You are on page 1of 194

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chinh, ThS. Nguyễn Ngọc Nhật Minh


(Biên soạn)

TỔNG QUAN DU LỊCH

Tập bài giảng dùng cho sinh viên


Chuyên ngành: tiếng Pháp Du lịch, tiếng Nga Du lịch và
tiếng Anh Du lịch
(Bổ sung, sửa chữa lần thứ ba)

Đà Nẵng, tháng 8 năm 2022


Lời nói đầu

Tập bài giảng “Tổng quan du lịch” được thiết kế 7 chương giảng
dạy bao gồm lý thuyết, thảo luận và thực hành trong 30 tiết (2 tín chỉ), cụ
thể như sau:
- Mở đầu 4 tiết
- Điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch 4 tiết
- Các lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm dịch vụ 4 tiết
ngành du lịch
- Các loại hình du lịch 5 tiết
- Tài nguyên du lịch và điểm đến du lịch 5 tiết
- Cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động du lịch 4 tiết
- Giải pháp bảo tồn và phát triển di tích lịch sử văn 4 tiết
hóa phục vụ du lịch
Mỗi bài, ngoài phần lý thuyết, còn có phần bài tập nhằm củng cố
kiến thức đã học.
Đây là Tập bài giảng được biên soạn giảng dạy cho sinh viên khoa
tiếng Pháp, khoa tiếng Nga, khoa tiếng Anh CN, chuyên ngành du lịch, …
bậc đại học các khóa hệ chính quy tại Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học
Đà Nẵng có tham khảo các công trình: Di tích và thắng cảnh ở Việt Nam,
Tác giả Nguyễn Ngọc Chinh và CS, Nxb Đà Nẵng, 2019; Tổng quan du lịch,
Tác giả Võ Văn Thành, Nxb Văn hóa-Văn nghệ, 2015; Giáo trình Tổng
quan du lịch, Tác giả Ngô Thị Diệu Anh, Nguyễn Thị Oanh Kiều, Nxb Đà
Nẵng, 2014 và một số tài liệu đã công bố của các tác giả khác trong nước và
ngoài nước.
Nhân đây tác giả xin có lời cám ơn.
Trong quá trình biên soạn chắc hẳn còn những thiếu sót và sẽ được
hiệu chỉnh trong những lần tiếp theo.

Tác giả
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chinh (CB),
ThS. Nguyễn Ngọc Nhật Minh

1
MỤC LỤC

Lời nói đầu 1


MỤC LỤC 2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, HÌNH 4
Chương 1. Mở đầu 5-28
Chương 2. Điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch 29-59
Chương 3. Các lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm dịch vụ của ngành du
lịch 60-89
Chương 4. Các loại hình du lịch 90-103
Chương 5. Tài nguyên du lịch và điểm đến du lịch 104-145
Chương 6. Cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động trong du lịch 146-160
Chương 7. Giải pháp bảo tồn và phát triển di tích lịch sử văn hóa phục
vụ du lịch 161-193

2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Từ viết đầy đủ


ASEM The Asia-Europe Meeting (Hội nghị thượng đỉnh Á – Âu)
ASIAN Association of Southeast Asian Nations (Hiệp hội các
Quốc gia Đông Nam Á)
CH Cộng hòa
CP Chính phủ
CS Cộng sự
CSVCKTDL Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
DL Du lịch
ETC European Travel Commission (Hiệp hội Du lịch Châu Âu)
EU European Union (Liên minh châu Âu hay Liên hiệp châu
Âu)
FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
HĐBA LHQ Hội đồng bảo an Liên hợp quốc
HĐBT Hội đồng Bộ trưởng
HDV Hướng dẫn viên
IATA International Air Transport Assoeiation (Hiệp hội vận
chuyển hàng không quốc tế)
IHA International hotel Association (Hiệp hội khách sạn quốc
tế)
IUOTO International Union of Official Travel Organisation
OPEC Organization of Petroleum Exporting Countries (Tổ chức
các nước xuất khẩu dầu mỏ)
PATA Pacific Asia Travel Association (Hiệp hội Du lịch châu Á -
Thái Bình Dương)
SARS Severe acute respiratory syndrome (Hội chứng hô hấp cấp
tính nặng)
Tp Thành phố
UBND Ủy ban nhân dân
UNDP United Nations Development Programme (Chương trình
Phát triển Liên Hợp Quốc)
WTO World Tourism Organisation (Tổ chức du lịch thế giới)
WTTC World Travel and Tourism Council (Hội đồng du lịch và lữ
hành thế giới)

3
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Một số điểm khác nhau giữa điểm du lịch và khu du lịch .............9
Bảng 5.1: Danh sách các di sản thế giới tại Việt Nam ..............................111
Bảng 7.1. Số lượng khách du lịch và thu nhập từ dịch vụ du lịch ............ 169

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1. Logo Tổ chức Du lịch thế giới ..................................................... 60


Hình 3.2. Logo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc .64
Hình 3.3. Logo Hiệp hội Du lịch Asean ...................................................... 66
Hình 3.4. Logo du lịch Việt Nam ................................................................67

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 5.1. Qui luật thời vụ du lịch tại thành phố Đà Nẵng .....................129
Biểu đồ 5.2. Qui luật thời vụ du lịch tại Ninh Bình ................................... 134

4
Chương 1
Mở đầu

1.1. Các khái niệm cơ bản về du lịch


1.1.1. Du lịch
Du lịch (Tourisme, Tourism, Туризм) được hình thành và phát triển
theo nhu cầu đời sống của con người từ những ngày xa xưa. Ngày nay khi
khoa học kỹ thuật, giao thông, kinh tế phát triển, đời sống con người được
nâng lên thì nhu cầu phát triển du lịch càng lớn. Tùy theo điều kiện kinh tế
mỗi nước, con người đang nghĩ đến việc dành một phần thu nhập của mình
hàng năm cho du lịch; trong số những nhu cầu của con người, nhu cầu về du
lịch chưa bao giờ được thỏa mãn, càng đi du lịch cuộc sống của con người
càng được nâng cao.
Du lịch càng phát triển thì khuynh hướng tiêu thụ dịch vụ du lịch,
mức độ chi tiêu của con người tạo nên thị trường du lịch rộng lớn, nó không
còn ở phạm vi một ngành kinh tế hay ở một nước. Ngày nay những máy bay
siêu âm loại lớn với đầy đủ tiện nghi, những tàu thủy có đủ điều kiện cho
con người sống gần với biển cả, những đoàn xe lửa liên quốc gia, những xe
ca chở khách kiểu mới đã tạo cho con người sự thoải mái trong việc di
chuyển trên các tuyến đường du lịch. Bên cạnh có những trung tâm du lịch
được hình thành là những hệ thống khách sạn đầy đủ tiện nghi, những cửa
hàng ăn uống, những quán café sang trọng, những cửa hàng lưu niệm với
chất lượng cao, những sản phẩm mang tính đặc sản của một vùng, một địa
phương theo thị hiếu quốc tế. Tuy vậy, người đi du lịch không chỉ thỏa mãn
những nhu cầu về vật chất mà còn quan tâm đến cả nhu cầu về văn hóa, tinh
thần [2]. Do đó, ở nhiều nước trên thế giới đã tiến hành cải tạo các danh lam
thắng cảnh, trùng tu và nâng cao tính thẩm mỹ của những công trình văn hóa:
xây dựng các di tích lịch sử… để đáp ứng các nhu cầu của khách du lịch.
Rõ ràng du lịch đã trở thành một ngành kinh doanh tổng hợp. Hoạt
động kinh doanh du lịch phát triển kéo theo những hoạt động sản xuất kinh
doanh khác phát triển theo, hàng hóa sản xuất ra không chỉ để phục vụ cho
các dịch vụ du lịch mà còn bán cho khách và Trung tâm du lịch đã trở thành
những Trung tâm ngoại thương, xuất khẩu tại chỗ. Hoạt động kinh doanh Du
lịch đã góp phần vào mở mang các ngành nghề sản xuất, giải quyết việc làm
5
cho rất nhiều lao động. Chỉ tính riêng lưu lượng lao động trong ngành Du
lịch, nhiều nơi đã chiếm 50% dân số, nếu tính cả lao động dịch vụ thương
mại ở các Trung tâm du lịch thì tỷ lệ đó còn cao hơn nhiều.
Một yêu cầu khách quan khác là hoạt động Du lịch đã làm cho đời
sống văn hóa của nhân dân ở các khu du lịch được nâng cao. Khách du lịch
và cả người địa phương đều mang trong lòng ý niệm hành hương, một cảm
xúc tốt đẹp.
Tóm lại, nếu nói Du lịch là sự di chuyển của một cá nhân hay một tập
thể từ vùng này đến vùng khác, từ nước này đến nước khác để thỏa mãn
những nhu cầu về vật chất và tinh thần nhằm tạo cho cuộc sống tươi đẹp
thêm thì phục vụ du lịch lại là một guồng máy sản xuất và cung ứng các dịch
vụ từ công tác tuyên truyền quảng cáo, vận chuyển, hướng dẫn đến việc
phục vụ ăn, ngủ, vui chơi giải trí, hoạt động xã hội… đòi hỏi được tiến hành
một cách đồng bộ, ăn khớp nhịp nhàng và yêu cầu ngày một được cải tiến,
nâng cao phù hợp với thị hiếu của khách du lịch.
Đối với những người đi du lịch, điều mà họ quan tâm đầu tiên là cảm
tưởng mới mà họ nhận được ở nơi họ đến du lịch, có thể nói ngành Du lịch
là ngành xuất khẩu các cảm tưởng. Do vậy các dịch vụ du lịch phải làm sao
tạo được cảm tưởng mới cho khách, gợi cho họ những cảm tưởng đẹp. Mỗi
đất nước, mỗi dân tộc có những cái đẹp đặc trưng khác nhau, ở nước này dân
tộc này muốn tìm hiểu cái đẹp ở nước khác, dân tộc khác. Vì vậy trong các
dịch vụ du lịch phải mang sắc thái của dân tộc, trong đó tính dân tộc độc đáo
tiêu biểu phải được chọn lọc, nâng cao tạo được cảm xúc tốt đẹp cho khách.
Đây là một yêu cầu lớn của những người làm công tác du lịch. Chính vì vậy
mà Du lịch có thể xem như một dạng nghỉ ngơi tích cực của con người, đồng
thời nó là một thành phần không thể thiếu được trong việc sử dụng thời gian
nhàn rỗi của con người trong thời đại hiện nay [3].
Du lịch bắt nguồn từ tiếng Pháp theo từ “Tour” mà chúng ta thường
hiểu là một cuộc hành trình bao giờ cũng trở lại điểm xuất phát. Từ những
năm 30 của thế kỷ trước có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu những mặt
khác nhau của hiện tượng Du lịch để đưa ra một định nghĩa chính xác.
Nhưng nhìn chung việc định nghĩa Du lịch gặp rất nhiều khó khăn vì:
1) Du lịch có 2 nghĩa. Một mặt khi nói đến Du lịch người ta hiểu
rằng đó là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người ở một nơi khác

6
(cách xa nơi ở thường xuyên của họ) để nghỉ dưỡng chữa bệnh, thỏa mãn các
nhu câu về văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, giao lưu tình cảm, công vụ…
Mặt khác Du lịch đ ược hiểu là tập hợp các hoạt động kinh doanh nhằm
giúp đỡ việc thực hiện các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người,
thông qua việc tổ chức phục vụ vận chuyển, phục vụ lưu trú, phục vụ ăn
uống, phục vụ hướng dẫn tham quan…. Tất cả những hoạt động nêu trên tạo
nên ngành kinh doanh Du lịch.
2) Năm 1963 Hội nghị do Liên hiệp quốc tổ chức tại Rome (Ý) để
thảo luận về Du lịch đã đi đến kết luận về phạm trù khách du lịch quốc tế
như sau: Khách du lịch là người công dân của một nước sang thăm và lưu trú
tại nước khác trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có
nơi ở thường xuyên. Nhưng cũng quy định không công nhận những người ở
nước ngoài quá một năm hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp
đồng lao động, hoặc tìm nơi cư trú của mình cũng như những người ở vùng
biên giới, sống ở nước này sang làm việc ở nước khác. Phạm trù “khách Du
lịch” phải xuất phát từ những đặc điểm riêng và giai đoạn cụ thể của từng
nước. Điều này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành cơ sở
lý luận cũng như vận dụng vào thực tế sản xuất kinh doanh của ngành.
Ngày nay lên cạnh việc đi du lịch ở nước ngoài, con người cũng đặt
ra một nhu cầu du lịch trong nước không kém phần phong phú và đa dạng.
Như vậy khái niệm chung về Du lịch cần được nghiên cứu xuất phát từ đối
tượng hoạt động của du lịch, đó là người du khách.
Tóm tại, Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của
con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm
liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu,
khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác. [1,
điều 3]
1.1.2. Khách du lịch
Đây là khái niệm có nhiều quan niệm đưa ra. Khách du lịch là đối
tượng trực tiếp tham gia vào quá trình hướng dẫn du lịch của hướng dẫn viên,
là đối tượng của các đơn vị phục vụ và kinh doanh du lich.
Nói đến du lịch, người ta hiểu rằng đó là cuộc hành trình và lưu trú
tạm thời của con người đến nơi khác nhằm mục đích thoả mãn mọi nhu cầu
về nghỉ dưỡng, chữa bệnh, văn hoá, nghệ thuật, thể thao. v.v… Đối với hoạt

7
động du lịch, con người với vai trò là một du khách có nhu cầu du lịch, rời
khỏi nơi cư trú để thực hiện tour du lịch. Điều này có nghĩa để trở thành một
khách du lịch, con người phải hội tụ các điều kiện sau:
- Có thời gian rỗi;
- Có khả năng thanh toán;
- Có nhu cầu cần được thoả mãn.
Nhà kinh tế học người Áo, Lozep Stander định nghĩa: Khách du lịch
là hành khách xa hoa, ở lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để
thoả mãn những nhu cầu cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế.
Kripendort đưa ra cách nhìn nhận chủ quan phiến diện của mình về
du khách như sau: là nhũng kẻ nực cười, ngốc nghếch ít học, những nhà giàu
có, quen thói bóc lột và vô cảm với môi trường.
Năm 1963, Hội nghị do liên hiệp quốc tổ chức tại Rôma (Ý) để thảo
luận về du lịch đã đi đến kết luận phạm trù khách du lịch quốc tế như sau:
Khách du lịch là công dân của một nước sang thăm và lưu trú tại nước khác
trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có nơi ở thường
xuyên, nhưng cũng không công nhận những người nước ngoài ở quá một
năm hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp đồng, hoặc tìm nơi
lưu trú của mình cũng như những người ở vùng biên giới, sống nước này
sang làm việc nước khác.
Theo Luật Du lịch Việt Nam: Khách du lịch là người đi du lịch hoặc
kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc để nhận thu nhập ở nơi
đến. [1, điều 3]
1.1.3. Tài nguyên du lịch
Theo luật Du lịch Việt Nam: Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên
nhiên, yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa làm cơ sở để hình thành sản
phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch. Tài
nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch
văn hóa. [2, điều 3]
1.1.4. Điểm và khu du lịch
Đối với quốc gia, vùng, miền và các nhà làm du lịch thì điểm và khu
du lịch được xem là nguồn lực, là một trong những nhân tố quan trọng góp
phần cạnh tranh, khai thác nguồn khách và đem lại nguồn thu cho mình. Tuy
8
nhiên giữa điểm du lịch và khu du lịch có những điểm khác biệt cần phải
nhận thức giúp các nhà quản lý và các doanh nghiệp du lịch có chiến lược
xây dựng, khai thác, phát triển, marketing phù hợp. Vì vậy chúng ta có thể
phân biệt điểm du lịch và khu du lịch dựa trên các cơ sở sau:
Giống nhau:
- Gắn liền với nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn;
- Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết để đáp ứng nhu
cầu của khách du lịch;
- Tạo điều kiện công ăn việc làm cho cộng đồng địa phương;
- Đem lại nguồn thu và quảng bá cho cho đất nước và cộng đồng
địa phương.
Khác nhau: [1]
Bảng 1.1. Một số điểm khác nhau giữa điểm du lịch và khu du lịch
Cơ sở
TT Điểm du lịch Khu du lịch
phân biệt
Khu du lịch là nơi có tài nguyên
Điểm du lịch là nơi có tài du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài
1 Khái niệm nguyên du lịch hấp dẫn, nguyên du lịch tự nhiên, được
phục vụ nhu cầu tham quy hoạch, đầu tư phát triển
quan của khách du lịch. nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng
của khách du lịch, đem lại hiệu
quả về kinh tế - xã hội và môi
trường.
2 Phân loạt - Điểm du lịch quốc gia - Khu du lịch quốc gia

- Điểm du lịch địa - Khu du lịch địa phương


phương
3 Sự đáp ứng Đáp ứng nhu cầu tham Đáp ứng nhu cầu đa dạng của
nhu cầu củaquan của khách du lịch là khách du lịch
khách du chủ yếu
lịch

9
Cơ sở
TT Điểm du lịch Khu du lịch
phân biệt
4 Quy mô và - Đối với điểm du lịch - Đối với khu du lịch quốc gia:
sức chứa duquốc gia: Bảo đảm phục Có diện tích tối thiểu một nghìn
khách tối vụ ít nhất một trăm nghìn héc ta; bảo đảm phục vụ ít nhất
thiểu lượt khách tham quan một một triệu lượt khách du lịch một
năm. năm.
- Đối
với điểm du lịch - Đối với khu du lịch địa
địa phương: Bảo đảm phương: Có diện tích tối thiểu
phục vụ ít nhất mười hai trăm héc ta; bảo đảm phục
nghìn lượt khách tham vụ ít nhất một trăm nghìn lượt
quan một năm. khách du lịch một năm.

Kinh doanh tại điểm và khu du lịch bao gồm nhiều nhiều lĩnh vực
khác nhau. điều này xuất phát từ nhu cầu và đỏi hỏi chính đáng từ khách du
lịch. Các sản phẩm, dịch vụ tại điểm và khu du lịch càng phong phú, độc đáo,
chất lượng, giá cả hợp lý thì càng chiếm được cảm tình, tiêu dùng và quay
lại của du khách. điều này đỏi hỏi những nhà quản lý, người kinh doanh tại
điểm, khu du lịch cần có chính sách về sản phẩm cũng như giá hợp lý để
“kích thích” khả năng tiêu dùng của khách du lịch.
Nhìn chung các lĩnh vực kinh doanh tại điểm và khu du lịch gắn liền
với việc đầu tư, bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có, xây dựng kết cấu
hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp, phát triển và bảo vệ tài nguyên
du lịch theo hướng bền vững.
1.1.5. Tuyến du lịch
Đây là khái niệm liên quan đến kinh doanh du lịch lữ hành. Từ
những điểm, khu du lịch có sẵn tại các vùng, địa phương, quốc gia khác
nhau khách du lịch hoặc thông qua các công ty lữ hành vạch ra cho mình
những tuyến du lịch nhăm thoả mãn nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, và hiểu biết
của mình. Có thể chia tuyến du lịch thành:
- Tuyến du lịch quốc tế;
- Tuyến du lịch nội địa;
- Tuyến du lịch ngắn ngày;
- Tuyến du lịch dài ngày;
10
- Tuyến du lịch văn hoá;
- Tuyến du lịch danh lam thắng cảnh.
....
Tuy có sự phân chia nhưng nhìn chung trong các tuyến du lịch đều có
sự thống nhất và xen kẽ giữa các yếu tố. Ví dụ khi tham quan tuyến du lịch:
Vũng Tàu – TP Hồ Chí Minh – Cần Thơ (3 ngày 2 đêm) là một tuyến du lịch
ngắn ngày, du khách vừa tham quan các di tích lịch sử văn hoá, vừa thưởng
ngoạn cảnh đẹp, vừa vui chơi giải trí...
Theo Luật Du lịch Việt Nam: Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các
khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến
giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không.
1.1.6. Xúc tiến du lịch
Theo Luật Du lịch Việt Nam: Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên
truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch.
1.1.7. Du lịch bền vững
Theo Luật Du lịch Việt Nam: Du lịch bền vững là sự phát triển du
lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng
đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai.
1.2. Lịch sử hình thành, phát triển du lịch thế giới và Việt Nam
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển du lịch thế giới [4]
Cũng như nhiều ngành khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, ngành du lịch
được hình thành sớm trong bối cảnh lịch sử nhất định. Lịch sử du lịch có
nhiều bước thăng trầm, cả sự thành công lẫn thất bại. Nhìn chung, tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghiệp đều có ảnh hưởng tích cực đến du lịch.
Chiến tranh, thiên tai, đói kém… là những lí do cơ bản kìm hãm sự phát
triển của du lịch. Những hiểu biết về lịch sử hình thành và phát triển du lịch
trong quá khứ sẽ rất bổ ích cho người là du lịch hôm nay. Lịch sử sẽ cung
cấp nhiều bài học quý báu cho các hoạt động và chính sách du lịch hiện tại.
Về cơ bản, các nhà nghiên cứu về lịch sử du lịch cho rằng sự hình
thành và phát triển ngành du lịch từ khi xã hội loài người bước vào quá trình
phân công lao động, khi nghề thủ công được tách khỏi sản xuất nông nghiệp,
khi xã hội bắt đầu có sự phân công giai cấp. Khả năng tích lũy lương thực là
một yếu tố rất quan trọng cho việc tạo ra nhu cầu du lịch theo nghĩa sơ đẳng
11
nhất.
Thời cổ đại
Trong giai đoạn này có những phát minh quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp đến việc đi lại. Đó là phát minh ra thuyền buồm của người Ai Cập vào
khoảng thiên niên kỷ thứ tư trước công lịch. Cũng thời gian này súc vật được
thuần hóa không những là nguồn thức ăn dự trữ mà còn được sử dụng để
chuyên chở lương thực, vũ khí và chính con người. Phát minh ra bánh xe của
người Sumeri vào khoảng 3500 TCN là một sự kiện có ý nghĩa vô cúng to
lớn đối với việc đi lại của loài người.
Vào khoảng 3000 năm trước công nguyên, Ai cập là một điểm thu
hút khách du lịch trên thế giới. Họ đến để chiêm ngưỡng các kim tự tháp và
các kỳ quan khác của đất nước văn minh, thịnh vượng này. Ngoài các nhà
hoạt động chính trị, các thương gia, giới quý tộc thường xuyên phải đi lại
trong nước và ra nước ngoài, còn hầu hết những người có nhu cầu đi lại là
những người tín ngưỡng sùng bái tôn giáo. Trong những ngày lễ, hàng ngàn
người đã hành hương đến các nhà thờ, tu viện… để cầu nguyện và cúng bái.
Cuộc hành trình của họ kéo dài từ ngày này sang ngày khác, có khi tới hàng
tháng. Trong thời gian này, khi chưa có hoạt động kinh doanh ăn, nghỉ, thì
những người này thường phải ăn nghỉ nhờ những người quen. Dần dần dọc
theo những con đường dẫn đến các khu Thánh địa, các nhà trọ, quán ăn đã
được xây dựng để phục vụ khách bộ hành ăn nghỉ và bắt đầu hình thành hoạt
động kinh doanh trong du lịch tôn giáo.
Từ thế kỷ IV trước công nguyên, Hy lạp đã phát triển cường thịnh,
giai cấp chủ nô đã đi đến các vùng đất ở địa Trung hải để thoả mãn nhu cầu
tìm hiểu thế giới xung quanh và nhằm mục đích nghỉ dưỡng, chữa bệnh ở
một số nguồn chất khoáng. Phương tiện đi lại chủ yếu là cưỡi la, đi xe bò,
người giàu thì đi bằng xe ngựa, bằng kiệu. Du lịch công vụ cũng rất phát
triển trong thời kỳ Hy lạp cổ đại, các chính khách, thương gia thường xuyên
phải đi để thực thi các nhiệm vụ đặc biệt. Họ được cung cấp đầy đủ các dịch
vụ về ăn uống, nghỉ ngơi, thậm chí có cả người dẫn đường, bào vệ.
Năm 776 trước công nguyên, đại hội thể thao Olimpic đầu tiên tổ
chức ở Hy lạp thu hút nhiều người tham dự. Xung quanh những khu vực thi
đấu người ta xây dựng nhiều cơ sở để phục vụ ăn nghỉ, vui chơi cho các vận
động viên và khán giả. Và loại hình du lịch thể thao đã xuất hiện ở bán đảo

12
này.
Các quan lại giàu có người châu Á lại thích đi du lịch bằng kiệu hoa
trang trí lộng lẫy có cửa chớp hoặc rèm che bao quanh, giá nâng được đặt
trên vai của các phu khiêng kiệu. Bên cạnh đó là hàng đàn lạc đà đưa các du
khách đi theo dọc con đường tơ lụa của Trung Quốc, nối dài từ Bagdad tới
AdenSamarkand và Timbukfu. Kinh Coran đề nghị các chuyến đi nên bắt
đầu vào thứ 6, sau buổi cầu kinh trưa nhưng phần lớn các đoàn lữ hành đều
đi từ sáng sớm đến chiều tối để có thể đi được 25 dặm một ngày. Họ nghỉ
trưa ở các trạm và ngủ đêm trong các căn lều tự dựng bên đường hay các
trạm nghỉ.
Trong số những chuyến đi biển đầu tiên, những chuyến đi của cư dân
vùng đông Nam Á đến các khu vực ở Châu đại dương thật đáng ngạc nhiên.
Bằng thuyền độc mộc nhỏ, dài chừng 3m – 4m, họ đã vượt hàng trăm km
đến tận các đảo Marquessas, Toumotu, Society…
Thời Trung cổ
Sự suy tàn của các quốc gia cổ đại trong đó có đế quốc La Mã từ thế
kỷ thứ IV và từ khi đế quốc Tây La Mã diệt vong (476) đã làm cho hoạt
động du lịch bị ảnh hưởng sâu sắc. Nhiều kiệt tác kiến trúc, nghệ thuật, xã
hội, văn học bị vứt bỏ, hủy hoại. Phương tiện đi lại trên bộ duy nhất là xe
ngựa và các xe ngựa kéo. Cho tới tận thế kỷ thứ X, du lịch không còn an
toàn, tiện nghi và thoải mái như trước đó. Chiến tranh liên miên, biên giới
biến động làm cho việc đi lại trở nên khó khăn, đường xá trở thành các rãnh,
cống bẩn thỉu và đầy ngập bọn trộm cướp. Vì vậy những chuyến đi du lịch
cũng ít ỏi và khá mạo hiểm.
Thời kỳ này, đạo Thiên Chúa đã trở thành một lực lượng lớn mạnh ở
châu Âu. Nó hậu thuẫn mạnh mẽ cho các cuộc chiến tranh nên đã thay thế và
trở thành tư tưởng thống soái. Du lịch tôn giáo là loại hình chủ yếu trong giai
đoạn này. Những cuộc thập tự chinh tôn giáo, hành hương về thánh địa, nhà
thờ diễn ra một cách rầm rộ. Các quán trọ hai bên đường mọc lên để phục vụ
mọi người không phải vì mục đích kinh tế mà đa phần chỉ như dấu hiệu về
sự đóng góp của con chiên cho sự sáng danh đức Chúa Trời. Xuất hiện
những người chuyên hướng dẫn cho khách đi lại, cách hành lễ…
Thời kỳ này dã xuất hiện những chuyến viễn du dài ngày đầu tiên của
loài người với những tìm tòi khám phá mới đã phá vỡ tầm hiểu biết hạn hẹp

13
của các cộng đồng Trung cổ và khơi dậy tính hiếu động, tò mò của con
người. Con người đã có những chuyến đi dài ngày nhằm mở rộng “cánh cửa
nhận thức” để được khám phá những vùng đất mới, những nền văn minh
nhân loại.
Năm 1275, một thanh niên tên là Marco Polo theo cha và chú sang
Trung Quốc trong một chuyến buôn. Tại đây, Marco Polo được gặp Hốt Tất
Liệt. Bị cuốn hút bởi uy thế của Hoàng đế và một thế giới bí ẩn, khác lạ ở
phương đông, ông đã ở lại đây 17 năm. Khi về nước ông đã viết cuốn:
“Marco Polo phiêu lưu kí” kể về những gì mắt thấy tai nghe ở xứ Trung Hoa
kì bí. Có thể coi đây là một trong những tài liệu hướng dẫn du lịch đầu tiên
trên thế giới.
Cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI những hiểu biết về địa lý, thiên văn,
hải dương và kỷ thuật đi biển đã giúp con người có những phát kiến địa lý
lớn. Từ năm 1492 đến 1504, Christofe Colombo đã tiến hành bốn cuộc hành
trình thám hiểm sang một lục địa mới mà sau này gọi là Châu Mỹ. Những
chuyến đi này không phải vì mục đích du lịch, nhưng trên ý nghĩa nhất định,
đã mở hướng cho hoạt động lữ hành quốc tế trên biển.
Năm 1548, Vasco de Gama đã cùng thủy thủ đoàn đi dọc theo bờ
biển Tây Phi xuống phía Nam. Khi gần đến mũi cực Nam châu Phi, đoàn
thuyền của ông bị bão thổi dạt sang bờ đông của Nam Mỹ. Lúc đó ông
không hề biết rằng đây là một lục địa mới. Ông cho thuyền quay về phía
đông hướng tới Hảo Vọng Giác (Nam Phi). Vượt qua nhiều ngày lênh đênh
trên biển đoàn thuyền của ông đã đến được Ấn độ, Thành công của ông đã
mở ra một chân trời mới trong sự thông thương buôn bán Đông Tây bằng
đường biển.
Thời Cận đại
Cuộc cách mạng tư sản, bắt đầu bằng cuộc cách mạng ở Netherland
(1564-1609), đến cách mạng tư sản Anh 0(1642 – 1660), cách mạng tư sản
Mỹ (1776 – 1783), cách mạng tư sản Pháp (1776 – 1883)… đã mở ra cho
con người sự giao lưu mới với thiết chế tự do tư sản.
Vào năm 1784, James Watt đã chế tạo ra động cơ hơi nước liên tục
đầu tiên. Phát minh này châm ngòi nổ cho cách mạng công nghiệp lần thứ
nhất, mở ra chân trời mới cho ngành vận chuyển và ảnh hưởng trực tiếp đến
sự phát triển du lịch loài người.

14
Năm 1885, một kỹ sư người Đức là Benz đã sáng chế ra chiếc ôtô
đầu tiên. Do tính tiện ích của nó, ngay năm sau, công nghiệp ôtô đã ra đời đã
góp phần đáng kể cho việc thu hút và vận chuyển du khách đi du lịch.
Về phương tiện thông tin liên lạc, thời kì này con người đã phát minh
ra các phương tiện truyền tin không gian như điện tín (1876), điện thoại
(1884), radio (1895)…
Nhu cầu tích tụ tư bản thúc đẩy giai cấp tư sản cho xây dựng mạng
lưới giao thông lớn cùng với các phương tiện vận chuyển ngày càng hiện đại
và mở rộng các dịch vụ ở nhiều nơi trên thế giới. Những cơ sở hạ tầng đó về
khách quan cũng tạo thuận lợi cho các tuyến lữ hành xuyên quốc gia. Nếu
trước kia, người ta chú ý tới các kỳ quan thế giới như kim tự tháp (Ai Cập),
vườn treo Babilon, đền thờ Nữ thần Artemis ở Ephese, v.v… thì nay đã mở
ra nhiều nơi khác với rừng, bờ biển đẹp và suối khoáng, v.v... Du lịch quốc
tế có xu hướng tăng trong thế kỷ XIII. Đó là chuyến du lịch của các sinh
viên đại học sau khi tốt nghiệp đã đến các nước để kiểm chứng thực tế trong
2-3 năm trở về áp dụng trong các công ty, xí nghiệp của mình.
Cuộc hành trình du lịch tập thể đầu tiên ở Anh do Thomas Cook tổ
chức năm 1841 cho 570 người đi bằng tàu hỏa từ Leicester đến dự hội nghị
của những người chống nghiện rượu tại Laoughborough, cách 12 dặm đánh
dấu một bước ngoặt mới trong ngành kinh doanh du lịch. Một năm sau ông
thành lập Văn phòng du lịch đầu tiên ở Anh nhằm tổ chức cho người Anh đi
du lịch trong nước và ra nước ngoài. Ông bắt đầu có những chuyến du hành
trong phạm vi hẹp ở nước Anh phục vụ cho học sinh, phụ huynh, các cặp vợ
chồng.… tới những nơi mà họ chưa có dịp tới. Nắn bắt nhu cầu muốn đi
nghỉ hè và tham quan du lịch ở pháp, năm 1854, hãng Thomas Cook và các
con đã bắt đầu tổ chức các tuyến du lịch sang châu Âu.
Thành công của Thomas Cook đạt được là do khả năng thông hiểu
nhu cầu về du lịch ở thời đại ông. Ông nắm bắt được những đòi hỏi, mong
muốn và những yếu tố thúc đẩy du lịch để triển khai trong các tour của mình.
Năm 1876, Thomas Cook cho ra mắt một loại hoá đơn đặc biệt gọi là
“Phiếu thanh toán”, tiền thân của sec du lịch hiện nay. Nhờ có hoá đơn này
du khách có thể thanh toán tại hàng trăm khách sạn trong danh mục của
Cook.
Công ty lữ hành Thomas Cook trong thời gian 1850 tới 1900 là điềm

15
báo cho một thời đại du lịch thực sự dành cho số đông dân chúng. Và
Thomas Cook đã được nhân loại suy tôn là ông tổ của ngành lữ hành.
Thời kỳ hiện đại
Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật trong ngành giao
thông vận tải đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển du lịch. Số
lượng người đi đông hơn, nhanh hơn, tiết kiệm được thời gian nên hành trình
xa hơn, đến nhiều nơi hơn.
Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, du lịch quốc tế đã đạt được
những tiến bộ đáng kể. Nhưng trong những năm chiến tranh, du lịch quốc tế
hầu như tê liệt.
Trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh thế giới các khu du lịch
nghỉ biển lại được phục hồi và phát triển nhanh chóng, đặc biệt là Pháp,
Italia, Anh, Hy Lap, Đức… Ở những nước này đã thành lập cơ quan Nhà
nước về du lịch, một vài nước đã thành lập Bộ du lịch. Và năm 1925 thì
“Liên minh Quốc tế của các tổ chức du lịch được hình thành lập”.
Trong chiến tranh thế giới thứ II, các hoạt động kinh doanh du lịch
quốc tế hầu như bị đình tuệ. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật trong
du lịch phần bị phá huỷ, phần thì biến thành cơ sở phục vụ chiến tranh.
Trong những năm đầu sau chiến tranh, du lịch quốc tế được phục hồi
rất chậm, bởi vì lúc này các nước bị tàn phá trong chiến tranh đang bước vào
giai đoạn hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục nền kinh tế đất nước.
Trong ba thập kỷ (từ những năm 50 đến những năm 80) sau chiến
tranh thế giới thế II, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đã đạt
được những tiến bộ vượt bậc, nó thúc đẩy ngành kinh tế du lịch phát triển
thật sự. Sự tăng trưởng trung bình năm của du lịch quốc tế thập kỷ 1950 –
1960 khoảng 10,98%, 1960 –1970 là 8,3%, thập kỷ 1970 – 1980 là 6%, thập
kỷ 1980 – 1990 khoảng 5%, trong mấy năm gần đây, tốc độ tăng trưởng lại
nâng lên 7,5 – 9%.
Cùng với sự tăng trưởng về số lượng, sự thay đổi về cơ cấu của
khách du lịch, cùng với sự gia tăng của tổng doanh thu trong ngành du lịch,
đã ra đời và phát triển nhiều loại hình du lịch. Vận chuyển khách bằng
đường bộ và đường không đã chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong ngành
du lịch quốc tế. Các Công ty khách sạn, lữ hành, công tuy môi giới… lần
lượt ra đời đã làm nảy sinh cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường du lịch

16
quốc tế.
Kể từ khi hình thành và thoát thai để trở thành một ngành kinh tế độc
lập, có chỗ đứng trong thương trường, ngành du lịch đã có những biến đổi
thăng trầm. Người ta ví ngành du lịch quốc tế như là “một con ngựa đua
đường trường, có lúc chạy nhanh, lúc mỏi mệt thì nghỉ lại để rồi dồn sức tạo
sự đột phá mang theo sứ mệnh chuyển cái đẹp tới cho con người”.
Xu hướng phát triển của du lịch thế giới
Ngày nay, mặc dù một sồ khu vực trên thế giới còn những bất đồng
về chính trị, sắc tộc và tệ nạn khủng bố song xu hướng chung của nhân loại
là hoà bình, hữu nghị hợp tác và phát triển. Các quốc gia tranh thủ thời cơ để
mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội. Nhiều hiệp hội, tổ
chức đã ra đời như ASEM, ASIAN, OPEC, EU v.v… Các quốc gia đã có sự
tìm hiểu lẫn nhau về văn hoá, xã hội để mở ra hướng đầu tư thích hợp cho
mình.
Du lịch có xu hướng gia tăng theo số lượng: số lượng khách, thành
phần khách, loại hình, sản phẩm du lịch các doanh nghiệp kinh doanh du lịch.
Theo ước tính thì hiện nay có hơn 5% dân cư thế giới tham gia vào du lịch
quốc tế [5]. Những yếu tố được coi là nguyên nhân chính ảnh hưởng tới sự
tăng trưởng này là mức sống của người dân, giá cả các dịch vụ hạ hơn trong
khi mức thu nhập của họ tăng dần.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, cơ cấu thành phần du khách có
nhiều thay đổi hay còn gọi là xã hội hóa thành phần du khách. Du lịch không
còn là đặc quyền của tầng lớp quý tộc, tầng lớp trên của xã hội nữa. Xu thế
quần chúng hoá thành phần du khách trở nên phổ biến ở nhiều nước. Lý
do của hiện tượng này cũng la mức sống của người dân được nâng lên cao,
giá cả dịch vụ hàng hoá không đắt, các phương tiện giao thông vận tải, lưu
trú phong phú và thuận tiện. Nhưng điều quan trọng là chính sách của địa
phương có điểm du lịch. Ở nhiều nơi, nhà nước có chính sách khuyến khích
người dân đi du lịch do thấy được ý nghĩa của hiện tượng này đối với sức
khoẻ cộng đồng.
Nhờ sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là ngành công nghiệp
ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay siêu tốc... và sự bùng nổ của công nghệ
thông tin mà địa bàn du lich ngày càng mở rộng, cự li ngày càng dài ra. Với
vị trí đặc biệt của mình, sư phát triển cao về lực lượng sản xuất và có nhiều

17
di tích lịch sử, văn hoá mà Châu Âu có ngành du lịch quốc tế phát triển sớm
mạnh và là châu lục có nhiều người đi và đến du lịch nhất. Hiện nay du lịch
quốc tế đang có xu hướng phát triển nhanh ở châu Á, châu Phi, Châu đại
Dương, tuy nhiên khu vực Trung Cận đông và châu Phi mới chỉ ở mức triển
vọng vì hiện tại đang có nhiều bất ổn về kinh tế và chính trị.
Căn cứ vào số khách nước ngoài tới du lịch và số người đi du lịch ra
nước ngoài của từng nước, số ngoại tệ thu được của du khách cùng cán cân
thanh toán du lịch, có thể phân ra 3 loại nước khác nhau trong sự phát triển
du lịch quốc tế:
1. Các nước chủ yếu là du lịch bị động: Hoa kỳ, Nhật Bản, Anh, Uc,
Balan, CH Séc, Slovakia, Niu Di lan.
2. Các nước phát triển du lịch chủ động: Tây Ban Nha, Ý, Thuỵ Sĩ,
Bồ đào Nha, Ai Cập.
3. Các nước có sự phát triển cân bằng du lịch quốc tế chủ động, du
lịch quốc tế bị động: Pháp, Hunggary, Ixraen, Thổ Nhĩ Kỳ, một số nước
Nam Mỹ và các nước châu Á.
Do đời sống ngày càng cải thiện cải thiện, nhu cầu tích luỹ tăng
không ngừng nên trong các chuyến du lịch, khả năng chi trả của con người là
rất cao. Nhu cầu mà con người hướng tới, bên cạnh nhu cầu ăn uống là phục
hồi, duy trì sức khỏe, vui chơi giải trí, tìm hiểu, khám phá thế gới, tìm hiểu,
khai thác thị trường và một nhu cầu đặc biệt khác là bay vào vũ trụ.
Trên phạm vi thế giới, số khách du lịch lớn nhất là khách đi nghỉ ở
bờ biển. Trong tương lai, tỷ lệ du lịch biển sẽ giảm đi do phát triển của du
lịch trên núi. Một đặc điểm nữa có ý nghĩa lớn đối với phân bố là tính chất
giải trí là tính chất giải trí đối lập, tức người đi du lịch thường tìm đến môi
trường đối lập với nơi họ sinh sống (Vùng núi - Vùng biển; Thành phố -
Nông thôn…).
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển du lịch Việt Nam [7], [5]
Việt Nam với “rừng vàng biển bạc” là cái nôi tạo nên bức tranh “sơn
thuỷ hữu tình”, lôi cuốn bao người muốn khám phá cái đẹp. Chúng ta có thể
khẳng định rằng hoạt động du lịch ở nước ta đã có từ lâu đời. Việc mở mang
bờ cõi của nhà nước phong kiến Việt Nam chắc chắn có liên quan chặt chẽ
với các chuyến đi du lịch của vua quan và các học giả. Những thi sĩ như
Trương Hán Siêu, Hồ Xuân Hương, với tâm hồn tự do, ưa phóng khoáng

18
luôn có những cuộc “dã ngoại” tìm đến thiên nhiên để tìm cảm hứng cho
những sáng tác của mình. Bà huyện Thanh Quan đã từng có cuộc hành trình
dài ngày từ xứ Bắc vào kinh đô Huế để nhận chức Cung trung giáo tập. Các
dấu tích trên đá của Nguyễn Nghiễm ở Bích động (1773?), của chúa Trịnh
Sâm ở Hương Tích và nhiều vua quan, nhà nho khác là những bằng chứng
về chuyến du ngoạn của họ.
Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, việc khai thác tài nguyên phục
vụ mục đích du lịch và nghỉ dưỡng càng trở nên rõ nét hơn. Hàng loạt nhà
nghỉ, biệt thự được xây dựng ven các bãi biển, vùng hồ hay vùng núi, nơi có
khí hậu dễ chịu như đồ Sơn, Đà Lạt, Vũng Tàu, Ba Vì, Tam Đảo… Giai
đoạn này chứng kiến tầng lớp quan lại, vua chúa sang “mẫu quốc” để tuyên
truyền cái gọi là “khai sáng văn minh”. Bên cạnh đó chúng ta còn chứng
kiến nhiều du học sinh sang các nước Pháp, Nhật, Trung Quốc theo những tổ
chức khác nhau tìm đường giải phóng đất nước. Tuy vậy sự đi lại đó chỉ
mang tính chính trị nhiều hơn là đi du lịch. Trước năm 1945, du lịch Việt
Nam chưa tạo cho mình một nét đặt trưng, hay nói cách khác chưa có động
lực để phát triển.
Sau ngày hòa bình lập lại (1954), đất nước tạm thời chia thành 2
miền. Việc khai thác du lịch đi theo 2 hướng khác nhau. Ở miền Bắc, mặc dù
điều kiện kinh tế còn hết sức khó khăn song thanh thiếu niên, học sinh, sinh
viên thường tổ chức các chuyến đi tham quan, cắm trại và tham gia các hoạt
động vui chơi ngoài trời. Ở miền Nam, một số khách sạn lớn đã được xây
dựng để đáp ứng nhu cầu một số ít người thuộc tấng lớp trên của xã hội và
binh lính, sĩ quan nước ngoài.
Ngày 9/7/1960 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 26 CP
thành lập Công ty Du lịch Việt Nam trực thuộc Bộ Ngoại thương, đánh dấu
sự ra đời của ngành Du lịch Việt Nam.
Ngày 16/3/1963 Bộ Ngoại thương ban hành Quyết định số 164-BNT-
TCCB quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Công ty Du lịch Việt
Nam.
Ngày 18/8/1969 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 145
CP chuyển giao Công ty Du lịch Việt Nam sang cho Phủ Thủ tướng quản lý.
Ngày 27/6/1978 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Quyết nghị số
262 NQ/QHK6 phê chuẩn việc thành lập Tổng cục Du lịch Việt Nam trực

19
thuộc Hội đồng Chính phủ.
Ngày 23/1/1979 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 32-CP
quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch Việt
Nam.
Ngày 15/8/1987 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 120-
HĐBT về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch.
Ngày 9/4/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 119-
HđBT thành lập Tổng công ty Du lịch Việt Nam.
Ngày 31/12/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 447-
HĐBT về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Văn
hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch.
Ngày 26/10/1992 Chính phủ ban hành Nghị định số 05-CP thành lập
Tổng cục Du lịch.
Ngày 27/12/1992 Chính phủ ban hành Nghị định số 20-CP về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch.
Ngày 7/8/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 53/CP về cơ cấu tổ
chức của Tổng cục Du lịch.
Ngày 25/12/2002 Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 18/2002/QĐ-
BNV về việc cho phép thành lập Hiệp hội Du lịch Việt Nam.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam là một bộ thuộc Chính
phủ Việt Nam. Ngày 31 tháng 7 năm 2007, Quốc hội khóa 12 ra Nghị quyết
quyết định thành lập Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam trên cơ
sở sáp nhập Ủy ban Thể dục Thể thao, Tổng cục Du lịch và mảng văn hóa
của Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam.
Việc hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh trong những
năm qua, thể hiện rõ nhất trong việc tăng cường các hoạt động hợp tác song
phương và đa phương, tham gia tích cực vào diễn đàn khu vực và châu lục.
Du lịch Việt Nam tích cực tham gia và khai thác những lợi thế và quyền lợi
của mình trong việc trong việc tham gia các tổ chức du lịch quốc tế và khu
vực (Tổ chức Du lịch Thế giới WTO, Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình
Dương PATA), các diễn đàn du lịch như Diễn đàn du lịch ASEAN, Hội nghị
Bộ trưởng Du lịch châu Á – Thái Bình Dương, Hội nghị Bộ trưởng Du lịch
APEC tại Chi Lê. Ngoài ra, Du lịch Việt Nam còn tranh thủ sự gúp đỡ, tư

20
vấn của các tổ chức quốc tế như WTO, Tổ chức Phát triển bền vững Hà Lan
(SNV) trong việc xây dựng dự thảo Luật Du lịch. Sử dụng hiệu qủa nguồn
vốn ODA của các nước cho phát triển nguồn nhân lực du lịch như nguồn vốn
do Luxembourg và Liên minh châu Âu (EU) tài trợ. Trong những năm gần
đây, thế giới đã nhìn nhận Việt Nam như là một điểm đến an toàn đối với du
khách. Bằng chứng là năm 2000, Thủ đô Hà Nội được trao danh hiệu “Thủ
đô vì hoà bình”, du khách đến với Việt Nam mà không phải lo lắng bởi
xung đột, tiếng bom, tiếng súng. Các nhà doanh nghiệp, nhà đầu tư có môi
trường kinh doanh thuận lợi. Chính điều này đã tạo nên môi trường đầu tư
du lịch lí tưởng. Năm 2004, đã có 15 dự án FDI đầu tư vào du lịch được cấp
phép với số vốn hơn 110 triệu USD.
Hiện nay, chương trình hành động quốc gia về du lịch tiếp tục được
tập trung triển khai thực hiện. Nhiều sự kiện, lễ hội văn hóa du lịch đã được
tổ chức như: Fesival Huế, Lễ hội Văn hóa du lịch biển Đà Nẵng, Năm Du
lịch điện Biên Phủ, Lễ hội 100 năm du lịch Sa pa, Lễ hội Văn hóa du lịch
“Nhịp cầu xuyên Á”, Tháng du lịch “Hội An – Cảm xúc mùa hè”, Hội thảo
“Du lịch Quảng Trị với con đường Di sản Miền Trung”, Lễ hội Văn hóa du
lịch Việt – Nhật tại TP. Hồ Chí Minh….
Du lịch việt Nam cũng đã chủ trì hoặc tham gia tổ chức các sự kiện
quốc tế lớn như Hội nghị Bộ trưởng châu Á – Thái Bình Dương về Du lịch
văn hóa gắn với xóa đói, giảm nghèo tại Huế, Hội nghị Thượng đỉnh về
hợp tác Á–Âu (ASEM 5) tại Hà Nội. Việc tổ chức các sự kiện trên đã tạo
nên một khí thế mới cho Du lịch Việt Nam, thu hút số lượng lớn khách du
lịch trong và ngoài nước, thúc đẩy phát triển các loại hình, sản phẩm du lịch
mới, đặc trưng mà Việt Nam có thế mạnh.
Theo dự báo của tờ báo điện tử Hospitality Net, Việt Nam – một đất
nước giàu di sản văn hoá và có bề dày lịch sử sẽ tiếp tục thu hút khách từ
nhiều nơi trên thế giới. Tờ báo viết: Theo cuộc khảo sát do Hotel Benchmark
thực hiện thì từ tháng 9/2004, sự tăng trưởng về doanh thu phòng khách sạn
tại thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cao hơn bất cứ quốc gia đông
Nam Á nào khác. Theo Tổng cục Du lich Việt Nam (VNAT), tính chung 9
tháng năm 2019, tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt
12.870.506 lượt khách, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm 2018. Nguồn du
khách chủ lực là Trung Quốc, đóng góp hơn 27% lương du khách; tiếp theo
là Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc. Du lịch trong nước cũng tăng trưởng khá

21
khi thu nhập của người dân tăng nhanh và việc đi lại dễ dàng, thuận tiện hơn.
Theo tính toán, khách quốc tế đến Việt Nam năm 2019 tăng 16,2%
so với năm 2018, trong đó, khách đến bằng đường hàng không tăng 15,2%;
bằng đường bộ tăng 20,4%; bằng đường biển tăng 22,7%. Khách đến từ
châu Á chiếm 79,9% tổng số khách quốc tế, tăng 19,1% so với năm trước.
Khách đến từ châu Âu tăng 6,4%; khách đến từ châu Mỹ tăng 7,7%; khách
đến từ châu Phi tăng 12,2%... Theo Tổng cục Du lịch, trong năm 2019, du
lịch Việt Nam phục vụ 85 triệu lượt khách nội địa (tăng trên 6%). Tổng thu
từ khách du lịch ước đạt hơn 720.000 tỷ đồng (tăng trên 16%). Với sự nỗ
lực của toàn ngành, du lịch đã có những bước phát triển đột phá, tạo động
lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành, đóng góp vào sự tăng trưởng
chung của đất nước.
Việt Nam được vinh danh với nhiều danh hiệu danh giá, giải thưởng
du lịch toàn cầu: Điểm đến Golf tốt nhất thế giới 2019 (World Golf Awards);
Điểm đến Di sản hàng đầu thế giới (World Travel Awards 2019), Điểm đến
hàng đầu châu Á trong hai năm liên tiếp. Năng lực cạnh tranh của du lịch
Việt Nam liên tục được cải thiện trong bảng xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế
Thế giới (WEF), xếp hạng 63/140 nền kinh tế... [7]
Tuy đạt được những kết quả nêu trên, nhưng các chỉ tiêu chủ yếu về
lượng khách, thu nhập đạt được so với một số quốc gia có du lịch phát triển
trong khu vực vẫn còn có khoảng cách khá lớn; tổ chức bộ máy, nhân sự của
ngành chưa tương xứng với vai trò, vị trí và mục đích chính trị của một
ngành kinh tế mà Đảng ta xác định là mũi nhọn.
Năm 2020, ngành du lịch Việt Nam phấn đấu đón khoảng 20,5 triệu
lượt khách quốc tế, phục vụ 90 triệu lượt khách du lịch nội địa, tổng thu từ
khách du lịch đạt trên 830.000 tỷ đồng.
Mục tiêu này được Bộ VHTT&DL giao cho Tổng cục Du lịch thực
hiện. Theo Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch Nguyễn Trùng Khánh, đây là
nhiệm vụ hết sức khó khăn, vì vậy ngay từ bây giờ ngành đã trao đổi, thảo
luận để tìm ra những giải pháp có thể triển khai ngay từ đầu năm 2020.
Ngành du lịch sẽ cố gắng triển khai những giải pháp đã được đề ra
trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2035
hiện đang trình Chính phủ phê duyệt. Khi đó, các giải pháp cho chiến lược
đó sẽ được chuyển thành hành động cụ thể.

22
Bên cạnh đó, ngành tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, bình đẳng
cho doanh nghiệp và cộng đồng phát triển du lịch; đẩy mạnh phối hợp hợp
tác công-tư; tăng cường triển khai các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch,
ứng dụng công nghệ mới; đẩy mạnh công tác phối hợp, liên kết, huy động
mọi nguồn lực hợp pháp, tranh thủ sự ủng hộ của toàn xã hội cho phát triển
du lịch.
Ngày 22/01/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
147/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến
năm 2030.
Theo đó, mục tiêu đến năm 2025, Việt Nam trở thành điểm đến hấp
dẫn, phấn đấu thuộc nhóm ba quốc gia dẫn đầu về phát triển du lịch trong
khu vực Đông Nam Á và 50 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng
đầu thế giới. Tổng thu từ khách du lịch đạt 1.700 – 1.800 nghìn tỷ đồng
(tương đương 77 – 80 tỷ USD), tăng trưởng bình quân 13 – 14%/năm; đóng
góp trực tiếp vào GDP đạt 12 – 14%. Đồng thời, du lịch tạo ra khoảng 5,5 -
6 triệu việc làm, trong đó có khoảng 2 triệu việc làm trực tiếp, tăng trưởng
bình quân 12 – 14%/năm. Đặc biệt, về khách du lịch phấn đấu đón được ít
nhất 35 triệu lượt khách quốc tế và 120 triệu lượt khách nội địa, duy trì tốc
độ tăng trưởng bình quân về khách quốc tế từ 12 – 14%/năm và khách nội
địa từ 6 – 7%/năm.
Mục tiêu đến năm 2030, du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn
và phát triển bền vững. Việt Nam trở thành điểm đến đặc biệt hấp dẫn, thuộc
nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới. Tổng
thu từ khách du lịch đạt 3.100 – 3.200 nghìn tỷ đồng (tương đương 130 –
135 tỷ USD), tăng trưởng bình quân 11 – 12%/năm; đóng góp trực tiếp vào
GDP đạt 15 - 17%. Du lịch tạo ra khoảng 8,5 triệu việc làm, trong đó có
khoảng 3 triệu việc làm trực tiếp, tăng trưởng bình quân 8 – 9%/năm. Đồng
thời, phấn đấu đón được ít nhất 50 triệu lượt khách quốc tế và 160 triệu lượt
khách nội địa, duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân về khách quốc tế từ 8 -
10%/năm và khách nội địa từ 5 - 6%/năm [9].
Để đạt được mục tiêu trên, Chính phủ yêu cầu [10]:
- Các Bộ, ngành, cơ quan chức năng rà soát, sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật để tạo điều kiện cho du lịch phát
triển.

23
- Đồng thời, ban hành chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng để
huy động nguồn lực đầu tư tại các cụm du lịch, khu vực động lực phát triển
du lịch, khu du lịch quốc gia và khu vực có tiềm năng du lịch. Thúc đẩy
quan hệ hợp tác công – tư và các mô hình quản trị tích hợp các khu vực
công và tư nhân, doanh nhân và cộng đồng địa phương trong phát triển du
lịch bền vững.
- Mở rộng thị trường có khả năng tăng trưởng nhanh, tập trung thu
hút khách du lịch từ các thị trường Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Châu Úc,
Bắc Mỹ, Tây Âu, Bắc Âu, Đông Âu, Liên bang Nga.
- Bên cạnh đó, phát triển nhanh kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ;
nâng cấp, mở rộng, xây mới các cảng hàng không, cảng biển, cảng thủy nội
địa chuyên dụng cho khách du lịch; cải thiện nhanh hạ tầng, chất lượng dịch
vụ đường sắt để phát triển du lịch.
- Phát triển nguồn nhân lực du lịch, đa dạng hóa các hình thức đào
tạo; tập trung phát triển sản phẩm du lịch có chất lượng, đa dạng, khác biệt,
có giá trị gia tăng cao.
Đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá, xây dựng thương hiệu du lịch và hợp
tác, hội nhập quốc tế về du lịch; ứng dụng công nghệ số, công nghệ xanh,
sạch trong kinh doanh du lịch...
1.3. Vai trò của du lịch đối với nền kinh tế xã hội
Du lịch được mô tả như là một ngành công nghiệp vừa năng động,
vừa tinh tế, nó đem lại nguồn doanh thu khổng lồ so với bất cứ ngành dịch
vụ nào trên thế giới và trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nước
trên thế giới. Tuỳ theo điều kiện của từng nước mà ngành du lịch có những
đóng góp khác nhau đối với nền kinh tế quốc dân bởi vì hoạt động du lịch
đòi hỏi sự phối hợp liên ngành, đa lĩnh vực có tính xã hội hoá cao.
1.3.1. Đối với kinh tế
Các nhà kinh tế đã khẳng định: “Du lịch là ngành xuất khẩu vô hình”.
Với tiềm năng đã có sẵn, ngành du lịcg đã tạo cho mình những sản phẩm đặc
biệt so với các ngành kinh tế khác để kinh doanh, đem lại nguồn thu cho đất
nước. Chúng ta cần nhấn mạnh rằng, việc phát triẻn du lịch quốc tế sẽ làm
tăng nhanh nguồn thu nhập ngoại tệ thông qua việc tiêu dùng của khách du
lịch. Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, việc tích luỹ các đồng ngoại tệ
mạnh như USD, EURO, YÊN có ý nghĩa rất lớn trong việc tránh lạm phát,
24
bảo vệ nội tệ. v.v...
Du lịch là một ngành xuất khẩu tại chỗ có hiểu quả kinh tế cao khi
khách du lịch đến tham quan và nghỉ dưỡng họ sẽ tiêu thụ một khối lượng
lớn nông sản thực phẩm dưới dạng các món ăn đồ uống và mua hàng hoá
như là các đặc sản của vùng, đồ thủ công mỹ nghệ.... Như vậy địa phương sẽ
thu ngoại tệ tại chỗ với hiệu quả cao (tiết kiệm được chi phí bảo quản, lưu
kho, đóng gói, vẩn chuyển, sự hao hụt khi xuất khẩu ra thị trường thế giới).
Một ngành kinh tế muốn phát triển tất yếu phải có sự tham gia và
chịu sự tác động hai chiều với các ngành kinh tế khác. Là một ngành dịch vụ,
một ngành kinh tế độc đáo, du lịch phát triển là động lực thúc đẩy quá trình
sản xuất, kinh doanh của nhiều ngành khác trong nền kinh tế quốc dân.
Thông qua du lịch, cac ngành kinh tế như nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ,
công nghiệp hàng tiêu dùng bán đươc một số lượng hàng lớn với giá cả cao.
Bên cạnh đó, du lịch còn đóng vai trò như một nhà quảng cáo, nhà maketing
các sản phẩm của cac ngành kinh tế khác, kích thích và thúc đẩy các ngành
thay đổi dây chuyền hiện đại, nghiên cứu mẫu mã để làm hài lòng thị hiếu
của khách hàng.
Ngành du lịch phát triển còn kích thích sự phát triển của các ngành
xây dựng, giao thông vận tải, ngân hàng... thông qua các cơ sở du lịch và
khách du lịch tiêu thụ một khối lượng lớn các sản phẩm của ngành này.
1.3.2. Đối với văn hóa
Thông qua du lịch, đông đảo quần chúng có điều kiện tiếp xúc với
những thành tựu văn hoá phong phú và lâu đời của các dân tộc, đắm mình
trong cảnh sắc thiên nhiên giàu đẹp, từ đó giáo dục lòng yêu nước, tự hào
dân tộc và có ý thức bảo vệ những tài sản mà thế hệ đi trước để lại. Điều này
quyết định sự phát triển cân đối về nhân cách của mỗi cá nhân trong xã hội.
1.3.3. Đối với xã hội
Du lịch với bản chất của nó là nghỉ ngơi và khám phá, tìm hiểu điều
này đem lại cho con người nhiều ý nghĩa trong cuộc sống. Về mặt y tế, du
lịch giúp con người phục hồi sức khoẻ và tăng cường sức sống. Trong chừng
mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế các bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả
năng lao động của con người. Các công trình nghiên cứu về sinh học khẳng
định rằng nhờ chế độ nghỉ ngơi và du lịch tối ưu, bệnh tật của dân cư trung
bình giảm 30%, bệnh đường hô hấp giảm 40%, bệnh thần kinh giảm 30%,

25
bệnh đường tiêu hoá giảm 20%.
1.3.4. Đối với môi trường
Phát triển du lịch phụ thuộc rất nhiều vào kho tài sản tự nhiên và
nhân tạo của từng quốc gia. Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội chính
là những thông số đầu vào cho phát triển du lịch. Nghỉ ngơi du lịch là nhân
tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hoá môi trường
thiên nhiên xung quanh, bởi vì môi trường này ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khỏe và các hoạt động khác của con người. Mặt khác, việc đẩy mạnh hoạt
động du lịch, tăng mức độ tập trung khách vào những vùng đất nhất định lại
đòi hỏi tối ưu hoá quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch. Đến lượt
mình, quá trình này kích thích việc tìm kiếm các hình thức bảo vệ tự nhiên,
đảm bảo sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lí. Du lịch - bảo vệ môi
trường là những hoạt động gần gũi và liên quan với nhau.
Hoạt động du lịch tác động lên môi trường tự nhiên ở các mặt sau:
Tác động đến môi trường nước: Hoạt động du lịch góp phần đảm
bảo chất lượng nước trong và ngoài khu vực, giảm sức ép ô nhiễm nguồn
nước. Du lịch phát triển kéo theo các dự án về cấp thoát nước trong từng khu
du lịch như xây nhà máy nước sạch, đặt hệ thống chảy riêng nước thải rất có
ý nghĩa làm sạch môi trường nước giúp dân địa phương có nước sạch để sinh
hoạt. Đặc biệt trong mỗi khu du lịch đều tổ chức hệ thống ao hồ có sự liên hệ
với nhau nên có tác dụng đến việc khắc phục nạn úng thuỷ trong khu vực.
Tuy vậy, trong quá trình phát triển du lịch xấu cũng có một số tác động xấu
tới môi trường nước như làm ô nhiễm nước mặt từ quá trình xây dựng các
khu du lịch; ảnh hưởng tới diện tích lưu vực của nguồn nước, ô nhiễm từ các
chất thải sinh hoạt của nhân viên và khách du lịch; ảnh hưởng tới lượng
nước ngầm; ô nhiễm nước biển từ các hoạt động du lịch biển. ...
Tác động tới môi trường không khí, góp phần ổn định điều kiện vì
khí hậu trong vùng, đáp ứng ngày càng nâng cao của du khách nên trong các
khuôn viên các khu, điểm du lịch đã bố trí các vườn hoa, công viên, rừng
cảnh quan, hồ nước ... có tác dụng tích cực vào việc điều hoà không khí, góp
phần cải thiện khí hậu, và làm giảm bớt ô nhiễm không khí tại khu vực. Tuy
vậy, việc phát triển du lịch cũng gây nên một sô tác động xấu cho môi
trường không khí như việc ô nhiễm không khí từ các phương tiện giao thông;
gia tăng tiếng ồn, ô nhiễm không khí từ khách du lịch; ô nhiễm không khí từ

26
chất thải sinh hoạt của hoạt động du lịch.
Tác động tới môi trường đất, góp phần tăng hiệu quả sử dụng đất
thông qua việc xây dựng khách sạn, các khu vui chơi giải trí .... Như vậy
những diện tích đất được bỏ hoang nâng cao giá trị của mình và quan trọng
la môi trường đất được cải tạo. Tuy nhiên hoạt động du lịch ảnh hưởng tới
môi trường đất thể hiện ở các mặt sau: ảnh hưởng tới cơ cấu sử dụng đất;
thay đổi câu trúc địa chất của khu vực; ô nhiễm đất từ các hoạt động du lịch.
Tác động tới môi trường sinh vật, thông qua việc quy hoạch các khu
bảo tồn, vườn quốc gia góp phần hạn chế việc khai thác động thực vật qu
hiếm bưa bãi. Bên cạnh đó trong khuông viên các khu du lịch có bố trí các
vườn cây, khu nuôi chim thú làm tăng tính đa dạng sinh học của vùng. Tuy
nhiên, do vấn đề nhu cầu thực phẩm cung cấp cho hoạt động du lịch ngày
càng tăng dẫn đến việc khai thác qua mức động vật quí hiếm gây tổ hại đến
đa dạng sinh học. Các yếu tố ô nhiễm từ du lịch như rác thải, nước thải, khí
gây mùi đều có thể ảnh hưởng tới hệ sinh vật và gây hiện tượng thiếu oxy.
Phát triển du lịch luôn có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực xã
hội và môi trường, hay nói đúng hơn là giữa chúng luôn có mối quan hệ hai
chiều. Phát hiện được quy luật về sự tác động giữa chúng là cách giúp chúng
ta phát huy tính tích cực và hạn chế tiêu cực gây nên trong quá trình phát
triển. Đó cũng chính là cách giúp cho không chỉ du lịch mà kinh tế, xã hội,
môi trường luôn có tính bền vững.
1.3.5. Đối với chính trị
Cũng có thể nói rằng du lịch mang trong mình chức năng chính trị.
Nó thể hiện ở vai trò to lớn trong việc củng cố hoà bình, đẩy mạnh các mối
giao lưu quốc tế, mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc. Qua giao lưu, hoà
nhập tìm hiểu các nền văn hoá xã hội khác nhau làm cho con người thêm
hiểu nhau và biết xích lại gần nhau. Mỗi năm, hoạt động du lịch với các chủ
đề khác nhau, như: “Du lịch là giấy thông hành hoà bình” (năm 1967); “Du
lịch không chỉ là quyền lợi, mà còn là trách nhiệm của mỗi người” (năm
1983)... kêu gọi hàng triệu người quý trọng lịch sử, văn hoá và truyền thống
của các quốc gia, giáo dục lòng mến khách và trách nhiệm của chủ nhà đối
với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các dân tộc.
Xét dưới góc độ kinh tế, du lịch mở ra hướng đầu tư hợp tác giữa các
nước, dần dần thu hẹp khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo.

