You are on page 1of 5

Bài tập 3

Mô hình nhà nước Aten

1. Sự ra đời

- Về mặt vị trí địa lý, nhà nước Aten ra đời ở miền trung lục địa Hi Lạp, đây
là khu vực có nhiều khoáng sản, có đường bờ biển dài, nhiều vịnh, rất thuận
lợi cho việc phát triển kinh tế công thương nghiệp (đặc biệt là thương mại
đường biển).
- Từ thế kỉ 12 TCN, tộc người Đôriêng gồm 4 bộ lạc đến xâm chiếm vùng
đồng bằng miền Trung. Từ thế kỉ 8 TCN, 4 bộ lạc này liên minh với nhau
hình thành lên Liên minh bộ lạc, đến thế kỉ thứ 7 TCN, đã xây dựng
xong thành bang Aten, và thế kỉ 6 TCN thì nhà nước thực sự được hình
thành. Những người đứng đầu 4 bộ lạc là quí tộc, chủ nô và họ nắm toàn bộ
quyền lực nhà nước.
2. Các giai đoạn phát triển của nhà nước Aten
Quá trình dân chủ hoá nhà nước Aten được chia làm 3 cuộc cải cách:
Cải cách Xô lông (594 TCN)
Xô - lông là một quí tộc chủ nô mới, được bầu vào bộ máy nhà nước. Ông là người
mở đầu cho quá trình dân chủ hoá bằng nhiều biện pháp cải cách về kinh tế và
chính trị xã hội.
Căn cứ theo tài sản, Xôlông đã phân chia cư dân Aten không kể nguồn gốc huyết
tộc, thành 4 đẳng cấp xã hội có quyền lợi và nghĩa vụ khác nhau:
- Đẳng cấp thứ nhất bao gồm những công dân hàng năm có thu nhập từ 500
Mêđim thóc trở lên.
- Đẳng cấp thứ hai có thu nhập từ 300 Mêđim thóc trở lên.
- Đẳng cấp thứ ba là 200 Mêđim thóc
- Còn những ai có thu nhập dưới 200 MêKim thuộc đẳng cấp thứ 4.
Theo quy định, chỉ có những người thuộc đẳng cấp thứ nhất mới có đủ tư cách
tham gia giữ các chức vụ cao cấp của nhà nước (chấp chính quan hoặc là thành
viên của hội đồng trưởng lão…). Trong quân đội, những người thuộc đẳng cấp 1, 2
được phép tham gia vào những đội kị binh; còn đẳng cấp 3, 4 chỉ được tham gia bộ
binh, đẳng cấp thứ tư chỉ được tham gia đại hội nhân dân để bầu cử những quan
chức của bộ máy nhà nước.
 Chuyển biến:
- Về kinh tế, cải cách của Xô lông đã góp phần giải phóng một số lượng đông
những người nông dân, trở thành một lực lượng hậu thuẫn cho cuộc cải cách
của Xôlông
- Cuộc cải cách này góp phần làm nâng cao địa vị kinh tế của quí tộc chủ nô
mới
- Tạo điều kiện kích thích công thương nghiệp phát triển
- Tước bỏ phần nào lợi ích của tầng lớp quí tộc chủ nô cũ, bắt đầu đặt nền
móng cho việc xây dựng nền cộng hoà dân chủ chủ nô.

=> Cuộc cải cách Xô Lông đã thể hiện rõ tính chất dân chủ trong đời sống chính trị
xã hội của Athens, hạn chế quyền lực của tầng lớp quí tộc thị tộc cũ. Đây chính là
mô hình nhà nước cộng hòa dân chủ sơ khai đầu tiên ở Athens và cũng được xem
như nhà nước cộng hòa dân chủ sơ khởi đầu tiên trên thế giới

Cải Cách Clit-xten:

Clitxten là người thuộc tầng lớp quí tộc chủ nô mới. Sau cuộc cải cách của Xôlông,
Clixten được bầu vào giữ chức vụ quan trọng. Ông đi theo con đường cải cách của
Solon, tiếp tục củng cố và phát triển nền dân chủ ở Athens, những cải cách của ông
tập trung chủ yếu trên lĩnh vực chính trị xã hội:

- Ông chia toàn bộ Athens thành 10 đơn vị hành chính gọi là liên khu. Mỗi
liên khu bao gồm các vùng cơ bản như thành thị, nông thôn và vùng bờ biển.
Mỗi liên khu lại chia thành 10 khu.
- Mở rộng Hội đồng 400 người thành Hội đồng 500 người. mỗi liên khu bầu
vào 50 đại biểu. Điều kiện để được bầu vào Hội đồng là công dân tự do
Aten, phải là nam giới, và từ 18 tuổi trở lên.
- Thành lập một cơ quan mới có tên là Hội đồng 10 tướng lĩnh, mỗi người đại
diện cho 1 liên khu với điều kiện: có thu nhập lớn nhất trong liên khu, đảm
bảo về tài sản, và có tài năng về quân sự.
- Đặt ra luật bỏ phiếu bằng vỏ sò: Trong phiên họp đầu tiên của Hội nghị công
dân họp vào mùa xuân, buộc tất cả công dân Aten có đủ điều kiện tham gia.
Trong vỏ sò ghi tên kẻ chống phá nền dân chủ, nếu có 6000 vỏ sò thì kẻ đó
bị kết tội là chống đối lại nền dân chủ và bị trục xuất khỏi Aten trong thời
gian là 10 năm.

=> Chính thể cộng hoà dân chủ đã được củng cố ở Athens, quí tộc chủ nô mới nắm
giữ hầu hết các vị trí quan trọng trong bộ máy của nhà nước Athens, công dân tự
do được tham gia chính trị một cách rộng rãi (tuy nhiên phụ nữ, nô lệ và kiều dân
vẫn không được tham gia vào đời sống chính trị).
Cải cách Pericles

Pericles đã có công lao lớn nhằm xây dựng Aten phát triền thành một thành bang
phát triển về nhiều mặt.
Cuộc cải cách của Pericles diễn ra chủ yếu trên lĩnh vực chính trị - xã hội:
- Pericles đã có công lao rất lớn trong việc tăng quyền lực cho Hội nghị công
dân.
- Ông cũng là là người đầu tiên tiến hành việc cấp lương cho nhân viên cơ
quan nhà nước như sĩ quan, binh lính. Đồng thời thường xuyên tiến hành
thực hiện trợ cấp, phúc lợi cho công dân nghèo gặp khó khăn.
=> Bộ máy nhà nước Athens dưới thời chấp chính Pericles đã tạo điều kiện thuận
lợi nhất cho công dân Athens đạt được những quyền lợi chính trị cơ bản của người
công dân. Athens dưới thời chấp chính của Pericles là một nhà nước đạt đến đỉnh
cao của nền dân chủ cổ đại, đạt đến thời kỳ “vàng son” trong lịch sử Hy Lạp cổ đại
3. Tổ chức bộ máy nhà nước Athens
Tính chất cộng hoà của nhà nước này thể hiện rõ nhất ở tổ chức và hoạt động của
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Hội nghị công dân.
- Hội đồng 500 người: Được thành lập bởi Hội nghị công dân bằng hình thức
bỏ phiếu. Cơ quan này giữ chức năng hành chính, tư vấn. Sau cải cách
Clixten thì đây còn là cơ quan đại diện cho nhà nước về đối ngoại, có quyền
quản lí về tài chính.

- Hội đồng 10 tướng lĩnh: Cơ quan này cũng được bầu trong hội nghị công
dân. Về chức năng, đây là cơ quan lãnh đạo quân đội, thực hiện chính sách
đối ngoại nhưng chịu sự kiểm sát của Hội nghị công dân, nhưng không được
hưởng lương.

- Toà bồi thẩm: Là cơ quan xét xử và giám sát tư pháp cao nhất của nhà nước.
Thành phần tham dự toà bồi thẩm rất đông. Dưới thời Pêriclét, có tới 6000
thẩm phán, họ được bầu hàng năm ở Hội nghi công dân bằng hình thức bỏ
phiếu. Nhà nước Aten không có Viện công tố, mọi người dân có thể phát
đơn kiện - tức là tự khởi tố hoặc là tự bào chữa cho mình. Trong phiên toà
sau khi đã nghe hai bên đối chất toà họp kín để quyết định bản án.
4. Tính chất của nhà nước
- Là nhà nước dân chủ chủ nô đầu tiên trong lịch sử nhân loại, là nhà nước
đầu tiên khai sinh ra hình thức dân chủ trực tiếp, khai sinh ra hình thức
chính thể Cộng hoà.
- Tuy nhiên tính chất dân chủ của nhà nước Aten cũng có nhiều hạn chế, trước
hết ta thấy số lượng những người không được tham gia vào đời sống chính
trị là nô lệ và kiều dân chiếm số lượng áp đảo so với số lượng dân tự do.
Như vậy những người là lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội không có
quyền công dân.
5. Ý nghĩa

