You are on page 1of 26

Chủ nghĩa xã hội khoa học

1. Những đặc điểm của GCCN VN trong 2 thời kỳ: XIX - đầu TK XX, nửa sau TK XX - nay (nhiệm
vụ đặc thù mỗi thời kỳ). Sự kiện lịch sử và số liệu mỗi thời kỳ. 1
2. Nguyên nhân vì sao GCCN VN ( XIX – XX ) dù còn non trẻ nhưng vẫn nắm vững vai trò lãnh đạo
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. 3
3. Những đặc điểm mà GCCN VN hiện nay cần đáp ứng để có thể tiếp tục thực hiện SMLS của mình6
4. Phân tích sự biến đổi của GCCN hiện nay so với TK XIX 6
5. Nhận định sau là đúng hay sai: “Với sự phát triển của CNTB, GCCN hiện đại đã dần đánh mất đi
SMLS của mình”? 7
6. Vì sao dù còn non trẻ nhưng GCCN VN vẫn nắm giữ vai trò tiên phong trong cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc? 7
7. Gia đình truyền thống là gì? Giá trị và hạn chế? 8
8. Gia đình hiện đại là gì? Giá trị và hạn chế? 9
9. Nêu những tấm gương điển hình trong việc giáo dục văn hóa gia đình 10
10. Các giá trị văn hóa……bài học kinh nghiệm 10
11. Nêu một số hiện tượng có biểu hiện của sự xem thường vai trò của các thành viên trong gia đình?
Hệ lụy là gì? Cần lên án những vấn đề này như thế nào? 11
12. Tiêu chí đánh giá gia đình văn hóa 13
13. Liệt kê những sự kiện thể hiện sự tranh cãi giữa luồn văn hóa vô sản và luồn văn hóa tư sản 14
14. Phân tích tính tất yếu khách quan và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nêu ví dụ
cụ thể. 16
15. Phân tích những đặc trưng của CNXH ở VN. Xây dựng kế hoạch cụ thể đối với bản thân nhằm
góp phần hiện thực hóa các đặc trưng trên. 17
16. Thông qua việc so sánh nền dân chủ vô sản với nền dân chủ tư sản, hãy rút ra tính toàn diện của
nền dân chủ này. Liên hệ với trách nhiệm của bản thân đối với quá trình phát huy dân chủ ở VN hiện
nay. 19
1. Điểm giống nhau giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản 19
2. Phân biệt/ Điểm khác nhau giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản 20
17. Phân tích bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nêu ví dụ cụ thể. Sinh viên cần
làm gì để thực hiện tốt 2 cơ chế thực hiện dân chủ ở VN hiện nay. (Tr.152) 21
18. Đặc điểm trong mối quan hệ giữa các dân tộc ở VN tạo ra những thuận lợi và thách thức gì đối với
quá trình xây dựng và phát triển đất nước. 21
19. Liên hệ với trách nhiệm của bản thân trong việc thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam. 23
20. Vì sao tôn giáo vẫn tiếp tục tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội? Phân tích và lấy ví
dụ làm rõ các nguyên tắc cần phải tuân thủ khi giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên
CNXH. 24
1. Những đặc điểm của GCCN VN trong 2 thời kỳ: XIX - đầu TK XX, nửa sau TK
XX - nay (nhiệm vụ đặc thù mỗi thời kỳ). Sự kiện lịch sử và số liệu mỗi thời kỳ.
1.1. GCCN thời kỳ XIX - đầu TK XX
Tại Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta đã xác định:
“Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm
những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất
kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có tính chất công
nghiệp”. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với chính sách khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Giai cấp công nhân Việt Nam mang những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Ra đời trước giai cấp tư sản vào đầu thế kỷ XX, là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư
bản thực dân Pháp và bè lũ tay sai của chúng. Giai cấp công nhân Việt Nam phát triển
chậm vì nó sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới ách thống
trị của thực dân Pháp.
- Trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp, trong cuộc đấu tranh chống tư bản thực
dân đế quốc và phong kiến để giành độc lập chủ quyền, xóa bỏ ách bóc lột và thống
trị thực dân, giai cấp công nhân đã tự thể hiện mình là lực lượng chính trị tiên phong
để lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải quyết mâu thuẫn cơ bản giữa dân
tộc Việt Nam với đế quốc thực dân và phong kiến thống trị, mở đường cho sự phát
triển của dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản. Giai cấp công nhân Việt Nam
không chỉ thể hiện đặc tính cách mạng của mình ở ý thức giai cấp và lập trường chính
trị mà còn thể hiện tinh thần dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó mật thiết
với nhân dân, với dân tộc có truyền thống yêu nước, đoàn kết và bất khuất chống xâm
lược.
Tuy số lượng giai cấp công nhân Việt Nam khi ra đời còn ít, những đặc tính của công
nhân với tư cách là sản phẩm của đại công nghiệp chưa thật sự đầy đủ, lại sinh trưởng trong
một xã hội nông nghiệp còn mang nhiều tàn dư của tâm lý tiểu nông nhưng giai cấp công
nhân Việt Nam sớm được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng chống thực dân đế quốc nên
đã trưởng thành nhanh chóng về ý thức chính trị của giai cấp, sớm giác ngộ lý tưởng, mục
tiêu cách mạng, tức là giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình, nhất là từ khi Đảng ra
đời. Lịch sử đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và của Đảng cũng như phong trào
công nhân Việt Nam do Đảng lãnh đạo gắn liền với lịch sử và truyền thống đấu tranh của dân
tộc, nổi bật ở truyền thống yêu nước và đoàn kết đã cho thấy giai cấp công nhân Việt Nam
trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, với Đảng Cộng sản, với lý tưởng, mục tiêu cách
mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để
và là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản.
Giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó mật thiết với các tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích dân tộc gắn chặt với nhau, tạo thành động lực thúc
đẩy đoàn kết giai cấp gắn liền với đoàn kết dân tộc trong mọi thời kỳ đấu tranh cách mạng, từ
cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Đại bộ phận công nhân Việt Nam xuất thân từ nông dân và các tầng lớp lao động khác, cùng
chung lợi ích, cùng chung nguyện vọng và khát vọng đấu tranh cho độc lập tự do, để giải

1
phóng dân tộc và phát triển dân tộc Việt Nam, hướng đích tới chủ nghĩa xã hội nên giai cấp
công nhân Việt Nam có mối liên hệ tự nhiên, chặt chẽ với giai cấp nông dân và các tầng lớp
lao động trong xã hội. Đặc điểm này tạo ra thuận lợi để giai cấp công nhân xây dựng khối
liên minh giai cấp với giai cấp nông dân, với đội ngũ trí thức làm nòng cốt trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Đó cũng là cơ sở xã hội rộng lớn để thực hiện các nhiệm vụ cách mạng
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, trước đây cũng Như vậy ở thời kì
này GCCNVN đã thực hiện nhiệm chủ chốt đó là giải phóng dân tộc , giúp đất nước thoát
khỏi chế độ phong kiến, áp bức bóc lột.
1.2. Số liệu minh chứng thời kỳ XIX- đầu TK XX
Theo số liệu thống kê trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tổng số công nhân của
Việt Nam khoảng trên 10 vạn người, chủ yếu tập trung ở một số thành phố lớn như: Hà Nội,
Sài Gòn - Chợ Lớn, Hải Phòng và vùng mỏ Quảng Ninh… Sau chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, để bù đắp những tổn thất, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
hai với quy mô và tốc độ lớn hơn trước. Chúng tăng cường đầu tư vào các ngành khai
khoáng, giao thông vận tải, đồn điền, công nghiệp chế biến, dệt may...nhằm tăng cường vơ
vét và bóc lột ở các nước thuộc địa. Thời kỳ này, số lượng công nhân Việt Nam đã phát triển
nhanh chóng lên đến trên 22 vạn người vào đầu năm 1929. Dưới sự áp bức bóc lột hà khắc
của thực dân, phong kiến, giai cấp công nhân Việt Nam đã đoàn kết, tổ chức tập hợp nhau lại
đấu tranh đòi quyền lợi, dẫn đến hình thành các Hội Ái hữu, Hội Tương tế trong các nhà máy,
xí nghiệp.
Nhận xét, ban đầu, khi mới có sự xuất hiện của GCCN, tổ chức chỉ có 10 vạn công
nhân (một số lượng khá ít để có thể lãnh đạo, truyền bá, hoạt động trên khắp cả nước) nhưng
đến thời điểm sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp do đã suy kiệt về kinh tế -vật chất, kèm
theo Pháp đã gánh chịu hậu quả sau chiến tranh nặng nề, chúng quay lại nước ta để vơ vét,
bóc lột nhân dân ta để hàn gắn vết thương chiến tranh, nhất là việc cướp ruộng đất của nông
dân, họ phải tìm đến các nơi có các hầm mỏ, nhà máy và trở thành những công nhân. Năm
1929, GCCN đã lên đến 22 vạn người (tức tăng 12 vạn người trong khoảng thời gian ngắn)
điều đó cho thấy rằng, dưới sự bóc lột, vơ vét ngày càng nặng nề hơn, giai cấp công nhân
ngày càng lớn mạnh về mặt số lượng, sự đoàn kết và tổ chức. Đồng thời cũng đặt ra một yêu
cầu cấp thiết lúc bấy giờ, là phải có một tổ chức chính trị để lãnh đạo giai cấp công nhân
đứng lên đấu tranh cách mạng.
1.3. GCCN VN thời kỳ nửa sau TK XX- đến nay:
Ngày nay, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, những đặc điểm đó của giai cấp
công nhân đã có những biến đổi do tác động của tình hình kinh tế - xã hội trong nước và
những tác động của tình hình quốc tế và thế giới. Bản thân giai cấp công nhân Việt Nam cũng
có những biến đổi từ cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, trình độ học vấn và tay nghề bậc thợ, đến
đời sống, lối sống, tâm lý ý thức. Đội tiên phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản đã
có một quá trình trưởng thành, trở thành Đảng cầm quyền, duy nhất cầm quyền ở Việt Nam,
đang nỗ lực tự đổi mới, tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, làm cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ.
Có thể nói tới những biến đổi đó trên những nét chính sau đây:

