You are on page 1of 13

https://www.gso.gov.

vn/tin-tuc-thong-ke/2023/09/giai-phap-thuc-day-tang-truong-kinh-te-
nhung-thang-cuoi-nam-2023/

https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/chuyen-gia-de-xuat-mot-so-giai-phap-kinh-cau-cho-tang-
truong-kinh-te-119230717113537493.htm

https://tapchinganhang.gov.vn/tang-truong-kinh-te-viet-nam-nam-2023-va-trien-vong.htm

https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=81838

https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/ttpltc/pages_r/l/chi-tiet-tin-ttpltc?
dDocName=MOFUCM276767

https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=81958

“Dư âm” từ đại dịch kéo dài,

Thế giới: Tuy nhiên, kinh tế của một số quốc gia trên thế giới đã có những chuyển biến tích cực
hơn so với dự báo trước đó, nhiều nền kinh tế không rơi vào tăng trưởng âm. Cụ thể, tăng trưởng
GDP quý I, quý II năm 2023 so với cùng kỳ năm trước của một số nền kinh tế lần lượt là: Mỹ
tăng 1,8% và 2,6%; khu vực châu Âu tăng 1,1% và 0,5%; Trung Quốc tăng 4,5% và 6,3%; Ấn
Độ tăng 6,1% và 7,8%; Nhật Bản tăng 2% và 1,6%; Xin-ga-po tăng 0,4% và 0,5%; Thái Lan
tăng 2,6% và 1,8%; In-đô-nê-xi-a tăng 5,0% và 5,2%…

Việt Nam:
Kết quả tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2023 khá tích cực khi tổng sản phẩm
trong nước (GDP) tăng 3,72% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 3,28%; quý II tăng 4,14%).
Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm, của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản tăng 3,07%, đóng góp 9,28%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 1,13%, đóng góp
11,87%; khu vực dịch vụ tăng 6,33% và đã đóng góp lớn nhất với 78,85%.

Nhìn từ phía cầu, kinh tế Việt Nam trong 8 tháng qua đạt được kết quả tích cực nhờ sự đóng góp
của 3 yếu tố: Tiêu dùng, đầu tư và chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa.

Trong nền kinh tế đang ở giai đoạn suy thoái như hiện nay, việc kích cầu, làm cầu tiêu
dùng tăng trưởng mạnh để có thể thục đẩy nền kinh tế đi lên trong một khoảng thời gian
ngắn. Điều này thể hiện qua tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, hoạt
động du lịch tiếp tục tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Trong 8 tháng năm 2023, tổng mức bán
lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 4.043,9 nghìn tỷ đồng,
tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,7%.
Sau đại dịch Covid-19, nhiều nước mở lại cửa khẩu giao thương, kết nối các nước, trong đó có cả
Việt Nam. Từ đó hoạt động du lịch cũng có phần tăng trưởng mạnh mẽ nhờ đẩy mạnh công tác
xúc tiến, quảng bá sản phẩm nhằm thu hút khách du lịch, đặc biệt là khách quốc tế. Chỉ tính
trong tháng 8/2023, du khách quốc tế đến thăm Việt Nam ước tính đạt 1,2 triệu lượt người, gấp
2,5 lần cùng kỳ năm trước; nếu tính chung cả 8 tháng của năm 2023, lượt khách quốc tế đến
nước ta đạt hơn 7,8 triệu lượt người, gấp 5,4 lần.

Đầu tư công và thu hút vốn đầu tư nước ngoài được thúc đẩy và duy trì. Trong 8 tháng năm
2023, vốn đầu tư thực hiện từ vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 49,4% kế hoạch, tăng 23,1% so
với cùng kỳ năm 2022. Đây cũng là xu hướng tích cực tiếp đà cho các tháng cuối năm.
Trong bối cảnh khó khăn của kinh tế thế giới và khu vực, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam 8 tháng năm 2023 đạt 18,15 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước[1]. Số dự án cấp
mới đạt 1.924 dự án, tăng 69,5%; vốn đầu tư đăng ký cấp mới đạt 8,87 tỷ USD, tăng 39,7%, cho
thấy các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục quan tâm, tin tưởng và kỳ vọng vào sự phát triển của
kinh tế nước ta. Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt 13,1 tỷ USD, cao nhất của cùng kỳ các năm
2019-2023.

Xuất siêu đạt mức khá cao. Trong 8 tháng năm 2023, cán cân thương mại hàng hóa sơ bộ xuất
siêu 19,89 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 5,26 tỷ USD), góp phần ổn định tỷ giá, tăng dự
trữ ngoại hối. Trong đó một số mặt hàng xuất siêu: Điện thoại và linh kiện 28,79 tỷ USD; gỗ và
sản phẩm gỗ 7,07 tỷ USD; thủy sản 4,06 tỷ USD; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện 2,46 tỷ
USD; rau quả 2,27 tỷ USD; dây điện và cáp điện 544,8 triệu USD; cao su 244,2 triệu USD.

Nhìn từ phía cung, hoạt động sản xuất duy trì mức tăng trưởng dương ở cả 3 khu vực
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản luôn đóng vai trò là bệ đỡ của nền kinh tế. Tính đến trung
tuần tháng Tám, cả nước thu hoạch được 1.071,6 nghìn ha lúa hè thu, năng suất đạt 57,5 tạ/ha,
tăng 0,9 tạ/ha; sản lượng đạt 11 triệu tấn, tăng gần 157 nghìn tấn so với vụ hè thu năm trước.

Chăn nuôi trong tháng phát triển tương đối ổn định, trong đó: Số đàn lợn cuối tháng Tám tăng
3,3% so với cùng thời điểm năm trước; gia cầm tăng 2,3%; bò tăng 0,5%. Trong 8 tháng năm
2023, số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 58,5 triệu cây, tăng 4,8%; sản lượng gỗ khai thác đạt
12,4 triệu m3, tăng 2,9% do một số địa phương có sản lượng khai thác gỗ tăng cao.

