You are on page 1of 15

CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ

(Nguyễn Tuân)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. TÌM HIỂU CHUNG:
1.1 Tác giả: (1910 – 1987)
a/ Cuộc đời:
- Sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn.
- Quê: làng Mọc, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
- Từ nhỏ sống ở nhiều tỉnh miền Trung ⭢Học hết bậc thành chung ⭢về Hà Nội làm báo và viết văn.
- Cách mạng tháng 8 thành công⭢ ông đến với cách mạng, tự nguyện dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến.
- 1948 -1958: Tổng thư ký Hội văn nghệ Việt Nam.
* Đánh giá: (SGK)
b/ Sự nghiệp sáng tác:
- 2 giai đoạn
+ Trước Cách mạng tháng 8: cây bút văn xuôi lãng mạn thời kỳ cuối cùng⭢ Nhà văn - nghệ sĩ.
+ Sau Cách mạng tháng 8: Nhà văn - chiến sĩ
- Tác phẩm chính:
+ Trước CMT8:
❑ Một chuyến đi (1938);
❑ Vang bóng một thời (1940);
❑ Thiếu quê hương (1940);
❑ Chiếc lư đồng mắt cua (1941);
❑ Chùa Đàn (1946)
+ Sau CMT8:
❑ Đường vui (1849);
❑ Tình chiến dịch (1950);
❑ Sông Đà (1960);
❑ Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)
- Nhận định về tập truyện “Vang bóng một thời”:
+ “Tác phẩm đầu tay của ông là một văn phẩm gần tới sự toàn thiện, toàn mỹ. Đó là tập Vang Bóng Một Thời (Tân
Dân – Hà Nội 1940)...” (Vũ Ngọc Phan)
+ “…Tập truyện đã làm sống lại cả một thời phong kiến đã qua với những nghệ thuật cổ thanh cao, những nếp sống,
sinh hoạt xã hội nho phong của một nền văn minh xưa cũ, nó cũng là niềm nuối tiếc của một tâm hồn hoài cổ trước
những cái hay, cái đẹp, những nghệ thuật cầu kỳ của một thời đại đã qua, cái thời ấy nay đã chết rồi, chỉ còn để lại một
tiếng vang:...Vang Bóng Một Thời.” (Vũ Ngọc Phan)
=> Nhận định về sự nghiệp của Nguyễn Tuân:
+ “Ông đã đi qua và để lại những trang sách thấm đượm một tình yêu nghiêm khắc với cái đẹp bình dị của con người
– cuộc sống – quê hương. Với Nguyễn Tuân, văn học đã làm được cái điều kì diệu là nối liền các giá trị tinh thần của
các thế hệ tiếp nối. Bởi một lẽ giản dị: trước khi là nhà văn, ông đã là con người có nhân cách lớn.” (Phan Hồng Giang)
+ “Gẫm không biết đến chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của nghệ
thuật ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút
đều như có đóng một dấu triện riêng…” (Anh Đức)
+ “Cái đẹp của Nguyễn Tuân không phải là cái đẹp mơ mộng, nhàn nhạt, phẳng lặng, mà là cái đẹp tạo hình, có góc
cạnh, nhiều khi dữ dội… Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa đến một độ cao hiếm thấy
trong văn học Việt Nam.” (Hoài Anh)
=> Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc; là một nghệ sĩ rất mực tài hoa, cá tính độc đáo,
văn chương giàu chất sáng tạo. Có thể khái quát phong cách Nguyễn Tuân là “tài hoa, uyên bác”.
▪ Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.
▪ Những đóng góp lớn của ông là thúc đẩy thể tuỳ bút, bút kí đạt đến đỉnh cao và làm phong phú thêm ngôn ngữ
văn học dân tộc.
▪ Nguyễn Tuân được mệnh danh là phù thủy của tiếng Việt. Tên ông được đặt cho một đường phố ở Hà Nội.

1
▪ Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Không chỉ viết văn, ông còn am hiểu rất nhiều môn nghệ thuật khác,
đồng thời cũng là một trong những diễn viên đầu tiên của Việt Nam.
▪ Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tôn thờ cái đẹp, đề cao cái tài. Cách nhìn của ông cũng chịu sự chi
phối từ quan điểm ấy: Ông nhìn sự vật dưới góc độ văn hoá thẩm mĩ và nhìn con người dưới góc độ tài hoa
nghệ sĩ.
 “Tôi nghĩ rằng, có lẽ trong những trang viết của Nguyễn Tuân ở dưới sâu của những cái bề nổi gai góc hoặc
phiêu lãng; ở đằng sau những sự ngoa ngoắt và cả khinh bạc của một thời ngột ngạt, quẩn quanh, tù túng, bế
tắc, ở dưới sâu tất cả những cái ấy là sự đi tìm cái đẹp và đi tìm sự thật là nỗi khát khao cái đẹp và nỗi khát
khao cái thật, là lòng yêu cái đẹp và yêu cái thật với sức mạnh muốn phá hết mọi ràng buộc, khuôn sáo có sẵn,
sáng suốt, lạnh lùng, tàn nhẫn với cả chính mình và coi thường cả những lẽ phải trái, những cột mốc đạo đức
của đương thời xung quanh.” (Nguyễn Đình Thi)
1.2. Tác phẩm: “Chữ người tử tù”
a/ Xuất xứ:
- Lúc đầu có tên “Dòng chữ cuối cùng” in 1938 trên tạp chí Tao Đàn.
