You are on page 1of 38

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA KINH TẾ - LUẬT

BÀI THẢO LUẬN


NGUYÊN LÝ QUẢN LÝ KINH TẾ

Nhóm thực hiện: 6


Giảng viên: Th.S Ngô Ngân Hà
Mã lớp học phần: 2174TECO2031

Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2021


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
**********

BIÊN BẢN HỌP NHÓM THẢO LUẬN

 Tên học phần: Nguyên lý quản lý kinh tế


 Giảng viên: Th.S Ngô Ngân Hà
 Nhóm: 6
 Mã lớp học phần: 2174TECO2031
 Số thành viên tham gia: 10/10
 Nội dung cuộc họp:
 Điểm danh thành viên tham gia: Đủ
 Số lần họp nhóm: 2
 Nhóm trưởng xác định dàn ý, phương hướng, ý tưởng cho bài thảo
luận
 Nhóm trưởng phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên bao gồm
các bạn làm nội dung.
 Nhóm trưởng tổng hợp và chốt phần nội dung cuối cùng của đề tài
 Đánh giá cuộc họp thảo luận: Các thành viên thảo luận sôi nổi, tích
cực, đưa ra nhiều ý kiến hay, tìm được nhiều tài liệu tham khảo liên
quan đến đề tài. Buổi thảo luận diễn ra thuận lợi.

Xác nhận của nhóm trưởng

Toàn
Trịnh Khánh Toàn
BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHÓM 6

STT TÊN THÀNH VIÊN NHIỆM VỤ ĐÁNH GIÁ

Phân công nhiệm vụ


Trịnh Khánh Toàn
1 Tổng hợp word và chỉnh sửa A
(Nhóm Trưởng)
Thuyết trình

2 Đặng Thu Trang Lời mở đầu A

Thực trạng các phương pháp và


3 Mai Thị Thuỳ Trang A
công cụ quản lý

Chức năng quản lý nhà nước


4 Phạm Thị Thu Trang đối với hoạt động bán hàng đa A
cấp

Thực trạng và chức năng quản


lý nhà nước đối với hoạt động
5 Trần Thị Huyền Trang A
bán hàng đa cấp tại VN trong
giai đoạn hiện nay

Làm rõ các nguyên tắc quản lý


6 Lê Thanh Tùng nhà nước đối với hoạt động bán A
hàng đa cấp

Phương pháp và công cụ quản


7 Nguyễn Mạnh Tường A

Nguyễn Thị Tường Vi


8 Làm rõ các khái niệm A
(Thư ký)

9 Phạm Đức Việt Giải pháp B

10 Trần Thị Hải Yến Powerpoint A


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành bài thảo luận này, đầu tiên chúng em xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến:

Trường Đại học Thương Mại đã đưa môn học NGUYÊN LÝ QUẢN LÝ KINH
TẾ vào chương trình giảng dạy. Bên cạnh đó đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất với hệ
thống thư viện hiện đại, đa dạng các loại sách, tài liệu thuận lợi cho việc tìm kiếm,
nghiên cứu thông tin.

Đặc biệt, chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn - Th.S
Ngô Ngân Hà đã dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như những đóng
góp và góp ý chân thành cho bài thảo luận của chúng em được hoàn thiện hơn trong
suốt thời gian học tập vừa qua. Trong thời gian tham gia lớp học Nguyên lý quản lý
kinh tế của cô, chúng em đã có thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích, tinh thần học
tập hiệu quả, nghiêm túc. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức quý báu, là hành trang
để chúng em có thể vững bước và áp dụng vào công việc thực tế của chúng em sau
này.

Bộ môn Nguyên lý quản lý kinh tế là môn học thú vị, vô cùng bổ ích và có tính
thực tế cao. Đảm bảo cung cấp đủ kiến thức, gắn liền với nhu cầu thực tiễn của sinh
viên. Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế và khả năng tiếp thu thực tế còn
nhiều bỡ ngỡ. Mặc dù chúng em đã cố gắng hết sức nhưng chắc chắn bài thảo luận khó
có thể tránh khỏi những thiếu sót và nhiều chỗ còn chưa chính xác. Kính mong nhận
được sự nhận xét, xem xét và góp ý, phê bình từ phía cô để bài thảo luận của chúng em
được hoàn thiện hơn.

Lời cuối cùng, chúng em xin chúc cô sức khỏe, hạnh phúc và thành công trên
con đường sự nghiệp giảng dạy cao quý của mình!
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tại Việt Nam, kinh doanh đa cấp xuất hiện vào những năm 1999 - 2000. Theo
đại diện Cục cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công Thương), bán hàng đa
cấp là một ngành được thế giới công nhận và được điều chỉnh chặt chẽ bởi pháp luật
Việt Nam. Các doanh nghiệp bán hàng đa cấp chính thống ở Việt Nam đã tồn tại, phát
triển trong gần 20 năm qua và đến nay ngành bán hàng đa cấp đã cơ bản được định
hình, hoạt động trong quy củ, dưới sự quản lý chặt chẽ của nhà nước.
Cụ thể, tính đến hết năm 2020, trên thị trường có 22 doanh nghiệp được cấp
giấy chứng nhận hoạt động bán hàng đa cấp hoạt động hợp pháp, đạt doanh thu hơn
15.400 tỷ đồng năm 2020 với tổng số lượng người tham gia hơn 800.000 người. Tổng
số thuế các doanh nghiệp đã nộp về ngân sách nhà nước đạt hơn 1.800 tỷ đồng. Những
con số này đã cho thấy mức tăng trưởng mạnh mẽ của hoạt động bán hàng đa cấp tại
nước ta hiện nay. Sự tăng trưởng nhanh và mạnh mẽ này đã góp phần giúp cải thiện rõ
thứ bậc của Việt Nam trên bảng xếp hạng Thị trường thế giới tăng doanh thu bán hàng
đa cấp nhanh nhất (Việt Nam thuộc Top 5 năm 2019). Số người bán hàng đa cấp đứng
thứ 5 Đông Nam Á, sau Indonesia; Thái Lan; Philipines và Malaysia.
Cùng với sự phát triển của cả nước, trong những năm qua, hoạt động bán hàng
đa cấp đã có những bước chuyển dịch mạnh mẽ. Thực tế cho thấy, những năm qua đã
có nhiều người tham gia bán hàng đa cấp và thành công, có thu nhập cao. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả tích cực đáng ghi nhận, trong quá trình phát triển, công tác
quản lý nhà nước về hoạt động bán hàng đa cấp vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần
phải giải quyết.
Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về hoạt động bán
hàng đa cấp của các cá nhân và tổ chức ở cả trong nước và ngoài nước. Cụ thể có công
trình nghiên cứu của Richard Poe: Làn sóng thứ tư - Kinh doanh theo mạng thế kỉ 21
(2013), sách chuyên khảo của Sở Công thương Hà Nội: Tìm hiểu một số quy định về
hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp (2018), Hỏi - đáp về bán hàng đa cấp
(2011) của Cục Quản lý Cạnh tranh thuộc Bộ Công Thương,… Tuy nhiên, phần lớn
các đề tài chưa nghiên cứu sâu về khía cạnh quản lý nhà nước, do đó, vấn đề quản lý

1|Page
nhà nước về hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam hiện nay đã, đang và sẽ tiếp tục
nhận được sự quan tâm.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể thấy rằng, việc nghiên cứu quản lý nhà nước
về hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam hiện nay, xây dựng cơ sở lí luận về vấn đề
này, đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp là vô cùng cần thiết. Chính vì vậy,
nhóm 6 đã lựa chọn đề tài: “Quản lí nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp tại
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài thảo luận.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu: Đề tài tập trung làm rõ cơ sở lí luận, phân tích thực trạng
vấn đề quản lí nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam hiện nay và
đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng quản lý nhà nước với vấn đề này.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, cần
phải tập trung làm rõ các vấn đề sau đây:

 Giải thích, làm rõ các khái niệm về bán hàng đa cấp, quản lí nhà nước về bán
hàng đa cấp.
 Đánh giá thực trạng quản lí nhà nước với hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt
Nam hiện nay.
 Đề xuất, đưa ra các giải pháp để gia tăng hiệu quả quản lí nhà nước với hoạt
động bán hàng đa cấp ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lí luận và thực tiễn của quản lí nhà nước về
hoạt động bán hàng đa cấp.

 Về lí luận: Những khái niệm, lý thuyết về quản lí nhà nước về hoạt động bán
hàng đa cấp.
 Về thực tiễn: Thực trạng quản lí nhà nước về hoạt động bán hàng đa cấp và đề
xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng quản lý nhà nước với vấn đề này
những năm tới.
b. Phạm vi nghiên cứu:

 Phạm vi về nội dung: Làm rõ các khái niệm, chức năng, nguyên tắc, phương
pháp quản lí nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp.

2|Page
 Phạm vi về không gian: Nghiên cứu quản lí nhà nước đối với hoạt động bán
hàng đa cấp tại Việt Nam và một số địa phương ở nước ta.
 Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu thực trạng quản lí nhà nước đối với hoạt động
bán hàng đa cấp trong vòng 10 năm trở lại đây và nghiên cứu, đề xuất các giải
pháp cho những năm tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các
phương pháp được sử dụng trong quá trình nghiên cứu: thống kê, thu thập dữ liệu,
phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu,...
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, nội dung chính của đề tài thảo luận của nhóm 6
gồm có 3 chương:

 Chương I: Một số vấn đề lí luận về quản lí nhà nước đối với hoạt động bán
hàng đa cấp
 Chương II: Thực trạng quản lí nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp tại
Việt Nam hiện nay
 Chương III: Một số giải pháp để nâng cao chất lượng quản lí nhà nước đối với
hoạt động bán hàng đa cấp trong những năm tiếp theo

3|Page
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN
1. Các khái niệm:
a. Khái niệm quản lý:
Quản lý là một chức năng xã hội, bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao động. Từ
phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy đến nền văn minh hiện đại, quản lý đã
luôn là một thuộc tính tất yếu của lịch sử khách quan, gắn liền với xã hội trong mọi
giai đoạn phát triển của nó. Điều này bắt nguồn từ bản chất của hệ thống xã hội, đó là
các hoạt động mang tính tập thể hay lao động xã hội của con người. Trong quá trình
lao động xã hội, có những mục tiêu mà từng cá nhân riêng lẻ không thể đạt được. Khi
đó, từng cá nhân phải liên kết lại với nhau, hình thành các nhóm, kết hợp lại thành tập
thể. Nhu cầu quản lý cũng xuất hiện như một yếu tố cần thiết để tổ chức, phân công,
phối hợp những nỗ lực cá nhân trong lao động hướng tới mục tiêu chung. Như vậy,
quản lý là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên sự phân
công và hợp tác để làm một công việc nhằm đạt được mục tiêu chung đề ra.
b. Khái niệm quản lý nhà nước:
Quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của đất nước. Nói
một cách khái quát, quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực
nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức
năng đối nội và đối ngoại của đất nước. Bởi vậy, tất cả các cơ quan nhà nước đều có
chức năng quản lý nhà nước.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều hành của
hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu yêu cầu nhiệm vụ
quản lý nhà nước. Đồng thời, các cơ quan nhà nước nói chung còn thực hiện các hoạt
động có tính chất chấp hành, điều hành, tính chất hành chính nhà nước nhằm xây dựng
tổ chức bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình, chẳng hạn ra quyết định
thành lập, chia tách, sát nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình; đề bạt, khen
thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc nội bộ…
c. Hoạt động bán hàng đa cấp:

4|Page
Đa cấp là tên gọi của một kênh hay chiến lược phân phối hàng hóa thông qua
một hệ thống gồm nhiều người tham gia và được chia thành các cấp, nhánh khác nhau.
Bán hàng đa cấp hay kinh doanh đa cấp là hình thức bán hàng đa tầng nhằm
đưa sản phẩm tới trực tiếp người tiêu dùng, thông qua mạng lưới người tham gia bao
gồm nhiều nhánh, nhiều cấp. Trong đó, đối tượng tham gia sẽ được nhận khoản hoa
hồng, tiền thưởng và cả những lợi ích về mặt kinh tế khác từ lợi nhuận của bản thân và
những thành viên khác trong cùng một hệ thống.
=> Như vậy, hoạt động bán hàng đa cấp được hiểu như sau:
+ Là một dạng bán lẻ các loại hàng hóa: Đối với công ty bán hàng đa cấp cũng có thể
chính là công ty chịu trách nhiệm trực tiếp sản xuất và cung ứng, bán lẻ những sản
phẩm hoặc điều phối hàng hóa do, đơn vị, doanh nghiệp khác sản xuất. Công ty kinh
doanh đa cấp sẽ tìm cách bán lẻ lượng hàng hóa thông qua hệ thống mạng lưới tiếp thị
mà mình xây dựng được.
+ Những người tham gia sẽ thực hiện quá trình tiếp thị và bán sản phẩm dưới những
cấp độ, những nhánh khác nhau: Những doanh nghiệp thông thường hiện nay sẽ chọn
phương án bán hàng thông qua các siêu thị, cửa hàng, đại lý… Còn đối với lĩnh vực
bán hàng đa cấp, sẽ không hề có các đại lý, cửa hàng hay siêu thị nào cả, mà hàng hóa
sẽ được chính các nhà phân phối trực tiếp giới thiệu và bán luôn cho những người tiêu
dùng có nhu cầu.
+ Người tham gia được hưởng hoa hồng, tiền thưởng: Những người tham gia bán hàng
đa cấp sẽ được hưởng hoa hồng từ hai nguồn: từ doanh số bán hàng của mình và khoản
tiền thưởng của người khác trong mạng lưới do mình tổ chức.
d. Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp:
Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp là tập hợp những tác động
liên tục, có tổ chức, có định hướng của Nhà nước mang tính chấp hành và điều hành
đến toàn bộ quá trình hoạt động bán hàng đa cấp, từ giai đoạn đăng ký hoạt động bán
hàng đa cấp đến hoạt động kinh doanh phù hợp mục đích của nhà nước trong điều kiện
kinh tế thị trường.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp mang những đặc điểm
chung của quản lý nhà nước:

5|Page
Một là, quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp là hoạt động mang
tính tổ chức và điều chỉnh.
Hai là, quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp là hoạt động quản
lý mang tính quyền lực nhà nước.
Ba là, quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp là hoạt động có tính
thống nhất, được tổ chức chặt chẽ.
Bốn là, quản lý nhà nước đối với hoạt động bản hàng đa cấp có tính chủ động,
sáng tạo.
Ngoài ra, quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp có những đặc
điểm riêng sau đây:
Thứ nhất, trong hoạt động quản lý nhà nước về bán hàng đa cấp, Nhà nước trao
toàn quyền chủ động cho doanh nghiệp tự lựa chọn phương thức kinh doanh, cụ thể là
phương thức bán hàng đa cấp.
Thứ hai, để thực hiện hoạt động bán hàng đa cấp thì doanh nghiệp phải đăng ký
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (hoạt động kinh doanh có điều kiện) đó là Bộ
Công Thương.
Thứ ba, quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp là quá trình quản
lý những đối tượng tương đối phức tạp.
Thứ tư, các sản phẩm bán hàng đa cấp thường có nguồn gốc xuất xứ nước ngoài
nên việc quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp có quan hệ mật thiết với
quản lý hàng hóa nhập khẩu.
Tóm lại, quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp vừa có những đặc
điểm của quản lý nhà nước nói chung vừa có những đặc điểm riêng như đã nêu. Việc
quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện theo quyền lực nhà nước. Trong hoạt động quản lý đó, nhà nước đóng
vai trò định hướng, hỗ trợ, giám sát quá trình kinh doanh nhưng phải kết hợp hài hòa
lợi ích của Nhà nước, xã hội với lợi ích của doanh nghiệp bản hàng đa cấp, người tham
gia mạng lưới bán hàng đa cấp và người sử dụng sản phẩm của bán hàng đa cấp.
2. Chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp:
a. Chức năng hoạch định:

6|Page
Chức năng hoạch định được thể hiện qua việc Nhà nước định hướng hoạt động
cho các hoạt động kinh doanh bán hàng đa cấp.
Vai trò định hướng của nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế đang có nhiều sự
biến đổi không ngừng là vô cùng cần thiết. Nhà nước ban hành các văn bản quản lý,
chính sách thương mại cũng như luật về hoạt động bán hàng đa cấp như NĐ
40/2018/NĐ-CP về hoạt động bán hàng đa cấp. Việc ban hành nhưng văn bản này
nhằm xác định rõ những nhiệm vụ, mục tiêu và phương pháp tốt nhất để thực hiện
những nhiệm vụ, mục tiêu đó. Để qua đó, chủ thể tham gia hoạt động bán hàng đa cấp
cân nhắc và quyết định hướng đi đúng đắn, phù hợp đối với doanh nghiệp mình. Bên
cạnh đó, thông qua những nghị định, văn bản luật, các chủ thể kinh doanh có thể xác
định được những điều được và cấm trong quá trình kinh doanh hoạt động bán hàng đa
cấp để thực hiện một cách đúng, hoàn thiện và tuân thủ pháp luật. Việc định hướng
của Nhà nước sẽ giúp cho các doanh nghiệp hoạt động một cách đúng đắn, có hiệu
quả, thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc dân.
b. Chức năng tổ chức:
Nhà nước thực hiện chức năng tổ chức của mình thông qua việc thiết lập mối
quan hệ giữa các cấp trong loại hình kinh doanh bán hàng đa cấp.
Cụ thể Nhà nước quy định rõ kế hoạch trả thưởng của doanh nghiệp; hoa hồng,
tiền thưởng và các lợi ích kinh tế khác đã được quy định rõ tại điều 48 NĐ
40/2018/NĐ-CP về hoạt động bán hàng đa cấp nhằm phân chia rõ quyền và lợi ích
kinh tế của từng cá nhân, từng cấp qua đó hạn chế được những mâu thuẫn, tranh chấp
về lợi ích. Phân định rõ những lợi ích như vậy sẽ giúp xây dựng và phát triển mối quan
hệ, cơ cấu tổ chức quản lý từ doanh nghiệp đến tổng thể nền kinh tế quốc dân được
hoàn thiện, có tính năng động cao, luôn đi sát phục vụ lợi ích hệ thống kinh tế.
c. Chức năng lãnh đạo:
Nhà nước thực hiện chức năng lãnh đạo của mình qua việc ban hành quyết định
và tổ chức thực hiện quyết định.
Ban hành các nghị quyết, nghị định của Chính Phủ về quản lý hoạt động kinh
doanh theo phương thức đa cấp qua đó thắt chặt hơn nữa các điều kiện hoạt động trong
lĩnh vực bán hàng đa cấp đồng thời cũng phân cấp sâu hơn cho các địa phương, quy
định trách nhiệm quản lý của nhiều Bộ, ngành liên quan. Nhà nước còn thực hiện chức
7|Page
năng lãnh đạo của mình thể hiện qua những quyết định kịp thời như hỗ trợ, giải quyết
khó khăn cho các doanh nghiệp bán hàng đa cấp; xử lý những hoạt động bán hàng đa
cấp biến tướng, bất chính,... Sau khi ban hành quyết định, Nhà nước sẽ gửi công văn
chỉ đạo tới cơ quan các cấp, các Bộ, ngành liên quan để kịp thời xử lý và giải quyết.
Cụ thể, Nhà nước đã ra ND 141/2018/NĐ-CP sửa đổi bổ sung các Nghị định qua đó
quy định cụ thể về thẩm quyền, phương thức xử lý đối với hoạt động bán hàng đa cấp
bất chính. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng quy định rõ trách nhiệm của Bộ Công Thương
cũng như Bộ, các cơ quan ngang Bộ và những cơ quan cấp địa phương trong Điều 55,
56 và 57 của ND 40/2018/NĐ-CP về hoạt động bán hàng đa cấp.
d. Chức năng kiểm soát:
Chức năng kiểm soát được thể hiện qua việc Nhà nước thực hiện việc kiểm tra,
giám sát nhằm theo dõi được hoạt động của các doanh nghiệp. Việc kiểm tra, giám sát
giúp Nhà nước kịp thời điều chỉnh khi có những sai phạm xảy ra, kịp thời quan tâm
giúp đỡ khi doanh nghiệp gặp khó khăn. Bên cạnh đó, việc kiểm tra giám sát thường
xuyên, đúng lúc còn ngăn chặn và hạn chế những hành vi vi phạm do bán hàng đa cấp
gây ra. Nếu không kiểm tra, giám sát và phát hiện kịp thời những vi phạm ấy, hậu quả
phải chịu là rất lớn vì những hoạt động bán hàng đa cấp bất chính có diễn biến khó
lường thường không dễ dàng phát hiện hoặc khi phát hiện ra thì hậu quả cũng khó mà
giải quyết được. Đồng thời, việc kiểm tra giám sát cũng chỉ ra được những ưu nhược
điểm trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp qua đó kịp thời điều chỉnh, bổ
sung.
3. Làm rõ các nguyên tắc quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp:
a. Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Hiện nay, bán hàng đa cấp diễn ra ở khắp mọi vùng miền trên đất nước, ở các
địa phương, trong cả phạm vi thị trường nội địa và quốc tế, nên cần thiết phải vừa có
sự lãnh đạo, chỉ huy tập trung thống nhất, thể hiện ở các định hướng trong các văn bản
quản lý, chính sách điều tiết vĩ mô cùng sự kiểm soát của Nhà nước, lại vừa phải mở
rộng quyền dân chủ, tự quyết và tự chịu trách nhiệm cho địa phương, cho các doanh
nghiệp, và người tham gia bán hàng đa cấp. Tập trung là để đảm bảo quản lý bán hàng
đa cấp được thống nhất trong cả nước, nhưng dân chủ lại đảm bảo sự tự do sáng tạo và