Nuôi trồng thủy sản đạt kết quả khả quan, đặc biệt là nuôi tôm do xuất khẩu tôm đang có dấu
hiệu phục hồi tại một số thị trường và nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng. Sản lượng nuôi trồng
thủy sản trong tháng Tám ước tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 8 tháng năm
2023 tăng 3,2%, trong đó tôm tăng 4,1%.

Sản xuất công nghiệp có xu hướng tích cực hơn khi từ tháng Năm trở lại đây đã tăng trưởng
dương và tháng sau tăng cao hơn tháng trước[2]. Chỉ số IIP tháng 8/2023 của một số ngành trọng
điểm tăng cao: Sản xuất kim loại tăng 24,8%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 22,9%; sản xuất
sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 17,8%; dệt tăng 15,1%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng
11,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic tăng 10,5%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất
tăng 9,3%; sản xuất đồ uống tăng 8,5%; sản xuất thuốc lá tăng 8,1%.
Vận tải hàng hóa tăng cao phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân trong các dịp Lễ, Tết. Trong
8 tháng năm 2023, vận tải hàng hóa ước đạt 1.497 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 15,1% so
với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 316,9 tỷ tấn.km, tăng 13,4%.

Số doanh nghiệp thành lập mới trong 8 tháng năm 2023 là 103.658 doanh nghiệp, mức cao nhất
trong giai đoạn 8 tháng đầu năm từ trước đến nay, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm 2022 và gấp
1,2 lần mức bình quân giai đoạn 2018-2022 (89.899 doanh nghiệp).

Một số yếu tố được xác định đóng góp tích vực vào tăng trưởng những tháng cuối năm là:
– Việc tăng lương cơ sở cho công chức, viên chức và người lao động áp dụng từ 01/7 năm nay
sẽ giúp cho người dân tăng các khoản chi tiêu, tạo nên dư địa tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong các tháng cuối năm.
– Các chính sách giảm thuế, phí, giảm mặt bằng lãi suất cho vay để kích thích tăng trưởng, hỗ
trợ sản xuất – kinh doanh. Lãi suất ngân hàng giảm là tín hiệu tích cực kích cầu tiêu dùng.
– Ngành du lịch – ngành kinh tế có tác động lan tỏa lớn tới nhiều ngành dịch vụ thị trường như
vận tải, lưu trú ăn uống, lữ hành, hoạt động nghệ thuật, vui chơi giải trí… là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm.
– Chính phủ, Bộ, ngành và địa phương nỗ lực đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, giúp giải
phóng nguồn lực, tác động lan tỏa đến các ngành xây dựng, giao thông vận tải, vật liệu xây
dựng… từ đó hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế.
– Tình hình xuất khẩu gạo trên thế giới liên tục biến chuyển trong thời gian gần đây, nổi bật là
việc Nga chính thức rút khỏi thỏa thuận xuất khẩu ngũ cốc qua Biển Đen; Ấn Độ và các Tiểu
vương quốc Ả rập Thống nhất (UAE) tạm dừng xuất khẩu gạo. Ngoài ra, hiện tượng El Nino,
tình trạng xâm nhập mặn và hạn hán cũng có những diễn biến ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất
lúa gạo. Do đó, Việt Nam có nhiều cơ hội đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu gạo, khai thác thị trường
truyền thống và mở rộng thị trường tiềm năng và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
– Theo kết quả điều tra xu hướng sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp chế biến chế tạo, dự
báo quý III/2023 khả quan hơn quý II/2023. Có 72,6% doanh nghiệp đánh giá hoạt động sản xuất
kinh doanh quý III/2023 so với quý II/2023 tốt hơn và giữ ổn định (34,3% tốt hơn; 38,3% giữ ổn
định). Sự phục hồi của khu vực doanh nghiệp sẽ là động lực cho tăng trưởng các tháng cuối năm.

(1)
(2) Triển khai hiệu quả các giải pháp thúc đẩy xuất nhập khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các
cam kết trong các Hiệp định Thương mại tự do đã ký kết, tăng tốc độ thông quan hàng hóa xuất,
nhập khẩu tại khu vực cửa khẩu biên giới Việt Nam – Trung Quốc;
(3) Tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam và khuyến khích các phương thức đầu tư, mô hình kinh doanh mới, xanh, ít
phát thải, có sự tham gia của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đầu tư tư nhân;
(4) Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ đầu tư công, ưu tiên các dự án sắp hoàn thành, sớm đưa vào sử
dụng các dự án có quy mô, có tiềm năng nhằm duy trì và mở rộng năng lực sản xuất kinh
doanh./.

Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm 2023
Duy trì kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong 8 tháng đầu năm,
Tổng cầu của nền kinh tế bao gồm 3 thành phần: Tiêu dùng cuối cùng; Đầu tư; Xuất khẩu hàng
hoá và dịch vụ.
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm 2023
https://www.gso.gov.vn/tin-tuc-thong-ke/2023/09/giai-phap-thuc-day-tang-truong-kinh-te-
nhung-thang-cuoi-nam-2023/

Chuyên gia đề xuất một số giải pháp kích cầu tăng trưởng kinh tế
https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/chuyen-gia-de-xuat-mot-so-giai-phap-kinh-cau-cho-tang-
truong-kinh-te-119230717113537493.htm

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023 và triển vọng


https://tapchinganhang.gov.vn/tang-truong-kinh-te-viet-nam-nam-2023-va-trien-vong.htm

Góc nhìn chuyên gia: tăng trưởng kinh tế 9 tháng năm 2023 - thực trạng và khuyến nghị
https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=81838

Thủ tướng chỉ thị nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài trong giai đoạn mới
[https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/ttpltc/pages_r/l/chi-tiet-tin ttpltc?
dDocName=MOFUCM276767]

Góc nhìn chuyên gia: giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa góp phần thực hiện tăng
trưởng kinh tế trong bối cảnh mới
[https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=81958]