- Sau, tuyển in trong tập truyện “Vang bóng một thời” và đổi tên thành “Chữ người tử tù”
– Kiểu nhân vật: Nho sĩ cuối mùa, tài hoa nhưng bất đắc chí. Họ có thái độ buông xuôi bất lực và mâu thuẫn với xã hội,
dùng cái tôi tài hoa, ngông nghênh để đối lập với xã hội phàm tục, phô diễn lối sống thanh cao để phản ứng với trật tự
xã hội.
b/ Đề tài:
▪ Viết về cái đẹp một thời vang bóng ⭢ thú chơi chữ.
▪ Nhân vật chính:
+ Được lấy nguyên mẫu từ Cao Bá Quát, một nhà Nho tài hoa bất đắc chí, từng giữ chức giáo thụ (tương đương chức
Huấn đạo).
+ Nhiều ý kiến cho rằng nhân vật Huấn Cao mang nhiều nét tính cách của Nguyễn Tuân hơn cả.
▪ Nhan đề tác phẩm không đặt trọng tâm ở nhân vật (“người tử tù”) mà ở “chữ”: Nghệ thuật chơi chữ của người
xưa + Tinh thần con người thể hiện trong “chữ”. ““Chữ người tử tù” còn là khúc văn ca luyến tiếc một nhã
thú văn học cổ truyền đang tàn lụi dần, đến thời Nguyễn Tuân chỉ còn vang bóng.” (Nguyễn Đăng Mạnh)
2. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:
2.1. Tình huống truyện độc đáo:
Tình huống truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân (kiểu tình huống hành động – nhân vật hành động – truyện
ngắn giàu kịch tính)
2.1. Xác định tình huống truyện
Câu hỏi: Toàn bộ truyện ngắn này xoay quanh sự kiện chính nào? Hay Sự kiện nào đóng vai trò chi phối toàn
bộ thiên truyện này? Sau khi lướt qua các tình tiết chính (Huấn Cao rỗ gông, Huấn Cao nhận cơm rượu, Huấn Cao xúc
phạm Quản Ngục, Huấn Cao ân hận, Huấn Cao cho chữ…) ta thấy không phải một trong những tình tiết ấy đóng vai trò
chi phối. Trái lại, chúng chỉ là những tình tiết họp lại để làm thành một sự kiện lớn hơn, và trong đó mới chứa cái “tình
thế nảy ra truyện”. Sự kiện lớn ấy là: cuộc gặp gỡ oái oăm giữa Huấn Cao và Quản ngục.
2.2. Phân tích tình huống
a. Diện mạo của tình huống. Nó oái oăm ít nhất vì ba lí do sau:
a.1. Không gian và thời gian diễn ra cuộc gặp gỡ. Không gian là nhà tù. Đây không phải là nơi dành cho những cuộc
gặp gỡ. Người ta vẫn nói: có hai nơi mà con người không nên gặp nhau là nhà tù và bệnh viện. Vì thế nhà tù chỉ là nơi
gặp gỡ ngoài ý muốn, trái khoáy, bất đắc dĩ. Thời gian là những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao.
Không gian và thời gian như thế đã góp phần tạo nên kịch tính cho tình huống.
a.2. Sự éo le trong thân phận hai nhân vật. Trước hết, xét ở bình diện xã hội, họ là hai kẻ đối địch: Huấn Cao là “giặc”
của triều đình – Quản ngục lại là quan của triều đình. Nói một cách khác: Một người dám cầm đầu cuộc khởi nghĩa
chống lại triều đình mục nát – Một người lại là viên quan đại diện cho bộ máy cai trị của chính triều đình mục nát ấy.
Sau nữa, xét ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri kỉ, trên cả hai chiều của quan hệ. Chiều đã hiện hình: Huấn Cao có tài
hoa và khí phách còn Quản ngục lại ngưỡng mộ khí phách và tài hoa. Chiều tiềm năng: Huấn Cao chỉ cúi đầu trước
Thiên lương cao khiết của con người, trong khi đó Quản ngục lại là “một tấm lòng trong thiên hạ”. Người nào cũng có
những phẩm chất cao quí mà người kia khát khao ngưỡng mộ. Sự éo le càng tăng gấp bội, bởi vì, về hành động, Quản
ngục bị đẩy đến trước một lựa chọn nghiệt ngã đầy tính xung đột. Ông ta chỉ được chọn một trong hai cách hành động,
mà không thể dung hoà cả hai: Một là, muốn tròn chức phận quan lại thì chà đạp lên lòng tri kỉ. Nếu hành động theo

2
hướng này, quản ngục là kẻ tầm thường. Vì ông ta không dám thuỷ chung với những gì mình cho là cao quí, sẵn sàng
phản bội lại những gì mình tôn thờ. Và câu chuyện sẽ là khúc bi ca hoặc trang phẫn nộ về thực tại chỉ có chỗ cho sự tầm
thường. Thực tại này chỉ có sự tầm thường ngự trị. Hai là, nếu trọn đạo tri kỉ thì phải phớt lờ chức phận quan lại. Hành
động theo hướng này, quản ngục là người cao quí. Vì thuỷ chung với những giá trị cao quí mình tôn thờ, ông ta đã dám
bất chấp sự thiệt thòi về quyền lợi lẫn sự an nguy đến tính mệnh. Và câu chuyện sẽ là khúc ca ca ngợi chiến thắng của
cái đẹp. Từ tình huống như vậy, có thể đặt thêm cho truyện ngắn này một phụ đề nữa: Số phận của cái đẹp.