8|Page
tính chủ động cho địa phương quản lý bản hàng đa cấp ở địa bàn lãnh thổ. Như vậy,
tập trung và dân chủ không thể tách rời nhau trong quản lý.
Tập trung quản lý bán hàng đa cấp ở cấp Trung ương được giao cho một cơ
quan có thẩm quyền phụ trách, sau đó phân quyền cho một đơn vị chuyên trách quản
lý bán hàng đa cấp. Dân chủ còn liên quan đến việc mở rộng quyền tham gia vào các
quyết định quản lý bán hàng đa cấp của mọi người dân, người tiêu dùng và các doanh
nghiệp bán hàng đa cấp. Tập trung phải kết hợp dân chủ hóa trong quản lý bán hàng đa
cấp. Đề cao trách nhiệm của cơ quan quản lý cấp cao, tránh lãnh đạo tập thể chung
chung và quy trách nhiệm khi có những sai phạm trong bán hàng đa cấp xảy ra.
Nguyên tắc này yêu cầu quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm theo phân công
quan hệ phối hợp, hợp tác theo “chiều ngang” giữa Bộ quản lý kinh tế - thương mại với
các Bộ quản lý ngành khác ở Trung ương, Sở quản lý chuyên ngành kinh tế - thương
mại với các Sở quản lý ngành khác ở địa phương (tỉnh, thành phố), quan hệ theo “chiều
dọc” theo ngành giữa Bộ với Sở quản lý chuyên ngành về kinh tế - thương mại trong cả
nước.
Cần tránh sự quản lý bán hàng đa cấp quá tập trung, có thể dẫn tới quan liêu, áp
đặt, lơ là, không sát sao, không theo kịp những diễn biến tình hình biến tướng khôn
lường của bán hàng đa cấp. Phải tạo điều kiện cho cơ quan cùng cấp, cấp dưới, các địa
phương chủ động và sáng tạo giải quyết các vấn đề vi phạm trong bán hàng đa cấp
thuộc phạm vi của họ.
b. Nguyên tắc kết hợp hài hoà các lợi ích kinh tế:
Trong quản lý bán hàng đa cấp, phải đảm bảo được sự hài hòa giữa các lợi ích:
lợi ích toàn xã hội (trong đó là lợi ích của Nhà nước), lợi ích của doanh nghiệp thực
hiện bản hàng đa cấp, lợi ích của người tham gia - nhà phân phối, người tiêu dùng. Lợi
ích của người tiêu dùng, lợi ích của nhà phân phối là động lực trực tiếp, mạnh mẽ nhất
cho sự phát triển của bán hàng đa cấp, là cơ sở thực hiện lợi ích chung (lợi ích của
doanh nghiệp, lợi ích của Nhà nước). Nếu xử lý mối quan hệ giữa các lợi ích trên
không đúng, dẫn đến xung đột giữa các lợi ích, làm giảm hiệu quả kinh tế - xã hội.
Phải mang lại cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của nhà phân phối, người
tiêu dùng, của doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Phương thức bán hàng đa cấp cũng như
các phương thức kinh doanh khác đều bị chi phối bởi tinh thần và trạng thái tâm - sinh

9|Page
lý của người tham gia - nhà phân phối. Do vậy, quản lý bán hàng đa cấp phải chú ý
mang đến quyền lợi về chính trị, về quyền tự chủ, quyền được học hành các kiến thức
về sản phẩm, quyền được hưởng thụ những giá trị văn hóa tinh thần của xã hội... Tâm
lý ổn định, tinh thần thoải mái, có được lợi ích thiết thực, sẽ là động lực tích cực cho
các nhà phân phối, cũng là lý do để các doanh nghiệp bán hàng đa cấp hoạt động chân
chính.
Phải coi trọng cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Các nhà quản lý bán hàng
đa cấp không chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt mà còn phải chú ý đến các lợi ích
mang tính dài hạn. Bán hàng đa cấp cũng nên được nhìn nhận ở những tác động, lợi
ích nhất thời và những tác động lâu dài thì mới có được cách quản lý hiệu quả. Không
vì những lợi ích trước mắt mà quên đi những tác động lâu dài, nhưng cũng không vì
những lợi ích lâu dài mà không giải quyết, xử lý vì các lợi ích cấp bách trước mắt.
Đánh giá khách quan những lợi ích mà bản hàng đa cấp mang lại cho xã hội,
nhưng cũng cần xử lý nghiêm minh những vi phạm, ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà
nước, của người tham gia và người tiêu dùng mà các doanh nghiệp bán hàng đa cấp gây
ra.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này trong quản lý bán hàng đa cấp, các doanh
nghiệp bản hàng đa cấp, nhà phân phối phải thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo, chế độ
tài chính đối với Nhà nước. Thực hiện đầy đủ chế độ hạch toán kinh tế và vận dụng
đúng đắn các đòn bẩy kinh tế để quản lý bản hàng đa cấp một cách có hiệu quả.
c. Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả:
Để quản lý bán hàng đa cấp một cách tiết kiệm, hiệu quả, Nhà nước phải đưa ra
mục tiêu, định hướng phát triển bán hàng đa cấp một cách rõ ràng, đúng đắn, phù hợp
trên cơ sở nắm bắt và vận dụng quy luật, bám sát các điều kiện thực tiễn.
Giảm chi phí quản lý một cách hợp lý: chi phí dành cho quản lý bán hàng đa
cấp cần có một sự thống kê tổng thể, để có một sự bố trí hợp lý, tránh cắt giảm một
cách tiêu cực, tăng chi phi cho nhân lực, phương tiện hỗ trợ quản lý bán hàng đa cấp,
giảm những chi phí xấu cho việc phải điều tra, xử lý, khắc phục hậu quả của những vi
phạm do bán hàng đa cấp gây ra.

10 | P a g e
Đầu tư cho quản lý có trọng điểm: việc đầu tư vào nhân lực quản lý, cơ sở vật
chất và phương tiện hỗ trợ hoạt động quản lý bán hàng đa cấp là cần thiết và nên dành
sự ưu tiên.
Đánh giá kết quả quản lý thường xuyên, nghiêm túc cần có cách thức khoa học
đánh giá kết quả quản lý bán hàng đa cấp; bên cạnh đó, việc tổng kết, đánh giá, học
tập, rút kinh nghiệm trong quản lý bán hàng đa cấp phải được thực hiện nghiêm túc,
kịp thời.
4. Phương pháp và công cụ quản lý:
4.1. Phương pháp quản lý đối với hoạt động bán hàng đa cấp:
Khái niệm: Phương pháp quản lý của nhà nước đối với bán hàng đa cấp chính là
cách thức tác động có chủ đích của nhà nước lên bán hàng đa cấp nhằm đạt được mục
tiêu quản lý đặt ra. Phương pháp quản lý có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý,
ảnh hưởng đến thành công hay thất bại của các nhà hoạt động quản lý.
Các phương pháp quản lý chủ yếu của Nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa
cấp bao gồm:
4.1.1. Phương pháp hành chính:
Khái niệm: Phương pháp quản lý trong hành chính đối với hoạt động bán hàng
đa cấp là cách tác động trực tiếp bằng các quyết định dứt khoát mang tính bắt buộc của
Nhà nước lên đối tượng và khách thể trong hoạt động quản lý bán hàng đa cấp của
Nhà nước nhằm đạt mục tiêu đặt ra trong những tình huống nhất định.
Đặc điểm cơ bản của phương pháp hành chính trong quản lý nhà nước đối với
hoạt động bán hàng đa cấp là tính bắt buộc, tính quyền lực. Tính bắt buộc đòi hỏi các
đối tượng quản lý phải chấp hành nghiêm chỉnh các tác động hành chính, nếu vi phạm
sẽ bị xử lý. Tính quyền lực đòi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ được phép đưa
ra các phương pháp hành chính trong quản lý của nhà nước đối với hoạt động bán
hàng đa cấp là sử dụng quyền lực Nhà nước để tạo ra sự phục tùng của các cá nhân và
tổ chức trong hoạt động và quản lý.
Vai trò của các phương pháp hành chính trong quản lý nhà nước đối với hoạt
động bán hàng đa cấp rất to lớn. Nó xác lập trật tự kỉ cương làm việc trong hệ thống:
khâu nối các phương pháp khác lại thành một hệ thống, có thể giấu được ý đồ hoạt
động và giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý rất nhanh chóng.
11 | P a g e
Các phương pháp hành chính tác động vào đối tượng quản lý theo hai hướng:
tác động về mặt tổ chức và tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản lý đối
với hoạt động bán hàng đa cấp.
Theo hướng tác động về mặt tổ chức, Nhà nước xây dựng và không ngừng hoàn
thiện khung pháp luật, tạo ra một hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh doanh đa cấp
an tâm hoạt động trong an toàn và trật tự. Những chủ trương chính sách có tầm vóc lớn
và dài hạn của Nhà nước đều phải được thể chế hóa bằng các đạo luật do Quốc hội
thông qua nhằm đảm bảo được chấp hành nhất quán. Ban hành các văn bản quy định
về quy mô, cơ cấu, điều lệ hoạt động, tiêu chuẩn nhằm thiết lập tổ chức và xác định
những mối quan hệ hoạt động nội bộ theo hướng tác động điều chỉnh hành động của
đối tượng quản lý, quy định những thủ tục hành chính buộc tất cả các chủ thể từ cơ
quan Nhà nước, các doanh nghiệp đến hộ gia đình đều phải tuân thủ. Những công cụ
này giúp Nhà nước cụ thể hóa khung luật pháp và các kế hoạch hướng dẫn thị trường,
tác động trực tiếp và các chủ thể, như thủ tục xét duyệt cấp giấy phép, đầu tư, thành
lập doanh nghiệp, thủ túc đăng kí kinh doanh, đăng kí chất lượng, nhãn hiệu hàng hóa,
thủ tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu… Tác động hành chính có hiệu lực ngay từ khi
ban hành quyết định. Vì vậy, các phương pháp hành chính hết sức cần thiết trong
những trường hợp hệ thống quản lý rơi vào những tình huống khó khăn, phức tạp.
Đối với những quyết định hành chính thì cấp dướt bắt buộc phải thực hiện,
không lựa chọn, chỉ có cấp thẩm quyền ra quyết định mới có quyền thay đổi quyết
định.
Sử dụng các phương pháp hành chính đòi hỏi các cấp quản lý phải có đủ những
thông tin cần thiết cho việc đưa ra quyết định, tập hợp đủ thông tin, tính toán đầy đủ
đến các lợi ích và các khía cạnh có liên quan bảo đảm cho quyết định hành chính có
căn cứ khoa học. Các cấp quản lý phải đảm bảo gắn quyền hạn với trách nhiệm, chống
lạm dụng quyền hành nhưng không có trách nhiệm cũng như chống hiện tượng trốn
tránh trách nhiệm.
4.1.2. Phương pháp kinh tế:
Khái niệm: Phương pháp kinh tế trong bán hàng đa cấp là phương pháp sử dụng
các hình thức kinh tế khách quan để tác động đến lợi ích, dùng lợi ích và thông qua lợi