2
- Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đã tăng nhanh về số lượng và chất lượng, là
giai cấp đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên và môi trường.
- Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đa dạng về cơ cấu nghề nghiệp, có mặt trong
mọi thành phần kinh tế nhưng đội ngũ công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước là
tiêu biểu, đóng vai trò nòng cốt, chủ đạo.
- Công nhân tri thức, nắm vững khoa học - công nghệ tiên tiến, và công nhân trẻ được
đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp, học vấn, văn hóa, được rèn luyện trong thực
tiễn sản xuất và thực tiễn xã hội, là lực lượng chủ đạo trong cơ cấu giai cấp công
nhân, trong lao động và phong trào công đoàn.
Trong môi trường kinh tế - xã hội đổi mới, trong đà phát triển mạnh mẽ của cách mạng
công nghiệp lần thứ 4, giai cấp công nhân Việt Nam đứng trước thời cơ phát triển và những
thách thức nguy cơ trong phát triển.
- Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong bối cảnh hiện
nay, cùng với việc xây dựng, phát triển giai cấp công nhân lớn mạnh, hiện đại, phải
đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng lãnh đạo, cầm
quyền thực sự trong sạch vững mạnh. Đó là điểm then chốt để thực hiện thành công
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở Việt Nam.
GCCNVN ở giai đoạn này đã mang nhiệm vụ cao cả đó là xây dựng và phát triển đất
nước ngày một phát triển tiến lên theo định hướng XHCN.
1.4. Ví dụ minh chứng thời kì nửa sau TK XX- đến nay
Sau hơn 30 năm đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh cả về
số lượng và chất lượng, đang có mặt trong tất cả các ngành nghề, các thành phần kinh tế, là
lực lượng quan trọng, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Với đội ngũ chiếm
khoảng 14% dân số và 27% lực lượng lao động xã hội, hằng năm, giai cấp công nhân đã tạo
ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% ngân sách nhà nước. Trên khắp các lĩnh
vực đã xuất hiện nhiều tấm gương điển hình tiên tiến, công nhân, viên chức, lao động đi đầu
và thành công trong lao động sản xuất kinh doanh.
Nhận xét, GCCN đã có những bước tiến nhảy vọt, sau hơn 30 năm đổi mới GCCN đã
có sự thay đổi lớn về số lượng cũng như chất lượng, đang có mặt trên tất cả các ngành nghề,
đây chính là bước tiến đầy phát triển từng bước đưa đất nước đến gần với công cuộc xây
dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. GCCNVN đã từng bước khẳng định được vị thế trong xã
hội, góp phần vào việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường của đất nước.

2. Nguyên nhân vì sao GCCN VN ( XIX – XX ) dù còn non trẻ nhưng vẫn nắm
vững vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam với chính sách khai thác thuộc địa
của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước cả sự có
mặt của giai cấp tư sản Việt Nam và là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp.
Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống trị của đế quốc Pháp,
một thứ chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm đến phát triển công nghiệp ở nước thuộc
địa, nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm. Mặc dù số lượng ít, trình độ nghề
nghiệp thấp, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân, song giai cấp công

3
nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng ở nước ta do
những điều kiện sau:
2.1. Điều kiện chủ quan
Giác ngộ tư tưởng giai cấp, giai cấp công nhân Việt Nam sớm được tôi luyện trong đấu
tranh cách mạng chống thực dân, đế quốc nên đã trưởng thành nhanh chóng về ý thức chính
trị giai cấp, sớm giác ngộ lý tưởng, mục tiêu cách mạng, giác ngộ sứ mệnh lịch sử giai cấp
nhất.
Tháng 6 năm 1925, trên cơ sở hạt nhân là Cộng Sản Đoàn, Nguyễn Ái Quốc đã thành
lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên là bước đệm, là tiền thân của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Mục đích của Hội là lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản. Cuối
1925, mở lớp huấn luyện Chính trị tại Quảng Châu, Trung Quốc để truyền bá chủ nghĩa Cộng
sản. Cuối 1925 đến 4/1927, huấn luyện 75 học viên rồi cử về nước hoạt động, tuyên truyền
Chủ nghĩa Mác-Lênin, CMVN sang CMVS. 1928-1929, phong trào vô sản hóa, đưa học viên
vào hầm mỏ, đồn điền, nhà máy để nâng cao lập trường giai cấp công nhân, truyền bá lý luận
Mác-Lênin, đường lối cách mạng đúng đắn và phong trào công nhân, giác ngộ, tổ chức họ
đấu tranh CM tự giác. Giữa 1929, giai đoạn hoàn thành SMLS của mình. Chương trình là:
Tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, lập các đoàn thể quần chúng; huy động lực lượng quần
chúng đập tan bọn thực dân Pháp, giành lấy chính quyền khi có cơ hội tốt; lập chính phủ
công, nông, binh; thực hiện chính sách kinh tế mới; bãi bỏ tư bản tư nhân; đoàn kết vô sản
quốc tế và lập xã hội cộng sản. Vai trò của Hội: Đào tạo đội ngũ cán bộ cách mạng đông đảo
từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản. Góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin,
thúc đẩy phong trào công nhân, phong trào yêu nước phát triển. Sự ra đời của Hội đánh dấu
cột mốc lần đầu ở Việt Nam xuất hiện một tổ chức theo khuynh hướng vô sản. Là một bước
quá độ nhằm chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản sau này.
Đảng Cộng Sản, cuối năm 1929, Việt Nam xuất hiện ba Đảng hoạt động độc lập nhau,
những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết
và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong
trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất
Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930. Hội nghị đã quyết
định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng,
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ
niệm thành lập Đảng. Từ đó Đảng chính thức lãnh đạo con đường CM tại VN. Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự
khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối
với cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của Nhân dân Việt Nam, là sự
kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. ĐCS – Đội tiên
phong của giai cấp công nhân ra đời 3/2/1930 và đảm nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng,
chuyển cách mạng nước ta từ tự phát sang tự giác. Khi Đảng Cộng sản ra đời, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, giai cấp công nhân nhận thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, sứ
mệnh lịch sử của mình, hiểu được con đường, biện pháp đấu tranh cách mạng. Đảng Cộng
sản đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc và xã hội. Sức mạnh
của Đảng không chỉ thể hiện ở bản chất giai cấp công nhân mà còn ở mối liên hệ mật thiết

4
giữa Đảng với nhân dân, với quần chúng lao động đông đảo trong xã hội, thực hiện cuộc cách
mạng do Đảng lãnh đạo để giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Lịch sử đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân và của Đảng cũng như phong trào công nhân VN do Đảng lãnh
đạo gắn liền với lịch sử và truyền thống đấu tranh dân tộc, nổi bật ở truyền thống yêu nước đã
cho thấy giai cấp công nhân Việt Nam trung thành với chủ nghĩa Mác- Lênin, với Đảng, với
lý tưởng, mục tiêu cách mạng, thể hiện được vai trò lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên
phong là Đảng Cộng sản.
Liên minh giai cấp, Giai cấp công nhân Việt Nam có đại bộ phận xuất thân từ nông dân
và những tầng lớp lao động khác, nên có mối liên hệ tự nhiên với đông đảo nhân dân lao
động bị mất nước, sống nô lệ nên cũng là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân xây dựng
nên khối liên minh công nông vững chắc và khối đoàn kết dân tộc rộng rãi đảm bảo cho sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng ở nước ta. Sinh ra trong lòng
một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. Nỗi nhục mất nước cùng
nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích
dân tộc kết hợp thành một, khiến cho động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và tinh thần
yêu nước của khối liên minh giai cấp nước ta tăng lên gấp bội.
2.2. Điều kiện khách quan:
Giai cấp công nhân có kinh nghiệm liên kết với các giai cấp khác, Giai cấp công nhân
Việt Nam gắn bó mật thiết với các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Lợi ích của giai cấp công
nhân và lợi ích dân tộc gắn chặt với nhau, tạo thành động lực thúc đẩy đoàn kết giai cấp gắn
liền đoàn kết dân tộc trong mọi thời kỳ đấu tranh cách mạng.
Hệ tư tưởng độc lập, giai cấp công nhân có hệ tư tưởng độc lập, được trang bị bởi lý
luận tiền phong là chủ nghĩa Mác- Lênin và là lực lượng đi đầu trong mọi phong trào cách
mạng, có đội tiền phong là Đảng Cộng sản dẫn dắt, xoá bỏ áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội
mới tiến bộ vì hạnh phúc của con người.
Có tính cách mạng triệt để nhất, Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để
nhất bởi vì:
- Thứ nhất họ phải chịu ba tầng áp bức bóc lột (tư bản thực dân Pháp, phong kiến và
phản động) mà trong đó lợi ích của họ mâu thuẫn trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư
sản. Lợi ích của giai cấp công nhân chỉ thực sự được đảm bảo khi xóa bỏ triệt để chế
độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và các hình thức tư hữu khác. Trong điều kiện của
chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ được giải phóng khi đồng thời giải phóng
toàn xã hội khỏi mọi sự áp bức, bóc lột.
- Thứ hai, giai cấp công nhân họ có tinh thần đấu tranh đến nơi đến chốn, đến khi nào
xóa bỏ hoàn toàn các chế độ người bóc lột người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng
GCCN, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng
xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh mới thôi, chứ không dừng lại ở mức đạt được lợi
ích cho giai cấp mình như tư sản và phong kiến.
Có tính tổ chức, kỷ luật cao, giai cấp công nhân là một sản phẩm của nền đại công
nghiệp, được rèn luyện và hòa nhập vào một môi trường hết sức nghiêm khắc, kỷ luật nghiêm
ngặt, đi cùng với nền công nghiệp ngày càng hiện đại đòi hỏi giai cấp công nhân cũng phải
thích nghi và phát triển theo, có ý thức về tổ chức kỷ luật đạt ở mức cao nhất.
Mang bản chất quốc tế sâu sắc, nội dung, nguyên tắc cơ bản, hàng đầu của chủ nghĩa
quốc tế đó chính là sự đoàn kết, liên minh lại với nhau, cùng chung một hệ ý chí và tư tưởng

