chủ yếu tập trung tại một
số tỉnh, thành phố lớn có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất như: Bình Dương
(71.590 người), Đồng Nai (32.450 người), Thành phố Hồ Chí Minh (44.890
người), Bắc Giang (27.500 người), Bắc Ninh (13.990 người), Hải Dương (16.020
người), Hà Nội (46.860 người),… Trong 5 tháng đầu năm, tổng số người nộp hồ
sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp là 393.377 người, tăng 8,2% so với cùng kỳ
năm 2022. Số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp là 337.432 người,
giảm 0,9% so với cùng kỳ năm 202225.
Số lao động mất việc làm tập trung tại các doanh nghiệp công nghiệp
chế biến, chế tạo ở một số ngành như dệt may, da giày, sản xuất và lắp ráp linh
kiện điện tử, chế biến gỗ; trong đó lao động ngành dệt may là 68.782 người, da

24
Theo báo cáo của 50 tỉnh, thành phố trên cả nước.
25
Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp bình quân của người lao động cả nước hiện nay là 3,5 triệu đồng/người/tháng.
22

giày 31.653 người, sản xuất linh kiện và sản phẩm điện tử là 45.075 người. Tuy
nhiên, bên cạnh một số ngành cắt giảm lao động thì nhiều doanh nghiệp vẫn có
nhu cầu tuyển dụng lao động với số lượng lớn. Trong 4 tháng đầu năm 2023,
nhu cầu tuyển dụng lao động là 481,2 nghìn người26; trong đó nhu cầu tuyển tại
các khu công nghiệp, khu chế xuất khoảng 146 ngàn lao động. Việc cắt giảm
lao động hiện tại mang tính cục bộ, vẫn trong khả năng kiểm soát. Tuy nhiên,
nếu khó khăn về thiếu đơn hàng, thiếu nguyên vật liệu, giá năng lượng không
được giải quyết thì số lượng lao động phải cắt giảm việc làm sẽ tăng cao, lan
rộng sang các ngành nghề khác trong thời gian tới.
Theo khảo sát tình hình đời sống của hộ dân cư tháng 5/2023 tiếp tục
được cải thiện. Tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập trong tháng không thay đổi và tăng
lên so với cùng kỳ năm trước là 94,8% (tăng 0,4 điểm phần trăm so với kỳ báo
cáo tháng 4/2023); tỷ lệ hộ đánh giá có thu nhập giảm và không biết là 5,2%.
Các nguyên nhân chính làm cho thu nhập giảm được các hộ gia đình đánh giá
như sau: 40,7% hộ gia đình có thành viên mất việc làm/tạm nghỉ việc; 27,3% hộ
đánh giá do chi phí đầu vào cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ tăng
và 19,8% hộ đánh giá do giá bán các sản phẩm từ các hoạt động sản xuất kinh
doanh của hộ giảm.
Về tác động của các sự kiện tiêu cực đến đời sống trong 5 tháng đầu năm
2023 được các hộ gia đình đánh giá: 31,3% hộ đang phải chịu những ảnh hưởng
do giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao; 6,3% hộ gia đình chịu ảnh hưởng tiêu cực
từ dịch bệnh đối với con người và 2,1% hộ gia đình chịu ảnh hưởng tiêu cực từ
dịch bệnh đối với vật nuôi, cây trồng.
Trong 5 tháng đầu năm 2023, có gần 10,3% hộ gia đình được phỏng vấn
nhận được sự trợ giúp từ các nguồn hỗ trợ khác nhau. Trong đó, tỷ lệ hộ nhận
được trợ giúp từ họ hàng, người thân là 6,7%; từ các chương trình, chính sách của
địa phương là 3,5%; từ các chương trình, chính sách chung của Quốc gia là 3,1%;
từ các hoạt động từ thiện của các tổ chức và cá nhân khác là 1,7% và 0,02% từ
các nguồn khác.
Công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được các cấp, ngành thực hiện kịp
thời, hiệu quả. Theo báo cáo từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong 5
tháng đầu năm 2023, Chính phủ đã hỗ trợ hơn 18,2 nghìn tấn gạo cho 204,7
nghìn hộ với hơn 1,2 triệu nhân khẩu, trong đó: Hỗ trợ gạo cho người dân dịp Tết
Nguyên đán là 16,9 nghìn tấn gạo; hỗ trợ cho người dân kỳ giáp hạt năm 2023
hơn 1,3 nghìn tấn gạo.

26
Báo cáo nhanh của 40 tỉnh, thành phố trong 5 tháng đầu năm (tính từ 01/01/2023 đến 20/5/2023).
23

b) Về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ


Về giáo dục và đào tạo, trong tháng đẩy nhanh việc triển khai Kế hoạch
tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban
Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đẩy
nhanh tiến độ thực hiện nhiệm vụ lập Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại
học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và nhiệm vụ lập
Quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục chuyên biệt đối với người khuyết tật và hệ
thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn
đến năm 2050; dự thảo Đề án triển khai thí điểm mô hình giáo dục đại học số.
Tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Hoàn
thành việc phê duyệt tài liệu giáo dục địa phương đối với lớp 2, lớp 3, lớp 7, lớp
10; hoàn thành thẩm định sách giáo khoa và tài liệu hướng dẫn dạy học tiếng dân
tộc thiểu số lớp 3 (vòng 1); chuẩn bị tổ chức thẩm định sách giáo khoa lớp 5, lớp
9, lớp 12 phục vụ các năm học tiếp theo đảm bảo chất lượng. Hướng dẫn các địa
phương tổ chức tổng kết năm học 2022-2023 đối với giáo dục phổ thông, báo cáo
tổng kết năm học 2022-2023 đối với giáo dục thường xuyên. Nghiên cứu, đánh
giá và đề xuất phương án mua sách giáo khoa cho học sinh mượn sử dụng; triển
khai rà soát lộ trình điều chỉnh học phí 27; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào
tạo cho năm học 2023 - 2024.
Chuẩn bị tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại
học, cao đẳng năm 2023. Công bố lịch thi và đề thi minh họa 15 môn của kỳ thi
tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023; dự thảo Phương án tổ chức thi tốt
nghiệp trung học phổ thông từ năm 2025 để lấy ý kiến xã hội; tổ chức cho thí sinh
chính thức đăng ký dự thi trực tuyến và đăng ký dự thi trực tiếp 28. Tổ chức tổng
kết công tác tuyển sinh năm 2022 và chuẩn bị xây dựng văn bản hướng dẫn công
tác tuyển sinh năm 2023.
Về khoa học và công nghệ, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển
khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo29. Thúc đẩy liên kết hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia với các hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo phát

27
Theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo
dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập.
28
Từ ngày 4/5 đến ngày 13/5; trong đó tổ chức cho thí sinh thử đăng ký dự thi trực tuyến từ ngày 26/4 đến
ngày 30/4.
29
Ban hành Quyết định số 12/2023/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 về cấp Giấy chứng nhận chuyển giao công nghệ
khuyến khích chuyển giao. Hoàn thiện, báo cáo Ban cán sự Đảng Chính phủ dự thảo Chỉ thị của Ban Bí thư về
công tác tiêu chuẩn đo lường chất lượng quốc gia đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Trình Thủ tướng Chính
phủ: (1) Dự thảo Quyết định phê duyệt một số mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nhằm thu hút và phát huy hiệu
quả các nhà khoa học, công nghệ và chuyên gia giỏi người Việt Nam ở nước ngoài đến năm 2030; (2) Bổ sung
hồ sơ Phương án cắt giảm, đơn giản hóa các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi chức
năng quản lý nhà nước của Bộ KH&CN.
24

triển của khu vực và trên thế giới 30. Tăng cường giải quyết thủ tục xác lập quyền
sở hữu trí tuệ31. Triển khai Chương trình phát triển tài sản trí tuệ đến năm 2030 32.
Triển khai bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII) 33 trên phạm vi toàn
quốc từ năm 2023. Tiếp tục duy trì và vận hành có hiệu quả các cổng thông tin về
khoa học và công nghệ34.
c) Chăm sóc sức khỏe nhân dân
Theo báo cáo của Bộ Y tế, trong tháng (19/4-18/5/2023), cả nước có 5.251
trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 122 trường hợp viêm não vi rút; 2.852
trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 24 trường hợp sốt phát ban nghi sởi và 5
trường hợp viêm não do mô cầu. Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, cả nước có
hơn 31,5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 126 trường hợp mắc bệnh
viêm não vi rút; 7.261 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 88 trường hợp sốt
phát ban nghi sởi và 5 trường hợp viêm não do mô cầu.
Từ đầu năm 2023 đến ngày 23/5/2023, cả nước ghi nhận 85.493 ca mắc
COVID-19, trung bình hàng tháng là 17.000 ca mắc, giảm 8,5 lần so với năm
2021, giảm 48 lần so với năm 2022. Bên cạnh đó, tỷ lệ tử vong do COVID-19
trong 4 tháng đầu năm 2023 giảm mạnh xuống còn 0,02% (tỷ lệ tử vong năm
2021 là 1,86%, năm 2022 là 0,1%).
Công tác tiêm vắc xin phòng dịch Covid-19 tiếp tục được thực hiện
theo hướng dẫn của Bộ Y tế đảm bảo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ và Ban chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch Covid-19. Từ ngày
08/3/2021 đến ngày 20/5/2023, tổng số liều vắc xin phòng Covid-19 đã được
tiêm là 266,3 triệu liều, trong đó tiêm mũi 1 là 90,3 triệu liều; tiêm mũi 2 là

