You are on page 1of 31

BỘ GD VÀ ĐT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ

BÀI TIỂU LUẬN


MÔN: LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC
GIÁ TRỊ
Giảng viên: TS. HỒ VĂN DŨNG
Học viên: ĐỖ TRÍ HUẤN
Khóa K31 mã học viên 2022 QLI 411
ĐỀ TÀI
Nhận định, đánh giá của anh (chị) về thực trạng định hướng
giá trị của thanh niên Việt Nam đối với vấn đề nghề nghiệp
và những ý kiến đề xuất.
MỤC LỤC
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ.………………………………………………………………….….… 01
B/ PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………..…... 02
I. KHÁI QUÁT VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ..…………….….………………….……02
1. Khái niệm về định hướng giá trị…………………………….……………………..….…02
2. Định hướng giá trị và một số khái niệm liên quan ………………………….….….…... 05
3. Vai trò của định hướng giá trị ………………..………………………………….…..… 08
4. Quá trình định hướng giá trị …………………………………………………..…….…. 11
a) Chọn lựa giá trị………….……………………………………………………..……….. 11
b) Đánh giá cân nhắc.………………………………………………………………..….… 12
c) Hành động……...………………………………………………………...…………….. 12
II. THỰC TRẠNG VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM
………………………………………………………………………………………..….... 13
1. Đặc trưng chung về định hướng giá trị của thanh niên ……………………..…..………13
2. Đánh giá về định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam…………………………….... 19
2.1. Mặt tích cực………………………………………….………………………………...19
2.2. Mặt hạn chế……………………………………………………………..……………..20
2.3. Một số vấn đề cần quan tâm giải quyết………………………………………………..21
3. Thực trạng định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên………………………….……23
III. NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT VỀ THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CỦA
THANH NIÊN VIỆT NAM ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ NGHỀ NGHIỆP.…………………...26
C/ KẾT LUẬN……………………………………………………………………..28
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
Định hướng giá trị là cấu tạo tâm lý đặc trưng của nhân cách, là cơ sở của hành vi,
thúc đẩy con người hành động để đạt được mục đích trong cuộc sống. Định hướng giá trị
có vai trò hết sức quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, góp phần xây
dựng lý tưởng, niềm tin cách mạng, hình thành đạo đức lối sống, thúc đẩy động cơ lập thân,
lập nghiệp, hình thành ý thức và trách nhiệm công dân... Do đó, định hướng giá trị là vấn
đề luôn được nhiều tổ chức và các ngành khoa học khác nhau quan tâm nghiên cứu.
Thanh niên là nhóm xã hội đặc thù, là nguồn lực to lớn của xã hội, sẽ góp phần
quyết định sự tiến bộ của xã hội hiện nay. Thanh niên đang ở độ tuổi phát triển và hoàn
thiện mạnh mẽ về nhân cách và lối sống. Nét nổi bật trong đời sống tâm lý của thanh niên
là những ước mơ, hoài bão và những dự định trong tương lai về công việc và những thành
công trong cuộc sống. Đặc trưng trong hoạt động của thanh niên là sự năng động, sáng tạo,
tìm tòi khám phá và đặc biệt nhạy cảm với những yếu tố mới nảy sinh trong xã hội. Những
giá trị mới nảy sinh trong xã hội kể cả tích cực và tiêu cựu đều có tác động ảnh hưởng
mạnh mẽ đến đời sống của thanh niên. Đất nước ta đang trong tiến trình đổi mới mạnh mẽ
và đẩy mạnh hội nhậpkinh tế quốc tế với nền kinh tế thị trường đang từng bước được xác
lập. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhân dân ta đã thu được những thành tựu
vô cùng to lớn và toàn diện. Những thành tựu ấy đã và đang tác động mạnh mẽ đến các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá, đạo đức, lối sống của
con người Việt Nam. Trước những thay đổi mạnh mẽ về cuộc sống, các giá trị đạo đức của
con người cũng bị ảnh hưởng theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Điều này tác
động trực tiếp tới quá trình định hướng và hoàn thiện nhân cách của mỗi người. Từ khi đất
nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc giữ gìn và phát huy
các giá trị truyền thống dân tộc cũng như việc xây dựng hệ giá trị trong lối sống mới đã và
đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải được giải quyết. Thực tế cho thấy, trong đời sống xã hội
đã có những biểu hiện xem nhẹ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, chạy theo
thị hiếu không lành mạnh. Cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa lối sống lành
mạnh trung thực, có lý tưởng với lối sống ích kỷ, thực dụng đang diễn ra hàng ngày. Bên
cạnh những giá trị mới được hình thành trong quá trình hội nhập, những yếu tố tiêu cực
cũng đang xâm nhập vào đạo đức, lối sống của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh
niên. Sinh ra và lớn lên trong môi trường thông tin đa chiều và xu thế hội nhập quốc tế,
thanh niên Việt Nam hiện nay là lớp người chịu nhiều ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu
cực từ những biến đổi của đất nước và thế giới. Thanh niên đang ở độ tuổi phát triển và
hoàn thiện mạnh mẽ về nhân cách và lối sống. Nét nổi bật trong đời sống tâm lý của thanh
niên là những ước mơ, hoài bão và những dự định trong tương lai về công việc và những
thành công trong cuộc sống. Một bộ phận thanh niên chạy theo lối sống thực dụng, có biểu
hiện xa rời các giá trị truyền thống, dễ bị dao động về mặt định hướng giá trị và lối sống.
Chính vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra nhiệm vụ “Xây dựng và hoàn
thiện giá trị, nhân cách của con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các
giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, năng lực trí
tuệ, đạo đức cao đẹp và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam” Việc phát huy tính tích cực
và điều chỉnh những hành vi lệch lạc trong đời sống của thanh niên có tác dụng vô cùng to
lớn trong việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực quý giá này. Để tạo ra bước chuyển
biến mạnh mẽ trong việc xây dựng và định hướng đúng đắn hệ giá trị cho thanh niên,
chúng ta cần có các cuộc nghiên cứu Khoa học để phân tích một cách khách quan sự biến
đổi định hướng giá trị của thanh niên trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, từ đó xác định những vấn đề chủ yếu nhất cần giải quyết.
Đó là lí do để chúng tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng định hướng giá trị nghề nghiệp của
thanh niên Việt Nam đối với nghề nghiệp” làm đề tài nghiên cứu của mình.

B/ PHẦN NỘI DUNG


I. KHÁI QUÁT VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ:
1. Khái niện về định hướng giá trị:

- Theo Từ điển Bách khoa Xô viết: định hướng giá trị là:

+ Cơ sở tư tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ giúp chủ thể đánh giá hiện thực
khách quan và định hướng trong thực tiễn đó.
+ Phương pháp phân loại các khách thể của cá nhân theo giá trị của chúng. Định
hướng giá trị hình thành thông qua sự chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội và thể hiện trong
các mục đích, tư tưởng, chính kiến, ham muốn… của nhân cách. Trong cấu trúc của hoạt
động con người, định hướng giá trị gắn liền với các đặc điểm nhận thức và ý chí của
nhân cách. Hệ thống định hướng giá trị tạo thành nội dung xu hướng của nhân cách và là
cơ sở bên trong của các mối quan hệ cá nhân với hiện thực.
+ Khi xem xét định hướng giá trị với tư cách là một thành tố trong cơ cấu nhân
cách và là các điều chỉnh hành vi của con người, định hướng giá trị là khuynh hướng
chung đã được quy định về mặt xã hội được ghi lại trong tâm lý của cá nhân nhằm vào
mục đích và phương tiện hoạt động trong lĩnh vực nào đó.
+ I.J. Côn cho rằng: định hướng giá trị là những định hướng vào những giá trị xã
hội nào đó.
+ Một số nhà Tâm lý học quan niệm định hướng giá trị là cơ sở của các đánh giá
của chủ thể, chẳng hạn, A.V.Petrovski cho rằng: định hướng giá trị là phương thức chủ
thể sử dụng để phân biệt các sự vật theo ý nghĩa của chúng đối với chính mình, từ đó
hình thành nội dung cơ bản của xu hướng, động cơ hoạt động. Như vậy, định hướng giá
trị có quan hệ đến các mặt nhận thức, ý chí và cảm xúc trong sự phát triển nhân cách.
+ Theo I.T. Lêvưkin: định hướng giá trị là việc đánh giá các khả năng và tình hình
hiện có để xác định các phương tiện và phương pháp nhằm đạt được những mục tiêu đã
được đề ra.

+ K.D. Đavưdov cho rằng: định hướng giá trị là một hệ thống các đích của cá
nhân được khắc họa có tính lựa chọn của cá thể đối với các giá trị.
+ Theo V.A. Iadov: định hướng giá trị là những biểu tượng của con người về
những mục đích chủ yếu của cuộc đời và các phương tiện cơ bản đạt những mục tiêu ấy.
Định hướng giá trị đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các chương trình hành vi
(ứng xử) lâu dài. Chúng hình thành trên cơ sở những nhu cầu của chủ thể về việc nắm
vững những hình thức cơ bản của hoạt động sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể
xác định và do tính chất của các quan hệ xã hội quy định. Các quan hệ xã hội này là
nguồn gốc khách quan hình thành những nhu cầu của chủ thể1.
Các nhà Tâm lý học xã hội quan tâm tới ý nghĩa tích cực hoặc tiêu cực của các giá
trị đối với cá nhân và nhóm. Họ cho rằng: hệ thống định hướng giá trị phản ánh hệ tư
tưởng và văn hóa của xã hội, cơ sở bên trong của những quan hệ của con người đối với
những giá trị khác nhau có tính vật chất, chính trị, tinh thần và đạo đức. Định hướng giá
trị của nhóm hình thành trong quá trình hoạt động cùng nhau (phụ thuộc vào vị trí của
nhóm trong hệ thống các quan hệ xã hội).
“Định hướng giá trị là thái độ lựa chọn của con người đối với các giá trị vật chất
và tinh thần, là một hệ thống tâm thế, niềm tin, sở thích được biểu hiện trong hành vi của
con người”2.
“Định hướng giá trị là thái độ, là sự lựa chọn các giá trị vật chất và tinh thần, là hệ
thống tâm thế, niềm tin, sở thích của con người đối với một giá trị nào đó”3.