a.3. Cuộc đối mặt ngang trái. Nhìn phía này, đó là cuộc giáp mặt giữa hai loại tù nhân. Huấn Cao là tử tù, theo nghĩa
đen. Còn quản ngục là kẻ bị tù chung thân, không hoàn toàn theo nghĩa bóng. Trước đến giờ, bề ngoài quản ngục vẫn
là một viên quan của cái triều đình thối nát, nhưng bên trong lại tôn thờ những giá trị cao quí tương phản với triều đình
ấy (thuộc về những người chống đối triều đình). Con người chức phận trói buộc cầm tù con người khát vọng. Quản ngục
vẫn sống theo lối “xanh vỏ đỏ lòng”. Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Tuân đã chọn một so sánh rất đẹp để viết về quản
ngục: “Giữa cái chốn người ta sống bằng lừa lọc phản trắc, thì tấm lòng biết giá người của viên quan cai tù là một
thanh âm trong trẻo lạc vào giữa một bản nhạc mà nhạc luật đã trở nên hỗn loạn xô bồ”. Ông ta bị cầm tù chính trong
môi trường sống của mình. Nếu không gặp Huấn Cao chẳng phải ông ta cứ bị cầm tù thế đến chung thân sao? Nói cách
khác: người này bị cầm tù về nhân thân nhưng luôn tự do về nhân cách, còn người kia tự do về nhân thân nhưng lại bị
cầm tù về nhân cách. Nhìn phía kia, đó là cuộc đối chứng giữa hai thứ nhà tù. Huấn Cao bị cầm tù trong cái nhà tù hữu
hình. Còn Quản ngục bị cầm tù trong cái nhà tù vô hình. Điều này cũng dẫn đến một kết cục không kém phần oái oăm:
thoát khỏi cái nhà tù hữu hình đã khó, nhưng thoát khỏi cái nhà tù vô hình còn khó hơn; quản ngục không cứu được
Huấn Cao và cũng không tự cứu được mình, còn Huấn Cao chẳng những không cần giải cứu, mà trước khi ra pháp
trường lại còn cứu được quản ngục.
Vẻ độc đáo mà truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân có được chẳng phải chủ yếu do tình huống đặc
sắc này đem lại hay sao? Và chính nó sẽ chi phối những thành tố khác tạo nên chỉnh thể tác phẩm.
b. Diễn biến của tình huống. Nhìn chung, diễn biến là: cuộc kì ngộ thành cuộc hạnh ngộ. Sở dĩ như vậy là do sự chuyển
biến trong quan hệ giữa Huấn Cao và quản ngục: quan hệ có phần đối địch nhường chỗ cho quan hệ tri kỉ hoàn toàn.
Nhìn trong mạch truyện thì diễn biến này gắn liền với hai phiến trát mà quản ngục phải tiếp nhận. Trước tiên là chuyển
biến trong thái độ, về sau là trong hành động.
Ban đầu: Quản ngục vẫn có một tấm lòng, nhưng Huấn Cao chưa biết. Tấm lòng ấy chính là “biệt nhỡn liên
tài”, nó bộc lộ chủ yếu ở tâm nguyện lớn này: vừa nương nhẹ và biệt đãi, vừa muốn xin chữ Huấn Cao. Nhưng sở nguyện
ấy, xem ra khó đạt được, vì Huấn Cao tuy có tài viết chữ, song lại khoảnh, nghĩa là rất khí khái. Ông chỉ cho chữ người
nào là tri kỉ. Nên, người muốn có chữ Huấn Cao, trước hết phải bước qua một khó khăn là phải được Huấn Cao “kết
nạp” vào số tri kỉ hiếm hoi của ông đã rồi hãy nghĩ đến việc xin chữ. Trong khi đó, thái độ của Huấn Cao dành cho quản
ngục là khinh bỉ không cần giấu diếm, vì bấy giờ ông mới chỉ coi quản ngục là một kẻ tiểu nhân làm nghề thất đức. Một
người như thế làm sao có thể thành tri kỉ của Huấn Cao? Thái độ đối địch của Huấn Cao đã tạo ra một vực sâu ngăn
cách giữa họ.
Về sau: Quan hệ đã hoàn toàn biến đổi. Nhận được phiến trát thứ hai, quản ngục đã choáng váng: thế là con
người cao quí mà ông cảm phục ngưỡng mộ đã không thoát khỏi được cái chết, và thế là ông sẽ chẳng bao giờ có được
chữ của Huấn Cao nữa rồi. Tình thế ấy buộc quản ngục phải hành động gấp. Ông cần bày tỏ con người thật của mình
cho Huấn Cao hiểu. Bằng cách nào? Thông qua viên Thơ lại. Việc này cho thấy tâm nguyện lớn đã khiến quản ngục bất
chấp mối nghi ngại vây khốn bao năm, không còn nghĩ đến cảnh giác, giữ thân như trước đó nữa. Thế là thoạt tiên tấm
lòng quản ngục đã chinh phục được khoảng cách với viên thơ lại. Rồi, sau khi nghe thơ lại kể tường tận, Huấn Cao đã
vô cùng cảm động và ân hận. “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Ta biết đâu một người như thầy
Quản đây lại có được một sở thích cao quí đến thế. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”- Đúng
là sự ân hận của Huấn Cao - nghĩa là rất chân thành nhưng cũng rất kiêu sang. Có thể nói, kể từ câu nói ấy, quản ngục
đã trở thành tri kỉ trong lòng Huấn Cao. Tấm lòng thuần khiết của quản ngục đã xoá bỏ hoàn toàn vực sâu ngăn cách
giữa hai nhân cách ấy. Thế là quan hệ có phần đối địch đã nhường chỗ cho một quan hệ tri kỉ hoàn toàn. Quản ngục cúi
đầu trước Huấn Cao, mà Huấn Cao cũng cúi đầu trước quản ngục. Cả 2 đều cúi đầu trước những vẻ đẹp cao quí mà
mình tôn thờ. Cả 2 đều đang cúi đầu trước hoa mai của mình.