27
Nếu gọi du lịch là động cơ, là sức đẩy của con tàu kinh tế đất nước,
rõ ràng không có gì là quá lời. Ngoài mục đích tự thân của nó, ngành du lịch
còn có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nhiều ngành nghề khác. Để
ngày một phát triển, du lịch cùng các ngành kinh tế khác “cùng dắt tay đi
lên” một cách hài hoà, đồng bộ, cạnh tranh nhau một cách lành mạnh.

Câu hỏi hướng dẫn ôn tập chương 1


1. Hãy cho biết một số khái niệm về: du lịch, khách du lịch, tài nguyên du
lịch, điểm và khu du lịch.
2. Hãy cho biết lịch sử hình thành và phát triển du lịch thế giới và du lịch
Việt Nam?
3. Hãy cho biết vai trò của du lịch đối với kinh tế, xã hội, văn hóa, môi
trường, chính trị?

Tài liệu tham khảo


1. Luật Du lịch năm 2017, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Trần Thị Mai (2006), Giáo trình Tổng quan du lịch, Nxb Lao động - Xã hội.
3. Vũ Đức Minh (2008), Giáo trình Tổng quan du lịch, Nxb Thống kê.
4. Nguyễn Đình Quang, Trần Thị Thúy Lan (2005), Giáo trình Tổng quan
du lịch, Nxb Hà Nội.
5. Võ Văn Thành (2015), Giáo trình Tổng quan du lịch, Nxb Văn hóa-
Văn nghệ, HCM.
6. Trần Văn Thông (2004), Tổng quan du lịch, TP Hồ Chí Minh.
7. www.vietnamtourism.com.vn
8. www.unwto.org/member-states
9. www.vtr.org.vn/chien-luoc-phat-trien-du-lich-viet-nam-den-nam-
2030.html
10. www.vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?
class_id=2&mode=detail&document_id=153358

----------------------------------------------------

28
Chương 2
Điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch

2.1. Điều kiện chung


2.1.1. An ninh chính trị, an toàn xã hội
Để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, sự phối
hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh với các hoạt động du lịch cũng
như các ngành kinh tế khác có ý nghĩa cực kì quan trọng. Sự bảo đảm vững
chắc về quốc phòng, an ninh tạo môi trường ổn định cho đất nước và khách
tới tham quan.
Du lịch, bên cạnh việc nghỉ ngơi, là “thẩm nhận những giá trị vật
chất, tinh thần độc đáo, khác lạ với quê hương mình” [5]. Điều này đòi hỏi
sự giao lưu, đi lại của du khách giữa các quốc gia, các vùng với nhau. Bầu
chính trị hòa bình, hữu nghị sẽ kích thích sự phát triển của du lịch quốc tế.
Một thế giới bất ổn về chính trị, xung đột về sắc tộc, tôn giáo làm ảnh
hưởng tới việc phát triển du lịch tức là nó không làm tròn “sứ mệnh” đối với
du lịch, gây nên nỗi hoài nghi, tâm lý sợ hãi cho du khách. Bên cạnh đó,
những cuộc nội chiến, những cuộc chiến tranh xâm lược với nhiều loại trang
thiết bị lợi hại làm hủy hoại tài nguyên du lịch, các công trình nghệ thuật
kiến trúc do loài người sáng tạo nên. Ở Việt Nam, qua hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, nhiều công trình phục vụ phát triển du lịch bị phá
hoại, nếu tồn tại thì chỉ còn một phần và chúng ta đang ra sức kiến tạo lại
tức là chúng ta quá lạm dụng “bê tông hoá”, “nhựa hoá”, dù biết rằng nó đã
mất đi phàn nào đó giá trị nguyên bản. Năm 2000, tại hòn đảo Bali
(Inđônêxia) - nơi hấp dẫn khách du lịch của nhiều nước trên thế giới, bị
đánh bom khủng bố để lại nỗi kinh hoàng cho khách du lịch. Năm 2003
bệnh SARS (Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (tiếng Anh: Severe acute
respiratory syndrome ) ở Trung Quốc, dịch Cúm gà ở Việt Nam gây nên
những tổn thất lớn cho du lịch Trung Quốc và Việt Nam và gián tiếp ảnh
hưởng đến du lịch thế giới. Và hiện nay, Đại dịch Covid-19 diễn ra năm
2020 đã tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam, trong đó, ngành Du lịch
bị ảnh hưởng rất nặng nề. Các lệnh cấm bay, hạn chế đi lại và sự e ngại của

29
du khách do lo sợ ảnh hưởng của dịch Covid-19 đã khiến nhiều khách sạn,
nhà hàng và chuỗi bán lẻ tại các điểm du lịch trở nên vắng khách, doanh thu
ngành du lịch sụt giảm mạnh. Theo các chuyên gia dự báo, năm 2020, du
lịch Việt Nam không đạt mục tiêu đón 20,5 triệu lượt khách quốc tế. Sự
phục hồi của du lịch Việt Nam sẽ phải phụ thuộc vào thời điểm dịch Covid-
19 được kiểm soát trên thế giới [10], mà hiện nay, sự thiệt hại về người mắc
Covid-19 vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiêt. Theo tin mới nhất, thế giới hiện có
209.558.900 trường hợp dương tính và 4.398.234 người tử vong, còn Việt
Nam: 323.268 và 7.540 [Bộ Y tế ngày 21/8/2021]. Trong bối cảnh trước
dịch Covis-19, con số cao kỷ lục là hơn 2 triệu lượt khách nước ngoài vào
Việt Nam chỉ trong tháng 1 năm 2020. Trên thực tế, khoảng hơn 30% lượng
khách đó đến từ Trung Quốc và hai thị trường lớn khác là Hàn Quốc và
Nhật Bản [8]. Trong khí đó, Tổ chức Du lịch thế giới cũng vừa xếp Việt
Nam là điểm đến du lịch phát triển nhanh thứ 7 trên toàn cầu (tăng 3 bậc so
với năm ngoái) [7].
Thiên tai cũng có tác động xấu đến sự phát triển du lịch. Nhật Bản là
đất nước giàu và đẹp nhưng luôn phải hứng chịu những trận động đất, gây
khó khăn cho phát triển du lịch, có chăng chỉ phát triển du lịch bị động. Vào
những ngày cuối năm 2004, một trận sóng thần lớn nhất từ trước tới nay xảy
ra ở Đông Nam Á, Nam Á đã gây thiệt hại lớn về người và của, ảnh hưởng
rất lớn đến sự phát triển du lịch. Điều đáng nói là sóng thần đã làm cho
nhiều du khách bị thiệt mạng, cơ sở vật chất phục vụ phát triển du lịch bi
huỷ hoại nặng nề. Bên cạnh đó là sự phát sinh và lây lan các loại dịch bệnh
như tả lỵ, dịch hạch sốt rét.
Từ những ví dụ trên cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của an
ninh chính trị, an toàn xã hội cho khách du lịch, và là nhân tố quan trọng tạo
nên sự thành bại của ngành du lịch.
2.1.2. Kinh tế
Một trong mhững yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến sự phát sinh
và phát triển du lịch là điều kiện kinh tế chung. Nền kinh tế chung phát triển
là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của ngành kinh tế du lịch. Theo ý kiến
của các chuyên gia kinh tế thuộc Hội đồng Kinh tế và Xã hội của Liên
Hợp Quốc, một đất nước có thể phát triển du lịch một cách vững chắc nếu
30
nước đó tự sản xuất được phần lớn số của cải vật chất cần thiết cho du lịch.
Sự phát triển của nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm có ý nghĩa
quan trọng với phát triển du lịch. đây là cơ sở cung ứng nhiều hàng hoá nhất
cho du lịch. Ngành công nghiệp dệt cung cấp cho các xí nghiệp du lịch các
loại vải để trang bị phòng khách, các loại khăn trải bàn, ga giường…. Ngành
công nghiệp chế biến gỗ trang bị đồ gỗ cho các văn phòng, cơ sở lưu trú.
Khi nói đến nền kinh tế của đất nước, không thể không nói đến giao
thông vận tải. Từ xa xưa, giao thông vận tải đã trở thành một trong những
nhân tố chính cho sự phát triển của du lịch, đặc biệt là du lịch quốc tế. Giao
thông vận tải ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch trên hai phương diện: Số
lượng và chất lượng. Sự phát triển về số lượng làm cho mạng lưới giao
thông vươn tới mọi miền trái đất. Chất lượng của phương tiện giao thông
ảnh hưởng tới chuyến du lịch ở các mặt sau: tốc độ, an toàn, tiện nghi, giá cả.
Chúng ta có thể khẳng định ngày nay với sự tiến bộ của khoa học -
kỹ thuật nhiều thành tựu được áp dụng vào sản xuất. Điều đó đồng nghĩa vói
điều kiện kinh tế của con người được nâng cao rõ rệt và vấn đề ăn, mặc, trở
thành thứ yếu. Nhu cầu được nghỉ ngơi, giải trí và giao lưu tình cảm xuất
hiện. Hiện nay, trong các nước kinh tế phát triển, du lịch trở thành nhu cầu
không thể thiếu trong cuộc sống của họ. Các nhà nghiên cứu kinh tế Du lịch
đã đưa ra nhận định là ở các nước kinh tế phát triển nếu nhu cầu quốc dân
trên mỗi người tăng lên 1% thì chi phí du lịch tăng lên 1,5%. Xu hướng
ngày nay là hầu hết các du khách ở các nước phát triển đều thích tham quan
ở các nước đang phát triển .điều này rất dễ hiểu vì chi phí ở các nước đang
phát triển thấp, phù hợp với điều kiện kinh tế của người dân hạng trung lưu
và nghèo ở các nước phát triển.
Kinh tế và phát triển luôn có mối quan hệ hữu cơ, nghịch thuận lẫn
nhau. Trong quá trình phát triển của mình, du lịch luôn xem kinh tế là một
trong những nguồn lực quan trọng. Sự tác động của điều kiện kinh tế tới
phát triển du lịch thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau. Tìm hiểu rõ vấn đề này
là cách giúp những nhà quản lí và làm du lịch có những chính sách phát
triển của ngành phù hợp.
Như chúng ta đã biết, du lịch là ngành dịch vụ, nhận nhiệm vụ

31
“chuyển tải” sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của các ngành kinh tế khác để
cung cấp cho du khách nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Vì vậy điều kiện kiện kinh
tế đóng vai trò góp phần cung cấp các hàng hóa, dịch vụ cho du lịch. Khi
khách tới Vũng Tàu không có nghĩa là chỉ tới để nghỉ dưỡng và tắm biển,
bên cạnh hoạt động đó du khách còn có cơ hội và mong muốn thưởng thức
hải sản. Vậy ngành kinh tế biển (đánh bắt cá) đóng vai trò cung cấp nguồn
lợi thủy sản cho các nhà hàng tại Vũng Tàu phuc vụ nhu cầu ăn uống và
mua về làm quà của du khách. Ngành kinh doanh khách sạn cũng thế, nếu
như không có ngành xây dựng, ngành sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, ngành
sản xuất đồ dùng thì hoạt động kinh doanh của nó liệu có tồn tại không? Từ
những ví dụ trên chúng ta khẳng định điều kiện kinh tế là một trong những
nhân tố tiên quyết quyết định sự thành bại trong kinh doanh khách sạn.
Ngành du lịch chỉ phát triển khi có khách du lịch. Nhân tố hình thành
nên khách du lịch bao gồm thời gian rỗi, động cơ – nhu cầu đi du lịch, khả
năng tài chính. Chúng ta thấy rằng khả năng tài chính của cá nhân mỗi du
khách đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy bước chân của du
khach tham gia cuộc hành trình. Nếu như sau thế chiến II, mục tiêu của con
người là kiến thiết lại nền kinh tế đã bị kiệt quệ với nhu cầu chính là cơm ăn,
áo mặc, nhà ở. Do đời sống còn thiếu thốn nên nhu cầu du lịch xuất hiện.
Trong những năm gần đây, có sư bùng nổ về du lịch thế giới, người ta ước
tính rằng có khoảng 3 tỷ lượt du lịch nội địa và 750 triệu lượt khách du lịch
quốc tề. Điều này có nghĩa là khi nền kinh tế phát triển, đời sống con người
được nâng cao, các nhu cầu hàng ngày được đáp ứng thì con người xuất
hiện những nhu cầu cao hơn trong đó có nhu cầu du lịch. Như vậy điều kiện
kinh tế phát triển là cơ sở để ngành du lịch khai thác kinh doanh các nguồn
khách khác nhau.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, giữa kinh tế và du lịch luôn có mối
quan hệ nghịch thuận tức là hoặc là kìm hãm, hoăc là thúc đẩy nhau phát
triển. Cuộc khủng hoảng kinh tế xuất phát từ Mỹ lan sang hầu hết các quốc
gia trên thế giới đã kiến cho nhiều ngành kinh tế rơi vào hoàn cảnh “đêm tối
không có đường ra”, trong đó có ngành du lịch. Cuộc khủng hoảng kinh tế
khiến không ít doanh nghiệp du lịch phá sản, nhiều điểm du lịch, khu du lịch,
các cơ sở lưu trú vắng khách. Nguồn thu từ du lịch thấp. Hậu quả là lương

32
người lao động thấp, chán nản, bỏ việc, mức sống của con người giảm. Vì
thế nhu cầu du lịch của con người chạy về theo hướng số không.
Ngày nay, xu thế thế giới là toàn cầu hóa. Từng dòng tư bản và trí
thức có sự luân chuyển giữa các quốc gia với nhau. Trước tình hình đó, các
công ty lớn thường có kế hoạch khai phá thị trường của mình. Hoạt động
kinh tế, trao đổi thương mại giữa các quốc gia phát triển mạnh. Qua sự giao
lưu, tìm hiểu kinh tế với các đối tác nước ngoài cũng như qua các hội nghị
kinh tế lớn, ngành du lich có cơ hội quảng bá điểm mạnh của mình ra thế
giới. Bên cạnh đó, các hoạt động văn hóa thể thao lớn ngày càng có yếu tố
“thương mại hóa” và kéo đó là truyền hình vào cuộc. Tất nhiên sự vào cuộc
của truyền hình là đòn bẩy kích thích ngành du lịch của nhiều quốc gia hồi
sinh. điều đó để chúng ta tự hỏi tại sao các nước luôn muốn tranh chấp để
đươc đăng cai các sự kiện lớn như Worldcup, Olimpic, hoa hậu….
Đất nước Việt Nam ngày càng hội nhập. Bằng chứng là chúng ta
được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
(LHQ) nhiệm kỳ 2008-2009, nhiệm kỳ 2020-2021 [9] và chính thức đảm
nhiệm chức Chủ tịch luân phiên HĐBA LHQ nhiệm kỳ 01/07/2008 đến
31/07/2008. Được gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO (11/1/2007)
đã tạo chỉ số uy tín rất cao của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhờ có chỉ số
uy tín cao nên chúng ta rất thuận lợi trong phát triển kinh tế và có khả năng
“hút” các sự kiện thể thao lớn trong khu vực, châu lục cũng như trên thế
giới. Và nếu như các sự kiện thể thao lớn được tổ chức thì cơ hội phát triển
du lịch đạt hiểu quả cao. Thông qua du lịch, chúng ta có cơ hội quảng bá
hình ảnh đất nước trên mọi lĩnh vực và lấy đó làm “thế” để thu hút các sự
kiện thể thao khác.
Trong nước, đời sống của người dân ngày càng cao, số lượng khách
du lịch nội địa của Việt Nam gần đạt ngưỡng 85 triệu lượt năm 2019, ngày
lễ, ngày tết nhu cầu đi du lịch rất cao, có lúc quá tải. Điều đó khiến chúng ta
có thể khẳng định là do đời sống kinh tế của người dân ngày càng cao, mức
lương và thưởng hấp dẫn.
Trên bình diện cả nước, nền kinh tế ngày càng phát triển “thay da đổi
thịt”, nhiều công trình cao cấp, nhiều khách sạn, resort liên kết với nước

33
ngoài được đầu tư xây dựng. Đó là cơ sở để chúng ta có cơ sở và đảm bảo
khả năng khai thác và đón tiếp nguồn khách quốc tế tới tham quan.
Điều kiện kinh tế có vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển du
lịch. điều này cũng đòi hỏi ngành du lịch trong qua trình phát triển của mình
phải quảng bá, góp phần xây dựng kinh tế. Có như vậy mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau mới bền vững.
2.1.3. Văn hóa
Trình độ văn hoá cao tạo điều kiên cho việc phát triển du lịch.
Phần lớn những người tham gia vào cuộc hành trình du lịch là những
người có trình độ văn hoá nhất định, nhất là những người đi du lịch nước
ngoài. Bởi vì họ có sở thích (nhu cầu) đối với việc tìm hiểu các danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử, bản sắc văn hoá dân tộc hay nói đúng hơn tài
nguyên, điểm du lịch tác động đến họ theo một quá trình: Thông tin -
Tiếp xúc - Nhận thức - đánh giá. Phải có trình độ văn hoá thì mới hiểu hết
giá trị của chuyến tham quan du lịch. Trong các nước mà nhân dân có trình
độ văn hoá cao thì số người đi du lịch ra ngoài tăng lên không ngừng với
cường độ cao. Bên cạnh độ, trình độ của người dân nước sở tại, nơi đón
khách cũng phải chú ý. Trình độ văn hóa thấp ảnh hưởng đến phát triển
du lịch: ăn xin, cướp giật, ép khách mua hàng... .
Việc phát triển du lịch phải mang dấu ấn của con người, tức là con
người thông qua trí tuệ của mình đưa ra những biện pháp, cách thức để phát
triển du lich. Một quốc gia giàu có về tài nguyên du lịch nhưng nếu không
biết sử dụng trí óc của con người để phát huy hết giá trị của tài nguyên đó
thì coi như “muối bỏ bể”. Ngược lại có những quốc gia nghèo về tài nguyên
du lịch nhưng biết phát huy hợp lí sẽ thu hút được lượng khách du lịch rất
lớn và ngành du lịch sẽ phát triển bền vững.
2.1.4. Đường lối phát triển du lịch
Chính sách phát triển du lịch là chìa khóa dẫn đến thành công trong
việc phát triển du lịch. Nó có thể kìm hãm nếu đường lối sai với thực tế.
Chính sách phát triển du lịch được ở hai mặt: Thứ nhất là chính sách chung
của Tổ chức du lịch thế giới đối với các nước thành viên; Thứ hai là chính
sách của cơ quan quyền lực tại địa phương, quốc gia đó. Mặt thứ hai có ý

34
nghĩa quan trọng hơn cả vì nó huy động được sức người, căn cứ vào khả
năng thực tế tại mỗi vùng, quốc gia đó để đưa ra chính sách phù hợp.
Những biện pháp để thúc đẩy du lịch Việt Nam được Đảng và Nhà
nước đề ra ở Đại hội VIII:
“Triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam tương
xứng với tiềm năng du lịch của đất nước theo hướng du lịch văn hoá, du lịch
môi trường sinh thái. Xây dựng các chương trình và điểm hấp dẫn về văn
hoá, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Huy động nguồn nhân lực của
nhân dân tham gia kinh doanh du lịch, ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng ở
những khu du lịch, tập trung ở những trung tâm lớn. Nâng cao trình độ văn
hoá và chất lượng dịch vụ với các loại khách khác nhau, đẩy mạnh việc huy
động vốn trong nước đầu tư vào khách sạn, chuyển các nhà nghỉ, nhà khách
từ cơ chế bao cấp sang kinh doanh khách sạn và du lịch”.
Nhận thức được ảnh hưởng tiêu cực của thủ tục visa trên lượng du
khách, chính phủ Việt Nam đã sớm có sáng kiến về visa như từ tháng
1/2004 bãi bỏ thị nhập cảnh cho du khách Nhật đến Việt Nam từ 15 ngày trở
xuống. Tháng 7/2004, sáng kiến này cũng được áp dụng với du khách Hàn
Quốc. Các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Inđonesia,
Philippines, Singapore và Lào cũng có các thỏa hiệp visa với Viêt Nam.
Đa dạng hoá các sản phẩm du lịch Việt Nam là chính sách dài hạn
của Tổng cục Du lịch Việt Nam. Từ năm 1995, chính phủ đã chuẩn bị kế
hoạch lớn thời kì 1995 – 2010 hoặc giai đoạn 2020 đến 2030, … nhằm phát
triển du lịch, biến du lịch thành cánh tay đắc lực mang lại ngoại tệ và công
ăn việc làm cho người dân đồng thời giới thiệu phong cảnh, văn hoá và con
người Việt Nam với du khách nước ngoài. Năm 2000 kế hoạch được bổ
sung và chỉnh sửa. Theo kế hoạch, kỹ nghệ du lịch Việt Nam sẽ thu hút đầu
tư phát triển các cơ sở hạ tầng và phục vụ du khách đi kèm với việc phát
triển các sản phẩm du lịch độc đáo mang bản sắc Việt Nam.
Thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã có những
văn bản chỉ đạo hoạt động du lịch khoa học, thực tiễn và có hiệu quả từ đại
hội VIII đến nay. Pháp lệnh du lịch Việt Nam ban hành ngày 20/2/1999 đã
đi vào cuộc sống và tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch việt Nam ngày một

35
đi lên.
2.2. Điều kiện riêng
2.2.1. Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát
triển du lịch. Tài nguyên nghĩa là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần
được khai thác và phục vụ cho mục đích phát triển nào đó của con người.
Theo Buchvakop - Nhà địa lý học người Bungari “Tài nguyên du lịch bao
gồm các thành phần và những kết hợp khác nhau của cảnh quan thiên nhiên
cùng cảnh quan nhân văn có thể được sử dụng cho dịch vụ du lịch và thỏa
mãn nhu cầu nghỉ ngơi hay tham quan của khách du lịch”. Xét dưới góc độ
cơ cấu tài nguyên du lịch, có thể phân thành hai bộ phận hợp thành: Tài
nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
Di sản thế giới:
Đây được coi là tiềm năng lớn nhất và quan trọng nhất để phát triển
du lịch. Di sản văn hoá được hiểu là toàn bộ các tạo phẩm chứa đựng những
giá trị tích cực mà loài người đã đạt được trong xã hội thực tiễn do thế hệ
trước truyền lại cho thế hệ sau. Di sản văn hoá được chia ra làm hai loại:
Di sản văn hoá vật thể [1]:

- Là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.

- Toàn bộ các sản phẩm vật chất hiện hữu dược hình thành do bàn
tay sáng tạo của con người, bao gồm: Hệ thống di tích lịch sử văn hoá, thể
thống danh lam thắng cảnh, hệ thống di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Di sản văn hoá phi vật thể: Là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử,
văn hoá, khoa học được lưu dữ bằng trí nhớ, chữ viết truyền miệng, truyền
nghề, trình diễn, lễ hội truyền thống, ý thức về y dược học, trang phục
truyền thống….
Trên thế giới, nhiều quốc gia có số di sản văn hoá, di sản thiên nhiên
được UNESCO công nhận như: Italia - 58, Pháp - 44, Ấn độ - 38, Trung
Quốc - 58, Tây Ban Nha - 48, Anh - 32, Canada - 20, Nhật Bản - 23, Nga –
29, Hoà Kỳ - 24, v.v… Tính đến nay, Việt Nam có 27 di sản thế giới (trong

36
đó di sản vật thể chiếm 8 với 2 di sản thiên nhiên, 5 di sản văn hóa và 1 di
sản hỗn hợp, còn lại 19 di sản phi vật thể - trong đó 14 là di sản, 5 là di sản
tư liệu) và 1 di sản địa chất [1]. Nếu nhìn từ góc độ kinh tế (nói chung) và
du lịch (nói riêng) thì di sản văn hóa là một tiềm năng mang lại nguồn thu
rất lớn cho đất nước.
2.2.1.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Địa hình: địa hình hiện tại của bề mặt trái đất là sản phẩm của các
quá trình địa chất lâu dài (nội sinh, ngoại sinh). Trong chừng mực nhất định,
mọi hoạt động sống của con người trên lãnh thổ đều phụ thuộc vào địa hình.
đối với hoạt động du lịch, địa hình của một vùng đóng một vai trò quan
trọng với việc thu hút khách. Địa hình đồng bằng tương đối đơn điệu về
ngoại cảnh nhưng là nơi tập trung tài nguyên du lịch nhân văn, đặc biệt là
các di tích lịch sử văn hoá và là nơi hội tụ các nền văn minh của loài người.
Địa hình đồi thường tạo ra không gian thoáng đãng, nơi tập trung dân cư
tương đối đông đúc, lại là nơi có những di tích khảo cổ và tài nguyên văn
hóa, lịch sử độc đáo, tạo khả năng phát triển loại hình du lịch tham quan
theo chuyên đề. Địa hình núi có ý nghĩa lớn nhất đối với phát triển du lịch,
đặc biệt là khu vực thuận lợi cho tổ chức du lịch mùa đông, và các loại hình
du lịch thể thao như leo núi, du lịch sinh thái, v.v…. Ở Việt Nam, động
Phong Nha (Bố Trạch - Quảng Bình) được coi là hang nước đẹp nhất thế
giới. Bên cạnh đó chúng ta còn phải kể tới như động Tiên Cung, Đầu Gỗ
(Hạ Long), Tam Cốc - Bích Động (Ninh Bình), Hương Tích (Hà Tây),
v.v… đang rất thu hút khách du lịch. Địa hình bờ bãi biển là nơi tiếp xúc
giữa đất liền và biển (kho nước lớn của nhân loại). Do quá trình bồi tụ sông
ngòi, các đợt biểu tiến và lùi, thủy triều, v.v… đã tạo ra nhiều bãi tắm đẹp,
thích hợp với loại hình du lịch nghỉ dưỡng biển.
Khí hậu: Là một trong những yếu tố quan trọng trong việc phát triển
du lịch, nó tác động tới du lịch ở hai phương diện :

- Ảnh hưởng đến việc thực hiện các chuyến du lịch hoặc hoạt
động dịch vụ về du lịch.

- Một trong những nhân tó chính tạo nên tính mùa vụ du lịch.
+ Du lịch cả năm: Du lịch văn hóa, du lịch chữa bệnh.
37
+ Du lịch mùa đông: Du lịch thể thao.
+ Du lịch mùa hè: Du lịch biển, nói chung là phong phú.
Khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa. Do nằm hoàn
toàn trong vùng nội chí tuyến (2 lần mặt trời đi qua thiên đỉnh) nên lãnh thổ
nhận được một lượng bức xạ mặt trời rất lớn. Nhiệt độ trung bình hàng năm
từ 220C - 270C, tổng lượng nhiệt hoạt động lên tới 8.0000C, tổng số giờ nắng
1.400 giờ. điều đó cho thấy các bãi biển luôn chan hòa ánh nắng và thu hút
một lượng khách trong nước và quốc tế đến đến nghỉ dưỡng, chủ yếu là vào
mùa hè. Tuy nhiên, khí hậu Việt Nam cũng có sự phân hóa phức tạp về mặt
không gian và thời gian tạo nên tính mùa vụ du lịch và tạo nên những loại
hình du lịch thích hợp, phụ thuộc vào thời gian.
Tài nguyên nước: bao gồm nước chảy trên bề mặt và nước ngầm.
đối với du lịch thì nguồn nước mặt có ý nghĩa rất lớn. Nó bao gồm đại
dương, biển, hồ, sông, hồ chứa nước nhân tạo, suối, Karst, thác nước, suối
phun…. Nhằm mục đích phục vụ du lịch, nước sử dụng tùy theo nhu cầu, sự
thích ứng của cá nhân, độ tuổi và quốc gia. Ở Việt Nam hiện có hơn 2.000
km đường bờ biển, do quá trình chia cắt kiến tạo, do ảnh hưởng của chế độ
thủy triều và sóng mà dọc đất nước đã hình thành nhiều bãi tắm đẹp như
Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế),
Nha Trang (Khánh Hòa), v.v. . . thích hợp đối với du lịch nghỉ dưỡng và loại
hình du lịch thể thao như lướt sóng, khám phá đại dương ở Nha Trang
(Khánh Hòa). Bên cạnh đó, nước ta còn có mạng lưới sông ngòi dày đặc,
phân bố đồng đều trên lãnh thổ. Dọc bờ biển khoảng 20 km gặp một của
sông, có khoảng 2.360 con sông có chiều dài trên 10 km trở lên. điều này
thuận lợi cho việc phát triển du lịch đi thuyền thưởng ngoạn cảnh vật ở hai
bên bờ sông kết hợp với thưởng thức ẩm thực và liên hoan văn nghệ. Chúng
ta có thể kể tới như đi thuyền trên sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long.
v.v... Bờ biển rộng kết hợp với mạng lưới sông ngòi dày đặc là nguồn cung
cấp những sinh vật có giá trị phục vụ văn hóa ẩm thực và xuất khẩu du lịch
tại chỗ .
Trong tài nguyên nước, cần phải nói đến tài nguyên nước khoáng.
đây là nguồn tài nguyên có giá trị du lịch an dưỡng và chữa bệnh trên thế

38
giới, những nước giàu nguồn nước khoáng nổi tiếng cũng là những nước
phát triển du lịch chữa bệnh như Liên Xô (cũ), Bungary, Ý, CHLB Đức, CH
Séc, v.v… Ở Việt Nam tiêu biểu có nguồn nước khoáng Kim Bôi (Hoà
Bình), Hội Vân (Bình Định), Quang Hanh (Quảng Ninh), Bình Châu (Bà
Rịa-Vũng Tàu) v.v….
Hệ động thực vật: Đây là một tiềm năng du lịch đã và đang khai
thác có sức hấp dẫn lớn khách du lịch. Du khách đến với các vườn quốc gia,
khu bảo tồn thiên nhiên để tham quan thế giới động thực vật sống động, hài
hòa trong thiên nhiên để con người thêm yêu cuộc sống. Bên cạnh đó là việc
phát triển loại hình du lịch nghiên cứu khoa học và du lịch thể thao săn bắn
(phụ thuộc vào quy định từng vùng). Nước ta có giới sinh vật phong phú về
thành phần loài. Nguyên nhân là do vị trí địa lý, nó như là một nơi gặp gỡ
của các luồng di cư động và thực vật. Hiện nay chúng ta có các vườn quốc
gia phục vụ phát triển du lịch như: Cúc Phương (Ninh Bình), Ba Vì (Hà
Tây), Cát Bà (Hải Phòng), Ba Bể (Bắc Kạn), Bạch Mã (Huế), Yok Đôn
(Đắc Lắc), Nam Cát Tiên (Đồng Nai), Côn đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu), hệ sinh
thái đầm Dơi (Cà Mau), khu bảo tồn Tràm Chim (Đồng Tháp).
2.2.1.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
Tiềm năng du lịch nhân văn là đối tượng và hiện tượng văn hóa lịch
sử do con người sáng tạo ra trong đời sống. So với tiềm năng du lịch tự
nhiên, tiềm năng du lịch nhân văn có tác dụng nhận thức nhiều hơn, giá trị
giải trí là thứ yếu. Tiềm năng du lịch nhân văn thường tập trung ở các thành
phố lớn, là đầu mối giao thông và là nơi tập trung cơ sở vật chất phục vụ du
lịch. đại bộ phận tài nguyên du lịch nhân dân không có tính mùa, không bị
phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên tần suất hoạt động của nó là rất lớn
(lượng khách, số ngày khách đến) [4].
Ngày nay, việc phát huy các thế mạnh về tiền năng du lịch nhân văn
để phát triển du lịch được Nhà nước quan tâm, ngay điều 1 pháp lệnh du
lịch Việt Nam chỉ rõ: “Nhà nước Việt Nam xác định du lịch là một ngành
kinh tế tổng hợp, quan trọng, mang nội dung văn hoá sấu sắc…” . Việc phát
triển du lịch nhân văn (Du lịch văn hoá) là cách để giáo dục lòng yêu nước,
nhận thức trách nhiệm bảo vệ tài sản công của quốc gia, quảng bá về hình

39
ảnh của đất nước ra thế giới.
Di tích lịch sử văn hoá: Di tích lịch sử văn hóa là tài sản văn hoá
quý giá của mỗi địa phương, mỗi đất nước và của cả nhân loại. Di tích được
hiểu theo nghĩa chung nhất là những tàn tích, dấu vết còn sót lại của quá
khứ, là tài sản của các thế hệ trước để lại cho các thế hệ kế tiếp. Ở Việt Nam,
theo pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng
cảnh công bố ngày 04/04/1984 thì di tích lịch sử văn hoá được quy định như
sau:
“Di tích lịch sử văn hoá là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ
vật, tài liệu và các tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật, cũng
như có giá trị văn hoá khác, hoặc liên quan đến sự kiện lịch sử, quá trính
phát triển văn hoá xã hội”.
Các bảo tàng: Bảo tàng là nơi bảo tồn tài sản văn hoá dân tộc,
truyền thụ tri thức, chấn hưng tinh hoa truyền thống. Cùng với việc bảo vệ
các di tích lịch sử – văn hoá, việc xây dựng các bảo tàng luôn đặt trong quốc
sách về kinh tế, văn hoá, xã hội mỗi quốc gia. Mục 3, Luật Di sản văn hoá :
“Bảo tàng là nơi bào quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử tự nhiên và xã
hội nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục, tham quan”. Chính các bảo
tàng cũng là nơi thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước.
Tính đến năm 2019, cả nước có ta có hơn 120 bảo tàng và cơ quan
làm công tác bảo tàng. Chúng ta có thể kể ra một số bảo tàng tiêu biểu như:
Bảo tàng Hồ Chi Minh, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Quân đội,
Bảo tàng Văn hoá các dân tộc, Bảo tàng Hải dương học, Bảo tàng Nghệ
thuật điêu khắc Chăm, v.v… Trên thế giới có các bảo tàng nổi tiếng như bảo
tàng Hoàng gia (Anh), Bảo tàng Luvơrơ (Pháp), Bảo tàng Ecgiơmitát (Nga),
Bảo tàng Cố cung (Trung Quốc)… với khối lượng khổng lồ hiện vật lịch sử,
những tác phẩm nghệ thuật thể hiện sự sáng tạo, tài năng và trí tuệ bất tận
của con người lúc nào cũng đón tiếp với số lượng lớn khách du lịch.
Lễ hội: Bất cứ thời đại nào, bất cứ dân tộc nào, và bất cứ mùa nào
cũng có những ngày lễ hội. Lễ hội là hoạt động sinh hoạt văn hoá cộng đồng
diễn ra trên địa bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định nhằm
nhắc lại những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử hay một huyền thoại, đồng

40
thời là dịp để hiểu biết cách ứng xử văn hoá của con người với thiên nhiên,
thần thánh và con người với xã hội. Các lễ hội có sức hấp dẫn du khách
không kém gì các di tích lịch sử văn hoá. Lễ hội có hai phần: phần nghi lễ
và phần hội:

- Lễ là những nghi thức tiến hành theo những quy tắc, luật tục
nhất định mang ý nghĩa biểu trưng nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm về một
nhân vật hay một sự kiện lịch sử hay một huyền thoại với mục đích tôn vinh
và phản ánh ước nguyện mong muốn nhận được sự giúp đỡ từ đối tượng
thờ cúng.

- Hội là nơi tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí hiện đại mang
sắc thái dân gian phản ánh trình độ phát triển xã hội thời thời đó, phản ánh
đời sống kinh tế, trình độ dân trí và tâm tư tình cảm của người dân địa
phương.
Các yếu tố của lễ hội ảnh hưởng tới việc thu hút khách du lịch

- Yếu tố thời gian: Các lễ hội nhìn chung thường diễn ra vào mùa
xuân, thời điểm bắt đầu mỗi năm mới con người có thời gian rảnh rỗi nên họ
đi lễ ngoài cầu lộc, cầu may còn là cách để nạp một nguồn năng lượng mới
để “Chiến đấu với đời”.

- Quy mô lễ hội: Các lễ hội có quy mô lớn, nhỏ khác nhau điều này
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động du lịch và khả năng thu hút khách. Ở Việt
Nam, các lễ hội có quy mô lớn như: Giỗ Tổ Hùng Vương, Lễ hội Yên Tử,
Lễ hội chùa Hương thu hút một lượng khách rất lớn.

- Lễ hội thường được tổ chức tại những di tích lịch sử văn hoá.
điều đó cho phép khai thác tốt hơn cả di tích lẫn lễ hội vào mục đích du lịch.
Tiềm năng du lịch gắn với dân tộc học: Mỗi dân tộc có những điều
kiện sinh sống, những đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán, hoạt động sản
xuất mang những sắc thái riêng. Và con người khi đi du lịch chính là đi tìm
“những xúc cảm mới lạ” mà quê mình không có. Cảm xúc khác lạ đấy chính
là những tập tục là về cư trú, thói quen ăn uống sinh hoạt, kiến trúc cổ, trang
phục dân tộc, v.v… Việt Nam với 54 dân tộc anh em vẫn còn giữ riêng bản
sắc của mỗi vùng. Chẳng hạn như du khách tới Tây Nguyên, ngoài việc

41
thưởng ngoạn thắng cảnh văn hoá của Người Tây Nguyên còn có thể tham
quan, tìm hiểu đời sống của các dân tộc như Eđê, Mơnông, tham gia lễ hội
đâm Trâu, tham quan nhà Rông, uống rượu Cần, múa Cồng Chiêng cùng bà
con các dân tộc. Càng gần gũi với đồng bào miền cao này, người ta càng
cảm thấy ngạc nhiên và dạt dào tình cảm quý mến. Đời sống của đồng bào
giản đơn nhưng tâm tình khá sâu sắc của đồng bào và văn hoá truyền thống
phong phú, vừa thực tế, vừa mơ mộng….
Văn hóa ẩm thực: Người ta nói ăn uống là biểu hiện của văn hóa.
Mỗi quốc gia có một quan niệm khác nhau và vì vậy hình thành phong cách
ẩm thực riêng cho mình. Nguyễn Tuân đã từng nói: “Ẩm thực là một dòng
chảy không ngừng, không nghỉ như con sông nó đi qua bao tầng nấc, bờ bãi
của kinh nghiệm ăn và sống mới phát triển thành nghệ thuật. Chủ quan,
cảm tính là yếu tố không thể không tránh khỏi. Nhưng như mọi hiện diện
của đời sống, ẩm thực cũng là một ấn tượng, một thói quen, một ký ức hay
một kỷ niệm.”
Nếu như người nước ta chú trọng đến đồ ăn và cách chế biến thức ăn
thì đối với người Pháp, thức ăn chỉ là yếu tố tạo nên chất lượng vật chất, còn
chất lượng thực sự của bữa ăn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Một cách
trang trí bàn ăn độc đáo, một bức tranh trên tường phù hợp, bộ khăn trải bàn
mang từ miền đất xa xôi đi cùng với bộ đồ ăn lạ mắt, … tất cả đều mang
theo mình một câu chuyện, ẩn chứa một sự tò mò thú vị cho khách. Với
người Pháp, việc mời một người khách tới là “chịu trách nhiệm về hạnh
phúc của họ trong một thời gian dưới mái nhà của mình”. Một bữa ăn
truyền thống của người Pháp được sắp đặt như một bản giao hưởng hay vở
kịch có 5 màn gồm: món nguội nhấm nháp, món nhẹ đầu bữa, món chính
thường là thịt và cá, tiếp đến là pho mát và sau cùng là món tráng miệng.
Ngày nay, việc đưa văn hóa ẩm thực vào các chương trình du lịch đã
trở nên phổ biến. đó là cách để lấy tiền của du khách một cách lịch sự nhất.
Việc xây dựng các chương trình du lịch ẩm thực thường được các công ty tổ
chức thành 2 loại: Chương trình du lịch chuyên biệt và chương trình du lịch
kết hợp.
Đến Việt Nam, du khách có thể thưởng thức các hương vị ẩm thực

42
khác nhau của mỗi vùng, mỗi miền. Du khách có thể thưởng thức món phở
với loại nước dùng bác học, chả cá Lã vọng (Hà Nội); thưởng thức cơm Vua
ở cố đô Huế; Bò tái cầu Mống ở Quảng Nam; Giang nam dã hạc (miền
Nam)… Tất cả đều tạo hướng đi mới cho ngành du lịch trong việc tạo ra
nhiều sản phẩm du lịch độc đáo phục vụ khách du lịch.
2.2.2. Nhân lực du lịch
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra
của cải vật chất và các giá trị tinh thần cho bản thân con người và cho xã hội.
Lao động có năng suất, chất lượng, hiểu quả cao là điều kiện quyết định cho
sự phát triển đất nước. Lao động trong du lịch (nguồn lực du lịch) bao gồm
những người trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra những sản phẩm du lịch phục vụ
nhu cầu của con người và nhu cầu phát triển xã hội.
Lao động trong kinh doanh du lịch là một bộ phận của lao động xã
hội. Hiện nay, lao động trong du lịch chiếm khoảng 10% tổng lao động trên
toàn thế giới.
Với những đặc thù của sản phẩm du lịch, lao động trong du lịch cũng
có những đặc điểm riêng nhằm thích ứng với việc tạo ra sản phẩm cũng như
đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
Nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con
người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng,
Fischer & Dornhusch, 1995). Nguồn nhân lực, theo GS. Phạm Minh Hạc
(2001), là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa
phương sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó. Khi nói đến
nguồn nhân lực, người ta bàn đến trình độ, cơ cấu, sự đáp ứng với yêu cầu
của thị trường lao động. Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh trong trình độ
kiến thức, kỹ năng và thái độ của người lao động.
Sự phân loại nguồn nhân lực theo ngành nghề, lĩnh vực hoạt động
(công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) đang rất phổ biến ở nước ta hiện nay,
nhưng khi chuyển sang nền kinh tế tri thức phân loại lao động theo tiếp cận
công việc nghề nghiệp của người lao động sẽ phù hợp hơn. Lực lượng lao
động được chia ra lao động thông tin và lao động phi thông tin. Lao động
thông tin lại được chia ra 2 loại: lao động tri thức và lao động dữ liệu. Lao
động dữ liệu (thư ký, kỹ thuật viên...) làm việc chủ yếu với thông tin đã

43
được mã hoá, trong khi đó lao động tri thức phải đương đầu với việc sản
sinh ra ý tưởng hay chuẩn bị cho việc mã hoá thông tin. Lao động quản lý
nằm giữa hai loại hình này. Lao động phi thông tin được chia ra lao động
sản xuất hàng hoá và lao động cung cấp dịch vụ. Lao động phi thông tin dễ
dàng được mã hoá và thay thế bằng kỹ thuật, công nghệ. Như vậy, có thể
phân loại lực lượng lao động ra 5 loại: lao động tri thức, lao động quản lý,
lao động dữ liệu, lao động cung cấp dịch vụ và lao động sản xuất hàng hoá.
Mỗi loại lao động này có những đóng góp khác nhau vào việc tạo ra sản
phẩm. Nồng độ tri thức, trí tuệ cao hay thấp trong sản phẩm lao động phụ
thuộc chủ yếu vào đóng góp của lực lượng lao động trí thức, quản lý và
phần nào của lao động dữ liệu ở nước ta, tỷ lệ lao động phi thông tin còn rất
cao trong cơ cấu lực lượng lao động, do đó hàng hoá có tỷ lệ trí tuệ thấp.
Muốn tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, cần tăng nhanh tỷ lệ
trí tuệ trong hàng hoá trong thời gian tới.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin “nguồn gốc quan trọng nhất” quyết
định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động. Theo Các Mác: Lao động
là một quá trình diễn biến tự nhiên giữa người và tự nhiên, một quá trình
trong đó bản thân con người đóng góp vai trò môi giới, điều tiết và giám sát
trong sự trao đổi vật chất giữa con người với tự nhiên. Lao động là điều kiện
đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao động cung cấp cho con người
những phương tiện cần thiết để sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả bản
thân con người. Thông qua lao động cải tạo thế giới khách quan, tìm hiểu
được quy luật vận động của thế giới khách quan, hình thành dần dần những
tri thức về tự nhiên và xã hội. Lao động gồm hai loại: Lao động chân tay và
lao động trí óc.
Tóm lại: Lao động du lịch là bao gồm những người trực tiếp hoặc
gián tiếp tạo ra những sản phẩm du lịch phục vụ nhu cầu của con người và
nhu cầu phát triển xã hội.
2.2.3. Đặc điểm lao động trong ngành du lịch
2.2.3.1. Chủ yếu là lao động dịch vụ
Trong phạm vi ngành du lịch, ngoài yếu tố con người, chúng ta có
thể hiểu đối tượng lao động du lịch là hệ thống tài nguyên (tự nhiên và nhân

44
văn) và cơ sở vật chất kỹ thuật mang ý nghĩa kép, nó vừa là đối tượng lao
động du lịch, vừa cùng với hệ thống cơ sở hạ tầng tạo nên tư liệu lao động
để khai thác đối tượng lao động du lịch tài nguyên (tự nhiên và nhân văn).
Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm du lịch chủ yếu là dịch vụ cho
nên lao động trong du lịch phần lớn là lao động trong các lĩnh vực dịch vụ
như: nhân viên lễ tân, phục vụ buồng, phục vụ bàn,... Lao động trong du lịch
vẫn có lao động sản xuất vật chất nhưng thành phần không nhiều mà cơ bản
chủ yếu là lao động sản xuất dịch vụ hay còn gọi là lao động sản xuất phi
vật chất.
Trong quá trình phục vụ du lịch, người lao động phải tiêu hao sức
lao động để tạo ra dịch vụ đồng thời tạo ra điều kiện để thực hiện chúng. Từ
đó họ sẽ đáp ứng được những nhu cầu của khách du lịch. Đặc điểm này
chính là nguyên nhân giải thích cho việc ngành du lịch có tỷ lệ lao động lớn
hơn so với các ngành khác. Trong hội nghị Bộ trưởng du lịch G20 tổ chức
ngày 16/05/2012 tại Mexico đã tổng kết “Lao động trong du lịch chiếm 8%
lao động toàn cầu. Cứ mỗi một việc làm trong ngành du lịch ước tính tạo ra
2 việc làm cho các ngành khác. Ngành du lịch cũng sử dụng lao động nhiều
vượt trội so với ngành công nghiệp khác, gấp 6 lần ngành sản xuất ô tô, gấp
4 lần ngành khai khoáng, và gấp 3 lần ngành tài chính”
Các nhà quản lý lao động và người lao động trong lĩnh vực du lịch
cần nhận rõ đặc điểm này nhằm có những cách thức quản lý lao động cũng
như thái độ đúng đắn trong việc quan tâm đến lợi ích dịch vụ tạo ra từ nhân
viên để thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Tất nhiên, trong công tác quản lý lao
động cũng gặp những trở ngại trong việc kiểm soát chất lượng lao động, khó
tiêu chuẩn hóa công việc và khó tiến hành đánh giá lao động. Trong công
tác quản lý, động viên lao động đòi hỏi có những biện pháp thích hợp nhằm
giúp đội ngũ tạo ra được dịch vụ có chất lượng tốt.
Lao động trong du lịch bao gồm lao động sản xuất vật chất và lao
động sản xuất phi vật chất, trong đó lao động sản xuất phi vật chất chiếm tỷ
trọng lớn.
2.2.3.2. Lao động trong du lịch có tính chuyên môn hóa cao.
Tính chuyên môn hóa trong kinh doanh dịch vụ du lịch được thể
hiện rất rõ. Hoạt động kinh doanh du lịch được phân chia du lịch thành các
lĩnh vực khác nhau (lưu trú, ăn uống, vận chuyển, lữ hành, tham quan giải
45
trí), trong mỗi lĩnh vực lại có những bộ phận tác nghiệp khác nhau, các khâu
khác nhau. Mỗi lao động đảm nhiệm công việc ở từng vị trí trong từng lĩnh
vực phải thực hiện công việc theo những qui trình, kỹ năng chuyên môn
khác nhau. Để thực hiện được công việc đòi hỏi nhân viên phải nắm kiến
thức chuyên môn, có kỹ năng nghiệp vụ và đồng thời đảm bảo tố chất trong
những vị trí công việc nhất định.
Tính chuyên môn hóa được thể hiện trong lĩnh vực kinh doanh
khách sạn, lao động được phân chia thành các bộ phận như lễ tân, phục vụ
buồng, bảo vệ,… mỗi một bộ phận lại có nhiều nhân viên phụ trách ở các
khâu khác nhau. Chuyên mô hóa ở đây không có nghĩa là mỗi nhân viên làm
việc độc lập hoàn toàn mà phải phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình
phục vụ cho du khách.
Tính chuyên môn hóa là vấn đề gây nên những trở ngại trong quản
lý, sử dụng lao động. Đây cũng là nguyên nhân làm cho một số hoạt động
du lịch trở nên độc lập như: hướng dẫn viên, đón tiếp tại khách sạn, tuyên
truyền quảng cáo, bán hàng. Điều đáng nói là các hoạt động độc lập này góp
phần vào việc đảm bảo chất lượng toàn diện dịch vụ cho khách vì một nhân
viên không thể tiến hành đồng thời tất cả các hoạt động này. Tính chuyên
môn hóa còn gây khó khăn cho việc thay thế lao động trong những trường
hợp đột xuất như nghỉ ốm, nghỉ phép,... gây ảnh hưởng đến quá trình phục
vụ du lịch.
Trong quản lý và sử dụng lao động cần thường xuyên tổ chức đào
tạo, huấn luyện tay nghề cho nhân viên để đảm bảo công việc được thực
hiện theo đúng chuyên môn. Tăng cường các hoạt động kiểm tra, kiểm soát
nhằm thúc đẩy nhân viên thực hiện đúng qui trình nghiệp vụ đem lại chất
lượng dịch vụ tốt cho khách hàng. Bên cạnh đó doanh nghiệp cần xây dựng
văn hóa làm việc tốt nhằm giúp nhân viên gắn kết, hợp tác với nhau trong
công việc. Người lao động cần ý thức rằng bản thân họ chính là một phần
trong chất lượng dịch vụ chung của doanh nghiệp.
Trong một số trường hợp đơn vị muốn sử dụng thêm những nguồn
lao động thời vụ nhằm đáp ứng nhu cầu công việc vào mùa chính bằng cách
ký hợp đồng ngắn hạn thì nên chọn những hoạt động ít yêu cầu tính chuyên
môn hóa như: các công việc quét dọn, lau chùi vệ sinh, phục vụ các bể bơi,
khu vui chơi giải trí.

46
2.2.3.3. Có tính thời điểm, thời vụ
Lao động trong du lịch thường làm việc với thời gian và cường độ
không ổn định, chủ yếu phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng của khách.
Người lao động phải làm việc từ sáng sớm đến tận khuya, đặc biệt là các
ngày lễ, cuối tuần thì cường độ lao động càng lớn hơn. Một số công việc
phải thực hiện 24/24 giờ nên phải chia ca. Một số loại hình chỉ khai thác
khách trong một khoảng thời gian nhất định cho nên lao động có thể chỉ làm
vài tháng trong năm còn thời gian còn lại có thể nghỉ hoặc làm việc khác.
Đặc điểm này gây khó khăn rất lớn cho đời sống, sinh hoạt, sức khỏe của
người lao động, đặc biệt là những người đã lập gia đình.
Đối với công tác quản lý, tổ chức lao động cũng gặp không ít khó
khăn. Người lao động có thể thường xuyên chuyển công tác và làm ảnh
hưởng đến sự ổn định của nguồn lao động. Bên cạnh đó, việc tạo ra sự công
bằng trong định mức lao động là rất khó khăn. Việc giải quyết những chế độ
chính sách cho người lao động cũng cần những qui định riêng và tổ chức lao
động hợp lý theo các thời điểm trong năm cũng hết sức khó khăn.
Trong quản lý và tổ chức lao động các doanh nghiệp cần hợp tác với
nhau để tận dụng nguồn lao động vào những mùa cao điểm, khai thác thêm
các nguồn lao động thời vụ nhưng đảm bảo chất lượng một cách tương đối.
Các qui định về chế độ đãi ngộ và tiền lương cũng cần được xem xét kỹ để
đảm bảo lợi ích công bằng cho người lao động. Các hoạt động bồi dưỡng,
nâng cao trình cho nhân viên thường được tổ chức vào khoảng thời gian
vắng khách.
2.2.3.4. Có tính chất phức tạp
So với các ngành khác, lao động trong du lịch tuy có cường độ làm
việc thấp hơn nhưng lại có tính phức tạp hơn, đòi hỏi cả về thể lực, trí lực,
kỹ năng,.... Đặc điểm này thể hiện rõ đối với những nhân viên làm việc ở
các bộ phận tiếp xúc trực tiếp với khách hàng như: lễ tân, buồng, bàn, bar,...
Họ thường xuyên tiếp xúc với nhiều đối tượng khách có độ tuổi, tâm lý, văn
hóa khác nhau. Đặc biệt đối với hướng dẫn viên du lịch, họ phải thường
xuyên thay đổi môi trường làm việc theo những chương trình tham quan
khác nhau đồng thời có thể tiếp xúc với môi trường nguy hiểm như môi
trường có bệnh truyền nhiễm. Điều này gây khó khăn cho người lao động, họ
cần phải có sức khỏe tốt cũng như chịu đựng được áp lực tâm lý.

47
Trong công tác quản lý lao động cần chú ý chọn đúng người đúng
việc, thường xuyên động viên người lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho
họ hoàn thành tốt công việc của mình.
2.2.3.5. Tỷ lệ lao động trẻ cao
Phần lớn lao động trong du lịch là lao động trực tiếp tiếp xúc với
khách mà những vị trí đó thường cần lao động trẻ, năng động, nhiệt tình.
Cho nên lao động trong du lịch tương đối trẻ, lao động nữ thường ở độ tuổi
20-30, lao động nam trung bình từ 30-40. Lao động trẻ thường làm việc ở
các vị trí lễ tân, phục bàn, bar, hướng dẫn viên. Lao động lớn tuổi chủ yếu ở
bộ phận bếp, buồng, quét dọn. Lao động nữ thường chiếm tỷ lệ cao hơn lao
động nam. Ngày nay, tỷ trọng này có xu hướng thay đổi theo hướng tăng lên
của lao động nam.
Trên đây là những đặc điểm quan trọng của lao động trong du lịch.
Đội ngũ lao động và những người quản lý lao động cần nhận thức sâu sắc
các đặc điểm trên nhằm chuẩn bị chuyên môn, sức khỏe, tâm lý đáp ứng yêu
cầu công việc. Từ đó giúp cho doanh nghiệp tạo ra được dịch vụ du lịch có
chất lượng cho khách. Đồng thời, trong công tác quản lý cần có những
phương thức phù hợp để sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực của doanh
nghiệp.
2.2.4. Yêu cầu lao động trong du lịch
2.2.4.1. Yêu cầu đạo đức nghề nghiệp
Nghề du lịch là nghề hấp dẫn mọi người, được hưởng thụ những lợi
ích kinh tế đăc biệt. Tuy vậy, lao động du lịch là lao động tương đối “nặng”,
đặc biệt là nghề HDV. Trên đường hành trình, người HDV phải đối mặt với
nhiều căng thẳng, phải có trách nhiệm với cuộc sống nhiều người hay nói
một cách hình ảnh là nghề “làm dâu trăm họ”. Do tính chất phức tạp của
công việc và sự chịu đựng căng thẳng về tâm lý nên khả năng chán việc rất
cao. Điều này đòi hỏi lao động trong ngành du lịch phải có lòng yêu nghề,
sự trung thực và tính kiên nhẫn.
2.2.4.2. Trình độ chuyên môn
Có nghiệp vụ, có kiến thức chuyên môn thành thạo và các kiến thức
về văn hóa xã hội, kinh tế. Phải có kiến thức về giao tiếp ứng xử quốc tế,

48
nắm vững tâm lí khách du lịch các nước để có cách phục vụ thích hợp. đối
với HDV thì trình độ chuyên môn chính là yếu tố hàng đầu quyết định sự
thành công trong công việc. Có như vậy mới tạo được bản lĩnh nghề nghiệp
khi đứng trước khách du lịch, sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi của khách đưa ra
cũng như mọi tình huống có thể xảy ra trong cuộc hành trình.
2.2.4.3. Trình độ ngoại ngữ
Là một trong những kiến thức cơ bản của lao động du lịch. Nếu thiếu
ngoại ngữ thì không thể giao tiếp được với khách du lịch ngoài nước và khó
lòng mà hiểu biết được nhu cầu, sở thích của họ. Và khách rất vui mừng khi
chúng ta nói chuyện, giao tiếp với họ bằng ngôn ngữ của chính nước họ, họ
có cảm giác một không khí thân thiện như ở chính ngôi nhà của mình. Nước
ta đang trong trong quá trình hội nhập, là một trong những nước có tài
nguyên phong phú để phát triển du lịch và là điểm đến an toàn đối với khách
du lịch. Việc đẩy mạnh phát triển du lịch quốc tế vừa quảng bá hình ảnh đất
nước, vừa đem lại nhiều lợi ích kinh tế nên yêu cầu đặt ra là phải đào tạo,
hoàn thiện chuyên môn của đội ngũ lao động du lịch, trong đó phải kể tới
vấn đề ngoại ngữ. Có như vậy chúng ta mới có thể chủ động đón và phục vụ
khách.
2.2.4.4. Một số yêu cầu khác
Ngoài các yêu cầu trên, lao động trong du lịch cần đảm bảo một số
yêu cầu khác như yêu cầu về ngoại hình, sức khỏe, khả năng giao tiếp, hiểu
biết tâm lý, hiểu về về một vấn đề xã hội, âm nhạc, hội họa, nghệ thuật, thể
thao,... Tuy nhiên, mỗi lao động trong các vị trí chuyên môn khác nhau thì
mức độ đòi hỏi của các yêu cầu cũng khác nhau. Ví dụ là hướng dẫn viên du
lịch cần đảm bảo có sức khỏe tốt, năng động, nhiệt tình, ngoài hình ưa nhìn,
có khả năng giao tiếp tốt; có kiến thức chung về các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa xã hội, am hiểu về tài nguyên du lịch tại các điểm đến; có đạo đức nghề
nghiệp, nhạy bén trong việc xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình
phục vụ; được đào tạo về nghiệp vụ hướng dẫn du lịch,...
Mỗi một lao động đảm bảo được các yêu cầu theo tiêu chuẩn nghề
không chỉ tạo ra dịch vụ có chất lượng tốt mà còn góp phần làm tăng uy tín
của doanh nghiệp, làm đẹp hình ảnh cho con người của một đất nước.
Tóm lại, để đáp ứng được các yêu cầu trên, lao động du lịch sẽ làm
49
tốt được 3 nhiệm vụ cơ bản sau: Thỏa mãn tối đa nhu cầu chính đáng du
khách; Mang lại hiệu quả kinh tế một cách tối ưu; Góp phần bảo vệ được
môi trường tự nhiên cũng như xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
2.2.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch
2.2.5.1. Khái niệm
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hóa sâu sắc,
có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Do vậy, hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật du lịch không chỉ bao gồm các yếu tố riêng của ngành mà còn
bao gồm các yếu tố của các ngành khác có liên quan cũng như của xã hội
được huy động vào hoạt động nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ du lịch đa
dạng, đồng bộ thỏa mãn nhu cầu của con người. Với đặc điểm này, cơ sở vật
chất kỹ thuật du lich cần được tiếp cận trên 2 khía cạnh: theo nghĩa rộng và
theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch được hiểu là
toàn bộ những phương tiện vật chất tham gia vào việc tạo ra và cung ứng
các dịch vụ và hàng hóa du lịch (sản phẩm du lịch) nhằm đáp ứng mọi nhu
cầu của du khách trong suốt chuyến hành trình của họ. Theo cách hiểu này,
cơ sở vật chất kỹ thuật do bản thân ngành du lịch cung cấp và cơ sở vật chất
kỹ thuật do các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân tham gia vào khai
thác tiềm năng du lịch như: hệ thống giao thông, điện nước, thông tin,…
Những thành phần này được gọi chung là hạ tầng xã hội. Chúng có vai trò
như điều kiện chung cho sự phát triển du lịch. Điều đó cho thấy mối liên hệ
mật thiết giữa ngành du lịch và các ngành khác trong việc sử dụng cơ sở vật
chất kỹ thuật phục vụ du lịch.
Theo nghĩa hẹp, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ
các phương tiện vật chất kỹ thuật do các tổ chức du lịch tạo ra để khai tác
tiềm năng du lịch, tạo ra các sản phẩm, cung cấp và làm thỏa mãn nhu cầu
của khách du lịch. Chúng bao gồm hệ thống các khách sạn, nhà hàng, các
khu vui chơi chơi – giải trí, phương tiện vận chuyển,… và đặc biệt nó bao
gồm các công trình kiến trúc bổ trợ [2]. Đây là những yếu tố đặc trưng trong
hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch. Nếu thiếu những yếu tố
này thì nhu cầu của khách du lịch không được thỏa mãn. Do vậy, đây chính
là điều kiện đặc trưng cho việc tạo ra và cung ứng các sản phẩm dịch vụ du
lịch cho khách.