Các biện pháp chính phủ đã thực hiện để tăng trưởng KT ở VN:
Trong những năm gần đây, tình hình thế giới diễn biến đầy phức tạp, đầy rẫy những sự kiện ảnh
hưởng to lớn đến thế giới. Trong đó không thể không kể đến đại dịch Covid-19 bùng nổ hay
cuộc xung đột giữa Nga và Ukraina. Từ những vấn đề to lớn đó, nền kinh tế bị ảnh hưởng
nghiêm trọng và kéo dài từ năm 2019 cho đến nay vẫn còn tiếp diễn (hậu đại dịch). Việt Nam,
như nhiều quốc gia khác trên thế giới, đã không ngừng nỗ lực và triển khai nhiều biện pháp
chính phủ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xây dựng một nền kinh tế bền vững sau những
vấn đề nan giải như trên. Trước những thách thức và cơ hội trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang
trong tình trạng suy thoái, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra những chính sách và biện pháp chiến
lược, nhằm tối ưu hóa nguồn lực, nâng cao năng suất lao động, và tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của doanh nghiệp và ngành công nghiệp. Kinh tế nước ta cần tiếp tục đảm bảo nguồn
cung từ sản xuất và tập trung vào những giải pháp thúc đẩy “cỗ xe tam mã” (tiêu dùng, đầu tư và
xuất khẩu) để đạt được kết quả tăng trưởng kinh tế cao nhất trong những tháng cuối năm.

Kích cầu tiêu dùng


Trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chậm lại, nhiều doanh nghiệp đối mặt với tình trạng
thiếu đơn hàng…, do hậu quả của đại dịch Covid-19. Trong nền kinh tế đang ở giai đoạn suy
thoái như hiện nay, việc kích cầu, làm cầu tiêu dùng tăng trưởng mạnh để có thể thúc đẩy nền
kinh tế đi lên trong một khoảng thời gian ngắn.
(1) Để có thể làm tăng cầu tiêu dùng một cách hiệu quả, Chính phủ, Bộ, ngành và địa phương đã
thực hiện đồng bộ những chính sách để kích thích nhu cầu tiêu dùng qua các giải pháp như: giảm
giá hàng tiêu dùng, điều chỉnh tăng lương, giảm thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp, miễn
thuế, gia hạn hoặc kéo dài các nghĩa vụ về tài chính, tăng cho vay tiêu dùng. Năm 2023, Chính
phủ và Quốc hội đã ban hành, thực thi một số chính sách hỗ trợ người dân và doanh nghiệp cả về
thể chế và tài chính, tiền tệ thông qua các chính sách như trên với khoảng 150 nghìn tỉ đồng.
Chính phủ cũng luôn đồng hành, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp và các
hộ sản xuất, kinh doanh, quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp bị tác động tiêu cực từ suy giảm xuất
khẩu, đầu tư, tiêu dùng.
Ngành Ngân hàng cũng liên tiếp giảm lãi suất điều hành hỗ trợ doanh nghiệp và hộ kinh doanh
để có khả năng tiếp cận vốn phục hồi sản xuất, kinh doanh. Đồng thời nới lỏng một số điều kiện
cho vay, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng, góp phần tháo gỡ khó khăn
hiện tại của thị trường trái phiếu doanh nghiệp và các khoản cho vay bất động sản. Không chỉ cắt
giảm thủ tục hành chính, Chính phủ còn chỉ đạo cắt giảm cả chi phí tuân thủ pháp luật, thậm chí
Chính phủ chỉ đạo không ban hành các quy định trong thời gian khó khăn nếu quy định đó tạo ra
những khó khăn cho doanh nghiệp để tạo cơ hội phát triển cho doanh nghiệp một cách toàn diện
nhất.
Dù đang hết mình giúp đỡ các doanh nghiệp để nâng cao nền kinh tế, nhưng Chính phủ cũng
không bỏ mặc những người dân đang gặp khó khăn, bằng chứng là qua các giải pháp như tăng
các khoản hỗ trợ an sinh xã hội, mở rộng bảo hiểm thất nghiệp, giảm học phí, viện phí; hỗ trợ
trục tiếp cho người có thu nhập thấp, đồng bào dân tộc thiểu số, các vùng núi khó khăn, thiên tai,
bệnh dịch; miễn giảm học phí với các mức độ khác nhau cho từng cấp, từng nhóm học sinh ở
từng vùng; hỗ trợ đào tạo, y tế, phúc lợi xã hội.

(2) Chính sách tài khóa được Chính phủ sử dụng rất hiệu quả trong việc duy trì sự ổn định kinh
tế vĩ mô. Tiêu dùng nội địa có mức tăng trưởng khá hơn nhờ vào hàng loạt chính sách tài khoá
của Nhà nước nhằm khuyến khích tăng tiêu dùng như chính sách giảm thuế giá trị gia tăng
(VAT) 2%, giãn hoãn thuế, giảm thuế, giảm tiền thuê đất, giảm nhiều sắc thuế cho doanh nghiệp
và người dân. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/NĐ-CP ngày 14/4/2023 về giãn hoãn
thuế, tiền thuê đất, giảm một số thuế, phí trong năm 2023 với tổng giá trị ước tính gần 199 nghìn
tỷ đồng; Quốc hội đã quyết nghị giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) 2% (từ 10% xuống 8%) trong
6 tháng cuối năm 2023 theo đề xuất của Chính phủ, tác động trực tiếp làm tăng tổng cầu tiêu
dùng của nền kinh tế, khơi thông thị trường tiêu thụ, giải quyết lượng hàng tồn kho, nợ đọng vốn,
hỗ trợ doanh nghiệp từng bước phục hồi, mở rộng sản xuất, đảm bảo ổn định việc làm cho người
lao động. Việc được giảm 2% thuế VAT đối với nguyên vật liệu, phụ tùng, thiết bị… sẽ giúp
giảm chi phí sản xuất đầu vào, dẫn đến giá thành sản phẩm giảm, nhờ đó doanh nghiệp chia sẻ
khó khăn với người tiêu dùng. Đồng thời, chính sách này cũng tác động trở lại giúp doanh
nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh do tăng nhu cầu tiêu dùng. Chính phủ cũng ban hành Nghị
định số 36/2023/NĐ-CP ngày 21/6/2023 về gia hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt và Nghị định số
41/2023/NĐ-CP, giảm 50% lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất trong nước cho đến hết năm
2023. Đây là dư địa rất tốt để Chính phủ có thể tiếp tục sử dụng chính sách tài khóa thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới.