“Định hướng giá trị là sự phản ánh chủ quan, có phân biệt các giá trị trong ý thức
và tâm lý con người. Định hướng giá trị của mỗi người mang những nét riêng biệt đặc
trưng của người đó. Con người sống trong môi trường nào, thành phần xã hội nào, thuộc
thành phần xã hội nào, đều mang những nét chung nhất của nó về định hướng giá trị.
Định hướng giá trị không phải là bất biến, nhất là các giá trị vật chất, nó có sự thay đổi
theo môi trường sống và hoạt động thực tiễn” 1.
Nhìn chung, các khái niệm định hướng giá trị nêu trên, dù được định nghĩa khác
nhau nhưng đều thống nhất:
+ Thừa nhận nó là một hiện tượng tâm lý và có nguồn gốc khách quan, nảy sinh
trong quá trình hoạt động, tác động tích cực qua lại giữa con người và thế giới khách
quan trên cơ sở nắm vững hệ thống kinh nghiệm xã hội - lịch sử loài người.
+ Định hướng giá trị hình thành thông qua quá trình cá nhân gia nhập vào các quan
hệ xã hội, hoạt động sống cơ bản và là chủ thể của hoạt động đó, chiếm lĩnh (nắm vững)
các kinh nghiệm xã hội - lịch sử.
+ Trong quá trình định hướng giá trị, bao giờ cũng bao hàm yếu tố nhận thức
(đánh giá) và tình cảm.
+ Nó là cơ sở bên trong của hành vi, quyết định lối sống của cá nhân. Định hướng
giá trị như là xu hướng nhân cách hướng tới giá trị nào đó, là cơ sở điều chỉnh hành vi
con người và là thành phần trong cấu trúc nhân cách.
Như vậy, có thể hiểu: Định hướng giá trị là sự phản ánh chủ quan các giá trị trong
ý thức của con người, là sự xác định giá trị của các cá nhân, trên cơ sở đó hình thành lối
sống, phong cách giao tiếp và toàn bộ hành vi của cá nhân.
Hay nói cách khác, định hướng giá trị là thái độ, là sự lựa chọn các giá trị (vật chất
hay tinh thần), là một hệ thống tâm thế, niềm tin, sở thích của con người đối với một giá
trị nào đó.
Khái niệm định hướng giá trị thường được hiểu theo hai nghĩa:

- Mỗi cá nhân hay cộng đồng nào đó định hướng giá trị cho mình có nghĩa là lựa
chọn cho mình một giá trị hoặc hệ thống giá trị nào đấy.
- Mỗi cá nhân hay cộng đồng định hướng giá trị cho một người hay tập thể nào
đấy có nghĩa là giáo dục giá trị.
Định hướng giá trị của con người thể hiện ở những cấp độ khác nhau:

+ Cấp độ nhận thức.

+ Cấp độ chủ thể mong muốn đạt được những giá trị.

+ Cấp độ hành vi của chủ thể.

2. Định hướng giá trị và một số khái niệm liên quan:

- Định hướng giá trị và “hướng sống” (xu hướng sống).

Theo cách tiếp cận hệ thống, khi phân tích hành vi của con người cần xuất phát từ
hệ thống động cơ của họ. Trong cuộc sống, con người thường hướng vào một hệ thống
giá trị để xác định hướng sống của mình. Định hướng giá trị thường nhắm vào một số giá
trị cụ thể. Charler Morris đã tiến hành nghiên cứu những hướng sống được sinh viên 6
quốc gia sau đây yêu chuộng: Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Canađa và Na Uy
với 5 chiều hướng nổi bật1:
+ Bao hàm sự yêu chuộng cuộc sống, có trách nhiệm, biết tự kiềm chế, đánh giá
cao và bảo tồn những gì con người đã đạt được.
+ Con người có hành động đầy nghị lực để vượt qua mọi trở ngại, đem lại sự hoan
hỉ.
+ Nhấn mạnh giá trị của một cuộc sống nội tâm với tự ý thức về bản thân phong
phú và cao độ.
+ Đề cao sự cởi mở đối với con người và thiên nhiên.

+ Đặt lương tâm ở sự hưởng lạc, thỏa mãn lạc thú của cuộc sống.

- Định hướng giá trị và “thái độ”

+ Trong Tâm lý học xã hội, thì “thái độ” là sự sẵn sàng ổn định của cá nhân để
phản ứng với một tình huống hay một phức thể tình huống, thái độ vốn có xu hướng rõ rệt
hình thành theo quy luật nhất quán phương thức xử thế của các cá nhân.
+ Nhà Tâm lý học xã hội Hoa Kỳ G.V. Onparte đã đồng nhất khái niệm “thái độ”
với trạng thái thần kinh và tâm lý của sự sẵn sàng, được tạo ra trên cơ sở kinh nghiệm, nó
có ảnh hưởng điều khiển năng động tới những phản ứng của cá nhân đối với những
khách thể và tình huống gắn liền với cá nhân đó2.
+ D.N. Uzơnatze (Tbilixi) cho rằng, thái độ là một trạng thái toàn vẹn của chủ
thể… đó là sự phản ứng cơ bản đầu tiên đối với tác động của tình huống, trong đó chủ
thể phải đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ.

+ Các quan niệm trên đây, quan tâm nhiều hơn khía cạnh tâm lý cá nhân trong
thái độ. Có một số quan niệm nói đến vấn đề thái độ trong mối quan hệ của con người
(M. Hipsơ, N. Phorvec, V.N. Miaxisev…). Chẳng hạn, V.N. Miaxisev quan tâm tới nội
dung của mối quan hệ giữa con người – con người trong vấn đề thái độ. Còn M. Hipsơ
thì dùng “khuôn mẫu thái độ” là một hiện tượng tâm lý xã hội với tư cách là sự sẵn sàng
phản ứng nảy sinh trong những nhóm nhất định và trong những tình huống cụ thể.
Như vậy, trong khái niệm định hướng giá trị có vấn đề thái độ (thái độ đánh giá,
thái độ cảm xúc và thái độ lựa chọn các giá trị mà chủ thể chấp nhận). Thái độ và định
hướng giá trị có quan hệ với nhau, nhưng chúng phân biệt với nhau về nội dung và tính
chất.
- Định hướng giá trị và “tâm thế”

Liên quan với quá trình định hướng giá trị có vấn đề “tâm thế”. Về vấn đề này, có
nhiều quan niệm khác nhau1:
+ Lý thuyết tâm thế của trường phái Tbilixi (Gruzia) cho rằng: tâm thế là sự
chuẩn bị từ trước của cá nhân, của nhóm xã hội - để tiếp nhận môi trường xung quanh và
sự sẵn sàng hành động để thực hiện nhu cầu cấp bách. Ở đây, tâm thế có quan hệ tới định
hướng giá trị nhân cách và định hướng giá trị xã hội, song khó có thể đồng nhất chúng
với nhau.
+ Trong khi đó, I.X. Côn có ý định đồng nhất định hướng giá trị với tâm thế, Ông
cho rằng: định hướng giá trị là một hệ thống tổng thể của các tâm thế, dưới ảnh hưởng
của nó mà cá nhân (hoặc nhóm) tri giác tình huống và lựa chọn phương thức hành động
tương ứng.
+ Trường phái xã hội học lại xem tâm thế như là một bộ phận, một thành tố của
định hướng giá trị nằm trong cấu trúc phức hợp của nhân cách.
+ Trong thực tế hoạt động, có khi có sự trùng hợp giữa tâm thế xã hội và định
hướng giá trị, khi đó “tâm thế xã hội có thể được xuất hiện như là một định hướng giá trị”.
Thực ra, việc thực hiện các nhu cầu có sự tham gia của nhiều yếu tố trong một mối
quan hệ chi phối lẫn nhau: nhu cầu, lợi ích, động cơ, định hướng giá trị, tâm thế…
Không nên đồng nhất định hướng giá trị và tâm thế.
- Định hướng giá trị và nhân cách

Nói đến nhân cách là nói đến một tổ hợp các thuộc tính của cá nhân nói lên bộ
mặt tâm lý – xã hội, bản sắc của cá nhân, cốt cách làm người của cá nhân, quy định hành
vi xã hội của cá nhân đối với thế giới, với xã hội, với người khác và với bản thân. Nhân
cách có bản chất xã hội - lịch sử, là nền văn hóa xã hội, kinh nghiệm xã hội - lịch sử biến
thành cái riêng của mỗi con người thông qua hoạt động, quan hệ giao tiếp của con người
trong xã hội. Nói đến cấu trúc nhân cách, người ta thường nói đến sự thống nhất giữa
phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài, một tổ hợp thống nhất, có quan hệ chặt chẽ, chi
phối lẫn nhau giữa bốn nhóm thuộc tính tâm lý cơ bản của nhân cách: xu hướng, khí chất,
tính cách và năng lực. Phát triển nhân cách là một trong những mặt cơ bản của phát triển
người. Con người ta sinh ra chưa có nhân cách. Nhân cách là một cấu tạo tâm lý mới, là
sản phẩm của đời sống do con người tự hình thành và phát triển trong cuộc sống vui chơi,
học tập, lao động, hoạt động xã hội, trong mối quan hệ giao tiếp giữa con người và con
người, trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Hệ thống giá trị và định hướng giá trị như là
thành phần quan trọng cơ bản của nhân cách.
Nhân cách chính là mối quan hệ - mức độ phù hợp giữa thang giá trị, thước đo giá
trị của chủ thể với thang giá trị và thước đo giá trị của nhóm, cộng đồng xã hội, nhân loại.
Mức độ và phạm vi phù hợp càng cao - nhân cách càng lớn.
Con người giá trị cao nhất được đề cao với tư cách một cá nhân trong cộng đồng.
Điều đó liên quan tới nhân cách với tư cách là cốt cách làm người và liên quan trước tiên
đến cá tính và giá trị bản thân.
3. Vai trò của định hướng giá trị:

-Định hướng giá trị quy định mục đích hoạt động của con người, nó có ý nghĩa
vạch ra xu hướng hoạt động của cá nhân. Khi nhận thức rõ các giá trị mà mình đang
hướng tới, sẽ là cơ sở để chủ thể lập các chương trình hành động, phác thảo các đường
lối chiến lược hành vi và tổ chức hành động. Chính định hướng giá trị là cơ sở bên trong
của hành vi, quyết định lối sống cá nhân.
Định hướng giá trị như là yếu tố trung tâm, từ đó chi phối mọi suy nghĩ và đời
sống tâm lý của con người. Khi có định hướng giá trị, con người sẽ nỗ lực khắc phục khó
khăn, thực hiện bằng được hoạt động và tổ chức hoạt động hướng vào các mục đích cơ
bản đã xác định của cuộc sống.
-Định hướng giá trị là yếu tố quan trọng của cấu trúc nhân cách, được củng cố bởi
kinh nghiệm sống của cá nhân, bởi tập hợp những trải nghiệm của nó, giúp cá nhân phân
biệt cái có ý nghĩa, cái bản chất thiết thân đối với người đó khỏi cái vô nghĩa, cái không
bản chất. Định hướng giá trị là cơ sở bên trong của hành vi, quyết định nhân cách, lối
sống cá nhân.

-Tập hợp những định hướng giá trị đang tồn tại tạo nên nét đặc biệt của ý thức,
bảo đảm tính kiên định của nhân cách, sự kế thừa hành vi và hoạt động theo phương thức
xác định. Chúng biểu thị xu hướng của các nhu cầu và hứng thú, là nhân tố quan trọng nhất
điều chỉnh và quyết định hệ động cơ của nhân cách. Định hướng giá trị chi phối, điều chỉnh
hành vi, hoạt động của con người.
-Nội dung cơ bản của định hướng giá trị là những niềm tin chính trị, triết học (thế
giới quan), đạo đức của con người, những khát vọng sâu xa và liên tục, các nguyên tắc
chân, thiện, mỹ của hành vi. Nó xác định xu hướng của con người: những nỗ lực ý chí,
sự phát triển chú ý và trí tuệ. Các cơ chế tác động và phát triển của định hướng giá trị
gắn liền với việc tất yếu phải giải quyết những mâu thuẫn và xung đột trong lĩnh vực hệ
động cơ, trong sự lựa chọn những hoài vọng của nhân cách, tức là những mâu thuẫn có
hình thức biểu đạt chung nhất là cuộc đấu tranh giữa nghĩa vụ và ham muốn, giữa các
động cơ đạo đức và kích thích thực dụng.
-Trong thực tế, một giá trị khi đã được con người lựa chọn thì nó có tác dụng chỉ
đạo hoạt động, sự suy nghĩ, tình cảm, tâm hồn con người nói chung. Vì vậy, khi có được
định hướng giá trị, con người thì có thể dự đoán được thái độ, hành vi của họ, do đó sẽ có
cách đối nhân xử thế thích hợp, các nhà quản lý có thể đề ra các chủ trương biện pháp
hợp lí.
-Sự phát triển định hướng giá trị là dấu hiệu của sự chín muồi nhân cách, là chỉ
tiêu đo tính xã hội của nhân cách. Tập hợp bền vững và không mâu thuẫn các định hướng
giá trị quyết định những phẩm chất nhân cách như: tính mục đích, tính tự tin, năng lực
nỗ lực ý chí vì những lý tưởng và giá trị đã lựa chọn, tính tích cực của nhân sinh quan
(lối sống và sự thực hiện đạo đức).
-Hệ thống định hướng giá trị phản ánh hệ tư tưởng và văn hoá của xã hội, cơ sở
bên trong của những quan hệ của con người đối với những giá trị khác nhau có tính vật
chất, chính trị, tinh thần và đạo đức.
-Định hướng giá trị là những cơ sở tư tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ… của các
đánh giá bởi chủ thể với thực tại xung quanh và những định hướng của chủ thể trong thực
tại đó do ảnh hưởng của kết quả đánh giá. Do đó, định hướng giá trị chính là phương thức
mà chủ thể áp dụng để phân biệt các sự vật theo ý nghĩa của chúng đối với chính mình,
từ đó hình thành nội dung cơ bản của xu hướng, động cơ hoạt động. Như vậy, ngoài
những khía cạnh đạo đức, thẩm mỹ… định hướng giá trị có quan hệ mật thiết đến các
mặt nhận thức, ý chí và cảm xúc (trải nghiệm) trong sự phát triển nhân cách.
-Định hướng giá trị là cơ sở để lĩnh hội giá trị tinh thần và văn hóa xã hội cũng như
việc biến nó thành cái kích thích, cái động cơ hành vi thực tiễn người. Việc hình thành các
định hướng giá trị chính là việc thúc đẩy sự phát triển của cá nhân nói chung. Vấn đề
định hướng giá trị rất quan trọng, bởi vì nó không những chỉ ảnh hưởng đến việc chọn
lựa hoạt động sống mà còn cả việc chọn lựa vị trí, cũng như lối sống của các nhóm xã
hội khác nhau trong một cơ cấu xã hội cụ thể.
-Định hướng giá trị là một trong những yếu tố quan trọng của cấu trúc nhân cách.
Nếu định hướng đúng sẽ xác định phương hướng hành động, điều chỉnh động cơ hoạt
động cá nhân cho phù hợp.
-Định hướng giá trị giúp con người lập chương trình cho hành động của mình
trong một thời gian dài, đồng thời định hướng giá trị có thể quy định trực tiếp hành vi,
thậm chí từng thao tác, động tác của con người. Nó là nhân tố trung tâm chi phối mọi suy
nghĩ, điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người, từ đó, hướng hoạt động tới mục đích
cơ bản của cuộc đời.
-Định hướng giá trị gắn liền với việc giải quyết những mâu thuẫn, những xung đột
trong động cơ cá nhân, từ đó, tạo nên động lực trong hành động của con người.
-Nội dung cơ bản của định hướng giá trị là niềm tin, thái độ, quan điểm của con
người đối với hệ thống giá trị của thế giới.
-Định hướng giá trị là lấy cách hiểu về giá trị, cách đánh giá con người, xã hội và
thiên nhiên…làm cơ sở cho những gì liên quan tới cái phải làm: một sự lựa chọn, một
cách đánh giá, một cách nhìn, một điểm tựa của niềm tin, một mục đích của sự tiến tới.
Chính vì vậy, công việc cốt lõi của định hướng giá trị là giáo dục giá trị mà ngày nay có
nước như Philippin lấy môn giáo dục giá trị thay cho môn đạo đức. Ở đây ta thấy, nhân
cách được hình thành và phát triển bằng hoạt động và thông qua hệ thống giá trị, thang
giá trị, thước đo giá trị, định hướng giá trị, trong đó có một nội dung cơ bản là vấn đề lợi
ích, bao gồm lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, lợi ích tập thể và lợi ích quốc gia…
-Việc nghiên cứu định hướng giá trị có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giáo dục -
đào tạo thế hệ trẻ, hướng thế hệ trẻ tới những nhân cách toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát
triển của xã hội.
4. Quá trình định hướng giá trị:

Định hướng giá trị hình thành thông qua sự chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội và
thể hiện trong các mục đích, tư tưởng, chính kiến, ham muốn của nhân cách. Sự phát
triển định hướng giá trị là dấu hiệu của sự chính muồi nhân cách.
Hệ thống định hướng giá trị của cá nhân không phải bất biến mà được hình
thành và thay đổi liên tục dưới ảnh hưởng của các điều kiện xã hội, tương ứng với
các đặc điểm tâm lý của cá nhân và nằm trong quá trình xã hội hóa. Định hướng giá
trị hình thành trên cơ sở những nhu cầu của chủ thể về việc lĩnh hội những hình thức
cơ bản của hoạt động sống trong điều kiện lịch sử cụ thể xác định và do tính chất của
các quan hệ xã hội quy định.
Có nhiều quan điểm khác nhau về quá trình định hướng giá trị. Trong cuốn
“Các giá trị và dạy học”, các tác giả Paths, Harmin và Simon đã trình bày bảy giai
đoạn của quá trình định hướng giá trị (coi là các thang đo, các tiêu chuẩn để xác định
giá trị). Bảy giai đoạn trên dựa trên ba quá trình cơ bản sau: Chọn lựa giá trị, cân
nhắc và hành động1.
a. Chọn lựa giá trị

- Lựa chọn tự do: là sự lựa chọn không bị thúc đẩy bởi một quyền lực hay
một sự cưỡng bách nào đó mà cá nhân tâm niệm, gửi gắm vào một sở thích, một mục
đích nào đó. Cá nhân hoàn toàn xem xét, cân nhắc gắn với sở thích, hứng thú hoặc
hoạt động của mình.
- Chọn từ các khả năng lựa chọn khác nhau: sự lựa chọn này dựa trên các
khả năng đã được lựa chọn, dựa trên một tiêu chuẩn nhất định thích hợp làm cơ sở
cho một sự quan tâm, một chủ định hay một hành động của cá nhân.
- Chọn sau khi đã dự đoán về các kết quả có thể có của từng khả năng lựa
chọn: giai đoạn này diễn ra quá trình cá nhân dự đoán được kết quả của từng khả
năng lựa chọn. Chỉ khi các kết quả của các khả năng lựa chọn đã được phân tích và
quán triệt, lúc dó cá nhân mới tiến hành lựa chọn một khả năng thông minh, đúng
đắn nhất và do đó mới chuyển thành giá trị.
b. Đánh giá (cân nhắc)

- Cân nhắc và tâm niệm: cá nhân cảm thấy vui mừng với những lựa chọn đã
tiến hành (biểu thị tâm trạng của cá nhân đối với các giá trị được lựa chọn).