50
Việc nghiên cứu khái niệm cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch theo nghĩa
rộng và nghĩa hẹp có ý nghĩa rất quan trọng, cho phép xác định cơ cấu cơ sở
vật chất kỹ thuật và vai trò của từng yếu tố trong việc tạo ra và cung ứng
dịch vụ cho khách. Tuy nhiên, việc phân chia này cũng mang tính chất
tương đối vì thực tế rất khó tách bạch giữa cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc hạ
tầng xã hội hay do doanh nghiệp du lịch cung cấp trong các khu du lịch,
điểm du lịch.
Nội dung
Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể thấy rằng nội dung cơ sở vật
chất kỹ thuật du lịch bao gồm các thành phần như sau:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch bao gồm: Hệ thống các
khách sạn, nhà hàng, phương tiện giao thông và có thể là các rạp chiếu phim,
công viên nếu do ngành du lịch đầu tư xây dựng.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội tham gia phục vụ du lịch bao
gồm: Cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc các ngành khác nhau có tham gia phục
vụ du lịch như hệ thống giao thông vận tải, mạng lưới thông tin liên lạc, hệ
thống lưới điện, nước và các cơ sở phục vụ khác.
Cơ sơ vật chất trong du lịch bao gồm nhà cửa, trang thiết bị, máy văn
phòng, thiết bị liên lạc, phương tiện vận chuyển, hệ thống đặt giữ chỗ,...
2.2.5.2. Đặc điểm
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được qui định bởi nội dung của hoạt
động du lịch và nhu cầu của khách du lịch, nó được biểu hiện ở những đặc
điểm quan trọng sau đây:
Phụ thuộc lớn vào tài nguyên du lịch
Tài nguyên nói chung, tài nguyên du lịch tự nhiên nói riêng, bao
gồm cảnh quan thiên nhiên, các yếu tố địa chất, địa mạo, khí hậu, thủy văn,
hệ sinh thái và các yếu tố tự nhiên khác có thể được sử dụng cho mục đích
du lịch [1].
Tài nguyên du lịch là điều kiện quan trọng để phát triển du lịch đồng
thời đây cũng chính là yếu tố tạo động cơ cho sự viếng thăm của du khách.
Nhưng nếu một nơi có giá trị tài nguyên hấp dẫn mà cơ sở vật chất kỹ thuật
không đảm bảo thì không thể phục vụ khách du lịch và khách du lịch cũng
không đến đó. Mối quan hệ giữa tài nguyên du lịch và cơ sở vật chất kỹ

51
thuật vừa mang tính thống nhất nhưng cũng vừa mâu thuẫn.
Mối quan hệ thống nhất: được thể hiện ở chỗ nơi nào muốn khai thác
tài nguyên du lịch phục vụ du lịch thì không thể thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật.
Ngược lại, chúng ta không thể đầu từ cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở
những nơi không có tài nguyên du lịch.
Trong quan hệ này, tài nguyên du lịch có tính chất quyết định đến sự
tồn tại của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Khả năng tiếp nhận của tài
nguyên du lịch (sức chứa, địa hình,…) quyết định đến công suất qui mô,
công suất sử dụng các công trình phục vụ du lịch. Sức hấp dẫn của tài
nguyên du lịch ảnh hưởng đến thứ hạng của những công trình này. Vị trí của
tài nguyên du lịch là cơ sở để bố trí hợp lý cơ sở vật chất kỹ thuật của các
vùng lãnh thổ trên đất nước. Sự kết hợp hài hòa giữa cơ sở vật chất kỹ thuật
và tài nguyên du lịch giúp cho cơ sở phục vụ du lịch hoạt động hiệu quả,
kéo dài thời gian sử dụng của chúng trong năm.
Ngược lại, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cũng tác động tích cực đến
tài nguyên du lịch. Khi cơ sở vật chất kỹ thuật được đầu tư xây dựng phù
hợp với tài nguyên du lịch thì chắc chắn nó sẽ góp phần làm tăng thêm giá
trị tài nguyên, làm đẹp hơn cho thắng cảnh. Không những vậy, cơ sở vật
chất kỹ thuật một khi được thiết kế, xây dựng độc đáo, hấp dẫn khách du
lịch cũng trở thành tài nguyên du lịch.
Việt Nam có nhiều khu du lịch có sự đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật
hợp lý, khai thác tốt tài nguyên du lịch để phục vụ du khách như: Vinpeal
Land Nha Trang, khu du lịch Bà Nà Đà Nẵng, khu du lịch Mũi Né Phan
Thiết,… Khách du lịch đến đây không chỉ hấp dẫn vì tài nguyên du lịch mà
còn bởi yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
Mối quan hệ mâu thuẫn: thể hiện những tác động tiêu cực của cơ sở
vật chất đến tài nguyên du lịch. Vấn đề này có thể tồn tại do đầu tư xây
dựng không phù hợp, các vẫn đề nảy sinh từ dự án như: hình thành ý tưởng,
giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng cũng như quá trình vận hành các công
trình xây dựng. Những tác động tiêu cực này kéo theo những hậu quả làm
giảm sút giá trị tài nguyên, tốn chi phí cho việc khắc phục. Đặc biệt trong
điều kiện kinh doanh hiện nay mối quan hệ này được xem xét một cách
nghiêm túc vì nó có thể ảnh hưởng đến môi trường, phá hủy sự đa dạng sinh
học của các khu bảo tồn.

52
Có tính đồng bộ trong xây dựng và sử dụng
Do nhu cầu của khách khi đi du lịch mang tính đồng bộ đòi hỏi khi
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần đảm bảo thỏa mãn nhu cầu. Trong quá
trình đi du lịch, khách du lịch không chỉ có nhu cầu thiết yếu mà còn có
những nhu cầu đặc trưng và nhu cầu bổ sung. Chính vì vậy, trong xây dựng
và sử dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phải thỏa mãn đồng thời các nhu cầu này.
Tính đồng bộ của cơ sở vật chất kỹ thuật được thể hiện trên ba khía
cạnh sau:
- Thứ nhất, sự đầy đủ của các thành phần theo qui định của một hệ
thống. Một khu du lịch cần có đầy đủ các thành phần như từ bãi đậu xe, dịch
vụ ăn uống, lưu trú, giải trí, và các dịch vụ khác. Một khách sạn khi đầu tư
xây dựng và phục vụ du khách ngoài các yếu tố tiện nghi của buồng ngủ còn
phải có các khu vực phục vụ nhu cầu khác của khách trong thời gian lưu trú
như ăn uống, thể thao, giải trí (massage, spa, tắm hơi,..). Những hạng mục
công trình này phải được tiến hành xây dựng và sử dụng đồng thời. Trong
du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật của một đơn vị cần hạn chế đầu tư xây dựng
nhiều lần, nhiều giai đoạn. Vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến khả năng sẵn sàng
đón tiếp và phục vụ du khách.
- Thứ hai, sự hài hòa cân đối giữa các khu vực trong một tổng thể
theo một yếu tố trung tâm. Ví dụ, một nhà hàng kinh doanh dịch vụ ăn uống
là chủ yếu. Cần có sự hài hòa về qui mô giữa khu vực khách ăn uống với
các khu vực đón tiếp, bếp hay các công trình phụ trợ khác. Bên cạnh đó, cần
tính đến sự hài hòa trong cơ cấu, cách bố trí cơ sở vật chất kỹ thuật trong
các khu vực.
- Thứ ba, sự đồng bộ về mặt kỹ thuật thiết kế và xây dựng. Điều này
thể hiện trong cách thiết kế diện tích các vị trí cụ thể (như hành lang, cầu
thang,..) so với bố cục tổng thể. Khi thiết kế và xây dựng cần gắn với những
tiêu chuẩn tối thiểu về không gian.
Chính vì đặc điểm này, khi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
du lịch cần chú ý đến thiết kế tổng thể nhằm tạo ra được sự đồng bộ, hài hòa,
cân đối cả về lượng và chất. Tuy nhiên cần phải tính đến thực tế nhu cầu sử
dụng các dịch vụ nhằm đảm bảo kinh doanh có hiệu quả trong mỗi dịch vụ
cũng như tổng thể.

53
Chi phí cho cơ sở vật chất kỹ thuật chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí
kinh doanh
Hầu hết các lĩnh vực kinh doanh trong du lịch như khách sạn, nhà
hàng, giải trí cần một lượng vốn đầu tư lớn vào cơ sở vật chất kỹ thuật như
xây dựng nhà cửa, mua sắm các trang thiết bị, dụng vụ,…
Theo thống kê của Tổ chức du lịch thế giới thì việc đầu tư cho lĩnh
vực kinh doanh khách sạn có vốn tương đối cao.
Ví dụ, một phòng khách sạn 3 sao có chi phí đầu tư khoảng 60.000
đến 90.000 USD; khách sạn 4 sao khoảng từ 90.000 đến 120.000 USD;
khách sạn 5 sao khoảng từ 120.000 đến 150.000 USD.
Nguyên nhân của việc đầu tư chi phí lớn là:
- Nhu cầu du lịch lịch mang tính tổng hợp, đặc trưng (như hưởng thụ,
cảm nhận cái đẹp). Khi đi du lịch người ta thường đòi hỏi dịch vụ cao cấp
hơn, tiện nghi hơn, thoải mái hơn. Một trong những yếu tố đáp ứng những
đòi hỏi này chính là cơ sở vật chất kỹ thuật. Các đơn vị kinh doanh cần một
lượng chi phí lớn để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ, có chất
lượng cao, sang trọng.
- Khách du lịch cũng đòi hỏi cao về cảnh quan, môi trường. Do vậy
trong kinh doanh du lịch các nhà đầu tư còn phải tốn chi phí cho việc thiết
kế xây dựng khung cảnh bên ngoài như các lối đi, đài phun nước, các khuôn
viên,… Đây là các khoản chi phí không nhỏ.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật cần duy tu, bảo dưỡng, thay mới để đảm
bảo sự sẵn sàng đón tiếp phục vụ khách. Đây cũng là phần chi phí phát sinh
cho cơ sở vật chất kỹ thuật trong quá trình kinh doanh.
Đặc điểm này làm giá thành sản phẩm dịch vụ cao doanh nghiệp
phải có một lượng vốn đủ lớn. Trong hoạt động kinh doanh du lịch cần chú
ý làm thế nào xây dựng chính sách giá đảm bảo chi trả các khoản đầu tư chi
phí lớn, khấu hao các loại tài sản có giá trị lớn. Nghiên cứu kỹ cầu thị
trường để chắc chắn đầu tư có hiệu quả.
Được sử dụng trong thời gian tương đối dài
Thành phần chính của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là các công
trình kiên cố như tòa nhà khách sạn, nhà hàng, các công trình kiến trúc khác.
Các công trình này thường có thời gian sử dụng dài, có thể 10 năm đến 50
năm hoặc có thậm chí lâu hơn.
54
Trong kinh doanh du lịch cần lưu ý đến việc tính toán giá trị khấu
hao của chúng trong từng dịch vụ cụ thể và theo thời gian. Bên cạnh đó, khi
đầu tư thiết kế, xây dựng cần tính đến việc sử dụng trong thời gian dài.
Tránh đến việc đầu tư nâng cấp, cải tạo thường xuyên vì những công việc
này cũng tốn chi phí lớn, ảnh hưởng đến tính đồng bộ và mất ổn định trong
kinh doanh.
Được sử dụng theo thời vụ
Hoạt động du lịch chịu ảnh hưởng rất lớn của tính thời vụ, trong đó
cơ sở vật chất kỹ thuật cũng được sử dụng theo số thời điểm nhất định mà
không phải là toàn thời gian. Công suất sử dụng thay đổi theo thời gian. Với
loại hình du lịch biển cơ sở vật chất thường được sử dụng vào các tháng hè
có nắng nhiều, nhiệt độ cao. Du lịch cuối tuần thì được thực hiện chủ yếu
vào ngày cuối tuần, phục vụ ăn uống tại nhà hàng của khách sạn theo qui
luật sinh lý của con người. Ngoài ra, tính không cân đối còn phụ thuộc vào
những đối tượng khách khác nhau với những mục đich khác nhau. Khách
sạn phục vụ khách du lịch công vụ, dịch vụ lưu trú và thông tin được sử
dụng nhiều còn dịch vụ nhà hàng sử dụng ít hơn do khách có thể đi ăn ngoài
khách sạn theo chương trình chiêu đãi hoặc thuận tiện trong công việc.
Đặc điểm này cũng gây khó khăn cho việc quản lý và sử dụng cơ sở
vật chất kỹ thuật. Sự mất ổn trong công suất sử dụng theo thời gian có thể
ảnh hưởng đến chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, dễ bị hư hỏng vào
những thời điểm đông khách. Trong quản lý và sử dụng cơ sở vật kỹ thuật
du lịch cần chú ý đến việc bố trí thời gian bảo dưỡng, thay thế phù hợp để
đảm bảo khả năng sẵn sàng phục vụ và lựa chọn những trang thiết bị phù
hợp với điều kiện thời vụ.
Trên đây là những đặc điểm của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, nó
có mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố về tài nguyên, nhu cầu sử dụng, chi
phí đầu tư và thời vụ du lịch. Do vậy để đạt được hiệu quả trong kinh doanh
các nhà quản lý cần chú ý đến xây dựng, quản lý và sử dụng cơ sở vật chất
kỹ thuật, nghiên cứu chúng một cách toàn diện và phải đặt nó trong mối
quan hệ với môi trường tài nguyên.
2.2.5.3. Phân loại cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch
Trong phần khái niệm và nội dung cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đã
đề cập đến các thành phần của cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch. Tuy

55
nhiên để hiểu rõ hơn về cơ cấu của chúng, chúng ta có thể phân loại dựa vào
các tiêu thức sau:
Căn cứ theo hình thức sở hữu
Căn cứ vào tiêu thức này có thể phân chia cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch do:
- Nhà nước quản lý (Trung ương và địa phương): Bộ phận cơ sở vật
chất này mặc dù không trực tiếp tạo ra sản phẩm du lịch song nó lại rất quan
trọng vì nó có nhiệm vụ giúp các cơ quan quản lý du lịch có thể làm việc, đề
ra các chính sách và giải pháp để phát triển du lịch.
- Tư nhân quản lý: Đây là cơ sở vật chất kỹ thuật thường tham gia
trực tiếp vào quá trình tạo ra sản phẩm dịch vụ du lịch, ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng của dịch vụ du lịch. Đó là cơ sở vật chất của các doanh
nghiệp kinh doanh khách sạn, nhà hàng, lữ hành,...
- Các công ty liên doanh quản lý: Tương tự như cơ sở vật chất kỹ
thuật trên nhưng do công ty liên doanh quản lý;
- Công ty cổ phần quản lý;
- Công ty trách nhiệm hữu hạn quản lý;
- Công ty có vốn nước ngoài hoặc 100% vốn nước ngoài quản lý.
Căn cứ theo qui mô
Căn cứ vào qui mô, cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch được phân
chia thành các loại:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật qui mô lớn: có giá trị đầu tư trên 50 tỷ
đồng. Ví dụ như các khu Resort, các trung tâm vui chơi, giải trí (Đầm Sen,
Suối Tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh), các khu du lịch (Bà Nà - Đà Nẵng,
Vinpearland Nha Trang), ...
- Cơ sở vật chất kỹ thuật có qui mô vừa: có giá trị đầu tư khoản hơn
10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật qui mô nhỏ: có giá trị đầu tư khoản 10 tỷ
đồng trở xuống
Việc phân loại cơ sở vật chất kỹ thuật theo qui mô cũng chỉ mang
tính chất tương đối. Trên thực tế, qui mô cơ sở vật chất kỹ thuật được đánh
giá lớn hay nhỏ còn tùy thuộc vào từng lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, qui mô

56
cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành kinh doanh lưu trú phụ thuộc vào số
buồng, số giường, diện tích khuôn viên.
Căn cứ theo tính chất hoạt động
Theo tiêu thức này, cơ sở vật chất kỹ thuật được chia thành các
nhóm: cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động trung gian, các cơ sở lưu trú,
nhà hàng, các khu vực dịch vụ bổ sung và vui chơi giải trí, phục vụ giao
thông vận tải,...
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ các hoạt động trung gian: Bao
gồm hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật trong các đại lý, văn phòng đại diện,
các công ty lữ hành. Chúng đảm nhiệm chức năng cầu nối giữa khách du
lịch với các nhà cung cấp, điểm du lịch hoặc hổ trợ thiết kế, bán và thực
hiện các chương trình du lịch của công ty lữ hành. Hệ thống cơ sở vật chất
kỹ thuật này chủ yếu là các trang thiết bị văn phòng, phương tiện thông tin
liên lạc và kể cả phần mềm hệ thống máy vi tính hỗ trợ cho các hoạt động
tác nghiệp kinh doanh và quản lý.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ vận chuyển du lịch
Cơ sở vật chất kỹ thuật này do các nhà kinh doanh vận chuyển cung
cấp, chúng bao gồm các thành phần chính như: các phương tiện chuyên chở,
cơ sở vật chất phục các bộ phận quản lý, điều hành, bán vé và các hoạt động
tác nghiệp khác. Ngoài ra, thành phần không thể thiếu trong quá trình phục
vụ nhu cầu vận chuyển cho khách là hệ thống nhà ga, bến cảng, sân bay,…
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ lưu trú
Đây là thành phần đặc trưng nhất trong hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật du lịch. Chúng tồn tại ở nhiều loại hình lưu trú khác nhau như: khách
sạn, Motel, resort,... bao gồm các tòa nhà, các buồng ngủ, các trang thiết bị
tiện nghi bên trong cơ sở lưu trú. Ngoài ra, chúng cũng bao gồm cả những
công trình kiến trúc bổ trợ làm đẹp cảnh quan môi trường bên ngoài cơ sở
như hệ thống giao thông nội bộ, các khuôn viên. Cơ sở vật chất kỹ thuật
trong lĩnh vực lưu trú cũng rất đa dạng do có nhiều hình thức và qui mô
khác nhau.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ ăn uống
Đây cũng là thành phần rất quan trọng, nó có thể tồn tại một cách
độc lập hoặc trong các cơ sở lưu trú, bao gồm các yếu tố đảm bảo điều kiện

57
tiện nghi cho hoạt động ăn uống của khách. Với chức năng của kinh doanh
nhà hàng, cơ sở vật chất kỹ thuật trong lĩnh vực này bao gồm các thành
phần nổi bật như các dụng cụ, máy móc thiết bị khu chế biến thức ăn, bảo
quản cũng như phục vụ ăn uống cho khách (phòng ăn, quầy bar,...). Trên
thực tế cơ sở vật chất kỹ thuật trong kinh doanh ăn uống cũng rất đa dạng
xuất phát từ nhiều hình thức tổ chức của nhà hàng như nhà hàng ăn Âu, nhà
hành ăn Á, nhà hàng hải sản,... và quầy Bar cũng có nhiều hình thức đa dạng.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của dịch vụ bổ sung: Bao gồm các công
trình, trang thiết bị tạo điều kiện thuận lợi cho khách tiêu dùng các dịch vụ
bổ sung và sử dụng triệt để những giá trị tài nguyên. Bao gồm cơ sở vật
chất kỹ thuật phục vụ các dịch vụ giặt là, cắt tóc, bể bơi, bể sục,... Qui mô
cơ sở lưu trú ảnh hưởng quyết định đến qui mô hoạt động của các khu vực
này.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ vui chơi, giải trí.
Các dịch vụ này có thể tồn tại trong các cơ sở lưu trú nhưng cũng có
thể tồn tại độc lập. Cơ bản là các yếu tố tạo điều kiện cho khách du lịch vui
chơi, giải trí, rèn luyện sức khỏe nhằm tăng cường sự thích thú hơn trong
chuyến du lịch hay sau giờ làm việc căng thẳng. Cụ thể là các trung tâm thể
thao, sân tenis, công viên, khu vui chơi giải trí,...
2.2.6. Các sự kiện đặc biệt
Sự kiện đặc biệt của mỗi vùng, mỗi quốc gia là cách quảng bá rất
hữu hiệu đối với phát triển du lịch. Và chính nhờ những sự kiện đó mà thu
hút lượng khách du lịch lớn trong một thời gian ngắn. Không phải ngẫu
nhiên mà hiện nay trên thế giới, hàng loạt quốc gia đua nhau giành đăng cai
tổ chức Thế Vận hội Thể thao Mùa Hè, Mùa Đông, World Cup, Euro, Asia.
v.v… Bên cạnh được thừa hưởng nguồn cơ sở vật chất để lại là sự việc giới
thiệu đất nước của mình với bạn bè thế giới, doanh thu trong các ngành lưu
trú, ăn uống tăng mạnh và đem một nguồn lợi nhuận lớn cho quốc gia.
Chúng ta làm một phép tính đơn giản như thế này: Một kỳ World cup có 32
quốc gia tham dự, trung bình mỗi quốc gia có 10.000 CĐV (Du khách), mỗi
du khách trong thời gian lưu lại sẽ tiêu trung bình 250 USD/ người. Thì
doanh thu tổng cộng rất lớn. Đó là chưa kể những kỳ Thế vận hội mùa Hè
có hàng triệu du khách đến tham quan.

58
Ở Việt Nam, năm 2003 là một năm đáng nhớ với sự kiện Seagame.
Du khách đến tham quan không khỏi ngạc nhiên trước thái độ đón tiếp của
nước ta. Bên cạnh việc đạt thành tích cao, Seagame đã gián tiếp quảng bá
hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Ngày nay, hàng năm Tổng cục Du lịch phối
hợp với UBND, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố tổ
chức chương trình hành động Năm Du lịch (Năm 2003 là năm du lịch
Khánh Hoà, 2004 – Năm du lịch Điện Biên và 2005 là Năm du lịch Nghệ
An, …). Những sự kiện về thể thao và việc tổ chức năm du lịch đã thu hút
một lượng khách rất lớn cho ngành du lịch của địa phương, quốc gia đó
thêm phát triển và quan trọng hơn cả là thực hiện chính sách quảng bá cho
du lịch vùng, địa phương đó.
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập chương 2
1. Anh/chị cho biết các điều kiện chung ảnh hưởng tới sự phát triển du lịch?
2. Anh/chị cho biết các điều kiện riêng ảnh hưởng tới sự phát triển du lịch?
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Ngọc Chinh, Nguyễn Thanh Trường, (2019), Di tích và thắng
cảnh ở Việt Nam, Nxb Đà Nẵng.
2. Luật Du lịch năm 2017, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Trần Thị Mai (2006), Giáo trình Tổng quan du lịch, Nxb Lao động – Xã hội.
4. Nguyễn Đình Quang, Trần Thị Thúy Lan (2005), Giáo trình Tổng quan
du lịch, Nxb Hà Nội.
5. Võ Văn Thành (2015), Giáo trình Tổng quan du lịch, Nxb Văn hóa-
Văn nghệ, HCM.
6. Trang web: www.cinet.gov.vn
7. Trang web: www.vietnamtourism.com.vn
8. https://transoceanservice.com/dich-covid-19-va-su-anh-huong-voi-nganh-
du-lich-viet-nam
9. http://dangcongsan.vn/thoi-su/viet-nam-chinh-thuc-tro-thanh-uy-vien-
khong-thuong-truc-hdba-lhq-524871.html
10. http://consosukien.vn/nhin-lai-tac-dong-cua-dich-covid-19-doi-voi-
du-lich-viet-nam-va-xu-huong-phat-trien-nam-2021.htm
11. https://www.worldometers.info/coronavirus/

59
Chương 3
Các lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm dịch vụ
của ngành du lịch

3.1. Một số tổ chức du lịch quốc tế và Việt Nam


3.1.1. Một số tổ chức du lịch thế giới
3.1.1.1. Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) [8]
Tổ chức Du lịch thế giới (United Nations World Tourism
Organization, www.unwto.org) là một tổ chức được tín nhiệm rộng rãi nhất
về du lịch.

Hình 3.1. Logo Tổ chức Du lịch thế giới

Tiền thân của Tổ chức Du lịch thế giới là Liên minh quốc tế các tổ
chức quảng bá du lịch chính thức được thành lập vào năm 1934 tại Hague
(Hà Lan).
Năm 1947, nó được đổi tên thành Liên minh quốc tế các tổ chức du
lịch chính thức (International Union for Official Tourism Organizations)
viết tắt là IUOTO.
Ngày 27/9/1970, Hội nghị trù bị của IUOTO được tổ chức tại
Mexico đã thống nhất thành lập Tổ chức Du lịch thế giới (WTO) từ tổ chức
IUOTO. Tổ chức du lịch thế giới đã được chính thức thành lập ngày
02/01/1975. Hàng năm, ngày 27/9 trở thành ngày du lịch thế giới.
Tháng 5/1975, cuộc họp đầu tiên của Đại hội đồng Tổ chức Du lịch

60
thế giới được tổ chức tại Madrid theo lời mời của chính phủ Tây Ban Nha.
Cuộc họp đã bầu Tổng thư ký đầu tiên (Robert Lonati) và quyết định đặt trụ
sở tại Madrid.
Ngày 17/9/1981, tại Hội nghị Đại hội đồng của Tổ chức Du lịch thế
giới lần thứ tư được tổ chức tại Italia, Việt Nam đã được kết nạp là thành
viên chính thức của Tổ chức Du lịch thế giới.
Năm 2003, cuộc họp của Đại hội đồng phiên thứ 15 thông qua sự
chuyển đổi của Tổ chức Du lịch thế giới thành một cơ quan chuyên môn của
Liên hợp quốc theo Nghị quyết 453 (XV). Việc chuyển đổi được phê duyệt
tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc theo Nghị quyết A/RES/58/232. Và tên
viết tắt của Tổ chức Du lịch thế giới bây giờ là UNWTO.
Tổ chức Du lịch thế giới là cơ quan của Liên Hiệp Quốc chịu trách
nhiệm trong việc xúc tiến và phát triển du lịch bền vững.
Như các tổ chức quốc tế hàng đầu trong lĩnh vực du lịch, Tổ chức
Du lịch thế giới thông qua du lịch để kích thích phát triển kinh tế (phát triển
và bảo vệ môi trường bền vững), cung cấp lãnh đạo, hỗ trợ cho ngành về
nâng cao kiến thức và chính sách du lịch trên toàn thế giới.
Tổ chức Du lịch thế giới khuyến khích việc thực hiện mã vạch toàn
cầu và đạo đức trong du lịch, tối đa hóa đóng góp về mặt kinh tế xã hội và
giảm thiểu những tác động tiêu cực của ngành du lịch. Tổ chức Du lịch thế
giới cam kết phát triển du lịch như một công cụ để đạt được Mục tiêu Phát
triển Thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc (the United Nations Millennium
Development Goals - MDGs), tiến tới xóa đói giảm nghèo và thúc đẩy phát
triển bền vững.
Tổ chức Du lịch thế giới có 3 loại thành viên
(http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/ctc_quocte/un/nr040819155753/nr06
0928111253/ns070731083500): thành viên chính thức (158 thành viên),
thành viên liên kết (06 thành viên - Aruba, Macao, Madeire, Hồng Kông,
Frémish và quần đảo Antilles) và thành viên chi nhánh (500 thành viên -
những công ty du lịch, hãng du lịch). Thành viên chính thức gồm các đại
diện cho các quốc gia có chủ quyền. Thành viên liên kết là các đại biểu du
lịch của các lãnh thổ chưa được độc lập. Thành viên chi nhánh là các công
ty du lịch, hãng lữ hành...
Đại hội đồng là cơ quan tối cao của Tổ chức Du lịch thế giới, họp

61
hai năm một lần gồm những đại biểu là thành viên chính thức. Giúp việc
cho Đại hội đồng là các ban chuyên môn như Ban thư ký, Ủy ban chấp hành,
Ủy ban kế hoạch và tài chính, Ủy ban xúc tiến, Ủy ban môi trường, Ủy ban
giải quyết các trở ngại đối với du lịch, Ủy ban vận chuyển. Dưới Đại hội
đồng của Tổ chức Du lịch thế giới có 6 phân hội khu vực ở Châu Âu, Châu
Mỹ, Châu Phi, Trung Đông, Đông Á - Thái Bình Dương và Nam Á. Các
phân hội này có nhiệm vụ triển khai thực hiện các quyết định của Đại hội
đồng và Ủy ban chấp hành trong khu vực hoạt động của từng phân hội.
3.1.1.2. Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới (WTTC)
Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới (World Tourism and Travel
Council, www.wttc.org) là một liên minh toàn cầu gồm hơn 100 thành viên.
Các thành viên là các chủ tịch, giám đốc điều hành của hơn 100 công ty nổi
tiếng nhất thế giới trong các ngành: lưu trú, ăn uống, du lịch biển, giải trí,
vận chuyển và lữ hành.
Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới được thành lập năm 1990, do
một hội đồng gồm 15 thành viên điều hành. Trụ sở chính của Hội đồng du
lịch và lữ hành thế giới đặt tại Bruxell (Bỉ), ngoài ra còn có các văn phòng
hoạt động tại Canada, Anh, Mỹ.
Mục tiêu của Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới là làm việc với
các Chính phủ để tạo thuận lợi cho du lịch phát triển phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế và ưu tiên giải quyết việc làm, xóa bỏ những rào cản
phát triển du lịch. Mặt khác, Hội đồng du lịch và lữ hành thế giới còn có
mục tiêu là làm cho du lịch được công nhận là ngành có tiềm năng kinh tế
và tạo ra nhiều việc làm, phổ biến tiến bộ khoa học công nghệ, kết nối cơ sở
hạ tầng với nhu cầu khách hàng.
Ngoài ra, Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới có nhiệm vụ hỗ trợ
cho việc tự do hóa ngành hàng không, mở rộng chính sách giảm qui chế
song phương và đa phương...
Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới cũng quan tâm nhiều đến môi
trường. Năm 1992, Hội đồng du lịch và lữ hành thế giới thiết lập Trung tâm
nghiên cứu môi trường lữ hành và du lịch quốc tế tại Anh. Trung tâm này đã
xây dựng cơ sở dữ liệu về các hoạt động của ngành công nghiệp du lịch,
chính sách của các Chính phủ và các phương thức tiếp cận thực tế hữu hiệu
nhất để giải quyết những vấn đề về môi trường.

62
Với những mục tiêu trên, một trong những nhiệm vụ quan trọng của
Hội đồng Du lịch và Lữ hành thế giới là nâng cao nhận thức về tầm quan
trọng của ngành du lịch đối với phát triển kinh tế và việc làm.
3.1.1.3. Hiệp hội Khách sạn quốc tế (IHA)
Hiệp hội Khách sạn quốc tế (International Hotel Association) được
thành lập tháng 11 năm 1947 tại London, thông qua việc hợp nhất giữa Liên
minh khách sạn quốc tế, Hiệp hội Aubergistes châu Âu và Hiệp hội chủ nhà
nghỉ châu Á để bảo vệ khu vực tư nhân trên toàn thế giới khỏi các chính phủ,
các ngành công cộng, quân đội... Ngày 23/9/1949, trụ sở của Hiệp hội khách
sạn quốc tế dời về Paris.
Ngày 01/11/1997, Hiệp hội Khách sạn quốc tế hợp nhất với Tổ chức
Nhà hàng và Khách sạn quốc tế hình thành nên Hiệp hội Nhà hàng và
Khách sạn quốc tế (International Hotel and Restaurant Association, IH&RA,
www.ih-ra) như ngày hôm nay.
Tháng 3 năm 1995, Liên Hiệp Quốc thừa nhận Hiệp hội Nhà hàng và
Khách sạn quốc tế.
Ngày 01/01/2008, trụ sở của Hiệp hội Nhà hàng và Khách sạn quốc
tế dời đến Thụy Sĩ.
Hiệp hội đại diện cho ngành thực hiện việc giám sát và vận động ủng
hộ cho tất cả các cơ sở kinh doanh trên thế giới gồm khoảng 300.000 khách
sạn, 8 triệu nhà hàng với 60 triệu lao động và hàng năm đóng góp 950 tỷ
USD cho nền kinh tế toàn cầu.
Hội viên là các hiệp hội khách sạn và nhà hàng của trên 100 quốc gia;
các tập đoàn khách sạn và nhà hàng quốc gia và quốc tế của 50 thương hiệu
nổi tiếng trên thế giới; các thành viên phối hợp khác như: các khách sạn và
nhà hàng riêng lẻ, các công ty cung ứng dịch vụ, các cơ sở giáo dục đào tạo,
các công ty tư vấn và các hiệp hội du lịch, lữ hành và dịch vụ khác.
3.1.1.4. Hiệp hội Vận chuyển Hàng không quốc tế (IATA)
Hiệp hội Vận chuyển Hàng không quốc tế (International Air
Transport Association, www.iata.org) là một tổ chức toàn cầu về hàng
không quốc tế. Chức năng chính của IATA là bảo đảm sự an toàn trong việc
vận chuyển hành khách và hàng hóa thông qua mạng lưới hàng không thế
giới.

63
Nhiệm vụ của Hiệp hội Vận chuyển Hàng không quốc tế là đại diện
và phục vụ cho sự phát triển của ngành hàng không dân dụng quốc tế.
Thành lập năm 1945, văn phòng chính của Hiệp hội Vận chuyển
Hàng không quốc tế đặt tại thành phố Montreal thuộc Canada, cơ quan điều
hành đặt tại Geneva (Thụy Sỹ). Ngoài ra, còn có các văn phòng đại diện cho
các khu vực trên thế giới.
3.1.1.5. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá liên hợp quốc (UNESCO)
[4]

Hình 3.2. Logo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc
Thành lập năm 1945, trụ sở đặt tại Pari thủ đô nước Pháp. Là một cơ
quan của Liên hợp quốc, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá tồn tại để
xúc tiến hợp tác quốc tế về giáo dục khoa học và văn hóa.
Tổ chức này có liên quan đến du lịch trong việc cung cấp các
phương tiện giáo dục, các nghiên cứu về tác động văn hóa và xã hội của du
lịch và tổ chức các hội nghị chuyên đề. Thành viên của UNESCO là đại diện
chính phủ của 195 quốc gia - thành viên, 9 quan sát viên (năm 2019).
Việt Nam là thành viên của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
Liên hợp quốc vào ngày 06/7/1951.
3.1.2. Một số tổ chức du lịch trong khu vực
3.1.2.1. Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương (PATA)
Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương (Pacific Asia Travel
Association, www.pata.org) thành lập năm 1951, đến 1952 đổi tên thành
64
Hiệp hội Du lịch khu vực Thái Bình Dương và tên gọi hiện nay được sửa
đổi năm 1986.
Mục đích của hội là nhằm khuyến khích sự giúp đỡ và phát triển của
ngành công nghiệp du lịch ở Châu Á – Thái Bình Dương thông qua nghiên
cứu, giáo dục và đào tạo, phát triển các sản phẩm, bảo tồn di sản, quảng bá
các hoạt động liên quan đến du lịch.
Thành viên của hiệp hội là các chính phủ, hãng chuyên chở, khách
sạn, đại lý du lịch, điều hành tour, các tổ chức, các doanh nghiệp phối hợp
và liên minh ở 99 quốc gia và vùng lãnh thổ khắp thế giới (2006). Trụ sở đặt
tại San Francisco thuộc tiểu bang California.
Là một thành viên của Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương,
chi hội Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương Việt Nam được thành
lập ngày 04/01/1994.
Hàng năm, Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương tổ chức hội
nghị thường niên lần lượt tại các nước thành viên nhằm trao đổi kinh
nghiệm, hỗ trợ hợp tác về du lịch giữa các nước trong khu vực.
Cơ quan quyền lực tối cao của Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình
Dương là Hội nghị thường niên. Cơ quan thường trực bao gồm: Ủy viên
điều hành, Ủy ban thường trực và Ủy ban thư ký.
Trực thuộc Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương có các chi
hội được thành lập tại từng nước thành viên.
Hội nghị thường niên của Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình
Dương xem xét các hoạt động của Hội trong năm, có thẩm quyền sửa đổi
Điều lệ, nguyên tắc hoạt động và bộ máy tổ chức, thông qua các vấn đề về
ngân sách, xác định địa điểm của kỳ họp kế tiếp và thông qua dự thảo nghị
quyết của Hội nghị.
Tạp chí PATA, bản tin PATA là một trong những ấn phẩm du lịch
có uy tín trên thế giới nhờ vào những thông tin rất cập nhật và tin cậy.
Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương còn tổ chức hội chợ du
lịch Thái Bình Dương nhằm đẩy mạnh xúc tiến, hợp tác kinh doanh du lịch.
3.1.2.2. Hiệp hội Du lịch ASEAN (ASEANTA)
Hiệp hội Du lịch ASEAN (ASEAN Tourism Association,
http://www.aseanta.org) được thành lập như Hiệp hội về du lịch và lữ hành

65
của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. ASEANTA được thành lập ngày
27/3/1971, trụ sở đặt tại Singapore.

Hình 3.3. Logo Hiệp hội Du lịch Asean


Hiệp hội tồn tại chủ yếu để xúc tiến sự hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau
trong việc khuyến khích và bảo vệ các mối quan tâm của các thành viên
cũng như về các tiêu chuẩn của các tiện nghi và dịch vụ dành cho du khách
và sự phát triển du lịch trong khu vực Đông Nam Á.
Thành viên là các hãng hàng không quốc gia, các hiệp hội khách sạn
và các hiệp hội đại lý du lịch của 10 nước thành viên thuộc ASEAN.
3.1.2.3. Trung tâm Thông tin Du lịch ASEAN (ATIC)
Trung tâm Thông tin Du lịch Asean (Asean Tourism Information
Centre) là tổ chức liên chính phủ khu vực, được thành lập năm 1988 để công
khai hóa các điểm hấp dẫn du lịch và xem xét tiềm năng đầu tư vào các
nước ASEAN; cung cấp cơ sở dữ liệu chung; hành động như một cánh tay
quản lý của Tiểu ban về du lịch ASEAN cấp chính phủ.
Thành viên của Hiệp hội bao gồm chính phủ của các nước thành
viên, trụ sở của Hiệp hội được đặt tại Jakarta - thủ đô Indonesia.
3.1.2.4. Hiệp hội Nhà hàng và Khách sạn ASEAN (AHRA)
Hiệp hội Nhà hàng và Khách sạn ASENA (Asean Hotel and
Restaurant Association) là một tổ chức khu vực về nhóm các nhà hàng và
khách sạn ở Indonesia, Singapore. Philipines và Thái Lan. Trụ sở của Hiệp
hội đặt tại Jakarta - thủ đô Indonesia.

66
3.1.3. Các tổ chức quản lý du lịch của Việt Nam
3.1.3.1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
- Được thành lập ngày 27/06/1978 trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng
(tiền thân là Công ty du lịch Việt Nam ra đời năm 1960 trực thuộc Bộ Ngoại
thương và sau đó là Bộ Nội vụ) theo Nghị định số 282/NQ - QHK6 của Uỷ
ban thường vụ quốc hội.
- Đầu năm 1990, Tổng cục sát nhập vào Bộ Văn hóa thông tin, Thể
thao và Du lịch rồi chuyển qua Bộ Thương mại và Du lịch tháng 6/1991.
Đến cuối năm 1992, Tổng cục Du lịch được thành lập trở lại và là cơ quan
trực thuộc Chính phủ (theo Nghị định số 5/CP ngày 26/10/1992 của Chính
phủ về việc thành lập Tổng cục Du lịch và Nghị định số 20/CP ngày
27/12/1992 của Chính phủ về Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức
của Tổng cục Du lịch)

Hình 3.4. Logo du lịch Việt Nam [6]

Ngày nay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam là một bộ
thuộc Chính phủ Việt Nam. Ngày 31 tháng 7 năm 2007, Quốc hội khóa 12
ra Nghị quyết quyết định thành lập Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt
Nam trên cơ sở sáp nhập Ủy ban Thể dục Thể thao, Tổng cục Du lịch và
mảng văn hóa của Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam. Địa chỉ trang web:
www.cinet.gov.vn
- Chức năng: Quản lý nhà nước đối với các hoạt động du lịch trong
phạm vi cả nước, bao gồm hoạt động du lịch của các thành phần kinh tế, cơ
quan, đoàn thể, tổ chức xã hội, công dân và người nước ngoài tại Việt Nam.

67
- Nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Xây dựng quy hoạch, kế hoạch về phát triển ngành du lịch;
+ Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh về hoạt động du lịch và các
văn bản dưới luật;
+ Hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ du lịch, khách sạn, thông tin,
tuyên truyền quảng cáo du lịch;
+ Hợp tác quốc tế;
+ Xây dựng hệ thống tổ chức, chức danh, đào tạo, bồi dưỡng tiền
lương, khen thưởng và kỷ luật;
+ Thanh tra, kiểm tra;
+ Quản lý các doanh nghiệp, các tổ chức sự nghiệp trực thuộc theo
quy định.
3.1.3.2. Tổng cục Du lịch
Tổng cục Du lịch Việt Nam (Vietnam National Administration of
Tourism, www.vietnamtourism.com) là một cơ quan thuộc Bộ Văn hóa –
Thể thao và Du lịch có nhiệm vụ quản lý ngành du lịch ở Việt Nam.
Tổng cục Du lịch Việt Nam chính thức được thành lập ngày 27
tháng 6 năm 1978, trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Tiền thân của Tổng cục
là Công ty Du lịch Việt Nam ra đời năm 1960, trực thuộc Bộ Ngoại thương
và sau đó là Phủ thủ tướng quản lý theo nghị định số 262/NQ – QHK6 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Đầu năm 1990, Tổng cục sáp nhập vào Bộ Văn hóa, Thông tin, Thể
thao và Du lịch, sau đó chuyển qua Bộ Thương mại và Du lịch tháng 6/1991.
Cuối năm 1992, Tổng cục Du lịch được thành lập trở lại và là cơ
quan trực thuộc Chính phủ. Tổng cục Du lịch tồn tại độc lập cho đến năm
2007 được cơ cấu lại để hình thành Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Tổng cục Du lịch Việt Nam đặt trụ sở ở số 80, phố Quán Sứ, quận
Hoàn Kiếm, Hà Nội.
3.1.3.3. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Theo qui định của Chính phủ, cơ quan quản lý du lịch tại địa phương
là Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tùy theo điều
kiện phát triển du lịch tại mỗi địa phương, cơ quan giúp việc cho Ủy ban

68
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý nhà nước về du lịch
có thể được tổ chức thành Sở Du lịch, Sở Thương mại – Du lịch, Sở Du lịch
– Thương mại, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch... Sau đây sẽ gọi tắt là các
Sở Du lịch.
Sở Du lịch ra đời theo quyết định số 171/1993/TTg ngày 17/4/1993
của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Sở Du lịch ở một số tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương. Sở Du lịch là cơ quan giúp Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản
lý Nhà nước đối với các hoạt động du lịch trên phạm vi tỉnh, thành phố; chịu
sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Tổng cục
Du lịch.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Sở do Ủy ban nhân dân địa phương quyết
định. Sở Du lịch do giám đốc Sở phụ trách. Giám đốc Sở do Chủ tịch Ủy
ban nhân dân Tỉnh, Thành phố bổ nhiệm, miễn nhiệm sau khi có thỏa thuận
bằng văn bản của Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch.
3.1.3.4. Hiệp hội Du lịch
Trong quá trình phát triển du lịch ở Việt Nam, một số hiệp hội nghề
nghiệp trong du lịch được triển khai, xúc tiến thành lập. Thành phố Hồ Chí
Minh có Hiệp hội du lịch của thành phố, Hà Nội có câu lạc bộ các nhà kinh
doanh du lịch. Nói chung các hiệp hội này được hình thành trên cơ sở tự
nguyện gia nhập của các doanh nghiệp du lịch.
Ngày 25/12/2002, Hiệp hội Du lịch Việt Nam (Vietnam Tourism
Association – VITA, www.vita.vn) được thành lập. Hiệp hội Du lịch Việt
Nam ra đời đánh dấu một bước phát triển quan trọng của Ngành du lịch Việt
Nam.
Hiệp hội Du lịch Việt Nam là một tổ chức tự nguyện phi chính phủ
của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và công dân Việt Nam hoạt động hợp
pháp trong lĩnh vực du lịch.
Mục đích của Hiệp hội là liên kết, hợp tác, hỗ trợ nhau về kinh tế -
kỹ thuật về kinh doanh dịch vụ, tạo bình ổn thị trường, nâng cao giá trị chất
lượng, sản phẩm du lịch, khả năng cạnh tranh trong và ngoài nước của hội
viên; đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Hội viên.
Hiệp hội Du lịch Việt Nam hoạt động trong phạm vi cả nước và ở
nước ngoài theo quy định của pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ
69
nghĩa Việt Nam và Điều lệ của Hiệp hội.
Đến nay, Hiệp hội Du lịch Việt Nam đã có trên 260 hội viên trực
tiếp và 15 hội viên ở các tỉnh, thành phố với hàng trăm các chi hội, câu lạc
bộ ngành nghề khác nhau đưa tổng số hội viên của Hiệp hội lên gần 1.000
doanh nghiệp trong tất cả các lĩnh vực của ngành du lịch như lữ hành, khách
sạn, vận chuyển, hội chợ - quảng cáo, công nghệ thông tin du lịch, hàng lưu
niệm (kể cả sản phẩm làng nghề và thủ công mỹ nghệ), vui chơi giải trí và
các trường du lịch...
Hiệp hội Du lịch Việt Nam là thành viên của Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI) từ tháng 8/2004.
Tháng 4/2004, Hiệp hội du lịch Việt Nam gia nhập Hiệp hội du lịch
Đông Nam Á (ASEANTA).
3.2. Các lĩnh vực kinh doanh du lịch
Để thỏa mãn được các nhu cầu của khách du lịch cần phải có nhiều
dịch vụ, vì thế hoạt động kinh doanh du lịch gồm kinh doanh dịch vụ vận
chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí và dịch vụ
lữ hành hướng dẫn.
3.2.1. Dịch vụ vận chuyển du lịch
Du lịch là ngành kinh tế mang tính liên ngành, liên vùng. Trong
thành tựu phát triển vượt bậc của ngành du lịch luôn luôn có sự đóng góp
quan trọng của ngành giao thông vận tải. Điều này được thể hiện qua việc
nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ, nhà ga, bến tàu, các
tuyến bay hàng không được tăng cường, mở rộng đến nhiều thị trường mới.
Hệ thống mạng lưới và phương tiện vận tải đường biển, đường sông không
ngừng được đầu tư, phục vụ tốt việc đi lại, vận chuyển của khách. Đồng thời
trong sự phát triển của ngành giao thông vận tải cũng có sự đóng góp không
nhỏ của dòng khách du lịch trong nước và quốc tế.
Việc lựa chọn phương tiện vận chuyển của khách du lịch thường do
nhiều nhân tố chi phối. Ngoài nhân tố liên quan đến khách du lịch như khả
năng chi trả, các dịch vụ, thời gian, trạng thái tâm lý, trước khi quyết định
sử dụng loại phương tiện vận chuyển nào, khách du lịch thường xem xét kỹ
các nhân tố sau đây liên quan đến dịch vụ vận chuyển:
- Khoảng cách và thời gian của hành trình;

70
- Trạng thái và mức độ tiện nghi của phương tiện;
- Mức độ an toàn và tính hữu ích của phương tiện;
- Các dịch vụ kèm theo được cung ứng;
- Giá so sánh các dịch vụ được cung ứng;
- Vị trí địa lý và mức độ biệt lập của điểm đến;
- Mức độ cạnh tranh giữa các dịch vụ...
Ngành vận chuyển khách du lịch bao gồm: vận chuyển hàng không,
vận chuyển đường sắt, vận chuyển đường bộ, vận chuyển đường thủy.
Theo Chương VI, Mục 3, Điều 57 Luật Du lịch Việt Nam: “Kinh
doanh vận chuyển khách du lịch là việc cung cấp dịch vụ vận chuyển cho
khách du lịch theo tuyến du lịch, theo chương trình du lịch và tại các khu du
lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch.”
Vận chuyển hàng không
Máy bay là loại phương tiện hiện đại, tiện nghi, ít gây mệt mỏi,
không bị cản trở bởi yếu tố địa hình, tốc độ nhanh, phù hợp với du lịch quốc
tế. Tuy nhiên, đây là phương tiện vận chuyển mà hành khách phải chi trả
khoản phí khá cao, chiếm tỉ trọng lớn trong toàn bộ chi tiêu cho chuyến đi
của du khách. Đồng thời, đây là phương tiện tách rời với môi trường nên
khả năng khám phá môi trường thấp.
Trong những năm qua, ngành vận chuyển hàng không Việt Nam có
nhiều thay đổi sinh động, đa dạng hơn với các hãng hàng không tư nhân ra
đời góp phần làm tăng khả năng phục vụ nhu cầu đi lại cho người dân như:
Jetstar Pacific (được chuyển đổi từ Pacific Airline), AirMekong, Vietjet Air,
Bamboo airline …
Vận chuyển đường bộ
Vận chuyển đường bộ bao gồm các phương tiện: xe đạp, ô tô, mô tô,
xe bus...
Đây là loại hình vận chuyển phổ biến nhất hiện nay trong du lịch.
Vận chuyển đường bộ giữ vị trí quan trọng trong vận chuyển du lịch,
do chi phí thấp, có thể phù hợp với mọi đối tượng, khả năng cơ động cao, có
thể đi đến hầu hết các điểm du lịch. Tuy nhiên phương tiện này còn chậm,
thiếu tiện nghi, độ an toàn không cao, thường chỉ phù hợp cho phát triển du

71
lịch trong nước.
Trong vận chuyển đường bộ, ngoài dịch vụ chở khách, còn có dịch
vụ cho thuê xe để du khách tự điều khiển, đây là hoạt động mang lại lợi
nhuận khá cao.
Vận chuyển đường sắt
Vận chuyển đường sắt đang có vị trí quan trọng trong phát triển du
lịch, do có nhiều lợi thế: chi phí thấp, khả năng an toàn cao, tiện lợi, có thể
thoả mãn nhu cầu ngắm cảnh, ít khả năng gây ô nhiễm và dễ dàng trong việc
kiểm soát an ninh. Hình thức vận chuyển này phù hợp với du lịch đại chúng
vì có khả năng vận chuyển khối lượng lớn với cự ly dài. Tuy nhiên tính cơ
động của loại hình vận chuyển này lại không cao.
Ở các nước phát triển như Nhật Bản, Pháp… thì loại hình vận
chuyển này lại phát triển mạnh với hệ thống cơ sở vật chất rất tiện nghi.
Vận chuyển đường thủy
Đường thủy là phương tiện giao thông có từ rất lâu. Việc đi du lịch
bằng đường thủy là hiện tượng khá mới mẻ. Hiện nay tốc độ phát triển
mạnh loại hình du lịch bằng đường thủy. Thích hợp với các chuyến du lịch
đến nhiều quốc gia khác nhau có biên giới giáp với bờ biển, khách sẽ dừng
chân tại những vùng miền có nhiều cảnh đẹp, địa danh nổi tiếng hoặc khách
sử dụng tàu, thuyền để đi tham quan trên mặt nước, ví dụ: tham quan trên
Vịnh Hạ Long, đi thuyền trên chợ nổi Cái Răng... Đối với Việt Nam, với bờ
biển dài, có nhiều kênh rạch sông hồ và nằm trên con đường huyết mạch nối
liền Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, châu Âu - châu Á, Trung Đông -
châu Á. Đây được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của
thế giới. Vì vậy tiềm năng phát triển loại hình du lịch bằng đường biển rất
phát triển, sẽ thu hút số lượng lớn các nhà kinh doanh và khách du lịch di
chuyển bằng tàu biển và sông ngòi.
Các chuyến du lịch trên biển thường có tiện nghi cao cấp và dễ dàng
bố trí các dịch vụ giải trí, nhưng thường chi phí rất cao.
3.2.2. Dịch vụ lưu trú
Theo chương I, điều 4 Luật Du lịch Việt Nam: “Cơ sở lưu trú du lịch
là cơ sở cho thuê buồng, giường và cung cấp các dịch vụ khác phục vụ
khách lưu trú, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú du lịch chủ yếu” [1].

