You are on page 1of 10

PHẦN 1:

A – MỞ ĐẦU
Quy luật từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi đổi về
chất và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Quy luật chuyển đổi giữa lượng và chất là quy luật cơ bản, phổ biến của phương
thức chung trong quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên xã hội và tư duy.
Khi lượng thay đổi tất yếu sẽ làm thay đổi chất của sự vật hiện tượng và ngược
lại. Nhận thức được quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thực
tiễn như kinh tế chính trị, đời sống xã hội, đặc biệt là đối với sinh viên. Vì vậy
chúng ta cần học tập và nghiên cứu quy luật từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi đổi về chất và ngược lại, nhận thức được quy luật này
từ đó vận dụng ý nghĩa vào trong hoạt động thực tiễn.

B – NỘI DUNG

1. Khái quát nội dung quy luật lượng và chất

1.1. Phạm trù lượng

Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng
như các thuộc tính, các yếu tố cấu thành sự vật.
+ Đặc trưng của lượng được biểu thị bằng con số hoặc các đại lượng chỉ kích
thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, tổng số nhiều hay ít, trình độ cao hay
thấp, tốc độ nhanh hay chậm .. Nhưng đối với các sự vật phức tạp, không thể chỉ
diễn tả bằng những con số chính xác, mà còn phải được nhận thức bằng khả
năng trừu tượng hoá.
+ Lượng là cái khách quan vốn có bên trong của sự vật.

+ Mỗi sự vật khi tồn tại cũng có nhiều lượng tùy theo cách thức xác định

+ Lượng thường xuyên biến đổi


1.2. Phạm trù chất

  Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó
chứ không phải là cái khác.
+ Mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính. Nhưng những thuộc tính này
không tham gia vào việc quy định chất như nhau, mà chỉ có những thuộc tính cơ
bản mới quy định chất của sự vật. Vì thế, chỉ khi nào thuộc tính cơ bản thay đổi
thì chất của sự vật mới thay đổi. Khi các thuộc tính không cơ bản có thể thay
đổi, nhưng không làm cho chất của sự vật thay đổi.
+ Mặt khác, các thuộc tính cũng như chất của sự vật chỉ bộc lộ qua những mối
liên hệ cụ thể. Do đó, việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và
thuộc tính cũng chỉ là tương đối. Và như vậy, mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ
có một chất, mà có nhiều chất tuỳ theo những mối quan hệ cụ thể của nó với
những cái khác.
+ Chất biểu hiện tính ổn định tương đối của sự vật, là cái vốn có và không tác
rời sự vật. Do đó, không thể có chất tồn tại “thuần tuý” hoặc là phụ thuộc vào
cảm giác chủ quan của con người như các nhà triết học duy tâm chủ quan quan
niệm.

1.3. Quy luật từ sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và
ngược lại

- Sự thống nhất giữa chất và lượng:

Mỗi sự vật, hiện tượng khi tồn tại đều là thể thống nhất giữa chất và
lượng, hai mặt đó không tồn tại tách rời mà tác động qua lại với nhau. Sự tác
động qua lại đó được thể hiện:

+ Chất và lượng thống nhất với nhau trong một giới hạn nhất định gọi là độ
+ Độ là khoảng giới hạn mà ở đó sự thay đổi về lượng chưa làm cho chất
của sự vật thay đổi
- Sự phát triển của bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng bắt đầu tự sức từ sự
tích lũy về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút thì thực hiện bước nhảy về
chất
+ Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm cho
lượng chất của sự vật thay đổi. Tại thời điểm đó rút sợi diễn ra bước nhảy
+ Bước nhảy là sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng
trước đó tạo ra.

Nếu không có bước nhảy, sự vật sẽ không thể thực hiện được sự thay đổi về
chất làm cho sự vật cũ mất đi, sự vật mới được ra đời. Bước nhảy, do đó, vừa là
sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật, vừa là khởi đầu của một giai
đoạn phát triển mới. Tùy điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và phụ thuộc vào bản thân
sự vật mày thức của bước nhảy khác nhau, hết sức phong phú, đa dạng, có bước
nhảy đột biến và bước nhảy dần dần, bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ.

- Chất mới của sự vật ra đời tác động trở lại lượng của sự vật trên nhiều
phương diện như làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vật
vận động phát triển của sự vật.

Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất sự thay đổi dần về lượng
khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước
nhảy, chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Quá trình tác
động qua lại đó diễn ra liên tục làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng vận
động phát triển trong tự nhiên xã hội và tư duy

2. Ý nghĩa phương pháp luận đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của
bản thân

2.1. Ý nghĩa phương pháp luận


Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại
trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong
nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện
chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng.

Những thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển
hóa thành những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và ngược lại. Do đó,
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước
tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất: đồng thời, có thể phát huy tác
động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng.

Sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật,
hiện tượng với điều kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, do đó,
trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh; mặt
khác, theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã được tích lũy đến giới hạn điểm
nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự vật, hiện tượng. Vì
thế cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực
tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ quan, duy ý chí,
không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy liên tục về
chất. Hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện
bước nhảy mặc dù luợng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ
đơn thuần là sự biến hóa về lượng.

Bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy,
trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức
của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng tĩnh vực cụ thể. Đặc biệt,
trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện
khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó, cần
phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển
hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất.
2.2. Ý nghĩa đối với nhận thức và thực tiễn
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi
về chất và ngược lại giúp chúng ta nhận thức được phương thức vận động và
phát triển của sự vật. Điều này không chỉ có ý nghĩa trong nhận thức mà trong
hoạt động thực tiễn cũng có vai trò vô cùng quan trọng.

Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt
chất của nó. Những nhận thức ban đầu về chất của các sự vật chỉ trở nên đúng
đắn và sâu sắc hơn khi đạt tới tri thức về sự thống nhất giữa chất và lượng của
sự vật đó. Để nhận thức được sự vật, ta phải nhận thức trong mối quan hệ tác
động qua lại giữa sự vật đó với những sự vật khác, cũng như giữa các mặt,
thuộc tính của sự vật đó. Vì chỉ khi đó, mặt lượng và mặt chất của sự vật mới
bộc lộ ra.

Ta phải tổ chức hoạt động thực tiễn dựa trên sự hiểu biết đúng đắn vị trí,
vai trò và ý nghĩa của sự thay đổi về lượng cũng như sự thay đổi về chất trong
sự phát triển xã hội. Ta phải biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi
mang tính cách mạng. Để xây dựng chiến lược và sách lược cách mạng, ta phải
xem xét tiến hóa và cách mạng trong mối quan hệ biện chứng của chúng. Hiểu
đúng đắn mối quan hệ này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn nghiêm khắc với chủ
nghĩa cải lương, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa tả khuynh.

Ta phải kiên trì đổi mới trên từng lĩnh vực để tiến tới đổi mới toàn diện
đời sống xã hội. Nắm được quy luật lượng – chất sẽ giúp chúng ta có cái nhìn
tổng quan, toàn diện và xác định đúng phương pháp, lộ trình thực hiện công
cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay. Theo
tính chất, ý nghĩa và phạm vi bao quát của nó, đổi mới là một quá trình mang
tính cách mạng. Ta cần phải thực hiện đổi mới thành công trên từng lĩnh vực
của đời sống xã hội để tạo ra bước nhảy về chất ở đó. Với sự thành công trên
nhiều lĩnh vực, ta có cơ sở thực tế để đổi mới thành công toàn diện đất nước
Việt Nam. Đó là khi ta tạo được bước nhảy về chất của toàn bộ xã hội nói
chung. Những bước nhảy trong quá trình đổi mới hiện nay chỉ có thể là kết quả
của qúa trình thay đổi về lượng thích hợp. Do đó, bất kỳ sự nôn nóng, chủ quan,
ảo tưởng nào đều có thể gây ra những tổn thất lớn cho đất nước.

2.3. Ý nghĩa đối với bản thân sinh viên


Quy luật lượng – chất có ý nghĩa quan trọng đối với nhận thức và thực tiễn,
đặc biệt trong việc học tập của sinh viên hiện nay.