5
của giai cấp công nhân. Trên phạm vi toàn thế giới, địa vị xã hội của giai cấp công nhân là
giống nhau. Có thể khẳng định giai cấp công nhân cũng như giai cấp vô sản mang bản chất
quốc tế.
Mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam, các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc
bấy giờ đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực
dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa Nhân dân,
chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản
vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể Nhân
dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa
nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược,
giành độc lập cho dân tộc, tự do cho Nhân dân. Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành
quyền dân chủ cho Nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc,
giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong
kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước
theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX
với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng
này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi
nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo
cũng bị thất bại. Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối
truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử.
Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào
đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường
lối cứu nước. Từ đó có thể khẳng định rằng, chỉ có giai cấp công nhân với con đường cách
mạng vô sản mới có thể lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

3. Những đặc điểm mà GCCN VN hiện nay cần đáp ứng để có thể tiếp tục thực
hiện SMLS của mình
Một là, không những phát triển về mặt số lượng mà còn phải chú trọng vào mặt chất
lượng và tổ chức; bản lĩnh chính trị và trình độ học vấn. Hai là, có ý thức công dân, yêu
nước, yêu CNXH, nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế
giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp
tác quốc tế; được tri thức hóa: trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng, nghề nghiệp cao; khả
năng tiếp cận và làm chủ khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại; thích ứng nhanh với cơ chế
thị trường và hội nhập quốc tế;.. tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động thích ứng với thời
kỳ hiện đại và nhất là với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

4. Phân tích sự biến đổi của GCCN hiện nay so với TK XIX
- Về nguồn gốc xuất thân:
Giai cấp công nhân thời Mác là giai cấp lao động, làm thuê, bị bóc lột về xuất thân chủ
yếu từ nông thôn. Nhưng từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây, xu thế đô thị hoá và
đông đảo cư dân đô thị đã bổ sung một lượng lớn vào nguồn nhân lực của giai cấp công nhân.

6
Yếu tố Giai cấp công nhân thế kỷ XIX Giai cấp công nhân hiện nay

Mức độ bóc Cao, chủ yếu làm việc trong điều Thấp hơn, có nhiều chính sách bảo
lột giá trị kiện làm việc cực kỳ khắc nghiệt, vệ lao động, trả lương tương xứng
thặng dư tiêu tốn sức lao động nặng nhọc và với mức độ lao động và được đảm
không được trả lương tương xứng. bảo quyền lợi.

Phương thức Chủ yếu là lao động thủ công, đơn Đa dạng hơn, sử dụng công nghệ và
lao động giản, nặng nhọc, thường làm việc máy móc để hỗ trợ công việc, giảm
trong những điều kiện không an thiểu tối đa sức lao động nặng nhọc
toàn. và tăng hiệu quả sản xuất.

Cơ cấu ngành Chủ yếu là các ngành nghề chế tạo Đa dạng hơn, có nhiều ngành nghề
nghề và sản xuất, nhưng rất ít ngành dịch vụ, khoa học kỹ thuật và công
nghề dịch vụ và khoa học kỹ thuật. nghệ cao.

Đời sống Khó khăn, sống trong những điều Cải thiện hơn, đời sống tốt hơn với
kiện kém vệ sinh, thiếu thốn thức nhiều tiện nghi và điều kiện sống vệ
ăn, nước uống và điều kiện y tế sinh hơn.
kém.

Nhân quyền Không được đảm bảo quyền lợi cơ Được đảm bảo các quyền cơ bản,
và quyền lợi bản như quyền tự do cá nhân, bao gồm
quyền lao động và quyền công dân.

5. Nhận định sau là đúng hay sai: “Với sự phát triển của CNTB, GCCN hiện đại đã
dần đánh mất đi SMLS của mình”?
Sai, vì (sgk T68) và:
Sự thực không phải như vậy. Bởi, sự vận động tất yếu của lịch sử thế giới một phần tư
thế kỷ qua chính là bằng chứng chân thực để phủ nhận những tuyên bố đó. Chủ nghĩa xã hội
hiện thực vẫn luôn tồn tại, phát triển trong cải cách, đổi mới; giai cấp công nhân vẫn không
ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng và khẳng định vai trò sứ mệnh lịch sử của họ.
Dẫn chứng: Hiện nay, cả nước có khoảng 10 triệu công nhân, tạo ra 60% tổng sản phẩm
xã hội, hơn 70% ngân sách cả nước. Giai cấp công nhân là đại diện cho phương thức sản xuất
tiên tiến, tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và là lực lượng nòng cốt
trong khối liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn, là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông
qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; Công đoàn là tổ chức trực tiếp vừa đại diện,
vừa bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.

6. Vì sao dù còn non trẻ nhưng GCCN VN vẫn nắm giữ vai trò tiên phong trong
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc?
(Tr.74)
Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: Kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức,
có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế

7
độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một
tư tưởng cách mạng nhất, tức là Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ
ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành
động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo.
Có người nói: Giai cấp công nhân Việt Nam số người còn ít, không lãnh đạo được cách
mạng.
Nói vậy không đúng. Lãnh đạo được hay là không, là do đặc tính cách mạng, chứ
không phải do số người nhiều ít của giai cấp. Giai cấp công nhân có Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo Chủ nghĩa Mác-Lênin là Đảng Lao
động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp
nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có
những phần tử trí thức tham gia cách mạng và vô sản hóa. Thành thử đội ngũ chính trị của
giai cấp công nhân ngày càng phát triển. Mai sau, công nghệ của ta ngày càng phát triển, thì
số công nhân ngày càng tăng thêm.
Tuy hiện nay ở nước ta giai cấp công nhân còn nhỏ, song ở thế giới thì giai cấp công
nhân rất to lớn. Cho nên quyền lãnh đạo cách mạng chỉ do giai cấp công nhân nắm".

7. Gia đình truyền thống là gì? Giá trị và hạn chế?


Gia đình truyền thống Việt Nam là sản phẩm của nền văn minh lúa nước và tồn tại ở địa
bàn nông thôn. Gia đình truyền thống có đặc điểm trước hết là đại gia đình mà các thành viên
liên kết với nhau bằng chuỗi quan hệ huyết thống. Trong gia đình này có thể cùng chung sống
từ 3 thế hệ trở lên: ông bà – cha mẹ - cái mà người ta quen gọi là “tam, tứ, ngũ đại đồng
đường”. Một số đặc điểm khác như phụ mẫu (con mang họ cha, chồng/cha là trụ cột trong gia
đình), cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, theo tôn ti trật tự, gia đạo, lễ nghĩa,…
Giá trị của gia đình truyền thống:
- Gia đình là nơi mà sẽ tạo cho các thành viên trong gia đình một môi trường sống ổn
định, an toàn và được dạy dỗ khuyên bảo thường xuyên bởi các thế hệ đi trước để các
thể sau có thể phát triển và hưởng thụ cuộc sống một cách tốt nhất.
- Được chăm sóc một cách đầy đủ từ các thành viên khác trong gia đình.
- Các thành viên trong gia đình thường xuyên dùng bữa cùng nhau, trò chuyện với nhau
những khó khăn trong cuộc sống, do vậy họ có một mối quan hệ khắn khít hơn.
- Các trẻ con trong gia đình truyền được truyền đạt về văn hóa, truyền thống, tôn giáo,
đạo đức và phẩm chất tốt đẹp, giúp cho các em hiểu được sự quan tâm và trách nhiệm
đến gia đình và xã hội
- Các thành viên trong gia đình sẽ dễ giúp đỡ nhau hơn khi họ sống chung, sống gần
nhau.
- Bảo tồn, lưu giữ được các truyền thống, tập tục, nghi lễ, phát huy tốt các gia phong,
gia lễ, gia đạo.

Hạn chế của gia đình truyền thống:


- Gia đình truyền thống sẽ mang theo nhiều những quy tắc, giá trị cũ, tuy có mặc tốt
nhưng cũng có mặt không tốt, bảo thủ, cực đoan, cấm đoán những thành viên trong
gia đình sẽ không thể sống đúng ý mình mong muốn, phải sống theo những quy tắc,
chuẩn mực mà gia đình đưa ra.

8
- Khi mà luôn tuân theo những quy tắc như vậy, sẽ hạn chế sự phát triển tự do của mỗi
người.
- Gia đình truyền thống cũng có những xung đột ngoài ý muốn, hơn thế nữa là xung đột
cực kỳ căng thẳng khi mọi người không thể hiểu cho nhau hơn, khi mọi người cứ ép
buộc nhau.
- Sự khác biệt về tuổi tác, tâm lý, lối sống, thói quen cũng sẽ gây ra mâu thuẫn giữa các
thế hệ nhiều hơn.
=> Trong điều kiện xã hội hiện đại “1 ngày bằng 20 năm” loại gia đình truyền thống như
thiếu cơ động và chậm thích ứng. Điều này giải thích tại sao số lượng gia đình truyền thống
kiểu đại gia đình giảm đáng kể và không còn là khuôn mẫu của gia đình ngày nay.