30
Phối hợp tổ chức Ngày hội khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (Techfest) với quy mô quốc tế tại Hàn Quốc nhằm
quảng bá hình ảnh hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam cởi mở, năng động, đồng thời đưa các doanh
nghiệp, các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo tiêu biểu của Việt Nam kết nối với các nguồn lực trên thế giới.
Tổ chức ngày hội Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (Techfest) vùng Đồng bằng sông Hồng.
31
4 tháng đầu năm 2023 đã cấp trên 11.500 văn bằng bảo hộ, trong đó có trên 1.100 văn bằng sáng chế/giải pháp
hữu ích.
32
Tiếp tục quản lý triển khai 32 nhiệm vụ được bắt đầu triển khai từ năm 2022; Hỗ trợ chuyên môn cho các địa
phương triển khai 122 nhiệm vụ từ nguồn kinh phí của tỉnh, trong đó có 21 nhiệm vụ hỗ trợ bảo hộ chỉ dẫn địa
lý, 52 nhiệm vụ hỗ trợ bảo hộ, quản lý nhãn hiệu chứng nhận, 45 nhiệm vụ hỗ trợ bảo hộ và quản lý nhãn hiệu
tập thể cho các sản phẩm chủ lực, sản phẩm OCOP cấp tỉnh, cấp huyện và 04 nhiệm vụ hỗ trợ đào tạo, nâng cao
năng lực cho các chủ thể quyền.
33
Chuyên gia quốc tế độc lập do WIPO chỉ định đã tiến hành kiểm định độc lập bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp
địa phương. Kết quả thử nghiệm cho thấy bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương đủ mạnh để đưa ra những
kết luận hữu ích. Kết quả kiểm định cũng cho thấy còn một vài chỉ số cần được xem xét khi triển khai trên phạm
vi toàn quốc trong thời gian tới. Việc rà soát, xem xét, tinh chỉnh hằng năm để phù hợp với bối cảnh và mục tiêu
cũng là thông lệ chung trong xây dựng các chỉ số tổng hợp.
34
Hệ thống hỗ trợ thông tin KH&CN sti.gov.vn; CSDL về kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN các cấp, về công
bố KH&CN Việt Nam; Cổng thông tin khởi nghiệp ĐMST quốc gia; hệ thống tích hợp các CSDL của Bộ
KH&CN; cổng thông tin KH&CN Việt Nam (vista.gov.vn); cổng thông tin Chợ công nghệ và thiết bị Việt Nam
(techmartvietnam.vn).
25

85,9 triệu liều; mũi bổ sung là 14,3 triệu liều; mũi nhắc lại lần 1 là 57,9 triệu
liều; mũi nhắc lại lần 2 là 17,9 triệu liều.
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm
18/4/2023 là 227,2 nghìn người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước
tính đến thời điểm trên là 113,1 nghìn người. Về ngộ độc thực phẩm, trong
tháng 5/2023 xảy ra 09 vụ với 269 người bị ngộ độc (01 trường hợp tử vong).
Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, cả nước xảy ra 34 vụ với 613 người bị ngộ
độc (09 người tử vong).
d) Các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao
Trong tháng 5/2023, phong trào thể thao quần chúng tiếp tục được đẩy
mạnh, các phong trào thể dục, thể thao được tổ chức rộng khắp, một số hoạt
động nổi bật diễn ra trong tháng như: Thanh Hóa chuẩn bị cho Lễ phát động
toàn dân tập luyện môn bơi phòng, chống đuối nước năm 2023; báo Thiếu niên
Tiền phong và Nhi đồng, Liên đoàn Bóng đá Việt Nam phối hợp cùng Nestlé
Việt Nam tổ chức họp báo công bố giải bóng đá nhi đồng U11 toàn quốc Cúp
Nestlé Milo 2023 diễn ra tại Hà Nội; giải Vinfast IRONMAN 70.3 Việt Nam
2023 diễn ra tại Đà Nẵng; Giải Bóng rổ 3x3 Hà Nội Mở rộng lần thứ 4 (3x3
Hanoi Open Cup) năm 2023 diễn ra tại Hà Nội.
Về thể thao thành tích cao, tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 32
(SEA Games 32) diễn ra từ ngày 5-17/5 tại Campuchia. Đoàn thể thao Việt Nam
tham dự với 1.003 thành viên, trong đó có 189 huấn luyện viên và 702 vận động
viên. Đây được xem là SEA Games thành công nhất của Việt Nam khi lần đầu
tiên đoạt ngôi vị số 1 khi không phải là nước chủ nhà với 359 huy chương, trong
đó có 136 huy chương Vàng, 105 huy chương Bạc và 118 huy chương Đồng.
Nhiều hoạt động văn hóa, chương trình nghệ thuật, chính trị được tổ
chức để chào mừng Chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh,… các hoạt động văn hóa để kích cầu mùa du lịch 2023. Qua đó, đã góp
phần khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, thúc đẩy phát triển du
lịch tại các địa phương.
đ) Về thông tin, truyền thông
Trong tháng, tập trung thông tin kịp thời các hoạt động chính trị - xã hội,
phản ánh tình hình kinh tế - xã hội của đất nước; bảo đảm thông tin nhanh, nhạy,
kịp thời, đúng định hướng; tạo sự đồng thuận để người dân tin tưởng vào chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là công
tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các hoạt động
kinh tế - xã hội, các hoạt động đối nội, đối ngoại của các đồng chí Lãnh đạo
26

Đảng và Nhà nước,... Bám sát, thông tin đầy đủ về các vấn đề: dân sinh; an toàn
thực phẩm; thông tin về tình hình an toàn giao thông, an ninh, trật tự; phòng,
chống hàng lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng; an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội… Đảm bảo thông tin nhanh, nhạy, kịp thời đến người dân.
Công tác bảo đảm thông tin liên lạc, an toàn thông tin được thực hiện hiệu
quả. Mạng viễn thông, hạ tầng kết nối, trung chuyển Internet, các hệ thống kỹ
thuật tên miền, tài nguyên Internet quốc gia hoạt động ổn định, thông tin liên lạc
được đảm bảo thông suốt, an toàn.
(4) Về tình hình phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, an toàn
giao thông và phòng, chống cháy, nổ
- Bảo vệ môi trường: Trong tháng 5/2023, theo báo cáo từ các Cục Thống
kê tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ quan chức năng đã phát hiện
1.594 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 1.328 vụ với tổng số tiền phạt hơn
23,5 tỷ đồng, giảm 2,1% so với tháng 4/2023 và tăng 22,1% so với cùng kỳ năm
2022. Tính chung 5 tháng đầu năm nay đã phát hiện 8.350 vụ vi phạm môi
trường, trong đó xử lý 7.251 vụ với tổng số tiền phạt là 119 tỷ đồng, tăng 15,9%
so với cùng kỳ.
- Thiệt hại do thiên tai: Thiệt hại do thiên tai trong tháng chủ yếu do ảnh
hưởng của mưa lớn, ngập lụt, sạt lở đất làm 10 người chết, 10 người bị thương;
7.343 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và hư hỏng; 16,7 nghìn ha lúa và 3,8 nghìn
ha hoa màu bị hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản do thiên tai gây ra trong
tháng là 257,2 tỷ đồng, giảm 57,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5
tháng đầu năm 2023, thiên tai làm 14 người chết, 19 người bị thương; hơn 8,3
nghìn ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng; gần 6,4 nghìn con gia súc, gia cầm bị chết;
26,1 nghìn ha lúa và 4,6 nghìn hoa màu bị hư hỏng; tổng giá trị thiệt hại về tài sản
ước tính 380,6 tỷ đồng, giảm 91% so với cùng kỳ năm 2022. Tăng cường theo dõi,
giám sát tình hình nắng nóng, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, nguồn nước trên
các lưu vực sông, đặc biệt là nguồn nước trên các sông xuyên biên giới và tuyên
truyền đầy đủ về hiện tượng El Nino và tình trạng thiếu nước, hạn hán, xâm nhập
mặn, những thiên tai cực đoan khác để cộng đồng dân cư chủ động phòng, chống.
- An toàn giao thông: Trong tháng (từ 15/4-14/5/2023), trên địa bàn cả
nước xảy ra 832 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 598 vụ tai nạn giao thông từ ít
nghiêm trọng trở lên và 234 vụ va chạm giao thông, làm 448 người chết, 367 người
bị thương và 252 người bị thương nhẹ. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông
tăng 2,3% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 2,4% và số vụ
va chạm giao thông tăng 2,2%); số người chết giảm 2,4%; số người bị thương tăng
27

