You are on page 1of 11

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC UEH


KHOA: KINH DOANH QUỐC TẾ - MARKETING
------

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Hình thức: Tiểu luận không thuyết trình
Đề tài:Phân tích cơ sở lý luận và những yêu cầu phương pháp luận
của Quy luật Lượng – Chất. Tại sao trong nhận thức và thực tiễn,
chúng ta không được nôn nóng, đốt cháy giai đoạn, nhưng đồng thời
phải biết mạnh dạn chớp thời cơ để thực hiện bước nhảy về chất?


Giảng viên phụ trách : Đỗ Kiên Trung
Họ và tên : Nguyễn Anh Thy
Mã học phần : 22C9PHI51002302
Lớp : MR001 – MARKETING
MSSV: 31221570162

Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 11 năm 2022


Mục Lục
MỞ ĐẦU.........................................................................................
NỘI DUNG
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT
1.1- Vai trò quy luật lượng chất……………………………………………………………...
1.2- Nội dung quy luật lượng chất……………………………………………………………
1.2.1- Lượng ?.............................................................................................................................
1.2.2- Chất ?................................................................................................................................
1.2.3-Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng……………………………………………
1.3- Ý nghĩa phương pháp luận quy luật lượng chất……………………………………….
PHẦN II: TẢ KHUYNH, HỮU KHUYNH:
2.1- Tả khuynh ?
2.2- Hữu khuynh ?
PHẦN III: LIÊN HỆ THỰC TIỄN:
3.1- Liên hệ quy luật lượng chất trong học tập……………………………………………...
3.3- Liên hệ quy luật lượng chất trong công cuộc dổi mới của nước ta hiện nay…………
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………...
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………………………
Lời Mở Đầu

Quy luật “sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại” là một trong
những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, thể hiện một cách khái quát nhất quá trình
vận động, phát triển của sự vật. Hiện tượng. Tồn tại của sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất
của hai tồn tại. Chất - chất là phương thức phát triển chung của mọi sự vật, tức là sự vật hiện
tượng tích lũy về lượng và biến đổi về chất. Học sinh là một quá trình phát triển không ngừng,
ban đầu là từ sự tích lũy về lượng đến sự phát triển ở trình độ cao hơn về chất. Em nhận thấy
cần phải nắm vững các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về chất và lượng, từ đó
hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Có thể áp dụng để giải các bài toán thực tế đặt ra. Là sinh viên năm nhất bước vào đại học, tôi
vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, cố gắng tìm cho mình một phương pháp học tập hiệu quả, phù hợp với
môi trường thay đổi và hoàn toàn khác so với thời cấp 3. Tôi chọn đề tài này nhằm giúp sinh
viên và bản thân tôi hiểu rõ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là
quy luật lượng - chất để gắn với thực tiễn và bản thân.
Phương pháp học tập hiệu quả, tiếp thu kinh nghiệm, nâng cao chất lượng học tập của học sinh
trong trường.
Đề tài giải quyết các nội dung sau: phân tích và làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa phương
pháp luận của các quy luật định lượng và định tính, xây dựng mối liên hệ thực tiễn và bản thân
để đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo đại học.
Đối tượng nghiên cứu là quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi
về chất và phạm vi nghiên cứu là sinh viên các trường đại học.
Ý nghĩa lí luận: giúp hiểu rõ hơn các quy luật chuyển hoá do sự biến đổi về lượng gây ra
Ý nghĩa lý luận : Giúp hiểu rõ hơn về quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến
sự thay đổi về chất .Ý nghĩa thực tiễn: Vận dụng quy luật lượng chất vào việc nâng cao
chất lượng họctập của sinh viên hiện nay
NỘI DUNG
Phần I: Cơ Sở Lý Luận Của Lượng Chất:
Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong
những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ rõ tính chất và cách thức
của sự phát triển.
1.1- Vai trò quy luật lượng chất:
- Quy luật lượng chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
-Vạch ra cách thức của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư
duy
1.2- Nội dung quy luật lượng chất
Quy luật lượng chất chính là quy luật cơ bản, nó được xảy ra trong quá trình
vận động, quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, của tư duy. Khi lượng thay
đổi thì sẽ dẫn đến các sự thay đổi chất của những sự vật, của hiện tượng và
ngược lại. Đây chính là quy luật tự nhiên, tất yếu và khách quan, được phổ biến
của các sự vật, hiện tượng