Khi con người ấp ủ, tâm niệm hoặc cân nhắc một cái gì đó mà người ta có
cảm tình với nó. Các giá trị phát triển từ các lựa chọn mà người ta đã thực hiện một
cách vui vẻ. Khi đã tâm đắc, cân nhắc, có nghĩa là người ta đã thỏa mãn và vui mừng
với lựa chọn mình đã làm và sẽ được sử dụng làm hướng dẫn trong đời sống hàng
ngày của cá nhân.
- Sẵn sàng khẳng định sự lựa chọn đó một cách công khai (tỏ thái độ đối với
những giá trị đã được lựa chọn).
Khẳng định là kết quả thu đuợc sau khi các lựa chọn đã được cân nhắc và tâm
niệm, bởi vì chỉ sau khi khẳng định, người ta mới sẵn sàng gắn bó với các lựa chọn
đó.
c.Hành động

- Hành động theo lựa chọn: đây là giai đoạn rất quan trọng, bởi vì chính
thông qua hành động mà lựa chọn được bộc lộ bản chất.
- Lặp lại hành động: đây là bước cuối cùng trong quá trình định hướng giá trị.
Các giá trị phải được biểu lộ sự lặp lại trong hành động, lối sống của mỗi người. Mỗi
cá nhân hành động phù hợp và kiên trì theo các giá trị mà cá nhân ấp ủ, tâm niệm.
Có thể cụ thể hóa quá trình định hướng giá trị như sau:
Các quá trình Các giai đoạn
Chọn lựa 1. Tự do.

2. Từ các khả năng lựa chọn khác nhau.

3. Sau khi dự đoán kết quả của từng khả năng lựa chọn.
Cân nhắc 4. Tâm niệm, cảm thấy vui mừng với những lựa chọn đã tiến
(đánh giá) hành.
5. Sẵn sàng khẳng định sự lựa chọn đó một cách công khai.
Hành động 6. Làm một cái gì đó theo sự lựa chọn.

7. Lặp lại hành động một vài dịp theo mẫu đó trong đời.
Tập hợp các quá trình trên xác định sự đánh giá giá trị. Kết quả của quá trình định
hướng giá trị là khẳng định được giá trị.
Con người luôn tồn tại trong các mối quan hệ xã hội phong phú, đa dạng, vì vậy,
hệ thống các giá trị mà họ hướng tới luôn phản ánh sự phong phú và đa dạng của các mối
quan hệ xã hội đó.
Nếu căn cứ vào ý nghĩa xã hội hay cá nhân của những mục đích mà con người
hướng tới, thì có hai loại: định hướng giá trị xã hội và định hướng giá trị cá nhân.

Nếu căn cứ vào đối tượng của sự định hướng giá trị, thì có: định hướng giá trị vật
chất và định hướng giá trị tinh thần.
Nếu căn cứ vào ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của những giá trị mà con người
đang theo đuổi, thì có: định hướng giá trị tích cực và định hướng giá trị tiêu cực.
Như vậy, trên bình diện khái quát nhất có thể thấy rằng, quá trình hình thành định
hướng giá trị của cá nhân dựa trên các giai đoạn cơ bản: nhận thức, cảm xúc và hành
động. Định hướng giá trị của cá nhân hình thành dưới tác động của môi trường xã hội,
trong đó các giá trị cá thể, giá trị nhóm, giá trị xã hội đồng thời tác động và đan xen
nhau. Tuy nhiên, trong quá trình đó, nhân cách không thụ động mà là thành phần tích
cực của các quan hệ xã hội và tương tác xã hội.
II. THỰC TRẠNG VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM:
1. Đặc trưng chung về định hướng giá trị của thanh niên:

Bước chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa đã tác động và làm thay đổi, chuyển dịch sự
định hướng giá trị con người Việt nam, đặc biệt là thanh niên. Các giá trị được thanh
niên lựa chọn:
* Giá trị việc làm và sự lập nghiệp được thanh niên lựa chọn và xếp ở thang bậc
cao nhất. Hiện nay, việc làm là mối quan tâm hàng đầu, giá trị quan trọng nhất của thanh
niên. Nguyện vọng đó của thanh niên là hết sức chính đáng và cần được tôn trọng.
- Biểu hiện về định hướng giá trị của thanh niên trong lĩnh vực nghề nghiệp và
việc làm1:
+ Nghề nghiệp và việc làm - mối quan tâm hàng đầu, giá trị quan trọng của thanh
niên hiện nay: 73,2% thanh niên cho rằng, nghề nghiệp và việc làm là mối quan tâm số
một của họ so với học tập và phát triển tài năng: 49,2%; tình yêu, hôn nhân gia đình:
37%; thu nhập làm giàu: 24,4%... Như vậy, đại đa số thanh niên đánh giá rất cao ý nghĩa
nhiều mặt của nghề nghiệp và việc làm đối với họ chứ không chỉ đơn thuần là thu nhập
và làm giàu.

Thanh niên công nhân (82,9%) và thanh niên sinh viên (81,2%) quan tâm đến vấn
đề này nhiều hơn thanh niên nông dân (63,9%). So sánh kết quả nghiên cứu trong thanh
niên có trình độ khác nhau, lứa tuổi khác nhau, thấy bộc lộ rõ xu hướng những người được
trải nghiệm nhiều, được đào tạo nhiều hơn, gắn bó với đời sống và văn hóa công nghiệp
thường xuyên hơn tỏ ra băn khoăn nhiều hơn về việc làm, nghề nghiệp. Như vậy, có thể
giả định: mức độ quan tâm đến việc làm, nghề nghiệp như là một biểu hiện của định hướng
giá trị phụ thuộc khá chặt chẽ vào yếu tố nhận thức, kinh nghiệm sống nói chung của nhân
cách thanh niên.
Giá trị của việc làm và nghề nghiệp còn chi phối nhiều lĩnh vực khác trong nhận
thức, thái độ và hành vi của thanh niên. Khi được hỏi về động cơ của việc học thêm của
thanh niên hiện nay, 51,9% số người được hỏi cho rằng để dễ tìm việc làm hơn (thanh
niên sinh viên là 71,8%) so với để dễ đổi nghề hơn 14,7%, để thành đạt nghề nghiệp
36,5%,… Rõ ràng, xu hướng thanh niên chủ động học thêm, nhất là tiếng nước ngoài và
tin học rất phổ biến. Họ còn tự chọn, tự tìm đến học nghề ở những cơ sở đào tạo nghề
ngắn hạn của tư nhân và các chương trình mở rộng.
Tầm quan trọng của việc làm và nghề nghiệp còn được thể hiện trong các tiêu
chuẩn chọn người yêu lý tưởng của thanh niên. Có đến 30,7% số người được hỏi cho là
có việc làm ổn định là một tiêu chuẩn quan trọng của người yêu lý tưởng của họ. Về mặt
này, có sự khác biệt: thanh niên công nhân 48,75%; thanh niên sinh viên 27,3%. Điều đó
là dễ hiểu do quy định của tính chất nghề nghiệp mà họ đang sống và hoạt động.
Khi được hỏi về những đề xuất của thanh niên đối với Đảng và Nhà nước, thì có
đến 76,8% đề nghị Nhà nước cần quan tâm đối với việc giải quyết việc làm cho thanh
niên.
Như vậy, lựa chọn nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm cho bản thân như một giá trị
hàng đầu của thanh niên hiện nay, nó chi phối toàn bộ nhận thức, lối sống và hoạt động
của họ; nó có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách của thanh niên.
+ Lí do thanh niên có sự đánh giá cao về tầm quan trọng của nghề nghiệp và việc
làm:
Theo kết quả điều tra xã hội học, có đến 51,4% số thanh niên được hỏi chưa có
việc làm hoặc việc làm chưa ổn định. Theo số liệu của các ngành có liên quan thì hàng
năm cần tìm việc làm cho xấp xỉ một triệu người bước vào lao động từ các nguồn: học
xong, bộ đội xuất ngũ… Hiện tại, số người cần có việc làm, trong đó chủ yếu là thanh
niên đang là con số quá tải đối với khả năng đáp ứng.
Hơn nữa, ngay cả những người đang có việc làm như thanh niên công nhân cũng
có đến 24,1% số người được hỏi rằng họ không hài lòng với công việc đang làm. Có đến
32,7% số thanh niên được hỏi trả lời rằng họ không hài lòng về nghề của mình. 59% số
thanh niên được hỏi cho rằng, nếu được phép và có điều kiện thì họ sẽ tìm cho mình một
công việc khác. Rõ ràng, cùng với một số thanh niên đang thất nghiệp, số thanh niên
chưa yên tâm với nghề nghiệp, việc làm, muốn đổi nghề cũng góp phần làm gia tăng tính
cấp bách của nghề nghiệp, việc làm đối với thanh niên.
Thực trạng mức thu nhập thấp của thanh niên hiện nay cũng là một yếu tố quan
trọng dẫn đến những thay đổi trong định hướng giá trị nghề nghiệp, việc làm: chỉ có
10,4% số thanh niên được hỏi hài lòng với mức thu nhập hiện nay của bản thân, các tỉnh
phía Nam có 8%. Có 40,4% không hài lòng với thu nhập của bản thân và 31,4% hài lòng
một phần. Mức độ không hài lòng cao như trên tạo ra khả năng chuyển đổi nghề và tìm
việc làm tăng lên.
+ Hứng thú nghề nghiệp và động cơ chọn nghề của thanh niên:
Hứng thú nghề nghiệp: Hiện nay, thanh niên chọn những nghề vừa dễ tìm việc làm
vừa có thu nhập cao.
Xu hướng chung của thanh niên thành phố là chọn những ngành, nghề kinh
doanh, tài chính đang có thu nhập cao trong kinh tế thị trường và những nghề trong thành
phần kinh tế mới, hiện đại như điện tử, tin học, văn phòng, công ty liên doanh, liên kết…
nghề kinh doanh 36,7%; tài chính kế toán 33,7%; quản lý, lãnh đạo 38,4%…. Còn ở nông
thôn, sau sản xuất nông nghiệp là những nghề kinh doanh, kinh tế, công nhân,… được
thanh niên nông thôn lựa chọn nhiều hơn cả.
Nhìn chung, xu hướng chọn nghề của thanh niên còn mang nặng tính tự phát cá
nhân, xuất phát từ những nhu cầu, sở thích cá nhân và nhu cầu trước mắt của thị trường
lao động. Vai trò tư vấn nghề nghiệp cho thanh niên của xã hội còn mờ nhạt, chưa định
hướng cho họ vào những ngành nghề thuộc các lĩnh vực kinh tế cơ bản và chủ yếu theo
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội lâu dài của đất nước, nhất là các lĩnh vực như phát
triển nông nghiệp, lâm nghiệp,…
Động cơ chọn nghề của thanh niên: Nhìn chung là lành mạnh và tích cực, phù hợp
với yêu cầu của xã hội. Khi được hỏi vì sao bạn chọn nghề này hay nghề kia cho bản
thân thì 45,7% thanh niên được hỏi trả lời vì nó hợp với năng lực của mình, vì sự phát
triển của xã hội, con người: 15%, và có thu nhập cao: 13,6%; phù hợp với sức khỏe:
8,8%; được xã hội coi trọng: 5,8%; được nhàn hạ, ít vất vả: 3%.
+ Quan niệm của thanh nhiên về ý nghĩa của việc làm đối với họ:

Đa số thanh niên có sự quan tâm đúng đắn về ý nghĩa của công việc họ đang làm
đối với bản thân và xã hội. 78% cho rằng việc làm của họ góp phần tạo ra của cải cho xã
hội; 78% cho rằng phải có việc làm thì mới sống lương thiện được; 68% quan niệm rằng
việc làm gì bây giờ cũng phải có trí tuệ; 58% cho rằng việc làm nhằm nuôi sống bản thân
và gia đình… Đồng thời cũng có một bộ phận thanh niên công nhân (39%) chỉ chú ý đến
mặt thu nhập của việc làm. Họ quan niệm rằng, làm gì cũng được miễn là có thu nhập
cao. 34% cho rằng, vấn đề là khéo xoay xở trong công việc chứ không phải là tay nghề
cao mới ấm thân. Đối với bộ phận thanh niên này rất cần định hướng cho họ về giá trị xã
hội của việc làm đối với con người, giúp họ có thái độ tích cực trong làm việc, vừa mang
lại lợi ích cho bản thân đồng thời cả lợi ích cho xã hội.
+ Quan niệm của thanh niên về các yếu tố giúp họ thành đạt trong lập nghiệp hiện
nay:
Theo ý kiến chung của thanh niên, các yếu tố hàng đầu giúp họ thành công trong lập
nghiệp là: vốn (62,1%); ý chí nghị lực (35,1%); kinh nghiệm (33,7%); tay nghề (31%);
học vấn (30,5%). Một số yếu tố hết sức quan trọng lại giữ vị trí thấp như: thông tin kinh
tế xếp thứ chín (12,2%); chính sách xếp thứ mười (11%). Kết quả trên phản ánh một thực
tế là trên 50% số người được hỏi là thanh niên nông thôn. Những lĩnh vực lập nghiệp của
họ chủ yếu thuộc ngành nghề sản xuất nông nghiệp, vì vậy các yếu tố như vốn, kinh
nghiệm, tay nghề… là hết sức quan trọng. Còn đối với thanh niên sinh viên thì quan niệm
của họ có khác nhiều: học vấn (51,3%); nghệ thuật kinh doanh (49,9%); vốn (45,5%); ý
chí, nghị lực (45,2%); thời cơ (35%);…Điều này phản ánh lĩnh vực ngành nghề mà thanh
niên sinh viên sẽ lập nghiệp khác thanh niên nông dân; đó là những nghề đòi hỏi có tri
thức khoa học – kỹ thuật, có trí tuệ chứ không phải là các nghề lao động thủ công.
Hiểu được các quan niệm trên, trong khả năng cho phép, chúng ta có thể giúp đỡ,
tạo điều kiện cho thanh niên, giúp họ hành trang vào đời và thành công trên con đường lập
nghiệp của mình.
- Một số biến đổi về định hướng giá trị thuộc lĩnh vực nghề nghiệp, việc làm của
thanh niên trong cơ chế thị trường hiện nay:
+ Cơ chế thị trường tạo cho thanh niên khả năng tự do lựa chọn nghề nghiệp và
việc làm rất lớn so với trước kia. Điều đó tạo cho thanh niên tính tích cực, chủ động cao
trong việc chuẩn bị nghề nghiệp và lựa chọn việc làm cho mình. Sự tự do lựa chọn đó tạo
nên sự cạnh tranh trong tìm kiếm việc làm, buộc thanh niên phải không ngừng hoàn thiện
mình, nâng cao tay nghề;… Thanh niên ít quan tâm đến ranh giới các thành phần kinh
tế; ở đâu cũng được, miễn là có việc làm phù hợp và có thu nhập cao, nhiều thanh niên
chọn việc làm ở khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế liên doanh,…
+ Thanh niên có xu hướng chọn những nghề dễ tìm việc và có thu nhập cao, họ
quan tâm đến việc làm nhiều hơn là chọn nghề mình hứng thú. Nhiều khi họ phải đứng
trước một mâu thuẫn: chọn nghề mình thích hay là chọn việc làm có thu nhập cao. Thanh
niên có xu hướng quan tâm nhiều đến khả năng thu nhập của việc làm hơn là giá trị xã hội
của công việc.
+ Trong sự cạnh tranh của thị trường sức lao động hiện nay, thanh niên có xu
hướng chuẩn bị cho mình giỏi một nghề, biết nhiều nghề, thậm chí cùng một lúc chuẩn
bị nhiều nghề để dễ tìm việc làm. Bản thân quan niệm này chứa đựng nhiều mâu thuẫn
khó vượt qua.
+ Ý chí vươn lên để tăng thu nhập và làm giàu bằng tài năng và sức lao động của
mình trong thanh niên khá rõ nét, nhất là trong thanh niên nông dân và thanh niên các
thành phần kinh tế tư nhân. Đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp trẻ, đây là hiện tượng mới.
- Trong cơ chế thị trường và quá trình công nghiệp hóa, thanh niên đã chủ động
hơn trong định hướng giá trị việc làm, lập nghiệp cho bản thân. Họ quan niệm đúng hơn
về giá trị sức lao động của mình. Đa số thanh niên ngày nay có động cơ đúng đắn về tìm
kiếm việc làm và lựa chọn nghề nghiệp cho mình, thể hiện tính thực tế. Nét mới là những
nghề an nhàn không được quan tâm và đặt ở vị trí cao trong bậc thang giá trị, ngược lại,
những nghề có thu nhập kinh tế cao rất được thanh niên quan tâm.
Hiện nay, vấn đề việc làm và lập nghiệp của thanh niên đang gặp phải không ít
khó khăn và mâu thuẫn trong định hướng. Việc lựa chọn việc làm và nghề nghiệp của họ
một mặt còn mang nặng tính tự phát, phụ thuộc nhiều vào thị trường sức lao động trước
mắt mà ít chú ý đến tính lâu dài để tạo nghiệp. Mặt khác, việc lựa chọn việc làm và nghề
nghiệp còn biểu hiện mâu thuẫn giữa nguyện vọng thiết tha của thanh niên muốn có việc
làm với nghề chính đáng, phù hợp với bản thân với khả năng giải quyết việc làm của xã
hội. Mâu thuẫn giữa việc thanh niên không có việc làm với tư tưởng không muốn đi làm
xa thành phố, ở những nơi xa xôi hẻo lánh, điều kiện khó khăn, nơi mà xã hội rất cần sự
có mặt của thanh niên. Mâu thuẫn giữa ý chí cao muốn tự lập nghiệp, làm giàu cho bản
thân và cho xã hội với khả năng rất hạn hẹp của thanh niên về sản xuất kinh doanh,
chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm sống và điều kiện lập
nghiệp khác. Mâu thuẫn giữa khả năng kinh tế để học thêm nhiều nghề và giỏi một nghề,
để thống nhất trong việc lựa chọn việc làm và nghề mình yêu thích, với việc chọn cho
mình việc làm và nghề có thu nhập cao.
Thực tế cho thấy, nhu cầu về lao động trẻ, có học thức, có tay nghề ngày một
tăng, song thị trường lao động vẫn không đáp ứng được, trong khi đó lại còn hàng vạn
người vẫn trong tình trạng thất nghiệp – chủ yếu là thanh niên.
Chúng ta đang đứng trước một nghịch lý: trong khi nhiều thanh niên đang thiếu
việc làm và thất nghiệp thì nhiều xí nghiệp, doanh nghiệp, cơ quan vẫn thiếu cán bộ,
công nhân viên và lao động đã được đào tạo nghề nghiệp. Tình hình đó dẫn đến hiện
trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, nghề không ổn định trong thanh niên và đã trở thành
vấn đề bức bách của xã hội. Những năm qua, việc làm và hướng nghiệp cho thanh niên
luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm trong công tác giáo dục đào tạo thế hệ trẻ. Song
đối với cơ chế hiện nay, vấn đề hướng nghiệp, giải quyết việc làm cho họ không còn đơn
giản mà là vấn đề khó khăn, phức tạp. Nhà nước không có khả năng phân công công tác,
tạo việc làm cho thanh niên, sinh viên tốt nghiệp ra trường. Nền kinh tế thị trường đang
đòi hỏi thanh niên phải tự vận động và thích ứng. Vì vậy, cần phải có chính sách về việc
làm của xã hội nhằm khuyến khích và phát huy tiềm năng của lao động trẻ. Tăng cường
vai trò định hướng của xã hội về nghề nghiệp và việc làm cho thanh niên trong thời kỳ
mới, thông qua các cơ quan làm công tác giáo dục đào tạo, các đoàn thể xã hội, giúp cho
thanh niên có định hướng đúng đắn, đáp ứng với yêu cầu của sự phát triển xã hội và nhu
cầu của thanh niên.
2. Đánh giá về định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam:
2.1. Mặt tích cực:

* Nhận thức về giá trị: tin tưởng vào công cuộc đổi mới, sự phát triển của dân tộc.
Nhìn chung, thanh niên đã thấy được tầm quan trọng và ảnh hưởng to lớn của
đường lối đổi mới, tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc, của loài người; nhạy bén
hơn trong việc xác định những nguyên nhân đưa đến thành công trong lao động và cuộc
sống trong điều kiện kinh tế thị trường, đó là: trí tuệ; tay nghề; chữ tín; quan hệ xã hội;
vốn; ý chí; năng động sáng tạo; thời cơ; sức khoẻ, trách nhiệm cá nhân…
* Tâm trạng và thái độ: động cơ chọn nghề lành mạnh; quan tâm vấn đề kinh tế –
xã hội.
Thanh niên có quan niệm tích cực hơn trong việc học nghề, tìm hiểu kinh nghiệm
làm ăn, chủ động lo việc mưu sinh và lập nghiệp. Động cơ chọn nghề lành mạnh, đúng
đắn; thích du lịch và tham gia các hoạt động văn hoá, thể thao, các phong trào nhân đạo,
xã hội,… Quan tâm nhiều đến các vấn đề kinh tế - xã hội, những thông tin về sản xuất,
kinh doanh, thị trường lao động và văn hoá; ủng hộ đường lối đổi mới.
* Hứng thú và thị hiếu: thích tự do làm ăn; ủng hộ sự phát triển văn hoá dân tộc;
quan tâm sinh hoạt tiện nghi phương tiện.
Thanh niên hiện nay thích mở rộng giao lưu, quan tâm đến các phương tiện văn
hoá hiện đại, muốn học tập tiếng nước ngoài, thích các nghề hiện đại như: tin học, điện
tử, quản lý kinh doanh.

* Nhu cầu và động cơ: có mức sống đảm bảo, việc làm ổn định và thu nhập cao,
xã hội trật tự kỷ cương, quan hệ cởi mở, hữu nghị; được học tập và phát triển tài năng;
học vấn cao; thông minh; tháo vát, biết làm giàu; có tín nhiệm; có trách nhiệm; lòng
nhân ái; sức khoẻ tốt..
* Nguyện vọng và ước mơ: có việc làm tốt và ổn định, đời sống vật chất đầy đủ;
có điều kiện học tập, phát triển tài năng, thỏa mãn các nhu cầu văn hóa; gia đình hòa
thuận, con ngoan, học giỏi; xã hội trật tự, kỉ cương, công bằng, dân chủ.
* Cảm nhận và tự đánh giá: lạc quan, tin tưởng hơn vào cuộc sống, tích cực hơn
trong việc tìm kiếm công ăn việc làm, cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao năng suất
lao động; yêu cầu cao hơn trong nhiều lĩnh vực: thu nhập, việc làm tốt, sống đầy đủ về
vật chất và văn hóa, cá tính và tự do cá nhân,văn hóa thẩm mỹ trong sinh hoạt, giao tiếp
và lao động.
2.2. Mặt hạn chế:

* Về tư tưởng: Chưa thật sự tin tưởng đổi mới thắng lợi; chưa quan tâm đến
những vấn đề xã hội; dao động về lý tưởng phấn đấu.
* Về mưu sinh và lập nghiệp: Lo lắng, không an tâm mưu sinh và lập nghiệp,
không hài lòng với công việc, với mức thu nhập, buôn bán, mai mối giữ vị trí cao trong
các dạng làm thêm để kiếm sống; ích kỉ lo thân, động cơ và trách nhiệm xã hội giảm sút...
* Ý thức pháp luật non kém: số tội phạm tăng, một số thanh niên sống buông
thả, coi trọng đồng tiền, chạy theo lợi nhuận, coi thường giá trị đạo đức… Tâm lí không an
tâm với những gì đã có trong công việc; hoài nghi trong tình yêu, tình bạn, trong quan hệ
với cơ quan, không nhiệt tình trong công tác xã hội.
2.3. Một số vấn đề cần quan tâm giải quyết:

a) Về nhận thức: tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Xã hội theo đường lối đổi mới:
xây dựng một xã hội có kinh tế phát triển cao, chính trị ổn định, có quan hệ xã hội công
bằng, văn minh và dân chủ, bảo đảm quyền tự do làm ăn của người dân, có sự hợp tác
với các nước.
Qua phương tiện thông tin đại chúng và nhà trường, cần giáo dục những kiến thức
về thị trường và sống theo pháp luật lành mạnh, hiện đại; chống tâm lý đua đòi, tiêu xài
xả láng.
b) Về mưu sinh và lập nghiệp: có chủ trương và cơ chế điều tiết nhân lực giữa các
loại thị trường sức lao động ở quy mô lớn nhằm giảm thất nghiệp và lo âu trong quần
chúng. Có chủ trương, chính sách thích hợp nhằm kéo vốn đầu tư về chế biến nông lâm
sản của các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước vào nông thôn và miền núi, nơi đó
nguồn nguyên liệu dồi dào và nhân công rẻ, nhằm dần dần cải tạo bộ mặt nông thôn,
tăng thu nhập cho nông dân, hạn chế việc tập trung dân cư vào thành phố lớn - một trong
những nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội.
Đầu tư vốn, công nghệ, cải tạo cơ sở hạ tầng và đời sống văn hóa ở nông thôn,
kích thích kinh tế hộ gia đình, có các hình thức liên doanh, liên kết thích hợp để giải
quyết vấn đề thị trường nhằm giảm sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị.
Phát triển các tổ chức từ thiện, nhân đạo: dạy học, dạy nghề, chữa bệnh, cứu trợ…
nhằm góp phần giáo dục để khắc phục dần những mặt tiêu cực: thực dụng, cá nhân, vị kỉ.
Ở tầm vĩ mô, cần có một chương trình tổng thể của Nhà nước về đào tạo nghề giải
quyết việc làm thanh niên và kinh tế - xã hội của đất nước. Chương trình này cần có cơ
chế thực hiện rõ các dự án cụ thể về phát triển các trung tâm dạy nghề, xúc tiến việc làm
cho thanh niên, hình thức những đặc khu kinh tế dành cho thanh niên với quy mô thu hút
lực lượng lao động lớn, bao gồm cả kinh tế công – nông – lâm – ngư nghiệp. Nhờ đó,
huy động sức lao động của số đông thanh niên tham gia phát triển kinh tế - xã hội ở vùng
khó khăn, miền núi, hải đảo,…
Cần củng cố, tăng cường vai trò định hướng của xã hội về nghề nghiệp và việc làm
cho thanh niên thông qua các cơ quan làm công tác giáo dục và đoàn thể xã hội, giúp cho
thanh niên có sự tự định hướng đúng đắn phù hợp với yêu cầu của xã hội. Bên cạnh việc
dạy nghề ngắn hạn, cần củng cố lại hệ thống các trường dạy nghề của Nhà nước nhằm
đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, chính quy cho các ngành sản xuất xã hội một cách
lâu dài.
Trước mắt, trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, cần tiếp tục tăng cường các
dự án cho vay vốn, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, tổ hợp sản xuất nhỏ để giải
quyết lao động dư thừa, trong khi chưa có nhiều đội hình kinh tế lớn cho thanh niên.
Cũng cần tính đến các dự án cho thanh niên nông thôn, thanh niên nghèo vay vốn để học
nghề, theo học các trường chuyên nghiệp và đại học để trang bị trình độ nghề nghiệp cho
bản thân.
Xuất khẩu lao động ra nước ngoài cũng là một hướng tích cực góp phần giải
quyết việc làm và trang bị tay nghề tương lai cho thanh niên. Đây là một giải pháp không
chỉ giải quyết những bức xúc dư thừa lao động trước mắt mà còn nhằm đào tạo một đội
ngũ công nhân có tay nghề cao cho đất nước mai sau. Vì vậy, Nhà nước cũng cần có sự
đầu tư thích đáng về kinh phí công tác quản lý, tạo điều kiện giúp thanh niên, chứ không
chỉ dừng lại ở mức độ đi lao động nước ngoài bằng tiền tự túc như hiện nay.
c) Giữ gìn và phát triển các giá trị truyền thống: mở rộng nhiều dạng hoạt động
văn hóa – giao lưu truyền thống lành mạnh và có tính nhân văn cao như: lễ hội, dân ca,
võ dân tộc,… nhằm thu hút thanh niên tự rèn luyện phẩm chất: chân, thiện, mĩ; hạn chế,
lấn át tác hại của những hiện tượng đồi bại, thực dụng, các tệ nạn xã hội.
Tổng kết những hoạt động văn hóa dân gian thời gian gần đây, trên cơ sở đó, đánh
giá và ban hành những yêu cầu, quy chế, chuẩn mực cho hoạt động văn hóa truyền thống
và thích hợp với kinh tế thị trường.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục nhằm hạn chế xu
thế bảo thủ, tạo điều kiện phát triển văn hóa truyền thống trong điều kiện hiện đại.
d) Hình thành ý thức trách nhiệm công dân: qua giáo dục nhà trường, phương tiện
thông tin đại chúng và hệ thống cơ quan đoàn thể, tạo ra ý thức trách nhiệm trong toàn
bộ xã hội, trước hết thể hiện trong việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thực hiện
nhiệm vụ tập thể và cộng đồng nhằm hạn chế tính vị kỉ, lo làm ăn, lơ là trách nhiệm trước
tập thể và sao nhãng việc nước
- căn bệnh phát triển mạnh trong những năm gần đây.