9,6% và số người bị thương nhẹ tăng 4,6%. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ tai
nạn giao thông giảm 10,1% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên
giảm 2,9% và số vụ va chạm giao thông giảm 24,3%); số người chết giảm 7,6%; số
người bị thương tăng 14% và số người bị thương nhẹ giảm 22,5%.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn cả nước xảy ra 3.991 vụ tai
nạn giao thông, bao gồm 2.904 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và
1.087 vụ va chạm giao thông, làm 2.343 người chết, 1.619 người bị thương và
1.154 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ, số vụ tai nạn giao thông giảm 15,7%
(số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 12,5%; số vụ va chạm
giao thông giảm 23,1%); số người chết giảm 15,1%; số người bị thương giảm 1,8%
và số người bị thương nhẹ giảm 19,2%. Bình quân 1 ngày trong 5 tháng đầu năm
2023, trên địa bàn cả nước xảy ra 26 vụ tai nạn giao thông, gồm 19 vụ tai nạn giao
thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 7 vụ va chạm giao thông, làm 16 người chết, 11
người bị thương và 8 người bị thương nhẹ.
- Thiệt hại do cháy, nổ: Trong tháng35, cả nước xảy ra 191 vụ cháy, nổ,
làm 12 người chết và 9 người bị thương, thiệt hại ước tính 17,6 tỷ đồng, giảm
34,5% so với tháng trước và giảm 47% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5
tháng đầu năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 716 vụ cháy, nổ, làm 37 người
chết và 39 người bị thương, thiệt hại ước tính gần 67 tỷ đồng, giảm 40,5% so
với cùng kỳ năm trước.
(5) Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại
Toàn quân duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, quản lý, nắm chắc
tình hình, kịp thời báo cáo, đề xuất giải pháp, đối sách xử lý phù hợp, không để
bị động, bất ngờ; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh
thổ. Tăng cường tuần tra, kiểm soát, quản lý chặt chẽ các tuyến biên giới, biển,
đảo; tích cực, chủ động tham gia phòng, chống giảm nhẹ thiên tai, tìm kiếm cứu
nạn. Triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án quy hoạch kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng an ninh, nhất là
trên các tuyến biên giới, biển đảo, địa bàn chiến lược, trọng điểm.
Chủ động nắm chắc tình hình, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, không để bị động, bất ngờ.
Bảo vệ tuyệt đối an toàn các sự kiện chính trị, văn hóa, xã hội quan trọng của đất
nước, nhất là Hội nghị Trung ương 7 khóa XIII, Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa
XV. Bảo đảm vững chắc an ninh chính trị nội bộ, an ninh văn hóa – tư tưởng, an
ninh thông tin, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh xã hội, an ninh tại các địa

35
Theo báo cáo nhanh từ Bộ Công an ngày 23/5/2023.
28

bàn chiến lược. Tập trung trấn áp các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, các vi phạm
pháp luật trên không gian mạng, các hành vi tung tin xấu, độc, sai sự thật. Làm
tốt công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đẩy nhanh tiến độ, kết thúc điều
tra, đề nghị truy tố, đưa ra xét xử các vụ án, xử lý các việc trọng điểm thuộc diện
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tiêu cực theo dõi, chỉ
đạo. Triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, phòng
cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ.
Giữ vững độc lập, tự chủ, xử lý cân bằng, hài hòa quan hệ với các nước
lớn, duy trì quan hệ ổn định, thuận lợi với các đối tác quan trọng. Các hoạt động
đối ngoại được triển khai đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm. Tiếp tục thúc đẩy
quan hệ với các nước láng giềng, bạn bè truyền thống, nước lớn và các đối tác
quan trọng đi vào chiều sâu36; kết hợp chặt chẽ đối ngoại song phương và đối
ngoại đa phương. Tích cực triển khai công tác ngoại giao kinh tế 37, trọng tâm là
hỗ trợ, mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy du lịch thành động lực tăng
trưởng. Triển khai kịp thời, hiệu quả công tác ngoại giao văn hóa, công tác về
người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân.
3. Nguyên nhân
Nguyên nhân của kết quả đạt được là sự lãnh đạo của Đảng; sự phối hợp,
giám sát chặt chẽ của Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, sát sao, phản
ứng một cách kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa
phương để giải quyết các nhiệm vụ thường xuyên và tập trung xử lý vấn đề tồn
đọng kéo dài, vấn đề mới phát sinh, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ
doanh nghiệp, sản xuất kinh doanh, thị trường bất động sản, nâng cao khả năng
hấp thụ vốn của nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; đẩy mạnh phân công,
phân cấp gắn với trách nhiệm người đứng đầu; sự đồng lòng của nhân dân; sự
phối hợp của bạn bè quốc tế.
Những khó khăn, hạn chế có nguyên nhân lớn nhất là do tình hình thế
giới phức tạp, khó lường, nhiều khó khăn, thách thức. Nền kinh tế nước ta vẫn
đang trong quá trình phục hồi sau đại dịch Covid-19; năng lực nội tại, khả năng
chống chịu, thích ứng với các tác động bên ngoài còn hạn chế, trong đó năng
lực, sức chống chịu của doanh nghiệp trong các lĩnh vực chủ lực xuất khẩu,
công nghiệp chế biến chế tạo, bất động sản... đã đến mức tới hạn. Công tác dự

36
Các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã có các cuộc tiếp xúc cấp cao với Lào, Campuchia, Trung Quốc,
Mỹ, Hàn Quốc, Nga, EU... góp phần tăng cường quan hệ giữa Việt Nam với các nước, nâng cao tin cậy chính trị,
mở ra cơ hội hợp tác mới về kinh tế, thương mại, đầu tư... Tham gia thành công với nhiều sáng kiến, trao đổi tích
cực được ghi nhận tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-42, Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng, Hội nghị Tương lai
Châu Á tại Nhật Bản; cùng với các nước thông qua các thành tố chính của Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN sau
năm 2025.
37
Đẩy mạnh vận động các nước thành viên EU sớm phê chuẩn Hiệp định EVIPA, gỡ bỏ thẻ vàng IUU.
29