Nhưng dầu sao đó mới chỉ ở trong thái độ. Sự đổi thay thực sự trong quan hệ phải được biểu hiện quyết định
bằng hành động. Và Huấn Cao thuận cho chữ. Việc này cho ta thấy một diễn biến rất tinh vi và rất cao đẹp trong cơ chế
tinh thần và tâm lí sáng tạo nghệ thuật. Từ xúc động lớn, Huấn Cao đã cho chữ. Nghĩa là cái Tâm xúc động đã khiến
Huấn Cao mang cái Tài ra để thực hiện. Trong sự xúc động chân thành và mãnh liệt kia thấy có cả hai bình diện: Vừa
là mối xúc động đạo đức của con người tri kỉ Huấn Cao trước những nghĩa cử mà quản ngục dành riêng cho mình, nó
khiến ông phải cầm lấy bút để viết như một hành vi đáp nghĩa. Vừa là mối xúc động thẩm mĩ của con người nghệ sĩ

3
Huấn Cao bởi bất ngờ đối diện với cái đẹp mà mình suốt đời tôn thờ, nó khiến ông phải cầm lấy bút để viết như một
hành vi sáng tạo. Tức là, trong hưng phấn sáng tạo ấy, cái Tâm và cái Tài đang chuyển hoá sang nhau để sinh thành cái
Đẹp. Thiếu một trong hai phía đó thì không thể có được cảnh cho chữ này. Và, nhìn kĩ, cái đẹp nghệ thuật (của những
bức thư pháp đó) có ngọn nguồn từ cái đẹp của tình người.
Cuối cùng: Cảnh cho chữ là tình tiết sau chót hoàn tất cuộc gặp gỡ oái oăm này. Đến đây mọi khía cạnh mới
bộc lộ trọn vẹn. Nguyễn Tuân gọi đó là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Lí do trước hết có lẽ thuộc về không gian
và thời gian diễn ra cảnh cho chữ. Cho chữ vốn là cử chỉ văn hoá của những tao nhân mặc khách nên thường diễn ra ở
những địa chỉ văn hoá, chẳng hạn thư phòng, văn phòng, trà thất, xưởng họa… Còn ở đây nó lại diễn ra giữa nhà tù.
Nghĩa là nơi ngự trị của Bóng Tối và Cái Ác. Nơi thù địch với Cái Đẹp. Thế mà Cái Đẹp lại chọn đúng chỗ thù địch với
Cái Đẹp để diễn ra, để chào đời. Khía cạnh bất thường này đã phần nào chứa đựng một tinh thần nổi loạn. Về thời gian,
cho chữ vốn là việc đường đường chính chính bạch nhật thanh thiên, ở đây lại diễn ra vào canh khuya. Canh khuya đã
đem lại cho cảnh tượng một không khí bí mật và thiêng liêng. Đồng thời, đó lại cũng là những giờ khắc cuối cùng của
Huấn Cao. Lẽ thường, ở vào thời điểm ấy, một người sắp lìa đời phải lo làm chúc thư, nói lời trăng trối với thân nhân.
Thế mà Huấn Cao lại dành những giây phút hiếm hoi cuối cùng ấy vào việc cho chữ, việc sáng tạo những bức thư pháp.
Bởi vậy, chẳng phải những bức thư pháp kia cũng chính là những con chữ thiêng, những di huấn, di chúc đặc biệt của
một nhân cách cao đẹp gửi lại cuộc đời này hay sao? Tuy nhiên, điều quyết định nhất khiến nó được xem là “cảnh tượng
xưa nay chưa từng có” hẳn phải là một sự đảo lộn ghê gớm trong vị thế các nhân vật ở đây. Có thể thấy ít nhất ba khía
cạnh sau.
Về quyền uy: kẻ có quyền hành thì không có quyền uy (quản ngục), uy quyền lại thuộc về người đã bị tước đi
mọi thứ quyền, kể cả cái quyền tối thiểu là quyền sống (Huấn Cao).
Về thái độ: kẻ không việc gì phải sợ thì “khúm núm sợ sệt” (quản ngục), người đáng ra phải sợ thì lại “đường
bệ ung dung” (thói thường, Huấn Cao phải sợ quan trước mặt, sợ cái chết ngay sau lưng chứ!).
Về chức phận: Cai tù không giáo dục tội phạm, trái lại tội phạm lại đang giáo dục cai tù, trong khi đó cai tù lại
đang lắng nghe một cách thành tâm, thành kính như nhận những lời chỉ giáo thiêng liêng của một bậc thầy về nhân cách.
Đến đây, một câu hỏi đặt ra là: ai đã tạo nên sự đảo lộn này? Huấn Cao chăng? Không phải. Quản ngục chăng? Càng
không phải. Một cái gì đó còn lớn hơn những con người kia. Và câu trả lời là: Cái Đẹp. Họ đang sống theo tiếng gọi của
Cái Đẹp. Họ đang đem những gì đẹp đẽ nhất cao cả, cao quí nhất để dành cho nhau. Họ không sống theo vị thế và chức
phận mà thể chế kia định đoạt. Không còn ngục quan. Không còn tội phạm. Chỉ còn những người bạn những tri kỉ tri
âm đang qui tụ quây quần xung quanh cái đẹp của tình người và nghệ thuật.