72
Thông thường, đây là hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu của đa số
khách sạn và cũng là hoạt động thu hút vốn đầu tư lớn nhất trong khách sạn.
Tuy nhiên, hiện nay các loại hình cơ sở lưu trú trong các khu du lịch ngày
càng đa dạng, phù hợp với các loại địa hình khác nhau như: Camping,
Bungalow, Motel …
3.2.2.1. Khách sạn
Khách sạn là cơ sở lưu trú đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và tiện
nghi cần thiết phục vụ khách du lịch lưu trú, đáp ứng một số yêu cầu của
khách về nghỉ ngơi, ăn uống, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác.
Việc kinh doanh khách sạn trên thế giới hiện nay định hình nhiều xu
hướng:
- Xu hướng chuyên môn hóa cao trong hoạt động kinh doanh khách
sạn. Mỗi khách sạn thường chú trọng đến một loại đối tượng khách sạn du
lịch khác nhau, phân đoạn thị trường khác nhau (khách sạn nghỉ dưỡng,
khách sạn hội nghị… khách sạn sang trọng, khách sạn bình dân…).
- Xu hướng áp dụng công nghệ internet vào kinh doanh. Việc sử
dụng tìm kiếm, truyền thông xã hội và các ứng dụng khi mua sắm và đặt
buồng khách sạn của khách hàng. Thời gian và vị trí mà khách hàng tìm
kiếm và đặt buồng hầu không còn là vấn đề khó khăn. Khi người tiêu dùng
sử dụng công nghệ mới chẳng hạn như điện thoại di động và máy tính bảng
để thực hiện tìm kiếm và đặt buồng tại nhà, nơi làm việc bất cứ nơi đâu vào
bất cứ thời gian nào mà họ muốn.
- “Không có nơi nào bằng nhà mình”. Khách hàng hiện nay, đặc
biệt là những người thường xuyên đi lại, muốn mọi căn buồng đều gợi nhớ
về ngôi nhà của họ. Điều đó có thể được phản ánh qua thẩm mĩ thiết kế
cũng như các tiện nghi và công nghệ.
- Quy mô của khách sạn không quan trọng. Du khách hiện nay
thường tránh các khu phức hợp lớn của quá khứ để tới các khách sạn có dấu
ấn cá nhân hơn, được quản lý tốt hơn. Theo ông Ron Pohl, phó chủ tịch cấp
cao phụ trách quản lý thương hiệu và các dịch vụ thành viên của Best
Western International có trụ sở tại Phoenix “Khách hàng thích cảm giác
khách sạn nhỏ hoặc trải nghiệm B&B (bed & breakfast - giường ngủ và bữa
sáng) mở rộng. Không có nhiều thương hiệu hoặc chuỗi khách sạn gắn với
những loại hình sản phẩm này. Đây là cơ hội để lấy những khách sạn nhỏ
73
hơn (30 đến 50 buồng) và đưa chúng vào thị trường với một tên thương hiệu
phù hợp”.
Trên thế giới, việc phân hạng khách sạn đã được các quốc gia quy
định để nhận biết uy tín và mức chất lượng dịch vụ được cung cấp tại khách
sạn. Ở Việt Nam, các khách sạn được phân hạng từ 1 đến 5 sao dựa trên 5
nhóm chỉ tiêu: vị trí kiến trúc; trang thiết bị tiện nghi; dịch vụ và chất lượng
phục vụ; người quản lý và nhân viên phục vụ; bảo vệ môi trường, an ninh,
an toàn, phòng chống cháy nổ và chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tổng cục Du lịch Việt Nam phân khách sạn thành 4 loại [5]: Khách
sạn thành phố (City hotel), khách sạn bên đường (Motel - Motel được được
ghép nối bởi 2 từ motor và hotel do môt người Mỹ phát triển từ năm 1950),
khách sạn nghỉ dưỡng (Resort hotel), khách sạn nổi (Floating hotel).
Tuy nhiên, để bao quát hơn thì việc phân loại khách sạn phải dựa
vào một số tiêu thức cụ thể. Nếu dựa vào thị trường mục tiêu, thì có các
loại khách sạn sau:
- Khách sạn thương mại (Commercial Hotels)
Những khách sạn này chủ yếu phục vụ khách hàng là thương nhân
hoặc cán bộ công vụ cao cấp. Loại hình khách sạn này thường nằm ở trung
tâm thành phố, có qui mô vừa và lớn, chất lượng buồng ngủ và các dịch vụ
cao.
- Khách sạn sân bay (Airport Hotels)
Những khách sạn này thường nằm ở vị trí gần sân bay, phục vụ
khách du lịch quá cảnh (transit). Thị trường khách chủ yếu của nó bao gồm:
hành khách quá cảnh – chuyển từ chuyến bay này sang chuyến bay khác,
phi hành đoàn và những khách bị nhỡ hoặc hoãn chuyến bay.
- Khách sạn căn hộ (Apartment Hotels/ All – suite Hotels)
Khách sạn căn hộ bao gồm nhiều phòng ngủ được thiết kế theo kiểu
căn hộ, mỗi căn hộ có phòng ngủ, phòng khách, có thể có thêm bếp. Các
khách sạn căn hộ thường được xây dựng ở ngoại ô thành phố. Thị trường
chủ yếu gồm: khách đi nghỉ hè hoặc cuối tuần, thương nhân, người dân di
cư chưa có chỗ ở ổn định…
- Khách sạn sòng bạc (Casino Hotels)
Ở khách sạn sòng bạc, dịch vụ buồng ngủ và ăn uống chủ yếu cung

74
cấp cho khách du lịch đánh bạc.
Loại hình khách sạn này thường rất sang trọng với các hình thức giải
trí nổi tiếng, có nhiều loại sòng bạc để thu hút khách hàng.
- Khách sạn nghỉ dưỡng (Resort Hotels)
Loại hình khách sạn này chủ yếu phục vụ khách đi nghỉ mát, nghỉ
dưỡng. Nó có thể hoạt động theo mùa hoặc quanh năm tùy thuộc vào vị trí
và loại hình dịch vụ.
Khách sạn nghỉ dưỡng thường nằm xa thành phố nhưng thuận tiện về
giao thông, có phong cảnh đẹp, khí hậu thuận lợi cho các hoạt động thể thao,
thư giãn… của khách du lịch. Các dịch vụ của nó rất đa dạng. Ngoài đối
tượng chủ yếu là khách nghỉ dưỡng, hiện nay, các khách sạn này còn cung
cấp các dịch vụ cho nhóm khách du lịch hội nghị, hội thảo…
Loại hình khách sạn này khá phổ biến ở Châu Âu, đặc biệt là ở Anh,
Ailen… thường có qui mô dưới 30 buồng. Chủ khách sạn có thể cũng là
người phục vụ khách ăn sáng và thực hiện các dịch vụ khác. Khách sạn có
thể vừa là nơi ở của người chủ.
Loại hình khách sạn mini ở nước ta có đặc điểm tương đồng với loại
hình này.
- Khách sạn hội nghị (Convention Hotels)
Loại hình khách sạn này cung cấp các dịch vụ liên quan tới hội nghị,
hội thảo. Tại đây thường có các loại phòng họp đầy đủ tiện nghi, nhiều loại
nhà hàng, quầy bán hàng lưu niệm, phòng ngủ sang trọng, dịch vụ thuê xe…
- Khách sạn sân golf (Golf Hotels)
Những khách sạn này thường được xây dựng tại các sân golf. Thị
trường chủ yếu là những người chơi golf. Ngoài ra, khách sạn này còn phục
vụ khách hội nghị, hội thảo.sau:
Nếu phân loại khách sạn theo mức độ dịch vụ thì có các loại khách
sạn cơ bản sau:
- Khách sạn có dịch vụ cao cấp (theo tiêu chuẩn quốc tế)
Những khách sạn này tập trung vào thị trường mục tiêu là thương
nhân, nhà chính trị, nhà ngoại giao, khách có thu nhập cao… Vì vậy, dịch
vụ đa dạng, phong phú, đảm bảo chất lượng cao; tiện nghi và trang thiết bị
sang trọng, cao cấp; nhân viên phục vụ có trình độ nghiệp vụ cao.
75
- Khách sạn có dịch vụ trung bình
Khách sạn loại này nhằm phục vụ cho những khách du lịch thuần túy.
Tại đây chủ yếu phục vụ những dịch vụ cơ bản, những dịch vụ thông thường
cần thiết của khách du lịch nói chung. Loại khách sạn này thường có qui mô
trung bình.
- Khách sạn có dịch vụ hạn chế
Loại hình khách sạn này chủ yếu tập trung vào thu hút những nhóm
khách như: những gia đình có trẻ con, những nhóm khách trẻ, những khách
tham quan trong kỳ nghỉ, các hội đoàn. Những khách này chỉ cần được thỏa
mãn những nhu cầu cơ bản.
Nếu phân loại khách sạn theo hình thức quản lý thì có:
- Khách sạn tập đoàn (chuỗi khách sạn)
Chuỗi khách sạn thường gồm ba hay nhiều khách sạn do cùng một
công ty sở hữu hoặc quản lý hoạt hoạt động dưới cùng một thương hiệu.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều chuỗi khách sạn lớn như: Accor,
Hilton, Inn…
Chuỗi khách sạn có hệ thống dịch vụ, trang thiết bị, giá cả đều được
tiêu chuẩn hóa. Loại hình này có nhiều ưu thế về giảm chi phí quảng cáo,
đào tạo nguồn nhân lực, thiết kế xây dựng theo mẫu, mua hàng hóa với giá
rẻ, có mạng đặt buồng tập trung, có danh tiếng trên toàn thế giới…
- Khách sạn nhượng quyền kinh doanh (Franchise Hotels)
Nhượng quyền kinh doanh là hoạt động thương mại được thỏa thuận
giữa chủ một khách sạn độc lập với một chuỗi khách sạn. Chủ khách sạn
này (người được nhượng quyền kinh doanh) chịu trách nhiệm về việc xây
dựng và duy trì hoạt động của khách sạn. Chuỗi khách sạn (người cho thuê
quyền kinh doanh) cho phép người được nhượng quyền kinh doanh độc
quyền sử dụng danh hiệu, logo, kiểu dáng kiến trúc của chuỗi và có thể trợ
giúp về kế hoạch và tín dụng. Người bán độc quyền bảo trợ việc đặt chỗ và
hoạt động quảng cáo. Khách sạn nhượng quyền kinh doanh nhận tài liệu
hướng dẫn về điều hành, về kế toán, bảo trì, tiếp thị, quản lý nhân sự, quản
lý vật tư…
Người được nhượng quyền kinh doanh có trách nhiệm thanh toán
cho người bán độc quyền một khoản lệ phí ban đầu và một khoản hoa hồng

76
được tính theo tỷ lệ doanh thu cho thuê buồng. Ngoài ra, người bán độc
quyền có thể thu những khoản lệ phí khác như dịch vụ đặt chỗ trung tâm,
quảng cáo và những dịch vụ trợ giúp khác.
- Khách sạn thuê quản lý
Trong trường hợp này, chủ khách sạn không trực tiếp quản lý mà
thuê một công ty/ cá nhân quản lý khách sạn thông qua hợp đồng quản lý.
Hợp đồng quản lý là một thoả thuận giữa chủ khách sạn và một công
ty chuyên về quản lý. Chủ khách sạn chịu trách nhiệm về cung cấp tài chính
và xây dựng khách sạn. Công ty nhận điều hành khách sạn chịu trách nhiệm
quản lý khách sạn theo mục tiêu đã được thỏa thuận.
Chủ khách sạn phải trả cho công ty thuê quản lý lệ phí quản lý. Mức
phí này thường được tính theo tỷ lệ doanh thu của khách sạn và tỷ lệ lợi
nhuận hoạt động (thường là 2% doanh thu và 10% lợi nhuận hoạt động).
3.2.2.2. Motel
Motel là cơ sở lưu trú được xây dựng gần đường giao thông, với kiến
trúc thấp tầng, bảo đảm các dịch vụ phục vụ lưu trú cho khách du lịch đi
bằng phương tiện vận chuyển như mô tô và ô tô, có dịch vụ bảo dưỡng, sửa
chữa phương tiện vận chuyển cho khách. Loại hình cơ sở lưu trú này phát
triển mạnh ở các nước Âu - Mỹ.
Hiện nay, ở Việt Nam cũng có nhiều cơ sở lưu trú có tên là “motel”,
tuy nhiên dịch vụ các cơ sở này cung cấp cho khách chỉ dừng lại ở phòng
nghỉ và chỗ đỗ xe, còn các dịch vụ đặc trưng của motel như bảo dưỡng, sữa
chữa thì chưa có.
3.2.2.3. Làng du lịch
Làng du lịch là cơ sở lưu trú bao gồm quần thể các ngôi nhà (biệt thự
hay Bungalow một tầng có cấu trúc gọn nhẹ) được qui hoạch, xây dựng
thành các khu riêng biệt: khu lưu trú, khu ăn uống, khu thương mại, khu đỗ
xe, khu thể thao với các tiện nghi và các dịch vụ phục vụ cho sinh hoạt, nghỉ
ngơi và vui chơi giải trí cần thiết của khách du lịch theo giá trọn gói. Khách
của loại hình này thường là khách nghỉ dưỡng đi theo đoàn thông qua tổ
chức hoặc theo nhóm và gia đình có khả năng thanh toán cao. Làng du lịch
được xây dựng ở những nơi giàu tài nguyên thiên nhiên.
Khách đi cùng gia đình sử dụng dịch vụ này đang có xu hướng tăng

77
lên, thời gian du lịch của họ thường kéo dài.
3.2.2.4. Bungalow [2], [3]
Bungalow là cơ sở lưu trú được làm bằng gỗ hoặc các vật liệu nhẹ
khác theo phương pháp lắp ghép đơn giản. Bungalow có thể được làm đơn
chiếc hoặc thành dãy, thành cụm và thường được xây dựng trong các khu du
lịch nghỉ biển, nghỉ núi hoặc làng du lịch.
3.2.2.5. Nhà nghỉ, nhà trọ
Nhà nghỉ, nhà trọ là cơ sở lưu trú du lịch có trang thiết bị tiện nghi
cần thiết phục vụ khách du lịch như khách sạn nhưng không đạt tiêu chuẩn
xếp hạng khách sạn. Nhà nghỉ, nhà trọ là cơ sở lưu trú được đa số khách du
lịch có khả năng thanh toán trung bình lựa chọn cho chuyến đi của mình vì
giá rẻ, họ chấp nhận dịch vụ và mức chất lượng hạn chế.
3.2.2.6. Biệt thự
Biệt thự là nhà kiên cố thấp tầng, có phòng khách, phòng ngủ, bếp,
chỗ để phương tiện giao thông, sân vườn phục vụ khách du lịch lưu trú; là
cơ sở lưu trú được xây dựng trong các khu du lịch nghỉ biển, làng du lịch
hoặc tại thành phố. Khách lựa chọn biệt thự cho chuyến du lịch của mình
thường là những người có khả năng thanh toán cao, đi du lịch cùng gia đình
và mục đích chính là để tận hưởng kỳ nghỉ.
3.2.2.7. Căn hộ cho thuê
Căn hộ cho thuê là căn hộ kiên cố có đủ tiện nghi cần thiết, có trang
bị bếp và dụng cụ nấu, ăn... để khách tự phục vụ trong thời gian lưu trú. Đối
tượng khách thường sử dụng cơ sở lưu trú này cho chuyến du lịch của mình
là những người đi du lịch dài ngày, mục đích là nghiên cứu, tìm hiểu văn
hóa...
3.2.2.8. Cắm trại
Cắm trại là khu vực được quy hoạch, nằm gần các khu du lịch nghỉ
núi, nghỉ biển, nghỉ mát (gần sông, núi, biển, hồ...) với các trang thiết bị
phục vụ khách du lịch đến cắm trại, nghỉ ngơi… hoặc khách có phương tiện
vận chuyển (ô tô, xe máy… ) đến nghỉ. Cắm trại phù hợp với các đối tượng
khách thuộc các tổ chức, các đoàn thể và đa phần là sự lựa chọn cho lứa tuổi
thanh niên.

78
Ngoài các loại trên, còn có các loại cơ sở lưu trú du lịch khác như
nhà du lịch lưu động, tàu du lịch...
3.2.3. Dịch vụ ăn uống/ẩm thực
Bên cạnh hoạt động kinh doanh lưu trú , kinh doanh dịch vụ ăn uống
cũng là một hoạt động quan trọng của đi ểm và khu du lịch. Là loại nhu cầu
không thể thiếu đối với khách du lịch và phục vụ ăn uống trở thành một hoạt
động kinh doanh đáng kể trong du lịch.
Tham gia phục vụ ăn uống có các loại hình như nhà hàng, quán bar,
các quán cafe … tồn tại độc lập hoặc có thể là bộ phận trong các khách sạn,
trên máy bay, tàu hỏa. Hiện nay, ở nước ta chưa có qui định cụ thể về phân
loại nhà hàng. Nhưng trong thực tế, ở nước ta và các nước khác, các loại
nhà hàng và các cơ sở kinh doanh ăn uống phục vụ khách du lịch thường là
các nhà hàng cao cấp, nhà hàng buffet, nhà hàng đặc sản, nhà hàng ăn nhanh,
nhà hàng gia đình, caféteria, coffee shop…
3.2.4. Các điểm tham quan du lịch
Các địa điểm có cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn hoặc những nơi các
tài nguyên nhân tạo như: di tích văn hóa, di tích lịch sử, các hoạt động văn
hóa của địa phương, các làng nghề...
Thực tế cho thấy, một người khách quyết định đến một nơi nào đó
trước hết là nơi đó có thể cung cấp cho họ những cảm giác khác với nơi họ
thường sống. Một người sống ở nông thôn thích tìm đến nơi đông đúc, nhộn
nhịp, có nhiều công trình kiến trúc, cửa hiệu... đẹp ở thành phố; một người
sống ở vùng núi thích đi thăm thành phố hoặc vùng biển; trong khi đó người
sống ở thành phố thích đến nơi có thể thư giãn, nghỉ ngơi, không khí trong
lành, yên tĩnh như vùng biển, vùng núi, hồ, vùng quê...
3.2.5. Các hoạt động vui chơi giải trí
Tại các điểm du lịch, các điểm tham quan du lịch sẽ góp phần vào
quyết định lựa chọn của du khách, các hoạt động vui chơi giải trí sẽ tác động
đến thời gian lưu lại của khách dài hay ngắn.
Hoạt động của các công viên giải trí, sở thú, bách thảo, các chương
trình biểu diễn ca nhạc, chiếu phim, các khu vực mua sắm, sòng bạc… càng
đa dạng, phong phú càng kích thích chi tiêu của khách, và như vậy sẽ mang
lại nguồn thu cho điểm du lịch ngoài nguồn thu về lưu trú, ăn uống, vận
chuyển.
79
3.2.6. Kinh doanh dịch vụ lữ hành và các hoạt động trung gian
Thực hiện các hoạt động trung gian nối liền giữa khách du lịch với
các nhà cung ứng hàng hoá và dịch vụ du lịch.
Có khả năng cung cấp cho khách những sản phẩm đồng bộ, trọn gói
thông qua việc liên kết các dịch vụ của các nhà cung ứng du lịch nhằm tạo
ra cho khách hàng sự chủ động cao và hiệu quả trong các chuyến đi du lịch.
Có hai loại tổ chức kinh doanh lữ hành chủ yếu là đại lý du lịch và
công ty lữ hành.
3.2.6.1. Đại lý du lịch
Đại lý du lịch là một tổ chức trung gian, thay mặt cho khách hàng
sắp xếp với các đơn vị cung ứng dịch vụ du lịch (các hãng vận chuyển,
khách sạn, nhà hàng...) và nhận hoa hồng của các đơn vị này. Kinh doanh
đại lý du lịch là việc thực hiện các dịch vụ đưa đón, đăng ký nơi lưu trú, vận
chuyển, hướng dẫn tham quan, bán các chương trình du lịch của các công ty
lữ hành, cung cấp thông tin du lịch và tư vấn du lịch nhằm hưởng hoa hồng.
Đại lý du lịch đóng vai trò một người môi giới mang người mua và
người bán lại gần với nhau. Công việc của đại lý du lịch thường bao gồm
quảng cáo, bán chương trình du lịch (hoặc vé), thu thập thông tin, nghiên
cứu thị trường, nghiên cứu sản phẩm du lịch. Bên cạnh việc bán chương
trình du lịch trọn gói, các đại lý du lịch chuẩn bị các chương trình du lịch
đơn lẻ, tham gia dàn xếp chỗ lưu trú, ăn uống, tham quan, vận chuyển khách
và hành lý từ sân bay, bến tàu về khách sạn.
Ngoài ra, đại lý du lịch còn là một đơn vị chuyên môn có những hiểu
biết về mạng lưới giao thông, lưu trú, nhà hàng, điểm giải trí, tỷ giá hối đoái,
giá cả các dịch vụ … và những qui định liên quan. Do vậy, đại lý du lịch
cũng làm chức năng của một chuyên gia, tư vấn cho khách du lịch trong
việc lựa chọn các chương trình du lịch.
Kinh doanh đại lý du lịch là việc tổ chức, cá nhân nhận bán chương
trình du lịch của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành cho khách du lịch để
hưởng hoa hồng. Tổ chức, cá nhân kinh doanh đại lý du lịch không được tổ
chức thực hiện chương trình du lịch.
3.2.6.2. Công ty lữ hành
Công ty lữ hành là một đơn vị kinh doanh bằng cách sắp xếp các

80
dịch vụ du lịch riêng lẻ như: vận chuyển, lưu trú, ăn uống, tham quan,
hướng dẫn, vui chơi giải trí... thành một sản phẩm chương trình du lịch
(Tour) hoàn chỉnh, thông qua mạng lưới đại lý du lịch (hoặc trực tiếp) bán
cho du khách.
Ở Việt Nam công ty lữ hành được định nghĩa là đơn vị có tư cách
pháp nhân, hạch toán độc lập, được thành lập nhằm mục đích sinh lợi bằng
việc giao dịch, ký kết hợp đồng du lịch và tổ chức thực hiện các chương
trình du lịch đã bán cho khách du lịch.
Theo cách phân loại của Tổng cục du lịch Việt Nam thì các công ty
lữ hành gồm hai loại: Công ty lữ hành quốc tế và công ty lữ hành nội địa.
Công ty lữ hành quốc tế: Có trách nhiệm xây dựng, quảng cáo, bán
và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch trọn gói hoặc từng phần theo
yêu cầu của khách để trực tiếp thu hút đến Việt Nam và đưa công dân Việt
Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch nước ngoài; thực hiện
các chương trình du lịch đã bán hoặc ký hợp đồng ủy thác từng phần, trọn
gói cho công ty lữ hành nội địa.
Điều kiện kinh doanh lữ hành quốc tế:
- Có giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế do cơ quan quản lý nhà
nước về du lịch ở trung ương cấp.
- Có phương án kinh doanh lữ hành; có chương trình du lịch cho
khách du lịch quốc tế theo phạm vi kinh doanh được qui định tại khoản 1
điều 47 của Luật Du lịch.
- Người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành quốc tế phải có
thời gian ít nhất bốn năm hoạt động trong lĩnh vực lữ hành.
- Có ít nhất 3 hướng dẫn viên được cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch
quốc tế.
- Có tiền ký quĩ theo qui định của Chính phủ.
Công ty lữ hành nội địa: Có trách nhiệm xây dựng, quảng cáo, bán
và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch nội địa, nhận ủy thác để thực
hiện dịch vụ chương trình du lịch cho khách nước ngoài đã được các công ty
lữ hành quốc tế đưa vào Việt Nam.
Điều kiện kinh doanh lữ hành nội địa:
- Có đăng ký kinh doanh lữ hành nội địa tại cơ quan đăng ký kinh
81
doanh có thẩm quyền.
- Có phương án kinh doanh lữ hành nội địa; có chương trình du lịch
cho khách du lịch nội địa.
- Người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành nội địa phải có
thời gian ít nhất ba năm hoạt động trong lĩnh vực lữ hành.
Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch được
qui định tại điều 39 và điều 40 của Luật Du lịch.
3.3. Sản phẩm, dịch vụ du lịch
3.3.1. Khái niệm
Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho khách du
lịch đượctạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã
hội với việc sử dụng các nguồn lực: cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại
một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó.
Như vậy có thể hiểu sản phẩm du lịch được hợp thành bởi những bộ
phận sau (xét theo quá trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến đi du
lịch) :
- Dịch vụ vận chuyển;
- Dịch vụ lưu trú, ăn uống;
- Dịch vụ tham quan, giải trí;
- Hàng hoá tiêu dùng và đồ lưu niệm
- Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch
Theo luật Du lịch Việt Nam: Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ
cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch.
Theo Luật Du lịch Việt Nam: Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các
dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin,
hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
3.3.2. Phân loại
Có hai loại sản phẩm du lịch cơ bản:
- Sản phẩm du lịch hữu hình, tồn tại ở dạng vật thể : Ví dụ, đồ lưu
niệm, các món ăn, đồ uống khách du lịch sử dụng trong nhà hàng, ... Sản
phẩm dạng này chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong sản phẩm du lịch nói chung.
- Sản phẩm du lịch vô hình, tồn tại ở dạng phi vật thể và chỉ có thể

82
biết được thông qua cảm nhận của khách du lịch. Dạng sản phẩm này mang
tính dịch vụ bao gồm:
 Dịch vụ lưu trú và các dịch vụ bổ sung ở các cơ sở lưu trú;
 Các dịch vụ của các tổ chức du lịch;
 Dịch vụ giải trí công cộng ở các cơ sở du lịch;
 Dịch vụ lưu trú chữa bệnh và các dịch vụ tắm nghỉ gắn liền với
nó;
 Các dịch vụ của các cơ sở thể thao;
 Các dịch vụ vận tải du lịch;
 Các dịch vụ và hàng hoá được bán ở cơ sở Du lịch ngoài dịch vụ
cơ bản: làm đẹp, cắt tóc...
3.3.3. Đặc điểm
3.3.3.1. Đối với sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch tồn tại ở dạng vô hình (phi vật thể) là chủ yếu.
Thành phần dịch vụ trong sản phẩm du lịch thường chiếm tới 80% - 90% về
giá trị, còn sản phẩm là hàng hoá chiếm tỷ trọng khá nhỏ.
Sản phẩm du lịch được tạo ra căn bản nhờ yếu tố tài nguyên du lịch,
vì vậy sản phẩm du lịch không thể dịch chuyển được. Khác với sản phầm
của các hàng hoá tiêu dùng thông thường, sản phẩm du lịch chỉ có thể ở tại
chỗ, khách du lịch bắt buộc phải tìm đến nơi có sản phẩm du lịch. Đặc điểm
này cho thấy sản phẩm du lịch là rất đặc biệt nhưng cũng là một trong
những nguyên nhân gây khó khăn cho các nhà kinh doanh du lịch trong việc
tiêu thụ sản phẩm.
Phần lớn quá trình tạo ra sản phẩm và tiêu dùng sản phẩm trong hoạt
động du lịch là trùng nhau về cả không gian cũng như thời gian. Sản phẩm
du lịch không thể lưu kho, cất trữ như sản phẩm của các hàng hoá thông
thường.
Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường không diễn ra đều đặn, mà
có thể chỉ tập trung vào một thời điểm nhất định như cuối tuần (với hoạt
động du lịch cuối tuần), trong ngày (với hoạt động phục vụ ăn uống trong
nhà hàng), trong mùa (với các sản phẩm du lịch ở các địa phương có mùa du
lịch), ... Do đó, hoạt động du lịch thường mang tính mùa vụ khá rõ rệt và

83
đây cũng là một trong những khó khăn lớn cho việc tổ chức hoạt động kinh
doanh.
3.3.3.2. Đối với dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch có những đặc điểm như tính phi vật chất, tính trùng
khớp thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch, tính không
chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ, đặc tính của khách hàng khi tham gia
tiêu dùng sản phẩm du lịch, tính tổng hợp cao... Dưới đây, chúng ta sẽ
nghiên cứu chi tiết từng đặc tính của dịch vụ du lịch:
 Tính trùng khớp thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du
lịch.
Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng thể hiện sự khác biệt giữa
dịch vụ và hàng hóa. Đối với hàng hóa (vật chất) thông thường thì quá trình
sản xuất và tiêu dùng là tách rời nhau, không cùng trong một thời điểm.
Người ta có thể sản xuất hàng hóa ở một nơi khác và ở một thời gian khác
với nơi bán và tiêu dùng.
Còn đối với dịch vụ du lịch thì gần như thời gian sản xuất ra sản
phẩm du lịch trùng khớp với thời gian tiêu dùng sản phẩm. Bản thân sản
phẩm du lịch cũng mang tính vô hình, phi vật chất nên không thể đem sản
phẩm du lịch bán từ nơi này sang nơi khác như các hàng hoá vật chất thông
thường mà chúng ta vẫn luôn tiêu dùng hàng ngày. Do tính đồng thời, trùng
khớp như trên nên sản phẩm dịch vụ du lịch không thể lưu kho được. Ví dụ
như một chương trình du lịch 3 ngày 2 đêm được chào bán cho khách du
lịch thì thời gian ấy chính là lúc sản phẩm du lịch vừa được hình thành đồng
thời với hành trình của khách và cảm nhận của khách về chất lượng sản
phẩm.
Dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời nên cung - cầu cũng
không thể tác rời nhau. Cho nên việc tạo ra sự sẵn khớp giữa cung và cầu
trong du lịch là hết sức quan trọng.
 Tính phi vật chất
Không thể nhìn thấy hay thử nghiệm sản phẩm từ trước. Khách du
lịch chỉ có thể được sử dụng sản phẩm dịch vụ du lịch khi họ chính thức bắt
đầu mua sản phẩm và thông qua cảm nhận của họ, sản phẩm du lịch phi vật
chất đó là hoàn hảo, tốt hay không tết. Đánh giá qua cảm nhận của khách

84
hoàn toàn do cảm nhận chủ quan hay khách quan của khách du lịch. Đó là
đặc tính rất đặc biệt. Cho nên đối với du khách thì dịch vụ du lịch là trừu
tượng khi mà họ chưa một lần tiêu dùng nó.
Dịch vụ du lịch luôn được sử dụng song hành, đồng thời với những
sản phẩm vật chất, có thể nhìn thấy được nhưng dịch vụ mãi mãi tồn tại tính
phi vật chất của mình. Du khách thực sự rất khó đánh giá dịch vụ.
 Khách du lịch đồng hành cùng quá trình tạo ra dịch vụ
Mối quan hệ mật thiết giữa khách hàng và nhà sản xuất trong sự tác
động qua lại này trong dịch vụ được khẳng định sự phụ thuộc vào mức độ
làm nghề, khả năng cũng như ý nguyện của người tiêu dùng và người cung
cấp dịch vụ. Ngoài những đặc tính kinh tế, vai trò phục vụ của con người
(những người phục vụ trực tiếp cũng như gián tiếp trong du lịch) đóng một
vai trò rất quan trọng cho việc tạo nên ấn tượng tốt, xấu trong cảm giác, sự
tin tưởng, tình thân thiện về cá nhân, mối liên kết và những mối quan hệ
trong dịch vụ được coi trọng hơn như khi mua những hàng hoá tiêu dùng
khác.
Một khách du lịch có được một ấn tượng rất tốt đẹp về chuyến đi của
họ không có nghĩa là thứ tạo nên ấn tượng đó là vẻ đẹp thiên nhiên, sự sang
trọng của khách sạn, những món ăn ngon và những trò tiêu khiển, giải trí
hấp dẫn, mà còn là sự hài lòng, sự thoả mãn sau một chuyến đi với những
điều kiện dịch vụ tuyệt hảo, sự tận tình, chu đáo và thân thiện của những
người phục vụ trong suốt cuộc hành trình,...
Mức độ hài lòng của khách hàng phụ thuộc rất nhiều vào sự sẵn sàng
cũng như khả năng của nhân viên làm dịch vụ, khả năng thực hiện được ý
nguyện của khách hàng. Trong những trường hợp này thái độ và sự giao tiếp
với khách hàng còn quan trọng hơn cả các tiêu chí kỹ thuật, sản xuất và tiêu
dùng những loại dịch vụ này đòi hỏi phải tăng cường sự liên hệ của người
sản xuất với khách hàng. Trong thời gian cung cấp dịch vụ những chức năng
truyền thống đã gắn liền hai người bạn hàng (đối tác) với nhau trên thị
trường. Người tiêu dùng đồng thời trở thành người đồng sáng tạo trong quá
trình sản xuất dịch vụ. Người tiêu dùng tham gia hoặc là về mặt thể chất, trí
tuệ hay là về mức độ tình cảm trong quá trình tạo ra dịch vụ, xác định thời
gian cũng như các khả năng sản xuất. Các vấn đề có tính chất biểu trưng dó
có thể thấy được tại các quán ăn nhanh Mcdonald, khách sạn, cửa hàng,

85
ngân hàng, bảo hiểm và dịch vụ giao thông vận tải. Ở đây, sự tham gia về trí
tuệ của khách hàng trong quá trình tạo ra dịch vụ này được xác định như sự
phối hợp cùng sản xuất.
 Tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ
Đó là sự khác biệt rõ nét nhất với các hàng hoá vật chất thông
thường mà con người hàng ngày vẫn tiêu dùng, sử dụng. Với các mặt hàng
được sản xuất ra tại một thời điểm và sau đó được đem bán tới người tiêu
dùng. Ở một thời điểm khác thông qua các kênh phân phối sản phẩm, thì
người tiêu dùng chỉ cần bỏ tiền ra mua hàng hoá đó là được quyền sở hữu
sản phẩm.
Nhưng đối với dịch vụ khi được thực hiện thì không có quyền sở hữu
nào được chuyển từ người bán sang người mua. Người mua chỉ là đang mua
quyền đối với tiến trình dịch vụ. Chẳng hạn, khi đi du lịch, khách du lịch
được ở trong những khách sạn sang trọng, được sử dụng phương tiện vận
chuyển để đi lại, được chơi các trò chơi giải trí hấp dẫn, được thoải mái tắm
và nghỉ ngơi trên bãi biển nhưng trên thực tế họ không có quyền sở hữu đối
với chúng.
 Tính không thể di chuyển của dịch vụ du lịch
Vì các cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ
nên dịch vụ du lịch thuộc loại không di chuyển được, khách muốn tiêu dùng
dịch vụ thì phải đến các cơ sở du lịch.
Chẳng hạn, dịch vụ du lịch là một cơ sở lưu trú hay dịch vụ tài
nguyên du lịch.
Do đó để nâng cao chất lượng dịch vụ và đem lại hiệu quả kinh
doanh khi xây dựng các điểm du lịch cần lựa chọn địa điểm thoả mãn các
điều kiện tự nhiên: địa hình, địa chất, thuỷ văn, khí tượng, tài nguyên, môi
trường sinh thái và điều kiện xã hội: dân số, dân sinh, phong tục tập quán,
chính sách kinh tế, khả năng cung cấp lao động, cơ sở hạ tầng.
Đặc điểm này của dịch vụ du lịch đòi hỏi các cơ sở (doanh nghiệp)
du lịch tiến hành các hoạt động xúc tiến, quảng bá mạnh mẽ để kéo được du
khách đến với điểm du lịch.
 Tính thời vụ của dịch vụ
Dịch vụ có đặc trưng rất rõ nét ở tính thời vụ, ví dụ các khách sạn ở

86
các khu nghỉ mát thường vắng khách vào mùa đông nhưng lại rất đông
khách vào mùa hè, các nhà hàng trong khách sạn thường đông khách ăn vào
trưa hoặc chiều tối, hoặc các khách sạn gần trung tâm thành phố thường
đông khách vào ngày nghỉ cuối tuần. Chính đặc tính cầu cao điểm của dịch
vụ dẫn đến tình trạng cung cầu dịch vụ dễ mất cân đối vừa gây lãng phí cơ
sở vật chất lúc trái vụ và chất lượng dịch vụ có nguy cơ giảm sút khi gặp
cầu cao điểm. Vì vậy, các đơn vị thường đưa ra các chương trình khuyến
mại khách đi nghỉ trái vụ khi cầu giảm hoặc tổ chức quản lý tốt hàng chờ
khi cầu cao điểm.
 Tính trọn gói của dịch vụ du lịch
Dịch vụ du lịch thường là dịch vụ trọn gói bao gồm các dịch vụ cơ
bản, dịch vụ bổ sung, dịch vụ đặc trưng.
Dịch vụ cơ bản là những dịch vụ chính mà nhà cung ứng du lịch
cung cấp cho khách hàng nhằm thoả mãn nhu cầu cơ bản, không thể thiếu
được với khách hàng như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ phòng, dịch vụ nhà
hàng, bar, v.v ...
Dịch vụ bổ sung là những dịch vụ phụ cung cấp cho khách hàng
nhằm thoả mãn các nhu cầu không bắt buộc như dịch vụ cơ bản nhưng phải
có trong chuyến hành trình của du khách. Nhiều khi dịch vụ bổ sung lại có
tính chất quyết định cho sự lựa chọn của khách và có ảnh hưởng quan trọng
đến sự thoả mãn toàn bộ của khách hàng đối với dịch vụ trọn gói của doanh
nghiệp. Chẳng hạn, nếu khách sạn có số lượng dịch vụ bổ sung càng phong
phú, chất lượng của dịch vụ cao thì ngay cả khi giá cả không rẻ khách vẫn
đến đông và khi đó khách sạn kinh doanh sẽ rất có hiệu quả vì hệ số sử dụng
phòng cao, khách lưu trú dài ngày và tỷ lệ khách quay lại thường cao hơn so
với loại khách sạn có ít dịch vụ.
Dịch vụ đặc trưng là những dịch vụ thoả mãn nhu cầu đặc trưng của
du khách như tham quan, tìm hiểu, vui chơi giải trí, v.v... Việc thoả mãn các
nhu cầu này cũng chính là nguyên nhân và là mục đích của chuyến du lịch.
Tính chất trọng gói của dịch vụ du lịch xuất phát từ nhu cầu đa dạng và tổng
hợp của du khách. Mặt khác nó cũng đòi hỏi tính chất đồng bộ của chất
lượng dịch vụ.
Dịch vụ du lịch có những đặc điểm như tính phi vật chất, tính trùng
khớp thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch, tính không

87
chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ, đặc tính của khách hàng khi tham gia tiêu
dùng sản phẩm du lịch, tính tổng hợp cao... Dưới đây, chúng ta sẽ nghiên
cứu chi tiết từng đặc tính của dịch vụ du lịch:
 Tính trùng khớp thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du
lịch
Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng thể hiện sự khác biệt giữa
dịch vụ và hàng hóa. Đối với hàng hóa (vật chất) thông thường thì quá trình
sản xuất và tiêu dùng là tách rời nhau, không cùng trong một thời điểm.
Người ta có thể sản uất hàng hóa ở một nơi khác và ở một thời gian khác với
nơi bán và tiêu dùng.
Còn đối với dịch vụ du lịch thì gần như thời gian sản xuất ra sản
phẩm du lịch trùng khớp với thời gian tiêu dùng sản phẩm. Bản thân sản
phẩm du lịch cũng mang tính vô hình, phi vật chất nên không thể đem sản
phẩm du lịch bán từ nơi này sang nơi khác như các hàng hoá vật chất thông
thường mà chúng ta vẫn luôn tiêu dùng hàng ngày. Do tính đồng thời, trùng
khớp như trên nên sản phẩm dịch vụ du lịch không thể lưu kho được. Ví dụ
như một chương trình du lịch 3 ngày 2 đêm được chào bán cho khách du
lịch thì thời gian ấy chính là lúc sản phẩm du lịch vừa được hình thành đồng
thời với hành trình của khách và cảm nhận của khách về chất lượng sản
phẩm.
Dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời nên cung - cầu cũng
không thể tách rời nhau. Cho nên việc tạo ra sự săn khớp giữa cung và cầu
trong du lịch là hết sức quan trọng.

Câu hỏi hướng dẫn ôn tập chương 3


1. Trình bày một số thông tin về các tổ chức du lịch quốc tế.
2. Trình bày một số thông tin về các tổ chức quản lý du lịch của Việt Nam.
3. Trình bày những điều kiện để kinh doanh lữ hành quốc tế?
4. Trình bày những điều kiện để kinh doanh lữ hành nội địa?
5. Trình bày các xu hướng kinh doanh khách sạn trên thế giới hiện nay
6. Trình bày các loại hình cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú.
7. Trình bày các loại hình khách sạn nếu căn cứ vào thị trường mục tiêu.

88
Tài liệu tham khảo
1. Luật Du lịch năm 2017, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. TS. Trần Thị Mai (2006), Giáo trình Tổng quan du lịch, NXB Lao động
– Xã hội.
3. TS. Vũ Đức Minh (2008), Giáo trình Tổng quan du lịch, NXB Thống
kê.
4. http://en.unesco.org
5. www.cinet.gov.vn
6. http://www.vietnamtourism.gov.vn
7. http://ih-ra.com
8. http://www2.unwto.org

.......................................................................

89
Chương 4
Các loại hình du lịch
4.1. Căn cứ theo môi trường tài nguyên
4.1.1. Du lịch văn hóa
Du lịch văn hoá là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân
tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hoá truyền thống. Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du
lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục... gần đây du lịch
văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển,
thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những
sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong
tục tín ngưỡng... để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi
trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá văn
hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa mãn
nhu cầu của họ. Phần lớn hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa phương
- nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và cũng là nơi tồn tại đói nghèo. Khách du
lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn những lễ hội của các nước để tổ
chức những chuyến du lịch nước ngoài. Bởi thế, thu hút khách du lịch tham
gia du lịch văn hóa tức là tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của
người dân địa phương. Ở những nước kém phát triển hoặc đang phát triển,
nền tảng phát triển phần lớn không dựa vào những đầu tư lớn để tạo ra
những điểm du lịch đắt tiền, mà thường dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và
sự đa dạng trong bản sắc dân tộc. Những nguồn lợi này không tạo ra giá trị
lớn cho ngành du lịch, nhưng lại đóng góp đáng kể cho sự phát triển của
cộng đồng xã hội. Những quốc gia phát triển mạnh du lịch văn hóa là Thái
Lan, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, và một số nước thuộc khu vực Nam
Mỹ....
"Du lịch văn hóa là xu hướng của nhiều nước. Loại hình du lịch này
rất phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, rất tốt cho hoạt động xóa đói giảm
nghèo quốc gia, vì vậy phải được xem là hướng phát triển của ngành du lịch
Việt Nam", một quan chức của Vụ Hợp tác quốc tế thuộc Tổng Cục Du lịch
phát biểu. Ở Việt Nam, nhiều hoạt động du lịch văn hóa được tổ chức dựa
trên những đặc điểm của vùng miền. Chương trình Lễ hội đất Phương Nam

90
(Lễ hội văn hóa dân gian vùng đồng bằng Nam bộ), Du lịch Điện Biên (Lễ
hội văn hóa Tây Bắc kết hợp với sự kiện chính trị: 50 năm chiến thắng Điện
Biên Phủ), Con đường Di sản miền Trung (Lễ hội dân gian kết hợp tham
quan những di sản văn hóa được UNESCO công nhận)... là những hoạt động
của du lịch văn hóa, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Trong
số đó, Festival Huế được xem là hoạt động du lịch văn hóa đặc sắc nhất Việt
Nam. Lễ hội được tổ chức thường xuyên 2 năm một lần, với sự hỗ trợ của
Chính phủ Pháp. Festival Huế 2004 là lần thứ ba Việt Nam có dịp giới thiệu
với du khách về lễ hội dân gian của miền Trung, đặc biệt là Nhã nhạc cung
đình Huế - một di sản phi vật thể vừa được UNESCO công nhận; và Lễ tế
đàn Nam Giao - một lễ hội vương triều thất truyền từ hàng chục năm nay [6].
Ngoài ra, lễ hội dân gian này còn có sự tham gia của các nước Pháp, Trung
Quốc...
4.1.2. Du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với
bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển
bền vững [1]. Du lịch sinh thái (EcoTourism) là loại hình du lịch có trách
nhiệm tại các điểm đi lại của các khu vực thiên nhiên, bảo tồn được môi
trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương. Loại hình du lịch
này tuy ra đời khá muộn nhưng nó đă nhanh chóng trở thành một loại hình
du lịch có triển vọng và đang phát triển với tốc độ khá nhanh, đặc biệt là
trong các khu bảo tồn và vườn quốc gia. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu tiềm
năng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái trong khu bảo tồn thiên nhiên
nhằm gắn kết du lịch với bảo tồn và phát triển kinh tế cộng đồng địa phương
luôn được các cấp các ngành chú ý.
Du lịch sinh thái có nguồn gốc từ du lịch thiên nhiên và du lịch
ngoài trời. Thực ra loại hình du lịch này đă có từ rất lâu nhưng ít được con
người chú ý. Kể từ khi loại hình du lịch máy bay ra đời, cùng với sự phát
triển khá nhanh của ngành du lịch với mối quan tâm về vấn đề bảo vệ tài
nguyên môi trường, nhất là sau hội nghị thượng đỉnh về môi trường tổ chức
tại Stockholm (Thuỵ Điển) năm 1972 và tại Rio Dejanero (Brazil) năm 1992
thì du lịch sinh thái mới thực sự phát triển và được xem như là một công cụ
hữu hiệu để thoả măn sự khát khao của con người về với thiên nhiên, gắn

91
kết bảo vệ tài nguyên môi trường với phát triển du lịch bền vững.
Du lịch sinh thái có những đóng góp rất lớn về mặt kinh tế - xă hội ở
nhiều quốc gia. Chỉ tính riêng Kenya, năm 1994 du lịch sinh thái trở thành
một ngành xuất khẩu lớn nhất nước đóng góp 35% thu nhập ngoại tệ và
11% tổng sản phẩm quốc gia. Ở Mỹ, các hệ thống vườn quốc gia, khu bảo
tồn mỗi năm đón khoảng 270 triệu lượt khách đem về hàng chục tỷ đô la.
Một số nước như Mêxicô, Úc, Malaixia, Ecuado, Kenya, Brazil, Ethitopia...
du lịch sinh thái cũng đă đóng vai trò quan trọng trong việc thu đổi ngoại tệ.
Mặc dù chưa có con số thống kê cụ thể nhưng theo nghiên cứu sơ bộ
thì du lịch sinh thái đă đóng góp hàng trăm tỷ đô la trong thu nhập của nhiều
quốc gia, và ở Việt Nam du lịch sinh thái thu hút hàng triệu lượt khách du
lịch trong và ngoài nước với hàng trăm tỷ đồng [5].
Ngoài những lợi ích về mặt kinh tế, du lịch sinh thái đă mang lại
nhiều lợi ích trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển kinh tế cộng đồng. Ở
Costarica, Vênêxuêla... một số chủ trang trại chăn nuôi đă bảo vệ nhiều diện
tích rừng nhiệt đới quan trọng và biến những nơi này thành điểm du lịch
sinh thái tự nhiên, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương. Ecuado
sử dụng khoản thu nhập từ du lịch sinh thái tại đảo Galapago để duy trì
mạng lưới vườn quốc gia.... nhờ du lịch sinh thái mà người dân trong vùng
đệm ở các khu bảo tồn, vườn quốc gia phát triển các ngành nghề thủ công,
tham gia hoạt động du lịch để đảm bảo thu nhập, hạn chế sự tác động vào
rừng.
Ở Việt Nam, ngành du lịch phát triển tương đối muộn. Hoạt động du
lịch chỉ thực sự diễn ra sôi nổi từ sau năm 1990 gắn liền với chính sách mở
cửa của Đảng và Nhà nước. Theo số liệu thống kê từ năm 1990 đến 2002
lượng khách quốc tế tăng 10,5 lần (từ 250.000 đến 2.620.000) khách nội địa
tăng 13 lần (từ 1000.000 tăng lên 13.000.000). Thu nhập xă hội cũng tăng
đáng kể, năm 1991 là tỷ đồng đến năm 2002 là 23.000 tỷ đồng, trong đó
hoạt động du lịch sinh thái trong các khu bảo tồn và vườn quốc gia và du
lịch biển đóng góp một tỷ trọng lớn. Các số liệu thống kê ở một số vườn
quốc gia như Cúc Phương, Cát Bà, Côn Đảo, Bạch Mă ... các khu bảo tồn
thiên nhiên như Phong Nha-Kẻ bàng, Hồ Kẻ Gỗ... bình quân mỗi năm tăng
50% khách nội địa và 30% khách quốc tế. Trong giai đoạn từ 1995 – 1998

92
du lịch sinh thái đạt tăng trưởng 16,5%.
Du lịch sinh thái ở Việt Nam cũng đă có những đóng góp lớn cho sự
phát triển cộng đồng, bảo vệ tài nguyên môi trường. Nhờ phát triển du lịch
sinh thái mà đồng bào một số dân tộc, cư dân sinh sống trong vùng đệm các
vườn quốc gia, khu bảo tồn có được việc làm, nâng cao mức sống, các lễ hội,
tập tục, ngành nghề thủ công được bảo tồn và phát triển.
4.2. Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ
4.2.1. Du lịch quốc tế [1], [2]
Du lịch quốc tế được hiểu là chuyến đi từ nước này sang nước khác.
Ở loại hình du lịch này, khách du lịch phải đi qua biên giới và tiêu ngoại tệ
ở nơi đến du lịch. Du lịch quốc tế chia làm hai loại:
Du lịch quốc tế chủ động (Inbound Tourism): Nước chủ nhà chủ
động đón khách từ các nước tới tham quan và làm tăng thu nhập ngoại tệ.
Du lịch quốc tế bị động (Outbound Tourism): Là nước này gửi
khách đi du lịch sang nước khác và phải mất một khoản ngoại tệ.
Sự phát triển loại hình du lịch này là cơ sở cho các mối quan hệ hợp
tác cùng có lợi về các mặt kinh tế, văn hoá xã hội gữa các quốc gia. Tuỳ
theo điều kiện củ thể của từng giai đoạn, mỗi nước phải tự xem xét nên phát
triển du lịch quốc tế chủ động hay du lịch quốc tế bị động.
4.2.2. Du lịch nội địa
Chuyến đi của người du lịch từ chỗ vùng này sang chỗ khác nhưng
trong phạm vi đất nước mình chi phí bằng tiền nước mình. Điểm xuất phát
và điểm đến nằm trong lãnh thổ nước mình. Loại hình du lịch này phát triển
ở các nước đang phát triển và kém phát triển. Nguyên nhân chủ yếu là do
điều kiện kinh tế của người dân.
4.3. Căn cứ theo vị trí địa lí
Một đặc điểm quan trọng của du lịch hiện đai và có ý nghĩa lớn đối
với phân bố là tính chất giải trí đối lập nhau tức là người du lịch thường tìm
tới môi trường đối lập với nơi họ thường sinh sống. Thí dụ, những người
dân sống ở các thành phố thì thích các hình thức nghỉ ngơi, du lịch gắn với
thiên nhiên, với vùng quê yên tĩnh; ngược lai, những người sống ở nông
thôn thường bị hấp dẫn tại các thành phố lớn... đặc điểm này là một nhân tố

93
quan trọng quyết định các loại hình xét theo vị trí địa lí sau:
4.3.1. Du lịch nông thôn
Loại hình này mới phát triển trong những năm gần đây. Khách du
lịch chủ yếu là những người sống ở thành phố chủ yếu là tìm tới chốn
yên tĩnh để nghỉ ngơi hoặc tìm về kí ức của tuổi thơ, thưởng thức hương vị
của đồng quê với những món ẩm thực ngon lạ. Ở Việt Nam, nếu phát triển
được loại hình du lịch này có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao mức sống
của người dân.
Từ Hội An (Quảng Nam), du khách có thể đến Trà Quế bằng xe đạp,
bằng du thuyền… và làng rau Trà Quế với những loại rau thơm độc đáo
được canh tác theo cộng nghệ trồng rau sạch đã thật sự cuốn hút du khách.
đến đây, du khách được hướng dẫn cách trồng rau, cách bón phân, cách
tưới nước, đến cách chế biến và thưởng thức các món rau và những món ăn
thuần tuý của địa phương như mỳ Quảng, Cao lầu, cá hấp rau… đồng thời
du khách được sống trong bầu không khí trong lành, thật sự thư giãn khi
cảm nhận nét thanh bình của làng quê Việt Nam.
Nông nghiệp cũng tìm được chỗ đứng trong du lịch nông thôn vì nó
có nhiều cái có thể đóng góp: tính xác thực, các sản phẩm chất lượng cao,
không gian rộng, di sản… Nó tham gia vào việc đa dạng hóa du lịch. Nhưng
các hoạt động đón tiếp đòi hỏi một mức chuyên nghiệp cao.
Tính đa chức năng của nông nghiệp ngày nay được công nhận rộng
rãi: như vậy, có nghĩa là ngoài việc sản xuất nông nghiệp còn có các nhiệm
vụ khác: lãnh thổ, môi trường, xã hội… Và trong trường hợp này việc đón
tiếp ở nông trại dưới mọi hình thức, du lịch nông nghiệp minh họa tính đa
chức năng ấy: một nền nông nghiệp mở cửa cho các thành phần xã hội khác
thường khao khát không gian và phát minh, đồng thời hoạt động bảo tồn di
sản và tham gia vào sinh hoạt kinh tế xã hội của nông thôn.
Thông qua hoạt động sản xuất nông dân đóng góp vào tính thu hút
của môi trường nông thôn: cảnh quan được gìn giữ. Đối với các người hoạt
động đón tiếp ở nông trại, họ đã tham gia vào sự đa dạng hóa cung cấp du
lịch. Những địa phương có tham vọng phát triển du lịch phải cung cấp được
nhiều kiểu ăn ở và hoạt động đa dạng có thể thu hút các kiểu khách hàng
khác nhau: việc “độc canh” du lịch không thể là giải pháp cho các địa

94
phương. Phải có các làng - nghỉ ngơi, các nhà ở nông thôn, các hiệu ăn, các
nông trại - quán ăn, các khách sạn, các nơi cắm trại… Các khung cảnh khác
nhau của các địa phương tăng thêm tính đa dạng của du lịch nông thôn.
Ở Pháp có nhiều mạng lưới du lịch nông thôn như Mạng lưới “Nhà ở
nước Pháp” (Gites de France), Mạng lưới “đón tiếp nông dân” (Acceuil
paysan), “Chào đón ở nông trại” (Bienvenue à la ferme)…
Các mạng lưới du lịch “Nhà ở nước Pháp”, “đón tiếp nông dân”,
“Chào đón ở nông trại”… là mạng lưới khắp nước Pháp của các nhà nông
dân được sửa chữa lại để đón khách du lịch. Đây không phải là các nhà mới
xây dựng với tiện nghi hiện đại mà là các nhà cổ truyền có ngăn các phòng
cho khách ở với các tiện nghi vệ sinh tối thiểu. Các nhà phải giữ được
phong cách địa phương.
Nông dân nào muốn tham gia vào mạng lưới du lịch nông thôn phải
sửa chữa nhà cửa của mình cho hợp với tiêu chuẩn của hệ thống du lịch. Các
mạng lưới này mở lớp huấn luyện về dịch vụ du lịch, kiểm tra và xếp hạng
các nhà nông dân theo tiêu chuẩn du lịch từ 1 đến 5 sao và quy định giá thuê.
Các mạng lưới này phát hành các sách hướng dẫn du lịch để thông tin cho
khách hàng.
Có nhiều loại cơ sở khác nhau. Khách hàng đến ở nhà nông dân,
cùng sinh hoạt và làm việc với họ, tham gia các hoạt động văn hóa và đi
thăm các thắng cảnh trong vùng. Có các loại hình sau đây:
- Nhà khách: tiếp khách như “bạn” của gia đình, có phòng ngủ, bàn
ăn với món ăn cổ truyền.
- Nhà đón tiếp trẻ em: đón từng nhóm khoảng 10 trẻ em thành thị
muốn sống ở nông thôn vài ngày để biết thế nào là nông thôn. Trẻ em được
vui chơi, ăn ngủ với trẻ em nông thôn và có người phụ trách.
- Trại hè: là một miếng đất gần một di tích văn hóa, lịch sử được tổ
chức để có thể căng lều trại, nhà vệ sinh, bếp ăn ngoài trời có thể tiếp các
nhóm khoảng 20 thanh thiếu niên về ở và du lịch quanh vùng.
- Trạm dừng chân: là nhà nghỉ chân trên các lộ trình du lịch đi bộ,
xe đạp, xe máy gần các di tích lịch sử để các đoàn du lịch có thể nghỉ chân,
ăn uống.

95
- Nhà nghỉ: có thể đón tiếp các gia đình về nghỉ ở nông thôn
trong vài ngày.
- Nhà sàn vui chơi: tổ chức các nhóm 3 đến 25 nhà sàn có thể tiếp 6
người ăn, ngủ. Xung quanh có các nơi vui chơi như đi câu, đi săn, đi xe đạp,
dạo chơi... ở các di tích lịch sử, văn hóa hay có phong cảnh đẹp.
Các vùng ở Pháp có các chương trình hỗ trợ phát triển du lịch nông
thôn. Các hộ nông dân muốn tổ chức các nhà khách trình các kế hoạch. Nếu
kế hoạch được duyệt sẽ được ký hợp đồng và trợ cấp 30 - 40% chi phí để
sửa chữa và trang bị nhà khách.
4.3.2. Du lịch thành thị
Khách du lịch muốn tham quan những thành quả của sự phát triển
kinh tế, xã hội với những toà nhà cao tầng, những nhà máy, công viên, các
công trình kiến trúc đồ so và đi mua sắm. Đối tượng khách chủ yếu là những
người sống ở nông thôn, những người sống ở thành phố cấp II, III, các thị xã
(đối với du lịch nội địa), khách du lịch ở các nước kém phát triển và đang
phát triển (đối với du lịch quốc tế).
4.3.3. Du lịch biển
Một nhà thơ đã nói ví von rằng: “Thế giới ¾ nước mắt” (đại
dương). Bên cạnh tạo điều kiện để phát triển thuỷ hải sản, giao thông đường
thủy, biển còn có ý nghĩa rất lớn về du lịch. Hiện nay, du lịch biển đón một
lượng khách lớn trên phạm vi thế giới. Du lịch biển với hai chức năng chính
là chữa bệnh và thể thao... cho nên chúng ta có thể gọi đây là loai hình này
là loại hình du lịch tổng hợp (du lịch nghỉ dưỡng và du lịch thể thao). Người
ta cho rằng một bãi biển đep, thu hút khách du lịch phải hội tụ các yếu tố:
Sun (ánh nắng) – Sea (biển) – Sand (cát). Các bờ biển đẹp, nước trong xanh,
cát trắng mịn, luôn chan hoà ánh nắng là điều kiện hấp dẫn khách du lịch.
Nhìn chung các nước vùng nhiệt đới là các nước phát triển mạnh về du lịch
biển.
4.3.4. Du lịch miền núi
Hiện nay du lịch biển đang thu hút lượng khách tham quan nhiều
nhất nhưng trong tương lai thì du lịch nghỉ núi sẽ chiếm ưu thế. Du lịch nghỉ
núi thường gắn với hoạt động thể thao, chữa bệnh, hoà mình vào thiên nhiên

96
để thư giãn, lấy lại sự thăng bằng về tâm lí.
Các điểm nghỉ mát Tam đảo, Sa Pa, Đà Lạt, Ba Vì… là những điểm
nghỉ dưỡng núi đã xuất hiện khá lâu ở nước ta. Ngoài loại hình này, do tính
độc đáo và tương phản cao, miền núi còn rất thích hợp cho việc xây dựng và
phát triển các loại hình du lịch tham quan, cắm trại, mạo hiểm…
4.4. Căn cứ theo hình thức tổ chức
4.4.1. Du lịch cá nhân
Khách tự chọn cho mình một chương trình tham quan nghỉ ngơi
trong số rất nhiều chương trình du lịch do nhà tổ chức kinh doanh ấn định
hoăc tự vạch ra chuyến hành trình, kế hoạch lưu trú, địa điểm ăn uống tuỳ
nghi. Loại hình này phát triển nhanh chóng và chiếm ưu thế trong những
năm gần đây. Ưu điểm của du lịch đi lẻ là không bị lệ thuộc về thời gian, có
thể kết hợp làm các việc khác, nói tóm lại là tự do. Nhược điểm là khách
hầu như là phải tự lo tất cả các việc, vào mùa du lịch cao điểm, thường khó
khăn trong việc đặt phòng, thuê xe du lịch.
4.4.2. Du lịch theo đoàn
Loại hình này thường gắn với việc kinh doanh ỏ các công ty lữ
hành. Khách được tổ chức đi tập thể theo một chương trình định sẵn, cùng
phương tiện vẩn chuyển, cùng một HDV và thường trả theo giá trọn gói. đối
tượng khách chủ yếu là cá các nhân làm việc trong cùng một cơ quan, hoặc
có mối quan hệ bạn bè. Du lịch theo đoàn phổ biến ở các nước xã hội chủ
nghĩa. Ưu điểm của du lịch theo đoàn là khách an tâm trong việc tham quan,
mọi việc đá có HDV và công ty lữ hành lo. Nhược điểm là bị lệ thuộc vào
thời gian chuyến đi, phụ thuộc vào chương trình của đoàn.
4.5. Căn cứ theo phương thức hợp đồng
4.5.1. Du lịch trọn gói
Khách du lịch thường kí hợp đồng trọn gói với các công ty lữ hành
khi muốn tham gia vào một tuyết du lịch với một số tiền nhất định. Thường
các các dịch vụ trọng gói mà công ty lữ hành liên kết với các đơn vị kinh
doanh khác nhau cung cấp cho khách đó là:
- Dịch vụ lưu trú;
- Dịch vụ vận chuyển;

97
- Dịch vụ ăn uống;
- Dịch vụ hướng dẫn;
- Dịch vụ bảo hiểm;
- Vé tham quan.
Như vậy khách sẽ được công ty lữ hành lo cho hết các quy trình và
nhiệm vụ chính là thưởng thức, cảm nhận các dịch vụ.
4.5.2. Du lịch từng phần
Du khách chọn một hay vài dịch vụ của các công ty du lịch, có thể là
dịch vụ lưu trú, có thể là dịch vụ ăn uống, có thể là vận chuyển, v.v… Còn
lại khách tự tổ chức và liên hệ các dịch vụ khác nhau hay tự mình có.
4.6. Căn cứ theo phương tiện vận chuyển
4.6.1. Du lịch đường bộ
Du lịch xe đạp: Vừa kết hợp tham quan và thể thao, và tất nhiên tiết
kiệm một số tiền về phương tiện đi lại để phục vụ vào mục đích khác. Bên
cạnh đó du khách có thể xâm nhập dể dàng với cuộc sống dân bản xứ và đi
tới những nơi đường sá chưa phát triển. Loại hình nay chủ yếu xuất hiện và
được ưa chuộng ở châu Âu, đặc biệt ở các nước có địa hình bằng phẳng như
Hà Lan, Đan Mạch. Đối với khách nước ngoài tại Việt Nam, còn đối với
người Việt Nam thì rất hiếm, chỉ có một số cơ sở làm dịch vụ cho khách là
người nước ngoài thuê xe đạp, xe gắn máy đi du lịch (phố Phạm Ngũ Lão –
Tp. Hồ Chí Minh).
Du lịch xe ô tô: Loại hình du lịch này gắn liền với kĩ nghệ sản xuất
xe hơi. Người ta dự tính rằng trung bình trên thế giới sản xuất 25 triệu xe
hơi trong một năm. Ở những nước công nghiệp phát triển hầu như gia đình
nào cũng có xe con. Ở Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Đức du lịch ô tô chiếm trên
90%. Sử dụng ô tô có thể đi được nhiều nơi, thích hợp với nhiều dạng địa
hình. Các gia đình thường dùng ô tô nghỉ ngơi cuối tuần. đặc biệt sự phát
triển du lịch nội địa gắn liền với loại hình du lịch ô tô du lịch ô tô.
Tuy nhiên, một số khách thường bị dị ứng khi đi du lịch bằng ô tô.
điều này thường dẫn tới tâm lý ngần ngại của du khách, ảnh hưởng đến
quyết định chọn sản phẩm du lịch của họ.