1.2.1- lượng:
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển. Lượng là cái khách quan,
vốn có của sự vật và nó quyết định đó là sự vật. Lượng của sự vật không phụ thuộc vào ý chí
và ý thức của con người. Lượng của sự vật có thể dài hay ngắn, lớn hay nhỏ, nhiều hay ít, cao
hay thấp, nhanh hay chậm... “Vô lượng mà có lượng, vạn vật thì vô lượng”. trên thực tế , số
lượng của một thứ gì đó thường được xác định bằng một đơn vị đo lường cụ thể, chẳng hạn
như tốc độ ánh sáng ở tốc độ 300.000 km/giây hoặc một phân tử nước bao bọc trong nước.
Gồm hai nguyên tử hydro liên kết với một nguyên tử oxy,... Ngoài ra , có những đại lượng chỉ
có thể biểu hiện bằng những thuật ngữ trừu tượng, chung chung như trình độ nhận thức của
con người, tinh thần trách nhiệm của công dân,... Trong trường hợp này, chúng ta chỉ có thể
nhận thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hoá. Có những
lượng biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố
hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) có những lượng vạch ra yếu tố quy
định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật)
Lưu ý: Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối, trong mối
quan hệ này là lượng nhưng trong mối quan hệ khác lại là chất.
Ví dụ: Trong mối quan hệ giữa người sinh viên năm thứ nhất với
người học sinh năm thứ hai là nói đến chất của sinh viên năm thứ
nhất với năm thứ hai. Trong mối quan hệ với cả khoá học thì năm
thứ nhất với năm thứ hai lại là lượng.