(3) Chính sách tiền tệ cũng được Nhà nước sử dụng khá linh hoạt để hỗ trợ cho sự ổn định của
thị trường và kinh tế vĩ mô. Giá cả đồng tiền nội địa được duy trì ở mức ổn định nhất, tốt nhất.
Trong bối cảnh lạm phát thế giới đang leo thang, lạm phát trong nước tiếp tục được giữ ổn định,
giá cả chung được duy trì. Kết quả đó thể hiện sự quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước khi liên tục
thực hiện 4 lần giảm lãi suất điều hành (từ 0,5 – 1,5%), nhằm đưa mặt bằng lãi suất xuống thấp,
giúp cho doanh nghiệp phục hồi sản xuất.
Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản điều hành chính sách tiền tệ kịp thời: (i) Thông
tư số 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại nợ, hoãn giãn nợ, không chuyển nhóm nợ; (ii) Thông tư
số 03/2023/TT-NHNN (sửa đổi Thông tư số 16/2021/TT/NHNN) nới lỏng một số điều kiện về
cho vay, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng. Cùng với đó là những biện
pháp mạnh mẽ về tiền tệ như: (i) Gói tín dụng 120 nghìn tỷ đồng cho 4 Ngân hàng thương mại
lớn; (ii) Cho vay nhà ở xã hội với lãi suất ưu đãi, thấp hơn 1,5 – 2%. Tuy nhiên, vì nhiều lý do,
trong thời gian tới Việt Nam cần hết sức cẩn trọng đối với việc duy trì chính sách tiền tệ
như hiện nay.

(4) Ngoài việc sử dụng những nhân tố như trên để kích cầu tiêu dùng của người dân và các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng sẽ quay vòng vốn tốt hơn thì bên cạnh đó chính sách
tăng tiền lương cơ bản cũng góp phần tăng cầu tiêu dùng do tăng thu nhập cá nhân. Phó Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Khắc Định cho biết, từ 1/7/2024 sẽ thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị
quyết 27-NQ/TW không chỉ điều chỉnh tiên lương mà gắn với nâng cao chất lượng trách nhiệm
đội ngũ cán bộ công chức. Việc tăng lương cơ sở cho công chức, viên chức và người lao động
giúp người dân có thêm khoản thu nhập để tăng chi tiêu, tạo nên dư địa tăng trưởng cho tổng
mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng.

(5) Đẩy mạnh sức mua trong nước, thực hiện có hiệu quả các Chương trình xúc tiến thương mại
thị trường trong nước, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử để mở
rộng tiêu dùng nội địa; vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Chú trọng đầu tư
hiện đại hóa hệ thống phân phối ở vùng nông thôn, miền núi để đẩy mạnh đưa hàng Việt về nông
thôn, đẩy mạnh triển khai các hoạt động kích cầu tiêu dùng nội địa tại các địa phương có các sản
phẩm đặc thù, lợi thế; kết hợp chặt chẽ giữa thương mại truyền thống với hiện đại nhằm khai
thác hiệu quả thị trường 100 triệu dân trong nước còn nhiều tiềm năng; đồng thời, theo dõi sát
diễn biến cung cầu, giá cả, thị trường các mặt hàng thiết yếu để điều hành phù hợp, hiệu quả, bảo
đảm nguồn cung về điện, xăng dầu cho thị trường trong mọi tình huống.
Chính phủ yêu cầu cẩy mạnh Chương trình chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy hoạt động thương
mại điện tử để cải cách, cắt giảm ngay thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, bảo đảm thực
chất, hiệu quả, tránh lãng phí thời gian, nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động sản
xuất kinh doanh. Đồng thời thực hiện Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030; chủ động có giải pháp thúc đẩy, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp chuyển
đổi số; đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, khẩn trương triển khai thực hiện thí điểm dịch
vụ mobile money.

Kích cầu đầu tư


Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam đã trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu
tư trên khắp thế giới. Với sự đổi mới và mở cửa kinh tế, chính phủ Việt Nam đã chủ động trong
việc tạo điều kiện thuận lợi và kích thích kích cầu đầu tư, bao gồm cả đầu tư công và đầu tư tư
nhân, đó chính là những là nhân tố quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Những biện pháp
và chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư trong nước và quốc tế đã được triển khai một cách tích
cực, đặt nền móng cho sự phát triển bền vững và đa dạng hóa của nền kinh tế quốc gia; đồng thời
nâng cao năng lực sản xuất, cạnh tranh của nền kinh tế.

(1) Chính phủ cần ưu tiên kích cầu đầu tư vào các dự án sắp hoàn thành, nhanh đưa vào sử
dụng các dự án có quy mô, có tiềm năng, góp phần trực tiếp duy trì và mở rộng năng lực sản
xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế, các dự án có triển vọng thị trường.