báo gặp nhiều khó khăn. Hệ thống pháp luật đang trong quá trình hoàn thiện,
còn một số điểm chồng chéo, mâu thuẫn. Nhiều chính sách, giải pháp đã ban
hành, nhưng cần thời gian để triển khai, đi vào cuộc sống. Một số nơi, một số
bộ ngành, địa phương phản ứng chính sách còn chậm, chưa kịp thời phát hiện,
tham mưu chính sách, chưa phối hợp chặt chẽ, chưa chủ động xử lý các vấn đề
thuộc thẩm quyền. Một bộ phận cán bộ, công chức còn né tránh, đùn đẩy công
việc, sợ sai, thiếu trách nhiệm, gây ách tắc, chậm trễ trong giải quyết công
việc. Theo khảo sát của Ban IV, 84% doanh nghiệp đánh giá hiệu quả điều
hành, hỗ trợ ở cấp cơ sở kém hiệu quả.
4. Bài học kinh nghiệm
- Thực hiện hiệu quả, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp phát triển KTXH
đã được Đảng, Quốc hội thông qua; tập trung tháo gỡ khó khăn về dòng tiền, thị
trường, vướng mắc của các dự án đầu tư, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế;
tập trung nguồn lực đẩy nhanh các dự án hạ tầng chiến lược, quan trọng, mở ra
không gian phát triển mới cho cả nước và các vùng, địa phương.
- Nắm chắc tình hình; nâng cao năng lực phân tích, dự báo; phản ứng
chính sách nhanh, kịp thời, chủ động thích ứng; đoàn kết, thống nhất, tự lực, tự
cường, lấy khó khăn, thách thức là động lực để phấn đấu vượt qua khó khăn.
- Các bộ, ngành, địa phương phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, chủ động tham
mưu, đề xuất giải pháp, chính sách trong quản lý, điều hành, đặc biệt là để xử lý
những vấn đề mới, khó dự báo, các vướng mắc, rào cản pháp lý cho doanh
nghiệp, người dân, dự án đầu tư.
- Chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính; tăng cường phân công,
phân cấp, phân quyền, phân bổ nguồn lực gắn với kiểm tra, giám sát, trách
nhiệm người đứng đầu; có cơ chế, quy định thực chất, hiệu quả để bảo vệ cán
bộ, công chức dám nghĩ, dám làm, dám vì lợi ích chung.
- Chủ động thông tin kịp thời, chính xác, khách quan về tình hình KTXH,
đấu tranh xử lý thông tin xấu, độc; góp phần củng cố niềm tin, khơi dậy khát vọng
phát triển, tinh thần đoàn kết, tạo sức mạnh tổng hợp, đồng thuận cao trong xã
hội.
Nhìn chung, kinh tế vĩ mô tháng 5 và 05 tháng cơ bản được giữ ổn định;
sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, doanh nghiệp, thu hút FDI, thị trường bất động
sản tiếp tục chuyển biến bước đầu, có thể là tín hiệu tích cực tạo đà cho sự phục
hồi trong thời gian tới. Chính phủ, bộ, ngành, địa phương đã chuẩn bị chu đáo,
30

chất lượng, bảo đảm an toàn, phục vụ tốt Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ,
Kỳ họp thứ 5 của Quốc hội; quyết liệt triển khai công việc được giao, vừa tập
trung xử lý vấn đề tồn đọng, kéo dài, vấn đề mới phát sinh, làm tốt công tác an
sinh xã hội; vừa cụ thể hóa các chủ trương, chính sách phát triển trong trung và
dài hạn.
Tuy nhiên, những khó khăn, thách thức lớn của thế giới, khu vực đã tiếp
tục ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất
khẩu, thu hút đầu tư,... trong nước. Đây là vấn đề chung của các quốc gia, các
nền kinh tế đang phải đối mặt, không thể có chuyển biến rõ rệt ngay trong“một
sớm, một chiều”, trong khi áp lực điều hành kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng
trong nước tăng cao. Bên cạnh đó, khả năng chịu đựng của các doanh nghiệp
trong nước sau thời gian dài của dịch Covid-19 đã đến mức tới hạn. Do đó, cần
có các giải pháp chỉ đạo, điều hành quyết liệt, chủ động, phối hợp nhịp nhàng,
chặt chẽ hơn; phát huy kết quả đã đạt được, tranh thủ mọi nguồn lực, cơ hội,
tận dụng thời gian để phục hồi kinh tế, thực hiện các giải pháp trong trung và
dài hạn như tăng trưởng xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn,...
II. ĐÁNH GIÁ VÀ DỰ BÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC

1. Diễn biến kinh tế thế giới và khu vực


Kinh tế Mỹ duy trì được một số động lực tăng trưởng tốt, tuy nhiên tiếp
tục đối mặt với tình trạng thắt chặt tín dụng và lạm phát vẫn ở mức cao. Dự báo
tăng trưởng GDP năm 2023 của Mỹ đã được điều chỉnh tăng lên mức 0,9% (cao
hơn 0,5 điểm phần trăm so với dự báo của quý I/2023), với động lực chính là chi
tiêu tiêu dùng. Sản xuất đã phục hồi sau khi liên tục thu hẹp kể từ đầu năm 2023.
Chỉ số PMI sản xuất phục hồi ở mức 50,2 điểm vào tháng 4/2023. Lĩnh vực dịch
vụ duy trì xu hướng mở rộng với tốc độ nhanh, chỉ số PMI dịch vụ đạt 53,6
điểm vào tháng 4/2023. Thâm hụt thương mại của Mỹ đã thu hẹp xuống mức
thấp nhất trong 4 tháng là 64,2 tỷ USD vào tháng 3/2023 từ 70,6 tỷ USD vào
tháng 2/2023. So với cùng kỳ năm 2022, tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Mỹ duy trì
xu hướng giảm, đạt mức 4,9% vào tháng 4/2023, mức thấp nhất kể từ tháng
4/2021. So với tháng trước, CPI tháng 4/2023 tăng 0,4%, cao hơn mức 0,1% của
tháng 3/2023. Tháng 5/2023, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã tăng lãi suất
cơ bản thêm 0,25 điểm phần trăm lên biên độ 5-5,25%. FED cũng để ngỏ khả
năng tạm dừng các đợt tăng lãi suất để tập trung đánh giá hậu quả từ các vụ sụp
đổ ngân hàng và tình hình lạm phát kể từ đầu năm để xác định mức độ phù hợp
của các chính sách bổ sung. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng Mỹ cũng đang đối
31

mặt với lo ngại về tình trạng thắt chặt tín dụng do hoạt động cho vay bị hạn chế
sau các vụ sụp đổ ngân hàng. Nợ công của Mỹ liên tục tăng, vượt mức trần nợ
công là 31.400 tỷ USD, và theo đó, gia tăng rủi ro vỡ nợ của Mỹ và rủi ro khủng
hoảng nền kinh tế toàn cầu.
Kinh tế khu vực đồng Euro tiếp tục phục hồi. Giá năng lượng, hạn chế về
nguồn cung giảm, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường lao động đã hỗ
trợ tăng trưởng trong quý I/2023. Theo đó, Ủy ban châu Âu (EC) đã điều chỉnh
dự báo tăng trưởng khu vực, cụ thể, tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro có
khả năng sẽ đạt 1,1% và 1,6% vào năm 2023 và 2024. Sản xuất duy trì xu hướng
thu hẹp với tốc độ nhanh, chỉ số PMI sản xuất đạt 45,8 điểm vào tháng 4/2023,
mức thấp nhất kể từ tháng 5/2020. Trong khi đó, khu vực dịch vụ mở rộng với tốc
độ tăng nhanh, chỉ số PMI dịch vụ đạt 56,2 điểm vào tháng 4/2023, mức tăng
trưởng mạnh nhất trong lĩnh vực dịch vụ trong một năm. Lạm phát của khu vực
đạt 7,0% vào tháng 4/2023, cao hơn một chút so với tháng 3/2023 là 6,9%, cao
hơn đáng kể so với mục tiêu 2,0% của Ngân hàng Trung ương châu Âu. Ngân
hàng Trung ương châu Âu đã tăng lãi suất cơ bản thêm 25 điểm phần trăm, nâng
mức chi phí đi vay lên cao nhất kể từ tháng 7/2008. Lạm phát gia tăng cùng với
việc thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát áp lực giá cả sẽ gia tăng áp lực lên
tăng trưởng trong ngắn hạn và trung hạn của khu vực này. EC dự báo tỷ lệ lạm
phát năm 2023 có thể ở mức 5,8% và các điều kiện tài chính có thể sẽ thắt chặt
hơn nữa.
Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng 1,6% trong quý I/2023 so với cùng kỳ năm
2022, với động lực chủ yếu từ tiêu dùng cá nhân tăng trưởng mạnh mẽ. Sản xuất
vẫn đang trên đà thu hẹp nhưng với tốc độ chậm lại, chỉ số PMI sản xuất đạt 49,5
điểm vào tháng 4/2023, mức cao nhất trong 6 tháng trong bối cảnh nền kinh tế
phục hồi tốt hơn, các đơn đặt hàng mới giảm với tốc độ chậm nhất kể từ tháng
11/2022, và nhu cầu nước ngoài giảm ít nhất trong sáu tháng. Trong khi đó, dịch
vụ duy trì xu hướng mở rộng nhanh, chỉ số PMI dịch vụ đạt mức cao kỷ lục 55,4
điểm vào tháng 4/2023, với số lượng đơn đặt hàng mới tăng mạnh nhất trong hơn
15 năm. Thâm hụt thương mại của Nhật Bản đã giảm xuống 432,4 tỷ JPY vào
tháng 4/2023 từ 854,9 tỷ JPY trong cùng kỳ năm 2022, tháng thâm hụt thương
mại thứ 21 liên tiếp và là chuỗi dài nhất kể từ năm 2015. Xuất khẩu tăng 2,6% so
với cùng kỳ, tốc độ tăng trưởng thấp nhất kể từ tháng 2/2021; trong khi đó, nhập
khẩu giảm 2,3%, giảm lần đầu tiên sau 27 tháng. Ngân hàng Nhật Bản đã duy trì
32