8. Gia đình hiện đại là gì? Giá trị và hạn chế?


Gia đình hiện đại: theo những hộ gia đình ở Việt Nam thường sẽ là những gia đình hạt
nhân trong đó có một cặp vợ chồng và con cái mà họ sinh ra, nhưng nếu hiểu rộng ra thì gia
đình hiện đại là một phong cách sống gia đình hiện nay, nơi có những sự thay đổi trong vai
trò và các mối quan hệ trong gia đình. Gia đình hiện đại bao gồm bố mẹ đơn thân, gia đình
cùng giới tính, gia đình nuôi dạy bởi những chăm sóc khác hoặc các loại gia đình không có
đặc trưng. Gia đình hiện đại sẽ có xu hướng tập trung vào tình cảm và quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình, thay vì truyền thống và vai trò định nghĩa rõ ràng hơn.
Giá trị của gia đình hiện đại:
- Tồn tại như một đơn vị độc lập, gọn nhẹ, linh hoạt và có khả năng thích ứng nhanh
với các biến đổi của xã hội.
- Có sự độc lập về quan hệ kinh tế.
- Tạo cho mỗi thành viên trong gia đình khoảng không gian tự do tương đối lớn để phát
triển tự do cá nhân.
- Cá nhân tính được đề cao.
- Tuy không giống với gia đình truyền thống nhưng được đánh giá cao bởi tình cảm và
yêu thương giữa các thành viên.
Hạn chế của gia đình hiện đại:
- Gia đình hiện đại thường sẽ không ổn định bằng gia đình truyền thống, việc chia tay
hay ly hôn không quá hiếm gặp.
- Cảm thấy cô đơn, không có mức độ liên kết giữa các thành viên trong gia đình giảm.
- Khả năng hỗ trợ lẫn nhau về vật chất và tinh thần bị hạn chế
- Làm giảm khả năng bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống trong gia đình.
=> Gia đình hiện đại tuy nhiên ở nước ta gia đình hạt nhân vẫn là loại hình khá phổ biến và
đó cũng là loại hình thịnh hành trong các xã hội công nghiệp – đô thị phát triển. Có nghĩa –
đó cũng là kiểu gia đình của tương lai.
=> Dù là gia đình truyền thống hay hiện đại, gia đình là một tế bào của xã hội, là một nhóm
xã hội cơ sở kiến tạo nên xã hội rộng lớn. Do đó, sự trường tồn của một quốc gia, dân tộc phụ
thuộc rất nhiều vào sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình. Gia đình phải là xuất phát điểm
và trở về của mọi chính sách xã hội.

9
9. Nêu những tấm gương điển hình trong việc giáo dục văn hóa gia đình
Định nghĩa văn hóa gia đình: là hệ thống những giá trị, chuẩn mực đặc thù điều tiết mối
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và giữa gia đình với xã hội, phản ánh bản chất của
các hình thái gia đình đặc trưng cho các cộng đồng, các tộc người được hình thành và phát
triển qua lịch sử lâu dài của đời sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế,
môi trường tự nhiên và xã hội. Gọi nôm na là nếp nhà hoặc gia phong, là văn hóa cách ứng
xử giữa các thành viên trong gia đình với nhau và giữa gia đình với xã hội.
Tấm gương điển hình trong việc giáo dục văn hóa gia đình: (tất cả những tấm gương
sau đều được tuyên dương gia đình văn hóa)
Gia đình thầy giáo Ưu tú Nguyễn Hải Đường ở thôn Bùi, thị trấn Thứa, huyện Lương
Tài, tỉnh Bắc Ninh: Gia đình thầy có 3 thế hệ gồm 64 thành viên. Gia đình hiện có 2 thạc sỹ,
34 người trình độ đại học và có 4 người có 2 bằng đại học. Trong những dịp đoàn tụ gia đình,
trước toàn thể con cháu nội ngoại, thầy thường có một bài phát biểu nói về truyền thống, nền
nếp gia đình và căn dặn mỗi thành viên phải luôn có ý thức tu dưỡng đạo đức, sống lành
mạnh, ăn ở hài hòa, cư xử đúng đạo lý, biết tôn trọng người khác.
Gia đình anh Đào Minh Dũng và chị Hoàng Thị Thu ở địa chỉ 54/11 Nguyễn Tri
Phương, thành phố Vũng Tàu: anh chị có chia sẻ: “Trong quan hệ vợ chồng điều nhất thiết là
phải luôn tôn trọng nhau”. Trong việc giáo dục con cái thì chị Hà quan niệm: “Không nên áp
đặt, bắt ép con mà phải coi con như người bạn, thủ thỉ tâm sự những việc nên làm, việc không
nên làm để con hiểu và thực hiện. Hãy rèn luyện tính độc lập, tự giác cho con ngay từ bé và
bản thân bố mẹ cũng phải luôn gương mẫu để con cái học tập, noi theo”.
Gia đình ông Thạch Văn Chụp và bà Phạm Thị Nam, thôn Bình, xã Quảng Nham,
huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa (Công ty TNHH Nước mắm Cự Nham): Ông chia sẻ:
mọi chuyện vui buồn tôi cùng vợ và các con cháu đều gặp gỡ, chia sẻ, để tìm tiếng nói chung
và cùng nhau vun vén cho cuộc sống gia đình êm ấm, thuận hòa. Để xây dựng được một gia
đình hạnh phúc, yên ấm, thì mỗi thành viên trong gia đình phải luôn thấu hiểu, chia sẻ tâm tư,
tình cảm với nhau. Đặc biệt, người làm cha mẹ trong gia đình phải luôn mẫu mực từ lời ăn,
tiếng nói đến những việc làm của mình để từ đó con cháu mới noi gương học tập, làm theo.

10. Các giá trị văn hóa……bài học kinh nghiệm


Tại Hội thảo quốc gia “Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn
mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới” ngày 29/11/2022 diễn ra phiên thảo luận thứ
nhất do GS.TS Tạ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương chủ
trì, điều hành với chủ đề “Hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ
mới”.
PGS.TS Đặng Thị Hoa cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, nhiều giá trị gia đình đã và đang
biến đổi. Trước hết là các biến đổi giá trị trong hôn nhân, giá trị trong các mối quan hệ của
gia đình, giá trị nội tâm và tâm linh, tín ngưỡng... Đồng thời, gia đình Việt Nam cũng đang
tiếp nhận những giá trị mới. Trong các giá trị mới, giá trị vay mượn, có những yếu tố sáng tạo
để tạo ra các giá trị mới như việc mở rộng không gian giao tiếp của gia đình dựa vào các công
nghệ, thiết bị hiện đại. Việc mở rộng các ngôn ngữ giao tiếp cũng làm mới hơn các mối quan
hệ trong gia đình. Bên cạnh duy trì các nghi lễ mang tính lễ giáo truyền thống, các thể thức
nghi lễ mới cũng xuất hiện làm phong phú hơn đời sống của gia đình, lan tỏa hơn các giá trị

10
sống trong thời kỳ hiện đại. Mặc dù vậy, các giá trị truyền thống của gia đình vẫn luôn được
gìn giữ, làm đa dạng hơn bản sắc đa văn hóa của gia đình Việt Nam

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế Phan Ngọc Thọ chia sẻ: Thừa Thiên Huế là
vùng đất hiện đang giữ gìn được hệ giá trị văn hoá tốt đẹp của gia đình truyền thống trong đời
sống gia đình và xã hội. Những giá trị này đang từng ngày được bảo tồn và phát huy cùng với
các giá trị văn hoá gia đình hiện đại. Nếu như ở gia đình Huế thời trước, người ta thường đòi
hỏi sự phục tùng tuyệt đối của con cái đối với cha mẹ, đề cao sự tôn kính tổ tiên, hiếu thảo
với cha mẹ, thuỷ chung giữa vợ chồng, hướng về cội nguồn quá khứ, thì trong các gia đình
ngày nay lại có xu hướng vươn tới cái mới, cái luôn thay đổi, đề cao lợi ích, hạnh phúc,
nguyện vọng và tính độc lập của mỗi cá nhân, vợ chồng lấy tình yêu làm cơ sở, dân chủ bàn
bạc trong mọi việc, tôn trọng ý kiến con cái.
=> Tổng kết: như vậy, các giá trị văn hóa gia đình Việt Nam hiện nay, đang được xây dựng và
phát huy trên nền tảng của các giá trị văn hóa truyền thống lâu đời, và tiếp thu, học hỏi những
giá trị văn văn hóa của quốc tế, hiện đại hơn.
Tuy vậy, vẫn còn những gia đình tồn tại những hạn chế về việc giữ các quan niệm cổ hữu
ngày xưa: trọng nam khinh nữ, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, v. v. .v. Hay dung nạp nhưng văn
hóa không đi đúng thuần phong mỹ tục Việt Nam: sống thử, đề cao hạnh phúc cá nhân: hở cái
là li dị, v.v. hay xuất hiện nhiều hiện tượng không tốt: ngoại tình, bạo lực gia đình, trầm cảm
sau sinh dẫn đến tự tử và xuất hiện những khoảng cách thế hệh

Bài học kinh nghiệm: (chèn hình ảnh thôi, kh ghi ndung này vào slide)
hiện đất nước Việt Nam đang trên con đường hội nhập quốc tế, vì thế những điều mới là
không tránh khỏi, phải loại bỏ tư tưởng cứng nhắc, cổ hữu, cố chấp giữ những truyền thống
văn hóa không còn phù hợp
Tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa mới, tránh hòa tan, tránh và học những văn hóa
không phù hợp với bản sắc dân tộc, những văn hóa độc hại
để người dân có thể thực hiện 2 điều vừa nói trên thì vai trò lãnh đạo của Đảng cần được đẩy
mạnh qua việc nâng cao công tác tuyên truyền nhận thức, các phong trào, công tác thi đua,
danh hiệu cho các gia đình văn minh, văn hóa các tiêu chí để đạt danh hiệu cần phù hợp với
tình hình xã hội
Cần thiết phải có những giải pháp triệt để hơn nhằm thay đổi nhận thức xã hội về bạo lực gia
đình, tăng cường công tác bảo vệ và giúp đỡ nạn nhân…
Tăng cường giáo dục, tạo dựng quan niệm bình đẳng giữa con trai và con gái trong trách
nhiệm chăm sóc cha mẹ già. Có các hình thức thích hợp nâng cao kiến thức và kỹ năng của
cha mẹ trong việc giáo dục con cái nhằm hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hành vi bạo lực của cha
mẹ đối với trẻ em.