(2) Chính phủ đã ký Quyết định số 235/QĐ-TTg ngày 14/3/2023 về việc đẩy nhanh tiến độ đầu
tư công: Đẩy nhanh tiến độ đầu tư công sẽ khiến tổng cầu của nền kinh tế tăng lên, nhờ đó sẽ
kích thích các doanh nghiệp gia nhập thị trường nhiều hơn để sản xuất các nguyên vật liệu đáp
ứng nhu cầu đầu tư. Giải quyết các vấn đề cốt lõi về giải phóng mặt bằng, xác định mức bồi
thường phù hợp với giá trị thực tế; cần xác định chính xác tổng mức đền bù của dự án; tăng
cường công tác rà soát, quản lý việc sử dụng đất đai trên địa bàn.
Chính phủ cũng yêu cầu các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương tăng cường kỷ luật, kỷ
cương trong giải ngân vốn đầu tư công, đề cao vai trò, trách nhiệm người đứng đầu; rà soát việc
phân bổ kế hoạch vốn cho các dự án phù hợp với tiến độ thực hiện, bảo đảm trọng tâm, trọng
điểm, không dàn trải, manh mún, kéo dài.
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, cần tập trung:
(i) Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc liên quan đến
đất đai, tài nguyên; (ii) Đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ thi công; thực hiện nghiệm thu, lập hồ sơ
thanh toán ngay khi có khối lượng; (iii) Rà soát, điều chuyển kế hoạch vốn giữa các dự án chậm
giải ngân sang các dự án có tiến độ giải ngân tốt, còn thiếu vốn; (iv) Thành lập tổ công tác thúc
đẩy giải ngân vốn trong từng bộ, cơ quan, địa phương để đôn đốc, kiểm tra, giám sát, xử lý các
điểm nghẽn trong giải ngân vốn đầu tư công; (v) Kiểm điểm trách nhiệm của tập thể, người đứng
đầu, cá nhân có liên quan trong trường hợp không hoàn thành kế hoạch giải ngân theo tiến độ đề
ra; (vi) Kiên quyết chống trì trệ, xử lý nghiêm các trường hợp tiêu cực trong đầu tư công; (vii)
Thực hiện đấu thầu qua mạng theo quy định, bảo đảm công khai, minh bạch, lựa chọn nhà thầu
đủ năng lực; (viii) Xử lý nghiêm các trường hợp nhà thầu vi phạm tiến độ hợp đồng.

(3) Cần thực hiện tốt hơn việc công khai danh mục đầu tư, thúc đẩy mạnh và hiệu quả các hoạt
động xúc tiến đầu tư và thương mại; cải thiện căn bản môi trường đầu tư theo hướng tự do hóa,
thuận lợi hóa, giảm các chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp, khuyến khích xã hội hóa. Thực
hiện chính sách giảm thuế, tăng các hoạt động bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
từ các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp có một phần vốn Nhà nước; tiếp tục đẩy mạnh quá trình cổ phần
hóa cả doanh nghiệp Nhà nước.

(4) Triển khai quyết liệt các chương trình đầu tư quy mô lớn, nhất là cho hạ tầng chiến lược, thúc
đẩy các dự án hạ tầng giao thông liên vùng như Tây Ninh (Kế hoạch số 1465/KH-UBND),
Quảng Ninh (Quyết định số 80/QĐ-TTg, Quyết định số 279/QĐ-TTg), Đà Nẵng,…, kho cảng,
hạ tầng các khu công nghiệp. Bên cạnh đó Chính phủ cũng đầu tư nhà ở, nhất là nhà ở xã hội,
nhà cho người có thu nhập thấp, nhà ở cho thuê.

(5) Đẩy mạnh tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam. Khuyến khích các phương thức đầu tư, mô hình kinh doanh mới, xanh, ít
phát thải, có sự tham gia của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đầu tư tư nhân, nhất là phát
huy hiệu quả mô hình hợp tác công – tư vào đầu tư cơ sở hạ tầng.
Đặc biệt, tập trung đầu tư vào năng lượng tái tạo, năng lượng xanh, hạ tầng xanh, hạ tầng số
quốc gia,… và hệ thống truyền tải, phân phối điện để tạo tác động lan tỏa, tạo động lực tăng
trưởng mới cho nền kinh tế. Trong những năm qua, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã ban
hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch hành động và văn bản chỉ đạo
điều hành về phát triển kinh tế xanh, tăng trưởng bền vững và bảo vệ môi trường như Quyết định
số 2139/QĐ-TTg ngày 05/12/2011 phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu; Quyết
định số 1474/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn
2012 - 2020 nhằm hiện thực hóa các nhiệm vụ của Chiến lược; Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày
10/5/2017 ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự
phát triển bền vững2; Quyết định số 1670/QĐ-TTg ngày 31/10/2017 phê duyệt Chương trình
mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016 – 2020.

Thúc đẩy xuất khẩu, duy trì thặng dư thương mại bền vững
Kim ngạch xuất khẩu có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Vì thế trong bối cảnh nền
kinh tế toàn cầu ngày càng kết nối, xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển kinh tế và duy trì thặng dư thương mại cho một quốc gia. Đối với Việt Nam, nhiệm vụ này
trở nên ngày càng quan trọng, và chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp và chính sách nhằm tối ưu
hóa khả năng xuất khẩu, cũng như duy trì một thặng dư thương mại bền vững.

(1) Trong bối cảnh tình hình kinh tế - chính trị thế giới có những diễn biến phức tạp, đa số các
quốc gia chịu nhiều tác động về kinh tế - xã hội do đại dịch COVID-19 bùng phát, Việt Nam vẫn
kiên trì thực hiện các chủ trương lớn về hội nhập kinh tế quốc tế theo Nghị quyết số 06-NQ/TW,
ngày 5-11-2016, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, “Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới” nhằm “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc”. Việt
Nam không ngừng mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế, quan hệ đối tác chiến lược với các
nền kinh tế lớn trên thế giới. Điều này không chỉ giúp tăng cường quan hệ đối ngoại, mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, quảng bá, giao lưu văn hóa hữu nghị mà còn góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội.