12 | P a g e
ích để định hướng, hướng dẫn và thúc đẩy các hoạt động kinh tế hướng vào mục tiêu
của quản lý kinh tế.
Phương pháp quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp tác động vào
đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế để cho đối tượng quản lý lựa chọn
phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động.
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của bán hàng đa cấp đều tuân theo các quy
luật kinh tế khách quan. Sự chi phối của các quy luật đối với hoạt động của con người
đều thông qua lợi ích kinh tế. Các phương pháp kinh tế tác động thông qua sự vận
dụng các phạm trù kinh tế, các đòn bẩy kinh tế, các định mức kinh tế - kỹ thuật: tức là
về thực chất các phương pháp kinh tế là một biện pháp để sử dụng các quy luật kinh tế.
Tác động thông qua lợi ích kinh tế chính là tạo động động thúc đẩy con người
tích cực hoạt động. Động lực đó càng lớn nếu nhận thức đầy đủ và kết hợp đúng đắn
các lợi ích tồn tại khách quan trong hệ thống. Phương pháp quản lý kinh tế tác động
vào lợi ích của đối tượng quản lý (cá nhân hoặc các doanh nghiệp) xuất phát từ đố mà
họ lựa chọn phương án hoạt động vừa đảm bảo lợi ích riêng vừa đảm bảo lợi ích
chung. Phương pháp kinh tế trong hoạt động bán hàng đa cấp mở rộng quyền hành
động cho các cá nhân và các doanh nghiệp, đồng thời cũng tăng trách nhiệm kinh tế
của họ. Giúp nhà nước giảm được nhiều việc điều hành, kiểm tra, đôn đốc chi ly, vụn
vặt mang tín chất nâng cao ý thức kỷ luật tự giác của con người và của các doanh
nghiệp. Nhà nước tác động lên đối tượng quản lý bằng phương pháp kinh tế theo
những hướng sau:

 Định hướng phát triển chung về bán hàng đa cấp bằng mục tiêu, nhiệm vụ phù
hợp với điều kiện thực tế của hệ thống, bằng những chỉ tiêu cụ thể cho từng thời
gian, từng cá nhân của hệ thống.
 Sử dụng các định mức kinh tế như thuế, lãi suất ngân hàng… các biện pháp đòn
bẩy, kích thích kinh tế để lôi cuốn, thu hút, khuyến khích các cá nhân và doanh
nghiệp phát triển.
 Bằng chính sách ưu đãi kinh tế để điều chỉnh hoạt động bán hàng đa cấp trong
cả nước và thu hút được các tổ chức, cá nhân nước ngoài.
4.1.3. Phương pháp giáo dục:

13 | P a g e
Khái niệm: Phương pháp giáo dục là phương pháp tác động vào nhận thức, tình
cảm, đạo đức của người lao động để nâng cao tính tự giác, nhiệt tình của họ trong lao
động
Đối với phương pháp giáo dục trong quản lý bán hàng đa cấp cần phải thực
hiệu một cách kiên trì, trong khoảng thời gian dài, ở mọi lúc, mọi nơi và mọi đối
tượng. Cần tác động liên tục, có quá trình chứ không tức thì.
Đặc điểm của phương pháp giáo dục trong bán hàng đa cấp là dựa trên cơ sở
vận dụng các quy luật về tâm lý của các cá nhân, người bán, người tiêu dùng. Phương
pháp giáo dục trong bán hàng đa cấp thường được sử dụng kết hợp với phương pháp
kinh tế, hành chính một cách uyển chuyển, linh hoạt, có tác động rộng rãi trong xã hội.
Các hình thức giáo dục thường được sử dụng trong quản lý kinh tế bao gồm các
phượng tiện thông tin đại chúng như báo đài, các hội thảo, các đoàn thể, trong các
cuộc thi.
Phương pháp giáo dục giúp cho người tiêu dùng phân biệt được đâu là doanh
nghiệp bán hàng đa cấp chân chính, các cá nhân, doanh nghiệp bán hàng đa cấp nâng
cao tính tự giác, làm lợi cho mình nhưng không gây hại cho người tiêu dùng. Nắm rõ
những quy định, luật pháp về bán hàng đa cấp sẽ giúp ích cho quản lí và bảo vệ các cá
nhân, doanh nghiệp bán hàng đa cấp.

4.2. Công cụ quản lý:


Khái niệm: Công cụ quản lý của nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp là
những phương tiện mà Nhà nước sử dụng nhằm định hướng, khuyến khích và phối
hợp hoạt động kinh tế của các tập thể và cá nhân người lao động để hướng tới mục
tiêu.
 Thứ nhất: Pháp luật quản lý bán hàng đa cấp
Khái niệm: Pháp luật về quản lý bán hàng đa cấp là một bộ phận nằm trong hệ
thống pháp luật nói chung. Nó bao gồm những quy tắc xử sự bắt buộc do Nhà nước đặt
ra hay thừa nhận mà mỗi cá nhân, tổ chức có liên quan buộc phải tuân theo để hành vi
ứng xử của họ phù hợp với những quan hệ kinh tế khách quan và lợi ích chung của xã
hội.

14 | P a g e
Pháp luật là một công cụ quản lý bán hàng đa cấp có vai trò vĩ mô quan trọng.
Đây là phương thức Nhà nước sử dụng các quy định trong hệ thống luật pháp và thông
lệ trong kinh tế- thương mại để hướng dẫn, điều chỉnh các hành vi của các chủ thể
tham gia bán hàng đa cấp. Pháp luật quản lý bán hàng đa cấp bao gồm:

 Các văn bản quy phạm pháp luật: Hiến pháp, Bộ luật dân sự, các văn bản khác,
pháp lệnh…
 Các văn bản hướng dẫn thực hiện: Nghị định của Chính phủ, Thông tư, công
văn của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ.
 Các điều ước quốc tế về thương mại, Các tập quán quốc tế về thương mại.

Thông qua hệ thống văn bản pháp luật, Nhà nước xác định quyền và nghĩa vụ
của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp, người tham gia cũng như việc đảm bảo thực
hiện quyền và nghĩa vụ ấy để tác động, chi phối các hành vi của các đối tượng này
cũng như của các chủ thể quản lý.
Sử dụng công cụ pháp luật để quản lý nhà nước đối với bán hàng đa cấp thể
hiện sự quản lý bằng sức mạnh của những quyền uy khách quan kết hợp với sức mạnh
quyền uy của Nhà nước. Quyền uy của Nhà nước thể hiện quyền lực của Nhà nước
trong việc cưỡng chế các doanh nghiệp, người tham gia thực hiện pháp luật. Quyền uy
khách quan nằm trong tính đúng đắn của luật pháp. Pháp luật quản lý bán hàng đa cấp
có được các đối tượng bị quản lý thực hiện nghiêm chỉnh hay không trước hết do
những chuẩn mực hành vi ứng xử, quyền và nghĩa vụ được quy định trong pháp luật
có phù hợp với những quan hệ và lợi ích kinh tế khác quan được xã hội thừa nhà hay
không. Nếu những quy định của pháp luật không phù hợp, tính hiệu lực của quản lý sẽ
kém, các doanh nghiệp sẽ lách luật, gây thiệt hại cho Nhà nước, có các nhà phân phối -
người tham gia, cùng với đó, các đối tượng này sẽ không thực hiện đúng quyền và
nghĩa vụ của mình.
Hệ thống các văn bản pháp luật đưa ra các quy phạm được phép và không được
phép để đặt các chủ thể kinh tế vào sự tự lựa chọn, tự quyết định hành động trong
khuôn khổ điều kiện và phạm vi đã được xác định. Còn trong phạm vi các doanh
nghiệp bán hàng đa cấp, các nhà quản lý có thể ban hành và sử dụng các nội quy, quy
chế, điều lệ hoạt động… trên cơ sở khung pháp luật của Nhà nước, như là một công cụ

15 | P a g e
quan trọng trong quá trình quản lý doanh nghiệp và hành xử với nhà phân phối, người
tiêu dùng.
Các văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động bán hàng đa cấp có thể kể đến như:
Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị định 40/2018/NĐ-CP ban hành ngày 12/03/2018
“Nghị định quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp”; Thông tư
10/2018/TT-BCT ban hành ngày 24/05/2018 “Thông tư quy định chi tiết một số điều
của nghị định số 40/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 03 năm 2018 của Chính phủ về quản lý
hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp”; Nghị định 141/2018/NĐ-CP ngày
08/10/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử lý vi phạm
pháp luật trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp; Pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
 Thứ hai: Chính sách quản lý bán hàng đa cấp.
Khái niệm: Chính sách kinh tế là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải
pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế nhằm giải
quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục
tiêu tổng thể của đất nước.
Để thực hiện các nội dung quản lý thì Nhà nước sử dụng tích cực các phương
pháp và các công cụ quản lý. Ngoài công cụ pháp luật thì chính sách quản lý cũng
được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh bán hàng đa cấp.
Chính sách quản lý thể hiện các quy dịnh của Nhà nước trong việc sử dụng các
biện pháp về kinh tế hoạch ngoài kinh tế, để tác động tới các chủ thể có liên quan đến
phương thức bán hàng đa cấp. Chính phủ quản lý bàn hàng đa cấp thể hiện quan điểm
của Nhà nước khi quản lý bán hàng đa cấp trên lãnh thổ quốc gia. Chính sách quản lý
bán hàng đa cấp cũng hàm chứa những tính toán, định hướng lâu dài của Chính phủ,
mối quan tâm, điều chỉnh chính là các doanh nghiệp và người tham gia- nhà phân phối
bán hàng đa cấp. Một số chính sách quản lý bán hàng đa cấp:

 Chính sách hàng hóa cung ứng trong bán hàng đa cấp
 Chính sách đối với doanh nghiệp, nhà phân phối trong bán hàng đa cấp
 Chính sách về cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ bán hàng đa cấp