11. Nêu một số hiện tượng có biểu hiện của sự xem thường vai trò của các thành viên
trong gia đình? Hệ lụy là gì? Cần lên án những vấn đề này như thế nào?
Vai trò của các thành viên trong gia đình:
Trong xã hội gia trưởng truyền thống, người cha đảm nhận vai trò là người cung cấp và
ra quyết định cuối cùng, trong khi người mẹ chăm sóc con cái và xử lý các công việc nội trợ
hàng ngày của gia đình. Trách nhiệm của trẻ em thay đổi khi chúng lớn lên, với các anh chị

11
em lớn tuổi thường được kỳ vọng sẽ đảm nhận vai trò lãnh đạo hơn các anh chị em của
chúng. Tuy nhiên, những vai trò này liên tục thay đổi và phát triển.
Cuối cùng, quyết định về vai trò của mỗi thành viên trong hệ thống phân cấp gia đình
và cách nó phục vụ tốt nhất cho đơn vị là do gia đình quyết định. Trong một số gia đình,
người mẹ là người chăm sóc chính trong khi người cha đảm nhận vai trò chăm sóc con cái và
điều hành gia đình. Trong các gia đình khác, cha mẹ chia sẻ mọi quyền lãnh đạo trong gia
đình một cách bình đẳng. Điều này có nghĩa là cả hai đều có sự nghiệp, chăm sóc con cái
bình đẳng và phân chia trách nhiệm chăm sóc gia đình trong gia đình. Trẻ em cũng có mức
độ ảnh hưởng khác nhau đối với cha mẹ của chúng. Ở một số gia đình, cha mẹ rất chú trọng
đến việc đáp ứng mong muốn của con cái. Trong một cấu trúc gia đình như vậy, con cái
thường có nhiều quyền lực hơn, bởi vì nhiều quyết định của cha mẹ đều dựa trên những gì
con cái thể hiện. Ở các gia đình khác, cha mẹ thực dụng hơn và mong muốn của con cái ít
quan trọng hơn trong quá trình ra quyết định. Con cái thì luôn có vai trò học tập thật tốt để
mai sau có thể phụ giúp bố mẹ.
Một số hiện tượng có biểu hiện của sự xem thường vai trò của các thành viên trong
gia đình. Hệ lụy:
Vì người vợ gánh vác phần nội trợ ở nhà nên người chồng luôn nhận công về phía mình
và coi người vợ là kẻ ăn bám, k làm được cái gì => Người chồng đã xem thường vai trò của
người vợ. Mặc dù chỉ ở nhà, nhưng người nội trợ là người hỗ trợ rất nhiều thứ và quanh quẩn
làm mãi không hết việc.
Hệ lụy: gia đình không mấy hạnh phúc khi người vợ lại không được công nhận công
sức của mình. Tình cảm gia đình cũng vì thế mà mất đi, có thể dẫn tới bất đồng và thậm chí
là ly hôn.
Hoặc một trường hợp khác là người con không hề để tâm đến công việc hay những điều
mà bố mẹ đã làm mà vội vàng phán xét rằng bố mẹ "không làm gì cho mình cả". Chứng tỏ
rằng người con không coi trọng công sức của bố mẹ bỏ ra để nuôi nấng mình nên người, đó
cũng là sự ích kỷ khi người con chỉ nghĩ cho bản thân mà không suy nghĩ cho những người
trong gia đình.
Hệ lụy: người con có suy nghĩ sai lệch về bố mẹ, và sinh ra tính ích kỉ, xem thường bố
mẹ.
Và cũng giống như việc cha mẹ xem thường sự góp ý của con cái. Vì chênh lệch tuổi
tác, thế hệ nên quan điểm của 2 bên cũng khác nhau nên dễ xảy ra bất đồng. Những điều đáng
buồn là ở một số bậc phụ huynh lại phớt lờ ý kiến của con họ vì lý do là "còn nhỏ chưa biết
gì". Trong khi những lúc ấy, bố mẹ cần phải lắng nghe con của họ và tiếp thu những điều mới
để hiểu các con hơn cũng như để thay đổi suy nghĩ cổ hủ của mình.
Hệ lụy: con cái không muốn tâm sự hay đóng góp ý kiến nào nữa khi bố mẹ không chịu
tiếp nhận và lắng nghe ý kiến của chúng. Dẫn tới tình cảm 2 bên dần xa cách nhau hơn.
Cần lên án những vấn đề này như thế nào?
Vấn đề này luôn là đề tài nhức nhối của mọi gia đình. Trước hết, chúng ta cần lên án từ
trong nội bộ của từng gia đình, từ gốc rễ của vấn đề, nâng cao nhận thức của họ về vấn đề
này. Đây luôn là một vấn đề luôn tồn tại và rất khó để thay đổi. Phải thay đổi được từ trong
gia đình của chính chúng ta. Sau đó mới tiến ra ngoài xã hội có những gia đình khác. Nhắc
nhở và tuyên truyền về hệ lụy của vấn đề này tới cấp xã, huyện và dần cao hơn nữa để mọi
người biết và hiểu được tầm quan trọng của nó. Từ những cái hệ lụy được đưa ra, những gia

12
đình đang mắc phải trường hợp ấy cũng sẽ thay đổi một phần nào nhận thức của họ về việc
xem thường vai trò của các thành viên trong gia đình.

12. Tiêu chí đánh giá gia đình văn hóa


Theo Điều 6 Nghị định 122/2018/NĐ-CP, tiêu chuẩn Gia đình văn hóa quy định như
sau:
- Gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước; tích
cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương nơi cư trú, gồm các tiêu chí sau:
+ Các thành viên trong gia đình chấp hành các quy định của pháp luật; không bị xử lý kỷ luật
tại nơi làm việc và học tập;
+ Chấp hành hương ước, quy ước của cộng đồng nơi cư trú;
+ Treo Quốc kỳ trong những ngày lễ, sự kiện chính trị của đất nước theo quy định;
+ Có tham gia một trong các hoạt động văn hóa hoặc văn nghệ ở nơi cư trú; thường xuyên
luyện tập thể dục, thể thao;
+ Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội theo quy định;
+ Tham gia bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, cảnh quan thiên nhiên của
địa phương;
+ Thực hiện các quy định về vệ sinh môi trường, đổ rác và chất thải đúng giờ, đúng nơi quy
định;
+ Tham gia đầy đủ các phong trào từ thiện, nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa, khuyến học khuyến
tài; sinh hoạt cộng đồng ở nơi cư trú;
+ Không vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh;
+ Không vi phạm quy định phòng, chống cháy nổ;
+ Không vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn giao thông như: Lấn chiếm lòng đường, hè phố,
tham gia giao thông không đúng quy định.
- Gia đình hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ; tương trợ giúp đỡ mọi người trong cộng đồng,
gồm các tiêu chí sau:
+ Ông, bà, cha, mẹ và các thành viên trong gia đình được quan tâm, chăm sóc, phụng dưỡng;
+ Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, bình đẳng, hòa thuận, thủy chung;
+ Thực hiện tốt chính sách dân số; thực hiện bình đẳng giới;
+ Các thành viên trong gia đình tham gia bảo hiểm y tế và được chăm sóc sức khỏe;
+ Các thành viên trong gia đình có nếp sống lành mạnh, văn minh, ứng xử có văn hóa trong
gia đình, cộng đồng và xã hội;
+ Tương trợ, giúp đỡ mọi người trong cộng đồng khi khó khăn, hoạn nạn.
- Tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập đạt năng suất, chất lượng và
hiệu quả, gồm các tiêu chí sau:
+ Kinh tế gia đình ổn định và phát triển từ nguồn thu nhập chính đáng;
+ Tham gia các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội do địa phương tổ
chức;
+ Người trong độ tuổi lao động tích cực làm việc và có thu nhập chính đáng;
+ Trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường;
+ Sử dụng nước sạch;
+ Có công trình phụ hợp vệ sinh;

13
+ Có phương tiện nghe, nhìn và thường xuyên được tiếp cận thông tin kinh tế, văn hóa - xã
hội.