(2) Nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho xuất khẩu hàng
hóa, đồng thời xây dựng, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách kinh tế, thương mại cần thực hiện
đồng bộ và thường xuyên; rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật và cơ chế, chính sách hiện hành
để làm rõ những nội dung không phù hợp với quy định quốc tế và cam kết trong các FTA, từ đó,
sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp quy cho phù hợp; kiện toàn các tổ chức pháp
chế của ngành, địa phương và doanh nghiệp, củng cố hệ thống tòa án kinh tế, lao động, hành
chính và các tổ chức trọng tài. Qua đó Việt Nam có thể tạo dựng môi trường kinh doanh thuận
lợi, thông thoáng và minh bạch, bảo đảm thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa và kiểm
soát tốt, hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Chính phủ chủ động, tích cực tham gia xây dựng các quy
tắc và luật lệ chung của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Cộng đồng Kinh tế ASEAN
(AEC), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); tích cực bảo vệ lợi ích
chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam trong các tranh chấp kinh
tế, thương mại và đầu tư quốc tế.
Điều này nhằm thực hiện mục tiêu phát triển xuất nhập khẩu bền vững, cơ cấu cân đối, hài hoà,
phát huy lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh, phát triển thương hiệu hàng hóa Việt Nam, nâng cao
vị thế quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu, là động lực của tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững.

(3) Việt Nam đẩy mạnh công tác thông tin thị trường, tập trung vào xây dựng hình ảnh của doanh
nghiệp xuất khẩu Việt Nam uy tín, trong đó có hoạt động công bố các doanh nghiệp xuất khẩu uy
tín của Việt Nam; từ đó tận dụng hiệu quả cơ hội từ các Hiệp định thương mại. Chính phủ tiếp
tục đẩy mạnh đàm phán, ký kết các Hiệp định, cam kết, liên kết thương mại mới, trong đó có
hoàn tất đưa vào thực thi Hiệp định FTA với Israel, ký kết các Hiệp định FTA, Hiệp định thương
mại với các đối tác khác còn nhiều tiềm năng (UAE, MERCOSUR…) để đa dạng hóa thị trường,
sản phẩm, chuỗi cung ứng nhằm mở rộng thị trường ngoài nước; thúc đẩy xuất khẩu… Nhà
nước cũng hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cam kết trong các Hiệp định CPTPP, EVFTA,
UKVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu và tăng cường tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp Giấy
chứng nhận xuất xứ, tự chứng nhận xuất xứ cho hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp xuất khẩu.

(4) Phòng vệ thương mại là công cụ để các quốc gia bảo vệ hàng hóa trong nước cũng như định
hình thị trường, dẫn tới nguy cơ kiện phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam
ngày càng lớn. Do đó, Chính phủ cần tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thông tin, dự
báo nhằm giảm thiểu rủi ro. Nhà nước cũng thường xuyên cập nhật và cung cấp rộng rãi thông
tin thị trường, tiêu chuẩn điều kiện nhập khẩu và chính sách đối với từng mặt hàng xuất khẩu
chủ lực, tiềm năng để hỗ trợ các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng tiếp cận với từng thị
trường. Đồng thời, đẩy mạnh triển khai hoạt động xúc tiến thương mại, chủ động chuẩn bị thị
trường tiêu thụ cho các sản phẩm nông sản có tính mùa vụ, tránh tình trạng ùn ứ, được mùa mất
giá nông sản khi đến vụ…

(5) Cùng với việc giảm thuế, hoãn thuế, Nhà nước cần giảm các loại phí và hỗ trợ doanh nghiệp
tìm kiếm những thị trường mới. Bên cạnh đó, tận dụng tốt những hiệp định thương mại tự do đã
ký kết; đẩy mạnh đàm phán, ký kết thêm các hiệp định mới; đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng cho doanh nghiệp. Cùng với đó, cần
có thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi hơn, đặc biệt cần giảm thuế cho các mặt hàng máy móc, thiết
bị từ các thị trường mà Việt Nam đang có thặng dư thương mại.

(6) Triển khai quyết liệt các giải pháp giúp cân bằng cán cân thương mại, nâng cao trình độ, năng
lực sản xuất nội địa, tiến tới thay thế hàng hoá xuất nhập khẩu từ nước ngoài; nâng cao giá trị gia
tăng trong xuất khẩu, đặc biệt là định hướng hoạt động xuất khẩu nông sản, thuỷ sản; tăng cường
các khâu kiểm soát chất lượng hàng hoá nhập khẩu theo các quy định và các biện pháp WTO
cũng như thông lệ quốc tế cho phép để kiểm soát chất lượng hàng hoá đầu vào, loại bỏ những
mặt hàng có chất lượng kém, không phù hợp với các tiêu chuẩn Việt Nam.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, thách thức, tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam, việc xác định các động lực tăng trưởng là quan trọng để có những giải
pháp đúng và trúng đưa nền kinh tế nước ta đạt tăng trưởng ở mức cao nhất có thể. Kích cầu tiêu
dùng, đầu tư và duy trì cân bằng bền vững của cán cân thương mại hàng hóa là những giải pháp
quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam những tháng cuối năm 2023, tạo đà tăng
trưởng cho những năm tiếp theo.

https://vneconomy.vn/9-giai-phap-de-kinh-te-viet-nam-but-pha-trong-nam-2024.htm
Các giải pháp trong tương lai
Chính phủ đã nhận định năm 2024 là năm bứt phá, có ý nghĩa đặc biệt trong việc thực hiện Kế
hoạch 5 năm song cũng là năm tình hình có thể còn khó khăn hơn năm 2023. Trong năm 2024,
tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tác động tới nước ta; thị trường quốc tế
bị thu hẹp, sản xuất kinh doanh, tiếp cận tín dụng khó khăn; nguồn nhân lực chất lượng cao còn
hạn chế; đời sống một bộ phận nhân dân còn khó khăn; và an ninh trật tự, an toàn xã hội trên một
số địa bàn diễn biến phức tạp...
Do vậy tại Họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 12/2023 theo Thủ tướng, để năm 2024 bứt phá
trong bối cảnh tình hình có thể khó khăn hơn năm 2023, các cấp, các ngành, địa phương cần bám
sát các Kết luận, Nghị quyết của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, cụ thể hóa để triển khai thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể năm 2024 với chủ đề: “Kỷ cương trách nhiệm, chủ động kịp
thời, tăng tốc sáng tạo, hiệu quả bền vững” với tinh thần “quyết tâm cao nhất nỗ lực phấn đấu
cao nhất để đạt kết quả tốt nhất trong năm 2024”. Trên tinh thần này, Thủ tướng Phạm Minh
Chính đã nêu lên 9 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong năm 2024.