Ban hành đồng bộ các luật cụ thể, tăng cường tính nguyên tắc trong việc thi hành
luật: xét xử, thưởng phạt công minh.
Tuyên dương, khen thưởng, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần bày tỏ lòng biết
ơn và sự kính trọng sâu sắc những người có công với nước, hi sinh quên mình vì dân tộc,
vì cộng đồng, những tấm lòng vị tha, cao thượng, những con người cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư.
Hình thành một số chính sách hợp lí nhằm dung hòa những mâu thuẫn xã hội nảy
sinh trong điều kiện kinh tế thị trường, góp phần ổn định xã hội.
3. Thực trạng định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên:

a. Quan niệm của sinh viên về nghề nghiệp: sinh viên đánh giá cao vai trò của
nghề nghiệp và hiểu đúng ý nghĩa, giá trị của nghề nghiệp. Họ cũng hiểu rõ trong
thời đại khoa học kỹ thuật và công nghệ như hiện nay, tất cả mọi ngành nghề đều phải
sử dụng trí tuệ mới mong có thành công. Đa số sinh viên hiểu được mục đích của lao
động. Theo quan niệm của sinh viên, con người làm việc để có thu nhập nhưng đồng
thời để đạt được một cái gì đó cao hơn, để thấy cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn, để
chứng tỏ rằng trong xã hội này, mình là người có ích. Các giá trị nghề nghiệp được
đánh giá theo thứ bậc: làm việc gì hiện nay cũng phải có trí tuệ (1); nghề tạo của cải
vật chất cho xã hội và bản thân (2); nghề được đào tạo chính quy và sử dụng đúng
chỗ (3); phải có một nghề trong tay mới được xã hội coi trọng (4 )…
Họ không đồng ý với ý kiến cho rằng, không cần làm việc khi đã đầy đủ vật
chất. Sinh viên cũng đã xác định, dù có biết nhiều nghề đi nữa nhưng cần phải giỏi
một nghề và muốn sự nghiệp có triển vọng thì nghề đó phải được đào tạo đầy đủ theo
một quá trình chặt chẽ, Nhà nước phải biết sử dụng đúng người, đúng việc.
b. Những giá trị nghề nghiệp được sinh viên lựa chọn: Nhìn chung, sự lựa
chọn giá trị nghề nghiệp của sinh viên mang tính cơ bản, toàn diện và thiết thực, phù
hợp với quan niệm của sinh viên trong thời kỳ mới. Đa số sinh viên lựa chọn giá trị
nghề nghiệp phù hợp với sở thích, hứng thú, nghề phù hợp với năng lực, sức khỏe.
Điều này chứng tỏ ở sinh viên đã có sự nhận thức và lựa chọn đúng đắn các giá trị
nghề nghiệp. Thứ bậc những giá trị được sinh viên lựa chọn là: nghề phù hợp với hứng
thú, sở thích (1); nghề phù hợp với năng lực cá nhân ( 2); Nghề giúp ích cho nhiều
người (3); nghề làm việc bằng trí óc (4); nghề phù hợp với sức khoẻ (5); nghề được
xã hội coi trọng (6); nghề có điều kiện chăm lo gia đình (7); nghề có điều kiện học
lên (8)…
* Những giá trị nghề nghiệp không được sinh viên lựa chọn và đánh giá cao:
- Nghề dễ chuyển đổi sang nghề khác.

- Nghề phải cạnh tranh, phiêu lưu, mạo hiểm.

c. Các tiêu chuẩn cần thiết để thành đạt trong nghề nghiệp: để đạt được

những giá trị nghề nghiệp được lựa chọn, để thành đạt trong nghề nghiệp đòi hỏi
mỗi người phải có những phẩm chất và năng lực nhất định. Việc lựa chọn những tiêu
chuẩn về năng lực và phẩm chất cho sự thành đạt nghề nghiệp là một biểu hiện đặc
trưng của định hướng giá trị nghề nghiệp. Chỉ khi nào cá nhân xác định được những
yêu cầu, tiêu chuẩn để thành đạt nghề nghiệp thì khi đó họ mới có hướng phấn đấu.
Những tiêu chuẩn đó được xem như là cái đích để mỗi sinh viên vươn tới. Trong các
tiêu chuẩn cho sự thành đạt nghề nghiệp, sinh viên đã lựa chọn 5 tiêu chuẩn sau: kiến
thức chuyên môn giỏi (1); năng lực thực hành tốt (2); đạo đức tốt, coi trọng chữ tín
(3); lòng yêu nghề (4); có năng lực sáng tạo trong công việc (5). Có thể nói, đây là
năm tiêu chuẩn cơ bản nhất cho sự thành đạt một nghề nghiệp phù hợp trong điều
kiện hiện nay.
d. Thái độ của sinh viên đối với nghề nghiệp đang theo học: thông thường, khi một
cá nhân lựa chọn cho mình một nghề nghiệp phù hợp, họ sẽ tích cực hoạt động trong
lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy: sinh viên hài
lòng với nghề nghiệp đã chọn: (63,9%); không hài lòng (32,0%); không rõ ràng
(4,1%). Theo sinh viên, những lý do không hài lòng với nghề nghiệp đang theo học
có thể là: vấn đề việc làm sau ra trường; những giá trị vật chất mà nghề nghiệp mang
lại; sự vất vả, bận rộn trong nghề nghiệp… Chính điều đó cũng đã có những ảnh
hưởng không nhỏ về tính tích cực học tập của sinh viên: chăm chỉ học tập (18,5%);
không lười nhưng không chăm (74,8%); chưa cố gắng trong học tập (6,7%).
e. Nguyện vọng của sinh viên hiện nay: đa số sinh viên quan tâm vấn đề đào tạo,
sử dụng sau khi tốt nghiệp như: đào tạo theo nhu cầu hàng năm của ngành nghề và
tốt nghiệp được phân công hết theo đúng nghề.
Như vậy, trong định hướng giá trị nghề nghiệp, sinh viên có những biểu hiện cơ
bản, đó là:
- Sự trưởng thành về mặt xã hội với những đặc điểm của lứa tuổi như lòng nhiệt
tình, thông minh, sáng tạo, ưa tìm tòi, ham thích cái mới, ghét bảo thủ, lạc hậu, trì
trệ…
- Năng động, hiểu biết thực tế, tính toán hợp lý, ưa sống độc lập, văn minh, hiện
đại.
- Lý tưởng cuộc sống gần gũi, cụ thể; quan điểm sống, nguyên tắc sống, lao
động của sinh viên có khác với các thế hệ cha ông.
Nếu trước đây, con nguời coi trọng tinh thần hơn vật chất, coi trọng đạo lý, xem
nhẹ việc học kỹ thuật thì nay sinh viên có sự thích ứng, năng động, sáng tạo, có cá
tính, có tinh thần độc lập, tự chủ, có khả năng cạnh tranh, hợp tác.
- Đại đa số sinh viên đi tìm hiểu ý nghĩa cuộc sống ở khả năng của mình, ưa sự
thành đạt trong nghề nghiệp và đuợc sống có ích cho mọi nguời.
- Những giá trị đạo đức như: lòng yêu nước, tinh thần tập thể, lòng vị tha, nghĩa
vụ, tính trung thực, thích công bằng, dân chủ vẫn là những tiêu chuẩn cơ bản, những
định hướng giá trị của nhiều sinh viên hiện nay.