- Tạo điều kiện cơ bản cho người dân Aten đạt được những quyền lợi chính trị
cơ bản của người công dân.
- Là một trong những nhà nước đạt đến đỉnh cao của nền dân chủ thời cổ đại.
- Trở thành bang huyền thoại trong lịch sử nhà nước Hi Lạc cổ đại với đặc
trưng riêng biệt về hình thức chính thể nhà nước và sự nổi trội trong việc tổ
chức bộ máy nhà nước lúc bấy giờ.

Mô hình nhà nước Sparta

1. Khái quát chung

- Sparta là một mô hình nhà nước Hy Lạp được xây dựng sớm nhất trong lịch
sử Hy Lạp (ngay từ thế kỷ IX TCN).
- Trong thời cổ đại, thành bang này được gọi là Lacedaemon, trong khi tên gọi
Sparta ám chỉ khu định cư chính của thành bang trên bờ
sông Evrotas ở Lakonia, ở phía đông nam Peloponnesos. Vào khoảng năm
650 trước Công nguyên, thành bang này trở thành cường quốc quân sự thống
trị trên đất liền ở Hy Lạp cổ đại.
2. Điều kiện tự nhiên

- Nằm trên đồng bằng Lacôni thuộc phía Nam Péloponèse. Đồng bằng Laconi
được tạo nên bởi sông Eurotas (Ơrôtat) với những cánh đồng màu mỡ, phì
nhiêu, xung quanh lại có nhiều dãy núi cao che chắn, bảo vệ  có lợi thế để
phát triển kinh tế nông nghiệp và chăn nuôi.

- Lacôni lại là nơi có trữ lượng sắt vào loại nhất của lục địa Hy Lạp.
3. Xã hội

- Là một thành bang bảo thủ về chính trị, lạc hậu về kinh tế và văn hóa nhưng
lại là một thành bang hùng mạnh về quân sự. Xứ Sparta đã hình thành một
xã hội hướng về thuật chiến tranh. Nhân dân Sparta phải mạnh mẽ hơn, cứng
rắn hơn, hung hãn hơn những người láng giềng. Chỉ có cách này thì họ mới
tiếp tục sống còn và ổn định.

- Spác là nhà nước điển hình cho hình thức chính thể cộng hòa quý tộc chủ
nô. Phản động và ở đó quyền dân chủ của công dân bị hạn chế tới mức tối
đa.
- Ở Sparta có ba tập đoàn người cùng sinh sống, nhưng quyền lợi và nghĩa vụ
hoàn toàn khác nhau.

- Người Sparta – tức người Đôrien chiến thắng – là giai cấp cầm quyền. Họ
không tham gia các hoạt động sản xuất (không làm ruộng, không làm thợ thủ
công và cũng không tham gia buôn bán). Họ sống bằng sự nô dịch, bóc lột
sức lao động của người Pêriet và nô lệ Hilot. Người Sparta chỉ có chức năng
cai trị và tham gia vào lực lượng quân đội (để xâm lược hoặc bảo vệ đất
nước)

 Chính vì vậy, ở Sparte, chế độ tư hữu không tồn tại. Toàn bộ ruộng đất,
đồng cỏ và cả tập thể nô lệ Hilot đều là sở hữu chung của những cư dân
Sparta – Đôrien. Nhà nước Sparta đem toàn bộ ruộng đất chia thành khoảng
10.000 mảnh đất bằng nhau, mỗi khoảnh độ 20 hecta, cùng với số lượng
người Hilot và Pêriet, cho mỗi gia đình người Đorien. Những gia đình được
phép hưởng số thu hoạch, nhưng không được quyền chiến hữu số ruộng đó
và số nô lệ canh tác, không được phép bán, chuyển nhượng vì ruộng đất và
nô lệ là sở hữu chung của Nhà nước.

- Người Pêriet lúc đầu là những người Akêen chiến bại, bị nô dịch (về sau
thêm một số cư dân ở nơi khác tới Sparte sinh sống), tất cả có khoảng
30.000 người.

You might also like