Chính sách về nguồn lực phục vụ quản lý bán hàng đa cấp: Các chính sách hỗ trợ đào
tạo, bổ sung, phát triển, bồi dưỡng chuyên môn có cán bộ chuyên trách công việc quản
16 | P a g e
lý bán hàng đa cấp ở cả Trung ương lẫn địa phương. Các tham tán thương mại tại các
quốc gia cũng cần có một lượng nhân viên hay một kênh thông tin chính thống, cụ thể,
thực tế về công tác quản lý Nhà nước đối với bán hàng đa cấp tại các quốc gia, làm kinh
nghiệm quản lý quý báu cho nước nhà. Đó chính là chính sách đầu tư về trang thiết bị,
phương tiện vật chất phục vụ công tác quản lý bán hàng đa cấp từ Trung ương đến địa
phương.
 Thứ ba: Công cụ kế hoạch hóa trong quản lý bán hàng đa cấp
Khái niệm: Kế hoạch là một chương trình hành động của chủ thể quản lý bao
gồm việc xác định mục tiêu, các điều kiện và cách thức, biện pháp cần thiết để thực
hiện và đạt được mục tiêu đó một cách tối ưu.
Nhà nước xác định được mục tiêu hướng với việc quản lý bán hàng đa cấp, xây
dựng các phương án để thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra đối với hoạt động
bán hàng đa cấp, xác định các nguồn lực cần thiết để quản lý đối với hoạt động bán
hàng đa cấp. Xác định các mốc thời gian để bắt đầu và thực hiện các nhiệm vụ. Phân
công trách nhiệm cho các các cơ quan liên quan đến hoạt động bán hàng đa cấp. Công
cụ kế hoạch hóa góp phần định hướng cho hoạt động kinh doanh và nhà quản lý thể
hiện rõ năng lực bao quát và tầm nhìn trong quản lý.

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG


1. Thực trạng và chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp
tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
1.1. Thực trạng:
Các doanh nghiệp bán hàng đa cấp chính thống ở Việt Nam đã tồn tại, phát
triển trong gần 20 năm qua và đến nay ngành bán hàng đa cấp đã cơ bản được định
hình, hoạt động trong quy củ dưới sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Ở trên thế giới
mô hình bán hàng đa cấp được coi là một trong những hình thức kinh doanh đem lại
hiệu quả rất cao và nó thực sự là một mô hình kinh doanh đa cấp chân chính. Tuy
nhiên khi về Việt Nam mô hình kinh này lại biến tướng trở thành một mô hình kinh
doanh đa cấp bất chính như lừa đảo, xúi giục… thời gian gần đây, do các điều kiện
17 | P a g e
quy định cho doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo phương thức đa cấp được nâng
cao và sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử, hoạt động kinh doanh đa cấp
không phép và kinh doanh dịch vụ sử dụng mô hình trả thưởng đa cấp như: đầu tư tài
chính, tiền ảo, dịch vụ giáo dục, đào tạo, đặc biệt là hoạt động lợi dụng mô hình kinh
doanh đa cấp để thực hiện các hoạt động huy động tài chính trái phép, lừa đảo, chiếm
đoạt tài sản... có xu hướng phát triển nhanh chóng, len lỏi tới từng đơn vị dân cư và
thu hút người dân ở mọi lứa tuổi tham gia. Hoạt động kinh doanh theo phương thức đa
cấp trái phép hoặc không có phép đã lôi kéo, dụ dỗ một bộ phận không nhỏ người dân
tham gia. Để giúp cho hoạt động bán hàng đa cấp phát triển theo hướng tích cực nhà
nước đã triển khai những điều luật quy định chặt chẽ và xây dựng những kế hoạch phát
triển hoạt động bán hàng đa cấp, tạo môi trường thuận lợi để hoạt động bán hàng đa
cấp phát triển. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng trực tiếp tham gia các hoạt động
tuyên truyền, phổ biến nhằm cung cấp thông tin và hướng dẫn người dân cách thức
nhận diện các loại hình kinh doanh đa cấp trái phép. Cụ thể, Bộ Công Thương đã phối
hợp với Báo Thanh niên tổ chức buổi tọa đàm trực tuyến tại TP. Hồ Chí Minh về chủ
đề nhận diện đa cấp bất chính, phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp (Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) tổ chức buổi tọa đàm tại Hà Nội về chủ đề
nhận diện đa cấp bất chính...
1.2. Chức năng quản lí của nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp:
a) Chức năng thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động bán hàng đa cấp:
Theo Dự thảo Đề án nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong hoạt
động kinh doanh theo phương thức đa cấp giai đoạn năm 2021 - 2025, Bộ Công
Thương đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp cụ thể của từng cấp quản lý:
Đối với cơ quan quản lý Nhà nước cấp Trung ương: Hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý điều chỉnh lĩnh vực kinh doanh theo phương thức đa cấp; Nâng cao nhận thức
của cộng đồng về pháp luật quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp;
Cải tiến và ứng dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý và thực thi pháp luật bán
hàng đa cấp; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong hoạt
động kinh doanh theo phương thức đa cấp; Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối
với hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp cho cán bộ ở Trung ương và cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

18 | P a g e
Đối với cơ quan quản lý Nhà nước cấp địa phương cần: Nâng cao năng lực
quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp tại địa phương cho
cấp tỉnh và cấp quận, huyện, thị xã; Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của
người dân về pháp luật quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp tại địa
phương; Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong hoạt động kinh
doanh theo phương thức đa cấp tại địa phương.
Nhà nước đã ban hành nghị định 40/2018/NĐ-CP quản lí hoạt động kinh doanh
theo phương thức đa cấp, theo đó, các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh đa cấp phải
đăng kí và chịu sự giám sát, kiểm tra của Bộ Công Thương, mức phạt dao động từ 80 -
100 triệu đối với tổ chức và 5 - 20 triệu đối với cá nhân.
b) Chức năng xây dựng kế hoạch kế hoạch phát triển hoạt động bán hàng đa cấp:
Mục tiêu chung của nhà nước là tăng cường trật tự hoạt động kinh doanh trong
mảng kinh doanh đa cấp.
Mục tiêu cụ thể:

 Tổ chức thực hiện có hiệu quả đề án nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà
nước trong hoạt động bán hàng theo phương thức đa cấp trên địa bàn cấp tỉnh;
 Tổ chức tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về
hoạt động bán hàng theo phương thức đa cấp và pháp luật về quản lý hoạt động
bán hàng theo phương thức đa cấp;
 Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng theo phương
thức đa cấp và tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, người tham gia bán hàng
đa cấp, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh theo
phương thức đa cấp;
 Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhằm hỗ trợ hiệu quả công tác quản lý
nhà nước đối với hoạt động bán hàng theo phương thức đa cấp.
Tổ chức thực hiện

 Cơ quan chủ trì: Sở Công Thương;


 Cơ quan phối hợp: Công an tỉnh, các Sở: Y tế, Thông tin và Truyền thông,
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi cục Quản lý thị trường; UBND các
huyện, thành phố.
 Thời gian thực hiện: Hằng năm.
19 | P a g e
c) Tạo môi trường thuận lợi để hoạt động kinh doanh đa cấp hợp pháp hoạt động tự do:
Doanh nghiệp sẽ có được nhiều cơ hội khi tham gia kinh doanh đa cấp như
được pháp luật thừa nhận; không mất chi phí đầu tư, không cần mặt bằng, không cần
ôm hàng, không áp lực về doanh số, không ràng buộc về thời gian. Doanh nghiệp cũng
có thể tham gia dễ dàng, không phân biệt trình độ học vấn, nơi đang sống và cũng có
thể tạo ra một kênh kiếm tiền tự động.

2. Thực trạng các phương pháp và công cụ quản lý:

Phương pháp quản lý bán hàng đa cấp những năm qua Nhà nước vẫn chủ yếu
sử dụng phương pháp hành chính, phương pháp giáo dục còn phương pháp kinh tế sử
dụng nhưng chưa thực sự hiệu quả.

2.1. Thực trạng các phương pháp:

2.1.1. Phương pháp kinh tế:

Nhà nước tăng mức ký quỹ của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp từ không
được thấp hơn 5 tỷ đồng lên không được thấp hơn 10 tỷ đồng.

Nhà nước tăng mức xử phạt bằng tiền đối với các hành vi bán hàng đa cấp bất
chính. Để đảm bảo hiệu quả của cơ chế quản lý tại Nghị định 110/2005/NĐ-CP, Nghị
định 120/2005/NĐ-CP quy định chế tài xử lý đối với hành vi bán hàng đa cấp bất
chính với mức tiền phạt cao nhất là 100 triệu đồng. Đến Nghị định 71/2014/NĐ-CP thì
mức tiền phạt tối đa đối với tổ chức vi phạm trong bán hàng đa cấp là 200 triệu đồng.
Nghị định 141/2018/NĐ-CP đưa ra quy định phạt tiền từ 80 - 100 triệu đồng đối với tổ
chức thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau (Trong khi trước đó, Nghị định
71/2014/NĐ-CP quy định mức phạt đối với các hành vi này là từ 60 - 100 triệu đồng):

(1) Yêu cầu người khác phải đặt cọc hoặc nộp một khoản tiền nhất định để được ký
hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp;

(2) Yêu cầu người khác phải mua một số lượng hàng hóa nhất định để được ký hợp
đồng tham gia bán hàng đa cấp;

(3) Cho người tham gia bán hàng đa cấp nhận tiền hoặc lợi ích kinh tế khác từ việc
giới thiệu người khác tham gia vào hoạt động bán hàng đa cấp mà không phải từ việc
mua, bán hàng hóa của người được giới thiệu đó;
20 | P a g e
(4) Từ chối chi trả không có lý do chính đáng các khoản hoa hồng, tiền thưởng hay lợi
ích kinh tế khác mà người tham gia bán hàng đa cấp có quyền hưởng; cung cấp thông tin
gian dối về kế hoạch trả thưởng, về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;

(5) Cung cấp thông tin gian dối, gây nhầm lẫn về tính năng, công dụng của hàng hóa
hoặc hoạt động của doanh nghiệp thông qua báo cáo viên, đào tạo viên tại hội nghị,
hội thảo, đào tạo hoặc thông qua tài liệu của doanh nghiệp;

(6) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ mua lại hàng hóa theo quy
định của pháp luật

Nghị định số 141/2018/NĐ-CP cũng quy định rõ phạt tiền gấp hai lần mức tiền
phạt đối với hành vi vi phạm quy định ở trên trong trường hợp hành vi vi phạm được
thực hiện trên địa bàn từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên. Ngoài việc bị
phạt tiền theo quy định trên, tổ chức có hành vi vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc
một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như: Buộc cải chính
công khai; tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh
tranh bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm…

Nghị định số 141/2018/NĐ-CP đã bổ sung mức phạt từ 20 - 25 triệu đồng đối


với cá nhân tham gia vào hoạt động của tổ chức, cá nhân kinh doanh theo phương thức
đa cấp chưa được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp bị phạt.
Phạt tiền từ 30 - 40 triệu đồng đối với cá nhân tổ chức hội nghị, hội thảo, đào tạo, giới
thiệu về hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp của mình hoặc tổ chức, cá
nhân khác khi chưa được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp.
Đồng thời, phạt tiền từ 40 - 50 triệu đồng đối với cá nhân kinh doanh theo phương
thức đa cấp khi chưa được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp
thu lợi bất chính đến dưới 200 triệu đồng hoặc gây thiệt hại cho người khác đến dưới
500 triệu đồng.