- Sinh viên quan niệm sự thành đạt trong nghề nghiệp là mục đích cơ bản nhất
của cuộc sống, song chỉ chăm chỉ học tập mới thực hiện được mục đích này. Họ mong
muốn có một cuộc sống vật chất đầy đủ, gia đình ổn định, học vấn cao, sự thành đạt
trong nghề nghiệp. Nhưng chỉ là những mong ước, suy nghĩ chưa trở thành hành
động cụ thể, động lực thúc đẩy sinh viên tích cực học tập.
- Những giá trị nghề nghiệp được sinh viên đánh giá cao đó là: nghề phù hợp với
sở thích, hứng thú, năng lực, giúp cá nhân hoàn thiện nhân cách, giúp ích nhiều
người.
- Tư tưởng của sinh viên hiện nay có nhiều băn khoăn, lo lắng về cuộc sống nghề
nghiệp, tương lai. Chủ yếu xoay quanh các mâu thuẫn: nhận thức và hành động;
mong muốn và khả năng thực hiện…
III. NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT VỀ THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ
CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ NGHỀ NGHIỆP.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản ly nội
dung, phương pháp dậy và học; xây dụng một số cơ sở giáo dục - đào tạo đạt trình độ quốc
tế; khuyến khích thành lập các cơ sở đào tạo nước ngoài tại Việt Nam đối với một số
ngành, lĩnh vực cần thiết đáp ứng sự nghiệp phát triển đất nước. Xác định rõ mục tiêu đào
tạo từng cấp học, bảo đảm giáo dục toàn diện về đức - trí - thể - mỹ nhằm hình thành lớp
thanh niên có đủ bản lĩnh và năng lực, có tri thức và kỹ năng vươn lên ngang tầng với
thanh niên các nước tiên tiến. Xây dựng cho thanh niên ý thức tự học, học tập suốt đời,
phương pháp tu duy sáng tạo, độc lập, khả năng làm việc tập thể, kỹ năng thích nghi và tự
tin trong cuộc sông.
- Tạo cơ hội cho thanh niên được thụ hưởng chính sách giáo dục, chú trọng tới nữ
thanh niên, thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên nông thôn, thanh niên khuyết tật. Sớm
có biện pháp khắc phục tình trạng bỏ học trong thanh thiếu thi. Phấn đấu hoàn thành phổ
cập bậc trung học cơ sở cho thanh niên. Mở rộng chính sách tín dụng ưu đãi cho thanh niên
vay để học tập trong các cơ sở đào tạo sau giáo dục phổ thông.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên học tập ở nước ngoài bằng nhiều nguồn lực
khác nhau. Nhà nước dành ngân sách thoả đáng để lựa chọn sinh viên giỏi, cán bộ trẻ có
năng lực để đưa đi đào tạo ở các nước phát triển. Quản lý, giúp đỡ thanh niên học tập ở
nước ngoài. Chú trọng công tác tư vấn, lựa chọn ngành học; bố trí, sử dụng có hiệu quả số
thanh niên du học về nước.
- Huy động nhiều nguồn lực xã hội, đầu tư ngân sách thoả đáng để đẩy mạnh dạy
nghề, phổ cập sơ cấp nghề cho thanh niên. Hoàn thiện chính sách đào tạo nghề, giải quyết
việc làm; có chính sách tín dụng ưu đãi cho các cơ sở dạy nghề, đặc biệt các nghề kỹ thuật
cao; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng dịch vụ thị trường lao động; tín dụng ưu đãi cho thanh
niên vay tạo việc làm, lập nghiệp; khuyến khích thanh niên đi lao động có thời hạn ở nước
ngoài.
- Xây dựng chién lược truyền thông quốc gia về định hướng nghề nghiệp, việc làm
cho thanh niên. Bảo đảm cơ cấu hợp lý trong đào tạo công nhân kỹ thuật, trung cấp chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học.
- Tập trung đào tạo hình thành nguồn nhân lực khoa học - công nghệ có chất lượng
cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ mới đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức, tạo
mũi nhọn phát triển kinh tế, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tập trung dạy nghề cho thanh niên nông thôn, bộ đội xuất ngũ, thanh niên dân tộc thiểu số.
Khuyến khích đào tạo nghề tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất. Chú trọng giáo dục ý thức kỹ,
thuật kỳ năng lao động, tay nghề cho thanh niên đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; đồng
thời có biện pháp quản lý, giáo dục, giúp đỡ số thanh niên này.
- Đẩy mạnh thực hịên cuộc vận động "Xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" gắn với xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên thoái hoá,
biến chất, vi phạm pháp luật, tạo môi trường chính trị và đạo đức lành mạnh củng cố niềm
tin cho thanh niên. Tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, tạo chuyển biến trong
phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội (nhất là ma tuý, mại dâm, mê tín dị đoan), an toàn
giao thông bảo vệ môi trường sống..., góp phần xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh,
hình thành lôí sống văn hoá trong thanh niên.
- Khuyến khích, tạo điều kiện để các cơ quan văn hoá, văn học nghệ thuật, xuất bản,
báo chí sáng tác và phổ biến nhiều công trình, tác phẩm có giá trị cao để giáo dục thế hệ
trẻ. Tăng cường quản lý văn hoá, xử lý nghiêm các sai phạm, kịp thời ngăn chặn các sản
phẩm không lành mạnh tác động xấu đến thanh niên, nhất là qua Internet và các phương
tiện thông tin đại chúng khác. Sớm hoàn thiện quy hoạch mạng lưới và từng bước xây dựng
các trung tâm hoạt động thanh thiếu nhi, trung tâm sinh hoạt dã ngoại, nhà thiếu nhi trong
toàn quốc. Sớm có chính sách để các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các thiết chế văn
hoá-thể thao, phát triển các loại hình giải trí lành mạnh cho thanh niên.
- Tạo cơ chế chính sách công bằng, thuận lợi để mọi tài năng trẻ đều được tham gia
phát triển đất nước; bố trí cán bộ trẻ có tài năng đảm nhận các nhiệm vụ quan trọng, phù
họp trong hệ thống chính trị, nâng cao tỉ lệ cán bộ trẻ trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý
các cấp, các ngành. Tạo bước đột phát trong việc bố trí, sử dụng cán bộ trẻ cán bộ trong độ
tuổi thanh niên ở tất cả các cấp, coi đây là một nội dung quan trọng về công tác cán bộ của
Đảng để lựa chọn cán bộ lãnh đạo cho tương lai.
- Xác định tiêu chí và phương pháp khoa học để phát hiện, theo dõi quá trình phát
triển các tài năng trẻ, nhất là số học sinh, sinh viên xuất sắc, cá nhân điển hình trong các
phong trào thanh niên. Xây dựng chương trình đào tạo thích họp để hình thành đội ngũ tài
năng trẻ trên mọi lĩnh vực, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Có chính sách sử dụng và đãi ngộ họp lý để thu hút tài năng trẻ đang học tập, công
tác, sinh sống ở nước ngoài tham gia phát triển đất nước
- Bảo đảm vai trò nòng cốt của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong xây
dựng Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam vững mạnh; đổi mới
phương thức vận động, đa dạng hoá các loại hình tập hợp để thu hút rộng rãi các đối tượng
thanh niên. Tăng cường xây dựng lực lượng thanh niên nòng cốt để thành lập tổ chức cơ sở
của Đoàn, Hội ở mọi lĩnh vực.
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đoàn các cấp thực sự có trình độ năng lực, nhiệt
tình, có khả năng vận động quần chúng, độ tuổi sát với tuổi thanh niên, thực sự tiêu biểu
trong thanh niên. Ban hành quy chế cán bộ đoàn, xác đinh rõ trách nhiệm các cấp uỷ đảng
trong phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, luân chuyển cán bộ đoàn. Thực hiện định biên
cán bộ đoàn chuyên trách khối cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp. Xây dựng
Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam nằm trong hệ thống đại học quốc dân và trường Đoàn
các khu vực thực sự trở thành trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn.
C/ KẾT LUẬN
Sự biến động mạnh mẽ của các điều kiện kinh tế - xã hội, tất yếu không thể
không có sự chuyển đổi các định hướng giá trị. Vấn đề là chuyển đổi theo hướng nào, tiến
bộ hay thoái hóa, thăng hoa hay sa đọa. Phải chăng kinh tế phát triển thì trình độ đạo đức
xã hội tự nhiên sẽ được nâng cao? Phải chăng quan niệm hiệu quả kinh tế đồng nghĩa với
chủ nghĩa sùng bái đồng tiền? Đây là những vấn đề bức xúc hiện nay. Hơn ai hết chúng ta,
những nhà quản lý giáo dục, cần nhìn nhận vấn đề này một cách nghiêm túc để có những
kế hoạch thật cụ thể trong công tác giáo dục học sinh thực hiện thành công mục tiêu giáo
dục: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người kiến
thức văn hóa, khoa học, có kĩ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo, có kỷ luật, giàu
lòng nhân ái, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, đáp ứng các yêu cầu phát triển của đất
nước trong thời kỳ mới.
- Chọn nghề phù hợp với năng lực thực tế của bản thân thường là cách lựa chọn
của những người ưa cuộc sống bình thường, yên ổn. Khi yẽu cầu của nghề nghiệp phù hợp
với khả năng thực có, mồi người sẽ làm được tốt nhât công việc của chính mình, hoàn
thành được trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân. Trong trường hợp này, nếu có một năng
lực tốt, con người hoàn toàn có thế khẳng định mạnh mẽ giá trị bản thân mình bằng những
đóng góp nối bật.
- Chọn nghề mà mình yêu thích sẽ tạo niềm say mê, thậm chí dam mê với công
việc. Yếu tố tâm lí này rất quan trọng để kích thích khả năng, phát triển năng lực giúp
người lựa chọn có thể làm tốt nhất các yêu cầu của công việc. Thường thì nghề yêu thích
cũng là nghề mà người lựa chọn có khả năng đề đáp ứng vì có như vậy mới có niềm yêu
thích thật sự.

You might also like