13. Liệt kê những sự kiện thể hiện sự tranh cãi giữa luồn văn hóa vô sản và luồn văn
hóa tư sản
Ngày 4-10-2016, căn cứ pháp luật Việt Nam và quốc tế, Bộ Công an đã đưa “Việt Tân”
vào danh sách các tổ chức khủng bố, chống Nhà nước Việt Nam. Từ khi thành lập năm 1981
đến nay, tổ chức này đã có nhiều hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta, nhiều đối tượng đã bị bắt giữ, xét xử nhưng chúng vẫn không từ bỏ dã
tâm lật đổ chính quyền XHCN ở Việt Nam.
Theo thông báo của Bộ Công an, Tổ chức phản cách mạng lưu vong “Việt Tân” là tên
viết tắt của cái gọi là “Việt Nam canh tân cách mạng đảng”, trụ sở chính đặt tại 2530 đường
Berryessa 234 San Jose, California, Mỹ và "Văn phòng 2" tại Bangkok, Thái Lan. Tổ chức
này có cơ quan tuyên truyền là báo "Kháng chiến"; đài "Việt Nam kháng chiến" và "Chân trời
mới". Đối tượng cầm đầu là Đỗ Hoàng Điềm, sinh 1963, quốc tịch Mỹ, "Chủ tịch Việt Tân"
và Lý Thái Hùng, sinh 1953, quốc tịch Mỹ, "Tổng bí thư Việt Tân".
Năm 1981, Hoàng Cơ Minh (nguyên chuẩn tướng, Phó đề đốc hải quân chính quyền
Việt Nam Cộng hòa) và một số đối tượng phản động lưu vong đứng ra thành lập tổ chức phản
động "Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam". Cái gọi là mặt trận ấy có cương
lĩnh, có con dấu, hiến chương và vẫn một sắc màu ba que được Mỹ nuôi dưỡng, chỉ đạo,
nhằm chống phá Việt Nam bằng các hoạt động vũ trang, khủng bố. Với tham vọng ngông
cuồng, đồng thời để lừa mị một bộ phận kiều bào ở hải ngoại, ngày 10-9-1982 tại căn cứ ở
Thái Lan, Hoàng Cơ Minh lập ra tổ chức "Việt Nam canh tân cách mạng đảng" - gọi tắt là
"Việt Tân", là cơ quan đầu não cực kỳ phản động, chỉ huy mọi hoạt động của “Mặt trận quốc
gia thống nhất giải phóng Việt Nam” và một số tổ chức phản động khác tiến hành các hoạt
động chống phá, tiến tới lật đổ chính quyền nhân dân ở Việt Nam. Các thành viên của “Mặt
trận” này đồng thời là thành viên của “Việt Tân”.
Năm 1980-1983, tuyển mộ lính đánh thuê ở các trại tị nạn người Việt để đào tạo huấn
luyện. Năm 1984-1987, xây dựng cơ sở hạ tầng hạt nhân. Từ năm 1986-1990, là giai đoạn
xây dựng vùng giải phóng tạm, lấy chỗ đứng chân đón các “kháng chiến quân” trở về. Đến
năm 1992 là giai đoạn lật đổ và giành chính quyền.
Để thực hiện dã tâm đó, Hoàng Cơ Minh phái tay chân sục sạo các trại tị nạn người
Việt tuyển mộ lính đưa về căn cứ huấn luyện gián điệp, biệt kích, tiến hành các hoạt động
khủng bố, phá hoại, bắt cóc, thủ tiêu con tin. Tuy nhiên, trong suốt 5 năm liền, y chỉ tuyển
được 200 quân. Để lòe bịp dư luận và moi đô la từ bà con Việt kiều ở nước ngoài, Hoàng Cơ
Minh thuê bọn phỉ Lào đóng giả các “kháng chiến quân”, quay phim gửi về Mỹ và tuyên bố
đã dựng được cờ và tập hợp được các tổ chức kháng chiến, với đội quân 10.000 người.
Trần Minh Nhật - kẻ bôi nhọ Thiên Chúa, tay sai của tổ chức khủng bố Việt Tân
Trần Minh Nhật sinh năm 1988, trong một gia đình Thiên Chúa giáo quê Nghệ An. Là
một sinh viên được đào tạo cơ bản ở TP Hồ Chí Minh, có tri thức, cứ tưởng Trần Minh Nhật
sẽ trở thành người có ích. Tuy nhiên, Nhật đã bị các đối tượng xấu móc nối, lôi kéo tham gia
tổ chức khủng bố Việt Tân, có nhiều hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ, do đó
đã bị bắt, bị xử lý về hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.

14
Trần Minh Nhật đã quan hệ với một số đối tượng phản động cùng quê Nghệ An, như
Nguyễn Xuân Kim, Đặng Xuân Diệu và đặc biệt là các đối tượng trong nhóm Hồ Đức Hòa,
thành viên của tổ chức khủng bố Việt Tân.
Năm 2011, Trần Minh Nhật xuất cảnh đi Thái Lan tham gia khóa huấn luyện cách thức
chống phá Việt Nam do tổ chức khủng bố Việt Tân tổ chức, sau đó được chúng cung cấp tài
chính, tung trở lại Việt Nam để phá hoại.
Tuy nhiên, hoạt động phạm tội của chúng đã bị cơ quan chức năng phát hiện, bắt giữ và
điều tra làm rõ. Năm 2013, Hồ Đức Hòa cùng đồng bọn đã bị tòa án xét xử về hành vi hoạt
động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; trong đó, Trần Minh Nhật bị tuyên phạt 4 năm tù
giam, 3 năm quản chế.
Tháng 8/2015, ra tù, Trần Minh Nhật chuyển vào cư trú tại tỉnh Lâm Đồng. Trong thời
gian chấp hành hình phạt quản chế, y vẫn tiếp tục “ngựa quen đường cũ” có nhiều hoạt động
chống phá đất nước. Năm 2016, Trần Minh Nhật trốn ra Nghệ An và đã có nhiều hoạt động
gây rối an ninh trật tự, lôi kéo tụ tập đông người chặn Quốc lộ 1, đập phá trụ sở chính quyền
địa phương. Trần Minh Nhật đã bị khởi tố, rồi bị truy nã về hành vi không chấp hành án theo
quy định tại Điều 304 BLHS. Biết sẽ bị bắt nếu còn ẩn trốn ở trong nước, y đã cùng vợ chạy
trốn ra nước ngoài.
Để hoạt động chống phá đất nước và mong nhận được sự bố thí của các thế lực ngoại
bang, Trần Minh Nhật đã tạo lập, sử dụng nhiều tài khoản trên mạng xã hội, trong đó có tài
khoản youtube VoteTV để phát tán thông tin bịa đặt, sai sự thật về tình hình đất nước, đi
ngược lại những điều tốt đẹp của người Công giáo và những điều răn của Chúa.
Hoa hậu Đỗ Thị Hà và drama “vót chông”
Phần biểu diễn đàn T’rưng của hoa hậu Việt Nam tại cuộc thi Miss World vấp phải làn
sóng chỉ trích được cho là thiếu tế nhị tại nước Mỹ - một bản nhạc được sáng tác thời Việt
Nam chống Mỹ.
Một bài viết trên báo CAND online đã viết rằng:
“Đầu tiên, phải nói thẳng rằng việc lựa chọn bản "Cô gái vót chông" là do hướng dẫn
của giáo viên dạy đàn cho Đỗ Thị Hà. Lý giải của cô giáo này là vì nó đơn giản, dễ tập hơn
các bản nhạc phức tạp khác.
(...) phần trình diễn của Đỗ Thị Hà chỉ là phần giai điệu đơn thuần. Nó đơn giản là việc
một người thể hiện một ca khúc bằng các nốt nhạc của một nhạc cụ, chứ không phải cất lên
lời hát với ý nghĩa kèm theo của ca từ. (...)
Cái suy luận từ phần ca từ của những ngày kháng chiến chống Mỹ đến từ người Việt ở
trong nước chứ không hề đến từ khán giả nước ngoài, mà cụ thể là khán giả Mỹ. (...)
Nhưng vượt trên hết, kể cả khiên cưỡng chấp nhận suy luận của họ đi nữa, chúng ta
cũng cần phải đặt dấu hỏi "Họ đã nói gì, làm gì, và ở đâu khi chính các nền tảng giải trí của
Mỹ vẫn tiếp tục phát hành những bộ phim về chiến tranh Việt Nam mà trong đó, hình ảnh
Việt Nam rất méo mó?".
Điển hình như Netflix với bộ phim "Da Five Bloods" được Netflix phát hành ở Việt
Nam hồi tháng 6/2020 vừa rồi. Tại sao những người thích chỉ trích bằng suy luận kể trên có
thể chấp nhận một sản phẩm Mỹ hoàn toàn theo quan điểm Mỹ được thoải mái lưu hành ở
Việt Nam nhưng họ lại chống lại một sản phẩm Việt Nam mang quan điểm Việt Nam cất
tiếng lên ở chính nước Mỹ? (...)”.

15
Thủ đoạn lợi dụng quyền của đồng bào dân tộc thiểu số chống phá Đảng, Nhà
nước Việt Nam trong tình hình hiện nay – Công an tỉnh Sơn La
Hình ảnh người Đông Nam Á xuất hiện trong quảng cáo của các thương hiệu nổi
tiếng phương Tây.
Những tấm hình quảng cáo của các thương hiệu nổi tiếng như Dior, Gucci hay
Mercedes Benz có sự xuất hiện của người mẫu Đông Nam Á với lối makeup có đôi mắt xếch,
mắt nhỏ, da đen, … đã vấp phải rất nhiều chỉ trích và phẫn nộ tự cộng đồng mạng Trung
Quốc và Việt Nam vì những thương hiệu quốc tế ấy đã thể hiện những lối tư duy thẩm mỹ
mang tính kỳ thị và phân biệt chủng tộc. Có nhiều bình luận thể hiện sự bức xúc khi thấy hình
ảnh của người Đông Nam Á trong mắt phương Tây quá rập khuôn và kì thị: “Tư bản phương
Tây không bao giờ coi người châu Á là con người. Văn hóa phương Tây kinh khủng làm
sao!”, “Họ phân biệt đối xử với người châu Á để phản ánh sự cao quý của thương hiệu này.
Ai nói đó là nghệ thuật?”...
14. Phân tích tính tất yếu khách quan và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Nêu ví dụ cụ thể.
Ví dụ:
Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay
muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn
đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa. Cho dù hiện nay, với những cố gắng để thích nghi
với tình hình mới, chủ nghĩa tư bản thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng
vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này không dịu đi
mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài
người. Đặc điểm của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã
hội chủ nghĩa không phải là quá trình cải lương, duy ý chí, mà là quá trình cách mạng sôi
động trải qua nhiều giai đoạn phát triển khách quan, hợp với quy luật của lịch sử. Chủ nghĩa
xã hội khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và loài người tiến bộ đang vươn
tới luôn đại diện cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, đại diện lợi ích của người lao động,
là hình thái kinh tế - xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp
cao cả là giải phóng con người, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ
chung của loài người. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự
nhiên của lịch sử.
Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX. Nhờ đi con đường
ấy, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc
kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên chủ nghĩa xã
hội mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, như vậy là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc lại vừa
phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã thể hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là một tất yếu lịch sử.