Cùng với đó còn có Nghị định 124/2015/NĐ-CP ban hành ngày 19/11/2015 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng
giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, ở Điều 92 Mục 13 cũng đưa ra các
mức phạt bằng tiền đối với các hành vi vi phạm về hoạt động bán hàng đa cấp.

21 | P a g e
Như vậy, phương pháp kinh tế đã được Nhà nước sử dụng triệt để, quy định rõ
mức tiền phạt có tăng hơn so với những quy định trước và những trường hợp bị phạt.
Tuy nhiên, phương pháp này còn cần có sự hỗ trợ của các phương pháp khác cũng như
các công cụ quản lý khác khi thực hiện, bên cạnh đó cần có sự thống nhất về xử phạt
vi phạm trong bán hàng đa cấp.

2.1.2. Phương pháp hành chính:

Phương pháp hành chính cũng được Nhà nước sử dụng triệt để để góp phần
quản lý bán hàng đa cấp. Với những văn bản mẫu hướng dẫn, Nghị định 40/2018/NĐ-
CP cũng đưa ra một số quy định nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính: hạn chế các
trường hợp sửa đổi bổ sung giấy chứng nhận; áp dụng thủ tục thông báo trong trường
hợp có thay đổi danh mục hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp; áp dụng cơ
chế tự động trong thủ tục thông báo hội nghị, hội thảo, đào tạo. Điều này rất hữu ích
khi Nhà nước sử dụng phương pháp hành chính để quản lý bán hàng đa cấp.

2.1.3. Phương pháp giáo dục:

Phương pháp tuyên truyền, giáo dục về bán hàng đa cấp cũng được thực hiện
thường xuyên hơn ở cả Trung ương và địa phương. Trên trang thông tin của Bộ Công
Thương, cụ thể là của Cục cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng cũng có riêng một
mục thông tin về bán hàng đa cấp. Bộ Công Thương hàng năm cũng tổ chức các buổi
hội thảo để báo cáo, tổng kết và nhận diện về tình hình bán hàng đa cấp, quản lý bán
hàng đa cấp ở toàn quốc. Một số địa phương, Sở Công thương và các ban ngành khác,
bằng các hình thức cũng cung cấp cho người dân các thông tin về bản chất của bán
hàng đa cấp, về những cảnh báo, những sự vụ liên quan đến bán hàng đa cấp xảy ra
trên địa bàn.

2.2. Thực trạng sử dụng công cụ quản lý Nhà nước đối với bán hàng đa cấp ở
Việt Nam:

Công cụ được Nhà nước chủ yếu sử dụng trong quản lý bán hàng đa cấp ở đây
là các chính sách, quy định và các văn bản pháp luật. Các quy định và các văn bản
pháp luật được đưa ra ở cả cấp Trung ương và được cụ thể hóa ở một số địa phương
chính là những phương tiện hữu ích để Nhà nước điều chỉnh bán hàng đa cấp. Cụ thể:

2.2.1. Các văn bản pháp luật:


22 | P a g e
2.2.1.1. Nghị định 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/8/2005:

Nghị định 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/8/2005 về quản lý hoạt
động bán hàng đa cấp - quy định những nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động
bán hàng đa cấp, trong đó hoạt động tiêu thụ hàng hoá bằng mạng lưới đa cấp được
nhìn nhận như một trong các phương thức mà các doanh nghiệp sử dụng để tìm kiếm,
mở rộng vị trí của họ trên thị trường nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Bên cạnh đó
cũng có những quy định nhằm ngăn chặn việc lợi dụng danh nghĩa hoạt động bán hàng
đa cấp để biến tướng thành các hành vi bán hàng đa cấp bất chính.

2.2.1.2. Nghị định 40/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/03/2018:

Từ ngày 02/05/2018, Nghị định 40/2018/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày
12/03/2018 chính thức có hiệu lực. Nghị định quy định về quản lý hoạt động kinh
doanh theo phương thức đa cấp. Theo đó, được áp dụng đối với doanh nghiệp bán
hàng đa cấp, người tham gia bán hàng đa cấp và tổ chức, cá nhân khác có liên quan
đến hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp.

2.2.1.3. Luật Cạnh tranh 2004:

Văn bản đầu tiên điều chỉnh bán hàng đa cấp là Luật Cạnh tranh năm 2004,
trong đó có đưa ra cách hiểu về bán hàng đa cấp, giúp định hình một phương thức kinh
doanh mới cần được quản lý ở Việt Nam. Mặc dù là văn bản quy phạm pháp luật đầu
tiên và cao nhất điều chỉnh đối với phương thức kinh doanh đa cấp nhưng Luật Cạnh
tranh chỉ đưa ra khái niệm về bán hàng đa cấp và quy định một số hành vi bán hàng đa
cấp bất chính bị cấm mà chưa đưa ra cơ chế quản lý đối với phương thức kinh doanh
này. Luật Cạnh tranh quy kết bán hàng đa cấp bất chính là hành vi cạnh tranh không
lành mạnh và khi xảy ra vụ việc cần xử lý thì dùng quy định về tố tụng cạnh tranh. Tuy
nhiên Luật Cạnh tranh 2018 có hiệu lực từ ngày 1/7/2019 đã không có điều khoản quy
định về bán hàng đa cấp, đây là một khoảng trống về mặt pháp lý trong quản lý bán
hàng đa cấp.

2.2.1.4. Luật Đầu tư năm 2014:

Luật Đầu tư năm 2014 hiện là văn bản pháp luật chính điều chỉnh bán hàng đa
cấp, xếp bán hàng đa cấp là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.

23 | P a g e
2.2.2. Các chính sách:

2.2.2.1. Quy định về mặt hàng kinh doanh trong bán hàng đa cấp:

+ Theo Khoản 2 Điều 4 Nghị định 40/2018/NĐ-CP quy định về những loại hàng hóa
không được kinh doanh theo phương thức đa cấp:

“2. Những hàng hóa sau không được kinh doanh theo phương thức đa cấp:

a) Hàng hóa là thuốc; trang thiết bị y tế; các loại thuốc thú y (bao gồm cả thuốc thú y
thủy sản); thuốc bảo vệ thực vật; hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn hạn chế
sử dụng và cấm sử dụng trong lĩnh vực gia dụng và y tế và các loại hóa chất nguy
hiểm;

b) Sản phẩm nội dung thông tin số.”

+ Quy định yêu cầu Bộ Công thương phối hợp với các Bộ khác quản lý về an toàn
thực phẩm, các hoạt động khuyến mại, quảng cáo, hội nghị, hội thảo, tuyên truyền về
các sản phẩm được phép kinh doanh theo phương thức đa cấp thuộc phạm vi thẩm
quyền do pháp luật quy định; Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thanh tra,
kiểm tra và xử lý vi phạm (nếu có) về việc đáp ứng điều kiện kinh doanh các mặt hàng
của doanh nghiệp đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp
thuộc thẩm quyền quản lý do pháp luật quy định; Chỉ đạo lực lượng quản lý thị trường
các cấp chủ trì, phối hợp với lực lượng chức năng kiểm tra, đánh giá nguồn gốc xuất
xứ, chất lượng hàng hóa của doanh nghiệp đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt
động bán hàng đa cấp, đặc biệt là hàng hóa được sản xuất, gia công trong nước (Theo
Chỉ thị 30/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ).

2.2.2.2. Quy định về vấn đề mua lại hàng hóa trong kinh doanh đa cấp:

Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 47 của Nghị định 40 về quy định mua lại, trả
lại hàng hóa thì chủ thể có quyền trả lại sản phẩm được tiếp thị theo mô hình kinh
doanh đa cấp là người tham gia bán hàng đa cấp, chưa có quy định về quyền được trả
lại hàng hóa của người tiêu dùng khi sản phẩm không đạt hiệu quả như lời chào mời
mua hàng hoặc là gây thiệt hại cho bản thân người tiêu dùng.

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 47 Nghị định 40, khi thực hiện nghĩa vụ mua
lại hàng hóa theo quy định thì doanh nghiệp bán hàng đa cấp có trách nhiệm: Trong
24 | P a g e
thời hạn 30 ngày kể từ ngày người tham gia bán hàng đa cấp có yêu cầu trả lại hàng
hóa hợp lệ, doanh nghiệp bán hàng đa cấp có trách nhiệm mua lại các hàng hóa đáp
ứng điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này và hoàn trả theo mức thỏa thuận với
người tham gia bán hàng đa cấp nhưng không thấp hơn 90% số tiền mà người tham gia
bán hàng đa cấp đã trả để nhận số hàng hóa đó.

Có một thực tế rằng, bất cứ một doanh nghiệp bán hàng đa cấp nào dù là chân
chính thì nếu có cơ hội họ không bao giờ thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 47
như trên, bởi vì động cơ tối đa hóa lợi nhuận sẽ không cho phép công ty làm như vậy.
Đồng thời, các chi phí về quản lý, tái lưu kho và các chi phí hành chính khác như chi
phí nhân viên, chi phí giấy tờ,…luôn luôn phát sinh. Vì vậy, quy định này dường như
là quy định không cần thiết và thiếu tính thực tế.