98
4.6.2. Du lịch đường hàng không
Là một trong những loại hình tiên tiến nhất, đáp ứng nhu cầu của
khách, có thể tới tham quan, nghỉ dưỡng tại những nước, những vùng xa xôi
nhất, tranh thủ sử dụng những ngày nghỉ cuối tuần trong thời gian di chuyển
ngắn nhất. Trang thiết bị, tiện nghi và phục vụ chu đáo của ngành hàng
không ở nhiều nước làm cho khách du lịch rất ưa chuộng. Nhược điểm là
giá thành vận chuyển cao, không phù hợp với tầng lớp có nhu cầu thấp.
Các phương tiện chính trong loại hình du lịch bằng đường không mà
chúng ta thường gặp là: máy bay dân dụng, máy bay lên thẳng, khinh khí
cầu, cáp treo, các tàu vũ trụ.
4.6.3. Du lịch đường thủy
Từ xa xưa vua chúa đã đi du ngoạn bằng thuyền trên sông, hồ, biển.
Ngày nay, nhiều hãng tàu có các loại tàu với chất lượng tương đương khách
sạn 5 sao với nhiều loại dịch vụ phong phú như thể thao, bơi, matxa.v.v…
có thể đáp ứng nhu cầu cao của du khách. đối tượng khách là những người
có thu nhập cao. Loại hình du lịch này là trọn gói, đặc biệt thích hợp với
những chuyến du lịch dài ngày, ghé thăm nhiều nơi, nhiều quốc gia.
4.7. Căn cứ vào mục đích chuyến đi
4.7.1. Theo mục đích chung
Du lịch tham quan: Tham quan là hành vi quan trọng của con
người với mục đích chính là nâng cao hiểu biết cho cá nhân, loại hình du
lịch này thoả mãn lòng ham hiểu biết và ham thích nâng cao văn hoá thông
qua các chuyến đi du lịch đến những nơi lạ để tìm hiểu các di sản văn hoá,
di tích lịch sử, các công trình kiến trúc nghệ thuật, các lễ hội độc đáo, các
làng nghề thủ công truyền thống, các bản làng của ngưòi dân tộc thiểu số,
phong tục tập quán và tìm hiểu những thành quả kinh tế, chế độ xã hội,
chất lượng cuộc sống của mỗi địa phương mỗi quốc gia và có thể là một
phong cảnh thiên nhiên kỳ thú…. Loại hình du lịch tham quan có tác dụng
nhận thức là rất lớn, tác dụng giải trí không hiện hình hoặc có ý nghĩa thứ
yếu. Thời gian lưu lại của khách đối với loại hình này trong thời gian rất
ngắn, thường kéo dài một giờ, hoặc một vài phút. đối tượng của loại hình du
lịch này thường là những người có văn hoá cao như nhà giáo, nhà khoa học,
nhà sử học, nhà báo…. Ưu thế của loại hình du lịch này là đại bộ phận
99
không chịu ảnh hưởng của tính mùa vụ. Điều này nó giúp cho sự cân bằng
trong việc phát triển du lịch.
Du lịch giải trí: Mục đích chuyến đi là thư giãn, xả hơi, bứt ra khỏi
công việc thường nhật căng thẳng để phục hồi sức khỏe (vật chất cũng như
tinh thần). Trong chuyến đi, nhu cầu giải trí là nhu cầu không thể thiếu được
của du khách. Do vậy, ngoài thời gian tham quan, nghỉ ngơi, cần thiết có các
chương trình vui chơi, giải trí trong chuyến đi cho du khách trong chuyến đi.
Với sự phát triển của xã hội, mức sống gia tăng, số người đi du lịch chỉ
nhằm mục đích giải trí, tiêu khiển bằng các trò chơi cũng gia tăng đáng kể.
để đáp ứng xu thế này cần quan tâm mở rộng các loại hình và các cơ sở vật
chất kỹ thuật phục vụ vui chơi giải trí như các khu du lịch, làng du lịch,
công viên, khu vui chơi giải trí, sòng bạc… Ở Việt Nam, tuy các khu vui
chơi giải trí còn chưa hiện đại do hoàn cảnh kinh tế chưa cho phép song
cũng đã thu hút được khá đông khách trong và ngoài nước, nhất là trong các
dịp lễ tết. Ví dụ rõ về mặt này là khu du lịch Đầm Sen, Suối Tiên ở Thành
phố Hồ Chí Minh. Muốn phát triển loại hình du lịch này cần quan tâm đến
các dự án cùng với việc đầu tư, quy hoạch du lịch, đào tạo cán bộ nhân viên.
Du lịch nghỉ dưỡng: Du khách tìm đến các bãi biển, vùng suối nước
khoáng, nước nóng có giá trị y học cao để chữa bệnh. Bên cạnh đó do đời
sống công nghiệp, sự làm việc căng thẳng nên tranh thủ những ngày nghỉ
tìm đến với thiên nhiên, hoà mình vào thiên nhiên để thay đổi môi trường
sống hàng ngày, tránh tình trạng stress. Vì vậy, không gian du lịch phải
thoáng mát, yên tĩnh. Và điều quan trọng là phải có đội ngũ phục vụ chuyên
nghiệp. Thời gian lưu lại của khách đối với loại hình du lịch này là rất lớn.
đối tượng khách chủ yếu của loại hình du lịch này công nhân lao động,
người già. Ngày nay ở Việt Nam, các bộ ngành đang có xu hướng xây dựng
các nhà nghỉ tại các bờ biển đẹp vừa kinh doanh, vừa tạo điều kiện cho cán
bộ công nhân đi nghỉ vào dịp hè. Do chịu ảnh hưởng của điều kiện thời tiết,
khí hậu nên hiệu suất sử dụng không cao hay nói cách khác loại hình này
chịu ảnh hưởng của tính mùa vụ.
4.7.2. Theo mục đích riêng [4]
Du lịch thể thao: Nhu cầu, sở thích của khách gắn với các môn thể
thao. Loại hình này có hai loại khách chính đó là vận động viên trực tiếp

100
tham gia thi tài ở các kì Thế Vận hội, World cup hoặc đến các vùng có tiềm
năng thể thao như leo núi, trượt tuyết, săn bắn, bơi lội… (chủ động) và các
cổ động viên xem các cuộc thi đấu và cổ vũ (bị động). Loại hình du lịch thể
thao là một trong những loại hình đem lại nguôn thu rất lớn cho địa phương
vì nó thu hút một lượng lớn khách du lịch. Không phải ngẫu nhiên mà các
quốc gia trên thế giới ngày càng ra sức chạy đua để được đăng cai một kì
Thế vận hội, World cup bên cạnh việc thu lợi nhuận là quảng bá hình hình
ảnh đất nước nhằm mục đích phát triển du lịch.
Chúng ta thấy rằng, đối với các tổ chức kinh doanh lữ hành của quốc
gia hay địa phương đăng cai tổ chức thể thao hoàn toàn có thể chủ động đón
những đối tượng tham gia vào cuộc thi (khách du lịch thể thao chủ động).
Nhưng họ lại hoàn toàn không thể đoán trước mà chỉ dự báo được số du
khách tới xem (khách du lịch thể thao bị động). Vì vậy trong phạm vi này có
thể cho rằng các công ty lữ hành phải đóng vai trò bị động.
Trong điều kiện hiện nay, đối tượng du khách có xu hướng phát triển
nhanh, vì thế đứng ở góc độ bị động đối với đối tượng du khách này, các
nhà kinh doanh du lịch phải xây dựng tính dự báo đảm bảo tính thuyết phục,
tránh cung cấp dịch vụ quá dư thừa hoặc quá thiếu theo nhu cầu của du
khách tới xem hoạt động thể thao.
Hiệu quả du lịch từ khách du lịch bị động là không thể phủ nhận
được, chính vì vậy một trong những mục đích chính của quốc gia giành giật
đăng cai tổ chức các kỳ thể thao lớn không nằm ngoài mục đích như được
nguồn tài chính lớn từ khách du lịch.
Du lịch tôn giáo: Loại hình này thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc
biệt của những người theo các tôn giáo khác nhau (hiện nay, trên thế giới có
các tôn giáo lớn như đạo Thiên Chúa, đạo Hồi, đạo Phật, đạo Tin Lành, Nho
giáo, Do Thái…). Đây là loại hình du lịch lâu đời rất phổ biến ở các nước tư
bản. Vì tôn giáo là nhu cầu tinh thần và là tín ngưỡng trong những cá nhân
theo tôn giáo của họ, do đó động cơ đi và đến những nơi cội nguồn của tôn
giáo là mong muốn và là nguyện vọng hàng năm của họ. Ngoài ra còn có
những đối tượng không thuộc thành phần tôn giáo, nhưng họ lại có xu
hướng hiếu kỳ khi tham gia vào các hoạt động mang tính tôn giáo. Chính
điều này mà mỗi năm tất cả các quốc gia trên thế giới hoạt động du lịch tôn

101
giáo là rất lớn và không ngừng tăng trưởng về số lượng du khách trên phạm
vi khả năng thanh toán. Các trung tâm nổi tiếng thế giới của loại hình du
lịch này là Vanticăng, Gieruxalem, Mec-ca, v.v… Ở Việt Nam, vào mùa
xuân, các tín đồ Phật giáo hành hương về Yên Tử - nơi khởi nguồn của đạo
Phật phái Trúc Lâm, Chùa Hương, thăm nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình),
v.v…
Hoạt động hướng dẫn tham quan đối với loại hình du lịch này đòi
hỏi phải có quá trình khảo sát, chọn lọc và được chuẩn bị theo một chương
trình nhất định. Khi giới thiệu cần phải định hướng cho khách về thông tin
biểu hiện tính tích cực, tránh thần thánh hoá, tránh đưa con người vào bi
quan, bi lụy.
Du lịch thăm hỏi: Nảy sinh do nhu cầu giao tiếp xã hội nhằm gặp
mặt, thăm hỏi, trò chuyện, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn cùng bà con, họ
hàng, bạn bè thân quen… Hình thức du lịch này có ý nghĩa quan trọng đối
với những nước có nhiều người sống ở nước ngoài như Việt Nam, Ý, Anh,
Tây Ban Nha, Nam Tư. Đối tượng của loại hình du lịch này thường đi trong
thời gian dài ngày và thường diễn ra vào thời điểm sự kiện quan trọng như
dịp tết, quốc khánh, lễ hội.... Khách du lịch gần như chỉ mua những dịch vụ
không trọn gói của các công ty lữ hành. Và mỗi lần trở về thăm quê hương,
khách du lịch thuộc loại hình này mang về một lượng ngoại tệ lớn, tạo điều
kiện tích lũy ngoại tệ cho quốc gia.
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có đối tượng Việt kiều
rất đông và hàng năm có tới vài trăm ngàn người về thăm quê hương, là một
thị trường khách mà các nhà kinh doanh lữ hành quốc tế tại Việt Nam đang
hướng tới. Ngoài ra, trong phạm vi du lịch thăm thân nội địa cũng rất phổ
biến, âu cũng chính là do đặc điểm lịch sử để lại.
4.7.3. Theo trách nhiệm
Du lịch MICE: MICE là loại hình du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo,
triển lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen thưởng của các công ty cho nhân
viên, đối tác. MICE - viết tắt của Meeting (hội họp), Incentive (khen
thưởng), Convention (hội nghị, hội thảo) và Exhibition (triển lãm). Tên đầy
đủ tiếng Anh là Meeting Incentive Conference Event. Bởi vậy các đoàn
khách MICE thường rất đông (vài trăm khách) và đặc biệt mức chi tiêu cao

102
hơn khách đi tour bình thường (do Ban tổ chức các hội nghị quốc tế bao giờ
cũng đặt phòng cho khách ở khách sạn 4 - 5 sao, dịch vụ cao, tour sau hội
nghị phải thiết kế chuyên biệt theo yêu cầu…). MICE hiện là loại hình du
lịch mang lại nguồn thu rất lớn cho ngành du lịch ở các nước.
Đối với Việt Nam loại hình du lịch này đã được các công ty trong
ngành du lịch khai thác từ nhiều năm nay, bước đầu đã có kết quả khả quan.
Khai thác thị trường MICE là một trong những mục tiêu của chiến lược phát
triển ngành du lịch Việt Nam.
Đánh giá về tiềm năng phát triển MICE, đoàn chuyên gia WTO cho
rằng: VN có tiềm năng rất lớn và nếu phát triển MICE sẽ là đối thủ đáng
ngại của Singapore (trung tâm thu hút MICE lớn nhất Đông Nam Á hiện
nay). Cảnh quan thiên nhiên ưu đãi, nhiều di sản văn hóa, thiên nhiên thuộc
hàng kỳ quan thế giới, bãi biển đẹp, hệ thống khách sạn, resort phát triển…
Tuy nhiên, theo WTO để MICE phát triển Việt Nam nên thành lập MICE
Bureau (tổ chức xúc tiến phát triển MICE), xây dựng chiến lược marketing,
cải thiện ngay hạ tầng phục vụ khách MICE: visa, sân bay, hệ thống khách
sạn, trong đó, việc xác định vị trí xây dựng trung tâm hội chợ triển lãm quốc
tế rất quan trọng: nó phải gần sân bay, khách sạn, thuận tiện đi lại, giao dịch.
Các giải pháp khác phải hướng vào việc phân tích số liệu thông tin thị
trường, thiết lập chiến lược thông tin quảng bá MICE và xây dựng
website, phát triển thương mại điện tử, mở các lớp đào tạo nguồn nhân lực
trong và ngoài nước.
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập Chương 4
Anh/Chị hãy cho biết các loại hình du lịch hiện nay?
Tài liệu tham khảo
2. Luật Du lịch năm 2017, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Trần Thị Mai (2006), Giáo trình Tổng quan du lịch, Nxb Lao động – Xã hội.
4. Võ Văn Thành (2015), Giáo trình Tổng quan du lịch, Nxb Văn hóa-Văn
nghệ, HCM.
5. Trần Văn Thông (2004), Tổng quan du lịch, TP Hồ Chí Minh.
6. www.vacne.org.vn/du-lich-sinh-thai-mang-lai-nguon-thu-dang-ke
7. www.vietnamtourism.com.vn
.....................................................................

103
Chương 5
Tài nguyên du lịch và điểm đến du lịch

5.1. Tài nguyên du lịch [4]


Tài nguyên du lịch là điều kiện quan trọng để hình thành và phát
triển du lịch của bất kỳ quốc gia hay địa phương nào.
Tài nguyên du lịch là tất cả các yếu tố thiên nhiên, nhân văn, xã hội
và sự kiện có thể kích thích động cơ du lịch của khách du lịch, thu hút khách
du lịch đến, được ngành du lịch khai thác để đáp ứng nhu cầu của khách du
lịch và mang lại lợi ích kinh tế xã hội cho quốc gia, địa phương.
Theo chương I, điều 4 Luật Du lịch Việt Nam “Tài nguyên du lịch là
cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình
lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được
sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản hình thành các khu
du lịch, điểm đến du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”.
Tài nguyên du lịch bao gồm nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, tài
nguyên du lịch được phân loại thành tài nguyên du lịch thiên nhiên và tài
nguyên du lịch nhân tạo.
5.1.1. Tài nguyên du lịch thiên nhiên [2], [3]
Tài nguyên du lịch thiên nhiên bao là những yếu tố thuộc về tự nhiên
được ngành du lịch đưa vào khai thác và phục vụ tham quan du lịch. Tài
nguyên du lịch thiên nhiên là điều kiện hết sức quan trọng để phát triển loại
hình du lịch sinh thái, thể thao, nghỉ dưỡng, nghiên cứu,… Đây cũng là
thành phần không thể thiếu trong điều kiện hình thành và phát triển du lịch.
Giá trị hấp dẫn của tài nguyên được thể hiện thông qua các nội dung sau đây:
5.1.1.1. Địa hình
Địa hình trên bề mặt trái đất mà chúng ta có thể thấy là do một quá
trình biến đổi địa chất lâu dài. Trong chừng mực nhất định, mọi hoạt động
sống của con người trên lãnh thổ đều phụ thuộc vào địa hình. Đối với hoạt
động du lịch, địa hình đóng một vai trò quan trọng với việc thu hút khách.
Việt Nam được xem là quốc gia có sự đa dạng về địa hình do vị trí địa lý tạo
nên. Nước ta kéo dài từ Bắc tới Nam là một dải đất hình chữ S, phía Đông

104
giáp biển, phía Tây được bao bọc bởi dãy núi Trường Sơn hùng vĩ đã tạo
nên những kiểu địa hình rất có giá trị thu hút khách.
Địa hình đồng bằng tương đối đơn điệu về ngoại cảnh nhưng là nơi
tập trung tài nguyên du lịch nhân văn, đặc biệt là các di tích lịch sử văn hoá
và là nơi hội tụ các nền văn minh của loài người.
Địa hình đồi thường tạo ra không gian thoáng đãng, nơi tập trung
dân cư tương đối đông đúc, lại là nơi có những di tích khảo cổ và tài nguyên
văn hóa, lịch sử độc đáo, tạo khả năng phát triển loại hình du lịch tham quan
theo chuyên đề.
Địa hình núi có ý nghĩa lớn nhất đối với phát triển du lịch, đặc biệt là
khu vực thuận lợi cho tổ chức du lịch mùa đông, và các loại hình du lịch thể
thao như leo núi, du lịch sinh thái, v.v….
Địa hình Karst được tạo thành do sự lưu thông của nước trong các
loại đá dễ hòa tan như đá vôi hay đá đôlômít và hòa tan một phần các chất
trong các loại đá này theo thời gian. Quá trình hòa tan dưới bề mặt đá sẽ
diễn ra nhanh hơn nếu đá có nhiều khe nứt và tạo ra địa hình với các đặc
trưng riêng biệt, bao gồm các hố sụt hay thung lũng, các đường thông thẳng
đứng. Sau một thời gian đủ lớn, các hệ thống thoát nước ngầm phức tạp này
và các hệ thống hang động có phạm vi rộng có thể được tạo ra.
Ở Việt Nam, động Phong Nha, động Thiên Đường (Quảng Bình)
được coi là hang động đẹp nhất thế giới. Bên cạnh đó chúng ta còn phải kể
tới như động Tiên Cung, Đầu Gỗ (Hạ Long), Tam Cốc – Bích Động (Ninh
Bình), Hương Tích (Hà Tây),… đang rất thu hút khách du lịch.
Địa hình bờ bãi biển là nơi tiếp xúc giữa đất liền và biển. Do quá trình
bồi tụ sông ngòi, các đợt biển tiến và lùi, thủy triều, v.v… đã tạo ra nhiều bãi
tắm đẹp, thích hợp với loại hình du lịch nghỉ dưỡng biển như bãi biển Đà Nẵng,
Nha Trang, Vũng Tàu,…
5.1.1.2. Khí hậu
Khí hậu là thành phần quan trọng của môi trường tự nhiên tác động
mạnh đến hoạt động du lịch. Khi phân tích khí hậu của một vùng hay địa
phương, người ta thường dựa trên các yếu tố tạo nên khí hậu như sau:
- Một là, ánh nắng mặt trời

105
Về mặt tâm lý, ánh nắng mặt trời tạo nên trạng thái vui vẻ, sảng
khoái cho khách du lịch. Những nơi giàu ánh nắng sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động vui chơi giải trí ngoài trời cũng như việc di chuyển của khách.
Đặc biệt là loại hình du lịch biển rất cần nhiều ánh nắng. Tuy nhiên, nếu ánh
nắng quá gay gắt và kéo dài sẽ làm khách du lịch mệt mỏi.
- Hai là, mưa
Chúng ta thường nghĩ mưa sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động du lịch.
Trên thực tế, mưa có tác dụng điều hòa không khí giúp khách du lịch cảm
thấy dễ chịu hơn trong một số trường hợp nhất định. Trong du lịch, ảnh
hưởng của mưa đối với khách không phải là lượng mưa mà chủ yếu là thời
điểm mưa và độ dài cơn mưa. Nếu mưa đều và kéo dài thì không thuận lợi
nhưng nếu thỉnh thoảng mưa thì được xem là thời tiết đẹp. Một số trường
hợp mưa lớn nhưng thời gian ngắn hoặc mưa vào ban đêm cũng ít gây trở
ngại cho hoạt động du lịch.
- Ba là, nhiệt độ, vận tốc gió và độ ẩm
Cả ba yếu tố này có quan hệ lẫn nhau trong việc giúp con người thải
một lượng calo thừa ra ngoài cơ thể để mang lại cảm giác dễ chịu.
Nhiệt độ lý tưởng trong hoạt động du lịch là vào khoảng 25-30oC.
Vận tốc gió vừa phải không gây lạnh sẽ giúp khách du lịch dễ chịu và khô
ráo. Độ ẩm không khí giúp bay hơi mồ hôi và làm mát cơ thể. Thời tiết tốt thì
độ ẩm đạt khoảng 80%. Tuy nhiên, đối với các hoạt động du lịch thể thao trượt
tuyết thì cần nhiệt độ thấp (dưới 00C).
Khi xem xét các yếu tố tạo nên khí hậu cho phép chúng ta biết được
những vùng nào sẽ phát triển hoạt động du lịch tương ứng với loại hình du
lịch nhất định.
Như vậy, khí hậu tác động đến hoạt động du lịch trên hai phương
diện:
+ Ảnh hưởng đến việc thực hiện các chuyến du lịch cũng như tâm lý
và sức khỏe của du khách.
+ Là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên tính thời vụ trong
du lịch. Các vùng du lịch khác nhau có mùa vụ không giống nhau do tác
động của yếu tố khí hậu.

106
5.1.1.3. Tài nguyên nước
Tài nguyên nước bao gồm nước (chảy) trên bề mặt và nước ngầm.
Đối với du lịch thì nguồn nước mặt có ý nghĩa rất lớn. Nó bao gồm đại
dương, biển, hồ, sông, hồ chứa nước nhân tạo, suối, Karst, thác nước, suối
phun…. Nhằm mục đích phục vụ du lịch, nước sử dụng tùy theo nhu cầu,
sự thích ứng của cá nhân, độ tuổi và quốc gia. Ở Việt Nam hiện có hơn
3.000 km đường bờ biển, do quá trình chia cắt kiến tạo, do ảnh hưởng của
chế độ thủy triều và sóng mà dọc đất nước đã hình thành nhiều bãi tắm đẹp
với bãi cát dài, trắng mịn có nước biển trong xanh, sóng êm và an toàn như
Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên – Huế),
Mỹ Khê (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hòa),… Với đặc điểm đó, Việt Nam
rất thích hợp để khai thác các loại hình du lịch nghỉ dưỡng và loại hình du
lịch thể thao như lướt sóng, khám phá đại dương,...
Trong tài nguyên nước, chúng ta phải kể đến tài nguyên nước
khoáng. Đây là nguồn tài nguyên có giá trị du lịch an dưỡng và chữa bệnh
trên thế giới, những nước giàu nguồn nước khoáng nổi tiếng cũng là những
nước phát triển du lịch chữa bệnh như Nga, Bungary, Ý, CHLB Đức, CH
Séc, v.v… Ở Việt Nam tiêu biểu có nguồn nước khoáng Kim Bôi (Hoà
Bình), Hội Vân (Bình Định), Quang Hanh (Quảng Ninh), Bình Châu (Bà
Rịa-Vũng Tàu), Thanh Tân (Thừa Thiên Huế), Nha Trang,...
5.1.1.4. Tài nguyên động thực vật
Hệ động thực vật đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển du lịch.
Nó tạo nên cảnh sắc sinh động, tô điểm cho cảnh quan thiên nhiên. Một
nguồn động thực vật phong phú, đa dạng sẽ lôi cuốn và hấp dẫn khách du
lịch.
Hệ thực vật của Việt Nam được đánh giá phong phú, đa dạng với
nhiều loại thực vật từ rừng đến biển. Trong đó, chủ yếu là tài nguyên rừng.
Rừng được ví như lá phổi của trái đất, là nhà máy sản xuất oxy cho con
người, là nơi yên tĩnh và trật tự. Tính đến năm 2010, Việt Nam có 30 vườn
quốc gia nằm dọc từ Bắc vào Nam như Ba Vì, Cúc Phương, Bạch Mã, Yok
Đôn, Tràm Chim,... còn lưu giữ rất nhiều loài quí hiếm như gỗ đỏ, gụ mật,
cẩm lai, pơmu,.. Chính vì vậy, hệ thực vật nước ta có giá trị sinh học rất cao
thu hút khách du lịch đặc biệt là khách du lịch trẻ, khách nghiên cứu và

107
thích khám phá.
Nhìn chung, tài nguyên du lịch thiên nhiên là thành phần không thể
thiếu trong hoạt động du lịch. Nó tác động đến việc hình thành và phát triển
các loại hình du lịch nghỉ dưỡng, khám phá thiên nhiên, thể thao,.. cũng như
tính mùa vụ trong du lịch. Khi phân tích về giá trị tài nguyên du lịch thiên
nhiên chúng ta không phải chỉ dựa trên một thành phần nhất định mà phải
đánh giá sự kết hợp giữa các yếu tố: địa hình, khí hậu, tài nguyên nước và
hệ động thực vật. Những yếu tố này được kết hợp một cách hài hòa sẽ tạo
nên phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Việt Nam được xem là quốc gia giàu
tài nguyên du lịch, có sự tập trung cao, có sự kết hợp giữa các yếu tố tạo nên
phong cảnh đẹp hấp dẫn khách du lịch. Điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc tổ chức, xây dựng các chương trình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng,
thể thao và giải trí.
5.1.2. Tài nguyên du lịch nhân tạo
Toàn bộ của cải vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra từ xưa
đến nay có thể thu hút con người tiến hành hoạt động du lịch được xem là
tài nguyên du lịch nhân văn.
"Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố
văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ kiến trúc,
các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật
thể, phi vật thể khác có thể sử dụng phục vụ mục đích du lịch".
Theo cách hiểu này, chúng ta có thể xem tài nguyên nhân tạo chính
là tài nguyên nhân văn. Nhu cầu của con người là muốn tìm hiểu về lịch sử,
cội nguồn của chúng ta cũng như nghiên cứu những nét văn hóa khác nhau
giữa những cộng đồng dân tộc trên thế giới. Chính vì vậy mà tài nguyên du
lịch nhân tạo đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thu hút những đối
tượng khách du lịch thích tìm hiểu khám phá văn hóa, lịch sử.
5.1.3. Di sản văn hóa thế giới và di tích lịch sử - văn hóa
Đây được coi là nguồn tài nguyên quan trọng, là nguồn lực để phát
triển và mở rộng hoạt động du lịch. Qua các thời đại, các di sản văn hóa thế
giới và di tích lịch sử văn hóa đã minh chứng cho những hoạt động sáng tạo
vĩ đại của xã hội loài người về văn hóa, tôn giáo và xã hội. Các di sản văn
hóa thế giới và di tích lịch sử thích hợp để phát triển loại hình du lịch văn
108
hóa, nghiên cứu,...
5.1.3.1. Di sản văn hóa thế giới
Việc một di sản quốc gia được công nhận, tôn vinh là di sản văn hóa
thế giới mang lại nhiều ý nghĩa, tầm vóc, giá trị di sản được nâng cao, đặt nó
trong mối quan hệ mang tính toàn cầu. Các giá trị văn hóa, thẩm mỹ cũng
như ý nghĩa kinh tế, chính trị vượt khỏi phạm vi của một nước. Khả năng
thu hút khách du lịch và phát triển dịch vụ du lịch sẽ tăng lên rất lớn.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để trở thành di sản văn hóa thế giới. Các
quốc gia trên thế giới luôn mong muốn rằng quốc gia của họ sẽ ngày càng
nhiều di sản được UNESCO công nhận bởi ý nghĩa to lớn của nó. Tại Việt
Nam, chính quyền và nhân dân luôn quan tâm và nỗ lực để được UNESCO
công nhận ngày càng nhiều di sản văn hóa thế giới.
Theo Công ước di sản thế giới thì di sản văn hóa là:
+ Các di tích: Các tác phẩm kiến trúc, tác phẩm điêu khắc và hội họa,
các yếu tố hay các cấu trúc có tính chất khảo cổ học, ký tự, nhà ở trong hang
đá và các công trình sự kết hợp giữa công trình xây dựng tách biệt hay liên
kết lại với nhau mà do kiến trúc của chúng, do tính đồng nhất hoặc vị trí
trong cảnh quan, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ
thuật và khoa học.
+ Các di chỉ: Các tác phẩm do con người tạo nên hoặc các tác phẩm
có sự kết hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo và các khu vực trong đó có các di
chỉ khảo cổ có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, thẩm mỹ,
dân tộc học hoặc nhân học.
Để được ghi vào danh sách Di sản thế giới của UNESCO, một tài
sản phải đáp ứng các tiêu chuẩn về văn hoá theo công ước về Di sản thế giới
đã được Ủy ban về Di sản thế giới của UNESCO duyệt lại.
Đến năm 2005, điều này đã được sửa đổi để chỉ có một bộ 10 tiêu
chí, trong đó 6 tiêu chí đầu thuộc về di sản văn hóa, còn các tiêu chí 7 đến 10
thuộc về di sản thiên nhiên.

Các tiêu chuẩn di sản văn hóa thế giới bao gồm: [7]
- Các tiêu chuẩn của di sản văn hóa thế giới (6 tiêu chuẩn)

109
(I) - Là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người.
(II) - Thể hiện một sự giao lưu quan trọng giữa các giá trị của nhân
loại, trong một khoảng thời gian hoặc trong phạm vi một vùng văn hóa của
thế giới, về các bước phát triển trong kiến trúc hoặc công nghệ, nghệ
thuật tạo hình, quy hoạch đô thị hoặc thiết kế cảnh quan.
(III) - Là một bằng chứng độc đáo hoặc duy nhất hoặc ít ra cũng là
một bằng chứng đặc biệt về một truyền thống văn hóa hay một nền văn
minh đang tồn tại hoặc đã biến mất.
(IV) - Là một ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc xây dựng hoặc một
quần thể kiến trúc cảnh quan minh họa cho một hay nhiều giai đoạn có ý
nghĩa trong lịch sử nhân loại.
(V) - Là một ví dụ tiêu biểu về sự định cư của con người hoặc một
sự chiếm đóng lãnh thổ mang tính truyền thống và tiêu biểu cho một hoặc
nhiều nền văn hóa, nhất là khi nó trở nên dễ bị tổn thương dưới tác động của
những biến động không thể đảo ngược được.
(VI) - Gắn bó trực tiếp hoặc cụ thể với những sự kiện hoặc truyền
thống sinh hoạt với các ý tưởng, hoặc các tín ngưỡng, các tác phẩm văn học
nghệ thuật có ý nghĩa nổi bật toàn cầu. (tiêu chuẩn này chỉ duy nhất được sử
dụng trong những trường hợp đặc biệt và áp dụng đồng thời với các tiêu
chuẩn khác).
- Các tiêu chuẩn của di sản thiên nhiên thế giới (4 tiêu chuẩn)
(VII) - Chứa đựng các hiện tượng, địa điểm tự nhiên hết sức nổi bật
hoặc các khu vực có vẻ đẹp tự nhiên độc đáo và tầm quan trọng về thẩm mỹ.
(VIII) - Là những ví dụ nổi bật đại diện cho những giai đoạn lớn
trong lịch sử của Trái Đất, trong đó có lịch sử về sự sống, các quá trình địa
chất quan trọng đang tiếp diễn trong sự phát triển của các địa mạo, hoặc các
đặc điểm quan trọng về địa chất hoặc địa lý tự nhiên.
(IX) - Là những ví dụ tiêu biểu cho quá trình sinh thái và sinh
học đang tiếp diễn trong quá trình tiến hóa và phát triển của các dạng địa
hình, vùng nước ngọt, biển, ven biển và các quần xã động vật, thực vật.
(X) - Là những nơi cư trú tự nhiên quan trọng nhất và tiêu biểu nhất,
mang giá trị bảo tồn nguyên trạng sự đa dạng sinh học, trong đó có những
môi trường sống chứa đựng những loài động vật hoặc thực vật đang bị đe
dọa, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm khoa học hoặc bảo tồn.

110
Trong hệ thống di sản thế giới không chỉ có di sản văn hóa mà còn
có cả di sản thiên nhiên thế giới. Tính đến nay (Tháng 12 năm 2019), trên
thế giới có tất cả 1154 di sản, trong đó có 898 di sản văn hóa, 218 di sản
thiên nhiên và 39 di sản thuộc cả hai loại. Các di sản đó hiện diện tại 167
quốc gia. Ý và Trung Quốc là hai quốc gia có số lượng di sản thế giới được
công nhận nhiều nhất với 58 di sản, và Tây Ban Nha với 48 di sản. Tài liệu
tham khảo tại trang web chính thức của UNESCO, mỗi một di sản thế giới
được xác định bằng mã số kí hiệu riêng tạo thành một trang nhỏ riêng biệt,
có những địa điểm trước đó đã từng được liệt kê và đề cử danh sách nhưng
thất bại. Kết quả là, mã số ký hiệu đã vượt quá con số 1.200 mặc dù số
lượng di sản thế giới trong danh sách là ít hơn.
Việt Nam được đánh giá là một quốc gia giàu tiềm năng về văn hóa
– lịch sử. Tính đến tháng 7 năm 2021, nước ta có có tổng cộng 27 di sản thế
giới trong đó có 16 di sản văn hóa phân bổ tương đối đồng đều theo chiều
dài đất nước. Đây là một nỗ lực rất lớn của tất cả cơ quan quản lý về du lịch,
nhân dân và chính phủ. Điều này mở ra một cơ hội lớn trong việc hình thành
nên những sản phẩm du lịch đặc trưng văn hóa, thu hút khách du lịch khắp
nơi trên thế giới và là động lực cho ngành du lịch ngày càng phát triển.

Bảng 5.1: Danh sách các di sản thế giới tại Việt Nam [1]
Thời gian
TT Tên di sản
công nhận
1. Quần thể di tích Cố đô Huế 11/12/1993
2. Phố cổ Hội An 04/12/1999
3. Thánh địa Mỹ Sơn 12/1999
4. Hoàng thành Thăng Long 31/7/2010
5. Thành Nhà Hồ 27/6/2011
6. Vịnh Hạ Long 1994
7. Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng 2015
8. Quần thể danh thắng Tràng An, Ninh Bình 2014
9. Nhã nhạc cung đình Huế 07/11/2003
10. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên 08/2008
11. Dân ca Quan họ 2009

111
Thời gian
TT Tên di sản
công nhận
12. Ca trù 01/10/2009
13. Hội Gióng 2010
14. Hát Xoan Phú Thọ 2011
15. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương 6/12/2012
16. Đờn ca tài tử 2013
17. Ví giặm Nghệ Tĩnh 2014
18. Nghi lẽ và trò chơi kéo co 2015
19. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam 2016
20. Nghệ thuật bài Chòi Trung Bộ 2017
21. Nghi lễ Then của người Tày, Nùng và Thái 2019
22. Xòe Thái 2021
23. Mộc bản triều Nguyễn 2009
24. 82 bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Hậu Lê và Mạc ở 2010
Văn Miếu - Quốc Tử Giám
25. Châu bản triều Nguyễn của Việt Nam 2014
26. Cuốn sách cổ “Hoàng hoa sứ trình đồ” 2018
27. Cao nguyên đá Đồng Văn 2010

5.1.3.2. Di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh


Di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh là các di sản văn hóa
vật thể của mỗi quốc gia.
Theo Luật di sản văn hóa Việt Nam: “Di tích lịch sử văn hóa là công
trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công
trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”. Di tích lịch sử -
văn hóa được sáng tạo ra bởi con người (tập thể hoặc cá nhân) trong quá
trình lao động sản xuất, chiến đấu và hoạt động văn hóa. Di tích lịch sử văn
hóa là bằng chứng xác thực, trung thành, cụ thể nhất về đặc điểm văn hóa
của mỗi nước, ở đó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp,
những tinh hoa, trí tuệ, tài năng, giá trị văn hóa nghệ thuật của mỗi quốc gia.
Nước ta có nhiều di tích lịch sử văn hóa phân bổ tất cả các tỉnh thành với

112
nhiều loại khác nhau như: thành quách, lăng tẩm, chùa, nhà thờ, đền, miếu,
bảo tàng,...
Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự
kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử
thẩm mỹ, khoa học.
Tất cả những giá trị này được đưa vào khai thác phục vụ cho mục
đích du lịch rất nhiều, đem lại lợi ích cả về kinh tế, văn hóa xã hội cho các
quốc gia.
5.1.4. Lễ hội
Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa đặc sắc phản ánh đời sống tâm
linh của mỗi dân tộc hay là một hình thức sinh hoạt tập thể của nhân dân sau
những ngày lao động vất vả, hoặc là một dịp để mọi người hướng về một sự
kiện lịch sử trọng đại của đất nước, những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân
dân, hoặc chỉ đơn thuần là những hoạt động có tính chất vui chơi giải trí.
Bất kỳ lễ hội nào cũng có hai phần chính là: phần lễ và phần hội. Cả hai
phần đều thu hút sự tham gia của du khách.
Khi đánh giá các lễ hội phục vụ cho mục đích du lịch cần lưu ý
những khía cạnh sau đây:
- Thứ nhất, thời gian diễn ra của lễ hội: Có những lễ hội diễn ra
trong thời gian dài khoảng 1 đến 2 tháng nhưng cũng có lễ hội diễn ra trong
một vài ngày. Ví dụ: lễ hội Chùa Hương kéo dài 1 tháng còn lễ hội Thánh
Gióng chỉ có 3 ngày. Các lễ hội thường được tổ chức vào những thời điểm
nhất định trong năm và giới hạn về mặt thời gian. Chính vì vậy khi khai thác
lễ hội vào phục vụ du lịch cần chú ý đến đặc điểm này. Lễ hội không nhất
thiết yêu cầu các điều kiện riêng, các công trình phục vụ không mang tính
chất lâu dài, chương trình bao gồm nhiều hoạt động riêng biệt. Bên cạnh đó,
thời điểm diễn ra lễ hội cũng rất quan trọng. Nếu lễ hội diễn ra vào khoảng
thời gian mà khách du lịch rảnh rỗi thì có thể khai thác vào hoạt động du
lịch dễ dàng hơn. Vì vậy, lễ hội không thể kiểm tra, đánh giá trước được,
khó tổ chức, khó đưa vào chương trình du lịch trọn gói. Người làm du lịch
cần phải biết cách tổ chức, quảng cáo, khai thác và tận dụng đưa vào
chương trình du lịch để làm tăng tính hấp dẫn của điểm đến du lịch, thu hút
sự tham gia của du khách vào lễ hội và chắc chắn sẽ làm hài lòng khách du

113
lịch.
- Thứ hai, qui mô của lễ hội: các lễ hội có qui mô lớn nhỏ khác
nhau. Qui mô của lễ hội thường biểu hiện thông qua số lượng người tham
gia và địa bàn tổ chức của lễ hội. Có những lễ hội diễn ra trên địa bàn rộng
và có những lễ hội chỉ bó gọn trong một địa phương hẹp. Điều này cũng ảnh
hưởng đến hoạt động du lịch, đặc biệt là khả năng thu hút khách. Những lễ
hội có qui mô lớn thường được tổ chức bài bản, tuyên truyền rộng rãi và
cũng có sự nổi tiếng nên thường thu hút một lượng khách khá đông, có thể
làm quá tải điểm đến du lịch có tổ chức lễ hội.
- Thứ ba, địa điểm tổ chức lễ hội: các lễ hội thường được tổ chức
tại những di tích lịch sử. Điều đó cho phép khai thác tốt hơn cả di tích lẫn lễ
hội vào mục đích du lịch. Có thể nói, di tích là dấu hiệu truyền thống được
đọng lại, kết tinh ở dạng cứng còn lễ hội là cái hồn và nó truyền tải truyền
thống đến các thế hệ ở dạng mềm tạo nên sự thu hút đặc biệt.
Khách du lịch thường có nhu cầu tham gia vào những lễ hội này. Họ
thường cảm thấy một sự hòa đồng mãnh liệt, say mê nhập cuộc. Những lễ
hội thường gắn chặt với đời sống con người và chính tại đây tình cảm cộng
đồng, sự hiểu biết về dân tộc được bộc lộ mạnh mẽ.
5.1.5. Đối tượng du lịch gắn với dân tộc học
Đối tượng du lịch gắn với dân tộc học bao gồm: điều kiện sinh sống,
đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán, hoạt động sản xuất với những sắc
thái riêng của các dân tộc trên địa bàn cư trú của họ. Những đặc trưng này
có sức thu hút khách du lịch mạnh mẽ.
Có thể nói rằng, Việt Nam là một quốc gia giàu giá trị tài nguyên
gắn với dân tộc học. Việt Nam có 54 dân tộc anh em trong đó có 53 dân tộc
thiểu số vẫn còn giữ những nét sinh hoạt văn hóa truyền thống của mình
giúp cho việc khai thác phục vụ du lịch rất tốt. Đặc biệt là các dân tộc Tày,
Nùng, Dao, Mường ở miền Bắc; các dân tộc Chăm, Gia Rai, E Đê, Bana ở
miền Trung, các dân tộc Khơme ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Khi đến Việt Nam, khách du lịch quốc tế rất tò mò muốn tìm hiểu
khám phá văn hóa đặc trưng của người Việt mà các quốc gia khác không có.
Việt Nam rất tự hào vì vẫn còn giữ và khôi phục được nhiều giá trị văn hóa
có sức thu hút mạnh mẽ, nổi bật như sau:
114
- Làng nghề truyền thống: Đây là đặc trưng trong lao động sản xuất
thời xa xưa mà cha ông ta đã truyền lại qua nhiều thế hệ. Loại tài nguyên
này có sức hấp dẫn du khách thông qua những sản phẩm thủ công độc đáo
và cách thức làm ra các sản phẩm đó. Khi khách du lịch tham quan tìm hiểu
làng nghề và mua sắm các sản phẩm này người ta mong muốn tìm hiểu rõ
hơn về lịch sử văn hóa của một vùng đất và tận mắt chứng kiến những
phương thức cổ xưa vẫn tồn tại mà nơi họ sống không có. Hơn nữa họ còn
tự tay mình làm thử các sản phẩm thủ công này, rất nhiều khách du lịch
tham gia học nghề. Điều đó còn tạo cho khách du lịch một cảm giác thú vị,
gần gũi với người dân. Việt Nam có rất nhiều làng nghề và mang tính đặc
trưng của vùng miền, dân tộc như: nghề đúc đồng, kim hoàn, sơn mài, dệt,
thêu,... hiện đang thu hút khách du lịch rất lớn.
- Ẩm thực truyền thống: Đây cũng là yếu tố để khai thác nhằm phát
triển du lịch. Trong mỗi chuyến du lịch khách có nhu cầu được thưởng thức
những món ăn thức uống đặc sản của từng vùng. Hơn thế nữa, nhiều khách
du lịch đặc biệt là khách quốc tế còn muốn tìm hiểu về phương thức chế
biến các món ăn tại nơi đến du lịch. Chúng ta thường thấy những chương
trình du lịch có kết hợp tổ chức các lớp học nấu ăn, làm bánh cho khách.
Đây cũng là một trong những hoạt động làm phong phú thêm chương trình
du lịch cho khách. Đối với Việt Nam, mỗi địa phương đều có những món ăn,
đồ uống đặc trưng. Trong đó thể hiện sự khéo léo, tinh tế của người chế biến
thông qua việc chọn nguyên liệu, chế biến đến biểu diễn và trình bày món
ăn, đồ uống. Điều này gây sự tò mò và thích thú cho du khách.
- Những tập tục truyền thống và sinh hoạt của người dân: Trong
thời đại ngày nay, khi con người khắp nơi trên thế giới xích lại gần nhau
hơn, văn hóa các nước ngày càng trở nên đồng nhất, khách du lịch lại có
nhu cầu tìm lại những giá trị truyền thống mang tính chất lạ và khác với văn
hóa của họ. Việt Nam có nhiều tập tục truyền thống của các đồng bào dân
tộc thiểu số trong việc cưới hỏi, ma chay, thờ cúng ông bà tổ tiên được
khách du lịch thích tìm hiểu. Những sinh hoạt đời thường của người dân đặc
biệt là các vùng nông thôn Việt Nam cũng thu hút được khách du lịch.
Nhiều khách du lịch quốc tế tham gia loại hình du lịch "ở nhà dân" chính là
muốn tìm hiểu về giá trị tài nguyên này.

115
5.1.6. Đối tượng văn hóa, thể thao và hoạt động nhận thức khác
Tài nguyên du lịch này chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn và
cũng làm một trong những đối tượng thu hút khách du lịch mạnh mẽ, bao
gồm: các trung tâm, viện khoa học, trường đại học, thư viện lớn và nổi tiếng,
các trung tâm kinh tế - thương mại, thành phố có triển lãm nghệ thuật, tổ
chức liên hoan âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, các cuộc thi đấu thể thao quốc
tế, cuộc thi hoa hậu,... Những thành phố có đối tượng văn hóa hoặc tổ chức
những hoạt văn hóa thể thao đều được nhiều du khách lựa chọn làm điểm
đến du lịch trong hành trình của họ và đều trở thành những trung tâm văn
hóa du lịch.
Festival được xem là một thành phần quan trọng trong loại tài
nguyên du lịch nhân tạo này. Hoạt động của Festival thường có chủ đề riêng,
có qui mô lớn, các hoạt động văn hóa đa dạng nên thu hút khách du lịch rất
mạnh mẽ. Việt Nam nổi tiếng với Festival Huế, Festival Hoa – Đà Lạt,
Festival biển Nha Trang,...
Việt Nam có 3 thành phố lớn được xem là trung tâm du lịch của 3
miền: Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh và một số thành phố du lịch nổi tiếng
khác như: Hạ Long, Nha Trang, Đà Lạt, Vũng Tàu, Cần Thơ cũng diễn ra
các sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch. Hàng năm, những thành phố này thu
hút một lượng lớn khách du lịch đặc biệt là khách công vụ trong nước và
quốc tế đến đây đem lại nguồn thu đáng kể cho địa phương và quốc gia.
5.2. Điểm đến du lịch
5.2.1. Khái niệm
Khi nói đến hoạt động du lịch tức là nói đến hoạt động rời khỏi nơi
cư trú thường xuyên để đến một nơi khác nhằm thỏa mãn nhu cầu theo
những mục đích khác nhau. Địa điểm mà khách du lịch lựa chọn trong
chuyến đi có thể là một địa danh cụ thể, một khu vực, một vùng lãnh thổ,
một quốc gia, thậm chí là châu lục. Trong các tài liệu khoa học về du lịch,
các địa điểm này được gọi chung là điểm (nơi) đến du lịch (tour destination).
Trên phương diện địa lý, điểm đến du lịch được xác định theo phạm
vi không gian lãnh thổ. Điểm đến du lịch là một vị trí địa lý mà một du
khách đang thực hiện hành trình đến đó nhằm thỏa mãn nhu cầu theo mục
đích chuyến đi của người đó. Với quan niệm này, điểm đến du lịch vẫn chưa
116
định rõ còn mang tính chung chung, nó chỉ xác định vị trí địa lý phụ thuộc
vào nhu cầu của khách du lịch, chưa xác định được các yếu tố nào tạo nên
điểm đến du lịch.
Xem xét trong mối quan hệ kinh tế du lịch, điểm đến du lịch được
hiểu là yếu tố cung cấp du lịch. Sở dĩ như vậy là do chức năng của điểm đến
chính là thõa mãn nhu cầu mang tính tổng hợp của khách du lịch. Suy cho
cùng, điểm đến du lịch là yếu tố hấp dẫn du khách, thúc đẩy sự thăm viếng
và từ đó làm tăng sức sống cho toàn bộ hệ thống du lịch. Cho nên xét trên
nhiều phương diện, điểm đến du lịch là yếu tố quan trọng nhất trong hệ
thống du lịch. Theo tiến sĩ Vũ Đức Minh điểm đến du lịch là nơi xuất hiện
các yếu tố du lịch quan trọng và gây ấn tượng nhất; là nơi tồn tại ngành du
lịch đón khách và cũng là nơi du khách có thể tìm được tất cả các tiện nghi,
dịch vụ hỗ trợ cần thiết cho chuyến viếng thăm của mình.
Từ góc độ cung du lịch, điểm đến du lịch là sự tập trung các tiện
nghi và dịch vụ được thiết kế để đáp ứng nhu cầu của du khách. Theo giáo
trình “”Tổng quan về du lịch”” của tiến sĩ Vũ Đức Minh, hầu hết các điểm
đến du lịch bao gồm một hạt nhân cùng với các yếu tố cấu thành như sau:
- Các điểm hấp dẫn du lịch (attractions);
- Giao thông đi lại (khả năng tiếp cận nơi đến – access);
- Nơi ăn nghỉ (accommodation);
- Các tiện nghi và dịch vụ hỗ trợ (amenities);
- Các hoạt động bổ sung (activities).
Đến đây, chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng hơn về điểm đến du lịch
ở các yếu tố cấu thành của nó. Như vậy, để trở thành một điểm đến du lịch
cần phải có sự hiện hữu đồng thời của các yếu tố này, nếu thiếu một trong
các yếu tố trên thì chưa phải là một điểm đến du lịch. Một điểm đến có hấp
dẫn và khai thác tốt cho hoạt động du lịch hay không cần phải xem sự kết
hợp hoàn chỉnh giữa các yếu tố.
Trong Luật du lịch Việt Nam (Chương I, Điều 4) không qui định về
điểm đến du lịch nhưng lại qui định về điểm du lịch: “Điểm du lịch là nơi
có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du
lịch". Như vậy, điểm đến du lịch và điểm du lịch là khác nhau. Xét theo mỗi

117
quan niệm thì có thể thấy rằng điểm du lịch chỉ là nơi có tài nguyên du lịch
tức là yếu tố tạo nên điểm hấp dẫn du lịch. Điểm du lịch chính là một phần
của điểm đến du lịch.
Việt Nam có nhiều điểm đến hấp dẫn du khách trong nước và quốc
tế. Năm 2014, Đảo Phú Quốc, đồi cát Mũi Né, Đồng bằng sông Cửu Long,
Sa Pa và địa đạo Củ Chi là 5 trong số 19 điểm đến được báo Huffington
Post của Mỹ xếp vào danh sách những điểm đến ở Đông Nam Á “có thể
thay đổi cuộc sống của bạn”.
5.2.2. Phân loại
Điểm đến du lịch có ý nghĩa khác nhau trong mỗi chuyến hành trình
của du khách. Trong chuyến hành trình của mình, du khách có thể dừng lại
ở điểm đến này lâu hơn điểm đến kia. Khi xem xét vị trí của từng điểm đến
trong chuyến đi của khách, người ta chia điểm đến du lịch thành 2 loại:
5.2.2.1. Điểm đến cuối cùng
Điểm đến cuối cùng (final destination) thường là điểm xa nhất tính
từ điểm xuất phát gốc của du khách hoặc là địa điểm mà khách dự định sử
dụng phần lớn thời gian.
Trong chuyến hành trình của khách du lịch, điểm đến cuối cùng có
thể được xem là điểm đến quan trọng và hấp dẫn nhất đối với họ. Thường
những điểm đến này có sự kết hợp của các yếu tố một cách hợp lý, đa dạng
thỏa mãn tốt nhu cầu của khách. Khách du lịch dùng phần lớn thời gian ở
đây có nghĩa là họ sẽ sử dụng dịch vụ nhiều hơn và chi tiêu nhiều hơn đem
lại lợi ích đáng kể cho điểm đến du lịch.
5.2.2.2. Điểm đến trung gian
Điểm đến trung gian (intermediate destination) hoặc điểm ghé thăm
(enroute) là địa điểm khách dành thời gian ngắn hơn để nghỉ ngơi qua đêm
hoặc thăm viếng một điểm hấp dẫn du lịch. Các điểm đến trung gian này
cũng có vai trò trong việc giúp khách có chỗ dừng chân hợp lý trong những
chuyến hành trình dài. Khách du lịch cũng có thể tham quan du lịch tại các
điểm đến này nhưng thường ít sử dụng dịch hơn.

5.2.3. Các yếu tố cấu thành của điểm đến du lịch

118
Một điểm đến du lịch được cấu thành bởi 5 yếu tố khác nhau. Vấn đề
đặt ra là mức độ quan trọng và mối quan hệ giữa các yếu tố cùng tồn tại
trong một điểm đến du lịch sẽ như thế nào. Trước khi đi vào phân tích nội
dung cụ thể của từng yếu tố, cần có sự phân biệt cơ bản giữa điểm hấp dẫn
với các tiện nghi và dịch vụ hỗ trợ. Điểm hấp dẫn là nguyên nhân của sự
viếng thăm điểm đến. Trong khi đó, các tiện nghi và dịch vụ hỗ trợ khác có
ý nghĩa rất căn bản đối với du lịch ở điểm đến nhưng chúng sẽ không tồn tại
nếu không có điểm hấp dẫn. Nguyên nhân là khách du lịch bị lôi cuốn và
kéo tới khu vực có điểm hấp dẫn từ đó tạo cầu về các sản phẩm và dịch vụ
đi kèm tại điểm đến. Ví dụ, sự tồn tại của một khách sạn không phải là lý do
cho sự viếng thăm của du khách tại một điểm đến du lịch, nhưng nếu khách
sạn không tồn tại ở đó như một dịch vụ hỗ trợ thì hoạt động du lịch cũng
không thể xảy ra ở điểm đến này. Sau những phân tích dưới đây sẽ cho
chúng ta thấy được vai trò của từng yếu tố trong việc phát triển hoạt động
du lịch của các điểm đến.
5.2.4. Điểm hấp dẫn du lịch
Các điểm hấp dẫn là bộ phận rất phức tạp của ngành du lịch và chưa
được hiểu một cách đầy đủ. Một số học giả và tổ chức du lịch ở các quốc
gia trên thế giới đã cố gắng đưa ra khái niệm về điểm hấp dẫn du lịch như
sau:
Điểm hấp dẫn du lịch là "Một điểm đến tham quan được hình thành
vĩnh viễn nhằm mục đích lâu dài cho phép công chúng tiếp cận để tiêu khiển,
giải trí hoặc giáo dục mà không phải là một điểm bán lẻ hoặc một điểm biểu
diễn thể thao, nhà hát hoặc chiếu phim. Nó phải mở cho công chúng mà
không cần đăng ký trước, mở cửa theo những thời kỳ được công bố hàng
năm và có khả năng thu hút khách du lịch, khám phá tham quan cũng như
cư dân địa phương" [4].
Điểm hấp dẫn du lịch là đặc trưng của một khu vực trở thành một
nơi, một điểm hoặc một tiêu điểm của các hoạt động và thực hiện các điều
sau:
(1) Được thiết lập để thu hút khách du lịch hoặc khách tham quan
từ thị trường du lịch và cư dân địa phương.
(2) Cung cấp sự tiêu khiển, giải trí và các cách thức để khách sử
119
dụng thời gian rỗi của họ.
(3) Khu vực được phát triển nhằm khai thác các tiềm năng ở đó.
(4) Khu vực được quản lý như một điểm hấp dẫn tạo ra sự thỏa mãn
cho du khách.
(5) Cung cấp các tiện nghi và dịch vụ ở mức độ phù hợp nhằm đáp
ứng và chăm sóc sở thích, nhu cầu và cầu của khách thăm.
(6) Có thể có hoặc không có vé vào cửa.
Nói chung các điểm hấp dẫn có xu hướng là các đơn vị lẻ, các vị trí
độc lập hoặc được xác định rõ ràng là các khu vực địa lý có phạm vi nhỏ.
Quan niệm này loại trừ các hiện tượng không thể kiểm soát và không thể
quản lý được mà đôi khi vẫn là các điểm hấp dẫn như khí hậu, thời tiết.
Từ các quan niệm khác nhau nói trên có thể khái quát điểm hấp dẫn
là các thực thể có khả năng quản lý và được giới hạn trong một phạm vi
nhất định. Chúng có thể tiếp cận được và thúc đẩy khách đến viếng thăm
trong khoảng thời gian rỗi nhất định.
Điểm hấp dẫn được phân chia thành 4 loại như sau:
- Các điểm hấp dẫn gắn với đặc điểm của môi trường tự nhiên;
- Các tòa nhà, công trình và điểm xây dựng nhân tạo được thiết kế
nhằm mục đích thờ cúng, tôn giáo mà không phải thu hút khách nhưng hiện
tại đang hấp dẫn một lượng khách thăm đáng kể;
- Các tòa nhà, công trình và điểm xây dựng được thiết kế nhằm mục
đích thu hút khách như các công viên chủ đề;
- Các sự kiện đặc biệt.
Như vậy điểm hấp dẫn du lịch dù mang đặc điểm tự nhiên hay nhân
tạo hoặc sự kiện thì cũng đều là nguyên nhân tạo động lực ban đầu cho sự
viếng thăm của du khách. Điều đó khẳng định rằng điểm hấp dẫn du lịch
thực sự là phần không thể thiếu đồng thời là cơ sở để tồn tại và phát triển
của điểm đến du lịch. Trong tương lai, ngành du lịch cần chú trọng và tăng
cường tính chuyên nghiệp trong công tác quản lý các điểm hấp dẫn du lịch.
Công tác này bao gồm: triển khai hoạt động marketing nhằm cung cấp điểm
hấp dẫn phù hợp với thị trường thực tế và tiềm năng; Đào tạo nhân lực

120
chuyên nghiệp phục vụ tại điểm hấp dẫn; ứng dụng công nghệ hợp lý để
phát triển các loại điểm hấp dẫn mới hoặc đang tồn tại theo diện rộng; đổi
mới, tập trung và chuyên nghiệp hóa công tác quản lý sự kiện lớn mà chúng
đang nổi lên trở thành một bộ phận bổ sung quan trọng của các điểm hấp
dẫn du lịch. Đồng thời với cách tiếp cận về công tác quản lý, lĩnh vực kinh
doanh điểm hấp dẫn du lịch với các tổ chức chuyên nghiệp dần hình thành
và lĩnh vực này đang khẳng định vai trò của mình trong quá trình phát triển
ngành công nghiệp du lịch.
5.2.5. Giao thông đi lại (khả năng tiếp cận điểm đến)
Hệ thống giao thông ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp cận điểm
đến của các thị trường khách du lịch và cũng là nhân tố tạo nên sự thành
công của các điểm đến. Nếu những điểm đến du lịch được phát triển hệ
thống giao thông với việc sử dụng đa dạng các loại phương tiện thì sẽ góp
phần rút ngắn khoảng cách giữa thị trường khách du lịch và điểm đến.
Khách du lịch sẽ cảm thấy thuận tiện và dễ dàng hơn khi đi du lịch tại đó.
Trên thực tế có nhiều điểm đến mà ở đó giao thông đã tạo nên hoặc
phá vỡ ngành du lịch. Trà Cổ là một bãi biển đẹp của Việt Nam nhưng lại
cách quá xa các thị trường khách trong nước và giao thông đi lại không
thuận tiện làm cho điểm đến du lịch bị hạn chế và khó phát triển. Ngược lại,
điểm đến du lịch Hội An, mặc dù giá trị tài nguyên du lịch biển cũng không
cao so với Trà Cổ nhưng khả năng khai thác khách rất lớn. Đó chính là nhờ
vào sự phát triển đa dạng của hệ thống giao thông bao gồm: đường bộ,
đường biển (gần cảng biển quốc tế Đà Nẵng), đường hàng không (gần sân
bay quốc tế - Đà Nẵng) tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác cả thị
trường khách nội địa và quốc tế.
Ngoài hệ thống giao thông và những phương tiện vận chuyển để tiếp
cận các thị trường khách thì việc cung cấp các dịch vụ vận chuyển và giao
thông địa phương phục vụ tham quan hoặc chuyên chở khách đến các cơ sở
lưu trú cũng rất quan trọng. Nó cũng góp phần tạo nên sự tiện nghi, hấp dẫn
và thú vị đối với du khách. Sự sáng tạo trong việc phát triển các dịch vụ vận
chuyển tại điểm đến như: đi cáp treo, xe điện để ngắm phong cảnh, đi xe
ngựa, cưỡi voi, xe buýt hai chiều cho khách bộ hành,… làm cho điểm đến
du lịch càng thêm thu hút khách.

121
Như vậy, hệ thống giao thông bao gồm khả năng tiếp cận điểm đến
cũng như các phương tiện sử dụng trong điểm đến đều có một vai trò nhất
định trong việc phát triển điểm đến du lịch. Hoạt động du lịch cần đầu tư
hợp lý cho hệ thống giao thông đi lại tạo điều kiện để phát triển điểm đến du
lịch.
5.2.6. Nơi ăn nghỉ
Đây cũng là một thành phần quan trọng không thể thiếu của một
điểm đến du lịch. Cung cấp dịch vụ này chính là các cơ sở lưu trú, ăn uống.
Những dịch vụ này không chỉ cung cấp nơi ăn, chốn nghỉ mang tính vật chất
mà còn tạo cảm giác chung về sự đón tiếp nồng nhiệt và ấn tượng khó quên về
các món ăn hoặc đặc sản của địa phương.
Sự đa dạng của các loại hình lưu trú với những cấp hạng khác nhau
cho phép khách du lịch có thể lựa chọn những dịch vụ lưu trú phù hợp với
sở thích và khả năng chi trả của họ. Các cơ sở lưu trú tồn tại để phục vụ du
lịch không chỉ mang tính chất thương mại mà còn thuộc sở hữu cá nhân như
buồng ngủ lưu động, nhà nghỉ cuối tuần hay nhà dân.
5.2.7. Các tiện nghi và dịch vụ bổ trợ
Trong quá trình du lịch, du khách đòi hỏi một loạt các tiện nghi,
phương tiện và các dịch vụ bổ trợ tại điểm đến du lịch. Bộ phần này có đặc
điểm là phân tán về hình thức sở hữu. Các cơ sở cung cấp các tiện nghi và
dịch vụ bổ trợ thường do các nhà kinh doanh nhỏ quản lý nên vừa có lợi vừa
hạn chế. Có lợi ở chỗ các khoản chi tiêu của khách nhanh chóng đi vào nền
kinh tế của địa phương. Còn điểm hạn chế là các doanh nghiệp nhỏ bị phân
tán và thiếu một hành lang liên kết lại với nhau. Các cơ sở này cũng thường
thiếu khả năng tự đầu tư để nâng cấp và thiếu chuyên gia về quản lý hoặc
marketing. Đây cũng là những đòi hỏi cấp bách của ngành du lịch trong
những năm gần đây.
Khả năng cung cấp các tiện nghi và dịch vụ hỗ trợ thể hiện sự đa
ngành của cung du lịch và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh
doanh du lịch. Số lượng cung cấp các tiện nghi và dịch vụ hỗ trợ tại một khu
nghỉ dưỡng tùy thuộc vào số giường nghỉ sẵn có hay số khách viếng thăm.
Ví dụ như tại một nước có ngành công nghiệp du lịch phát triển, nếu khả
năng cung ứng khoảng 1.000 giường nghỉ sẽ cần đến 6 cơ sở thương mại

122
bán lẻ và dịch vụ tổng hợp; còn nếu có 4.000 giường nghỉ sẽ cần thêm các
cơ sở chuyên môn hóa như cắt tóc, chăm sóc sức khỏe. Các tỷ lệ tương tự có
thể được tính toán cho các nhà hàng, bãi đỗ xe, trung tâm giải trí, bể bơi,...
Khi qui mô của điểm đến du lịch được mở rộng, lượng khách ngày
càng đông thì các tiện nghi và dịch vụ cần thiết cho du khách cũng tăng theo.
Những tiện nghi này bao gồm các trung tâm thương mại bán lẻ, y tế, ngân
hàng, nơi đổi tiền,... và các dịch vụ về an toàn, bảo hiểm. Các cơ sở này
thường nằm gần các điểm hấp dẫn chính của điểm đến nhằm thuận tiện cho
khách khi sử dụng. Do đó, tại các điểm đến du lịch có sự tập trung của các khu
thương mại, dịch vụ, giải trí tại một hoặc một số khu vực nhất định.
5.2.8. Các hoạt động bổ sung
Mặt dù điểm hấp dẫn du lịch là nguyên nhân chính thúc đẩy động cơ
đi du lịch của du khách nhưng các hoạt động bổ sung cũng rất quan trọng
trong việc tăng thêm tính hấp dẫn, lôi cuốn của điểm đến. Những dịch vụ bổ
sung còn giúp cho sản phẩm dịch vụ đa dạng hơn, kéo dài thời gian lưu lại
của khách và khai thác thêm chi tiêu của khách. Nếu đến một điểm đến du
lịch chỉ để tham quan một điểm hấp dẫn thì chắc chắn khách không ở lại lâu,
đồng thời cũng không có gì để tiêu dùng và cũng không thể khuyến khích
khách quay lại lần nữa.
Các hoạt động bổ sung này nhằm tạo ra cho du khách những hoạt
động khác ngoài những nội dung chính trong chương trình du lịch của họ.
Ví dụ, ngoài thời gian tham quan thì vào buổi tối hoặc khi điều kiện thời tiết
không tốt thì khách du lịch có thể tham gia vào những hoạt động vui chơi,
giải trí.
Sự kết hợp giữa điểm hấp dẫn và các dịch vụ bổ sung mà các điểm
đến du lịch có thể tự mình tạo nên sự hấp dẫn mạnh mẽ đối với du khách.
Cho nên các điểm đến du lịch cần phát triển các dịch vụ bổ sung một cách
đa dạng, đồng bộ nhằm thu hút và khai thác khách có hiệu quả.
5.2.9. Chu kỳ phát triển của điểm đến du lịch
5.2.9.1. Quan niệm về chu kỳ phát triển của điểm đến du lịch
Sự phát triển của du lịch gắn với sự phát triển của các điểm đến du
lịch, đặc biệt là khu du lịch. Sự phát triển của các khu du lịch lại phụ thuộc

123
vào giao thông đi lại. Hiện nay, các điểm đến du lịch vừa là nơi có các cụm
hấp dẫn đã phát triển vừa là nơi xuất phát của các tour du lịch. Đồng thời thị
trường du lịch cũng thay đổi và phát triển không ngừng. Do đó, các điểm
đến cũng cung cấp những tiện nghi và dịch vụ phù hợp. Biểu hiện sự biến
đổi và phát triển này được khái quát hóa thành chu kỳ sống của khu du lịch
(TACL – tourist area life cycle). Tức là các điểm đến sẽ trải qua một chu kỳ
phát triển như chu kỳ sống của sản phẩm. Trong chu kỳ này, số lượng khách
đến viếng thăm tại điểm đến sẽ có sự thay đổi theo từng giai đoạn. Một số
nhà nghiên cứu cho rằng chu kỳ sống của khu du lịch có 3 giai đoạn: khám
phá (discovery); bắt đầu khai thác của địa phương (local response and
initiative); thể chế hóa (institutionlisation). Nhưng theo giả thuyết của
Butler lại phân chia chu kỳ phát triển điểm đến du lịch thành các giai đoạn:
thăm dò (exploration); tham gia (involvement); phát triển (development); ổn
định (consolidation); ngừng trệ (stagnation); suy giảm (decline); hồi phục lại
(rejuvenation).
5.2.9.2. Các giai đoạn trong chu kỳ phát triển của điểm đến du lịch
Thăm dò (exploration)
Giai đoạn này, điểm đến du lịch chưa được khai thác để phục vụ du
lịch. Những người đến đây chủ yếu là các đối tượng thích phiêu lưu, mạo
hiểm, các nhà thám hiểm. Họ bị hấp dẫn bởi những giá trị tài nguyên du lịch
thiên nhiên còn hoang sơ hay những nền văn hóa chưa bị tàn phá ở điểm đến.
Số lượng du khách đến đây rất ít vì khả năng tiếp cận điểm đến (giao thông
đi lại) còn hạn chế; các tiện nghi, dịch vụ du lịch còn nghèo nàn, chưa phát
triển. Hầu như, tại các điểm hấp dẫn du lịch chưa bị thay đổi bởi đầu tư du
lịch và có mối liên hệ chặt chẽ với người dân địa phương.
Tham gia (involvement)
Giai đoạn này bắt đầu có sự tham gia của địa phương trong việc
cung cấp những tiện nghi và dịch vụ cho du khách và sau đó tiến hàng
quảng bá cho điểm đến. Điều này làm cho lượng khách du lịch đến đây
thường xuyên và ngày càng tăng lên. Mùa du lịch bắt đầu xuất hiện và chi
phối đến hoạt động kinh doanh. Điểm đến cũng bắt đầu tạo áp lực cho các
cơ quan nhà nước trong việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng đề phục vụ nhu cầu du
lịch ngày càng tăng.