lãi suất ngắn hạn chính ở mức -0,1% và lãi suất trái phiếu 10 năm ở mức khoảng
0%.
Kinh tế Trung Quốc phục hồi thấp hơn so với dự báo. Theo Cục Thống kê
Quốc gia Trung Quốc (NBS), sản lượng công nghiệp của Trung Quốc trong
tháng Tư đã tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2022 và là tốc độ tăng trưởng nhanh
nhất kể từ tháng 9/2022. Tuy nhiên, các chỉ số được đo lường so với mức thấp
nhất vào năm ngoái khi Thượng Hải bị phong tỏa trong bối cảnh dịch COVID-
19 bùng phát. Chỉ số PMI sản xuất tháng 4/2023 giảm xuống mức 49,5 điểm (từ
mức 50,0 điểm vào tháng 3/2023) trong bối cảnh suy thoái từ thị trường bất
động sản và lo ngại về suy thoái toàn cầu. Chỉ số PMI dịch vụ cũng đã giảm
xuống 56,4 điểm vào tháng 4/2023 từ mức 57,8 điểm của tháng 3/2023, tuy
nhiên, đây là tháng mở rộng thứ tư liên tiếp trong bối cảnh phục hồi sau dịch
COVID-19. Doanh số bán lẻ của Trung Quốc trong tháng 4/2023 tăng 18,4%,
tăng mạnh từ mức 10,6% của tháng Ba và là mức tăng nhanh nhất kể từ tháng
3/2021. Thặng dư thương mại của Trung Quốc đã tăng lên 90,2 tỷ USD vào
tháng 4/2023 từ mức 49,5 tỷ USD cùng kỳ năm 2022. Xuất khẩu tăng 8,5% so
với cùng kỳ, trong khi nhập khẩu giảm 7,9% trong bối cảnh nhu cầu trong nước
suy yếu và giá hàng hóa giảm. Tỷ lệ lạm phát hàng năm của Trung Quốc đã
giảm xuống 0,1% vào tháng 4/2023 từ mức 0,7% của tháng trước, mức thấp nhất
kể từ đợt giảm phát vào tháng 2/2021 trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi không
đồng đều. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) đã quyết định duy trì mức
lãi suất cho vay cơ bản thấp. Lãi suất cơ bản cho vay một năm (LPR) được giữ ở
mức 3,65%; lãi suất 5 năm (tham chiếu cho các khoản thế chấp) được duy trì ở
mức 4,3%; và lãi suất chính sách trung hạn cũng được giữ ở mức 2,75%.
2. Dự báo tình hình kinh tế trong nước
Các tổ chức quốc tế tiếp tục đánh giá cao về triển vọng tăng trưởng kinh
tế Việt Nam. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự báo nền kinh tế
Việt Nam tăng trưởng ở mức 6,5% vào năm 2023 và 6,6% trong năm 2024.
ADB dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt mức 6,5% trong năm nay và tăng
lên 6,8% trong năm 2024. Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng trưởng GDP
của Việt Nam sẽ đạt mức 6,3% năm 2023 và 6,5% vào năm 2024. Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) dự báo, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 5,8% trong năm nay và
6,9% năm sau, nằm trong nhóm dẫn đầu châu Á.
Trong thời gian tới, Việt Nam có nhiều triển vọng cải thiện tốc độ tăng
trưởng qua thúc đẩy đầu tư công, tiêu dùng, du lịch; gia tăng đóng góp của số
33

hóa, công nghệ cao vào tăng trưởng, đẩy mạnh quá trình chuyển đổi xanh, tận
dụng xu hướng chuyển dịch dòng vốn đầu tư nước ngoài... Tuy nhiên, nền kinh
tế vẫn phải đối mặt với không ít rủi ro, biến động phức tạp, khó lường như: (i)
sự phục hồi chậm của các đối tác thương mại lớn; (ii) áp lực lạm phát toàn cầu
được đánh giá là chậm lại nhưng vẫn ở mức cao; (iii) xu hướng tiếp tục thắt chặt
tiền tệ ở nhiều quốc gia nhằm kiềm chế lạm phát; (iv) rủi ro gián đoạn trong
chuỗi giá trị toàn cầu; (v) an ninh năng lượng, an ninh lương thực, thiên tai, dịch
bệnh, biến đổi khí hậu, bão lũ, hạn hán... tiếp tục là các vấn đề cần quan tâm.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

Với phương châm “đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng
tạo, kịp thời hiệu quả”, không lơ là, chủ quan, tận dụng tối đa các cơ hội có
được, các bộ, ngành và địa phương tiếp tục thực hiện hiệu quả, thực chất, toàn
diện, nhất quán các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội, Nghị quyết số
01/NQ-CP, Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, các chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ tại các Công điện số 470/CĐ-TTg, số 469/CĐ-TTg, số
238/CĐ-TTg; củng cố và phát huy các kết quả đã đạt được; triển khai nhanh,
hiệu quả các chính sách, giải pháp tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác đã
ban hành để thúc đẩy tăng trưởng, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người
dân, tăng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô,
kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, an sinh xã hội; chủ động xử lý
công việc theo thẩm quyền; kịp thời phản ứng chính sách trước các tình huống
mới phát sinh; đẩy mạnh các giải pháp trong trung và dài hạn, thực hiện 03 đột
phá chiến lược,...
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu, kiến nghị nhiệm vụ, giải pháp trọng
tâm thời gian tới của từng bộ, cơ quan (chi tiết tại Phụ lục Báo cáo); trong đó,
lưu ý một số nhiệm vụ, giải pháp sau đây:
- Tập trung theo dõi sát, phân tích, dự báo các diễn biến lớn, bất ngờ của
tình hình thế giới, các xu hướng lớn toàn cầu và tình hình trong nước; chủ động,
quyết liệt xử lý theo thẩm quyền, kịp thời tham mưu, kiến nghị Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ doanh nghiệp, người
dân, nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô.
- Trên cơ sở kết quả làm việc của các Thành viên Chính phủ với địa
phương, các bộ, cơ quan, địa phương theo thẩm quyền được giao, khẩn trương
tháo gỡ, đề xuất cấp có thẩm quyền tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất
kinh doanh, đầu tư xây dựng, xuất nhập khẩu.
34