Cái đẹp đã phế bỏ cái trật tự mà xã hội sắp đặt ở chốn nhà tù để thiết lập một trật tự khác. Trật tự phận vị đã
được thay thế bằng trật tự nhân văn. Cảnh cho chữ thực là cảnh tượng đăng quang của Cái Đẹp. Có thể nói đó là cuộc
nổi loạn của Cái Đẹp trong thế giới nhà tù. Thì ra không chỉ có quyền lực của Cái Chết, quyền lực của Cái Gông mà còn
có quyền lực của Cái Đẹp. Cái đẹp vẫn có uy quyền riêng của nó. Gọi Cái Đẹp Nguyễn Tuân là Cái Đẹp Nổi Loạn chính
là như thế.
Rõ ràng: Cuộc kì ngộ đã hoàn toàn thành cuộc hạnh ngộ. Quản ngục thì bày tỏ được niềm ngưỡng mộ và có
được chữ của Huấn Cao, đồng thời có được lối để vượt thoát ra khỏi tình trạng cầm tù chung thân của mình. Còn Huấn
Cao, vào giờ phút chót của đời mình, lại bất ngờ được thấy một đoá hoa mai giữa thế giới ô trọc, lại được số phận ban
tặng một tri kỉ nữa. “Sống trong đời, có được một tri kỉ, chết cũng thoả lòng”, chẳng phải đó là niềm hạnh phúc vô song
mà người xưa coi là điều lí tưởng đó ư?
2.3. Rút ra ý nghĩa tư tưởng
a. Tình huống ấy chứa đựng một quan niệm sâu sắc: Cái đẹp là bất diệt. Dù thực tại có hắc ám đến đâu cũng không tiêu
diệt được cái đẹp. Nó mãi mãi là một lí tưởng nhân văn cao cả của cõi người này.
b. Tình huống như thế cũng chứa đựng một niềm tin mãnh liệt, rằng: Cái đẹp sẽ thanh lọc cuộc đời này. “Cái đẹp sẽ
cứu chuộc nhân loại”- đó là tư tưởng của Đôtxtôiepxki, người có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của người nghệ sĩ lãng
mạn Nguyễn Tuân.
(Chu Văn Sơn)
2.2. Nhân vật Huấn Cao:
a/ Cảnh ngộ:
- Thủ lĩnh của những kẻ ngang tàng dám đứng lên chống lại triều đình.
- Nay bị kết án, giam cầm, đợi ngày ra pháp trường.
⭢ Kẻ tử tù, người sắp đi vào cõi chết, người anh hùng thất thế nhưng vẫn anh hùng.
b/ Những phẩm chất phi thường, cao đẹp:
Ở Huán Cao nổi bật 2 phương diện (người anh hùng + người nghệ sĩ) với 3 phẩm chất:

4
[1] Phẩm chất 1: Văn võ toàn tài
Văn Võ
- “Cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất - “Người đứng đầu bọn phản nghịch”: Là lãnh
nhanh và rất đẹp”: Tài viết chữ của Huấn Cao nổi danh khắp tụ của một toán quân khởi nghĩa, bản thân Huấn
một vùng, là người nho sĩ có tiếng lúc bấy giờ. Cao phải là người có tài võ hơn người.
 “Những nét vuông tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung - “Ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn cái tài bẻ
hoành của một đời người”. khóa và vượt ngục”: Ngoài tài võ, cái tài “bẻ
- “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm…Có được chữ ông khóa vượt ngục” của Huấn Cao cũng có thể xem
Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”: Đối với viên quản là một thứ “nghệ thuật” vậy. Ông được thơ lại
ngục, chữ ông Huấn Cao còn hơn cả tiền tài vật chất, nó là một đánh giá như “một tên tù có tiếng nguy hiểm”
“vật báu” vô giá, một nghệ phẩm tuyệt diệu từ người nho sĩ
tài danh. Không kịp xin là “ân hận suốt đời”.
 Ngay từ đầu, Nguyễn Tuân đã khắc họa nhân vật Huấn Cao không chỉ là một nghệ sĩ tài hoa mà còn là một nhân
vật có tài chọc trời khuấy nước. Ở đây, có thể thấy, ngoài tài võ, cái tài “bẻ khóa vượt ngục” của Huấn Cao cũng
có thể xem là một thứ “nghệ thuật” vậy. Ở đây, khi Nguyễn Tuân mở đầu tác phẩm bằng cách để viên quản ngục
và thơ lại bàn về tài năng của Huấn Cao, ta thấy được tài hoa của Huấn Cao xuất chúng đến mức cả kẻ thù, những
người đối lập với ông về địa vị xã hội cũng phải nể phục. Tác giả không nói cụ thể mà để nhân vật nói hộ mình, đã
xây dựng được một không khí huyền thoại xung quanh tài hoa của Huấn Cao – sự siêu phàm, tuyệt diệu trong thư
pháp. Nguyễn Tuân nhìn nhận con người bao giờ cũng dưới góc độ tài hoa nghệ sĩ. Thủ pháp: “hoạ vân hiển
nguyệt” (vẽ mây nẩy trăng): Chỉ mượn lời nhân vật khác, nhắc đến vài chi tiết mơ hồ (vẽ mây) nhưng đã làm nổi
bật phẩm chất, tài năng của nhân vật (nẩy trăng).
 Huấn Cao văn võ song toàn, thật sự là nhân vật được xây dựng từ nguyên mẫu Cao Bá Quát, một kì nhân văn võ
toàn tài của dân tộc ta, cũng là một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân.
[2] Phẩm chất 2: Khí phách hiên ngang
• Khi mới đến:
- Hành động dỗ gông:
+ Khí phách của Huấn Cao được thể hiện ngay từ khoảnh khắc đầu tiên ông xuất hiện. Huấn Cao bị đưa vào nhà tù cùng
năm người bạn tù, trước mặt bọn lính ngục, quan quản ngục, nếu là người bình thường sẽ trở nên run rẩy, sợ hãi – Huấn
Cao vẫn bình tĩnh, thong thả như chốn không người.