124
Phát triển (development)
Biểu hiện rõ nét của giai đoạn này là khách du lịch đến viếng thăm
với số lượng lớn và tăng nhanh, thậm chí quá tải (vượt quá sức chứa của
điểm đến) vào những thời kỳ cao điểm. Hoạt động du lịch có thể vượt xa
tầm kiểm soát của địa phương. Điểm đến đã thu hút những nhà đầu tư từ
bên ngoài cung cấp những tiện nghi và dịch vụ du lịch hiện đại hơn, làm
thay đổi diện mạo của điểm đến du lịch. Tuy nhiên, điểm đến cũng bắt đầu
nảy sinh những tiêu cực nhất định. Các vấn đề sử dụng quá mức và sự
xuống cấp của các tiện nghi tồn tại do sự tăng nhanh của lượng khách du
lịch đến thăm. Lúc này, vấn đề qui hoạch và kiểm soát hoạt động du lịch ở
phạm vi quốc gia, vùng trở nên cần thiết, một phần khắc phục những vấn đề
tồn tại, mặt khác có thể khai thác được một số thị trường khách quốc tế mới.
Tại những thị trường này, du khách thường đi du lịch thông qua các chuyến
đi của các đơn vị kinh doanh lữ hành.
Ổn định (consolidation)
Giai đoạn số lượt khách vẫn tăng và vẫn vượt quá sức chứa của khu
vực nhưng tốc độ tăng thì chậm lại. Tại điểm đến đã có mặt đầy đủ các hình
thức kinh doanh với đa dạng các loại hình dịch vụ du lịch chủ yếu và có các
khu vực kinh doanh thương mại, giải trí riêng biệt, rõ ràng.
Ngừng trệ (stagnation)
Điểm đến đã đạt được số lượng khách đông nhất nhưng nó cũng
không còn là mốt đối với khách du lịch nữa. Điểm đến không còn xa lạ với
khách du lịch. Lúc này điểm đến chủ yếu dựa vào những chuyến viếng thăm
lặp lại của du khách và kinh doanh trên các cơ sở, tiện nghi có sẵn. Mọi cố
gắng của địa phương và doanh nghiệp nhằm đảm bảo duy trì nguồn khách
và những chuyến viếng thăm. Điểm đến đã có thể tồn tại về môi trường,
kinh tế, xã hội, văn hóa.
Suy giảm (decline)
Biểu hiện của giai đoạn này là số lượng khách giảm sút đáng kể do
các điểm mới hấp dẫn hơn. Điểm đến dần dần nhàm chán với khách du lịch.
Điểm đến có thể trở thành một khu trung chuyển khách mang tính chất địa
lý cho các chuyến tham quan trong ngày hoặc là nơi nghỉ cuối tuần. Do ế
ẩm nên các tài sản có sự luân chuyển quyền sở hữu cao; một số tiện nghi
125
phục vụ du lịch như khách sạn, nhà hàng chuyển sang mục đích sử dụng
hoặc kinh doanh lĩnh vực khác. Các cơ quan có trách nhiệm và thẩm quyền
có thể đánh giá, xem xét giai đoạn này để đưa ra quyết định phục hồi điểm
đến.
Hồi phục lại (rejuvenation)
Các chủ thể có liên quan tiến hành thực hiện các quyết định về
chuyển mục đích sử dụng mới, các thị trường mới, kênh phân phối mới và
thực hiện định vị lại điểm đến du lịch. Hay nói cách khác điểm đến du lịch
được làm mới lại để tiếp tục thu hút khách. Chẳng hạn như thay đổi điểm
hấp dẫn của điểm đến bằng cách khai thác thêm các tiềm năng tài nguyên du
lịch của địa phương; thay đổi các tiện nghi, dịch vụ bổ sung, giải trí mới.
Việc thực hiện các hướng phục hồi này thường có sự phối hợp giữa
nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân nhằm đầu tư đúng hướng để tìm
kiếm thị trường mới hay bắt đầu phát triển một chu kỳ mới.
5.2.10. Sức chứa của điểm đến du lịch
Khi phát triển du lịch, người ta thường quan tâm làm thế nào để phát
triển lâu dài, bền vững. Sức chứa của điểm đến du là yếu tố trung tâm khi
xem xét chiến lược phát triển du lịch bền vững. Trong hoạt động quản lý
điểm đến du lịch cần chú ý phân tích sức chứa nhằm tổ chức khai thác
khách du lịch hợp lý.
Sức chứa được hiểu đơn giản chính là số lượng người tối đa có thể
sử dụng một vị trí du lịch mà không làm nơi đó bị hủy hoại môi trường tự
nhiên và không làm ảnh hưởng đến các kinh nghiệm thu nhận được của du
khách. Hiện nay, tài nguyên du lịch của điểm đến đang phải chịu áp lực
ngày một gia tăng từ phía người sử dụng. Về góc độ quản lý, sức chứa can
thiệp vào mối quan hệ giữa khách du lịch và tài nguyên du lịch hay điểm
đến du lịch.
Theo Tổ chức du lịch thế giới, sức chứa của một điểm đến là mức độ
sử dụng hoặc phát triển du lịch tối đa mà điểm đến có thể hấp thu (chấp
nhận) mà không tạo ra sự phá hủy môi trường tự nhiên và các vấn đề kinh tế
- xã hội đồng thời không làm giảm chất lượng và kinh nghiệm thu nhận của
khách.
Trên thực tế, mỗi điểm đến có thể được quản lý theo các mức độ sức
126
chứa cao thấp khác nhau tùy thuộc vào khả năng và trình độ quản lý cũng
như các đặc điểm vốn có của tài nguyên du lịch thiên viên và văn hóa, các
điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật,... của điểm đến.
Theo nghiên cứu của một số tác giả người Anh (C.Cooper và các tác
giả khác), sức chứa của một điểm đến du lịch có thể xem xét trên 4 phương
diện: vật chất, tâm lý, sinh học, xã hội và có thể gọi là 4 loại sức chứa:
- Sức chứa vật chất: liên quan đến số lượng đất đai phù hợp và sẵn
có cho nhu cầu phát triển các cơ sở tiện nghi cùng với năng lực giới hạn của
các tiện nghi đó. Chẳng hạn như: bãi đỗ xe, diện tích phòng ăn, phòng ngủ,
số chỗ ngồi hay số giường. Sức chứa vật chất có thể đo lường bằng các
thước đo thông thường và có thể được sử dụng để qui hoạch hoặc quản lý.
- Sức chứa tâm lý (nhận thức): được thể hiện thông qua chất lượng
các kinh nghiệm mà du khách nhận được khi viếng thăm điểm đến. Tuy
nhiên, có nhiều người thích sự yên tĩnh thì tránh nơi đông người, còn có
những người khác lại chấp nhận sự đông đúc thậm chí thích những nơi đông
người. Cho nên sức chứa tâm lý là một khái niệm mang tính cá nhân phụ
thuộc vào sở thích của từng loại khách. Do đó, khi điều tra về sự phù hợp
của sức chứa tâm lý có nhiều ý kiến có thể ngược nhau. Công tác quản lý,
qui hoạch khó có thể chi phối bởi sức chứa này, mặc dù phong cảnh đẹp có
thể làm giảm bớt ấn tượng của sự quá đông hoặc quá tải.
- Sức chứa sinh học của một vị trí bị vượt quá khi sự xáo trộn hoặc
thiệt hại về môi trường sinh thái đặc biệt là hệ động thực vật xả ra và không
thể chấp nhận được. Có nhiều công trình nghiên cứu các "ngưỡng" có thể
chấp nhận được của hệ động thực vật trước sự phát triển ngày càng gia tăng
của hoạt động du lịch. Tuy nhiên, sức chứa sinh học có ý nghĩa khi nghiên
cứu toàn bộ hệ sinh thái hơn là cân nhắc các yếu tố riêng lẻ của nó.
- Sức chứa xã hội nảy sinh từ các ý tưởng hoạch định và phát triển
du lịch bền vững phải dựa trên lợi ích cộng đồng. Nó biểu lộ và các mức độ
phát triển được cộng đồng dân cư và chính quyền địa phương có thể chấp
nhận được.
5.2.11. Tính thời vụ trong du lịch và sự ảnh hƣởng của tính thời vụ
5.2.11.1. Tính thời vụ du lịch

127
Tính thời vụ du lịch là một đặc trưng quan trọng trong kinh doanh du
lịch. Khi kinh doanh sản phẩm du lịch mỗi doanh nghiệp phải đối mặt với
những yếu tố tác động khác nhau, từ đó tạo nên tính thời vụ trong du lịch.
Tính thời vụ đó đã gây những tác động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh
của họ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tính thời vụ không chỉ là vấn đề quan
tâm của các nhà khoa học mà cả các doanh nghiệp kinh doanh du lịch.
Từ sau đại chiến thế giới thứ 2 cho đến cuối những năm 60 của thế
kỷ thứ 20, việc nghiên cứu tính thời vụ trong du lịch tập trung chủ yếu vào
nguồn gốc, bản chất, đặc điểm của thời vụ du lịch và những nhân tố quyết
định độ dài thời vụ du lịch. Thời gian gần đây, tuy vẫn quan tâm đến khía
cạnh lý thuyết của vấn đề này, song các tổ chức du lịch quốc gia và quốc tế
tập trung nhiều hơn vào việc soạn thảo, thực nghiệm và ứng dụng các kế
hoạch tổng hợp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của thời vụ du lịch,
kéo dài đáng kể thời vụ du lịch.
Cung du lịch mang tính tương đối ổn định về lượng trong năm còn
cầu du lịch lại thường xuyên biến động do phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác
nhau. Cho nên, nếu lượng cầu dao động quá lớn thì lượng cung không thể
nào đáp ứng được.
Khi xem xét tính thời vụ của một khu vực, một đất nước nào đó cần
chú ý đến những loại hình du lịch được kinh doanh tại đó là gì. Mỗi một loại
hình du lịch có một đặc điểm khác nhau, vì vậy thời vụ du lịch cũng diễn ra
khác nhau. Vì thế, tính thời vụ của một vùng sẽ là tập hợp các dao động theo
mùa của cung và cầu các loại hình du lịch được phát triển ở đó. Sự chênh
lệch về thời gian giữa các loại hình du lịch và cường độ biểu hiện của từng
loại chính là nguyên nhân tạo ra đường cong thể hiện các dao động thời vụ
du lịch của toàn bộ hoạt động du lịch. Sự dao động của cung và cầu du lịch
đó đã tạo ra các mùa du lịch trong năm.
5.2.11.2. Các mùa trong du lịch [6]
Cường độ nhu cầu du lịch không giống nhau giữa các tháng trong
năm tạo ra các thời kỳ có lượng cầu khác nhau, đó là các mùa du lịch.
- Sau mùa chính: là khoảng thời gian có cường độ tiếp nhận khách
du lịch thấp hơn mùa chính, xảy ra sau mùa chính

128
Ví dụ: Tại Đà Nẵng, các mùa du lịch trong năm được thể hiện qua sơ
đồ qui luật thời vụ tính từ số liệu thống kê từ năm 2009 tới năm 2011 trong
khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 12 trong năm với số lượng khách du
lịch tương ứng (Biểu đồ 5.1).

Tháng

Biểu đồ 5.1. Qui luật thời vụ du lịch tại thành phố Đà Nẵng

Quan sát biểu đồ 3.3 chúng ta có thể xác định các mùa du lịch tại
thành phố Đà Nẵng có mùa du lịch như sau:
- Mùa chính du lịch: tháng 4 đến tháng 8;
- Mùa trái du lịch: từ tháng 10 năm trước đến tháng 2 năm sau;
- Trước mùa du lịch: tháng 3;
- Sau mùa du lịch: tháng 9.
5.2.12. Đặc điểm của thời vụ du lịch
Dưới tác động của những nhân tố khác nhau, tính thời vụ du lịch có
những đặc điểm quan trọng như sau:
- Tính thời vụ trong du lịch là một hiện tượng phổ biến và khách
quan ở tất cả các nước, các vùng có hoạt động du lịch.
Điều này cũng dễ hiểu khi chúng ta thấy rằng hoạt động du lịch luôn
chịu sự tác động của các nhân tố mang tính khách quan như: khí hậu, tình
hình kinh tế, xã hội,… tác động đến cả cung lẫn cầu gây nên sự dao động
nhất định. Nó không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Về mặt lý
thuyết, nếu một quốc gia hoặc vùng có kinh doanh nhiều loại hình du lịch

129
khác nhau và có thể đảm bảo được cường độ khai thác khách du lịch đều
đặn trong năm thì tại nơi đó không tồn tại tính thời vụ du lịch. Tuy nhiên,
trên thực tế khả năng này rất khó thực hiện. Vì vậy, tính thời vụ du lịch luôn
xuất hiện ở bất kỳ quốc gia, vùng có kinh doanh du lịch. Việc loại bỏ sự
tồn tại của tính thời vụ trong du lịch là điều không thể mà các doanh nghiệp,
tổ chức thường tìm các biện pháp hạn chế hoặc thích ứng với tính thời vụ
này.
- Một quốc gia, một vùng du lịch có thể có một hoặc nhiều thời vụ
du lịch, tùy thuộc vào thể loại du lịch được phát triển ở đó.
Mỗi một loại hình du lịch khi phát triển thường phụ thuộc vào những
giá trị tài nguyên và khai thác những đối tượng khách du lịch khác nhau,
cho nên mỗi loại hình du lịch thường có thời vụ du lịch diễn ra khác nhau.
Tính thời vụ du lịch ở các quốc gia, vùng lãnh thổ hay địa phương không
giống nhau. Khi tiến hành nghiên cứu tính thời vụ tại những quốc gia hay
vùng lãnh thổ cần nghiên cứu kỹ tính thời vụ du lịch của từng loại hình du
lịch được phát triển ở đó thì mới mang tính toàn diện và thấy rõ được nguồn
gốc của tính thời vụ.
Nếu một hay một vùng chỉ phát triển một loại hình du lịch là chủ yếu
như nghỉ biển hay nghỉ núi thì ở đó chỉ có một mùa du lịch là vào mùa hè
hoặc mùa đông. Ví dụ như các vùng biển Vũng Tàu, Hạ Long, Đồ Sơn của
Việt Nam chủ yếu kinh doanh và phát triển loại hình du lịch nghỉ biển thì
mùa du lịch chính sẽ là mùa hè.
Nhưng nếu như tại một khu nghỉ mát biển lại có nhiều nguồn nước
khoáng có giá trị thì ở đó lại phát triển mạnh hai loại hình du lịch là nghỉ
biển vào mùa hè và nghỉ dưỡng, chữa bệnh vào mùa đông. Chẳng hạn như
tại một số vùng núi ở châu Âu (Áo, Pháp) tồn tại hai mùa du lịch chính là
mùa đông với loại hình du lịch thể thao trượt tuyết và mùa hè với loại hình
du lịch leo núi, chữa bệnh.
- Độ dài thời gian và cường độ của thời vụ du lịch không bằng nhau
đối với các thể loại du lịch khác nhau.
Cường độ của thời vụ du lịch được hiểu là mức độ tập trung của
khách du lịch trong khoảng thời gian và không gian nhất định. Thông
thường, loại hình du lịch nghỉ biển có thời gian ngắn hơn và cường độ du
130
lịch mạnh hơn do phụ thuộc vào thiên nhiên. Còn loại hình du lịch chữa
bệnh thường lại có thời gian dài hơn và cường độ mạnh hơn.
- Cường độ của thời vụ du lịch không bằng nhau theo thời gian
của chu kỳ kinh doanh.
Thời gian có cường độ lớn nhất được qui định là thời vụ chính (mùa
chính), còn thời kỳ có cường độ thấp hơn ngay trước mùa chính gọi là thời
vụ trước mùa, ngay sau mùa chính gọi là thời vụ sau mùa. Thời gian còn lại
trong năm gọi là ngoài mùa. Ở một số nơi chỉ kinh doanh du lịch nghỉ biển
là chủ yếu thì thời gian ngoài mùa người ta gọi là "mùa chết".
Ví dụ: Tại bãi biển Sầm Sơn, cường độ khách du lịch lớn nhất vào
các tháng 6,7,8. Đây là khoảng thời gian có khí hậu tốt nhất cho việc tắm
biển, thu hút nhiều khách du lịch, thời gian đó gọi là mùa chính. Các tháng
4,5 và 9,10 thì nước biển vẫn tương đối ấm nên vẫn còn có khách đến tắm
nhưng cường độ thấp hơn. Thời gian đó gọi là trước mùa hay sau mùa. Còn
lại các tháng 11, 12, 1, 2, 3 là những tháng ngoài mùa (mùa chết).
- Độ dài thời gian và cường độ của thời vụ du lịch phụ thuộc vào
mức độ phát triển và kinh nghiệm kinh doanh của các quốc gia du lịch, điểm
du lịch và các nhà kinh doanh du lịch.
Có thể các doanh nghiệp, các vùng hoặc các nước cùng kinh doanh
một loại hình du lịch với tài nguyên du lịch tương đối như nhau nhưng nếu
họ có kinh nghiệm nhiều hơn trong phát triển du lịch thì chắc chắn họ xây
dựng và thực hiện được các biện pháp tốt hơn. Lúc đó, thời vụ du lịch được
kéo dài hơn và cường độ của mùa du lịch yếu hơn. Trái lại, tại các nước,
vùng hoặc cơ sở kinh doanh có ít kinh nghiệm hơn thì lại có thời gian mùa
du lịch ngắn hơn và cường độ mạnh hơn.
- Độ dài thời gian và cường độ thời vụ du lịch phụ thuộc vào cơ cấu
của khách đến vùng du lịch
Tùy thuộc vào những đặc điểm của từng đối tượng khách, họ có thói
quen cũng như nhu cầu, động cơ đi du lịch trong những khoảng thời gian
nhất định trong năm. Vì vậy, các trung tâm dành cho du lịch thanh, thiếu
niên thường có mùa ngắn hơn và cường độ mạnh hơn so với những trung
tâm đón khách ở độ tuổi trung niên. Nguyên nhân chính ở đây là do thanh,

131
thiếu niên thường có thói quen đi theo tập thể, hội vào các dịp nghỉ hè, tết
ngắn hạn.
- Độ dài thời gian và cường độ của thời vụ du lịch phụ thuộc vào
các cơ sở lưu trú chính
Tại các khu vực phát triển du lịch với những cơ sơ lưu trú chính
được xây dựng dưới dạng là các công trình ổn định và kiên cố như khách
sạn, motel, khu nghỉ dưỡng,.. thì mùa du lịch kéo dài hơn và cường độ mùa
chính không chênh lệch quá cao so với thời gian còn lại. Ngược lại, ở đâu
cơ sở lưu trú chủ yếu là nhà trọ hoặc lều trại thì ở đó mùa du lịch ngắn hơn
và cường độ du lịch khá cao.
Đặc điểm này là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau như:
+ Những nơi có các cơ sở lưu trú chủ yếu là khách sạn, nhà nghỉ, khu
nghỉ dưỡng,... thì việc đầu tư bảo dưỡng tốn kém hơn dẫn đến các nhà kinh
doanh phải tìm kiếm biện pháp kéo dài thời vụ du lịch hơn.
+ Những nơi có thời vụ du lịch ngắn thì nhu cầu đầu tư và xây dựng
các cơ sở lưu trú chính ít hơn. Cơ sở lưu trú là nhà trọ hoặc lều trại thì vừa
linh hoạt vừa ít tốn kém chi phí hơn.
Một vài đặc điểm về tính thời vụ du lịch của Việt Nam
- Việt Nam có nguồn tài nguyên du lịch khá đa dạng thuận lợi cho
việc phát triển du lịch quanh năm
Với vị trí địa lý hình chữ S, phía đông giáp biển, phái Tây giáp núi.
Khí hậu có sự thay đổi theo miền. Miền Bắc và miền Trung có mùa đông
nhiều mưa và lạnh còn miền Nam thì khí hậu quanh năm nóng ấm, bờ biển
kéo dài thuận lợi cho kinh doanh du lịch biển cả năm. Bên cạnh đó, Việt
Nam có sự đa dạng về tài nguyên du lịch nhân tạo và phân bổ tương đối đều
khắp các tỉnh thành trong cả nước. Do vậy, tính thời vụ du lịch có thể hạn
chế và có điều kiện giảm cường độ của nó.
- Khách du lịch tới Việt Nam có động cơ và mục đích khác nhau tùy
thuộc từng đối tượng
Đối với du lịch quốc tế đến Việt Nam, mục đích đi du lịch chủ yếu
của họ là công vụ (ký kết hợp đồng kinh doanh, hội thảo), sau đó đến mục
đích tham quan, tìm hiểu văn hóa, thiên nhiên. Chính vì vậy họ thường đến

132
Việt Nam từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau. Còn đối với khách du
lịch nội địa, mục đích du lịch chủ yếu là nghỉ biển, tham quan thắng cảnh, lễ
hội. Họ đi chủ yếu vào các tháng hè và các tháng đầu năm.
Trong hai luồng khách này, luồng khách nội địa lớn hơn luồng khách
quốc tế rất nhiều. Do đó, nếu xét tầm vĩ mô thì kinh doanh du lịch quốc tế
chủ động có mùa du lịch chính là vào khoảng thời gian từ tháng 10 năm
trước đến tháng 3 năm sau. Còn nếu xét trên phạm vi kinh doanh du lịch của
cả nước nói chung thì nước ta có hai mùa du lịch chính là vào các tháng hè
và các tháng đầu năm.
- Độ dài thời gian và cường độ thời vụ du lịch ở các thành phố lớn
các tỉnh và các trung tâm du lịch biển là rất khác nhau
Sở dĩ như vậy là do các nơi phát triển những loại hình du lịch khác
nhau, đặc điểm và cơ cấu nguồn khách khác nhau.
Thông thường các trung tâm thành phố lớn khai thác loại hình du
lịch biển như Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, ... ngoài việc thu hút khách du
lịch nghỉ biển còn có thể thu hút các đối tượng khách công vụ. Những nơi này
thường có mùa du lịch kéo dài và cường độ không quá mạnh. Còn các tỉnh
thành chủ yếu khai thác du lịch dựa vào tài nguyên thiên nhiên thì chắc chắn sẽ
gặp khó khăn nếu thời tiết không thuận lợi như Đà Lạt, Sa Pa,...
Thông thường các trung tâm thành phố lớn khai thác loại hình du
lịch biển như Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu,... ngoài việc thu hút khách du
lịch nghỉ biển còn có thể thu hút các đối tượng khách công vụ. Những nơi này
thường có mùa du lịch kéo dài và cường độ không quá mạnh. Còn các tỉnh
thành chủ yếu khai thác du lịch dựa vào tài nguyên thiên nhiên thì chắc chắn sẽ
gặp khó khăn nếu thời tiết không thuận lợi như Đà Lạt, SaPa,...
Nếu so sánh tính thời vụ giữa thành phố Đà Nẵng và tỉnh Ninh Bình
chúng ta dễ dàng nhận ra sự khác nhau rất lớn về thời gian của các mùa du
lịch. Tại Đà Nẵng, mùa chính du lịch kéo dài từ tháng tư đến tháng 8 còn
mùa trái du lịch rơi vào các tháng 9 đến tháng 2 (xem biểu đồ 5.1). Tại Ninh
Bình, mùa chính du lịch vào tháng 2 đến tháng 4, mùa trái rơi vào các tháng
còn lại (Xem biểu đồ 5.2). Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là do hai nơi này
phát triển các loại hình khác nhau. Thành phố Đà Nẵng nổi tiếng phát triển
với loại hình du lịch biển nên rất thuận tiện cho việc khai thác khách du lịch

133
vào mùa hè (khoảng tháng 5 đến tháng 8). Đối với Ninh Bình, phát triển chủ
yếu dựa vào loại hình du lịch văn hóa, đặc biệt là du lịch tâm linh nên
thường diễn ra vào khoảng tháng 2 đến 4. Những tháng 10 đến tháng 1 tại
đây khí hậu không mấy thuận lợi nên ít thu hút khách.

I
j

Tháng
g
Biểu đồ 5.2. Qui luật thời vụ du lịch tại Ninh Bình
5.2.13. Những tác động của thời vụ du lịch
Tính thời vụ du lịch ảnh hưởng bất lợi đến tất cả các thành phần
tham gia vào quá trình hoạt động du lịch. Bao gồm những ảnh hưởng đến cư
dân sở tại, đến chính quyền địa phương và nhất là đến khách du lịch và nhà
kinh doanh du lịch. Bên cạnh đó, còn ảnh hưởng đến giá trị của những tài
nguyên du lịch và các ngành kinh tế khác.
5.2.13.1. Các tác động bất lợi đến cư dân sở tại
Vào mùa chính du lịch, cầu du lịch tập trung quá lớn tại các khu vực
diễn ra hoạt động du lịch, gây nên sự mất cân đối, mất ổn định đối với các
phương tiện giao thông đại chúng, đối với mạng lưới phục vụ xã hội (giao
thông công cộng, điện, nước, mạng lưới thương nghiệp…), làm ảnh hưởng
không nhỏ đến nếp sống sinh hoạt hằng ngày của người dân địa phương.
Ngược lại, vào mùa trái du lịch, cầu du lịch giảm xuống và giảm tới
mức bằng không thì những người làm hợp đồng theo thời vụ sẽ không còn
việc, họ phải thất nghiệp hoặc thay thế công việc khác, điều đó ảnh hưởng
đến đời sống, thu nhập của những người dân làm việc này. Ngoài ra, ngay
cả những nhân viên làm việc lâu dài tại các doanh nghiệp du lịch cũng có
thể giảm thu nhập vào mùa trái du lịch do nguồn thu của doanh nghiệp giảm

134
sút.
5.2.13.2. Các tác động bất lợi đến chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm trong việc quản lý tình
hình an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Vào thời điểm chính vụ, công việc
này trở nên khó khăn hơn khi lượng khách du lịch tập trung quá lớn tại các
khu vực. Trong khi đó thành phần của khách du lịch rất phức tạp, nhiều cá
nhân lợi dụng cơ hội để gây mất an ninh, trật tự nên việc quản lý của chính
quyền rất khó khăn.
Khi cầu du lịch giảm xuống và giảm tới mức bằng không thì những
khoản thu nhập từ thuế và lệ phí do du lịch đem lại cho chính quyền địa
phương cũng giảm sút.
5.2.13.3. Các tác động bất lợi đến khách du lịch
Khách du lịch thường gặp khó khăn trong việc tìm chỗ nghỉ ngơi
thích hợp với thời gian tự chọn theo ý muốn của mình khi cầu du lịch tập
trung quá lớn. Ngoài ra, tình trạng tập trung nhiều khách du lịch tại nhà ga,
sân bay, bến tàu, trên các phương tiện giao thông, trong các cơ sở lưu trú,
trung giải trí ở các nơi đến du lịch. Vấn đề này tác động không nhỏ đến tâm
lý của khách, làm giảm tiện nghi khi đi lại, gây mệt mỏi cho khách, đồng
thời việc sử dụng các cơ sở lưu trú không được thoải mái, ảnh hưởng đến
việc cảm nhận giá trị tài nguyên du lịch. Do vậy, việc giảm chất lượng phục
vụ khách du lịch là điều không thể tránh khỏi.
5.2.13.4. Các tác động bất lợi đến nhà kinh doanh du lịch
Đối với doanh nghiệp kinh doanh du lịch bất kỳ là mùa chính hay
mùa trái đều bị ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.
Vào mùa chính du lịch, cầu du lịch tăng mạnh, trước mắt thì các cơ
sở kinh doanh hầu như sử dụng tối đa công suất, có doanh thu lớn và lợi
nhuận cao. Tuy nhiên, mặt trái của nó lại mang đến những tác động rất bất
lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh trong thời gian lâu dài. Bao gồm
các mặt như sau:
Một là, đối với chất lượng phục vụ du lịch: Nếu các cơ sở kinh
doanh du lịch hoạt động quá tải thì chắc chắn không thể phục vụ cho du
khách một cách chu đáo, đầy đủ. Điều này tác động vào tâm lý khách hàng,

135
người ta cho rằng chất lượng dịch vụ chưa đảm bảo và ngại tiêu dùng nhiều
lần với chất lượng dịch vụ không đáng tin cậy như vậy. Điều này ảnh hưởng
rất lớn đến uy tín của doanh nghiệp trong lòng khách hàng hiện tại cũng như
tiềm năng.
Hai là, đối với việc tổ chức và sử dụng nhân lực: Doanh nghiệp phải
đối mặt với tình trạng thiếu nhân lực phục vụ cho du khách, sử dụng lao
động quá mức ảnh hưởng đến nguồn nhân lực của doanh nghiệp, đôi khi cần
phải sử dụng đến nhân viên thời vụ và điều này cũng phần nào tác động đến
chất lượng dịch vụ cung ứng cho khách.
Ba là, đối với việc tổ chức các hoạt động cung ứng, các ngành kinh
tế và dịch vụ có liên quan, dịch vụ công cộng. Khả năng thiếu dịch vụ cung
ứng cho nhu cầu khách du lịch tăng cao vào mùa chính. Có thể doanh
nghiệp cần thay đổi phương thức, qui trình cung ứng dịch vụ du lịch để thỏa
mãn nhu cầu và điều này ảnh hưởng đến tính kỷ luật trong lao động. Bên
cạnh đó, để cung ứng được dịch vụ du lịch doanh nghiệp phải liên kết với
các đơn vị doanh nghiệp thuộc các ngành nghề kinh doanh khác và các dịch
vụ công cộng. Cho nên, các đơn vụ đó cũng gián tiếp chịu áp lực trong thời
điểm kinh doanh chính vụ
Bốn là, đối với việc tổ chức hạch toán: Thường xảy ra các sai sót
hơn.
Năm là, đối với tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kĩ thuật: Tài
nguyên du lịch bị khai thác quá mức để phục vụ nhu cầu tham quan của
khách du lịch mà không đủ thời gian để kiểm tra, tu bổ sẽ làm giảm giá trị
tài nguyên. Một phần do ý thức của khách du lịch chưa tốt, có thể làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, giảm giá trị của những tài
nguyên nhân tạo. Vấn đề này, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện phát triển
du lịch bền vững hay không.
Các tác động bất lợi gây ra khi cầu du lịch giảm xuống và giảm
xuống tới mức bằng không.
Thứ nhất, tác động tới chất lượng phục vụ: do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Vào thời điểm ít khách hoặc không có khách thì doanh nghiệp có
tính chủ quan, các dịch vụ có thể cắt giảm ảnh hưởng đến chất lượng phục
vụ cho khách.

136
Thứ hai, tác động tới hiệu quả kinh tế trong kinh doanh: nguồn
doanh thu giảm mạnh do lượng khách giảm. Trong khi đó doanh nghiệp
phải chi trả các khoản chi phí cố định lớn như khấu hao, lương nhân viên,...
Chính vì thế lợi nhuận rất thấp hoặc không có. Trong giai đoạn này các chỉ
tiêu hiệu quả kinh doanh đều rất thấp.
Thứ ba, tác động đến việc tổ chức và sử dụng nhân lực: mặc dù ít
khách hoặc không có khách, doanh nghiệp cũng khó có thể cho nhân viên
nghỉ việc tạm thời. Bởi vì nếu doanh nghiệp làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến
sự mất ổn định trong công việc của nhân viên và họ có thể bỏ việc để tìm
những công việc khác. Còn nếu giữ nguyên bộ máy nhân sự như mùa chính
vụ thì doanh nghiệp lại không đủ tiền để chi trả cho những khoản tiền lương
của nhân viên. Đây là một bài toán khó cho các doanh nghiệp trong việc tổ
chức và sử dụng lao động như thế nào để đạt được hiệu quả.
Thứ tư, tác động tới việc tổ chức hạch toán: doanh thu, lợi nhuận
giảm cũng có nghĩa rằng doanh nghiệp cần hoạch toán các khoản thu, chi và
trích lập các quỹ cần cân nhắc như thế để đảm bảo đúng qui định của pháp
luật và đồng thời phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp.
Thứ năm, đối với tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kĩ thuật: Khi
lượng khách tham quan quá ít, sẽ làm giảm động lực cho việc phát triển tài
nguyên, công tác trùng tu, tôn tạo không được quan tâm thường xuyên. Các
cơ sở vật chất kỹ thuật sẽ trở nên trì trệ hơn do mức độ bảo trì, bảo dưỡng,
thay thế không được thực hiện thường xuyên. Tính thời vụ du lịch tác động
đồng thời lên nhiều đối tượng tham gia vào hoạt động du lịch, trong đó
không chỉ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp du lịch mà kể cả những ngành
nghề có liên quan khác. Trong hoạt động quản lý và kinh doanh du lịch cần
nhận thức mức độ tác động và tìm ra các biện pháp hạn chế đến mức thấp
nhất những bất lợi do tính thời vụ du lịch gây ra. Từ đó mang lại sự hài lòng
cho du khách,
5.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thời vụ du lịch
Nhận thức được sự tác động của thời vụ du lịch lên các thành phần
trong nền kinh tế xã hội, các nhà nghiên cứu cũng như các tổ chức, doanh
nghiệp tiến hành xây dựng và thực hiện các kế hoạch đồng bộ nhằm hạn
chế. Muốn làm được điều đó họ phải tìm ra những nguyên nhân sâu xa tạo

137
nên tính thời vụ du lịch.
Như đã tìm hiểu trong khái niệm, tính thời vụ du lịch tồn tại là do
ảnh hưởng của tập hợp các yếu tố khác nhau. Đó là các nhân tố tự nhiên,
kinh tế - xã hội, nhân tố tổ chức, kỹ thuật, tâm lý,… Trong đó có một số
nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến cung du lịch, một số nhân tố ảnh hưởng chủ
yếu đến cầu du lịch hoặc có nhân tố ảnh hưởng đồng thời cả cung lẫn cầu.
Do vậy, muốn kinh doanh du lịch đạt hiệu quả cần tiến hành nghiên cứu một
cách tỉ mỉ ảnh hưởng của những nhân tố đến tính thời vụ của một quốc gia,
một khu vực mà kể cả từng loại hình doanh nghiệp cụ thể. Nhiệm vụ nghiên
cứu đặt ra là:
- Chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng quyết định đến tính thời vụ;
- Định ra hướng tác động của từng nhân tố đến cung hoặc cầu hoặc
cả cung và cầu trong du lịch;
- Xác định mức độ tác động của từng nhân tố và ảnh hưởng tổng hợp
của các nhân tố.
5.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng
Mối yếu tố có những đặc điểm khác nhau, mức độ tác động của
chúng còn tùy thuộc vào từng loại hình du lịch và từng đối tượng khách du
lịch. Khi tiến hành phân tích tính thời vụ tại một cơ sở du lịch, cần chú ý
nhữung yếu tố sau:
5.3.1.1. Tự nhiên
Trong các nhân tố tự nhiên, khí hậu là nhân tố quan trọng nhất, ảnh
hưởng quyết định đến tính thời vụ trong du lịch. Khí hậu ảnh hưởng đến cả
cung và cầu trong du lịch. Tuy nhiên, ở từng vùng khí hậu cụ thể thì mức độ
ảnh hưởng có sự khác nhau.
Đối với cung du lịch, điều kiện khí hậu có thể tạo điều kiện thuận lợi
hoặc gây khó khăn cho việc tổ chức kinh doanh các loại hình du lịch nhất
định. Các loại hình du lịch nghỉ biển, nghỉ núi, giải trí ngoài trời được khai
thác tốt trong điều kiện khí hậu mát mẻ, nhiều ánh nắng, ít mưa. Ngược lại,
nếu điều kiện khí hậu quá lạnh hoặc mưa kéo dài sẽ hạn chế khả năng tổ
chức các loại hình du lịch này.
Đối với cầu du lịch, khí hậu khuyến khích khách du lịch tham gia

138
nhiều hoặc làm cho khách nản lòng, không muốn tham gia.
Khi chúng ta xem xét loại hình du lịch nghỉ biển, các thành phần của
khí hậu như cường độ ánh nắng, độ ẩm, độ mạnh và hướng gió, nhiệt độ kết
hợp với một số đặc điểm của tài nguyên du lịch biển như độ sâu, kích thước
bãi tắm,... quyết định mức độ tiện nghi phù hợp với việc tắm và phơi của
khách, từ đó xác định được giới hạn của thời vụ du lịch. Tuy nhiên, giới hạn
đó cũng có thể mở rộng hoặc thu hẹp tùy thuộc vào đòi hỏi của khách du
lịch và tiêu chuẩn của họ khi sử dụng tài nguyên du lịch.
Ví dụ, khách du lịch Bắc Âu, họ có tắm biển được ở nhiệt độ 15 -
16 C, thì mùa du lịch có thể kéo dài hơn. Còn đối với khách du lịch Việt
0

Nam thì nhiệt độ là 25 - 300C hoặc cao hơn nữa thì mới phù hợp để tắm biển.
Cho nên mùa du lịch lại co ngắn lại.
Đối với các loại hình du lịch khác như du lịch chữa bệnh, du lịch văn
hóa, du lịch công vụ,... khí hậu không ảnh hưởng đến giá trị tài nguyên du
lịch nhưng khí hậu lại ảnh hưởng trực tiếp lên cầu du lịch. So với loại hình
du lịch nghỉ biển thì sự ảnh hưởng của khí hậu không khắt khe bằng. Khách
du lịch thường chọn thời gian đi du lịch có điều kiện khí hậu thuận lợi như
vào mùa xuân, hè hay mùa thu. Điều này là nguyên nhân cho thấy cường độ
khách du lịch tập trung vào một số thời điểm trong năm.
Như vậy, nhân tố khí hậu ảnh hưởng sâu, rộng đến cung cầu du lịch
gây nên tính thời vụ. Mức độ tác động khác nhau tùy thuộc vào từng loại
hình du lịch quyết định đến độ dài và cường độ của thời vụ du lịch. Vấn đề
đặt ra cho các quốc gia trên thế giới là tình hình biến đổi khí hậu diễn biến
phức tạp ảnh hưởng đến việc dự báo và lên kế hoạch ứng phó và hạn chế
những bất lợi của thời vụ du lịch.
5.3.1.2. Yếu tố kinh tế - xã hội - tâm lý
a. Về kinh tế
Thu nhập là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng quyết định tới nhu cầu
đi du lịch, bởi để thực hiện được chuyến đi du lịch thì cần phải có một lượng
tiền cần thiết, nên thu nhập của người dân càng cao thì họ có nhu cầu đi du
lịch càng nhiều. Vì vậy, ở các nước có nền kinh tế phát triển người ta đi du
lịch nhiều hơn, họ có thể thực hiện nhiều chuyến đi du lịch trong một năm,

139
do đó nhu cầu đi du lịch trong mùa chính giảm, góp phần làm giảm cường
độ du lịch ở thời vụ du lịch chính. Điều đó cho thấy rõ tác động của thu
nhập đến cầu du lịch và gây nên tính thời vụ.
Sự thay đổi tỉ giá hối đoái cũng tác động khá lớn đến nhu cầu đi du
lịch. Chẳng hạn đồng tiền quốc gia nơi đến bị mất giá so với đồng tiền có
khả năng chuyển đổi cao như USD, EURO… thì sẽ làm tăng nhu cầu du lịch
và ngược lại. Sự thay đổi có thể kéo theo làm thay đổi mức độ, thời vụ của
du lịch.
Bên cạnh đó, tình hình về lạm phát hay khủng hoảng nền kinh tế
cũng là một trong những nguyên nhân tác động đến cầu du lịch. Đồng thời,
những nhân tố này cũng tác động phần nào đến việc đầu tư, phát triển các
dịch vụ kinh doanh du lịch.
b. Thời gian rỗi
Thời gian nhàn rỗi là nhân tố ảnh hưởng đến sự phân bố không đều
của nhu cầu du lịch, con người chỉ có thể đi du lịch vào thời gian nhàn rỗi.
Chủ yếu là sự phân bổ thời gian rỗi của các nhóm dân cư gây ảnh hưởng đến
sự phân bố không đồng đều về cầu du lịch và gây nên tính thời vụ. Tác động
của thời gian nhàn rỗi lên tính thời vụ trong du lịch phải nói đến hai thành
phần chính trong xã hội.
Thứ nhất, thời gian nghỉ phép trong năm của người lao động tác
động lên thời vụ du lịch, do độ dài của thời hạn phép và thời gian sử dụng
phép. Nếu thời gian phép ngắn thì người ta thường chỉ đi du lịch một lần
trong năm, khi đó họ chọn thời gian chính vụ để đi du lịch với mong muốn
được tận hưởng những ngày nghỉ quý giá, do đó cường độ du lịch sẽ cao
vào mùa chính. Ngược lại, thời gian nghỉ phép năm dài cho phép con người
đi du lịch nhiều lần trong năm, tỉ trọng nhu cầu tập trung vào mùa chính sẽ
giảm, góp phần làm giảm cường độ du lịch trong mùa chính, tăng cường độ
thu hút nhu cầu ngoài mùa.
Thực tế cho thấy, tại các quốc gia trên thế giới hiện nay đã có sự gia
tăng thời gian nghỉ phép năm cho người dân. Nếu số ngày nghỉ phép năm
kéo dài cho phép người dân đi du lịch nhiều lần hơn trong năm từ đó giúp
cho cường độ vào mùa chính sẽ giảm và kéo dài được thời vụ du lịch. Như
vậy, sự gia tăng thời gian nhàn rỗi góp phần làm giảm cường độ của thời vụ

140
du lịch và tăng cường độ vào ngoài mùa du lịch.
Việc phân bố thời gian sử dụng phép năm của các công nhân viên
chức cũng ảnh hưởng đến tính thời vụ trong du lịch. Ví dụ ở một số nước áp
dụng chính sách qui định thời gian sử dụng phép năm cho nhân viên trong
một khoảng thời gian nhất định. Điều này là nguyên nhân khiến nhu cầu tập
trung vào một thời điểm nhất định trong năm. Tuy nhiên, trên thực tế, sự
ảnh hưởng này không lớn vị rất ít quốc gia qui định thời điểm bắt buộc sử
dụng phép năm.
Một nguyên nhân gây nên sự tập trung cao của cầu du lịch là việc sử
dụng thời gian nghỉ phép đại trà. Sự tập trung lớn nhu cầu vào vụ chính còn
do việc sử dụng phép theo tập đoàn như cán bộ - giáo viên trong trường học
nghỉ hè, nông dân nghỉ vào ngày không bận rộn mùa màng. Một số xí
nghiệp ngừng hoạt động chính vào một giai đoạn trong năm và nhân viên
phải nghỉ phép trong thời gian đó.
Thứ hai, thời gian nghỉ của trường học, điều này làm cho học sinh và
cha mẹ chúng có thời gian đi du lịch. Thường là đối với học sinh có độ tuổi
từ 6 - 15 tuổi, các bậc cha mẹ thường sắp xếp thời gian nghỉ phép cùng, để
tận hưởng ngày nghỉ cùng với con cái. Đối với tầng lớp học sinh, sinh viên
ở các trường phổ thông trung học, đại học, cao đẳng, kỳ nghỉ hè trùng với
mùa du lịch biển… Đối với một số nước lạnh thì ngoài kỳ nghỉ hè còn có kỳ
nghỉ đông. Điều này làm tăng cường độ mùa du lịch chính.
Đối với những người hưu trí, số lượng ngày càng tăng do tuổi thọ
trung bình tăng, thời gian của họ có thể đi du lịch bất kỳ lúc nào nếu có đủ
điều kiện kinh tế. Đây là lực lượng du khách làm giảm bớt cường độ mùa du
lịch chính.
Khi tiến hành nghiên cứu sự tác động của thời gian rỗi lên thời vụ du
lịch thì người ta thường xuất phát từ việc tìm hiểu đối tượng khách mục tiêu.
Các nhà nghiên cứu cũng gặp không ít khó khăn do mỗi quốc gia có cơ cấu
dân cư theo độ tuổi, hoàn cảnh gia đình khác nhau. Do vậy, nghiên cứu hiệu
quả đòi hỏi tính tỉ mỉ, cụ thể cho từng quốc gia và khó tổng hợp thành xu
hướng chung.
c. Sự quần chúng hóa trong du lịch
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến cầu trong du lịch. Sự tham
141
gia của số đông khách có khả năng thanh toán trung bình (thường ít có kinh
nghiệm đi du lịch) họ thường thích đi nghỉ biển vào mùa hè mùa du lịch
chính, vì các lý do sau:
Đa số khách có khả năng thanh toán hạn chế thường đi nghỉ tập thể
vào chính vụ, do chi phí tổ chức chuyến đi theo đoàn thường nhỏ. Mặc dù
vào thời điểm này chi phí du lịch cao nhưng lại được giảm giá cho số đông.
Họ thường không hiểu điều kiện nghỉ ngơi của từng tháng nên họ chọn
những tháng thuộc mùa chính để xác suất gặp thời tiết bất lợi là nhỏ nhất.
Do ảnh hưởng của mốt và sự bắt chước lẫn nhau của du khách.
Những người mới tham gia vào dòng khách du lịch thường không nắm được
điều kiện nghỉ ngơi của từng vùng, từng địa phương một cách cụ thể. Họ lựa
chọn thời gian đi nghỉ ngơi dưới tác động của các nhân tố tâm lý và phụ
thuộc vào kinh nghiệm của người khác. Họ thường đi nghỉ vào thời gian mà
các nhân vật có tiếng đi nghỉ.
Vì vậy, sự quần chúng hóa trong du lịch làm tăng tính thời vụ vốn có
trong du lịch. Để khắc phục ảnh hưởng này người ta thường dùng chính
sách giảm giá vào trước và sau mùa chính, đồng thời tăng cường quảng cáo
các điều kiện nghỉ ngơi ngoài mùa chính để thu hút khách.
d. Phong tục tập quán
Qua điều tra xã hội học của Hoa Kỳ và một số nước Tây Âu cho thấy:
phong tục tập quán là nhân tố tác động đến cầu du lịch và sự tập trung của
cầu du lịch vào những thời điểm nhất định.
Thông thường các phong tục có tính chất bền vững và được hình
thành dưới tác động của các điều kiện kinh tế - xã hội. Các điều kiện này
thay đổi sẽ tạo ra các phong tục mới nhưng không thể xóa bỏ phong tục cũ
và chúng có thể chấp nhận được.
Ví dụ: ở miền Bắc nước ta vào mùa xuân (khoảng tháng 2 và tháng 3
âm lịch) là mùa lễ hội như Chùa Hương, Chùa Thầy, Đền Hùng, Hội Lim…
số lượt khách tham gia rất đông, có thể chiếm tới khoảng 74% trong tổng số
lễ hội trong năm.
e. Điều kiện về tài nguyên du lịch
Đây là nhân tố tác động lên cả cung lẫn cầu trong du lịch. Điều kiện

142
về tài nguyên du lịch như bờ biển đẹp, dài… mùa du lịch biển ngắn. Ở
những vùng có suối nước khoáng tạo điều kiện du lịch chữa bệnh phát triển,
nếu được kết hợp với du lịch biển và du lịch văn hóa sẽ có thể kéo dài thời
vụ du lịch hơn… Độ dài của thời vụ du lịch của một vùng phụ thuộc vào sự
đa dạng của các thể loại du lịch có thể phát triển ở đó.
f. Sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch
Sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch có ảnh hưởng đến độ dài thời vụ
du lịch thông qua cung.
Chất lượng và cơ cấu của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và cách tổ
chức hoạt động trong các cơ sở du lịch ảnh hưởng đến việc phân bố nhu cầu
theo thời gian. Chẳng hạn việc xây dựng các khách sạn có hội trường, bể bơi,
các trung tâm chữa bệnh… tạo điều kiện cho các cơ sở này hoạt động quanh
năm.
Việc phân bố hợp lý các hoạt động vui chơi, giải trí, tổ chức cho du
khách có ảnh hưởng nhất định đến việc khắc phục sự tập trung những nhân
tố tác động đến thời vụ du lịch. Thông thường những điểm đến du lịch có sự
đa dạng về khả năng đón tiếp, dịch vụ đa dạng sẽ thúc đẩy tiêu dùng nhiều
hơn, kéo dài thời gian lưu lại của khách, từ đó kéo dài được thời vụ du lịch.
Chính sách giá của các cơ quan quản lý du lịch ở từng nước, từng
vùng, các tổ chức kinh doanh du lịch - khách sạn thường giảm giá các dịch
vụ và hàng hóa trước và sau mùa chính hoặc dùng các hình thức khuyến mãi
để kéo dài thời vụ du lịch.
Các công tác tổ chức của cơ quan quản lý và doanh nghiệp như hoạt
động tuyên truyền, quảng cáo ảnh hưởng không nhỏ đến sự phân bố của
luồng khách du lịch giúp cho khách du lịch nắm được các thông tin về điểm
du lịch để họ có kế hoạch đi nghỉ sớm hoặc sau mùa chính một khi họ thấy
có lợi.
Ngoài các nhân tố trên, vẫn còn một số nhân tố khác tác động đến
cung hoặc cầu du lịch và phần nào gây nên tính thời vụ như: nhân tố mang
tính tâm lý, một số trường hợp đặc biệt như phục vụ khách du lịch tuần
trăng mật, khách du lịch công vụ thường chọn những thời điểm nhất định
nào đó trong năm.

143
Các nhân tố trên thông thường vừa tác động riêng lẻ, vừa tác động
đồng thời, trong thực tế mùa du lịch thường chịu ảnh hưởng của một vài
nhân tố cùng một lúc. Ngoài ra tác động của từng nhân tố có thể giảm đi khi
có nhân tố khác tác động theo hướng ngược lại. Ví dụ tác động của yếu tố
khí hậu sẽ giảm nếu tạo ra cơ cấu của cơ sở vật chất kỹ thuật thích hợp. Vì
vậy, cần phải hiểu rõ các mối liên hệ ràng buộc qua lại giữa các yếu tố ảnh
hưởng đến độ dài mùa của từng loại hình du lịch. Từ đó để tìm ra được mọi
khả năng kéo dài mùa kinh doanh du lịch hoạt động trong cả năm, nâng cao
chất lượng phục vụ và tăng nguồn thu cho doanh nghiệp du lịch, khách sạn.
5.3.2. Phương hướng giảm những tác động tiêu cực của tính thời vụ
Như đã phân tích trong đặc điểm của tính thời vụ du lịch, trong kinh
doanh du lịch, tính thời vụ luôn là yếu tố khách quan và tất yếu. Các tổ chức
quản lý cũng như doanh nghiệp cần tìm ra biện pháp thích hợp để hạn chế
những tác động tiêu cực của tính thời vụ nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh
tối ưu, giúp cho hoạt động du lịch phát triển một cách bền vững.
Chúng ta biết rằng, nguyên nhân của tính thời vụ là do sự ảnh hưởng
tổng hợp của các yếu tố đến cung – cầu du lịch. Do vậy, phương hướng hạn
chế tính thời vụ du lịch cũng được thực hiện trên hai mặt này, tức là tác động
đến cung hay tác động đến cầu.
Cụ thể bao gồm các nội dung sau:
5.3.2.1. Kéo dài mùa vụ du lịch của một loại hình du lịch
Mỗi một loại hình du lịch thường khai thác dựa vào nguồn tài
nguyên nhất định và khai thác một số thị trường khách nhất định. Muốn kéo
dài mùa vụ du lịch người ta thường kết hợp khai thác loại hình du lịch này
với loại hình du lịch khác hoặc các dịch vụ bổ sung như thể thao, giải trí,...
Bên cạnh đó, cần các chính giá khuyến khích, khen thưởng vào ngoài mùa như
giảm giá, tặng quà, tiền thưởng,.. nhằm tác động cầu du lịch.
5.3.2.2. Đa dạng hóa các loại hình du lịch
Khi xác định phát triển các loại hình du lịch cho một vùng, quốc gia
sẽ giúp cho việc kinh doanh du lịch diễn ra đều đặn hơn suốt cả năm, tránh
được tình trạng thời vụ du lịch quá ngắn và cường độ quá lớn. Để xác định
các loại hình du lịch thích hợp cần phải căn cứ các điều kiện sau:

144
- Giá trị và khả năng tiếp nhận của các tài nguyên du lịch;
- Qui mô của các luồng khách du lịch đã có và các luồng khách
triển vọng;
- Sức tiếp nhận của các cơ sở vật chất kỹ thuật;
- Nguồn lao động trong vùng;
- Khả năng kết hợp các thể loại du lịch có thể phát triển được;
- Kinh nghiệm tổ chức.
5.3.2.3. Các hoạt động hỗ trợ bán
Bao gồm các chương trình nhằm khuyến khích tiêu dùng vào ngoài
mùa chính: giảm giá sản phẩm dịch vụ, dịch vụ không mất tiền, thưởng, ...
hoặc thực hiện các chương trình tuyên truyền, quảng cáo theo thời gian
nhằm nêu bật những điều kiện tự nhiên thuận lợi của từng trung tâm du lịch
trong từng mùa của cả năm.
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập chương 5
1. Anh/chị cho cho biết các loại hình tài nguyên của du lịch?
2. Hãy cho biết các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động du lịch?
3. Hãy cho biết khái niệm tính thời vụ trong du lịch?
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Ngọc Chinh, Nguyễn Thanh Trường (2019), Di tích và thắng
cảnh ở Việt Nam, Nxb Đà Nẵng.
2. GS.TS. Nguyễn Văn Đính, PGS.TS Trần Thị Minh Hòa (2008), Giáo
trình kinh tế du lịch, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
3. ThS. Nguyễn Thanh Hiển (2004), Bài giảng Tổng quan du lịch, Đại học
mở bán công TP Hồ Chí Minh.
4. Luật Du lịch năm 2017, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. TS. Vũ Đức Minh (2008), Giáo trình tổng quan về du lịch, Trường Đại
học Thương mại, NXB Thống kê.
6. Nguyễn Đình Quang, Trần Thị Thúy Lan (2005), Giáo trình Tổng quan
du lịch, NXB Hà Nội.
7. https://whc.unesco.org/
........................................................................

145
Chương 6
Cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động trong du lịch

6.1. Cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch


6.1.1. Khái niệm
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hóa sâu sắc,
có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Do vậy, hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật du lịch không chỉ bao gồm các yếu tố riêng của ngành mà còn
bao gồm các yếu tố của các ngành khác có liên quan cũng như của xã hội
được huy động vào hoạt động nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ du lịch đa
dạng, đồng bộ thỏa mãn nhu cầu của con người. Với đặc điểm này, cơ sở vật
chất kỹ thuật du lich cần được tiếp cận trên 2 khía cạnh: theo nghĩa rộng và
theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch được hiểu là
toàn bộ những phương tiện vật chất tham gia vào việc tạo ra và cung ứng
các dịch vụ và hàng hóa du lịch (sản phẩm du lịch) nhằm đáp ứng mọi nhu
cầu của du khách trong suốt chuyến hành trình của họ. Theo cách hiểu này,
cơ sở vật chất kỹ thuật do bản thân ngành du lịch cung cấp và cơ sở vật chất
kỹ thuật do các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân tham gia vào khai
thác tiềm năng du lịch như: hệ thống giao thông, điện nước, thông tin,…
Những thành phần này được gọi chung là hạ tầng xã hội. Chúng có vai trò
như điều kiện chung cho sự phát triển du lịch. Điều đó cho thấy mối liên hệ
mật thiết giữa ngành du lịch và các ngành khác trong việc sử dụng cơ sở vật
chất kỹ thuật phục vụ du lịch.
Theo nghĩa hẹp, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ
các phương tiện vật chất kỹ thuật do các tổ chức du lịch tạo ra để khai tác
tiềm năng du lịch, tạo ra các sản phẩm, cung cấp và làm thỏa mãn nhu cầu
của khách du lịch. Chúng bao gồm hệ thống các khách sạn, nhà hàng, các
khu vui chơi chơi – giải trí, phương tiện vận chuyển,… và đặc biệt nó bao
gồm các công trình kiến trúc bổ trợ [2]. Đây là những yếu tố đặc trưng trong
hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch. Nếu thiếu những yếu tố
này thì nhu cầu của khách du lịch không được thỏa mãn. Do vậy, đây chính
là điều kiện đặc trưng cho việc tạo ra và cung ứng các sản phẩm dịch vụ du
lịch cho khách.
146
Việc nghiên cứu khái niệm cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch theo nghĩa
rộng và nghĩa hẹp có ý nghĩa rất quan trọng, cho phép xác định cơ cấu cơ sở
vật chất kỹ thuật và vai trò của từng yếu tố trong việc tạo ra và cung ứng
dịch vụ cho khách. Tuy nhiên, việc phân chia này cũng mang tính chất
tương đối vì thực tế rất khó tách bạch giữa cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc hạ
tầng xã hội hay do doanh nghiệp du lịch cung cấp trong các khu du lịch,
điểm du lịch.
Nội dung
Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể thấy rằng nội dung cơ sở vật
chất kỹ thuật du lịch bao gồm các thành phần như sau:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch bao gồm: Hệ thống các
khách sạn, nhà hàng, phương tiện giao thông và có thể là các rạp chiếu phim,
công viên nếu do ngành du lịch đầu tư xây dựng.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội tham gia phục vụ du lịch bao
gồm: Cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc các ngành khác nhau có tham gia phục
vụ du lịch như hệ thống giao thông vận tải, mạng lưới thông tin liên lạc, hệ
thống lưới điện, nước và các cơ sở phục vụ khác.
Cơ sơ vật chất trong du lịch bao gồm nhà cửa, trang thiết bị, máy văn
phòng, thiết bị liên lạc, phương tiện vận chuyển, hệ thống đặt giữ chỗ,...
6.1.2. Đặc điểm
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được qui định bởi nội dung của hoạt
động du lịch và nhu cầu của khách du lịch, nó được biểu hiện ở những đặc
điểm quan trọng sau đây:
6.1.2.1. Phụ thuộc lớn vào tài nguyên du lịch
Tài nguyên nói chung, tài nguyên du lịch tự nhiên nói riêng, bao
gồm cảnh quan thiên nhiên, các yếu tố địa chất, địa mạo, khí hậu, thủy văn,
hệ sinh thái và các yếu tố tự nhiên khác có thể được sử dụng cho mục đích
du lịch [1].
Tài nguyên du lịch là điều kiện quan trọng để phát triển du lịch đồng
thời đây cũng chính là yếu tố tạo động cơ cho sự viếng thăm của du khách.
Nhưng nếu một nơi có giá trị tài nguyên hấp dẫn mà cơ sở vật chất kỹ thuật
không đảm bảo thì không thể phục vụ khách du lịch và khách du lịch cũng
không đến đó. Mối quan hệ giữa tài nguyên du lịch và cơ sở vật chất kỹ

147
thuật vừa mang tính thống nhất nhưng cũng vừa mâu thuẫn.
Mối quan hệ thống nhất: được thể hiện ở chỗ nơi nào muốn khai thác
tài nguyên du lịch phục vụ du lịch thì không thể thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật.
Ngược lại, chúng ta không thể đầu từ cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở
những nơi không có tài nguyên du lịch.
Trong quan hệ này, tài nguyên du lịch có tính chất quyết định đến sự
tồn tại của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Khả năng tiếp nhận của tài
nguyên du lịch (sức chứa, địa hình,…) quyết định đến công suất qui mô,
công suất sử dụng các công trình phục vụ du lịch. Sức hấp dẫn của tài
nguyên du lịch ảnh hưởng đến thứ hạng của những công trình này. Vị trí của
tài nguyên du lịch là cơ sở để bố trí hợp lý cơ sở vật chất kỹ thuật của các
vùng lãnh thổ trên đất nước. Sự kết hợp hài hòa giữa cơ sở vật chất kỹ thuật
và tài nguyên du lịch giúp cho cơ sở phục vụ du lịch hoạt động hiệu quả,
kéo dài thời gian sử dụng của chúng trong năm.
Ngược lại, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cũng tác động tích cực đến
tài nguyên du lịch. Khi cơ sở vật chất kỹ thuật được đầu tư xây dựng phù
hợp với tài nguyên du lịch thì chắc chắn nó sẽ góp phần làm tăng thêm giá
trị tài nguyên, làm đẹp hơn cho thắng cảnh. Không những vậy, cơ sở vật
chất kỹ thuật một khi được thiết kế, xây dựng độc đáo, hấp dẫn khách du
lịch cũng trở thành tài nguyên du lịch.
Việt Nam có nhiều khu du lịch có sự đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật
hợp lý, khai thác tốt tài nguyên du lịch để phục vụ du khách như: Vinpeal
Land Nha Trang, khu du lịch Bà Nà Đà Nẵng, khu du lịch Mũi Né Phan
Thiết,… Khách du lịch đến đây không chỉ hấp dẫn vì tài nguyên du lịch mà
còn bởi yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
Mối quan hệ mâu thuẫn: thể hiện những tác động tiêu cực của cơ sở
vật chất đến tài nguyên du lịch. Vấn đề này có thể tồn tại do đầu tư xây
dựng không phù hợp, các vẫn đề nảy sinh từ dự án như: hình thành ý tưởng,
giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng cũng như quá trình vận hành các công
trình xây dựng. Những tác động tiêu cực này kéo theo những hậu quả làm
giảm sút giá trị tài nguyên, tốn chi phí cho việc khắc phục. Đặc biệt trong
điều kiện kinh doanh hiện nay mối quan hệ này được xem xét một cách
nghiêm túc vì nó có thể ảnh hưởng đến môi trường, phá hủy sự đa dạng sinh
học của các khu bảo tồn.