16
15. Phân tích những đặc trưng của CNXH ở VN. Xây dựng kế hoạch cụ thể đối với
bản thân nhằm góp phần hiện thực hóa các đặc trưng trên.
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được biểu
hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Marx-Lenin về mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là
làm sao cho dân giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền
tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc…
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc
hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn
minh. Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể
nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu
việt chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của
chủ nghĩa Marx-Lenin sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư
tưởng truyền thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là chủ, dân làm
chủ.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong
nhận thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền
với việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi
quyền lực).
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước.
Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi
cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các
hình thức dân chủ trực tiếp…”.
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà
nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn vốn
có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải quyết
được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

17
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ nghĩa
xã hội mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu. Trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là
một trong những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị
trường với nhiều thành phần kinh tế.
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện
khái quát, nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết
và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp
thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa
của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng.
Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể
hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho
văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể
hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn
được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Về phương diện con
người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người,
cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa. Để có con người xã hội chủ
nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của con người
trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác định
hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là: có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu việt
của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con người, chăm
lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con người (đức, trí, thể, mỹ) của Đảng và Nhà
nước ta.
- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan
hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt
Nam.
Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong
giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền thống đại
đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu
chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.

18
- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí,
quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó
chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý
kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn
ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm
quyền dân chủ của công dân…
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối ngoại,
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân ta và nhân
dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế…Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn đàn
quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà
nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong đặc trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta.../.
16. Thông qua việc so sánh nền dân chủ vô sản với nền dân chủ tư sản, hãy rút ra
tính toàn diện của nền dân chủ này. Liên hệ với trách nhiệm của bản thân đối
với quá trình phát huy dân chủ ở VN hiện nay.
1. Điểm giống nhau giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản
– Trên lĩnh vực chính trị: Dân chủ trong chính trị cho phép làm sáng tỏ vấn đề bản chất của
hệ thống chính trị, mối quan hệ giữa đảng cầm quyền với nhà nước, giữa nhà nước với xã hội
công dân. Dưới góc độ chính trị, bản chất giai cấp của dân chủ, chế độ dân chủ của nhà nước
và các thiết chế chính trị khác được bộc lộ rõ nét. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, dân chủ
trong chính trị phản ánh một cách trực tiếp tương quan về lợi ích và quyền lực giữa các giai
cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Một mặt, chế độ dân chủ đó được xác lập nhằm bảo vệ
lợi ích và quyền lực của giai cấp thống trị. Mặt khác, chế độ dân chủ đó cũng thừa nhận ở
những mức độ nhất định quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Đó
chính là những giá trị dân chủ mà các giai cấp, tầng lớp bị trị giành được trong cuộc đấu tranh
với giai cấp thống trị.
Cơ sở chính trị là mặt biểu hiện trực tiếp của dân chủ. Đó chính là quyền lực chính trị, quyền
tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân.

19
– Trên lĩnh vực kinh tế: Đây là nội dung cơ bản và quan trọng nhất, quyết định thực chất của
dân chủ. Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế gắn liền với hoạt động mang tính bản chất của con
người là hoạt động lao động sản xuất, thực hiện lợi ích và thỏa mãn các nhu cầu. Dân chủ
trong lĩnh vực kinh tế là làm cho người lao động được đảm bảo các quyền dân chủ về kinh tế.
Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế là tạo nên mối quan hệ hợp tác, tôn trọng, bình đẳng giữa các
chủ thể. làm cho sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng đói nghèo của một bộ phận nhân dân
ngày càng thu hẹp, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
– Trên lĩnh vực văn hóa xã hội: Dân chủ là một phạm trù phản ánh một hiện tượng xã hội,
một quan hệ xã hội khách quan ghi đậm dấu ấn chủ quan của chủ thể. Nội dung cốt lõi của
dân chủ là khát vọng về tự do, bình đẳng của người dân. Nội dung cơ bản của dân chủ trong
văn hóa là trình độ giải phóng cá nhân, giải phóng xã hội về mặt tinh thần
2. Phân biệt/ Điểm khác nhau giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản
Dân chủ xã hội chủ nghĩa Dân chủ tư sản

Mục Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền Dân chủ tư sản là nền dân chủ cho
đích dân chủ cho đại đa số nhân dân thiểu số, phục vụ lợi ích cho thiểu số.
lao động, phục vụ lợi ích cho đại
đa số.

Bản Là nền dân chủ mang bản chất Mang bản chất của giai cấp tư sản, lợi
chất của giai cấp công nhân, nhưng nó ích của giai cấp tư sản đối lập với lợi ích
phục vụ cho đa số. của giai cấp công nhân và nhân dân lao
Bởi vì, lợi ích của giai cấp công động.
nhân phù hợp với lợi ích của
nhân dân lao động và toàn dân
tộc.

Cách Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền Thực hiện thông qua nhà nước pháp
thức dân chủ do Đảng Cộng sản lãnh quyền xã hội chủ nghĩa (thống nhất và
đạo, nhất nguyên về giá trị; còn phân công giữa lập pháp, hành pháp và
dân chủ tư sản do các đảng của tư pháp); còn thực hiện thông qua nhà
giai cấp tư sản lãnh đạo, đa đảng nước pháp quyền tư sản (tam quyền
về chính trị. phân lập).

Cơ sở Dân chủ xã hội chủ nghĩa được Dân chủ tư sản được thực hiện trên cơ
kinh tế thực hiện trên cơ sở kinh tế là sở kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân
công hữu hóa các tư liệu sản xuất tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ
chủ yếu. yếu của toàn xã hội đó là chế độ áp bức
bóc lột.
Một số biện pháp nâng cao tinh thần dân chủ cho sinh viên thông qua việc giảng
dạy các học phần lý luận chính trị
* Nâng cao nhận thức đúng đắn của SV về dân chủ và tinh thần dân chủ trong trường học:
- Trong trường học, GV cần là cầu nối để SV hiểu và nhận thức đúng đắn về dân chủ và tinh
thần dân chủ. Phát huy dân chủ trong dạy và học đồng thời phải chống dân chủ cực đoan, dân

20
chủ không tuân theo nội quy, quy định của trường học và môn học. Trong dạy học, mọi ý
kiến khác nhau cần được thảo luận dân chủ, thẳng thắn và giáo viên cần là người điều hành
cũng như kết luận lại những vấn đề thảo luận. Ngoài việc nâng cao nhận thức cho SV, điều
quyết định bảo đảm thực hiện dân chủ trong dạy học một cách hiệu quả đó là phải có phương
pháp đúng đúng, có những quy định cụ thể và phải có công bằng trong hoạt động dạy học.
- GV cũng cần phải cho SV thấy được dân chủ và phát huy tinh thần dân chủ là quyền và
nghĩa vụ của người học nhằm xây dựng một môi trường học thuật, giáo dục và xã hội dân chủ
thực sự.
* Dân chủ trong dạy học phải bắt đầu từ cách làm của người dạy học:
- Thường xuyên lắng nghe ý kiến của SV một cách công khai.
- Tạo môi trường dân chủ thật sự để SV sẵn sàng tham gia đóng góp ý kiến thông qua các
hoạt động dạy học, đối thoại với SV.
- Tạo quan hệ dân chủ, thoải mái giữa GV với SV thực sự là mối quan hệ dân chủ.
- Tạo điều kiện thuận lợi để SV phát huy hết các khả năng, vận dụng kĩ năng vào quá trình
học.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động, hình thức dạy học với nhiều nội dung phong phú, có
không khí học thuật, đảm bảo tính khoa học để SV được trao đổi, chia sẻ thẳng thắn những
quan điểm và phương pháp của mình nhằm tìm ra những giải pháp tối ưu nhất cho quá trình
dạy – học.
- GV công khai đề cương, bài giảng, giáo trình và hình thức đánh giá trước khi tiến hành dạy
học.
- Coi hoạt động dạy học là diễn đàn trao đổi, thảo luận. GV tôn trọng ý kiến của SV, tạo điều
kiện SV tham gia xây dựng phát triển bài học. GV tránh tư tưởng trù dập SV, coi mình là ông
vua có thể sát phạt SV một cách tùy tiện
- SV xác định rõ vai trò học tập của mình, tránh tư tưởng thụ động một chiều, dĩ hòa vi quý,
có quyền tranh luận với GV và SV để đi đến chân lí.
* Dân chủ trong kiểm tra đánh giá:
- GV tổ chức đánh giá kết quả học tập công khai dân chủ, SV có quyền khiếu nại, phản ánh
khi nhận thấy kết quả đánh giá không chính xác.
- Các đề cương ôn thi, đề thi cần hướng đến “mở khóa” để dần xóa bỏ dạng đề thi đóng. Cần
có ngân hàng đề thi cho tất cả các học phần lý luận chính trị để từ đó phát huy năng lực phân
tích, tổng hợp và đánh giá vấn đề của sinh viên, hướng người học đến năng lực tự nghiên
cứu, tự học và đưa ra được quan điểm cá nhân dựa trên nền tảng khoa học.
- Trong quá trình học cũng cần khuyến khích bằng hình thức cộng điểm cho SV có năng lực
và tinh thần xây dựng bài; đồng thới có hình thức trừ điểm phù hợp cho SV ý thức học kém.
17. Phân tích bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nêu ví dụ cụ
thể. Sinh viên cần làm gì để thực hiện tốt 2 cơ chế thực hiện dân chủ ở VN hiện
nay. (Tr.152)
18. Đặc điểm trong mối quan hệ giữa các dân tộc ở VN tạo ra những thuận lợi và
thách thức gì đối với quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
- ĐĐ1:
+ Khó khăn: Một dân tộc mà số dân ít sẽ gặp khó khăn trong việc tổ chức cuộc
sống, bảo tồn tiếng nói và văn hóa dân tộc, duy trì và phát triển giống nòi.
- ĐĐ2:

21
+ Thuận lợi: Việc cư trú xen kẽ như thế tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc
anh em Tăng cường hiểu biết lẫn nhau, hoà hợp và gắn bó hơn. Tình trạng
cư trú xen kẽ của các dân tộc sẽ dẫn tới sự giao lưu kinh tế - văn hoá giữa các
dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Bên cạnh đó, do các dân tộc cư
trú xen kẽ nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam nữ thuộc các dân tộc khác
nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn kết và hoà hợp giữa
các dân tộc anh em.
+ Khó khăn: Dễ nảy sinh xuất hiện mâu thuẫn, xung đột do chưa thật hiểu
nhau, khác nhau về phong tục tập quán.Từ đó, dễ bị các thế lực thù địch bên
ngoài lợi dụng vấn đề dân tộc phá hoại an ninh chính trị và sự thống nhất của
đất nước.
- ĐĐ3:
+ Thuận lợi: Thuận tiện cho việc mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các
dân tộc ở các bên biên giới.
+ Khó khăn: Các thế lực thù địch đã lợi dụng những vấn đề dân tộc (vd: việc các
dân tộc thiểu số có quan hệ thân thiết với dân tộc nước láng giềng) để chống
phá cách mạng Việt Nam.
❖ Hạn chế
Về xã hội: Tỷ lệ hộ nghèo và nguy cơ tái nghèo còn cao. Tình trạng di
cư tự do, hủ tục lạc hậu, hoạt động trái phép như buôn bán ma túy,
buôn người,... vẫn diễn ra khá phức tạp. Nguồn nhân lực có chất lượng
thấp, kinh tế - xã hội phát triển chậm, việc tiếp cận các dịch vụ xã hội
còn nhiều khó khăn.
Về môi trường sinh thái: Môi trường miền núi, nơi các đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống đã và đang bị suy thoái do việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên bừa bãi; sử dụng không hợp lý các nguồn tài
nguyên thiên nhiên,...
+ Vai trò của đồng bào các dân tộc thiểu số trong xây dựng tiềm lực quốc phòng
và phát triển bền vững có ý nghĩa hết sức quan trọng.
+ Vấn đề chính sách dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết cần được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm
+ Phải xây dựng được khả năng kinh tế ổn định cho ĐBDTTS.
+ Tiếp tục thực hiện chương trình mở mang dân trí, đào tạo nhân lực, phát triển
và bồi dưỡng nhân tài trong cộng đồng các dân tộc thiểu số là người bản địa,
nhất là ở vùng sâu, vùng xa.
+ Hệ thống chính trị địa phương (các cấp, các ngành) cần nhận thức được vai trò
của đồng bào các dân tộc thiểu số trong xây dựng tiềm lực quốc phòng trên địa
bàn.
- ĐĐ4:
+ Việc bình đẳng các dân tộc được Đảng và Nhà nước quan tâm rất nhiều, và
muốn thực hiện việc đó thì bước đầu phải làm giảm, xóa bỏ khoảng cách giữa
các dân tộc về kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam trong hơn 87 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan

22
tâm đến vấn đề dân tộc, nhất là vấn đề bình đẳng dân tộc, đoàn kết dân tộc
trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách.
- Đặc điểm quan trọng nhất: Thứ năm, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết,
gắn bó lâu đời trong cộng đồng dân tộc – quốc gia thống nhất. Vì: Đoàn kết dân tộc là
truyền thống quý báu, nó là nguyên nhân và động lực quyết định đến mọi thắng lợi
của dân tộc trong các giai đoạn lịch sử của đất nước, dù là trong công cuộc chống
ngoại xâm hay chống dịch bệnh. Đặc biệt là trong thời hiện đại, để tiếp tục thực hiện
thắng lợi chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam, kịp thời đập tan mọi âm
mưu và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, và đội mắt với những
khó khăn khác cần giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc hơn bao giờ hết.
- ĐĐ6:
+ Thuận lợi: Mỗi dân tộc mang những nét sắc thái khác nhau tạo nên sự phong
phú trong văn hóa Việt Nam và làm giàu có đời sống tinh thần của nhân dân.
Tiềm năng phát triển du lịch. Trở thành nguồn cảm hứng cho nghệ thuật
+ Khó khăn: Chính vì mang nhiều đa dạng sắc màu nên việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa của dân tộc hết sức quan trọng. Nếu không có chính sách phù
hợp
19. Liên hệ với trách nhiệm của bản thân trong việc thực hiện chính sách dân tộc ở
Việt Nam.
Trước những thách thức và khó khăn mà đất nước đang phải đối mặt, sinh viên phải tự
đặt ra cho bản thân mình câu hỏi: Là những trí thức tương lai của đất nước, mình đã, đang
và sẽ làm gì để góp phần đưa đất nước phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc?
Để trả lời được câu hỏi nêu trên, mỗi sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự
trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá
nhân. Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với
những hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh.
Với trách nhiệm của mình, Hội Sinh viên Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh việc giáo
dục tư tưởng, đạo đức, tác phong sống trong sinh viên và coi đây là nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách, cần thường xuyên thực hiện tốt. Đẩy mạnh tổ chức các cuộc thi tìm hiểu liên quan
lịch sử hào hùng, truyền thống văn hóa của đất nước, của quê hương. Hơn nữa, phải chủ
động, sáng tạo và linh hoạt trong tổ chức các hoạt động định hướng cho sinh viên tiếp thu
những mặt tích cực, tiên tiến của văn hóa hiện đại; đồng thời khơi dậy tinh thần tự hào dân
tộc, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Kiên quyết đấu tranh đối với những
biểu hiện vô cảm; khơi dậy tinh thần tương thân, tương ái trong tuổi trẻ.
Hội Sinh viên Việt Nam các cấp cần trở thành mái nhà chung ấm áp để sinh viên đóng
góp, cống hiến trong các phong trào Hội.
Hội Sinh viên cần tạo nhiều hơn nữa các sân chơi lành mạnh để đáp ứng nhu cầu học
tập, vui chơi và giải trí của hội viên, sinh viên. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện để sinh
viên đăng ký và tham gia nghiên cứu, thực hiện các đề tài khoa học, trong đó chú trọng các
đề tài liên quan bảo vệ, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Những hội viên và quan trọng hơn là những cán bộ nòng cốt của Hội phải là những
người tiên phong đi đầu, làm gương trong công tác này, chủ động xây dựng tác phong, lối

23
sống đẹp, sống có ích… và động viên, khuyến khích các bạn trẻ hưởng ứng. Được như vậy,
vai trò của Hội Sinh viên trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc sẽ nhanh
chóng được khẳng định.
20. Vì sao tôn giáo vẫn tiếp tục tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội?
Phân tích và lấy ví dụ làm rõ các nguyên tắc cần phải tuân thủ khi giải quyết vấn
đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại bởi các nguyên
nhân sau: - Nguyên nhân nhận thức Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, trình độ dân
trí của nhân dân còn hạn chế Mặc dù khoa học đã phát triển mạnh, song nhiều hiện tượng tự
nhiên và xã hội diễn ra đến nay khoa học chưa giải thích được. ví dụ như hiện tượng trường
sinh học. do vậy, tâm lý sợ hãi trông chờ tin tưởng vào sức mạnh siêu nhiên vẫn tồn tại trong
ý thức con người, kể cả nhân dân ở các nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo tồn tại lâu đời và ăn sâu trong tiềm thức của nhiều
người. nó là một trong những hình ý thức xã hội bảo thủ nhất in đậm trong đời sống tinh thần
của nhiều người, kể cả trong chủ nghĩa xã hội
- Nguyên nhân chính trị - xã hội: Do đạo đức, văn hóa của tôn giáo có nhiều điểm còn
phù hợp với chủ nghĩa xã hội và đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân
dân. Ví dụ như tính hướng thiện, bình đẳng, thương người của Phật giáo, ước muốn về một
xã hội hòa mục của Nho giáo... Dưới chủ nghĩa xã hội, tôn giáo có khả năng tự biến đổi để
thích nghi theo xu hướng “đồng hành cùng dân tộc”, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “sống phúc âm
trong lòng dân tộc”... Do chính sách tôn giáo của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa vẫn còn tồn tại đấu tranh giai cấp dưới nhiều hình thức phức tạp, các thế lực chính trị
vẫn lợi dụng tôn giáo để phục vụ mưu đồ chính trị của chúng. Mặt khác, các hiện tượng như
chiến 2 / 2 tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc khủng bố, bệnh tật, đói nghèo,... là điều
kiện cho tôn giáo phát triển
- Nguyên nhân kinh tế: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa còn tồn tại nhiều thành phần kinh
tế, trong đó có cả những thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân nên còn hiện
tượng bóc lột người lao động còn bất công , bất bình xã hội... đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân chưa cao. Điều đó làm cho con nguwoif còn tin tưởng vào lực lượng siêu nhiên
- Nguyên nhân về văn hóa Tôn giáo có khả năng đáp ứng ở một mức độ nhất định nhu cầu
văn hóa tinh thần và có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng động, đạo đức, lối sống. do
đó, bảo tồn và phát huy các giá trị đạo đức tôn giáo là cần thiết
Nguyên tắc:
Nguyên tắc thực hiện chính sách đối với tôn giáo
- Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng,
tôn giáo của mọi người. Mọi người đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật,
không phân biệt người theo đạo và không theo đạo, cũng như giữa tôn giáo khác nhau.
- Đoàn kết, gắn bó đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối đại đoàn
kết toàn dân. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
- Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật; có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; gìn giữ độc lập
dân tộc và chủ quyền quốc gia.

24
- Những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích
chính đáng, hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của
tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy.
- Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để vi phạm pháp luật.
- Thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
văn hoá của đồng bào các tôn giáo.
- Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, các tổ
chức xã hội và các tôn giáo có trách nhiệm làm tốt công tác vận động quần chúng và thực
hiện đúng đắn chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.

25

You might also like