2.2.2.3. Quy định đối với doanh nghiệp bán hàng đa cấp:

Nghị định 40/2018/NĐ-CP về quản lý kinh doanh đa cấp mô tả cụ thể và thể


hiện vai trò quản lý chặt chẽ hơn của Nhà nước đối với doanh nghiệp kinh doanh theo
phương thức đa cấp có thêm những quy định mới về việc cấm các doanh nghiệp bán
hàng đa cấp (Theo Điều 5 Nghị định 40/2018/NĐ-CP quy định về Những hành vi bị
cấm trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp) Tiền ký quỹ là khoản tiền
đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ của doanh nghiệp bán hàng đa cấp với người
tham gia và Nhà nước trong trường hợp khi doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấm dứt
hoạt động. Như vậy, có thể thấy việc tăng định mức ký quỹ lên gấp đôi (không thấp
hơn 10 tỷ đồng) đã phần nào gia tăng được sự cam kết về trách nhiệm tài chính của
doanh nghiệp kinh doanh đa cấp đối với người tham gia bán hàng và cơ quan quản lý
trong hoạt động kinh doanh của mình. (Theo Khoản 2 Điều 50 Nghị định 40/2018/NĐ-
CP quy định về Tiền ký quỹ)

2.2.2.4. Quy định đối với người tham gia bán hàng đa cấp:

Nghị định 40/2018/NĐ-CP có rất nhiều quy định đối với người tham gia bán
hàng đa cấp. Những quy định đối với người tham gia bán hàng đa cấp được đưa ra
trong Chương 4: Quản lý người tham gia bán hàng đa cấp và Điều 41 Chương 5 về
Trách nhiệm của người tham gia bán hàng đa cấp. Đối với người tham gia bán hàng đa
cấp, so với các văn bản quản lý trước, Nghị định 40 có thêm quy định mới về việc cấm

25 | P a g e
thực hiện hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phương nơi doanh nghiệp chưa được cấp
giấy xác nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phương.

Theo Khoản 2 Điều 5 quy định về Những hành vi bị cấm trong hoạt động kinh
doanh theo phương thức đa cấp:

“2. Cấm người tham gia bán hàng đa cấp thực hiện những hành vi sau đây:

a) Hành vi quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;

b) Cung cấp thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn về lợi ích của việc tham gia
bán hàng đa cấp, tính năng, công dụng của hàng hóa, hoạt động của doanh
nghiệp bán hàng đa cấp;

c) Tổ chức hội thảo, hội nghị, đào tạo về kinh doanh theo phương thức đa cấp
khi chưa được doanh nghiệp bán hàng đa cấp ủy quyền bằng văn bản;

d) Lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc người tham gia bán hàng đa cấp của doanh nghiệp
khác tham gia vào mạng lưới của doanh nghiệp mà mình đang tham gia;

đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, địa vị xã hội, nghề nghiệp để khuyến khích,
yêu cầu, lôi kéo, dụ dỗ người khác tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp
hoặc mua hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp;

e) Thực hiện hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phương nơi doanh nghiệp chưa
được cấp xác nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phương.”

Theo Điều 41 Nghị định 40/2018/NĐ-CP quy định về Trách nhiệm của người tham gia
bán hàng đa cấp:

“1. Người tham gia bán hàng đa cấp chỉ thực hiện các hoạt động tiếp thị, bán
hàng và phát triển mạng lưới bán hàng đa cấp sau khi được cấp Thẻ thành viên.

2. Xuất trình Thẻ thành viên trước khi giới thiệu hoặc tiếp thị, bán hàng.

3. Tuân thủ hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp và quy tắc hoạt động của doanh
nghiệp.

4. Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực khi giới thiệu về doanh nghiệp bán
hàng đa cấp, hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp, kế hoạch trả
thưởng và quy tắc hoạt động của doanh nghiệp bán hàng đa cấp.”
26 | P a g e
2.2.2.5. Quy định về cấp phép kinh doanh đa cấp và hậu kiểm:

+ Bên cạnh việc yêu cầu doanh nghiệp kinh doanh đa cấp phải có quy tắc hoạt động,
chương trình trả lương, chương trình đào tạo cơ bản không trái quy định của pháp luật
thì Nghị định 40/2018/NĐ-CP đã tiến một bước trong việc minh bạch hóa trong kinh
doanh đa cấp, tạo cơ sở thuận lợi cho hoạt động quản lý của Nhà nước khi yêu cầu
doanh nghiệp kinh doanh phải:

(1) Có mẫu hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp;

(2) Có hệ thống thông tin quản lý mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp, trang
thông tin điện tử để cung cấp thông tin về doanh nghiệp và hoạt động bán hàng đa cấp
của doanh nghiệp;

(3) Có hệ thống thông tin liên lạc để tiếp nhận, giải quyết thắc mắc, khiếu nại của
người tham gia bán hàng đa cấp.

+ Chương 2 Nghị định 40/2018/NĐ-CP quy định Bộ Công thương chịu trách nhiệm
nhận hồ sơ, thẩm định hồ sơ và cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận đăng kí hoạt động
bán hàng đa cấp ở phạm vi toàn quốc và chương 3 của Nghị định đưa ra quy định Sở
Công thương chịu trách nhiệm về việc doanh nghiệp đăng kí cũng như thư hồi, chấm
dứt bán hàng đa cấp ở địa bàn địa phương.

+ Chỉ thị 30/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ cũng đưa ra các cơ quan tham gia hậu
kiểm trong quá trình bán hàng đa cấp diễn ra, tuy nhiên thực tế những vụ việc liên
quan đến bán hàng đa cấp đã cho thấy sự phối hợp giữa các cơ quan này còn rất hạn
chế. Có những sự vụ khi có đơn khiếu nại hay sự vào cuộc của các nhà báo, các
phương tiện truyền thông thì các cơ quan hay người tiêu dùng mới biết, điều đó khẳng
định công tác hậu kiểm, kiểm tra sau khi cấp giấy phép kinh doanh còn rất yếu kém.

Kết luận:

Trong những năm qua, hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam diễn ra rất
nhanh chóng. Quá trình hoạt động của hình thức kinh doanh này đã đặt ra yêu cầu rất
lớn về quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp. Các cơ quan quản lý nhà
nước ở Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong quản lý nhà nước đối với hoạt động bán

27 | P a g e
hàng đa cấp, đảm bảo đúng mục tiêu phát triển kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế mà
Đảng và Nhà nước đã đề ra và đạt được một số hiệu quả tích cực:

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động bán
hàng đa cấp đã đảm bảo cho hoạt động kinh doanh này theo đúng khuôn khổ, tuân thủ
pháp luật, đảm bảo lợi ích của Nhà nước, lợi nhuận cho doanh nghiệp bán hàng đa cấp,
người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp và người tiêu dùng.

- Các công cụ, phương pháp quản lý bán hàng đa cấp đã đảm bảo tính hiệu lực.

- Các văn bản pháp luật, các chính sách, quy định đối với bán hàng đa cấp đã được ban
hành, có phù hợp trong thực tiễn và trong quá trình thực thi đang được bổ sung, hoàn
thiện để khung văn bản quản lý phù hợp, có sự tương xứng với thông lệ quốc tế, trở
thành công cụ đắc lực phục vụ cho công tác quản lý.

- Các văn bản quản lý bán hàng đa cấp vẫn đang dần hoàn thiện, đáp ứng các tiêu chí
đã đề ra.

- Các phương pháp quản lý của Nhà nước đối với bán hàng đa cấp được đưa ra đã
được các đối tượng có liên quan thực hiện, như việc các công ty khi có yêu cầu thì
chấp hành việc kiểm tra, thanh tra của các cơ quan quản lý hay khi bị xử phạt hành
chính thì phải nộp những khoản tiền theo quy định hay phải tạm ngừng hoạt động khi
vi phạm và bị khiếu nại, điều tra, ra phán quyết. Chính những điều này cho thấy quản
lý bán hàng đa cấp của Nhà nước đã đảm bảo tính hiệu lực. Do nhiều nguyên nhân,
hoạt động quản lý nhà nước của các cấp chính quyền đối với hoạt động bán hàng đa
cấp Việt Nam cũng còn một số mặt tồn tại, hạn chế cần được khắc phục để đáp ứng
yêu cầu phát triển của quốc gia trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta
hiện nay. Những bất cập, hạn chế đó là:

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn một số quy định mâu thuẫn, chồng chéo
gây khó khăn trong việc tổ chức thực hiện pháp luật trên thực tế; việc thực thi pháp
luật về bán hàng đa cấp chưa nghiêm.

- Hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp còn lỏng lẻo, các quy
định về quản lý doanh nghiệp, người tham gia, xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt
động bán hàng đa cấp chưa đồng bộ và cụ thể.

28 | P a g e
Cụ thể hơn những hạn chế trong việc sử dụng các phương pháp và công cụ quản lý:

+ Quản lý các hoạt động kinh doanh đa cấp chủ yếu dựa vào Nghị định 40/2018/NĐ
CP về kinh doanh đa cấp và Thông tư số 10/2018/TT-BCT. Rất ít địa phương ban
hành văn bản chi tiết, chuyên biệt, mang tính địa phương để quản lý bán hàng đa cấp.

+ Văn bản pháp luật không điều chỉnh kịp với thực tế, thậm chí còn không quy rõ những
hành vi vi phạm. Không chỉ rõ nhóm các hành vi bán hàng đa cấp nào bị coi là vi phạm,
mà chỉ đưa ra “Những hành vi bị cấm trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa
cấp”.

+ Quy định về số tiền kí quỹ còn quá ít, tính trên số vốn điều lệ, không thấp hơn 10 tỷ
đồng, và hoàn toàn không đưa ra tiêu chí phải dựa trên doanh số hàng năm của doanh
nghiệp. Phương thức kinh doanh đa cấp luôn có biến động, doanh thu càng cao, hệ
thống càng lớn thì càng phải ký quỹ nhiều, để giải quyết vấn đề rủi ro trong trả hoa
hồng, tiền thưởng cho người tham gia.

+ Quy định về đối tượng kinh doanh đa cấp còn bị bó hẹp, chỉ có hàng hóa mới được
phép kinh doanh. Tuy vậy, trong thực tiễn nhiều doanh nghiệp hoặc đang lén lút hoặc
đã tiến hành việc kinh doanh đa cấp đối với lĩnh vực dịch vụ và kinh doanh cả các sản
phẩm không thuộc danh mục đăng kí được phép phân phối theo phương thức đa cấp.
Điều này gây khó khăn trong công tác quản lý và gây ra hậu quả tiêu cực đến xã hội.

+ Cho phép việc mua bán hoặc chuyển giao mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp
cho doanh nghiệp khác, trừ trường hợp mua lại, hợp nhất hoặc sáp nhập doanh nghiệp,
điều này có thể dẫn đến những hậu quả xấu lan truyền và khó xác định gốc rễ của vi
phạm.

+ Quy định về việc báo cáo định kì, về thông báo tổ chức hội nghị, hội thảo, các buổi
tư vấn, giới thiệu sản phẩm còn nhiều bất cập.