148
6.1.2.2. Có tính đồng bộ trong xây dựng và sử dụng
Do nhu cầu của khách khi đi du lịch mang tính đồng bộ đòi hỏi khi
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần đảm bảo thỏa mãn nhu cầu. Trong quá
trình đi du lịch, khách du lịch không chỉ có nhu cầu thiết yếu mà còn có
những nhu cầu đặc trưng và nhu cầu bổ sung. Chính vì vậy, trong xây dựng
và sử dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phải thỏa mãn đồng thời các nhu cầu này.
Tính đồng bộ của cơ sở vật chất kỹ thuật được thể hiện trên ba khía
cạnh sau:
- Thứ nhất, sự đầy đủ của các thành phần theo qui định của một hệ
thống. Một khu du lịch cần có đầy đủ các thành phần như từ bãi đậu xe, dịch
vụ ăn uống, lưu trú, giải trí, và các dịch vụ khác. Một khách sạn khi đầu tư
xây dựng và phục vụ du khách ngoài các yếu tố tiện nghi của buồng ngủ còn
phải có các khu vực phục vụ nhu cầu khác của khách trong thời gian lưu trú
như ăn uống, thể thao, giải trí (massage, spa, tắm hơi,..). Những hạng mục
công trình này phải được tiến hành xây dựng và sử dụng đồng thời. Trong
du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật của một đơn vị cần hạn chế đầu tư xây dựng
nhiều lần, nhiều giai đoạn. Vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến khả năng sẵn sàng
đón tiếp và phục vụ du khách.
- Thứ hai, sự hài hòa cân đối giữa các khu vực trong một tổng thể
theo một yếu tố trung tâm. Ví dụ, một nhà hàng kinh doanh dịch vụ ăn uống
là chủ yếu. Cần có sự hài hòa về qui mô giữa khu vực khách ăn uống với
các khu vực đón tiếp, bếp hay các công trình phụ trợ khác. Bên cạnh đó, cần
tính đến sự hài hòa trong cơ cấu, cách bố trí cơ sở vật chất kỹ thuật trong
các khu vực.
- Thứ ba, sự đồng bộ về mặt kỹ thuật thiết kế và xây dựng. Điều này
thể hiện trong cách thiết kế diện tích các vị trí cụ thể (như hành lang, cầu
thang,..) so với bố cục tổng thể. Khi thiết kế và xây dựng cần gắn với những
tiêu chuẩn tối thiểu về không gian.
Chính vì đặc điểm này, khi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
du lịch cần chú ý đến thiết kế tổng thể nhằm tạo ra được sự đồng bộ, hài hòa,
cân đối cả về lượng và chất. Tuy nhiên cần phải tính đến thực tế nhu cầu sử
dụng các dịch vụ nhằm đảm bảo kinh doanh có hiệu quả trong mỗi dịch vụ
cũng như tổng thể.

149
6.1.2.3. Chi phí cho cơ sở vật chất kỹ thuật chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi
phí kinh doanh
Hầu hết các lĩnh vực kinh doanh trong du lịch như khách sạn, nhà
hàng, giải trí cần một lượng vốn đầu tư lớn vào cơ sở vật chất kỹ thuật như
xây dựng nhà cửa, mua sắm các trang thiết bị, dụng vụ,…
Theo thống kê của Tổ chức du lịch thế giới thì việc đầu tư cho lĩnh
vực kinh doanh khách sạn có vốn tương đối cao.
Ví dụ, một phòng khách sạn 3 sao có chi phí đầu tư khoảng 60.000
đến 90.000 USD; khách sạn 4 sao khoảng từ 90.000 đến 120.000 USD;
khách sạn 5 sao khoảng từ 120.000 đến 150.000 USD.
Nguyên nhân của việc đầu tư chi phí lớn là:
- Nhu cầu du lịch lịch mang tính tổng hợp, đặc trưng (như hưởng
thụ, cảm nhận cái đẹp). Khi đi du lịch người ta thường đòi hỏi dịch vụ cao
cấp hơn, tiện nghi hơn, thoải mái hơn. Một trong những yếu tố đáp ứng
những đòi hỏi này chính là cơ sở vật chất kỹ thuật. Các đơn vị kinh doanh
cần một lượng chi phí lớn để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ,
có chất lượng cao, sang trọng.
- Khách du lịch cũng đòi hỏi cao về cảnh quan, môi trường. Do vậy
trong kinh doanh du lịch các nhà đầu tư còn phải tốn chi phí cho việc thiết
kế xây dựng khung cảnh bên ngoài như các lối đi, đài phun nước, các khuôn
viên,… Đây là các khoản chi phí không nhỏ.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật cần duy tu, bảo dưỡng, thay mới để đảm
bảo sự sẵn sàng đón tiếp phục vụ khách. Đây cũng là phần chi phí phát sinh
cho cơ sở vật chất kỹ thuật trong quá trình kinh doanh.
Đặc điểm này làm giá thành sản phẩm dịch vụ cao doanh nghiệp
phải có một lượng vốn đủ lớn. Trong hoạt động kinh doanh du lịch cần chú
ý làm thế nào xây dựng chính sách giá đảm bảo chi trả các khoản đầu tư chi
phí lớn, khấu hao các loại tài sản có giá trị lớn. Nghiên cứu kỹ cầu thị
trường để chắc chắn đầu tư có hiệu quả.
6.1.2.4. Được sử dụng trong thời gian tương đối dài
Thành phần chính của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là các công
trình kiên cố như tòa nhà khách sạn, nhà hàng, các công trình kiến trúc khác.
Các công trình này thường có thời gian sử dụng dài, có thể 10 năm đến 50

150
năm hoặc có thậm chí lâu hơn.
Trong kinh doanh du lịch cần lưu ý đến việc tính toán giá trị khấu
hao của chúng trong từng dịch vụ cụ thể và theo thời gian. Bên cạnh đó, khi
đầu tư thiết kế, xây dựng cần tính đến việc sử dụng trong thời gian dài.
Tránh đến việc đầu tư nâng cấp, cải tạo thường xuyên vì những công việc
này cũng tốn chi phí lớn, ảnh hưởng đến tính đồng bộ và mất ổn định trong
kinh doanh.
6.1.2.5. Được sử dụng theo thời vụ
Hoạt động du lịch chịu ảnh hưởng rất lớn của tính thời vụ, trong đó
cơ sở vật chất kỹ thuật cũng được sử dụng theo số thời điểm nhất định mà
không phải là toàn thời gian. Công suất sử dụng thay đổi theo thời gian. Với
loại hình du lịch biển cơ sở vật chất thường được sử dụng vào các tháng hè
có nắng nhiều, nhiệt độ cao. Du lịch cuối tuần thì được thực hiện chủ yếu
vào ngày cuối tuần, phục vụ ăn uống tại nhà hàng của khách sạn theo qui
luật sinh lý của con người. Ngoài ra, tính không cân đối còn phụ thuộc vào
những đối tượng khách khác nhau với những mục đich khác nhau. Khách
sạn phục vụ khách du lịch công vụ, dịch vụ lưu trú và thông tin được sử
dụng nhiều còn dịch vụ nhà hàng sử dụng ít hơn do khách có thể đi ăn ngoài
khách sạn theo chương trình chiêu đãi hoặc thuận tiện trong công việc.
Đặc điểm này cũng gây khó khăn cho việc quản lý và sử dụng cơ sở
vật chất kỹ thuật. Sự mất ổn trong công suất sử dụng theo thời gian có thể
ảnh hưởng đến chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, dễ bị hư hỏng vào
những thời điểm đông khách. Trong quản lý và sử dụng cơ sở vật kỹ thuật
du lịch cần chú ý đến việc bố trí thời gian bảo dưỡng, thay thế phù hợp để
đảm bảo khả năng sẵn sàng phục vụ và lựa chọn những trang thiết bị phù
hợp với điều kiện thời vụ.
Trên đây là những đặc điểm của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, nó
có mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố về tài nguyên, nhu cầu sử dụng, chi
phí đầu tư và thời vụ du lịch. Do vậy để đạt được hiệu quả trong kinh doanh
các nhà quản lý cần chú ý đến xây dựng, quản lý và sử dụng cơ sở vật chất
kỹ thuật, nghiên cứu chúng một cách toàn diện và phải đặt nó trong mối
quan hệ với môi trường tài nguyên.
6.1.3. Phân loại cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch
Trong phần khái niệm và nội dung cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đã

151
đề cập đến các thành phần của cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch. Tuy
nhiên để hiểu rõ hơn về cơ cấu của chúng, chúng ta có thể phân loại dựa vào
các tiêu thức sau:
6.1.3.1. Căn cứ theo hình thức sở hữu
Căn cứ vào tiêu thức này có thể phân chia cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch do:
- Nhà nước quản lý (Trung ương và địa phương): Bộ phận cơ sở vật
chất này mặc dù không trực tiếp tạo ra sản phẩm du lịch song nó lại rất quan
trọng vì nó có nhiệm vụ giúp các cơ quan quản lý du lịch có thể làm việc, đề
ra các chính sách và giải pháp để phát triển du lịch.
- Tư nhân quản lý: Đây là cơ sở vật chất kỹ thuật thường tham gia
trực tiếp vào quá trình tạo ra sản phẩm dịch vụ du lịch, ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng của dịch vụ du lịch. Đó là cơ sở vật chất của các doanh
nghiệp kinh doanh khách sạn, nhà hàng, lữ hành,...
- Các công ty liên doanh quản lý: Tương tự như cơ sở vật chất kỹ
thuật trên nhưng do công ty liên doanh quản lý;
- Công ty cổ phần quản lý;
- Công ty trách nhiệm hữu hạn quản lý;
- Công ty có vốn nước ngoài hoặc 100% vốn nước ngoài quản lý.
6.1.3.2. Căn cứ theo qui mô
Căn cứ vào qui mô, cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch được phân
chia thành các loại:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật qui mô lớn: có giá trị đầu tư trên 50 tỷ
đồng. Ví dụ như các khu Resort, các trung tâm vui chơi, giải trí (Đầm Sen,
Suối Tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh), các khu du lịch (Bà Nà - Đà Nẵng,
Vinpearland Nha Trang), ...
- Cơ sở vật chất kỹ thuật có qui mô vừa: có giá trị đầu tư khoản hơn
10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật qui mô nhỏ: có giá trị đầu tư khoản 10 tỷ
đồng trở xuống
Việc phân loại cơ sở vật chất kỹ thuật theo qui mô cũng chỉ mang
tính chất tương đối. Trên thực tế, qui mô cơ sở vật chất kỹ thuật được đánh
152
giá lớn hay nhỏ còn tùy thuộc vào từng lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, qui mô
cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành kinh doanh lưu trú phụ thuộc vào số
buồng, số giường, diện tích khuôn viên.
6.1.3.3. Căn cứ theo tính chất hoạt động
Theo tiêu thức này, cơ sở vật chất kỹ thuật được chia thành các
nhóm: cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động trung gian, các cơ sở lưu trú,
nhà hàng, các khu vực dịch vụ bổ sung và vui chơi giải trí, phục vụ giao
thông vận tải,...
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ các hoạt động trung gian: Bao
gồm hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật trong các đại lý, văn phòng đại diện,
các công ty lữ hành. Chúng đảm nhiệm chức năng cầu nối giữa khách du
lịch với các nhà cung cấp, điểm du lịch hoặc hổ trợ thiết kế, bán và thực
hiện các chương trình du lịch của công ty lữ hành. Hệ thống cơ sở vật chất
kỹ thuật này chủ yếu là các trang thiết bị văn phòng, phương tiện thông tin
liên lạc và kể cả phần mềm hệ thống máy vi tính hỗ trợ cho các hoạt động
tác nghiệp kinh doanh và quản lý.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ vận chuyển du lịch
Cơ sở vật chất kỹ thuật này do các nhà kinh doanh vận chuyển cung
cấp, chúng bao gồm các thành phần chính như: các phương tiện chuyên chở,
cơ sở vật chất phục các bộ phận quản lý, điều hành, bán vé và các hoạt động
tác nghiệp khác. Ngoài ra, thành phần không thể thiếu trong quá trình phục
vụ nhu cầu vận chuyển cho khách là hệ thống nhà ga, bến cảng, sân bay,…
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ lưu trú
Đây là thành phần đặc trưng nhất trong hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật du lịch. Chúng tồn tại ở nhiều loại hình lưu trú khác nhau như: khách
sạn, Motel, resort,... bao gồm các tòa nhà, các buồng ngủ, các trang thiết bị
tiện nghi bên trong cơ sở lưu trú. Ngoài ra, chúng cũng bao gồm cả những
công trình kiến trúc bổ trợ làm đẹp cảnh quan môi trường bên ngoài cơ sở
như hệ thống giao thông nội bộ, các khuôn viên. Cơ sở vật chất kỹ thuật
trong lĩnh vực lưu trú cũng rất đa dạng do có nhiều hình thức và qui mô
khác nhau.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ ăn uống
Đây cũng là thành phần rất quan trọng, nó có thể tồn tại một cách

153
độc lập hoặc trong các cơ sở lưu trú, bao gồm các yếu tố đảm bảo điều kiện
tiện nghi cho hoạt động ăn uống của khách. Với chức năng của kinh doanh
nhà hàng, cơ sở vật chất kỹ thuật trong lĩnh vực này bao gồm các thành
phần nổi bật như các dụng cụ, máy móc thiết bị khu chế biến thức ăn, bảo
quản cũng như phục vụ ăn uống cho khách (phòng ăn, quầy bar,...). Trên
thực tế cơ sở vật chất kỹ thuật trong kinh doanh ăn uống cũng rất đa dạng
xuất phát từ nhiều hình thức tổ chức của nhà hàng như nhà hàng ăn Âu, nhà
hành ăn Á, nhà hàng hải sản,... và quầy Bar cũng có nhiều hình thức đa dạng.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của dịch vụ bổ sung: Bao gồm các công
trình, trang thiết bị tạo điều kiện thuận lợi cho khách tiêu dùng các dịch vụ
bổ sung và sử dụng triệt để những giá trị tài nguyên. Bao gồm cơ sở vật
chất kỹ thuật phục vụ các dịch vụ giặt là, cắt tóc, bể bơi, bể sục,... Qui mô
cơ sở lưu trú ảnh hưởng quyết định đến qui mô hoạt động của các khu vực
này.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ vui chơi, giải trí.
Các dịch vụ này có thể tồn tại trong các cơ sở lưu trú nhưng cũng có
thể tồn tại độc lập. Cơ bản là các yếu tố tạo điều kiện cho khách du lịch vui
chơi, giải trí, rèn luyện sức khỏe nhằm tăng cường sự thích thú hơn trong
chuyến du lịch hay sau giờ làm việc căng thẳng. Cụ thể là các trung tâm thể
thao, sân tenis, công viên, khu vui chơi giải trí,...
6.2. Lao động trong du lịch
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra
của cải vật chất và giá trị tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của bản thân và xã
hội, là hoạt động gắn liền với sự hình thành và phát triển của loài người [3].
Lao động trong du lịch bao gồm những người trực tiếp hoặc gián
tiếp tạo ra những sản phẩm du lịch phục vụ nhu cầu của con người và nhu
cầu phát triển xã hội.
Lao động trong kinh doanh du lịch là một bộ phận của lao động xã
hội. Hiện nay, lao động trong du lịch chiếm khoảng 10% tổng lao động trên
toàn thế giới.
Với những đặc thù của sản phẩm du lịch, lao động trong du lịch cũng
có những đặc điểm riêng nhằm thích ứng với việc tạo ra sản phẩm cũng như
đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.

154
6.2.1. Đặc điểm của lao động trong du lịch
6.2.1.1. Chủ yếu là lao động dịch vụ
Xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm du lịch chủ yếu là dịch vụ cho
nên lao động trong du lịch phần lớn là lao động trong các lĩnh vực dịch vụ
như: nhân viên lễ tân, phục vụ buồng, phục vụ bàn,... Lao động trong du lịch
vẫn có lao động sản xuất vật chất nhưng thành phần không nhiều mà cơ bản
chủ yếu là lao động sản xuất dịch vụ hay còn gọi là lao động sản xuất phi
vật chất.
Trong quá trình phục vụ du lịch, người lao động phải tiêu hao sức
lao động để tạo ra dịch vụ đồng thời tạo ra điều kiện để thực hiện chúng. Từ
đó họ sẽ đáp ứng được những nhu cầu của khách du lịch. Đặc điểm này
chính là nguyên nhân giải thích cho việc ngành du lịch có tỷ lệ lao động lớn
hơn so với các ngành khác. Trong hội nghị Bộ trưởng du lịch G20 tổ chức
ngày 16/05/2012 tại Mexico đã tổng kết “Lao động trong du lịch chiếm 8%
lao động toàn cầu. Cứ mỗi một việc làm trong ngành du lịch ước tính tạo ra
2 việc làm cho các ngành khác. Ngành du lịch cũng sử dụng lao động nhiều
vượt trội so với ngành công nghiệp khác, gấp 6 lần ngành sản xuất ô tô, gấp
4 lần ngành khai khoáng, và gấp 3 lần ngành tài chính”
Các nhà quản lý lao động và người lao động trong lĩnh vực du lịch
cần nhận rõ đặc điểm này nhằm có những cách thức quản lý lao động cũng
như thái độ đúng đắn trong việc quan tâm đến lợi ích dịch vụ tạo ra từ nhân
viên để thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Tất nhiên, trong công tác quản lý lao
động cũng gặp những trở ngại trong việc kiểm soát chất lượng lao động, khó
tiêu chuẩn hóa công việc và khó tiến hành đánh giá lao động. Trong công
tác quản lý, động viên lao động đòi hỏi có những biện pháp thích hợp nhằm
giúp đội ngũ tạo ra được dịch vụ có chất lượng tốt.
6.2.1.2. Có tính chuyên môn hóa cao
Tính chuyên môn hóa trong kinh doanh dịch vụ du lịch được thể
hiện rất rõ. Hoạt động kinh doanh du lịch được phân chia du lịch thành các
lĩnh vực khác nhau (lưu trú, ăn uống, vận chuyển, lữ hành, tham quan giải
trí), trong mỗi lĩnh vực lại có những bộ phận tác nghiệp khác nhau, các khâu
khác nhau. Mỗi lao động đảm nhiệm công việc ở từng vị trí trong từng lĩnh
vực phải thực hiện công việc theo những qui trình, kỹ năng chuyên môn
khác nhau. Để thực hiện được công việc đòi hỏi nhân viên phải nắm kiến

155
thức chuyên môn, có kỹ năng nghiệp vụ và đồng thời đảm bảo tố chất trong
những vị trí công việc nhất định.
Tính chuyên môn hóa được thể hiện trong lĩnh vực kinh doanh
khách sạn, lao động được phân chia thành các bộ phận như lễ tân, phục vụ
buồng, bảo vệ,… mỗi một bộ phận lại có nhiều nhân viên phụ trách ở các
khâu khác nhau. Chuyên mô hóa ở đây không có nghĩa là mỗi nhân viên làm
việc độc lập hoàn toàn mà phải phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình
phục vụ cho du khách.
Tính chuyên môn hóa là vấn đề gây nên những trở ngại trong quản
lý, sử dụng lao động. Đây cũng là nguyên nhân làm cho một số hoạt động
du lịch trở nên độc lập như: hướng dẫn viên, đón tiếp tại khách sạn, tuyên
truyền quảng cáo, bán hàng. Điều đáng nói là các hoạt động độc lập này góp
phần vào việc đảm bảo chất lượng toàn diện dịch vụ cho khách vì một nhân
viên không thể tiến hành đồng thời tất cả các hoạt động này. Tính chuyên
môn hóa còn gây khó khăn cho việc thay thế lao động trong những trường
hợp đột xuất như nghỉ ốm, nghỉ phép,... gây ảnh hưởng đến quá trình phục
vụ du lịch.
Trong quản lý và sử dụng lao động cần thường xuyên tổ chức đào
tạo, huấn luyện tay nghề cho nhân viên để đảm bảo công việc được thực
hiện theo đúng chuyên môn. Tăng cường các hoạt động kiểm tra, kiểm soát
nhằm thúc đẩy nhân viên thực hiện đúng qui trình nghiệp vụ đem lại chất
lượng dịch vụ tốt cho khách hàng. Bên cạnh đó doanh nghiệp cần xây dựng
văn hóa làm việc tốt nhằm giúp nhân viên gắn kết, hợp tác với nhau trong
công việc. Người lao động cần ý thức rằng bản thân họ chính là một phần
trong chất lượng dịch vụ chung của doanh nghiệp.
Trong một số trường hợp đơn vị muốn sử dụng thêm những nguồn
lao động thời vụ nhằm đáp ứng nhu cầu công việc vào mùa chính bằng cách
ký hợp đồng ngắn hạn thì nên chọn những hoạt động ít yêu cầu tính chuyên
môn hóa như: các công việc quét dọn, lau chùi vệ sinh, phục vụ các bể bơi,
khu vui chơi giải trí.
6.2.1.3. Có tính thời điểm, thời vụ
Lao động trong du lịch thường làm việc với thời gian và cường độ
không ổn định, chủ yếu phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng của khách.
Người lao động phải làm việc từ sáng sớm đến tận khuya, đặc biệt là các

156
ngày lễ, cuối tuần thì cường độ lao động càng lớn hơn. Một số công việc
phải thực hiện 24/24 giờ nên phải chia ca. Một số loại hình chỉ khai thác
khách trong một khoảng thời gian nhất định cho nên lao động có thể chỉ làm
vài tháng trong năm còn thời gian còn lại có thể nghỉ hoặc làm việc khác.
Đặc điểm này gây khó khăn rất lớn cho đời sống, sinh hoạt, sức khỏe của
người lao động, đặc biệt là những người đã lập gia đình.
Đối với công tác quản lý, tổ chức lao động cũng gặp không ít khó
khăn. Người lao động có thể thường xuyên chuyển công tác và làm ảnh
hưởng đến sự ổn định của nguồn lao động. Bên cạnh đó, việc tạo ra sự công
bằng trong định mức lao động là rất khó khăn. Việc giải quyết những chế độ
chính sách cho người lao động cũng cần những qui định riêng và tổ chức lao
động hợp lý theo các thời điểm trong năm cũng hết sức khó khăn.
Trong quản lý và tổ chức lao động các doanh nghiệp cần hợp tác với
nhau để tận dụng nguồn lao động vào những mùa cao điểm, khai thác thêm
các nguồn lao động thời vụ nhưng đảm bảo chất lượng một cách tương đối.
Các qui định về chế độ đãi ngộ và tiền lương cũng cần được xem xét kỹ để
đảm bảo lợi ích công bằng cho người lao động. Các hoạt động bồi dưỡng,
nâng cao trình cho nhân viên thường được tổ chức vào khoảng thời gian
vắng khách.
6.2.1.4. Có tính chất phức tạp
So với các ngành khác, lao động trong du lịch tuy có cường độ làm
việc thấp hơn nhưng lại có tính phức tạp hơn, đòi hỏi cả về thể lực, trí lực,
kỹ năng,.... Đặc điểm này thể hiện rõ đối với những nhân viên làm việc ở
các bộ phận tiếp xúc trực tiếp với khách hàng như: lễ tân, buồng, bàn, bar,...
Họ thường xuyên tiếp xúc với nhiều đối tượng khách có độ tuổi, tâm lý, văn
hóa khác nhau. Đặc biệt đối với hướng dẫn viên du lịch, họ phải thường
xuyên thay đổi môi trường làm việc theo những chương trình tham quan
khác nhau đồng thời có thể tiếp xúc với môi trường nguy hiểm như môi
trường có bệnh truyền nhiễm. Điều này gây khó khăn cho người lao động, họ
cần phải có sức khỏe tốt cũng như chịu đựng được áp lực tâm lý.
Trong công tác quản lý lao động cần chú ý chọn đúng người đúng
việc, thường xuyên động viên người lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho
họ hoàn thành tốt công việc của mình.

157
6.2.1.5. Tỷ lệ lao động trẻ cao
Phần lớn lao động trong du lịch là lao động trực tiếp tiếp xúc với
khách mà những vị trí đó thường cần lao động trẻ, năng động, nhiệt tình.
Cho nên lao động trong du lịch tương đối trẻ, lao động nữ thường ở độ tuổi
20-30, lao động nam trung bình từ 30-40. Lao động trẻ thường làm việc ở
các vị trí lễ tân, phục bàn, bar, hướng dẫn viên. Lao động lớn tuổi chủ yếu ở
bộ phận bếp, buồng, quét dọn. Lao động nữ thường chiếm tỷ lệ cao hơn lao
động nam. Ngày nay, tỷ trọng này có xu hướng thay đổi theo hướng tăng lên
của lao động nam.
Trên đây là những đặc điểm quan trọng của lao động trong du lịch.
Đội ngũ lao động và những người quản lý lao động cần nhận thức sâu sắc
các đặc điểm trên nhằm chuẩn bị chuyên môn, sức khỏe, tâm lý đáp ứng yêu
cầu công việc. Từ đó giúp cho doanh nghiệp tạo ra được dịch vụ du lịch có
chất lượng cho khách. Đồng thời, trong công tác quản lý cần có những
phương thức phù hợp để sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực của doanh
nghiệp.
6.2.2. Yêu cầu về lao động trong du lịch
Đứng trước sự phát triển nhanh của ngành du lịch Việt Nam, khách
du lịch ngày càng yêu cầu cao hơn về chất lượng dịch vụ. Để tạo ra sản
phẩm du lịch có chất lượng cao, thu hút khách du lịch và làm hài lòng họ,
lao động trong du lịch cần đảm bảo các yêu cầu sau:
6.2.2.1. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ
Mỗi một lao động làm việc trong các khâu, các bộ phận của các lĩnh
vực kinh doanh du lịch cũng cần có chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh đó, du
lịch là một nhu cầu cao cấp của con người. Vì vậy khi đi du lịch người ta
mong muốn được sử dụng những dịch vụ có chất lượng cao trong khi đó
chất lượng dịch vụ lại phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
của người lao động. Để phục vụ tốt, người lao động cần được trang bị kiến
thức về lĩnh vực hoạt động, thành thạo các kỹ năng, tay nghề, nghiệp vụ
chuyên môn. Từ đó, tránh được những sai sót trong quá trình phục vụ.
Đội ngũ lao động du lịch Việt Nam trong những năm qua được đánh
giá là thiếu chất lượng, yếu chuyên môn trong các lĩnh vực marketing,
hướng dẫn du lịch. Chính vì vậy cần chú trọng đến công tác bồi dưỡng, đào
tạo, tiếp cận với những phương thức phục vụ tiên tiến.

158
6.2.2.2. Trình độ ngoại ngữ
Ngoại ngữ được xem là công cụ quan trọng trong giao tiếp với khách
du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Việc thông thạo ngoại ngữ giúp
nhân viên giao tiếp dễ dàng với khách, hiểu được những yêu cầu, sở thích,
gây được sự thiện cảm cho khách hàng từ đó tăng chất lượng dịch vụ. Lao
động du lịch của Việt Nam còn yếu về trình độ ngoại ngữ và thiếu về số
lượng. Điều đó làm cho người lao động mất tự tin trong giao tiếp, không
hiểu rõ ý khách hàng ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ hoặc có những hiểu
nhầm trong quá trình phục vụ khách quốc tế. Vấn đề quan tâm là cần đào
tạo trình độ ngoại ngữ theo xu hướng phù hợp với ngôn ngữ khách du lịch
từ các quốc gia đến Việt Nam.
6.2.2.3. Một số yêu cầu khác
Ngoài các yêu cầu trên, lao động trong du lịch cần đảm bảo một số
yêu cầu khác như yêu cầu về ngoại hình, sức khỏe, khả năng giao tiếp, hiểu
biết tâm lý, hiểu về về một vấn đề xã hội, âm nhạc, hội họa, nghệ thuật, thể
thao,... Tuy nhiên, mỗi lao động trong các vị trí chuyên môn khác nhau thì
mức độ đòi hỏi của các yêu cầu cũng khác nhau. Ví dụ là hướng dẫn viên du
lịch cần đảm bảo có sức khỏe tốt, năng động, nhiệt tình, ngoài hình ưa nhìn,
có khả năng giao tiếp tốt; có kiến thức chung về các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa xã hội, am hiểu về tài nguyên du lịch tại các điểm đến; có đạo đức nghề
nghiệp, nhạy bén trong việc xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình
phục vụ; được đào tạo về nghiệp vụ hướng dẫn du lịch,...
Mỗi một lao động đảm bảo được các yêu cầu theo tiêu chuẩn nghề
không chỉ tạo ra dịch vụ có chất lượng tốt mà còn góp phần làm tăng uy tín
của doanh nghiệp, làm đẹp hình ảnh cho con người của một đất nước.

Câu hỏi hướng dẫn ôn tập Chương 6


1. Hiểu như thế nào là cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch?
2. Phân tích nội dung của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch.
3. Trình bày phân loại cơ sở vật chất kỹ thuật theo các tiêu thức khác nhau.
4. Phân tích mối quan hệ giữa cơ sở vật chất kỹ thuật và tài nguyên du
lịch.
5. Trình bày đặc điểm của lao động trong du lịch. Việc hiểu được những

159
đặc điểm này có ý nghĩa gì trong tổ chức kinh doanh du lịch?
6. Trình bày các yêu cầu đối với lao động trong du lịch. Những yêu cầu
nào mà người lao động có được do học tập, rèn luyện?

Tài liệu tham khảo


1. Luật Du lịch năm 2017, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. GS.TS. Nguyễn Văn Đính, TS Trần Thị Minh Hòa, (2005), Giáo
trình Kinh tế du lịch, NXB ĐH Kinh tế quốc dân
3. Trần Văn Thông (2004), Tổng quan du lịch, TP Hồ Chí Minh.
......................................................

160
Chương 7
Giải pháp bảo tồn và phát triển di tích lịch sử văn hóa
phục vụ du lịch

7.1. Giải pháp quản lý


7.1.1. Nhận thức, tuyên truyền Luật Di sản Văn hoá
Hiện nay, Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật di sản văn hoá đã ban hành và có hiệu lực [3], đây là cơ sở pháp lý vô
cùng quan trọng cho công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hoá trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; do vậy, cần sớm triển khai và
tuyên truyền Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hoá để
đưa Luật di sản văn hoá vào trong đời sống nhân dân, quán triệt một cách sâu
sắc đến các cấp, các ngành, xuống tận các địa phương, từng tổ dân phố, từng
thôn xóm để nhân dân ta có ý thức giữ gìn và phát huy tốt công tác bảo vệ di
sản văn hoá, đồng thời đưa Luật di sản văn hoá vào trong các trường học,
trong những tiết giảng về lịch sử văn hoá của đất nước để các em học sinh
sớm nhận thức được giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học…của di sản văn hoá
dân tộc, sớm có ý thức và không quên về cội nguồn dân tộc.
Kiên trì công tác tuyên truyền, giáo dục về di sản văn hóa và Luật Di
sản văn hóa. Chú trọng tới đối tượng thanh thiếu niên, triển khai có hiệu quả
khẩu hiệu “Di sản nằm trong tay thế hệ trẻ” của UNESCO…
Tổ chức các buổi tập huấn về Luật di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật di sản văn hóa cho cán bộ làm công tác văn hóa tại
các địa phương, thực hiện lắp đặt các bảng trích dẫn nội dung của Luật di sản
văn hóa tại các điểm di tích lịch sử - văn hóa để nhân dân và khách tham
quan được biết…
7.1.2. Hoạch định chính sách, tổ chức, quy hoạch và quản lý phát triển
Hiện nay, trong quá trình giao lưu và hội nhập, chúng ta không thể
phủ nhận được sức tác động to lớn của văn hóa ngoại nhập vào nước ta, nhất
là từ sau thời kỳ mở cửa. Sự hấp dẫn của cái mới, cái hiện đại không hoàn
toàn đồng nghĩa với cái không tốt, không bổ ích. Nhiều dân tộc trên thế giới
đã đạt nền văn minh cao, đã hình thành được nền văn hóa đầy bản sắc. Rõ
ràng sự hòa nhập là hoàn toàn cần thiết, hòa nhập trong điều kiện đó đồng
nghĩa với tiến bộ. Nhưng muốn xây dựng một nền văn hóa tiên tiến không

161
chối bỏ hội nhập, trước hết phải đảm bảo một nền văn hóa đầy bản sắc dân
tộc. Nền kinh tế siêu công nghiệp đang ào ạt diễn ra, con người hiện đại đang
đứng trước một gia tốc, bởi vậy cần bảo tồn những di sản của cha ông để lại,
như một thảm đệm để con người tránh được những cú sốc khi tiến vào xã hội
mới. Do đó, những chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm phục hồi để có
thể sử dụng, khai thác một cách hợp lý các giá trị của di tích lịch sử - văn hóa
là hoàn toàn đúng đắn và cần thực hiện nghiêm túc.
Di tích lịch sử - văn hóa là nguồn lực quan trọng, là cơ sở để phát
triển du lịch. Nhưng di tích lịch sử - văn hóa lại có tính biến đổi và suy giảm
bởi những tác động của các điều kiện tự nhiên, con người và các hoạt động
kinh tế - xã hội. Do vậy, quản lý và bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa nói riêng,
di sản văn hóa nói chung là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng hàng đầu
của mỗi địa phương, mỗi quốc gia muốn phát triển du lịch bền vững. Vì vậy,
“Chiến lược giữ gìn và bảo vệ di sản” trong Quy hoạch tổng thể phát triển du
lịch Việt Nam thời kỳ 1999 – 2010 cũng xác định nhiệm vụ chung, những
biện pháp bảo vệ di sản du lịch, những nguyên lý về xếp hạng thắng cảnh,
làm cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ tài nguyên du lịch nước ta trong quá trình
phát triển du lịch” [1].
Do vậy việc quản lý di tích lịch sử - văn hóa để phát triển du lịch bền
vững phải được thực hiện theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài hòa giữa
kinh tế, xã hội môi trường.
Đồng thời việc phát triển du lịch phải có trọng điểm, trọng tâm theo
hướng gắn với di sản văn hóa, vừa bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị của di sản
văn hóa, vừa mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế để quảng bá hình ảnh
đất nước con người Đà Nẵng, Quảng Nam và Việt Nam. Để thực hiện tốt
điều này phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
* Trước hết, đó là quản lý sử dụng và bảo vệ khu vực di sản văn hóa:
+ Ở các địa phương của Quảng Nam và Đà Nẵng cần sớm thành lập
Ban quản lý di tích các cấp để có trách nhiệm quản lý các hoạt động du lịch
phù hợp với mục tiêu, yêu cầu quản lý của cơ quan quản lý nhà nước trong
việc sử dụng và bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa. Xây dựng mô hình quản lý
với sự tham gia của cộng đồng nhân dân địa phương.
+ Phối hợp với các cơ quan chức năng soạn thảo quy chế, cơ chế chính
sách cho các hoạt động du lịch tại khu vực có di sản văn hóa như: hoạt động
hợp tác đầu tư, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực, tổ chức quản lý, bảo vệ, tôn

162
tạo và phát triển di sản văn hóa, hoạt động kinh doanh du lịch... để trình Ủy
ban nhân dân hoặc chính phủ phê duyệt, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động
quả lý và kinh doanh du lịch tại khu vực di sản
+ Công bố và thực thi các văn bản pháp luật, các quy chế có liên quan
trực tiếp hoặc gián tiếp đến bảo vệ, tôn tạo di sản văn hóa trong quá trình
phát triển du lịch.
+ Ban Quản lý di sản văn hóa có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan,
ban, ngành tại địa phương như Sở Tài chính, Chi Cục thuế, Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch... tham mưu giúp Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố xây dựng
các mức thu phí, lệ phí tham quan du lịch theo quy định của pháp luật và
trình cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền quyết định.
+ Các nguồn thu từ du lịch, ngoài việc nộp ngân sách cho Nhà nước,
chính quyền địa phương được phép sử dụng hợp lý, hiệu quả cho các mục
đích như:
- Hỗ trợ hoạt động nghiệp vụ về quản lý di sản văn hóa.
- Tuyên truyền quảng bá, giáo dục về bảo vệ di sản văn hóa.
- Khắc phục các sự cố, ô nhiễm suy thoái môi trường, gây ảnh hưởng
không tốt tới di sản văn hóa.
- Hỗ trợ các ngành, địa phương phối hợp quản lý di sản văn hóa, đầu tư
xây dựng các công trình phục vụ trực tiếp công tác bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa.
- Ban Quản lý di sản văn hóa, chính quyền địa phương sử dụng các
công cụ tài chính thưởng phạt theo quy định của pháp luật, nhằm ngăn chặn
việc khai thác bừa bãi, phá hủy các di sản văn hóa, gây hậu quả xấu cho di
sản và môi trường du lịch.
* Thứ hai, là quản lý, quy hoạch phát triển du lịch tại các điểm di tích:
+ Để quản lý, quy hoạch phát triển du lịch, Ban Quản lý di sản văn
hóa các địa phương cần tiến hành lập quy hoạch phát triển du lịch tại các di
sản văn hóa, để làm được việc này, trước tiên cần căn cứ vào các văn bản
pháp quy và các văn bản liên quan khác như:
- Các nghị quyết, quyết định về chủ trương phát triển kinh tế - xã hội có
liên quan của Đảng và Nhà nước.
- Chiến lược và định hướng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch cả
nước, vùng du lịch trọng điểm, tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương.
- Quy hoạch bảo tồn tôn tạo, phat huy giá trị di sản văn hóa được cơ

163
quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt
- Hệ thống số liệu các kết quả điều tra, đánh giá về di sản văn hóa, các
tài liệu liên quan.
+ Xây dựng Hồ sơ quy hoạch phát triển du lịch tại các di sản văn hóa,
gồm:
- Phần bản vẽ: Bản đồ vị trí và mối quan hệ liên vùng; Bản đồ hiện
trạng khu vực di sản văn hóa; Bản đồ quy hoạch định hướng phát triển du
lịch tại khu vực có di sản
- Phần văn bản: Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển du lịch;
các báo cáo chuyên đề; các phục lục, các văn bản pháp lý có liên quan.
- Triển khai quy hoạch đã được lựa chọn:
+ Lựa chọn những nhà đầu tư có đủ năng lực và phẩm chất tốt để thực
hiện các dự án quy hoạch bảo vệ, tôn tạo di sản văn hóa.
+ Công khai hóa các nội dung quy hoạch cho các đối tượng liên quan
và tham gia thực hiện dự án để họ nắm bắt được nội dung, mục tiêu, nhiệm
vụ của các dự án. Từ đó góp phần nâng cao nhận thức của họ về vấn đề bảo
vệ di sản văn hóa, hạn chế các tác động tiêu cực, tạo được môi trường tốt cho
việc thực hiện quy hoạch.
+ Tiến hành quy hoạch khu vực di sản văn hóa theo quan điểm phát
triển du lịch, đảm bảo tính tổng thể. Hòa nhập phát triển du lịch trong quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật và két cấu
hạ tầng, phù hợp với quy mô, chất lượng của khu di sản văn hóa, nhằm bảo
vệ di sản văn hóa, nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng.
- Trách nhiệm quyền hạn quản lý quy hoạch phát triển du lịch khu vực
di sản văn hóa.
- Cơ quan nhà nước về du lịch cấp tỉnh/thành phố tổ chức thẩm định
nhiệm vụ và quy hoạch phát triển du lịch; theo dõi, rà soát và đề xuất việc
điều chỉnh cục bộ quy hoạch, vận động đầu tư, xây dựng theo quy hoạch
trong phạm vi thẩm quyền, theo quy định của pháp luật.
* Đồng thời cần thực hiện việc quản lý kinh doanh dịch vụ du lịch:
- Việc tổ chức mọi dịch vụ kinh doanh dịch vụ du lịch tại khu vực di
sản văn hóa phải căn cứ tính chất khu di sản, quy hoạch phát triển du lịch,
bảo tồn phát huy giá trị của di sản. Kế hoạch đầu tư kinh doanh du lịch đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Tiến hành phân chia khu vực di sản văn hóa để đầu tư, bảo vệ có hiệu

164
quả. Bố trí hệ thống chỉ dẫn, bố trí sắp xếp chu trình dẫn khách tham quan,
hướng dẫn khách chỉ ra nững nét độc đáo của di tích, giá trị văn hóa nghệ
thuật của di tích, giá trị nghệ thuật, những giai thoại, truyền thuyết liên quan
đến di sản làm tăng tính văn hóa, nghệ thuật hay tính thiêng, tôn nghiêm của
di sản...
- Khi bắt đầu thực hiện hoạt động kinh doanh, các tổ chức, cá nhân
kinh doanh dịch vụ du lịch phải thông qua bằng văn bản với Ban quản lý
hoặc Ban điều phối phát triển du lịch vào thời điểm bắt đầu kinh doanh
- Hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch phải theo sự hướng dẫn, kiểm
tra của Ban quản lý, cơ quan Nhà nước về du lịch của địa phương có di sản
văn hóa.
- Các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch phải có điều kiện trang thiết bị
phương tiện phục vụ hoạt động của khách du lịch, bảo đảm an toàn, tiện nghi
theo tiêu chuẩn quy phạm liên quan được nhà nước ban hành.
7.1.3. Phát triển và quản lý nguồn nhân lực
Một trong những nội dung cơ bản, xuyên suốt trong công tác quản lý
di sản văn hóa là phát triển đào tạo và quản lý nguồn nhân lực. Đây là nhân
tố quyết định sự thành công trong quá trình quản lý di sản để phát triển du
lịch.
Trước hết, cần tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực cho bảo
tồn và phát huy giá trị di tích, bao gồm đội ngũ quản lý, đội ngũ nghiên cứu
về di tích, các kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng, kỹ thuật viên, thợ nghề, nghệ
nhân, những người làm công tác bảo vệ di tích ở cơ sở…
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần chủ động trong việc tham gia
vào chuỗi đào tạo nguồn nhân lực; để góp phần đáp ứng được yêu cầu của du
khách. Do vậy, vấn đề đào tạo tại chỗ cũng được đặc biệt chú ý.
Thứ hai, cần quản lý tốt nguồn lực tại các điểm di sản có hoạt động du
lịch, tựu trung lại có 02 loại nhân lực sau đây:
+ Nguồn nhân lực bản địa, cố định hoạt động trực tiếp và gián tiếp ở
các di sản có hoạt động du lịch
+ Nguồn nhân lực ngoại lai, di động hoạt động trực tiếp và gián tiếp ở
xung quanh các di sản có hoạt động du lịch.
Nguồn nhân lực bản địa, cố định bao gồm các nhân viên cảu ban quản
lý di tích, cư dân địa phương thường xuyên tham gia các hoạt động dịch vụ
có liên quan trong phạm vi ảnh hưởng của di sản.

165
Nguồn nhân lực ngoại lai, di động bao gồm các đối tượng lao động
không cố định có liên quan đến hoạt động du lịch tại các điểm di sản như các
hướng dẫn viên du lịch, các lái xe chở khách du lịch, đội ngũ lái xe ôm trả,
đón và chờ khách, những người bán hàng rong, các đối tượng ăn mày, ăn xin,
người lang thang...trong phạm vi di sản. Với mỗi đối tượng, cần có phương
án quản lý cụ thể, thích hợp.
Để quản lý nguồn nhân lực có hiệu quả, cần thành lập các Ban quản
lý di sản, cụ thể hóa, số lượng thành phần, chức năng, nhiệm vụ, nghĩa vụ,
quyền lợi...đối với các cá nhân và tổ chức. Đây là công việc đầu tiên và phải
được tiến hành thường xuyên suốt quá trình hoạt động của tất cả các Ban
quản lý. Các ban quản lý phải có cơ cấu thích hợp, hiệu quả tránh cồng kềnh,
có chức năng nhiệm vụ cụ thể riêng biệt tránh tình trạng chồng chéo hoạt
động kém hiệu lực. Về cơ bản, các ban quản lý di sản thông thường có các bộ
phận sau đây:
- Bộ máy lãnh đạo, quản lý chỉ đạo chung mọi công việc có liên quan
đến công tác quản lý di sản nói chung và quản lý di sản để phát triển du lịch
nói riêng
- Bộ phận bảo vệ hiệu quả để bảo vệ an toàn tuyệt đối cho di sản cũng
như các hoạt động du lịch diễn ra bình thường
- Bộ phận chuyên môn nghiệp vụ với các bộ phận chuyên trách vừa
tiến hành các hoạt động nghiệp vụ chuyên môn để nghiên cứu bảo tồn vừa
thuyết minh hướng dẫn khách tham quan du lịch
- Các cá nhân, tổ chức với số lượng phù hợp, được bố trí hoạt động ở
các vị trí thích hợp với công việc kinh doanh các mặt hàng hay các dịch vụ
hợp lý. Bộ phận này có cơ chế hoạt động du lịch – dịch vụ riêng để phục vụ
các nhu cầu tôn giáo – tín ngưỡng hay các hoạt động có liên quan khác đối
với đội ngũ du khách.
Với các bộ phận này cần phải có đội ngũ nhân sự phù hợp: chọn và bố
trí các đối tượng “cứng” và “mềm”: ngắn hạn và dài hạn, chuyên nghiệp và
thời vụ...để họ có thể hoạt động tốt công tác chuyên môn nghiệp vụ cũng như
các công tác dịch vụ phục vụ khách du lịch. Trước khi phân công nhiệm vụ
cần có kế hoạch kiểm tra, đánh giá phân loại đối tượng để sắp xếp đúng vị trí,
tránh “ngồi nhầm chỗ”. Phân công giao việc, tạo điều kiện công bằng để các
nhân viên được khẳng định và thể hiện mình trong công việc chuyên môn
cũng như trong cuộc sống. Kịp thời phát hiện những phát sinh, thu thập thông

166
tin, lắng nghe sự phản ánh, trao đổi của nhân viên để trợ giúp họ trong khả
năng và điều kiện cho phép.
Quản lý chặt chẽ nguồn lao động từ nơi khác đến tham gia vào hoạt
động tại các điểm di sản: đội ngũ lái xe, hành nghề xe ôm, bán hàng rong, ăn
mày, ăn xin... Ban quản lý các điểm di sản cần phải có kế hoạch và biện pháp
cụ thể để kiểm soát các đối tượng này, không để xảy ra tranh giành, bắt chẹt
khách, lừa đảo khách...Kiểm soát việc đội ngũ lái xe trong khi chờ khách
đang tham quan sẽ có các hoạt động: rượu chè, cờ bạc, làm huyên náo, gây
mất vệ sinh xung quanh các di sản...Tùy đặc điểm, điều kiện của từng địa
phương để có thể xây dựng các nhà chờ cho những người lái xe với các điều
kiện nghe nhìn, nghỉ ngơi, giải trí phù hợp như bàn ghế, nước uống, ti vi, báo
chí...phục vụ đội ngũ lái xe trong khi họ chờ khách. Mọi chi phí sẽ tính vào
phiếu gởi, trông giữ xe.
7.1.4. Tăng cường quản lý nhà nước và đề ra đường lối chính sách phát
triển [2]
Kho tàng di sản văn hóa Việt Nam là tài sản chung của cả dân tộc,
chính vì vậy, việc bảo tồn, khai thác giá trị các di sản văn hóa phải rất thận
trọng. Mọi định hướng bảo tồn và phát triển đều phải xuất phát từ thực tiễn
với những đường lối chính cách cụ thể. Nội dung của công tác quản lý di sản
trước hết là quá trình xây dựng đường lối chính sách và cách thức tổ chức
thực hiện nhằm bảo tồn và phát huy tốt nhất giá trị của văn hóa Việt Nam để
phát triển du lịch. Có đường lối phát triển đúng, việc khai thác giá trị các di
sản để phát triển du lịch sẽ đạt kết quả và ngược lại. Muốn xây dựng được
đường lối chính sách đúng đắn, phù hợp cho công tác quản lý di sản văn hóa
nói chung, quản lý di tích lịch sử - văn hóa để phát triển du lịch nói riêng, cần:
- Hệ thống hóa kho tàng di sản của từng địa phương thông qua công
tác kiểm kê, đăng ký đánh giá, xác định số lượng, chất lượng các di sản văn
hóa và di sản thiên nhiên trên một địa bàn nhất định.
- Đánh giá xác định vai trò, giá trị của từng di sản nói riêng và toàn bộ
hệ thống di sản của địa phương nói chung. Chỉ ra những giá trị chuyên biệt
và tổng thể, những giá trị liên ngành, hiệu ứng mà kho tàng di sản văn hóa
hàm chứa.
- Một trong những nội dung cơ bản của công tác quản lý di tích lịch sử
- văn hóa với phát triển du lịch việc đầu tiên là phải tiến hành lập quy hoạch
bảo tồn tổng thể và chi tiết kho tàng di sản văn hóa của một địa phương cụ

167
thể. Quy hoạch có trọng điểm không quy hoạch phát triển tràn lan. Từ quy
hoạch bảo tồn, công tác quản lý di tích sẽ góp phần giữ gìn và khai thác tốt
nhất giá trị nhiều mặt của kho tàng di sản văn hóa Việt Nam.
- Công tác quản lý di sản văn hóa nhằm xây dựng, thiết lập các thiết
chế văn hóa – xã hội tương thích để quản lý di sản. Muốn quản lý di sản văn
hóa có hiệu quả, công việc cần thiết là xây dựng các thiết chế phù hợp với cơ
chế làm việc, đáp ứng được các yêu cầu do công việc quản lý đề ra.
- Bên cạnh việc thiết lập các thiết chế văn hóa – xã hội tương thích
phục vụ công tác quản lý di sản văn hóa cần xây dựng quy trình và biện pháp
của công tác quản lý di sản văn hóa để phát triển du lịch. Quy trình này cần
làm rõ những bước đi và biện pháp cụ thể tương ứng với từng thời kỳ.
- Triển khai các bước trong quy trình quản lý – khai thác di sản văn
hóa phục vụ phát triển du lịch. Đánh giá hiệu quả và tác động tích cực cũng
như tiêu cực của hoạt động du lịch tới hệ thống di sản trên một địa bàn cụ thể;
chỉ ra những căn nguyên để rút ra những bài học cần thiết, hữu ích cho trước
mắt cũng như lâu dài.
- Điều tiết các mối quan hệ tương hỗ giữa cơ quan quản lý di sản – các
doanh nghiệp kinh doanh du lịch có liên quan đến di sản và cộng đồng cư dân
bản địa nơi có các di sản tồn tại trên cơ sở tất cả các bên đều có lợi.
- Trong nội dung của quá trình quản lý di sản văn hóa để phát triển du
lịch, trong từng thời gian đã định cần phải tổng hợp tình hình, phân tích đánh
giá kết quả, điều chỉnh, bổ sung kịp thời nhằm nâng cao chất lượng công tác
quản lý di sản đã đạt được.
Để xây dựng đường lối phát triển đúng trong công tác quản lý di sản
văn hóa, trước hết cần xác định kinh tế du lịch có vai trò quan trọng như thế
nào đối với địa phương, có xác định được là ngành kinh tế mũi nhọn, kinh tế
trọng điểm hay không? Vì nếu không có chính sách đúng có thể dẫn đến tình
trạng: “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”: nhà nhà làm du lịch – người
người làm du lịch được nguy trang dưới cái vỏ “phát triển du lịch cộng đồng”.
Nếu không có chính sách phát triển đúng đắn thì tính chuyên nghiệp trong
hoạt động du lịch bị xâm hại, phá vỡ, nếu không có chính sách đúng tính hiệu
ứng trông du lịch bị phong tỏa, nếu không có chính sách đúng tính đặc thù
trong du lịch bị mất.
Có thể nói, đường lối chính sách phát triển giữ vai trò tiên quyết đến
thành công của quá trình quản lý và khai thác giá trị kho tàng di sản văn hóa

168
Việt Nam trong tiến trình hội nhập, xây dựng nền kinh tế tri thức phát triển
theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với sự chỉ đạo khá hiệu quả của Thành ủy, Ủy ban Nhân thành phố
Đà Nẵng và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, 6 tháng đầu năm 2012 ngành
du lịch của thành phố đã có những thành tích tiến bộ vượt hơn so với năm
trước, cụ thể tổng lượt khách đến Đà Nẵng đạt 1.326.983 lượt, tăng 9% cùng
kỳ năm 2011, đạt 51% kế hoạch 2012. Tổng thu nhập từ hoạt động du lịch
đạt 2.916 tỷ đồng, tăng 39% so với cùng kỳ 2011 và đạt 58% kế hoạch năm
2012. Có thể biểu đạt sự thành công của du lịch Đà Nẵng bằng bảng sau:
Bảng 7.1. Số lượng khách du lịch và thu nhập từ dịch vụ du lịch [10]
6 tháng đầu 6 tháng đầu
Nội dung
năm 2011 năm 2012
Số lượng khách du lịch (lượt người) 1.207.555 1.326.983
Thu nhập từ khách du lịch (tỷ đồng) 1.779 2.916

7.2. Giải pháp chuyên môn


7.2.1. Thu hút, khuyến khích đầu tư phát triển và tăng cường liên kết các
hoạt động giữa doanh nghiệp du lịch trên địa bàn với địa phương
Đối với di tích lịch sử - văn hóa để thu hút đầu tư và khuyến khích
đầu tư nhằm phục vụ tham quan du lịch là việc làm cũng cần quan tâm, tuy
nhiên việc thu hút đầu tư ở đây chỉ có thể thực hiện được là đầu tư cho cơ sở
hạ tầng, xây dựng các khu vực nghỉ ngơi, các khu bán đồ lưu niệm…, còn thu
hút đầu tư vào việc trùng tu, tôn tạo di tích là một việc làm rất khó, các nhà
đầu tư không dễ dàng chấp thuận bỏ tiền ra để trùng tu, tôn tạo rồi phát triển
du lịch. Từ trước đến nay, việc đầu tư chống xuống cấp cho di tích và trùng
tu, tôn tạo di tích đều lấy từ nguồn kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia
về chống xuống cấp di tích để thực hiện. Ở Quảng Nam, Đô thị cổ Hội An và
Thánh địa Mỹ Sơn, từ trước đến nay, nguồn kinh phí trùng tu di tích đều lấy
từ nguồn ngân sách nhà nước cấp.
Tuy nhiên, nhằm phát huy hiệu quả thế mạnh về du lịch văn hóa,
chúng ta cũng cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để chào đón các nhà đầu tư
thực sự có năng lực, nhu cầu và tâm huyết đến đầu tư phát triển trong lĩnh
vực này, nhất là những nơi có di sản lớn, có giá trị như Mỹ Sơn, Đô thị cổ

169
Hội An, Ngũ Hành Sơn…
Muốn thực hiện tốt công việc này, chúng ta cần tổ chức hội nghị mở
rộng, mời các doanh nghiệp, các nhà đầu tư tham gia nhằm tăng cường thông
tin, tiếp xúc với địa phương.
Trong những năm qua, theo thống kê của Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch Du lịch Đà Nẵng, đã có 16 dự án đã được UBND thành phố Đà Nẵng cấp
phép với tổng vốn đăng ký đầu tư 11 ngàn tỉ đồng. Trong đó, 8 dự án của nhà
đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư là 473 triệu đô la Mỹ và 8 dự án đầu
tư trong nước có vốn đầu tư trên ba ngàn tỉ đồng. Chủ đầu tư của 26 dự án
còn lại, bao gồm cả 4 dự án của nhà đầu tư nước ngoài với tổng kinh phí 290
triệu đô la Mỹ, đã ký bản ghi nhớ và nguyên tắc thoả thuận đầu tư với UBND
thành phố.
Chỉ riêng trong năm 2007, toàn thành phố đã có 5 dự án hoàn tất và
đưa vào sử dụng, bao gồm dự án khách sạn Sông Hàn Riverside (200 tỉ đồng),
khách sạn Queen (55 tỉ đồng), khách sạn Hoàng Anh Plaza (200 tỉ đồng), khu
du lịch Biển Đông (50 tỉ đồng) và giai đoạn 1 của khu du lịch Xuân Thiều
(35 tỉ đồng).
Tuy nhiên, một số dự án du lịch lại đang rơi vào tình trạng “đóng
băng” vì sự chậm trễ của nhà đầu tư. UBND thành phố Đà Nẵng cũng đã thu
hồi giấy phép đầu tư của 3 dự án chậm triển khai gồm khu du lịch DBC của
công ty cổ phần Thương mại Tư vấn DBC, dự án Nobel của Tập đoàn dầu
khí Nobel (Nga) và khu du lịch dịch vụ đa năng An Hải Tây của Tập đoàn
Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin)
Còn đối với Quảng Nam, cũng đã có 57 dự án đăng ký đầu tư vào du
lịch với tổng kinh phí hàng ngàn tỷ đồng. Trong đó có 28 dự án nằm ngoài
khu Kinh tế mở Chu Lai và 7 dự án 100% vốn nước ngoài. Đầu tháng 4/2004,
khu du lịch Life Resort Hoi An Riverpark đã chính thức khai trương với tổng
vốn đầu tư 4,5 triệu USD. Đây là khu du lịch cao cấp của các nhà đầu tư Áo
và Hà Lan, gồm 94 phòng ngủ phân bố trong 3 dãy nhà tầng kiểu phố, hướng
ra sông, vườn, cùng hệ thống nhà hàng, quầy bar, phòng hội nghị... Cùng lúc,
khu du lịch Indochine Resort cũng được khởi công xây dựng trên diện tích
32ha với kinh phí đầu tư 30 triệu USD (100% vốn nước ngoài). Khu nghỉ
dưỡng này có 100 phòng nghỉ hiện đại và nhiều dịch vụ du lịch khác...
Quảng Nam còn có lợi thế về tiềm năng du lịch sinh thái với bờ biển
170
dài trên 125km, có nhiều bãi biển đẹp và các khu nghỉ dưỡng lý tưởng với
cảnh quan thiên nhiên kỳ thú. Cùng với đầu tư phát triển du lịch ở khu vực
trọng điểm như khu Kinh tế mở Chu Lai và các vùng du lịch phía Nam của
tỉnh, Quảng Nam còn xây dựng tuyến đường du lịch ven biển để khai thác
tiềm năng ở đây. Tuyến ven biển từ giáp với Đà Nẵng vào tới Cửa Đại
khoảng 1.850ha, tỉnh Quảng Nam đã có quyết định giao đất cho các nhà đầu
tư trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, cũng đã giao một số diện tích đất cho
các nhà đầu tư trong nước nhằm tổ chức các khu nghỉ mát, vui chơi giải trí
trên biển....
Tuy nhiên, để việc thu hút đầu tư có hiệu quả, các địa phương cần nắm
chắc tình hình và những văn bản có liên quan về thu hút đầu tư, đưa công tác
thu hút đầu tư vào chương trình lãnh đạo của cấp ủy đảng; ủy ban nhân dân
và có kế hoạch, phân công trách nhiệm các thành viên; trong chỉ đạo điều
hành cần có sự thống nhất lãnh đạo, thống nhất nội dung, chương trình trong
ưu đãi thu hút đầu tư ở địa phương nhằm tạo sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư.
Tăng cường phối hợp giữa các ngành, các cấp, ủy ban nhân dân các
xã/phường, quận/huyện nơi có di sản văn hóa nhằm kiểm tra, rà soát năng lực
của nhà đầu tư, biện pháp tổ chức thực hiện và vấn đề môi trường. Các doanh
nghiệp cần nâng cao vai trò, trách nhiệm, phát huy chủ động, sáng tạo trong
công việc triển khai dự án; thường xuyên phản ảnh tình hình với chính quyền
địa phương nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc. Nhằm thực hiện tốt
công tác thu hút đầu tư trên địa bàn.
Về chính sách đầu tư, cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư.
Đối với các dự án lớn được quy hoạch chi tiết, cần nhanh chóng triển khai
đầu tư hoàn thiện hạ tầng để hỗ trợ nhà đầu tư sớm triển khai dự án. Tuy
nhiên, hiện nay, thực tế cho thấy khó khăn chính là ở khâu triển khai dự án
mà chủ yếu là do năng lực của nhà đầu tư, do vậy, phải chủ động kêu gọi nhà
đầu tư khác thật sự có năng lực và nhu cầu đầu tư.
Việc mở rộng liên kết phát triển du lịch văn hóa của tỉnh và các địa
phương trong cả nước cũng cần quan tâm vì thường mang lại hiệu quả nhất
định. Cần phối hợp với các doanh nghiệp du lịch, đóng chân trên địa bàn,
giới thiệu các di sản văn hóa đặc biệt như các di tích lịch sử - văn hóa xếp
hạng cấp quốc gia như đình, chùa, nhà cổ…đối với Đà Nẵng và Quảng Nam,
ngoài các di sản lớn như Mỹ Sơn, Hội An thì các di tích lịch sử - văn hóa

171
khác như ở Đà Nẵng cũng có thể khai thác tham quan như đình Hải Châu,
đình Thạc Gián, đình Túy Loan, đình Bồ Bản, Thành Điện Hải, Nghĩa địa
Pháp - Tây Ban Nha…hay như ở Quảng Nam có các di tích như Rừng dừa
bảy mẫu, khu di tích Nước Oa, địa đạo Kỳ Anh…
Muốn làm được điều này, thì các đơn vị như Trung tâm xúc tiến du
lịch, phòng Quản lý lữ hành, các đơn vị này là kênh nối kết tốt nhất, thuận lợi
nhất với các doanh nghiệp lữ hành trên bàn, họ sẽ giới thiệu di sản văn hóa
qua các cuốn sách hướng dẫn/sách cẩm nang du lịch, mở các tuyến điểm
tham quan. Làm cho hoạt động du lịch góp phần quan trọng trong công cuộc
xóa đói giảm nghèo; góp phần tái phân phối lại thu nhập xã hội ở nơi các di
sản có hoạt động du lịch, góp phần tạo ra sự bình đẳng về mặt cơ hội phát
triển cho các tầng lớp cư dân trong xã hội ở tất cả các địa phương. Trong hoạt
động du lịch, các giá trị đặc sắc của văn hóa được gắn kết và biến đổi, tạo ra
một sắc thái mới trong đời sống văn hóa xã hội. Mối quan hệ giữa các cá
nhân, các tổ chức, các loại hình hoạt động trong một không gian và thời gian
nhất định được diễn ra đa chiều, không còn đơn tuyến, nhỏ lẻ. Sức mạnh tổng
hợp của các loại hình văn hóa được chung đúc tạo nên một sắc thái và động
lực mới, mở ra những chân trời mới với vận hội, thế và lực mới.
7.2.2. Đẩy mạnh xúc tiến quảng bá
* Cần đẩy mạnh công tác quảng bá di sản văn hóa.
- Việc tuyên truyền quảng bá các giá trị của di sản văn hóa tới đại bộ
phận nhân dân là điều hết sức cần thiết. Một di sản văn hóa muốn tồn tại và
phát huy được những giá trị của mình, di sản đó cần phải được nhiều người
biết đến. Nếu như di sản đó không phản ảnh được giá trị tới mọi người, thì đó
cũng chỉ là những sản phẩm vô tác dụng và sẽ chết theo thời gian. Hơn nữa,
việc quảng bá di sản văn hóa còn tạo thu hút được những nguồn đầu tư vốn từ
nhà nước và các tổ chức di sản văn hóa khác, góp phần đẩy mạnh công tác
quản lý ngày càng chạt chẽ và khoa học hơn.
Gần đây, theo kết quả bầu chọn của Tạp chí
Wanderlust.co.ut/magazine (Tạp chí du lịch, Anh quốc) vừa công bố, cho
biết Đô thị cổ Hội An (Quảng Nam) xếp vị trí thứ 2 trong tóp 10 thành phố
du lịch hàng đầu thế giới với tỉ lệ phiếu đạt được là 96%, chỉ đứng sau Luang
Prabang (Lào) với 96,89% số phiếu bầu chọn. Đây là một sự kiện không chỉ
đánh dấu sự phát triển du lịch tại Hội An, mà qua đó, di sản văn hóa Hội An
của nước ta đã được quảng bá tới nhân loại ngày một rộng rãi hơn, khách du

172
lịch sẽ tới tham quan nhiều hơn, chính vì vậy công tác quản lý sẽ ngày càng
được nâng cao cả về chính sách, cơ sở vật chất hạ tầng và về con người.
Ngoài Hội An, Mỹ Sơn nhiều di sản khác của của Quảng Nam và Đà Nẵng
cũng đang được đẩy mạnh công tác quảng bá qua con đường du lịch như
ngành du lịch Quảng Nam còn tổ chức các tour du lịch hấp dẫn, thu hút du
khách như du lịch hồ Phú Ninh, suối Tiên, đèo Le, đồi Bồ Bồ, hồ Giang
Thơm..., ngành du lịch Đà Năng thì quảng bá danh thắng Ngũ Hành Sơn, Bảo
tàng Điêu khắc Chămpa...
- Để quảng bá tốt một di sản văn hóa cho việc phát triển du lịch có vai
trò rất quan trọng. Bên cạnh đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, thưởng thức những
giá trị văn hóa nghệ thuật thông qua các di sản văn hóa, phát triển du lịch còn
đưa các di sản văn hóa nước ta giao lưu với văn hóa nhân loại.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thị trường hiện tại và thị trường
tiềm năng. Trong giai đoạn đầu, có thể tập trung và tuyên truyền quảng bá,
khai thác các thị trường dễ tính, khi chất lượng sản phẩm du lịch đã được
nâng cao với các điều kiện kinh tế - xã hội được nâng cấp, lúc đó có thể xúc
tiến phát triển du lịch và khai thác tại thị trường khó tính hơn
- Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch phù hợp với
thị trường du lịch. Với từng vùng du lịch phải tạo ra sản phẩm du lịch đặc thù,
độc đáo, giàu bản sắc dân tộc để tạo ưu thế cạnh tranh, thu hút khách, chiếm
lĩnh, mở rộng thị trường.
- Hiện nay, đa số khách du lịch đến các địa phương thường thiếu
thông tin về du lịch của các điểm đến, thiếu các cẩm nang hướng dẫn. Các
nguồn thông tin được phát hành thường không thật phong phú. Do vậy cần
xúc tiến tuyên truyền quảng bá như: biên soạn và phát hành các ấn phẩm có
chất lượng và thông tin chính xác về di sản văn hóa và các thông tin cần thiết
khác (điểm vui chơi giải trí, phương tiện đi lại, nhà hàng, khách sạn...) để
giới thiệu cho du khách.
- Tham gia hoặc tổ chức các hội nghị, hội thảo, hội chợ du lịch trong
nước và quốc tế để có điều kiện tuyên truyền những sản phẩm du lịch của
mỗi địa phương, cũng như của quốc gia.
- Mở các văn phòng đại diện tại các thị trường lớn trong nước và quốc
tế để xúc tiến tiếp thị.
- Sửa đổi bổ sung các quy định liên quan đến cơ chế tài chính cho hoạt
động xúc tiến, quảng bá du lịch.