- Bộ Tài chính: (1) quản lý chặt chẽ các nguồn thu; triệt để tiết kiệm chi;
(2) triển khai hiệu quả chính sách miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế đã ban
hành; sớm đề xuất chính sách tài khóa, giảm thuế, phí, gia hạn thời hạn nộp thuế
tiêu thụ đặc biệt; trình Chính phủ dự thảo Nghị định về mức thu lệ phí trước bạ
đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước trước ngày 15/6/2023, dự thảo Nghị
định liên quan đến kiểm tra chất lượng, kiểm tra an toàn thực phẩm đối với hàng
hóa nhập khẩu trong tháng 6; (3) quyết liệt thực hiện, phối hợp, hướng dẫn
doanh nghiệp đẩy nhanh hoàn thuế giá trị gia tăng, tạo thuận lợi tối đa trong các
thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu; (4) khẩn trương rà soát, tham mưu sửa đổi cơ chế,
chính sách ưu đãi đầu tư trong bối cảnh thuế tối thiểu toàn cầu; (5) tính toán
mức độ, thời hạn, hình thức, phương thức huy động vốn để kích thích tăng
trưởng kinh tế, bảo đảm việc huy động vốn cho NSTW để bù đắp bội chi và trả
nợ gốc theo nhu cầu phát sinh thực tế; (6) đề xuất giải pháp thiết thực, khả thi,
hiệu quả để xử lý dứt điểm khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế của thị trường
trái phiếu doanh nghiệp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 6.
Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng ngân quỹ nhà nước
góp phần giảm mặt bằng lãi suất cho vay, thúc đẩy tăng trưởng, tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất kinh doanh, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày
15/6/2023.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: (1) tập trung điều hành, tiếp tục phấn
đấu giảm mặt bằng lãi suất huy động và cho vay, nhất là lãi suất đối với dư nợ
hiện hữu, tăng khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế; (2) giữ ổn định thị trường
ngoại tệ, điều hành tỷ giá phù hợp với tình hình; (3) kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo
các tổ chức tín dụng triển khai thực hiện quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ,
giữ nguyên nhóm nợ trong trường hợp cần thiết; (4) theo dõi chặt chẽ tình hình
nợ xấu, bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; (5) phối hợp chặt chẽ
với các bộ, cơ quan trong điều hành chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng,
ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; (6) tiếp tục rà soát các gói tín dụng 40
nghìn tỷ đồng và 120 nghìn tỷ đồng, với các điều kiện cho vay kịp thời, thuận
lợi, thông thoáng, linh hoạt, khả thi, hợp lý hơn.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư: (1) tiếp tục rà soát, cập nhật kịch bản tăng
trưởng của quý II và cả năm 2023; nghiên cứu, đề xuất các giải pháp để bảo đảm
thực hiện mục tiêu tăng trưởng cả năm; (2) phối hợp với các bộ, cơ quan, địa
phương rà soát các quy định về điều kiện kinh doanh, kiểm tra chuyên ngành,
kiến nghị cụ thể phương án sửa đổi, thay thế, bãi bỏ; nghiên cứu báo cáo Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ trong cuối quý III năm 2023 việc xây dựng Nghị
35

quyết về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy năng suất lao động,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; (3) theo dõi chặt chẽ tình hình doanh
nghiệp, sản xuất kinh doanh, kịp thời tham mưu, kiến nghị giải pháp hỗ trợ; (4)
tiếp tục rà soát, nghiên cứu, tham mưu sửa đổi cơ chế, chính sách ưu đãi, thu hút
FDI trong bối cảnh áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu; (5) đề xuất thành lập, kiện
toàn Hội đồng điều phối của 6 vùng KTXH, trình Thủ tướng Chính phủ trước
ngày 15/6/2023, trường hợp có văn bản cần sửa đổi, bổ sung thì hoàn thành
trước ngày 20/6/2023.
- Bộ Công Thương: (1) tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu tại các thị trường
truyền thống; mở rộng và đa dạng hóa thị trường, tranh thủ cơ hội xuất khẩu của
từng thị trường, mặt hàng, phát huy các FTA đã ký kết; tăng cường xúc tiến
thương mại, công tác Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, phát triển thương mại
điện tử; (2) đẩy mạnh đàm phán, ký kết FTA với Israel, hiệp định với các đối tác
(UAE, MERCOSUR) để đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng; (3)
kịp thời thông tin, cảnh báo, chủ động hướng dẫn doanh nghiệp ứng phó kịp thời
với các vụ kiện phòng vệ thương mại, các tiêu chuẩn, kỹ thuật mới của nước đối
tác xuất khẩu như cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), hàng hóa không
liên quan đến hoạt động phá rừng của EU,...; (4) phối hợp với các bộ, ngành, địa
phương triển khai hiệu quả các chính sách kích cầu, phát triển thương mại trong
nước; theo dõi sát diễn biến thị trường, kịp thời thực hiện, tham mưu, đề xuất
các giải pháp bảo đảm cân đối cung cầu, ổn định giá các mặt hàng thiết yếu; (5)
phối hợp với các cơ quan chức năng nâng cao hiệu quả quản lý thị trường, đấu
tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả; (6) tập trung điều tiết, bảo
đảm ổn định nguồn điện trong mùa cao điểm nắng nóng; (7) rà soát, hướng dẫn,
sớm cấp phép hoạt động điện lực cho các dự án điện năng lượng tái tạo đủ điều
kiện để sớm đưa các dự án này vào vận hành.
- Bộ Xây dựng chủ trì, tập trung rà soát, tạo điều kiện xử lý nhanh các thủ
tục đầu tư, xây dựng đối với các dự án bất động sản trên địa bàn đã đáp ứng đủ
điều kiện để các doanh nghiệp sớm triển khai, hoàn thành, đưa sản phẩm ra thị
trường; triển khai quyết liệt, hiệu quả Nghị quyết số 33/NQ-CP của Chính phủ.
- Bộ Công Thương, Bộ Công an, Bộ Xây dựng, các bộ, cơ quan, địa
phương khẩn trương sửa đổi các quy định phòng cháy, chữa cháy, tạo thuận lợi
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường tổng hợp kiến nghị của địa phương có nhu
cầu sử dụng đất phát sinh (tăng, giảm so với chỉ tiêu đất được Thủ tướng Chính
phủ phân bổ tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 09/3/2022) để kiến nghị cấp
36

có thẩm quyền theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số
360/CĐ-TTg.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các bộ, cơ quan,
địa phương: (1) theo dõi, chỉ đạo ứng phó kịp thời, hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại
do thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn; rà soát hệ thống hồ chứa, thủy lợi,... đặc
biệt tại các vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm, khu vực bị tác động mạnh
bởi hạn hán, thiên tai; (2) tập trung đẩy mạnh xuất khẩu, khơi thông thị trường
cho hàng hóa nông nghiệp; (3) tăng cường điều tiết, tổ chức sản xuất theo quy
hoạch vùng trồng, nâng cao hiệu quả quản lý mã số vùng trồng.
- Bộ Giao thông vận tải, các địa phương phối hợp chặt chẽ, quyết liệt chỉ
đạo để khởi công các dự án vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội, vành đai 3 Tp. Hồ
Chí Minh, cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, Biên Hòa - Vũng Tàu, Châu
Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng trong tháng 6/2023 theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ.
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục phối hợp với các bộ, cơ quan,
địa phương tổ chức tốt mùa du lịch hè 2023; tăng cường công tác quản lý giá
dịch vụ du lịch, lưu trú, ăn uống tại các địa bàn trọng điểm du lịch, khắc phục
tình trạng biến động mạnh về giá, tính mùa vụ trong ngành du lịch; theo dõi chặt
chẽ việc ban hành chính sách của các nước có ảnh hưởng đến du lịch của Việt
Nam, kịp thời nghiên cứu, có giải pháp, chính sách ứng phó, thích ứng phù hợp
để thu hút khách du lịch quốc tế.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình
hình lao động bị mất việc làm, giảm giờ làm để có phương án hỗ trợ trong
trường hợp cần thiết; tăng cường giải pháp kết nối cung – cầu lao động, hỗ trợ
người lao động tìm kiếm việc làm; rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định
liên quan đến cấp phép lao động để khắc phục, giải quyết dứt điểm khó khăn,
vướng mắc phát sinh trong thực tiễn, báo cáo Chính phủ trong tháng 6.
- Bộ Y tế hướng dẫn các địa phương đẩy mạnh thực hiện Chương trình
tiêm chủng mở rộng; triển khai phòng chống dịch COVID-19, các bệnh truyền
nhiễm thường gặp vào mùa hè, bảo đảm an toàn, hiệu quả.
- Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục thúc đẩy chuyển đổi số; bảo đảm
hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ triển khai Đề án 06; phối hợp với các cơ
quan truyền thông triển khai hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, kịp thời
đấu tranh phản bác quan điểm, tư tưởng sai trái, thông tin xấu, độc, sai sự thật.
- Bộ Nội vụ chủ trì tham mưu, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
cấp có thẩm quyền xem xét, sớm ban hành các quy định về khuyến khích, bảo
37

vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích
chung.
- Các Bộ Quốc phòng, Công an và Ngoại giao: bảo đảm vững chắc quốc
phòng an ninh, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống phát sinh; đẩy nhanh điều
tra, xử lý các vụ án trọng điểm; làm tốt công tác phòng chống tham nhũng, tiêu
cực; điều tra, xử lý nghiêm các hành vi tung tin xấu, độc, sai sự thật; trấn áp các
loại tội phạm, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Triển khai toàn diện, hiệu quả
công tác đối ngoại, ngoại giao kinh tế, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài cho
phát triển đất nước.
- Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan tiếp tục rà soát, tháo gỡ các hạn chế, bất
cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật theo thẩm quyền, kịp thời báo cáo Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với các vấn đề vượt thẩm quyền.
- Các bộ, cơ quan và địa phương đẩy mạnh cải cách hành chính, thủ tục
hành chính, cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, cải thiện môi trường
đầu tư kinh doanh; tuyệt đối không ban hành chính sách, quy định mới làm phát
sinh chi phí, thủ tục, thời gian trái quy định hoặc không cần thiết cho doanh
nghiệp, người dân.
- Các địa phương: (1) thành lập, tổ chức hoạt động hiệu quả Tổ công tác
đặc biệt để tháo gỡ ngay khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ hiệu quả cho sản xuất
kinh doanh, xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của người đứng đầu;
(2) tập trung xử lý theo thẩm quyền, chủ động nghiên cứu, ban hành các chính
sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trên địa bàn, kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc cho các dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn; (3) tăng cường quản lý,
kiểm soát giá cả, thị trường, phòng chống gian lận thương mại; thực hiện tốt
công tác an sinh xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân; chủ động phòng ngừa, ứng
phó, giảm nhẹ hậu quả thiên tai; (4) thực hiện luân chuyển cán bộ sợ sai, sợ
trách nhiệm trong thực thi công vụ; bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm vì công
việc chung.
Trên đây là nội dung báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng
năm 2023, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kính trình Chính phủ./.

BỘ TRƯỞNG
Nơi nhận:
- Như trên;
- TTgCP và các Phó TTg;
- Văn phòng Chính phủ;
- Lãnh đạo Bộ;
- Các đơn vị thuộc Bộ (bản điện tử);
- Lưu: VT, Vụ TH (3b).
38

Nguyễn Chí Dũng


PHỤ LỤC 1:
Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của các bộ, ngành, địa phương tháng 6
và quý III năm 2023

1. Các bộ, cơ quan trung ương


- Tập trung theo dõi sát, phân tích, dự báo các diễn biến lớn, bất ngờ của
tình hình thế giới, các xu hướng lớn toàn cầu và tình hình trong nước; chủ động,
quyết liệt xử lý theo thẩm quyền, kịp thời tham mưu, kiến nghị Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ doanh nghiệp, người
dân, nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô.
- Trên cơ sở kết quả làm việc của các Thành viên Chính phủ với địa
phương, các bộ, cơ quan, địa phương theo thẩm quyền được giao, khẩn trương
tháo gỡ, đề xuất cấp có thẩm quyền tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất
kinh doanh, đầu tư xây dựng, xuất nhập khẩu.
- Bộ Tài chính: (1) quản lý chặt chẽ các nguồn thu; triệt để tiết kiệm chi;
(2) triển khai hiệu quả chính sách miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế đã ban
hành; sớm đề xuất chính sách tài khóa, giảm thuế, phí, gia hạn thời hạn nộp thuế
tiêu thụ đặc biệt; trình Chính phủ dự thảo Nghị định về mức thu lệ phí trước bạ
đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước trước ngày 15/6/2023, dự thảo Nghị định
liên quan đến kiểm tra chất lượng, kiểm tra an toàn thực phẩm đối với hàng hóa
nhập khẩu trong tháng 6; (3) quyết liệt thực hiện, phối hợp, hướng dẫn doanh
nghiệp đẩy nhanh hoàn thuế giá trị gia tăng, tạo thuận lợi tối đa trong các thủ tục
xuất khẩu, nhập khẩu; (4) khẩn trương rà soát, tham mưu sửa đổi cơ chế, chính
sách ưu đãi đầu tư trong bối cảnh thuế tối thiểu toàn cầu; (5) tính toán mức độ,
thời hạn, hình thức, phương thức huy động vốn để kích thích tăng trưởng kinh tế,
bảo đảm việc huy động vốn cho NSTW để bù đắp bội chi và trả nợ gốc theo nhu
cầu phát sinh thực tế; (6) đề xuất giải pháp thiết thực, khả thi, hiệu quả để xử lý
dứt điểm khó khăn, vướng mắc, tồn tại, hạn chế của thị trường trái phiếu doanh
nghiệp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 6.
Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng ngân quỹ nhà nước
góp phần giảm mặt bằng lãi suất cho vay, thúc đẩy tăng trưởng, tháo gỡ khó khăn
cho sản xuất kinh doanh, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15/6/2023.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: (1) tập trung điều hành, tiếp tục phấn
đấu giảm mặt bằng lãi suất huy động và cho vay, nhất là lãi suất đối với dư nợ
hiện hữu, tăng khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế; (2) giữ ổn định thị trường
ngoại tệ, điều hành tỷ giá phù hợp với tình hình; (3) kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo
các tổ chức tín dụng triển khai thực hiện quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ,
giữ nguyên nhóm nợ trong trường hợp cần thiết; (4) theo dõi chặt chẽ tình hình
nợ xấu, bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; (5) phối hợp chặt chẽ với
các bộ, cơ quan trong điều hành chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng, ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; (6) tiếp tục rà soát các gói tín dụng 40
nghìn tỷ đồng và 120 nghìn tỷ đồng, với các điều kiện cho vay kịp thời, thuận lợi,
thông thoáng, linh hoạt, khả thi, hợp lý hơn.
2

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư: (1) tiếp tục rà soát, cập nhật kịch bản tăng trưởng
của quý II và cả năm 2023; nghiên cứu, đề xuất các giải pháp để bảo đảm thực
hiện mục tiêu tăng trưởng cả năm; (2) phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương
rà soát các quy định về điều kiện kinh doanh, kiểm tra chuyên ngành, kiến nghị
cụ thể phương án sửa đổi, thay thế, bãi bỏ; nghiên cứu báo cáo Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ trong cuối quý III năm 2023 việc xây dựng Nghị quyết về cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy năng suất lao động, nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia; (3) theo dõi chặt chẽ tình hình doanh nghiệp, sản xuất
kinh doanh, kịp thời tham mưu, kiến nghị giải pháp hỗ trợ; (4) tiếp tục rà soát,
nghiên cứu, tham mưu sửa đổi cơ chế, chính sách ưu đãi, thu hút FDI trong bối
cảnh áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu; (5) đề xuất thành lập, kiện toàn Hội đồng
điều phối của 6 vùng KTXH, trình Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15/6/2023,
trường hợp có văn bản cần sửa đổi, bổ sung thì hoàn thành trước ngày 20/6/2023.
- Bộ Công Thương: (1) tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu tại các thị trường truyền
thống; mở rộng và đa dạng hóa thị trường, tranh thủ cơ hội xuất khẩu của từng thị
trường, mặt hàng, phát huy các FTA đã ký kết; tăng cường xúc tiến thương mại,
công tác Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, phát triển thương mại điện tử; (2)
đẩy mạnh đàm phán, ký kết FTA với Israel, hiệp định với các đối tác (UAE,
MERCOSUR) để đa dạng hóa thị trường, sản phẩm, chuỗi cung ứng; (3) kịp thời
thông tin, cảnh báo, chủ động hướng dẫn doanh nghiệp ứng phó kịp thời với các
vụ kiện phòng vệ thương mại, các tiêu chuẩn, kỹ thuật mới của nước đối tác xuất
khẩu như cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), hàng hóa không liên quan
đến hoạt động phá rừng của EU,...; (4) phối hợp với các bộ, ngành, địa phương
triển khai hiệu quả các chính sách kích cầu, phát triển thương mại trong nước;
theo dõi sát diễn biến thị trường, kịp thời thực hiện, tham mưu, đề xuất các giải
pháp bảo đảm cân đối cung cầu, ổn định giá các mặt hàng thiết yếu; (5) phối hợp
với các cơ quan chức năng nâng cao hiệu quả quản lý thị trường, đấu tranh chống
buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả; (6) tập trung điều tiết, bảo đảm ổn định
nguồn điện trong mùa cao điểm nắng nóng; (7) rà soát, hướng dẫn, sớm cấp phép
hoạt động điện lực cho các dự án điện năng lượng tái tạo đủ điều kiện để sớm đưa
các dự án này vào vận hành.
- Bộ Xây dựng chủ trì, tập trung rà soát, tạo điều kiện xử lý nhanh các thủ
tục đầu tư, xây dựng đối với các dự án bất động sản trên địa bàn đã đáp ứng đủ
điều kiện để các doanh nghiệp sớm triển khai, hoàn thành, đưa sản phẩm ra thị
trường; triển khai quyết liệt, hiệu quả Nghị quyết số 33/NQ-CP của Chính phủ.
- Bộ Công Thương, Bộ Công an, Bộ Xây dựng, các bộ, cơ quan, địa
phương khẩn trương sửa đổi các quy định phòng cháy, chữa cháy, tạo thuận lợi
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các bộ, cơ quan,
địa phương: (1) theo dõi, chỉ đạo ứng phó kịp thời, hiệu quả, giảm thiểu thiệt hại
do thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn; rà soát hệ thống hồ chứa, thủy lợi,... đặc
biệt tại các vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm, khu vực bị tác động mạnh bởi
hạn hán, thiên tai; (2) tập trung đẩy mạnh xuất khẩu, khơi thông thị trường cho
hàng hóa nông nghiệp; (3) tăng cường điều tiết, tổ chức sản xuất theo quy hoạch
vùng trồng, nâng cao hiệu quả quản lý mã số vùng trồng.
3