Là sinh viên, ai cũng phải trải qua quá trình học tập ở các bậc học phổ thông
kéo dài trong suốt 12 năm. Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học
sinh đều được trang bị những kiến thức cơ bản của các môn học thuộc hai lĩnh
vực cơ bản là khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh
lại tự trang bị cho mình những kĩ năng, những hiểu biết riêng về cuộc sống, về
tự nhiên, xã hội. Quá trình tích lũy về lượng tri thức của mỗi học sinh là một
quá trình dài, đòi hỏi nỗ lực không chỉ từ phía gia đình, nhà trường mà còn
chính từ sự nỗ lực và khả năng của bản thân người học. Quy luật lượng chất thể
hiện ở chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình một khối lượng kiến thức nhất
định qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc giải bài tập ở nhà. Việc tích
lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các kì, trước hết là các kì thi học kì và sau
đó là kì thi tốt nghiệp. Việc tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp học
sinh vượt qua các kì thi và chuyển sang một giai đoạn học mới. Như vậy, có thể
thấy rằng, trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thì quá trình học tập
tích lũy kiến thức chính là độ, các kì thi chính là điểm nút, việc vượt qua các kì
thi chính là bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học sinh bước sang giai
đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất. Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi
học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút
khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất và
lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi
tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại
học lại còn là điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ
học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một
thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.

Cũng giống như ở phổ thông, để có được tấm bằng đại học thì sinh viên cũng
phải tích lũy đủ các học phần theo quy định. Tuy nhiên, việc tích lũy kiến thức
ở bậc đại học có sự khác biệt về chất so với học phổ thông. sự khác biệt nằm ở
chỗ, sinh viên không chỉ tiếp thu kiến thức một cách đơn thuần mà phải tự mình
tìm tòi nghiên cứu, dựa trên những kĩ năng mà giảng viên đã cung cấp. Nói cách
khác, ở bậc đại học, việc học tập của sinh viên khác hẳn về chất so với học sinh
ở phổ thông. Việc tiếp thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa đạng và
phong phú, từ cơ bản đến chuyên sâu, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều.
Từ sự thay đổi về chất do sự tich lũy vê lượng trước tạo nên, chất mới cũng tác
động trở lại. Trên nền tảng mới, trình độ, kết cấu cũng như quy mô nhận thức
của sinh viên cũng thay đổi, tiếp tục hướng sinh viên lên tầm tri thức cao hơn.
Cũng giống như ở bậc học phổ thông, quá trình tích lũy các học phần của sinh
viên chính là độ, các kì thi chính là điểm nút và việc vượt qua các kì thi chính là
bước nhảy, trong đó bước nhảy quan trọng nhất chính là kì thi tốt nghiệp. Vượt
qua kì thi tốt nghiệp lại đưa sinh viên chuyển sang một giai đoạn mới, khác về
chât so với giai đoạn trước. Quá trình đó cứ liên tục tiếp diễn, tạo nên sự vận
động và phát triển không ngừng ngay trong chính bản thân con người, tạo nên
động lực không nhỏ cho sự phát triển của xã hội.

Chính vì vậy, sinh viên cần học tập và nghiên cứu quy luật lượng- chất để
nhận thức được việc học tập cũng như tìm ra phương pháp học tập đúng đắn,
hiệu quả cho bản thân. Mỗi sinh viên cần thay đổi nếp sống mới sao cho phù
hợp hoàn cảnh hiện tại, phù hợp với các yêu cầu của ngành giáo dục đối với Đại
học. Chúng ta cần phải tìm hiểu và nắm bắt nhưng thay đổi, những nhu cầu thực
tiễn cần thiết của xã hội, thường xuyên nâng cao trình độ nhận thức về tình
hình, nhiệm vụ, yêu cầu của ngành giáo giục nhất là đối với bậc giáo dục Đại
học cùng các vấn đề khác có liên quan. Sinh viên cần xác định động để cơ thúc
đẩy tinh thần học tập, nghiên cứu để chọn ra phương thức học tập hiệu quả nhất.
Việc nhận thức quy luật lượng chất trong quá trình học tập của học sinh
sinh viên có ý nghĩa rất to lớn trong thực tiễn, không chỉ với bản thân người học
mà còn rất có ý nghĩa với công tác quản lý và đào tạo. Thực tế tong nhiều năm
qua, giáo dục nước ta đã mắc phải nhiều sai lầm trong tư duy quản lý cũng như
trong hoạt động đào tạo thực tiễn. Việc chạy theo bệnh thành tích chính là thực
tế đáng báo động của nghành giáo dục bởi vì mặc dù sự tích lũy về lượng của
học sinh chưa đủ nhưng lại vẫn được “tạo điều kiện” để thực hiện “thành công”
bước nhảy, tức là không học mà vẫn đỗ, không học nhưng vẫn có bằng. Kết quả
là trong nhiều năm liền, giáo dục nước ta đã cho ra lò những lớp người không
“lượng” mà cũng chẳng có “chất”.
Xuất phát từ việc nhận thức một cách đúng đắn quy luật trên cho phép
chúng ta thực hiện những cải cách quan trọng trong giáo dục. Tiêu biểu là việc
chống lại căn bệnh thành tích trong giáo dục vẫn tồn tại hàng thập kỉ qua. Bên
cạnh đó là việc thay đổi phương giáo dục ở bậc phổ thông và đào tạo đại học.
Việc chuyển từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ và cho phép người học
được học vượt tiến độ chính là việc áp dụng đúng đắn quy luật lượng chất trong
tư duy con người.