1.2.2- Chất:
Chất là khái niệm dùng để chỉ những quy định khách quan bên trong của sự vật, hiện
tượng; nó là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, làm
cho sự vật, hiện tượng trở thành bản chất của nó chứ không phải là sự vật, hiện tượng khác
(đối với sự vật, hiện tượng có quan hệ hiện tượng trả lời cho câu hỏi về hiện tượng). nó là gì?
và giúp phân biệt nó với các hiện tượng khác). Đặc trưng cơ bản của vật chất là thể hiện tính
ổn định tương đối của các sự vật, hiện tượng, tức là khi nó không chuyển hoá thành các sự vật,
hiện tượng khác thì bản chất của nó không thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình
tồn tại và phát triển trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn đều có bản chất riêng. Vì vậy, mỗi
sự vật, hiện tượng không chỉ có một loại chất mà có nhiều loại chất. Vật chất có quan hệ mật
thiết với sự vật, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan, sự vật không có thực thể thì
không thể tồn tại và không thể có thực thể bên ngoài sự vật. Chất lượng của một cái gì đó
không chỉ được xác định bởi chất lượng của các yếu tố cấu thành nó, mà còn bởi cách chúng
liên hệ với nhaugiữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực các
sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác. Ví dụ: kim cương
và than chì đều có cùng thành phần hóa học do các nguyên tố các bon tạo nên nhưng do
phương thức liên kết giữa các nguyên tử các bon là khác nhau, vì thế chất của chúng hoàn toàn
khác nhau.Kim cương rất cứng, còn than chì lại mềm.
1.2.3- Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
* Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất:
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Khi sự vật vận động và phát triển,
chất và lượng của nó cũng vận động, biến đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không diễn ra
độc lập với nhau mà có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào
về lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay
đổi trong giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Giới hạn đó
chính là “độ”
+ Độ: là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới hạn
mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, sự vật chưa
biến thành cái khác.
Ví dụ: - quá trình học tập của sinh viên đại học 4 năm từ 2021-2025, 2025- 2029, ... Thì
các đoạn thời gian này chính là độ. Trong khoảng độ, lượng kiến thức không ngừng tăng lên
tuy nhiên vẫn chưa thể biến đổi chất sinh viên thành một cử nhân đã tốt nghiệp.
- độ tuổi trung bình của người Việt Nam là 73 tuổi vậy khoảng thời gian từ 0 đến 73 năm
là độ của con người về mặt tuổi. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến
sự thay đổi căn bản về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút.
+ Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó
sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Ví dụ : Các giới hạn 0 tuổi (khi sinh ra), 73 tuổi; các kỳ thi, các kỳ
kiểm tra chính là các điểm nút.
+ Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự
thay đổi về lượng trước đó gây nên. Bước nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn phát triển của
sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới.
Ví dụ: từ học sinh tiểu học thực hiện bước nhảy thành học sinh trung học; từ cử nhân
thực hiện bước nhảy lên thạc sĩ…
Có 4 hình thức bước nhảy:
+Bước nhảy đột biến: Là bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất nhanh chóng ở tất cả
các bộ phận cấu thành sự vật.
+Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong thời gian dài.
+Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ở
tất cả các mặt các bộ phận các yếu tố cấu thành nên sự vật.
+Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số yếu tố 1 số bộ phận của sự vật.
Ví dụ: cho quá trình biến đổi lượng thành chất trong học tập của sinh viên:
Quá trình học tập của sinh viên là một quá trình dài, cần nhiều sự cố gắng, nỗ lực và thể hiện
một cách cụ thể, khái quát nhất mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng. [Quá trình đó luôn
có sự vận động, biến đổi mang tính quy luật.]Trong quá trình học tập dài 4 năm của sinh viên
đại học, lượng không ngừng tăng lên, đó là kiến thức. Nó không chỉ bao gồm những kiến thức
cơ bản trong giáo trình, sách vở mà còn là những kĩ năng mềm bên ngoài như cách sử dụng từ
ngữ, ứng xử, xử lý thông tin, phân tích và giải quyết các tình huống trong xã hội. Nhờ thế mà
trình độ nhận thức của sinh viên cũng được thay đổi, tầm tri thức của sinh viên được nâng cao
và cải thiện hơn. Tuy nhiên quá trình đó chưa đủ để làm nên thay đổi chất của sinh viên, nên
quá trình đó chính là “độ”. Sinh viên phải vượt qua những điểm nút, là những kì thi,đặc biệt là
kì thi kết thúc học phần để nhận bằng tốt nghiệp. Khi đạt được tấm bằng trong tay, khi đó sinh
viên đã thực hiện một “bước nhảy” quan trọng của cuộc đời, từ sinh viên đại học trở thành cử
nhân đã tốt nghiệp.
*Sự thay đổi về chất tác động trở lại sự thay đổi về lượng:

Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút. Khi
chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới lượng của sự
vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của
sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Sau khi đã tốt nghiệp đại học sinh viên học lên thạc sĩ, khi đó lượng kiến thức, kĩ năng
cần học cũng nhiều hơn, cần nhiều thời gian tự nghiên cứu, tìm tòi để thu nạp được nhiều hiểu
biết hơn.
- Từ đó có thể thấy với bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa
hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất
thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại với lượng dẫn đến sự thay đổi của
lượng mới. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành cách thức phổ biến của các quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

1.3- Ý nghĩa phương pháp luận quy luật lượng chất:

Bất cứ sự vật nào cũng có hai phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định, tác
động và chuyển hóa lẫn nhau, vì vậy cần coi trọng và tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật.
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần số
lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển đổi chất. Đây là quá trình
vận động và phát triển của sự vật. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con
người phải biết từng bước tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Phương
pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, “đốt cháy giai
đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy luật của
tự nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thông qua hoạt
động có ý thức của con người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến
hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, “hữu khuynh”.
Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước
nhảy. Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn các điều kiện khách quan và
những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể và quan hệ cụ
thể.
Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa
các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác động vào phương thức
liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật
đó.
PHẦN II: TẢ KHUYNH, HỮU KHUYNH:
2.1- Tả khuynh:
Có thể hiểu là tư tưởng chủ quan nống vội, muốn sớm có sự thay đổi về chất nhưng lại
không tính đến việc tích lũy về lượng.
Ví dụ: Khi hai người có cảm tình với nhau và đang tìm hiểu nhau thì nên tìm hiểu và tiến
đến từ từ, không nên “đốt cháy giai đoạn”, dồn đập, nếu vội vã thường sẽ không có kết quả và
sẽ không thành công.
2.2- Hữu khuynh:
Có thể hiểu là sự bảo thủ, trí tuệ, không dám thực hiện “bước nhảy” (sự thay đổi về chất)
khi đã có sự tính lũy đủ về lượng.
Ví dụ: Khi hai người yêu nhau và tìm hiểu nhau lâu dài, cảm thấy đối phương hợp tính,
hiểu nhau nhưng không tiến tới kết hôn.
PHẦN III: LIÊN HỆ THỰC TIỄN:
3.1- Liên hệ quy luật lượng chất trong học tập:
So với học ở bậc trung học, lượng kiến thức ở bậc đại học đã tăng lên đáng kể. Lấy ví dụ
đơn giản, nếu học phổ thông, một môn học sẽ kéo dài một năm nên lượng kiến thức được phân
bổ đều và học sinh sẽ dễ dàng tiếp thu hơn, còn đối với đại học, một môn học chỉ kéo dài
khoảng từ 2 đến 3 tháng. Rõ ràng, lượng kiến thức tăng lên đáng kể sẽ mang đến những khó
khăn cho tân sinh viên cho việc tiếp thu đầy đủ kiến thức. Vì vậy, học sinh cần học tập tích cực
và chuẩn bị tinh thần để thích ứng với sự thay đổi này.
Ngoài ra, không chỉ khác nhau về lưọng kiến thức, giữa các trường đại học và trung học phổ
thông cũng có sự khác biệt về cách tiếp cận kiến thức. Học sinh cấp 3 chủ yếu hoạt động học
tập trên lớp, còn sinh viên đại học thì có nhiều cách tiếp cận khác nhau như thực hành ở phòng
thí nghiệm, đi thực tập, kiến tập ở các công ty,... Có thể nói, đây vừa là cơ hội vừa là thách
thức đối với các bạn tân sinh viên. Đó cũng là lý do tại sao sinh viên cần phải thay đổi lối sống
mới để thích nghi với hơn cảnh hiện tại, thay đổi phương thức học tập để tiếp thu khối lượng
lớn kiến thức ở bậc đại học, cũng như để đáp ứng các yêu cầu và nhiệm vụ mà trường đại học
đưa ra để có một kết quả học tập tốt nhất.
*Quy luật lượng – chất trong cách tích lũy kiến thức:
Để có thể có được kết quả tốt ở các môn học, sinh viên cần phải biết tích lũy về Lượng –
kiến thức, để thường xuyên có những biến đổi về chất – kết quả học tập. Để làm được điều đó,