- Bộ Giao thông vận tải và các địa phương38 phối hợp chặt chẽ, quyết liệt
chỉ đạo để khởi công các dự án đường vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội, vành đai
3 thành phố Hồ Chí Minh, đường cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, Biên
Hòa - Vũng Tàu, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng trong tháng 6/2023 theo đúng
chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục rà soát, hoàn thiện các quy định
pháp lý về đất đai, bất động sản thuộc phạm vi quản lý nhà nước; hướng dẫn triển
khai tháo gỡ ngay các khó khăn, vướng mắc, thủ tục liên quan đến khai thác mỏ
vật liệu xây dựng phục vụ các công trình giao thông trọng điểm; nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác dự báo, cảnh báo kịp thời các hiện tượng thời tiết, thủy
văn cực đoan, nguy hiểm; tổng hợp các kiến nghị của địa phương có nhu cầu sử
dụng đất phát sinh (tăng, giảm so với chỉ tiêu đất được Thủ tướng Chính phủ
phân bổ tại Quyết định số 326/QĐ-TTg ngày 09/3/2022) để kiến nghị cấp có
thẩm quyền theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số
360/CĐ-TTg ngày 02/5/2023.
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục phối hợp với các bộ, cơ quan,
địa phương tổ chức tốt mùa du lịch hè 2023; tăng cường công tác quản lý giá dịch
vụ du lịch, lưu trú, ăn uống tại các địa bàn trọng điểm du lịch, khắc phục tình
trạng biến động mạnh về giá, tính mùa vụ trong ngành du lịch; theo dõi chặt chẽ
việc ban hành chính sách của các nước có ảnh hưởng đến du lịch của Việt Nam,
kịp thời nghiên cứu, có giải pháp, chính sách ứng phó, thích ứng phù hợp để thu
hút khách du lịch quốc tế đạt mục tiêu đề ra.
- Bộ Khoa học và Công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục nghiên
cứu, tham mưu các giải pháp thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công
nghệ, đổi mới sáng tạo, tăng năng suất lao động xã hội.
- Bộ Y tế hướng dẫn các địa phương đẩy mạnh thực hiện Chương trình
tiêm chủng mở rộng; triển khai phòng chống dịch COVID-19, các bệnh truyền
nhiễm thường gặp vào mùa hè, bảo đảm an toàn, hiệu quả; tập trung giải quyết
triệt để, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong mua sắm, đấu thầu thuốc, trang thiết
bị, vật tư y tế tại các bệnh viện và cơ sở khám, chữa bệnh.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình
lao động bị mất việc làm, giảm giờ làm để có phương án hỗ trợ trong trường hợp
cần thiết; tăng cường giải pháp kết nối cung – cầu lao động, hỗ trợ người lao
động tìm kiếm việc làm; rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan
đến cấp phép lao động để khắc phục, giải quyết dứt điểm khó khăn, vướng mắc
phát sinh trong thực tiễn, báo cáo Chính phủ trong tháng 6.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo tích cực thực hiện Chương trình giáo dục phổ
thông mới; chuẩn bị cho kỳ thi Tốt nghiệp Trung học phổ thông và tuyển sinh đại
học, cao đẳng năm 2023.
- Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục thúc đẩy chuyển đổi số; bảo đảm
hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ triển khai Đề án 06; phối hợp với các cơ

38
Gồm: Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Ninh, thành phố Hồ Chí Minh, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng
Tàu, thành phố Cần Thơ, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng (văn bản số 5597/BGTVT-KHĐT ngày 31/5/2023 của
Bộ Giao thông vận tải).
4

quan truyền thông triển khai hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, kịp thời
đấu tranh phản bác quan điểm, tư tưởng sai trái, thông tin xấu, độc, sai sự thật.
- Bộ Nội vụ chủ trì tham mưu, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
cấp có thẩm quyền xem xét, sớm ban hành các quy định về khuyến khích, bảo vệ
cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung.
- Bộ Quốc phòng chủ động làm tốt công tác nghiên cứu chiến lược, nắm,
đánh giá, dự báo đúng tình hình, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước có chủ
trương, đối sách xử lý thắng lợi các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất
là những vấn đề phức tạp, nhạy cảm liên quan đến độc lập, chủ quyền, biên giới,
biển đảo, góp phần ngăn ngừa nguy cơ xung đột, giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Tăng cường quản lý biên giới; kiểm
soát chặt chẽ người, phương tiện qua cửa khẩu, lối mở; kịp thời phát hiện, đấu
tranh với các loại tội phạm, nhất là mua bán, vận chuyển ma túy, buôn lậu, mua
bán người; giữ gìn an ninh trật tự khu vực biên giới, cửa khẩu. Chủ động ứng phó
hiệu quả với các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là thiên tai, dịch bệnh,
tìm kiếm, cứu nạn,...
- Bộ Công an đẩy nhanh tiến độ điều tra, xử lý các vụ án trọng điểm; làm
tốt công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực; ngăn chặn, điều tra, xử lý nghiêm
các hành vi tung tin xấu, độc, sai sự thật; tập trung trấn áp các loại tội phạm, bảo
đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; tập trung đẩy nhanh tiến độ triển khai thực
hiện Đề án 06/CP về cung cấp dịch vụ công trực tuyến, trọng tâm là triển khai
Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 23/2/2023 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục đẩy
mạnh triển khai Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác
thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, nhất là quản lý người nước ngoài, quản
lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Thực hiện các giải pháp mạnh mẽ bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông, trật tự đô thị, công tác phòng cháy, chữa cháy,
cứu nạn, cứu hộ.
- Bộ Ngoại giao triển khai toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội
nhập quốc tế và ngoại giao kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu và
đầu tư tại nước ngoài, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để phục vụ phát triển.
- Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan tiếp tục rà soát, tháo gỡ các hạn chế, bất cập
trong cơ chế, chính sách, pháp luật theo thẩm quyền, kịp thời báo cáo Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ đối với các vấn đề vượt thẩm quyền.
- Các bộ, cơ quan và địa phương đẩy mạnh cải cách hành chính, thủ tục
hành chính, cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, cải thiện môi trường
đầu tư kinh doanh; tuyệt đối không ban hành chính sách, quy định mới làm phát
sinh chi phí, thủ tục, thời gian không cần thiết cho doanh nghiệp, người dân.
2. Các địa phương
- Thành lập, tổ chức hoạt động hiệu quả Tổ công tác đặc biệt để tháo gỡ
ngay khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp, sản xuất kinh
doanh, xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của người đứng đầu.
- Tập trung xử lý theo thẩm quyền, chủ động nghiên cứu, ban hành các
5

chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trên địa bàn, kịp thời tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc cho các dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn.
- Tăng cường quản lý, kiểm soát giá cả, thị trường, phòng chống gian lận
thương mại; thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân;
chủ động phòng ngừa, ứng phó, giảm nhẹ hậu quả thiên tai.
- Thực hiện luân chuyển cán bộ sợ sai, sợ trách nhiệm trong thực thi công
vụ; bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm vì công việc chung.

You might also like