C – KẾT LUẬN
Quy luật từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi đổi về
chất và ngược lại chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển, khi cho rằng sự
thay đổi về chất chỉ xẩy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ được những thay
đổi về lượng đã đạt đến giới hạn- đến độ. Quy luật lượng đổi-chất đổi cũng chỉ
ra tính chất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất của sự vật, hiện
tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có bước nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng có thể
vừa có những bước tiến tuần tự, vừa có thể có những bước tiến vượt bậc. Quy
luật này có vai trò vô cùng quan trọng hoạt động thực tiễn. Trong lĩnh vực đời
sống xã hội, kinh tế chính trị đã và đang vận dụng quy luật lượng- chất. Đối với
bản thân em cũng đã nghiên cứu và áp dụng ý nghĩa của quy luật này để có
nhận xét đúng đắn nhất về học tập, hoạt động,… từ đó đưa ra những định
hướng, giải pháp để đạt được mục tiêu, thành tựu, góp phần xây dựng, phát triển
đất nước ngày càng giàu đẹp, vững mạnh.

PHẦN 2:

Câu 1: Sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người là quá
trình tự nhận thức của con người.

Trả lời:

Đúng. Sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người là
quá trình tự nhận thức của con người. Nhận thức là một quá trình phản ánh tích
cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc của con người trên cơ sở
thực tiễn, là quá trình biện chứng có vận động và phát triển, tác động qua lại
giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức trên cơ sở hoạt động thực tiễn.

Câu 2: Ngôn ngữ tạo ra sự giao tiếp giữa người với người, từ đó tạo nên ý thức.

Trả lời:

Đúng. Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của
tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức. Ngôn ngữ vừa là
phương tiện giao tiếp, đồng thời là công cụ của tư duy. Nhờ có ngôn ngữ, con
người mới có thể khái quát hóa, trừu tượng hóa, tức là diễn đạt những khái
niệm, phạm trù, để suy nghĩ, tách mình khỏi sự vật cảm tính. Cũng nhờ ngôn
ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của con người được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác.

Câu 3: Tồn tại xã hội luôn luôn giữ vai trò quyết định sự hình thành, sự biến
đổi của ý thức xã hội.

Trả lời:
Sai. Tồn tại xã hội quyết định sự hình thành, sự biến đổi của ý thức xã
hội. Tuy nhiên ý thức xã hội có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với
tồn tại xã hội như: ý thức xã hội có thể lạc hậu hơn tồn tại xã hội, ý thức xã hội
vượt trước tồn tại xã hội, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển, ý
thức có tác động qua lại giữa các hình thái kinh tế, ý thức xã hội tác động trở lại
tồn tại xã hội.

Câu 4: Chất là sự thống nhất giữa các thuộc tính, các yếu tố làm cho sự vật là
nó nhưng không phân biệt được nó với các sự vật khác.

Trả lời:

Sai. Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn
có của sự vật, hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính,
những yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó và phân
biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới
đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với
các sự vật, hiện tượng khác.

Câu 5: Sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất của sự vật là độc lập tương
đối, không có quan hệ với nhau.

Trả lời:

Sai. Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất bao gồm chất và lượng
nhất định, trong đó chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Sự
biến đổi này tạo ra mâu thuẫn giữa lượng và chất. Bất cứ sự vật nào trong quá
trình phát triển đều là quá trình biến đổi về lượng dẫn đến biến đổi về chất. Biến
đổi về lượng đến một mức nhất định sẽ dẫn đến biến đổi về chất, sản sinh chất
mới. Rồi trên nền tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về lượng. Biến đổi về
lượng là nền tảng và chuẩn bị tất yếu của biến đổi về chất.

You might also like