sinh viên cần phải học tập cũng như ôn tập lại các bài học đã học đều đặn mỗi ngày để tránh
quên kiến thức. Bên cạnh đó, vì quá trình học tập ở đại học thường kéo dài đến 4 năm nên
lượng kiến thức mà các sinh viên cần tiếp thu rất là lớn. Do đó, để có thể tốt nghiệp đại học với
kết quả cao cũng như có chuyên môn tốt để làm việc, sinh viên cần phải học tập và rèn luyện
chăm chỉ để tích lũy kiến thức qua sự hướng dẫn của thầy cô, cũng như tích lũy kinh nghiệm
làm việc và bổ sung năng lực thực hành qua các lần thực tập.
*Quy luật lượng – chất trong ý thức học tập:
Trong môi trường đại học, tất cả các môn học luôn đòi hỏi sinh viên phải có chuyên môn
cao hơn cũng như lượng kiến thức nhiều hơn so với bậc trung học phổ thông. Vì vậy sinh viên
cần phải xác định được mục tiêu học tập của chính bản thân, có như vậy mới xây dựng được
phong cách và phương pháp học tập, rèn luyện một cách hợp lý. Từ đó, mỗi sinh viên đều xác
định được một hướng đi cá thể, có mục đích, ý thức đúng đắn, đó cũng là nhân tố quan trọng
nhất để có thể đạt được kết quả cao trong quá trình học tập và nghiên cứu. Bên cạnh đó, có
được một phương pháp học tập hợp lý giúp sinh viên tránh được tư tưởng chủ quan, tư tưởng
bảo thủ, trì trệ trong học tập và rèn luyện.
Ngoài ra, sinh viên cũng cần rèn luyện cho mình tính chăm chỉ, tự chủ năng động trong
quá trình học tập, tích lũy tri thức giản đơn nhất từ những thói quen hàng ngày để hình thành
những thói quen học tập, rèn luyện tốt như phải biết tiết kiệm thời gian, làm việc nghiêm túc
và khoa học, … Cứ như vậy, thói quen tích lũy dần sẽ góp phần định hình tính cách, giúp
chúng ta giúp chúng ta thành công trong học tập cũng như trong cuộc sống.
*Quy luật lượng – chất trong phương pháp học tập:
Trong quá trình học tập, sinh viên cần phải chủ động tìm hiểu kiến thức môn học sắp
được học bằng cách đọc trước giáo trình, tìm tài liệu có liên quan, ôn lại các kiến thức cũ ở bài
trước, …Với sự chuẩn bị này, sinh viên có thể tránh được việc tiếp nhận kiến thức một cách
thụ động, một chiều từ phía người dạy mà thay vào đó là cách tiếp cận kiến thức một cách chủ
động sáng tạo, động thời giúp sinh viên ghi nhớ được kiến thức đã học tốt hơn trong quá trình
học tập
Ngoài ra, sinh viên cũng cần áp dụng phương pháp học tập một cách khoa học, tiến hành
nghiên cứu và học tập từ dễ đến khó, từ cơ bản đến nâng cao. Áp dụng phương pháp học tập
này sẽ giúp cho sinh viên nắm chắc được kiến thức cơ bản, từ đó giúp họ tiếp tục học những
kiến thức khó hơn. Bên cạnh đó, phương pháp này còn giúp sinh viên tránh được sự nóng vội,
đốt cháy giai đoạn trong quá trình nghiên cứu và học tập. Vì vậy, muốn tiếp thu được tri thức
ngày càng nhiều và đạt được kết quả cao, thì mỗi sinh viên đều phải học tập hằng ngày, học từ
thấp đến cao, từ dễ đến khó để có được kết quả tốt trong quá trình rèn luyện và học tập.
3.2- Liên hệ quy luật lượng chất trong công cuộc dổi mới của nước ta hiện nay:
Từ sự phân tích trên chúng ta thấy rằng để có sự thay đổi về chất cần phải có sự tích lũy
đầy đủ về lượng.
Phân tích vấn đề thực tiễn: Có rất nhiều vấn đề trong thực tiễn để em phân tích. Ở đây chỉ lấy 1
ví dụ: Ví dụ để năm 2020 chúng ta có nhà máy điện nguyên tử thì cần phải có sự tích lũy về
lượng ngay bây giờ đó là sự tích lũy về con người (cần phải có sự đào tạo con người để có thể
quản lý, đièu hành công nghệ mới, muốn vậy Bộ Giáo dục phải mở các ngành mới về đào tạo
các ngành công nghệ nguyên tử, đào tạo về quản lý, tổ chức...), cần phải chuẩn bị về vốn
(nguồn vốn xây dựng nhà máy ODA, hay FDI...), chuẩn bị về thẩm định dự án đầu tư (chọn