+ Lời nói: “Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải dỗ gông đi”. Hành động: “Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng,
khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”.
+ Thái độ: Bọn lính cười nhạo, xem thường và ra lệnh cho ông Huấn: “Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ
có người sành sỏi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường… Đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ.” Ông
hoàn toàn không để ý đến lời của bọn lính ngục – cái im lặng của ông trong trường hợp này là cái im lặng của sự can
đảm và khinh bỉ.
 Hành động của Huấn Cao được Nguyễn Tuân khắc họa với cái nhìn của điện ảnh, đi sâu vào từng chi tiết, đã
gây được ấn tượng mạnh với người đọc, cho ta những cảm quan đầu tiên với người tù: kiêu bạc, lạnh lùng, khí
phách hơn người ngay cả khi sa cơ thất thế.
- Trong thời gian ở ngục:
+ Huấn Cao ngay khi đã sa cơ vẫn cứ hiên ngang, kiêu bạc như thường. Trong thời gian ở đề lao, ông lúc nào cũng giữ
vững thái độ ung dung, bình thản. “Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong
cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm”. Nếu như ngay từ đầu, ông không hề mảy may để ý đến lời của bọn lính ngục
thì ở đây, ông cũng không thấy có gì khác lạ giữa bữa cơm tù và bữa cơm biệt đãi. Ở trong ngục hay ở bên ngoài, với
Huấn Cao vẫn thế, lòng ông chỉ nghĩ về chí lớn, chuyện áo cơm, xét ra cũng chỉ là một chút gì không đáng nhắc đến.
Huấn Cao là bậc trượng phu đã thoát khỏi những điều phàm tục của người bình thường.
+ Khi viên quan coi ngục đến, cung kính hỏi ông: “Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất.” Ông
Huấn Cao đã khảng khái trả lời: “Ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Cách xưng hô của
ông không hề khép nép, nhín nhường, cũng chẳng có chút gì thể hiện sự lay động (không phải Huấn Cao xem thường
tấm lòng của quản ngục mà ông vốn tin rằng quản ngục là đại diện cho triều đình phong kiến, là kẻ đối địch với mình,
sự biệt đãi này chắc chắn là mưu ma chước quỷ để thu phục ông). Chính vì thế lời nói của ông mang tính thách thức, cốt
để quản ngục lộ ra “những thủ đoạn tàn bạo” như vẫn thường thấy ở bất cứ tên quản ngục nào.

5
 Đối với một tử tù, viên quan coi ngục là người nắm trong tay vận mệnh sinh tử của mình, thế mà Huấn Cao vẫn
khinh bạc, coi thường, hoàn toàn không mảy may sợ hãi. Thậm chí ở đây ta còn nhận thấy một sự ngược đời:
kẻ coi ngục thì cung kính, người tử tù lại dõng dạc cất tiếng. Luật lệ nhà tù chỉ là con số không đối với Huấn
Cao. “Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là trò tiểu nhân thị oai này”.
 Huấn Cao không sợ hãi trước cái chết – một tinh thần hiên ngang, can trường, xứng đáng là lãnh tụ của một
cuộc khởi nghĩa: “Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”. Ông không sợ cường quyền bạo ngược, cũng không mảy
may run sợ trước những điều mà ông cho là mánh khóe, mưu chước của bọn quan lại tiểu nhân. Huấn Cao vững
chãi trước những hung bạo, gian trá của thế lực quan lại bạo cường.
+ Khi nghe tin sáng sớm mình phải đi chịu án tử hình, Huấn Cao vẫn bình thản, ung dung. Không chỉ thế ông còn
dành thời gian viết tặng viên quan coi ngục khi đã hiểu tấm lòng của hắn. Trong cảnh gươm kề cổ, cái chết sát bên chân,
Huấn Cao vẫn thản nhiên thả hồn bay bổng, viết lên những dòng chữ in đậm hoài bão của một đời con người. Đó là tư
thế bất khuất, hiên ngang, thoát phàm của một người nghệ sĩ anh hùng.
 Không khuất phục cường quyền: “uy vũ bất năng khuất”. Tinh thần “vô uý” (không sợ hãi)
+ “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”: Huấn Cao hoàn toàn không bị
khuất phục trước tiền tài: khinh thường đối với tiền tài, vật chất.
 “Phú quý bất năng dâm”
• Nhận xét:
+ Trong cảnh gươm kề cổ, cái chết sát bên chân, Huấn Cao vẫn thản nhiên thả hồn bay bổng, viết lên những dòng
chữ in đậm hoài bão của một đời con người. Đó là tư thế bất khuất, hiên ngang, thoát phàm của một người NGHỆ SĨ
ANH HÙNG.
+ Hình tượng Huấn Cao gắn bó sâu sắc với nguyên mẫu Cao Bá Quát Tính cách hiên ngang, khảng khái, bất khuất kiên
cường hiện lên dưới bút pháp lý tưởng hóa của chủ nghĩa lãng mạn đã đưa Huấn Cao trở thành một biểu tượng của
những người TRƯỢNG PHU xưa.
[3] Phẩm chất 3: Thiên lương trong sáng
❑ TẢN ĐÀ cho rằng:
[1] Lương tri là cái tri giác của giời cho để cảm biết các sự vật.
[2] Lương tâm là cái bụng dạ của giời cho để tiếp nhận các sự vật.