173
- Có chế tài huy động vốn nhiều hơn nữa từ doanh nghiệp cho quảng
bá, xúc tiến du lịch. Gắn công tác xúc tiến, quảng bá du lịch với xúc tiến đầu
tư thương mại.
* Tác động tích cực của công tác quảng bá và sự góp phần của văn hóa
du lịch trong đời sống hiện tại:
- Du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa góp phần quảng bá văn hóa, hình
ảnh cho địa phương, đất nước nơi có di sản thông qua những ấn tượng của du
khách có được sau khi tham quan các di sản văn hóa. Quá trình quảng bá văn
hóa thông qua các đối tượng du khách là quá trình quảng bá trực tuyến, đa
chiều thông qua sự trải nghiệm, tiếp thu và cảm nhận để lại những ấn tượng
cho du khách. Thông qua những bức ảnh, thước phim tư liệu hay các đồ vật
lưu niệm là hàng thủ công mỹ nghệ mà du khách có được trong quá trình
tham quan du lịch, hình ảnh về các di sản được quảng bá trực tiếp, đa chiều
đến những đối tượng công chúng hiện đại và công chúng tiềm năng ở khắp
mọi nơi trên thế giới.
- Hoạt động du lịch cũng là những động thái quan trọng, là cơ sở, điều
kiện cụ thể đem đến sự giao thoa, làm giàu cho văn hóa bản địa, góp phần
thay đổi nhận thức và phong cách cho cư dân bản địa thông qua quá trình
giao tiếp giữa các tầng lớp cư dân với đội ngũ du khách. Sự thay đổi này là
sự thay đổi mang tính tự thân, tự nguyện.
- Hoạt động du lịch là môi trường thích hợp nhất, tốt nhất để đánh giá,
xác định vị trí của kho tàng di sản văn hóa Việt Nam. Thông qua quá trình
giao tiếp trong hoạt động du lịch, kho tàng di sản văn hóa được tự kiểm
nghiệm chính mình trên nhiều phương diện, trước hết là có tính độc đáo, đặc
sắc, hấp dẫn hay không ? Thông qua thực tế kiểm nghiệm này giúp cho
những người quản lý có những sự điều tiết, thay đổi, điều chỉnh thích hợp
trong công tác quản lý di sản văn hóa của các địa phương, điều phối các hoạt
động chuyên môn, đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi đặt ra từ thực tế hoạt động du
lịch.
- Tác động của hoạt động du lịch góp phần xóa đi sự “khu biệt văn
hóa” giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp dân cư đặc biệt đối với các vùng
sâu – vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số xa các trung tâm đô
thị…là những vùng vốn có ít sự giao thoa văn hóa, hoạt động du lịch là hình
thức “nhập khẩu văn hóa” trực tuyến, đa chiều. Nó góp phần làm thay đổi, tô
điểm cho cảnh quan, môi trường sinh thái tự nhiên và cả môi trường sinh thái

174
nhân văn của cộng đồng dân cư ở nơi có di sản thông qua nhịp sống và sắc
màu do hoạt động du lịch đem lại.
- Ở Việt Nam nói chung, vùng đất Quảng Nam và Đà Nẵng nói riêng,
kho tàng di sản văn hóa vốn mang trong mình và chịu sự tác động mạnh mẽ
bởi những đặc thù của xã hội phong kiến rồi sau đó là thời kỳ bao cấp đã
khiến cho hệ thống di sản bị “đóng kín” trước nhiều tầng lớp người, đặc biệt
là người nước ngoài. Chính trong quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập, du
lịch đã đem đến cho các di sản văn hóa sức sống và nhịp sống mới. Hoạt
động du lịch sẽ góp phần xóa đi những nét buồn tẻ, khô cứng, đơn điệu vốn
là đặc trưng cơ bản của hệ thống di sản văn hóa của chúng ta trong thời kỳ
bao cấp ở Việt Nam đã tồn tại lâu dài khi chưa tham gia quá trình hội nhập.
- Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, liên ngành, hoạt động du lịch
góp phần làm thay đổi các mối quan hệ truyền thống trong cộng đồng các
tầng lớp cư dân ở nơi có các di sản tồn tại. Khi có sự tác động của hoạt động
du lịch, các tầng lớp cư dân sẽ lập tức biến đổi theo hai xu hướng căn bản:
vừa hợp tác, liên minh, liên kết cạnh tranh, ganh đua. Hai hình thức này vừa
triệt tiêu nhau vừa thúc đẩy nhau tiến bộ, phát triển không ngừng. Thông
thường, lợi ích từ hoạt động du lịch đem lại lúc ban đầu đẩy người ta xa nhau,
đối lập về lợi ích nhưng sau đó sẽ kéo người ta xích lại gần nhau trong sự liên
minh, hỗ trợ, phối hợp hợp tác để cùng tồn tại, cùng có lợi và cùng phát triển.
- Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động du lịch đem đến nguồn thu
lớn về tài chính cho các di sản. Du lịch được coi là ngành công nghiệp sạch
nhưng đem lại lợi nhuận to lớn. Nó không chỉ tăng nguồn thu cho ngân sách
các địa phương mà còn kéo theo các dự án đầu tư, tái đầu tư, mở rộng và phát
triển thị phần các ngành kinh tế ở các vùng miền khác nhau.
* Xét cả về hiện tượng và bản chất, hoạt động du lịch sẽ tác động trực
tiếp đến cộng đồng cư dân nơi có hệ thống di sản văn hóa dưới các góc độ
sau :
Hoạt động kinh doanh du lịch góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế - xã
hội truyền thống đối với các địa phương nơi có các di sản: đem đến nguồn
thu lớn về tài chính cho các ban quản lý di sản, cho các địa phương nơi có di
sản, tăng nguồn thu nhập cho ngân sách địa phương. Hoạt động du lịch góp
phần quan trọng vào quá trình tăng trưởng kinh tế không ngừng, tạo xuất
khẩu tại chỗ cho kinh tế của các địa phương với đa dạng các ngành nghề,
chủng loại mặt hàng. Đồng thời du lịch cũng góp phần chuyển đổi cơ cấu

175
kinh tế theo hướng du lịch, dịch vụ; phát triển các ngành công nghiệp sạch
bảo vệ môi trường bền vững.
Hoạt động du lịch góp phần tạo công ăn việc làm cho các tầng lớp cư
dân bản địa nơi có các di sản văn hóa đã trở thành điểm thăm quan du lịch.
Hoạt động du lịch đem đến nguồn thu trực tiếp, phong phú, hiệu quả thiết
thực cho các tầng lớp cư dân bản địa, chủ nhân của các di sản trên địa bàn địa
phương của mình thông qua các dịch vụ phục vụ khách du lịch trong quá
trình tham quan du lịch. Nhưng hoạt động du lịch cũng góp phần làm thay
đổi các mối quan hệ truyền thống trong cộng đồng cư dân nơi có di sản. Mối
quan hệ này luôn xảy ra với hai khả năng song hành: hợp tác phát triển cộng
sinh và cạnh tranh thiệt thoái lẫn nhau.
Tuy nhiên, kế hoạch xúc tiến quảng bá du lịch cần phải hình thành trên
thực tiễn, cần dựa vào việc phân tích thị trường để đưa ra chiến lược quảng
bá hiệu quả. Các chuyên gia du lịch và đại diện các doanh nghiệp cũng thống
nhất cần xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động quảng bá du lịch và huy động sự
tham gia, tài trợ, liên kết của các tổ chức, cá nhân nhằm đẩy mạnh quảng bá
du lịch ở trong nước, nước ngoài. Tại thị trường nước ngoài, tập trung quảng
bá tại các thị trường trọng điểm; đồng thời khai thác thêm các thị trường mới
tiềm năng. Đồng thời ngành du lịch Quảng Nam và Đà Nẵng cũng cần xác
định rõ đầu tư cho công tác quảng bá cũng quan trọng ngang với xây dựng
sản phẩm. Muốn xây dựng kế hoạch quảng bá tốt phải dựa trên cơ sở điều tra
khảo sát và sự góp ý của du khách.
7.2.3. Gìn giữ tài nguyên, môi trường
Tuy phát huy các giá trị của di sản văn hóa là yêu cầu thực tiễn và
khoa học, nhưng chúng ta cần lưu ý đến sự phát triển bền vững, vì khi chỉ kết
hợp chặc chẽ giữa du lịch với bảo vệ môi trường, với bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa thì mới có du lịch bền vững và sự phát triển văn hóa bền
vững. Khái niệm “phát triển bền vững” là một khái niệm rất cởi mở của nửa
cuối thế kỷ XX và nhanh chóng trở thành mối quan tâm hàng đầu của cả thế
giới, bởi con người đang lo sợ đến mặt trái của sự phát triển là sự tàn phá.
“Phát triển bền vững”, theo báo cáo của Brundtland năm 1987, là “sự phát
triển kinh tế, văn hóa và xã hội đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không
làm phương hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai” 1. Đây
là báo cáo của Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển của Liên hiệp
1
Xem Microsoft Encarta 99 Encyclopedia, Microsoft Corporation, 1993 – 1998.
176
quốc.
Muốn thực hiện tốt việc gìn giữ tài nguyên di sản văn hóa và môi
trường văn hóa, môi trường sinh thái chung quanh di sản, chúng ta cần nhận
biết:
* Tác động tiêu cực mà du khách gây ra cho các di sản văn hóa và môi
trường văn hóa.
Du lịch là ngành kinh tế hoạt động mang tính “động”, nó luôn biến
động không ngừng, thay đổi nhanh chóng, tác động đến mọi mặt của đời
sống xã hội gây ra những sự biến đổi căn bản trong đời sống xã hội có thể
làm biến dạng cảnh quan, môi trường ở nơi có di sản. Hoạt động du lịch đem
đến sự thay đổi, xáo trộn, đôi khi làm đảo lộn nhịp sống bình thường của các
tầng lớp dân cư địa phương nơi có di sản. Trong một số trường hợp đặc biệt,
du lịch có thể là nguyên nhân góp phần gây mất trật tự an toàn xã hội của một
địa phương nào đó nếu tình hình thay đổi mà không được quản lý đúng đắn,
phù hợp.
Trong quá trình giao lưu gữa du khách và các tầng lớp cư dân bản địa,
sự tiếp xúc mọi mặt nếu không được định hướng và điều tiết đúng cách có
thể sẽ tạo ra nét “mờ” của bản sắc văn hóa địa phương đem đến từ một bộ
phận du khách. Hoạt động du lịch tạo ra sự mất cân đối nhất thời trong cung
– cầu của đời sống xã hội ở một địa phương nào đó. Sự mất cân đối ấy thể
hiện trên các lĩnh vực giao thông, vận chuyển, các cơ sở hạ tầng, nguồn nhân
lực, hệ thống dịch vụ…ở các địa phương nơi có di sản.
Trong quá trình mở cửa hội nhập quốc gia và quốc tế, hoạt động du
lịch là một trong những nguyên nhân căn bản gây ra sự biến đổi mọi mặt ở
những nơi có các di sản văn hóa. Trên thực tế, với vị thế và không gian hữu
hạn của các di sản văn hóa truyền thống vốn chỉ phù hợp với điều kiện riêng
của các địa phương; khi khách du lịch tới đông sẽ làm ảnh hưởng, thay đổi,
đôi khi làm đảo lộn các hoạt động bình thường của địa phương nơi có các di
sản văn hóa. Du khách với nhiều thành phần, lại là những người có điều kiện,
nhu cầu khác nhau, hoạt động của họ có thể tác động không nhỏ đến tình
hình trật tự an toàn xã hội của địa phương nơi có các di sản văn hóa. Nếu
không được tổ chức, điều hành, quản lý kho tàng di sản văn hóa – lễ hội ở
các địa phương chu đáo, khoa học sẽ dẫn đến sự lộn xộn trong quản lý, điều
hành xã hội.
Hoạt động du lịch với những đặc thù riêng luôn biến động của nó dễ

177
làm biến dạng các di sản văn hóa truyền thống. Vì văn hóa truyền thống dù
có tính bền vững thì vẫn có những hạn chế nhất định về điều kiện kinh tế, văn
hóa xã hội cổ truyền, vốn chỉ phù hợp với một khuôn mẫu và không gian bản
địa. Nay khi hoạt động du lịch mang tính đặc mở, mang tính liên ngành, liên
vùng và xã hội hóa cao…sẽ dễ làm mất sự cân bằng, dẫn tới sự phá vỡ các
khuôn mẫu truyền thống của địa phương trong quá trình diễn ra các hoạt
động kinh doanh du lịch. Hiện tượng thương mại hóa các hoạt động có liên
quan đến các di sản trong quá trình hoạt động du lịch dễ dẫn đến tình trạng
lừa đảo, bắt chẹt khách để thu lợi tạo hình ảnh xấu, gây tâm lý ức chế cho du
khách, làm giảm lượng khách đến với các địa phương nơi có các di sản văn
hóa.
Với khuôn viên nhất định của các di sản văn hóa truyền thống ở các
địa phương, lượng du khách đến đông kéo theo những nhu cầu khác nhau, tạo
ra sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu, dễ dẫn đến tình trạng ô nhiễm
môi trường sinh thái tự nhiên và môi trường sinh thái nhân văn. Bản sắc văn
hóa vùng miền có nguy cơ bị “mờ” do kết quả của sự giao thoa văn hóa
thiếu lành mạnh không thể tránh khỏi đem đến từ phía một bộ phận du khách.
Có hai khuynh hướng cần tránh: đó là khuynh hướng bảo thủ và khuynh
hướng cấp tiến một cách thái quá trong quá trình tổ chức, điều hành, duy trì
các hoạt động tại các điểm di sản văn hóa. Nếu không sẽ dễ dẫn đến hiện
tượng nệ cổ, phục cổ hoặc sự lai căng, pha tạp trong cách nhìn, cách hiểu.
cách ứng xử lệch lạc đối với văn hóa dân tộc ở các địa phương.
Do đặc thù của hoạt động du lịch khiến những nhà tổ chức, quản lý
kho tàng di sản văn hóa không dễ điều phối, kiểm soát các đối tượng khách
khác nhau. Một số đối tượng xấu lợi dụng lúc đông người, trà chộn, chen lấn
trong đám đông để móc túi, lừa đảo khách du lịch. Những hiện tượng đó ít
nhiều gây phiền toái cho người tổ chức, thực hiện chương trình du lịch, làm
ảnh hưởng đến văn hóa bản địa, làm xấu đi hình ảnh của địa phương trong
con mắt của du khách. Nếu không được tổ chức, quản lý điều hành chặt chẽ,
các di sản văn hóa của chúng ta sẽ chỉ đón được tình trạng các đối tượng
khách “một lần đến, một lần đi, không một lần trở lại”. Điều này đặt ra cho
các nhà tổ chức, quản lý văn hóa – lễ hội, các nhà khai thác kho tàng di sản
văn hóa phải phối hợp hành động chặt chẽ trong mọi hoạt động của mình.
* Cần gìn giữ tài nguyên di sản văn hóa và môi trường sinh thái tự
nhiên.

178
Để gìn giữ tài nguyên di sản văn hóa và môi trường văn hóa cũng như
môi trường sinh thái tự nhiên chung quanh khu vực di sản, các Ban Quản lý
di sản cần có kế hoạch tổ chức sắp xếp các đoàn khách đến tham quan một
cách hợp lý tránh trình trạng quá đông người đến tham quan cùng lúc ảnh
hưởng đến di tích, có các bảng báo giữ gìn vệ sinh chung, không xả rác, đốt
vàng mã và các giấy tờ khác liên quan đến tín ngưỡng tâm linh, không cho tổ
chức bói toán, bán hàng rong, chống việc chèo kéo khách tham quan, tổ chức
hướng dẫn giới hiệu về di tích cho khách tham quan một cách khoa học, quy
hoạch các bãi đậu đỗ xe hợp lý và tổ chức các quầy thông tin, bán hàng lưu
niệm cho khách để phục vụ chu đáo cho du khách đến tham quan di tích được
thuận lợi…
7.2.4. Nghiên cứu thị trường và phát triển các hoạt động dịch vụ
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý di
sản văn hóa với phát triển du lịch. Để di sản văn hóa Quảng Nam và Đà Nẵng
được phát huy phục vụ du lịch, thì trước hết cần tổ chức nghiên cứu thị
trường trong và ngoài nước.
Ở trong nước cần nhắm đến 2 thị trường trọng điểm là Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Tại 2 địa điểm này chúng ta sẽ tổ chức nhiều hoạt
động để giới thiệu văn hóa du lịch Quảng Nam và Đà Nẵng. Đồng thời xác
định Quảng Nam và Đà Nẵng là đầu mối để cho các doanh nghiệp du lịch tại
Đà Nẵng và Quảng Nam kết nối với các doanh nghiệp Hà Nội hay với Thành
phố Hồ Chí Minh.
Ở nước ngoài, trước mắt nhắm đến những thị trường quốc tế có
khoảng cách dưới 6 giờ bay, như: Singgapore, Hồng Kông, Malaysia,
Thượng Hải…Và đến khi cơ sở hạ tầng đáp ứng được nhu cầu của du khách
thì chúng ta sẽ nhắm đến các thị trường xã hơn.
Trung bình mỗi năm nên tổ chức 2 đợt khảo sát, nghiên cứu thị
trường nội địa và một đợt tại thị trường nước ngoài; tổ chức hút khách bằng
các sự kiện văn hóa, du lịch kèm theo các chương trình khuyến mãi, kích cầu
để đón nhận nhiều hơn nữa lượng khách nội địa. Quan trọng nhất vẫn là thực
hiện khảo sát thị trường khách hàng năm để giám sát chất lượng dịch vụ và
chia sẻ với khối doanh nghiệp; vận động doanh nghiệp về đào tạo kỹ năng
cho nhân viên; tổ chức các đoàn famtrip cho đại diện các doanh nghiệp và
các phóng viên báo chí đến các điểm du lịch một năm 2 lần. Quan trọng là
cần xác định được mục tiêu, thị trường, xây dựng, nghiên cứu các gói sản

179
phẩm, giá tham quan, lưu trú. Hãy đưa ra thông điệp truyền thông cho khách
hiểu lý do để họ đến và trở lại Quảng Nam và Đà Nẵng thay vì đến nơi khác.
Các doanh nghiệp cũng cần tích cực trong việc đẩy mạnh quảng bá,
xúc tiến ở cả trong và ngoài nước.
Bên cạnh đó, cần mở rộng chiến dịch quan hệ công chúng, tái khởi
động quảng bá con đường di sản. Xây dựng và quảng bá các chương trình
tham quan du lịch dài ngày mà Quảng Nam và Đà Nẵng vẫn là điểm trung
tâm.
Đi cùng với các sự kiện nổi bật đó còn có nhiều hoạt động phụ trợ như:
triển lãm ảnh đẹp pháo hoa; triển lãm sinh vật cảnh và tượng đá Non Nước;
biểu diễn dù lượn; tổ chức tour du lịch Bà Nà-Núi Chúa; Ngũ Hành Sơn - đô
thị cổ Hội An - Thánh địa Mỹ Sơn; du lịch Sơn Trà - khám phá rừng già giữa
lòng phố trẻ, lặn biển ngắm san hô… đồng thời cần nghiên cứu phát triển các
sản phẩm du lịch mới để đáp ứng tối đa nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, tìm
hiểu về nơi du khách đến du lịch và các nhà quản lý các doanh nghiệp du lịch
cũng cần luôn phải nghiên cứu để tìm ra nhiều sản phẩm mới đáp ứng nhu
cầu cảu du khách.
Thứ hai, là phát triển các hoạt động dịch vụ.
+ Bổ sung cho dịch vụ vận chuyển: các điểm trông giữ xe, các phương
tiện và cách thức vận chuyển, lưu thông nội vùng, nội tuyến, khu vực bên
trong điểm tham của du khách như đã hình thành các tuyến xe buýt đi đến
Khu di tích Mỹ Sơn..
+ Bổ sung dịch vụ lưu trú: Ngoài khách sạn, nhà nghỉ có quy mô thì tại
tuyến điểm có di sản văn hóa để phục vụ tham quan có thể tổ chức các loại
hình lưu trú khác như camping, ghế, võng...phục vụ nhu cầu nghỉ dưỡng của
các đối tượng du khách nhau.
+ Quản lý các dịch vụ bổ sung khác như: Thông tin liên lạc, chăm sóc
sức khỏe, chữa bệnh, làm đẹp, ẩm thực, vui chơi giải trí, lưu giữ âm thanh,
hình ảnh cá nhân và tập thể...
Trong quá trình quản lý các hoạt động dịch vụ ở các di sản có hoạt
động du lịch, cần xây dựng chiến lược về sản phẩm du lịch. Sản phẩm du lịch
là toàn bộ những hàng hóa mang tính đặc thù nhằm thỏa mãn các nhu cầu
khác nhau của khách du lịch. Khi tạo ra các sản phẩm du lịch phải xác định
các sản phẩm đó thỏa mãn những nhu cầu gì của du khách. Cũng cần thấy
rằng, trong các loại hình hoạt động của du lịch văn hóa, việc thỏa mãn nhu

180
cầu thẩm nhận các giá trị văn hóa, trải nghiệm thực tế của du khách là yếu tố
chính. Tuy nhiên, về mặt giá trị, du khách nhìn chung đều có nhu cầu được
hưởng đúng và lớn hơn những giá trị mà hoạt động du lịch đem lại cho họ so
với cái giá mà mình phải trả.
Quản lý các hoạt động dịch vụ gắn liền với việc tạo ra các sản phẩm
du lịch phục vụ du khách. Đó có thể là các chương trình du lịch, mỗi một tua
là một sản phẩm du lịch mang dấu ấn của công ty tổ chức. Sản phẩm du lịch
cũng có thể là phương cách điều phối các chương trình du lịch khác nhau, tạo
ra những cách thức và hình thái tổ chức hoạt động mới trên nền tảng là các
“nguyên liệu” văn hóa sẵn có. Sản phẩm du lịch thông thường và phổ biến là
các sản phẩm hàng hóa, đồ lưu niệm phục vụ khách du lịch. Nó cũng bao
gồm các dịch vụ bổ sung phục vụ khách du lịch. Nói rộng ra, sản phẩm du
lịch bao hàm và chứa đựng tất cả những gì được xây dựng và tổ chức khai
thác ở một điểm đến để phục vụ các nhu cầu khác nhau của du khách khi họ
đến tham quan du lịch ở điểm đó. Sản phẩm du lịch còn là moi trường sống,
không gian sống của cộng đồng cư dân bản địa và du khách trong quá trình
tham quan du lịch tại địa phương nơi có di sản.
Muốn có được sản phẩm du lịch sáng giá, cần có chiến lược sản phẩm
đúng đắn. Chiến lược đó chính là việc khai thác tối ưu những tiềm năng,
nguồn lực của địa phương để đưa ra các sản phẩm thích hợp với từng đối
tượng du khách. Nghiên cứu để tạo ra các sản phẩm mang đặc trưng bản địa.
Quy hoạch các khu vực trong di sản và không gian phụ cận của các di sản để
xây dựng các dịch vụ phù hợp, thỏ mãn những nhu cầu khác nhau của khách.
Việc quan trọng hơn là cần có tư duy, sáng tạo để cho ra đời các loại hình sản
phẩm du lịch mang tính định hướng thị hiếu thẩm mỹ, tạo ra nhu cầu của
khách chứ không chạy theo yêu cầu của khách. Kết nối các đối tượng, loại
hình sản phẩm khách nhau đẻ tạo ra chuối nhu cầu mang tính “hệ quả”:
vì ...nên...Tạo ra sản phẩm khác này để du khách “phải” mua sản phẩm khác.
Ví dụ, vì khách đã mua cái bình đẹp nên cần phải mua thêm cái kệ tương
thích...
Nghiên cứu để tạo ra phong cách phục vụ mới, sáng tạo đem đến sự
hấp dẫn cho du khách thay vì các phương cách truyền thống. Thay đổi, đa
dạng hóa phương thức thanh toán, trao đổi. Kiểm soát quá trình bán hàng
trong các cơ sở dịch vụ, không để xảy ra việc bán hàng kém chất lượng, hàng
giả, hàng nhái...trong khu vực dịch vụ ở các di sản sẽ gây ảnh hưởng đến toàn

181
bộ các mặt hoạt động của di sản.
Công tác quản lý các hoạt động dịch vụ nhằm tăng nguồn thu cho di
sản; đáp ứng và làm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng, ngày càng tăng của các
đối tượng du khách khác nhau. Quản lý các hoạt động dịch vụ để không làm
ảnh hưởng đến hoạt động tham quan du lịch; không làm mất cảnh quan,
không gian môi trường tự nhiên và xã hội ở nơi có các di sản. Quản lý dịch
vụ giúp cho việc tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương, tạo ra xuất khẩu
tại chỗ, tạo công ăn việc làm cho đông đảo các tầng lớp dân cư trong xã hội ở
địa phương nơi di sản có hoạt động du lịch. Đây cũng là hoạt động góp phần
tái phân phối lại thu nhập xã hội, góp phần xóa đói, giảm nghèo...
Hệ thống dịch vụ phục vụ khách du lịch tại các di sản chính là thước
đo giá trị tiềm năng và khả năng của địa phương cũng như các nhà quản lý di
sản văn hóa.
7.2.5. Xã hội hóa bảo tồn và phát triển các di tích lịch sử - văn hóa
Do nhận thức được vấn đề xã hội hóa hoạt động văn hóa nhằm phát
huy tiềm năng, nguồn lực của mọi lực lượng, mọi thành phần kinh tế xã hội
cùng tham gia sáng tạo và phát triển sự nghiệp văn hóa. Xã hội hóa là chuyển
một phần công việc của nhà nước cho nhân dân, tổ chức tập thể làm, nhưng
nhà nước không giảm nhẹ trách nhiệm. Xã hội hóa hoạt động văn hóa được
thực hiện với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, đây chỉ là một
chủ trương đúng đắn của Đảng, được Chính phủ cụ thể hóa bằng nghị quyết
90/CP và Nghị định 73/CP. Thực hiện chủ trương trên, những năm qua Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam cũng như thành phố Đà Nẵng
đã triển khai ở lĩnh vực công tác trùng tu, tôn tạo, bảo vệ và gìn giữ di tích.
Hiện ở tại mỗi di tích nhân dân địa phương đều cử ra các Ban quản lý di tích,
có chức năng chăm lo gìn giữ di tích. Đồng thời Sở văn hóa, Thể thao và Du
lịch cũng chú ý xây dựng ý thức của người dân trong việc tham gia bảo tồn
văn hóa vật thể và phi vật thể, nhờ đó mà hàng năm nhân dân bỏ ra hàng trăm
triệu đồng để tổ chức các lễ hội truyền thống tại các đình làng và các di tích
lịch sử - văn hóa quốc gia như ở Đà Nẵng nhân dân các địa phương như Bồ
Bản góp tiền của trùng tu lại đình làng Bồ Bản, nhân dân Thôn Túy Loan góp
tiền của trùng tu đình làng Túy Loan, nhân dân thôn Quá Giáng góp tiền của
và công sức tôn tạo lại nhà thờ Chư phái tộc Quá Giáng… Trong năm 2002,
nhân dân thôn Túy Loan, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang đã góp 4 triệu
đồng để tu sửa đình làng, xây trụ biểu, bình phong. Nhân dân phường Nại

182
Hiên Đông, nhân dân phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà đã đóng góp hơn 15
triệu đồng để tu sửa đình làng và tổ chức lễ hội. Năm 2007, nhân dân làng Đà
Sơn (Hoà Khánh Nam) đã góp hơn 200 triệu đồng cùng với nhà nước xây
dựng lại đình Đà Sơn… Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa” ngày càng đi vào cuộc sống và đã tác động tích cực đến công tác
bảo tồn và phát huy dí sản văn hóa. Hằng năm nhân dân các địa phương tùy
theo điều kiện kinh phí, thời gian mà tổ chức các lễ hội dân gian, đã có nhiều
lễ hội diễn ra sôi nổi như lễ hội đình làng Hòa Mỹ, lễ hội đình làng Trung
Nghĩa, lễ hội đình làng Hòa Phú ở phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu; lễ
hội dình Túy Loan, đình làng Bồ Bản ở xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang…,
đã có tác động sâu sắc đến truyền thống uống nước nhớ nguồn, tinh thần
đoàn kết láng giềng ở quê hương.
Đối với tỉnh Quảng Nam từ năm 1997 đến nay đã vận động xã hội hóa
trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn toàn tỉnh là 27,180 tỉ
đồng.
Tuy nhiên, công tác xã hội hóa hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di
tích còn thiếu định hướng, thiếu những chính sách, chế tài để khuyến khích,
kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân. Các nguồn lực do dân đóng
góp chưa được qui tụ dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước, nên không được
định hướng để sử dụng có hiệu quả.
Sớm hoàn chỉnh hệ thống chính sách về di tích, nhất là những chính
sách về xã hội hóa hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Đặc biệt là
những quy định của các Luật thuế cho phép các doanh nghiệp, cá nhân được
giảm một phần thuế kinh doanh, thuế thu nhập… nếu doanh nghiệp hoặc cá
nhân đó có những đóng góp trực tiếp cho việc tu bổ di tích, mua di vật, cổ vật
hiến tặng bảo tàng nhà nước, tài trợ cho những chương trình nghiên cứu về di
tích... Thông qua đó nâng cao vai trò quản lý và định hướng của Nhà nước để
sử dụng có hiệu quả hơn nữa sự đóng góp của nhân dân cho bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hoá.
7.2.6. Xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển
Để phục vụ và phát triển du lịch trong những năm qua, Đà Nẵng và
Quảng Nam đã tích cực xây dựng nhiều dự án cơ sở hạ tầng và nhiều sản
phẩm du lịch mới nhằm thu hút nhiều hơn du khách trong và ngoài nước.
Trong năm 2010 – 2011, Đà Nẵng đã xúc tiến mở đường bay Đà
Nẵng – Lâm Đồng và mở lại đường bay Đà Nẵng – Hải Phòng, Đà Nẵng –
183
Cần Thơ…
Nhiều đường bay quốc tế cũng được khai thác như Đà Nẵng –
Singapore (Hàng không Singapore - SilkAir khai thác), Quảng Châu - Đà
Nẵng (China Southern Airlines); Narita - Đà Nẵng (Vietnam Airlines khai
thác), Thành Đô – Đà Nẵng (Hãng SICHUAN Airlines khai thác).
Cơ sở hạ tầng cũng được thành phố quan tâm đầu tư rất lớn với nhiều
khách sạn đạt chuẩn 5 sao, 4 sao. Hiện nay khu du lịch Bà Nà đang triển khai
một trung tâm hội nghị, giải trí với các hạng mục: phòng hội nghị có sức
chứa 700 người, quầy bar, sàn nhảy, karaoke, sân khấu, … Dự án cũng tái
hiện một khu phố kiểu Pháp trên đỉnh Bà Nà mang vóc dáng, không khí của
khu nghỉ dưỡng Bà Nà xưa - một trong những thiên đường nghỉ dưỡng lớn
nhất Đông Dương, từng sánh ngang với Le Bockr (Campuchia), Cap Saint
Jacques (Vũng Tàu, Tam Đảo, Sa Pa, Đà Lạt…
Đà Nẵng là địa phương có nhiều tiềm năng và lợi thế cho phát triển du
lịch với cảng biển sâu, sân bay quốc tế lớn nhất miền Trung. Thành phố còn
là cửa ngõ dẫn tới một số di sản văn hóa thế giới và điểm cuối của tuyến
Hành lang Kinh tế Đông Tây. Đây là điều kiện rất thuận lợi để Đà Nẵng tiếp
tục phát triển du lịch.
Bên cạnh việc xây dựng các cơ sở hạ tầng mang tầm cở lớn phục vụ
cho các loại hình du lịch, trong đó có du lịch văn hóa. Vì vậy, để thu hút
khách tham quan đến với di tích lịch sử - văn hóa, thì cần phải quy hoạch khu
vực chung quanh di tích một cách khoa học, hợp lý vừa bảo tồn cảnh quan
khu vực di tích, vừa không xâm hại di tích. Muốn các di sản đáp ứng các điều
kiện cho hoạt động du lịch phát triển, thì cần có các cơ sở hạ tầng với các
trang thiết bị vật chất kỹ thuật cần thiết.
Khi tiến hành quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu vực di
tích lịch sử - văn hóa cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
- Phải tính toán việc xây gì, làm gì có tầm chiến lược lâu dài, tạo tiền
đề cho di sản phát triển.
- Xây dựng cái trước tạo tiền đề cho cái sau
- Xây dựng cái trước không làm kìm hãm cho cái sau
- Xây dựng cái sau phải kế thừa và phát triển hơn cái trước
Đối với các di sản văn hóa, khi tiến hành quy hoạch thông thường cần

184
xác định 3 khu vực: Khu vực I, Khu vực trung tâm là khu vực đặc biệt quan
trọng không được xây thêm bất cứ công trình nào. Khu vực II: Khu vực được
phép xây dựng hạn chế các công trình để tôn vinh, bổ trợ cho di tích. Khu
vực III: khu vực được xây dựng các công trình dịch vụ phụ trợ, kinh doanh
các dịch vụ bổ sung.
Khi tiến hành quy hoạch di sản, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị
vật chất kỹ thuật cần quy hoạch, xây dựng các khu vực sau:
- Khu vực trông giữ xe tĩnh và động, có mái che hay ngoài trời, đi kèm
với việc trông giữ xe có thể kết hợp với dịch vụ rửa xe cho du khách.
- Quy hoạc các khu vực dịch vụ như: thông tin liên lạc, bán hàng lưu
niệm, khu vực dành cho ẩm thực, khu vực vui chơi giải trí, khu vực chăm sóc
sức khỏe, nghĩ dưỡng của du khách...
- Quy hoạch khu vực vệ sinh, khu rác thải...thuận tiện cho việc sử
dụng của du khách.
- Quy hoạch các khu vực chức năng và cách thức cung cấp điện, nước
sinh hoạt.
- Quy hoạch các khu vực nghỉ ngắn trong quá trình tham quan, nơi
trồng cây lưu niệm cho du khách.
Khi tiến hành quản lý cơ sở hạ tầng, trang thiết bị vạt chất, kỹ thuật
cần xây dựng đường lối chính sách về bảo vệ di sản và bảo vệ môi trường.
Bao gồm việc quản lý bảo vệ di sản không để tình trạng mất cắp cổ vật với
các biện pháp cụ thể, thích hợp. Quản lý việc bảo vệ di sản, không để tình
trạng trèo ngồi lên các công trình, di vật; không để tình trạng viets vẽ bậy
trên các công trình, di vật trong di sản...Đòng thời với đó là công việc quản lý
việc bảo vệ môi trường tự nhiên: ván đề xử lý rác thải, phóng uế bừa bãi,
giảm thiểu ô nhiễm không khí, nguồn nước...Có biện pháp bảo vệ môi trường
xã hội tránh bị ô nhiễm, xử lý các tệ nạ xã hội theo chân du khách tới: trộm
cắp móc túi, mại dâm, ma túy...như thế nào?
Có kế hoạch phòng chống cháy nổ trong mùa lễ hội, phòng chống ngộ
độc thức ăn, ngộ độc thực phẩm, phòng chống mê tín dị đoan, buôn thần bán
thánh, bắt chẹt giá khách, cò mồi dẫn mối, tăng giá vô tội vạ các dịch vụ nhà
nghĩ, bê đặt lễ giúp, khấn thuê, viết sớ, dâng sao giải hạn...làm phiền hà cho
khách gây mất uy tín, lòng tin của ban quản lý nói riêng cũng như toàn bộ
điểm di sản nói chung.
Cũng cần tiến hành xây dựng đường lối chính sách để quản lý rủi ro,

185
bởi các di sản của chúng ta luôn bị các nguy cơ rủi ro đe dọa đem đến cho di
sản từ hoạt động du lịch như các nguy cơ: cháy nổ, mất cắp di vật, cổ vật,
xuống cấp, biến dạng, hư hại do những tác động đem đến từ phía du khách:
chụp ảnh, sờ mó, viết, vẽ, dịch chuyển, thiên tai,... Nội dung của công tác
quản lý các rủi ro này bao gồm các phần việc có liên quan, để góp phần đạt
được các mục dích như:
- Hạn chế rủi ro, giảm thiểu tác hại của rủi ro
- Bảo hiểm tránh rủi ro.
Di tích lịch sử - văn hóa có vai trò to lớn đối với sự phát triển lành
mạnh và bền vững của cuộc sống đương đại. Bảo vệ và phát huy giá trị của di
tích là nền tảng, là nguồn động lực cho sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước, là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người và của cả cộng
đồng.
7.2.7. Tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế
Hiện nay, trên địa bàn Quảng Nam và Đà Nẵng còn lại nhiều di sản
văn hóa quý giá, có tầm cỡ quốc tế như Đô thị cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn,
danh thắng Ngũ Hành Sơn…, trong nhiều năm qua, các tổ chức quốc tế đã
liên kết tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu khoa học như Italia, Pháp, Đức,
Ba Lan nghiên cứu về trùng tu di tích Mỹ Sơn; Pháp đầu tư nghiên cứu chỉnh
lý lại việc trưng bày tại bảo tàng Điêu khắc Chămpa Đà Nẵng…; Nhật Bản
đầu tư, hỗ trợ kinh phí và tổ chức nghiên cứu bảo tồn đô thị cổ, trong đó có
việc bảo tồn, trùng tu các kiến trúc nhà ở cổ truyền…
Việc tổ chức các hoạt động nghiên cứu và hợp tác quốc tế đã diễn ra
sôi nổi trên một số lĩnh vực ở Quảng Nam và Đà Nẵng để nhằm cứu vãn di
sản văn hóa và tạo điều kiện để các địa phương thu hút khách tham quan.
Tuy nhiên, trong những năm đến để công tác này được tiếp tục thực
hiện và mang lại hiệu quả, cần:
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tiến hành các
hoạt động nghiên cứu khoa học, như:
+ Nghiên cứu cơ bản về đặc điểm và giá trị của khu di sản văn hóa
+ Nghiên cứu bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị của di sản văn hóa
+ Đánh giá vai trò, hiệu quả của các chương trình du lịch, tác động của
các chương trình du lịch tới mọi mặt của địa phương nơi có di sản văn hóa.
Rút ra nhận xét, kết luận và phương án bổ sung, khắc phục, hoàn thiện và
nâng cao chất lượng hoạt động du lịch ở địa phương nơi có di sản văn hóa

186
+ Tuyên truyền giáo dục cộng đồng về bảo vệ di sản văn hóa
+ Trao đổi và chuyển giao kinh nghiệm trong công tác trùng tu, bảo vệ
di sản văn hóa.
+ Thường xuyên điều tra, đánh giá, phân loại trình độ nghiệp vụ của
toàn bộ cán bộ nhân viên trong ngành của địa phương hoặc quốc gia. Dựa
trên kết quả điều tra tiến hành xây dựng kế hoạch đào tạo cụ thể các cấp có
trình độ khác nhau, theo các chuyên ngành phù hợp. Bao gồm cả về quản lý,
kỹ năng nghề và giám sát, để cán bộ nhân viên có thể đáp ứng được chát
lượng dịch vụ du lịch như mong muốn của khách hàng.
+ Tăng cường đầu tư hợp tác khu vực và quốc tế thu hút mọi nguồn lực
cho bảo vệ di sản, tài nguyên môi trường du lịch. Việt Nam là một trong
những nước thuộc ASEAN, chúng ta có điều kiện thực hiện những sáng kiến
khu vực để phát triển thị trường du lịch của mình. Mở cửa thị trường, Việt
Nam sẽ có các cơ hội thu hút vốn, công nghệ và kỹ năng quản lý để phát triển
du lịch.
7.2.8. Xây dựng văn hóa giao tiếp, tạo thương hiệu
Ở nhiều nước trên thế giới, Du lịch đã và đang trở thành một trong
những ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân. Du lịch không chỉ
mang lại nguồn thu nhập lớn cho nền kinh tế, tạo việc làm, phát triển các
ngành dịch vụ, cơ sở hạ tầng, mà còn thúc đẩy hòa bình, giao lưu văn hóa [4],
[5], [6].
Ngày nay, thương hiệu du lịch quốc gia trở thành một trong những tài
sản giá trị nhất của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Do đó, việc xây
dựng và quảng bá thương hiệu nhằm xác lập hình ảnh du lịch của đất nước
một cách rộng rãi đến với khách du lịch trên toàn cầu là một nhiệm vụ rất
quan trọng trong công tác marketing điểm đến để khẳng định vị thế cạnh
tranh của Việt Nam với tư cách là một điểm đến du lịch ấn tượng "Impressive
Vietnam" trên thị trường quốc tế.
Do vậy, việc xây dựng văn hóa giao tiếp, tạo thương hiệu cho khách
du lịch đến tham quan các di sản văn hóa là việc làm cần thiết.
Để tạo thương hiệu cho mình, nhiều năm qua Hội An đã tập trung tổ
chức các sự kiện quốc tế như tổ chức cuộc thi Hoa Hậu, hay Hội nghị APEC...
Khi có sự chuẩn bị tốt và công tác truyền thông được đẩy mạnh thì thương
hiệu du lịch Hội An sẽ được nhiều nước trên thế giới biết đến. Đây là hoạt
động không thể thiếu trong việc quảng bá thương hiệu du lịch và các cơ sở.

187
Một điều đáng mừng là chính quyền thành phố rất quan tâm đến việc huy
động lực lượng, công tác chuẩn bị, xem đây là hoạt động để quảng bá thương
hiệu và các doanh nghiệp cũng đã trang bị khá tốt công tác đưa đón, thu hút
khách du lịch.
Vừa qua, Liên hoan và Hội thi Hợp xướng quốc tế Việt Nam lần thứ
nhất do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh Quảng Nam và Tổ
chức Liên minh văn hóa (Interkultur – Đức) phối hợp tổ chức tại Di sản văn
hóa thế giới Hội An (Quảng Nam) từ ngày 16/3 đến 20/3 là cơ hội tốt để Hội
An quảng bá, nâng cao thương hiệu, vị thế du lịch của Việt Nam với bạn bè
quốc tế
Thực tế việc tổ chức các sự kiện quốc tế tại Hội An đã đưa lại những
hiệu ứng tích cực, góp phần đẩy mạnh thương hiệu, phát triển du lịch Hội An.
Vừa qua tạp chí du lịch Wanderlust bình chọn Hội An xếp thứ 2 trong Top 10
thành phố du lịch tốt nhất năm 2011.
Ở Đà Nẵng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đà Nẵng đã quảng bá
“Sắc màu du lịch Đà Nẵng” tại Hà Nội vào ngày 16/2 và tại Thành phố Hồ
Chí Minh ngày 24/2/2012 cũng nhằm thu hút hơn nữa khách du lịch cũng
như các nhà đầu tư vào du lịch Đà Nẵng. Năm 2012, tại Đà Nẵng có tới 34 sự
kiện lớn trải rộng trên các lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch diễn ra liên
tục trong suốt năm. Đây là một trong những hoạt động thường niên nhằm
quảng bá du lịch trong chương trình xúc tiến du lịch của thành phố biển.
Tuy nhiên, nổi bật nhất phải kể đến Cuộc trình diễn pháo hoa quốc tế
Đà Nẵng 2012, ở hai bên bờ sông Hàn vào ngày 29 - 30/4, hội tụ bốn nhà vô
địch các năm đến từ Italy, Pháp, Trung Quốc, Canada cùng với đại diện đội
chủ nhà Việt Nam là Đà Nẵng; Cuộc thi Dù bay quốc tế Đà Nẵng lần đầu tiên
tổ chức tại Việt Nam vào tháng 5/2012; hay việc khai trương khu giải trí
trong nhà lớn nhất Đông Nam Á; giới thiệu các đường bay quốc tế mới đến
Đà Nẵng; các sản phẩm du lịch mới của Đà Nẵng, như: suối tắm khoáng
nóng Phước Nhơn, chương trình ca nhạc đường phố, khám phá Đà Nẵng
bằng trực thăng…; Đà Nẵng nằm ở trung điểm của các di sản thế giới như Cố
đô Huế - phố cổ Hội An - Thánh địa Mỹ Sơn. Bên cạnh đó thành phố Đà
Nẵng còn có lợi thế về hệ thống cơ sở hạ tầng khang trang đồng bộ, hiện đại
với các cảng biển, sân bay quốc tế lớn, là cửa ngõ thứ 3 của cả nước đồng
thời là điểm cuối ra biển Đông của tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây.Vì
vậy, không phải riêng năm nay sự kết nối giữa Đà Nẵng và các tỉnh lân cận

188
có di sản mới được chú ý mà từ lâu đã có sự hợp tác rất tốt trong vấn đề cùng
quảng bá các sản phẩm du lịch của các địa phương nhằm thu hút du khách
đến với Đà Nẵng nói riêng và Con đường di sản miên Trung nói chung.
Theo thống kê của ngành du lịch Quảng Nam, trong 6 năm qua (2005-
2011), với nỗ lực quảng bá xúc tiến đầu tư, mức tăng trưởng bình quân mỗi
năm của ngành đạt từ 30-35%. Tổng lượng khách năm 2011 dự báo đạt trên
2,48 triệu lượt khách, gấp 1,8 lần so với năm 2005. Tuy nhiên, ngành du lịch
cũng thừa nhận vẫn còn quá nhiều hạn chế như: Công tác khảo sát, nghiên
cứu thị trường chưa được đầu tư đúng mức. Không có các đợt khảo sát,
nghiên cứu, đánh giá thị trường du lịch Quảng Nam một cách quy mô,
thường xuyên nên chưa thể có được một chiến lược quảng bá xúc tiến dài hạn.
Có thể nói, trong thời đại ngày nay, Du lịch đó trở thành hiện tượng
phổ biến và là một trong những ngành công nghiệp lớn nhất thế giới [7], [8].
Nhờ những đóng góp to lớn về kinh tế - xã hội, du lịch đã trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trên thế giới. Du lịch là một trong những
hoạt động kinh tế quan trọng, không chỉ đem lại nguồn thu nhập lớn cho nền
kinh tế, tạo nhiều việc làm, phát triển các ngành dịch vụ, cơ sở hạ tầng mà
còn là phương tiện thúc đẩy hoà bình, giao lưu văn hoá, tạo ra những giá trị
vô hình nhưng bền chặt. Như vậy, có thể nói du lịch là một trong những hoạt
động quan trọng đầu tiên hướng tới xây dựng và phát triển thương hiệu quốc
gia. Vì vậy, luôn có hai mục tiêu song trùng đối với ngành du lịch, đó là
quảng bá du lịch góp phần xây dựng thương hiệu quốc gia và xây dựng một
thương hiệu du lịch quốc gia.
Bản chất của việc xây dựng thương hiệu du lịch là việc chuyển tải có
chủ định một bản sắc riêng thành một hình ảnh trong tâm trí khách du lịch.
Ngày nay, thương hiệu đã và đang trở thành một trong những tài sản giá trị
nhất của một quốc gia với tư cách là một điểm đến du lịch. Thương hiệu điểm
đến giúp nhận ra những đặc điểm nổi bật của sản phẩm du lịch của điểm đến.
Thương hiệu điểm đến là quá trình quản lý trong ngành du lịch đóng vai trò
gắn kết chặt chẽ dựa trên hiểu biết với hệ thống đánh giá và cảm nhận của
khách hàng, đồng thời là phương tiện định hướng hành vi của các nhà quản lý
và kinh doanh du lịch tiếp thị điểm đến như một sản phẩm du lịch thống nhất.
Nói cách khác, thương hiệu như một nguồn lực quan hệ với cả khách du lịch
cũng như với các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức du lịch khác.
Xây dựng và quảng bá thương hiệu nhằm xác lập hình ảnh du lịch của

189
một quốc gia một cách rộng rãi đến với khách du lịch trên toàn cầu là một
nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác marketing điểm đến để khẳng định vị
thế cạnh tranh của quốc gia với tư cách là một điểm đến du lịch quốc tế trên
thị trường quốc tế. Để thu hút khách du lịch, các nước quan tâm phát triển du
lịch đều phải chú trọng xây dựng và quảng bá thương hiệu du lịch quốc gia
trên thị trường du lịch thế giới và khu vực. Thương hiệu du lịch quốc gia
không chỉ là những yếu tố hữu hình như khẩu hiệu quảng cáo, logo, tập gấp,
trang web mà còn bao gồm các yếu tố vụ hình như thông tin quảng cáo, quan
hệ công chúng và marketing trực tiếp, các sự kiện đặc biệt, chiến lược bán và
thực hiện sản phẩm/dịch vụ du lịch. Thương hiệu luôn luôn là hỗn hợp của tất
cả các yếu tố này trong mối liên kết chặt chẽ với nhau.
Tạo dựng thương hiệu là một quá trình xây dựng và nhận dạng tính
khác biệt, độc đáo và đặc trưng của một điểm đến du lịch. Tạo dựng thương
hiệu là sự phối kết hợp tất cả sản phẩm và dịch vụ của các ngành khác nhau
như nông nghiệp, du lịch, thể thao, nghệ thuật, đầu tư công nghệ, giáo dục,...
liên quan tới điểm đến du lịch. Mục tiêu là để nắm được bản chất của điểm
đến trong một thể thống nhất. Hơn nữa, thương hiệu được sử dụng để chào
bán những giá trị độc đáo này tới khách du lịch tiềm năng. Tạo dựng thương
hiệu điểm đến du lịch có thể giảm rủi ro cho khách du lịch khi quyết định lựa
chọn địa điểm du lịch cho kỳ nghỉ của họ. Khách du lịch cảm thấy tin tưởng
với một thương hiệu mạnh vì nó cung cấp kiến thức, thông tin, an ninh và sự
chắc chắn.
Tuy nhiên, ý tưởng để tạo dựng thành công một thương hiệu điểm đến
du lịch đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng và mất nhiều năm, như: thời gian
qua, Quảng nam đã tạo được thương hiệu: Quảng Nam – con đường di sản và
Đà Nẵng đã tạo được thương hiệu: Lễ hội trình diễn pháo hoa quốc tế hằng
năm…đã thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham dự..
Thương hiệu điểm đến không chỉ tạo ra mà còn khuếch trương quảng bá
những gì một đất nước, một vùng hoặc một thành phố đã cung cấp rồi. Để
thành công, thương hiệu điểm đến cần phải độc đáo và khác biệt. Nếu một
nước, một khu vực hoặc một điểm du lịch liên quan khác có các sản phẩm
tương tự rồi thì sức mạnh của thương hiệu nhanh chóng biến mất. Vì vậy,
luôn luôn phải chú ý tới đối thủ cạnh tranh nâng cao vị thế của họ như thế
nào để xây dựng thương hiệu cho phù hợp. Nước ta có tiềm năng to lớn về du
lịch, tuy nhiên đến nay, ngành du lịch VN vẫn chưa tạo được một sản phẩm

190
du lịch Việt Nam mang tầm vóc thương hiệu du lịch quốc gia. Điều cơ bản
nhất mà du lịch Việt Nam đang thiếu là tính chuyên nghiệp. Sự thiếu chuyên
nghiệp đó thể hiện ở nhiều khâu, trong đó quan trọng nhất là sự phối kết hợp
thiếu hiệu quả của các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch và liên quan đến
du lịch: từ các doanh nghiệp lữ hành, khách sạn, nhà hàng, phương tiện vận
chuyển đến siêu thị, cửa hàng lưu niệm và các điểm du lịch. Công tác quảng
bá du lịch của Du lịch Việt Nam vẫn chưa được quan tâm thực sự và thiếu
chuyên nghiệp. Du lịch Việt Nam vẫn ít được thế giới biết đến, chất lượng
sản phẩm và dịch vụ du lịch chưa tạo được lòng tin cho du khách. Thực tế
cho thấy, có những điểm du lịch được giới thiệu như là thiên đường nghỉ
ngơi, trong các ấn phẩm du lịch, sách hướng dẫn du lịch, trên trang web...
nhưng khi du khách đến sân bay, họ đó vấp phải không ít khó chịu như cơ sở
hạ tầng sân bay còn lạc hậu, lái xe taxi tranh giành lừa đảo khách, môi trường
bị ô nhiễm, kinh doanh chộp giật, chất lượng sản phẩm và dịch vụ không
đúng như quảng cáo và nhiều hạn chế khác.
Trong những năm gần đây, một số doanh nghiệp du lịch Việt Nam đó
bắt đầu quan tâm xây dựng và củng cố thương hiệu và thường đầu tư từ 1-5%
doanh thu cho xây dựng và quảng bá thương hiệu. Tuy nhiên, trong quá trình
xây dựng và quảng bá thương hiện của các doanh nghiệp du lịch hiện nay còn
gặp khó khăn nhiều về nhân lực, tài chính, giá dịch vụ, tình trạng vi phạm
bản quyền còng như cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính. Nhiều doanh
nghiệp còng chưa ý thức được vai trò và ý nghĩa quan trọng của thương hiệu
trong hoạt động kinh doanh còng như nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thị trường để thu hút khách du lịch. Do đó, hầu hết các doanh
nghiệp du lịch Việt Nam vẫn đang ở thế yếu về năng lực cạnh tranh thu hút
khách du lịch do thương hiệu của doanh nghiệp chưa được biết đến trên thị
trường khu vực và thế giới.
Để có được một thương hiệu du lịch quốc gia tầm cỡ, ngành Du lịch
Quảng Nam và Đà Nẵng phải đóng vai trò hiệu quả hơn nữa để tạo sự kết
nối giữa các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch và liên quan đến du lịch, từ
đó, vạch ra chiến lược tạo dựng và quảng bá thương hiệu du lịch. Điều quan
trọng nhất hiện nay phải là chấn chỉnh ngay tình trạng bán hàng rong, chèo
kéo khách du lịch hiện đang trở thành vấn nạn phổ biến ở nhiều điểm du lịch.
Đối với Đà Nẵng hiện được coi là một điểm đến an toàn, thân thiện nhưng
như vậy vẫn chưa đủ. An toàn thật sự phải là làm cho khách du lịch cảm giác

191
được tự do, thanh thản và thoải mái ngắm nhìn cảnh quan thiên nhiên đẹp và
khám phá kho tàng văn hoá đa dạng và đặc sắc của thành phố, mà không phải
băn khoăn về những chuyện rắc rối gây ra bởi đội ngũ làm du lịch nghiệp dư
hay những người bán hàng rong, chèo kéo khách. Phải làm thế nào để thúc
đẩy và khích lệ mọi tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch và liên quan đến du
lịch ở địa phương kinh doanh lành mạnh, văn minh và biết tôn trọng khách
du lịch thật sự.
Ngày nay, mọi khu vực hoặc điểm đến du lịch đều có các khách sạn
cao cấp, các điểm du lịch hấp dẫn và đều khẳng định có các di sản văn hoá
độc đáo, có người dân giàu lòng mến khách và có ngành công nghiệp du lịch
quan tâm tới khách du lịch nhất. Dịch vụ và tiện nghi gần như không có sự
khác biệt nhiều. Vì vậy, các điểm đến khác nhau cần tạo ra điều gì đó độc
đáo và khác biệt với tất cả các điểm đến khác. Do đó, trong môi trường cạnh
tranh gay gắt hiện nay, tạo ra sự độc đáo và khác biệt là cần thiết hơn bao giờ
hết. Nó thực sự trở thành cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của một điểm đến
du lịch. Đã đến lúc chúng ta cần tìm ra điểm khác biệt để tạo dựng thương
hiệu cho Du lịch Đà Nẵng và Quảng Nam. Việc tạo ra hình ảnh khác biệt, sẽ
giúp địa phương có sự khác biệt và cạnh tranh được với các địa phương khác
của cả nước.
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu để thu hút khách du lịch, việc xây
dựng một thương hiệu du lịch có ý nghĩa to lớn. Để xây dựng và quảng bá
thành công thương hiệu du lịch Quảng Nam và Đà Nẵng trên thị trường du
lịch trong nước và khu vực, làm cho khách du lịch trên toàn cầu có ấn tượng
đặc biệt về thương hiệu Du lịch Quảng Nam, Đà Nẵng, ngành Du lịch các địa
phương cần thực hiện một số chủ trương và biện pháp sau:
Xây dựng chiến lược thương hiệu du lịch Quảng Nam, Đà Nẵng nằm
trong Chiến lược marketing du lịch Việt Nam.
Xây dựng hình ảnh du lịch của địa phương dựa trên nền tảng văn hoá
và tiềm năng văn hóa, thiên nhiên đa dạng của Quảng Nam và Đà Nẵng để
khẳng định thương hiệu của du lịch.
Thiết lập văn phòng đại diện du lịch ở những thị trường trọng điểm và
tiềm năng và hình thành mạng lưới trung tâm thông tin du lịch tại các thành
phố, trung tâm du lịch lớn ở trong nước để thúc đẩy quảng bá thương hiệu du
lịch.
Thúc đẩy quảng bá thương hiệu du lịch Quảng Nam và Đà Nẵng ở

192
nước ngoài thông qua sự hiện diện thường xuyên của du lịch Việt Nam tại
các hội chợ, hội nghị, hội thảo du lịch quốc tế có tính chuyên nghiệp cao và
sự hợp tác chặt chẽ của Du lịch Việt Nam với hàng không Việt Nam.
Huy động mọi cấp, mọi ngành và mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào
hoạt động tiếp thị, xúc tiến một hình ảnh mới, năng động và đầy sức bật của
Đà Nẵng và Quảng Nam để khẳng định vị thế của thương hiệu du lịch của địa
phương trên thị trường du lịch trong nước, khu vực và toàn cầu./.

Câu hỏi hướng dẫn ôn tập chương 7


1. Hãy nêu các giải pháp quản lý đối với các di tích thắng cảnh phục vụ
du lịch?
2. Hãy nêu các giải pháp chuyên môn đối với các di tích thắng cảnh phục
vụ du lịch?

Tài liệu tham khảo


1. Báo cáo tóm tắt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời
kỳ 1995 – 2010, Tổng cục Du lịch Việt Nam, trang 150 – 153.
2. Nguyễn Ngọc Chinh, Nguyễn Thanh Trường (2019), Di tích và thắng
cảnh ở Việt Nam, Nxb Đà Nẵng.
3. Luật Du lịch năm 2017, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Trần Thị Mai (2006), Giáo trình Tổng quan du lịch, Nxb Lao động – Xã
hội.
5. Vũ Đức Minh (2008), Giáo trình Tổng quan du lịch, Nxb Thống kê.
6. Nguyễn Đình Quang, Trần Thị Thúy Lan (2005), Giáo trình Tổng
quan du lịch, Nxb Hà Nội.
7. Võ Văn Thành (2015), Giáo trình Tổng quan du lịch, Nxb Văn hóa-
Văn nghệ, HCM.
8. Trần Văn Thông (2004), Tổng quan du lịch, TP Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Minh Tuệ (2010), Địa lý du lịch, Nxb TP Hồ Chí Minh.
10. www.danang.gov.vn, Lê Hoa, Du lịch Đà Nẵng 2012 - điểm sáng và
kỳ vọng.

Đà Nẵng, tháng 7 năm 2022. NNC

...............................................................

193

You might also like