Thứ nhất, ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo
đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt,
kịp thời, hiệu quả; phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý,
có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách khác. Thực hiện các giải pháp tín dụng phù hợp với
diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế; chỉ đạo các tổ chức tín
dụng hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng
trưởng kinh tế; kiểm soát tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Khuyến khích các tổ chức tín
dụng tiết giảm chi phí, đơn giản hóa thủ tục cho vay, phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay
nhằm hỗ trợ nền kinh tế; tiếp tục triển khai các giải pháp tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng của
doanh nghiệp, người dân, hạn chế và tiến tới sớm chấm dứt "tín dụng đen".
Đẩy mạnh các động lực tăng trưởng truyền thống như: đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng, đồng thời
thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới nổi như: liên kết vùng, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số,
chuyển đổi xanh.... Thông qua các hoạt động như tăng cường công tác xúc tiến thương mại; tiếp
tục đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, sản phẩm, chuỗi cung ứng; tăng cường công tác kiểm tra
chất lượng hàng nhập khẩu; đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa, phấn đấu tốc độ tăng tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng khoảng 9%.

Thứ hai, đẩy mạnh thực hiện quyết liệt, đồng bộ, thực chất, hiệu quả các đột phá chiến lược như
cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, quy định kinh doanh, phấn đấu năm 2024 cắt giảm ít
nhất 10% chi phí tuân thủ thủ tục hành chính; đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình giao
thông trọng điểm, nhất là cảng hàng không quốc tế Long Thành, trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam…

Thứ ba, đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại,
nhất là hệ thống đường cao tốc, cảng hàng không, bến cảng, hạ tầng đô thị, hạ tầng liên vùng, hạ
tầng số, hạ tầng xã hội, y tế, giáo dục…
Tập trung đẩy nhanh tiến độ triển khai thi công các công trình hạ tầng giao thông quan trọng
quốc gia như: các tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, vành đai 4 vùng Thủ đô Hà
Nội, vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh, Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, Châu Đốc - Cần Thơ -
Sóc Trăng, Biên Hòa - Vũng Tàu, Tuyên Quang - Hà Giang; Cảng Hàng không quốc tế Long
Thành, nhà ga T3 - Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất; sớm hoàn thành nâng cấp các tuyến
luồng hàng hải vào cảng Cái Mép - Thị Vải, cảng Nam Nghi Sơn; đưa vào vận hành khai thác
đoạn trên cao đường sắt đô thị Nhổn - ga Hà Nội và đường sắt đô thị Bến Thành - Suối Tiên.
Phấn đấu hoàn thành mục tiêu có 3.000 km đường bộ cao tốc vào năm 2025; trong năm 2024,
đưa vào khai thác, sử dụng ít nhất 130 km đường bộ cao tốc.
Tích cực triển khai các tiêu chí, tiêu chuẩn về hạ tầng thương mại như tiêu chí cơ sở hạ tầng
thương mại nông thôn giai đoạn 2021-2025; mô hình chợ thí điểm bảo đảm an toàn thực phẩm
theo Tiêu chuẩn Việt Nam về chợ kinh doanh thực phẩm… Tiếp tục đầu tư hoàn thiện hệ thống
hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, thích ứng với biến đổi khí hậu, trọng tâm là các công trình thủy
lợi, nước sạch nông thôn phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp, ổn định đời sống người dân
nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.

Thứ tư, tập trung thực hiện hiệu quả, thực chất cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng, tăng cường năng lực nội sinh, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh, bền
vững; đẩy mạnh phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ban đêm, thương
mại điện tử, các ngành, lĩnh vực mới nổi, các mô hình kinh doanh mới, hiệu quả; làm mới các
động lực tăng trưởng cũ và khai thác hiệu quả các động lực tăng trưởng mới.
Cụ thể, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực và trong nội ngành gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh, tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế. Đẩy mạnh
thực hiện tái cơ cấu ngành công nghiệp; tập trung phục hồi, phát triển các ngành công nghiệp,
nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo, sản xuất chíp bán dẫn, để trở thành một động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp; khuyến khích phát triển nông
nghiệp xanh, sạch, sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, công nghệ cao, thông minh, thích ứng với biến
đổi khí hậu.
Tiếp tục cơ cấu lại một số ngành, lĩnh vực dịch vụ quan trọng như thương mại, logistics... Đẩy
mạnh cơ cấu lại ngành du lịch bảo đảm hiệu quả và yêu cầu phát triển bền vững. Tiếp tục đẩy
mạnh cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước, nâng cao hiệu quả quản lý, phân bổ, sử dụng ngân
sách nhà nước.
Triển khai quyết liệt Đề án "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai
đoạn 2021-2025"; tập trung thực hiện có hiệu quả phương án xử lý các tổ chức tín dụng yếu
kém; triển khai cơ cấu lại các ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt theo chỉ đạo của
các cấp có thẩm quyền.
Đẩy nhanh tiến độ triển khai Đề án Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn
kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2021 - 2025 và thực hiện sắp xếp lại doanh nghiệp nhà
nước giai đoạn 2021-2025. Khẩn trương triển khai có kết quả và hiệu quả các Đề án cơ cấu lại đã
được phê duyệt. Triển khai quyết liệt, hiệu quả phương án xử lý 04/12 dự án doanh nghiệp chậm
tiến độ, kém hiệu quả còn lại.

Thứ năm, rà soát, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, tổ chức liên kết vùng và thúc đẩy phát
triển kinh tế vùng; phát huy mạnh mẽ vai trò của các Hội đồng điều phối vùng; thực hiện hiệu
quả các Nghị quyết của Bộ Chính trị về 6 vùng kinh tế - xã hội.