[3] Lương năng là cái tài giỏi của giời cho để làm theo các sự vật.
 Không có lương tri thời không lấy gì biết; không có lương tâm, không lấy gì tiếp nhận; không có lương năng
thời không lấy gì làm. Đó là ba nguyên chất của thiên lương - ba chất điều hòa thiên lương toàn vẹn.
- Vẻ đẹp thiên lương góp phần làm hoàn thiện bức tranh nhân cách của nhân vật Huấn Cao. Nó làm cho ông Huấn
không trở thành một mẫu hình lý tưởng của cái tài, cái đẹp thuần túy, không có những tình cảm thế gian mà trở thành
một người tài hoa với những cái yêu, cái ghét rất mực con người.
- Thái độ đối với “Chữ” và việc cho chữ: Huấn Cao rất mực coi trọng chữ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay
quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ.” Đó là sự trọng nghĩa khinh tài, một tấm lòng rất mực tôn thờ cái đẹp.
Huấn Cao là bậc chân tài có khả năng sáng tạo cái đẹp, dùng cái đẹp để đáp lại những tấm lòng tri kỉ, đồng vọng.
“Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi.” Trước ngày
ra pháp trường, ông vẫn ung dung thả hồn vào nét chữ, trao tặng cho quản ngục những nét chữ vuông tươi tắn như
một bức di thư gửi lại cho tấm lòng thiên lương của quản ngục, như một tín vật gửi lại cho kẻ tri âm chốn ngục tù
tăm tối. Suốt đời, Huấn Cao chỉ tôn thờ một đạo sống duy nhất: Đạo của chữ, đạo của thiên lương.
- Đối với sự biệt đãi của quản ngục:
+ Đối với sự biệt đãi, tuy ngoài mặt, Huấn Cao lạnh lùng, kiêu bạc trong cả lời nói và hành động nhưng sự thật ông vẫn
luôn băn khoăn nghĩ đến sự biệt đãi cũng như thái độ của viên quản ngục. “Nhiều đêm, ngoài việc nghĩ đến chí lớn không
thành, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục.”
+ Ban đầu:
✓ Khinh bạc, thách thức;
✓ “Bực mình thêm”;
✓ “Ngạc nhiên”;
 Có sự chuyển biến trong tâm lý.
 Huấn Cao dùng con người “anh hùng” của mình để ứng xử với quản ngục như cách hình dung của ông về bất
cứ tên quản ngục nào.

6
+ Về sau: Sau khi nghe câu chuyện từ thầy thơ lại, Nguyễn Tuân cho ta một góc khác trong con người Huấn Cao. Huấn
Cao không cứng nhắc trong cách nhìn người. Ông không phải hạn “võ biền” mà có cái tâm khoan hoà, chịu dành lòng
nghĩ về sự đối đãi của người khác, ngay cả khi đó là kẻ đối địch.
✓ Phản ứng: “lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười”: Đây là nụ cười đầu tiên và duy nhất của Huấn Cao trong toàn bộ
tác phẩm.
✓ Khoảnh khắc “lặng nghĩ” của ông Huấn thật giống khoảnh khắc trăn trở của quản ngục: Đưa đến chọn lựa mang
tính quyết định.
✓ Những lời nói ra sau đó của ông dường như xuất phát từ tấm chân tình của ông đáp lại viên quản ngục: “Ta cảm
cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những
sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.” Trong câu nói ẩn chứa
một sự ân hận vì đã cư xử rất mực cao ngạo đối với tấm lòng của viên quản ngục cũng như niềm xúc động sâu
sắc của Huấn Cao khi hiểu được tấm lòng của ông. Đó là sự tôn trọng và trân trọng của một kẻ chân tài với
người tri âm, của một tấm lòng thiên lương vói một tấm lòng thiên lương.
+ Huấn Cao nhận định quản ngục và thơ lại có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”: Nguyễn Tuân dùng từ “cảm”, nghĩa là hiểu
và xúc động trước tấm lòng của họ: THÁI ĐỘ CỦA HUẤN CAO THAY ĐỔI HOÀN TOÀN. Cách diễn đạt “Nào ta
có biết đâu… Thiếu chút nữa…” ẩn chứa một sự ân hận vì đã cư xử rất mực cao ngạo đối với tấm lòng của viên quản
ngục. Điều này cho thấy Huấn Cao tuy kiêu bạc, khinh ghét quân triều đình nhưng đối với những người có lòng yêu say
cái đẹp, ông lại rất mực yêu quý, tôn trọng. Ông khảng khái, kiêu bạc nhưng không đặt mình cao hơn thiên hạ, ngược
lại khi nhận ra mình đã hiểu lầm quản ngục, ông cũng biết bày tỏ sự ân hận. Đó là vẻ đẹp của một người có nhân cách
lớn, bản lĩnh lớn và tấm lòng lớn.
 Nhận xét: Sự trân trọng của một kẻ chân tài với người tri âm, của một tấm lòng thiên lương với một tấm
lòng thiên lương.
- Thiên lương thể hiện trong cảnh cho chữ: Bằng thiên lương trong sáng và tài năng của mình, Huấn Cao đã sáng
tạo ra cái đẹp, cảm hóa nhân tâm trong chính cảnh ngục tù tăm tối, nơi mà cái ác, cái xấu ngự trị. Buồng giam biến
thành nơi dừng chân gặp gỡ của những tấm lòng tri kỉ. Thông qua cái đẹp – sự mỹ hóa thiên lương và khí phách,
Huấn Cao đã đảo lộn trật tự của thế giới ngục tù tăm tối.