+ Về vấn đề mua lại sản phẩm: Theo quy định Điều 47 (Nghị định 40/2018/NĐ-CP),
thời hạn để yêu cầu doanh nghiệp mua lại sản phẩm là 30 ngày kể từ ngày người tham
gia bán hàng đa cấp nhận hàng. Trên thực tế, hiện nay các doanh nghiệp bán hàng đa
cấp ở Việt Nam chủ yếu kinh doanh các loại thực phẩm chức năng, mỹ phẩm, thiết bị
vật lý trị liệu,…là những sản phẩm có thời gian sử dụng lâu dài, thường xuyên thì
người tiêu dùng mới đánh giá được sản phẩm có đạt hiệu quả như mong đợi hay
29 | P a g e
không. Nhưng khi người tham gia bán hàng đa cấp chỉ có quyền yêu cầu doanh nghiệp
mua lại trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận hàng là thiếu tính thực tế và không
phát sinh hoặc phát sinh rất kém hiệu lực để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người
tham gia hoạt động bán hàng đa cấp, và như vậy làm cho điều luật không có giá trị
thực thi trên thực tế.

=> Bán hàng đa cấp đã được pháp luật Việt Nam công nhận là một loại hình kinh
doanh hợp pháp. Tuy nhiên lợi dụng những kẽ hở từ pháp luật, nhiều công ty đã biến
tướng đi hình thức đa cấp để hoạt động phi pháp, lừa đảo. Các quy định chính sách
điều chỉnh hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp mặc dù đã được sửa đổi
theo hướng thắt chặt quản lý nhưng vẫn chưa thể kiểm soát được những hình thức lách
luật tinh vi của các đối tượng lợi dụng hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp
để lừa đảo. Bởi việc tư vấn mua và sử dụng sản phẩm của các doanh nghiệp bán hàng
đa cấp được thực hiện bằng cách tuyên truyền trực tiếp từ người này đến người khác
hoặc qua hội nghị, hội thảo thường tổ chức vào ngày nghỉ, ngoài giờ hành chính… tại
khắp các xã, phường, thị trấn trên địa bàn. Thậm chí, người bán hàng đa cấp đến tại
nhà để chào mời, nên gây nhiều khó khăn cho các cơ quan quản lý trong việc kiểm
soát thông tin. Hiện nay, vai trò của các quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức trong kinh
doanh đa cấp ở Việt Nam chưa được xem trọng, chưa hoàn thiện, dẫn đến việc nhiều
doanh nghiệp, người tham gia bán hàng đa cấp vi phạm pháp luật. Chính vì thế, Nhà
nước cần có những biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế này để hoàn thiện việc
quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.

CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP

Ở bất cứ quốc gia nào, để hoạt động kinh doanh đa cấp diễn ra thực sự lành
mạnh thì cần sự điều chỉnh đúng đắn, chính xác từ công tác quản lý nhà nước lẫn ý
thức cộng đồng về lĩnh vực này cần được nâng lên đúng mức. Chúng ta cần nhìn nhận
đúng vai trò của các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp lành mạnh, bên cạnh đó cần kịp
thời lên án và xử lý nghiêm khắc với các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp bất chính
nhất, lợi dụng hình thức bán hàng đa cấp để lừa gạt người tiêu dùng. Vì vậy nhóm 6
xin đưa ra một số giải pháp về quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp tại
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo như sau:

30 | P a g e
Thứ nhất, về cơ sở pháp lý, để điều chỉnh các hoạt động của các tổ chức, cá
nhân bán hàng đa cấp bất chính, chúng ta cần có các quy định cụ thể hơn để điều chỉnh
hành vi bán hàng đa cấp đối với thành viên tham gia bán hàng đa cấp, các quy định đề
xuất như:

 Quy định rõ các điều kiện cần thiết để tiến hành hoạt động bán hàng đa cấp;
 Quy định các hành vi bị cấm đối với doanh nghiệp và những người tham gia
mạng lưới nhằm thu lợi bất chính hoặc gây thiệt hại cho người tiêu dùng;
 Quy định cụ thể về cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động bán hàng đa cấp,
trong đó có các ràng buộc về mức giá, cơ chế kiểm soát giá, nghĩa vụ thuế, hạch
toán kế toán,…;
 Quy định cụ thể về các chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn một số quy định mâu thuẫn, chồng chéo gây
khó khăn trong việc tổ chức thực hiện pháp luật trên thực tế; việc thực thi pháp luật về
bán hàng đa cấp chưa nghiêm. Theo đó việc thực hiện rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý hoạt động kinh doanh theo phương
thức đa cấp cần được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, phù hợp với yêu cầu
thực tế. Trong đó, tập trung sửa đổi, bổ sung một số quy định của Nghị định số
40/2018/NĐ-CP ngày 12/3/2018 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh theo
phương thức đa cấp và các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bán hàng
đa cấp theo hướng minh bạch, phù hợp hơn với yêu cầu của công tác quản hiện nay.
Đồng thời, sửa đổi quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh
theo phương thức đa cấp để đảm bảo tính tương thích với quy định về nội dung và đảm
bảo tính răn đe…
Thứ hai, về phía những người quản lý, phải tạo ra một môi trường cạnh tranh
lành mạnh của hoạt động kinh doanh, không riêng gì hành vi bán hàng đa cấp bất
chính nói riêng, thông qua việc đào tạo bồi dưỡng người lãnh đạo quản lý để thực hiện,
xử lý tốt những vấn đề xảy ra. Hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng
đa cấp còn lỏng lẻo, các quy định về quản lý doanh nghiệp, người tham gia, xử lý vi
phạm pháp luật trong hoạt động bán hàng đa cấp chưa đồng bộ và cụ thể. Vì vậy cần
tăng cường hoạt động tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong
hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp, đặc biệt công tác thanh tra, kiểm tra,

31 | P a g e
xử lý vi phạm ở các địa phương cần được triển khai đồng bộ và bao quát toàn bộ các
địa bàn của từng địa phương. Cũng như cần tiếp tục nâng cao trách nhiệm và vai trò
kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý tại mỗi địa phương, đặc biệt là Sở Công
Thương trong quản lý hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp trên phạm vi địa
bàn… Sau khi xử lý, phát hiện sai phạm, việc xử lý của toà án cũng vô cùng quan
trọng, ở thời điểm hiện nay các Tòa án cũng cần có biện pháp đào tạo, bồi dưỡng thẩm
phán thích hợp để chuẩn bị kiến thức, kinh nghiệm cần thiết khi phải xử lý các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Cần có sự phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với
Tòa án trong việc xử lý các hành vi bán hàng đa cấp bất chính.
Thứ ba, về nâng cao nhận thức cộng đồng. Nâng cao toàn diện nhận thức của
cộng đồng về pháp luật kinh doanh theo phương thức đa cấp và các hình thức lợi dụng
bán hàng đa cấp kinh doanh trái phép, hướng đến một số đối tượng người dân như
người cao tuổi, sinh viên, phụ nữ. Khẳng định hoạt động kinh doanh đa cấp không
phép, đa cấp trá hình như đầu tư tài chính, tiền ảo... là hành vi vi phạm pháp luật có thể
bị xử lý hành chính hoặc hình sự, trong đó đa số trường hợp thuộc diện xử lý hình
sự… Xây dựng nhận thức để cùng tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, nơi
mà các hành vi bán hàng đa cấp biến tướng bị nhận diện bởi tất cả mọi người, trang bị
cho mỗi người dân kiến thức, trình độ để không bị mắc bẫy, dụ dỗ bởi những tổ chức
cá nhân nói trên, góp phần quản lý tốt công việc kinh doanh đa cấp và phát triển xã
hội.
Thứ tư, về phía các doanh nghiệp. Bản thân các doanh nghiệp bán hàng đa cấp
phải tự tôn trọng mình bằng việc thực thi theo đúng khuôn khổ pháp luật và bảo đảm
quyền lợi khách hàng. Các doanh nghiệp nên có các chương trình đào tạo, huấn luyện
về kiến thức pháp luật, đạo đức hành nghề, văn hóa doanh nghiệp và những chế tài xử
phạt nghiêm minh khi vi phạm hoặc đôn đốc kiểm tra để tránh tình trạng một số nhà
phân phối vì chạy theo lợi nhuận mà nói sai sự thật về công dụng sản phẩm, nói sai về
chính sách hoa hồng… dẫn tới lừa dối người tiêu dùng và ngay cả các nhà phân phối
tuyến dưới của mình gây nên những bất bình trong xã hội, làm ảnh hưởng tới hình ảnh
bán hàng đa cấp. Từ đó mà các doanh nghiệp phải tự xây dựng cho mình một văn hoá
công ty lành mạnh, nội quy công ty nghiêm chỉnh, thắt chặt công tác tuyển thành viên
cho công ty, chú trọng đào tạo và xây dựng các cá nhân tham gia bán hàng thực hiện

32 | P a g e
đúng với đạo lý, pháp luật, mang lại giá trị phù hợp với sản phẩm được bán và xử phạt
mạnh tay đối với cá nhân có hướng đi sai lệnh.
Thứ năm, về phía các tổ chức xã hội. Để quản lý tốt hoạt động bán hàng đa
cấp, việc thành lập các hiệp hội như “Hiệp hội Bán hàng đa cấp Việt Nam” là tất yếu
và nó cũng góp phần quan trọng trong công cuộc quản lý này. Hiệp hội là tổ chức đại
diện cho các doanh nghiệp bán hàng đa cấp của Việt Nam hoạt động một cách tích
cực, hiệu quả, hỗ trợ nâng cao năng lực và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các hội viên,
để từng bước hình thành một hệ thống các doanh nghiệp với quy mô lớn và mang tính
chuyên nghiệp cao. Hiệp hội sẽ giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh theo phương
thức bán hàng đa cấp đoàn kết, hợp tác, nâng cao đạo đức kinh doanh, nắm bắt kịp thời
những chủ trương chính sách của Nhà nước, từ đó kinh doanh đúng pháp luật, góp
phần vào việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thêm vào đó, Hiệp hội là cầu nối
giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước thông qua việc thu thập và tổng hợp
những đề xuất, kiến nghị của hội viên phản ánh với các cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền. Đồng thời, Hiệp hội cũng sẽ là tổ chức hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước
thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật cho các hội viên, cho
người tham gia bán hàng đa cấp và cho cộng đồng xã hội. Vì vậy, cần có sự đánh giá
đúng đắn về vai trò của Hiệp hội đối với việc lành mạnh hóa hoạt động bán hàng đa
cấp, ngăn chặn những hành vi bán hàng đa cấp bất chính, thêm vào đó là tăng cường,
thiết chặt sự hợp tác giữa Cục Quản lý cạnh tranh, các Sở Công Thương và Hiệp hội
để tạo điều kiện cho hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam ngày càng phát triển bền
vững và tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
Thứ sáu, sử dụng có hiệu quả các phương pháp quản lý nhà nước đối với việc
kinh doanh này. Kết hợp hài hoà, có hiệu quả phương pháp kinh tế, phương pháp hành
chính và phương pháp giáo dục.

33 | P a g e

You might also like