Thứ sáu, phát triển mạnh các lĩnh vực văn hoá, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tiếp tục thực hiện hiệu quả Kết luận của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc và Kết luận của Bộ Chính trị. Triển khai
quyết liệt, hiệu quả Đề án Đầu tư xây dựng ít nhất 1.000.000 căn hộ nhà ở xã hội; trong đó phấn
đấu năm 2024 hoàn thành ít nhất 130.000 căn.

Thứ bảy, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ưu tiên bố trí nguồn lực cho phòng,
chống và khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu;
Tổ chức thực hiện hiệu quả Đề án triển khai kết quả COP26, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí
hậu, Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm
2050. Tập trung xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; bảo đảm an ninh nguồn
nước, an toàn hồ đập và ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước.

Thứ tám, tiếp tục hoàn thiện, xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh
công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Theo dõi sát diễn biến tình hình, chủ động
có biện pháp kịp thời về quốc phòng, an ninh; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Thực hiện quyết liệt việc sắp xếp tổ chức bộ máy bên trong của các cơ quan, đơn vị theo hướng
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; hoàn thành việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện,
cấp xã vào Quý III năm 2024 để đầu năm 2025 tập trung cho đại hội Đảng các cấp, nhất là cấp
xã.
Triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả, thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo Nghị
quyết số 27-NQ/TW ngày 21 tháng 5 năm 2018 của Ban chấp hành Trung ương về cải cách
chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao
động trong doanh nghiệp; hoàn thành việc xây dựng vị trí việc làm cán bộ, công chức, viên chức
trong hệ thống hành chính nhà nước trước ngày 31 tháng 3 năm 2024; đồng thời xác định rõ
trách nhiệm từng bộ, ngành, địa phương và người đứng đầu để làm cơ sở thực hiện cải cách
chính sách tiền lương từ ngày 01 tháng 7 năm 2024.
Tiếp tục thực hiện hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thể
chế, cải cách tổ chức bộ máy, công chức, công vụ và thủ tục hành chính; tập trung xây dựng
Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia. Đẩy mạnh phát
triển các hệ thống cung cấp dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp.
Triển khai thực hiện đồng bộ các chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực. Tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra.

Thứ chín, tăng cường, củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Không để
Đảng, Nhà nước bị động, bất ngờ về chiến lược.
Tăng cường cảnh giác, tập trung nghiên cứu nắm chắc, đánh giá, dự báo kịp thời, chính xác tình
hình, tuyệt đối không chủ quan, không để bị động, bất ngờ, đặc biệt là những khu vực trọng yếu,
địa bàn chiến lược trọng điểm, góp phần giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia
dân tộc, môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước.

Thứ mười, thúc đẩy phát triển liên kết vùng, Hội đồng vùng hoạt động có hiệu quả, thực hiện
nghiêm quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; đẩy nhanh tốc độ, nâng cao
chất lượng đô thị hoá và kinh tế đô thị.
Phát triển kinh tế - xã hội vùng và tăng cường liên kết vùng, nhất là hạ tầng giao thông, năng
lượng.
Khẩn trương triển khai thực hiện hiệu quả quy hoạch cấp quốc gia, các quy hoạch ngành quốc
gia, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh; phát huy vai trò động lực của các vùng kinh tế - xã hội,
các đô thị lớn. Hoàn thành quá trình phê duyệt, quyết định các quy hoạch trong năm 2024.
Nghiên cứu xây dựng trung tâm tài chính quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm tài
chính khu vực tại Đà Nẵng.

Thứ mười một, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tập trung xây dựng
và thực hiện hiệu quả các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể hóa các cam kết, thỏa thuận
quốc tế, các FTA đã ký kết. Nâng cao hiệu quả, phát huy vai trò công tác ngoại giao kinh tế; thúc
đẩy ngoại giao văn hóa, làm tốt công tác thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân.
Đẩy mạnh công tác ngoại giao kinh tế, tranh thủ hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, thúc đẩy hợp
tác trong những lĩnh vực phục vụ thiết thực cho phát triển kinh tế - xã hội. Thúc đẩy nội luật hóa,
tranh thủ hiệu quả các FTA đã ký kết, đặc biệt là EVFTA, RCEP, CPTPP và đàm phán, ký kết
các khuôn khổ hợp tác mới; nghiên cứu khả năng tham gia các sáng kiến liên kết kinh tế mới
nhằm bảo đảm lợi ích của đất nước.
Chủ động, tích cực tham gia các diễn đàn đa phương trên cơ sở bám sát đường lối đối ngoại, bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc, cân bằng, hài hoà trong ứng xử quốc tế, tiếp tục nâng cao
vị thế đất nước.

Thứ mười hai, đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông, nhất là truyền thông chính sách tạo
đồng thuận xã hội. Phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân; Nâng cao hiệu quả công tác
dân vận; không ngừng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện tốt tuyến bài, chương trình bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; kiên quyết, kiên trì
đấu tranh chống các hành vi sai trái, phản bác các quan điểm, luận điệu xuyên tạc của các thế lực
thù địch; thông tin phản hồi kịp thời những vấn đề dư luận quan tâm; triệt phá, gỡ bỏ, ngăn chặn
các thông tin xấu, độc, sai sự thật.

Nhấn mạnh nhiệm vụ đặt ra cho năm 2024 là rất nặng nề, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị
lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương quán triệt tinh thần hành động quyết liệt, kịp thời, hiệu quả
trong thực hiện nhiệm vụ, cùng cả hệ thống chính trị nỗ lực cao nhất để hoàn thành toàn diện các
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024, góp phần thực hiện
thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2021-2025.

12 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2024
(https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/home/chu-truong-chinh-sach-moi/12-nhiem-vu-giai-phap-
chu-yeu-thuc-hien-ke-hoach-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-2024-4048)

9 giải pháp để kinh tế Việt Nam bứt phá trong năm 2024
(https://vneconomy.vn/9-giai-phap-de-kinh-te-viet-nam-but-pha-trong-nam-2024.htm)

You might also like