công nghệ điện hạt nhân nào cho an toàn, hiện đại...). Và còn nhiều vấn đề khác nữa....
NHư vậy tất cả các quá trình đấy là sự tích lũy về lượng. Khi tích lũy đã đủ thì chúng ta sẽ có
bước nhảy để thay đổi về chất (từ chất cũ là chưa có nhà máy điện nguyên tử đến chất mới là
có nhà máy điện nguyên tử).
Rõ ràng nếu ko có sự tích lũy về lượng thì chúng ta ko thể có sự thay đổi về chất như trên
được.
KẾT LUẬN
Chung quy lại, Quy luật “Chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại” là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, cho biết phương thức
của sự vận động và phát triển của sự vật. Khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng, cần
nhận thức ý nghĩa của quy luật này trong thực tiễn. Cần sử dụng công cụ, phương tiện, biện
pháp thích hợp đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động, phát triển, đưa sự vật
đi đúng quy luật và hợp lợi ích của con người. Muốn có có sự thay đổi về chất phải kiên trì tích
lũy sự thay đổi về lượng, ngược lại muốn duy trì sự ổn định của chất phải giữ được sự thay đổi
về lượng trong phải vi giới hạn độ; khi lượng thay đổi chưa đạt mức giới hạn độ không nên vội
vàng thực hiện bước nhảy; nhưng khi lượng thay đổi đạt giới hạn độ thì phải kiên quyết thực
hiện bước nhảy.
Từ việc nghiên cứu quy luật này với các kết luận được rút ra có ý nghĩa phương pháp luận
đối với việc học tập và rèn luyện của sinh viên càng mang lại giá trị to lớn. Sinh viên cần nhận
thức rõ quy luật và vận dụng linh hoạt vào hoạt động thực tiễn nhằm đem lại kết quả như mong
đợi.
Đối với bản thân chúng em nói chung hay đối với toàn tân sinh viên nói riêng Nên vận
dụng quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại trong quá trình rèn luyện và học tập.... Đầu tiên cần xác định rõ mục tiêu, định
hướng đúng đắn trong học tập và làm việc, hiểu rõ và vận dụng tốt các quy luật “khi lượng đổi
dẫn đến chất đổi và ngược lại”. Ngoài ra việc thay đổi môi trường từ THPT lên Đại học cũng
có nhiều sự khác nhau, để không bị mất phương hướng trong việc học, sinh viên cũng cần
phải có tính tự chủ, chủ động thích nghi với môi trường, liên tục phấn đấu và rèn luyện tích
cực trong học tập và công việc, không ngừng tích luỹ kinh nghiệm để có thể thành công hơn
trong tương lai. Ngoài ra, “lượng” không chỉ là những kiến thức mà sinh viên học trên ghế nhà
trường, mà đó còn là những kỹ năng cần thiết như “kỹ năng làm việc nhóm, thuyết trình, đàm
phán,…” và khả năng linh hoạt hoà nhập với môi trường khác nhau. Vì thế, trong quá trình học
tập, sinh viên cũng cần phải hài hoà, phối hợp giữa kiến thức và kĩ năng để có thể tăng những
tích luỹ về “lượng” mà các nhà tuyển dụng đang tìm kiếm.
Bởi vậy, ta lại càng thấy rõ hơn được tầm quan trọng và sự tác động qua lại của
quy luật “lượng” – “chất”, từ đó sinh viên sẽ chủ động hơn trong việc trang bị
cho mình những chuyên môn kiến thức và kĩ năng cần thiết và đó cũng là tiền
đề, bước chân đầu tiên để phát triển sự nghiệp sau này
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác-Lênin, nhà xuất bản chính trị Quốc gia sự thật
(2021)
2. Slide bài giảng , giảng viên hương dẫn
3.Website: Studoc.com
các thuộc tính của sự vật,
biểu hiện bằng con số các
thuộc tính, các yếu tố cấu
thành
các thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Lượng
là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó.

các thuộc tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Lượng
là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó.

You might also like