- Trước ngày ra pháp trường, ông vẫn ung dung thả hồn vào nét chữ, trao tặng cho quản ngục những nét chữ vuông
tươi tắn như một bức di thư gửi lại cho tấm lòng thiên lương của quản ngục, như một tín vật gửi lại cho kẻ tri âm
chốn ngục tù tăm tối.
 Sự tài hoa, mạnh mẽ, nhất là tấm lòng thiên lương, chỉ sẵn sàng khuất phục trước cái đẹp, cái chân tâm của con
người; dù cho đó có là “kẻ thù” về mặt chính trị - xã hội của mình đi nữa – đó là tất cả những gì làm nên con người
Huấn Cao, cũng là phẩm cách của nguyên mẫu Cao Bá Quát. Nếu trong “Nhà Nguyễn”, Nguyễn Tuân khẳng định:
dù có kiêu bạc đến đâu cũng biết cúi đầu trước cái chân tài, thì ở đây Huấn Cao cũng đã cúi đầu trước tấm lòng của
viên quản ngục, thật là “thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ nhất sinh đê thủ bái mai hoa.”
• Nhận xét: QUAN NIỆM VỀ NGƯỜI NGHỆ SĨ CỦA CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN: Có thể sáng tạo ra cái
đẹp bất chấp hoàn cảnh; Vượt lên trên hoàn cảnh, đứng cao hơn số mệnh của mình;
❖ SƠ KẾT NHÂN VẬT HUẤN CAO: Qua hình tượng Huấn Cao, Nguyễn Tuân bộc lộ quan niệm về cái đẹp:
Tài (Sáng tạo cái Đẹp) + Tâm (Khí phách, thiên lương) = Cái Đẹp gắn với cái Thiện: Quan điểm nghệ thuật tiến
bộ. HUẤN CAO = TÀI + TÂM + DŨNG
2.3. Nhân vật quản ngục:
a/ Cảnh ngộ:
- Làm cai tù.
- Sống giữa gông xiềng, tội ác.
 Mâu thuẫn: Phải làm và chứng kiến bao điều tàn nhẫn lọc lừa - Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền. Bi kịch diễn
ra khi con người nhận thức được bi kịch: Quản ngục biết điều mình làm là nhẫn tâm, là đi ngược lại đạo lí thánh
hiền mà mình hiểu rất rõ nhưng ông vẫn không thể làm khác.
- Thái độ đối với nghề nghiệp: Luôn day dứt vì đã chọn nhầm nghề: Khi nghĩ về thơ lại: “Có lẽ hắn cũng như mình,
chọn nhầm nghề mất rồi.”
 Bế tắc nhưng không đủ can đảm, quyết đoán để thay đổi.
b/ Phẩm chất, tính cách:
[1] Phẩm chất 1: Say mê cái đẹp
- Thái độ với chữ của Huấn Cao:

7
+ Có một tâm hồn nghệ sĩ của kẻ liên tài (quý trọng người tài): SAY MÊ, QUÝ TRỌNG CÁI ĐẸP : “Có được chữ
ông Huấn mà treo là một vật báu trên đời.” Tuy làm nghề quản ngục, quen sống trong cảnh ngục tù tối tăm, giữa bao
nhiêu điều xấu xa, nhơ bẩn, ông vẫn giữ được cho mình một niềm say mê bất tận đối với cái đẹp.
+ Bất chấp sự khác biệt về vị thế xã hội, quản ngục vẫn hết lời khen ngợi chữ viết của Huấn Cao: “Chữ ông Huấn Cao
đẹp lắm, vuông lắm.” Điều đó tạo ấn tượng đặc biệt cho người đọc: xưa nay hiếm có quản ngục nào lại mến phục người
tù của mình.
+ Tâm nguyện của cuộc đời quản ngục cũng chỉ xoay quanh chuyện xin chữ:
✓ Hết lòng mong mỏi một ngày nào đó Huấn Cao sẽ chịu viết cho mình. Chỉ như thế thôi thì quản ngục đã “mãn
nguyện” rồi.
✓ Khổ tâm vì trong ngục do mình cai quản nhưng “không biết làm thế nào mà xin được chữ”.
+ Quản ngục ý thức được:
✓ Huấn Cao hiện ở dưới quyền mình.
✓ Nhưng muốn có “chữ” thì phải “xin” chứ không thể ép;
✓ Cái đẹp chỉ có thể sinh ra từ ý chí, tâm huyết của người sáng tạo, không thể dùng quyền uy hay vàng bạc mà
bắt ép.
 “Y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất.”
Khi điều đó đến thì ngục quan “tái nhợt người đi”: NỖI LÒNG CỦA MỘT TÂM HỒN YÊU SAY CÁI
ĐẸP.
- Nghệ thuật thư pháp là kết tinh của thi – họa – triết. Đây là một nghệ thuật không dễ thưởng thức. Một tác phẩm thư
pháp xuất sắc chỉ có được từ người nghệ sĩ xuất sắc. Để thụ cảm cái đẹp của thư pháp cũng đòi hỏi: kì nhãn (cặp mắt
phát hiện cái tài, cái đẹp) biết thưởng thức + kì tâm (tâm hồn trân trọng cái đẹp) biết hòa điệu. Tất cả những năng
lực phẩm chất cần có đó đều tụ hội trong viên quản ngục, được gìn giữ trong hoàn cảnh đề lao tăm tối, xấu xa.
- Nhận xét của Huấn Cao: “một tấm lòng trong thiên hạ” + có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” + có “sở thích cao quý” +
có “thiên lương”.
 [140] Tuy làm nghề quản ngục, quen sống trong cảnh ngục tù tối tăm, giữa bao nhiêu điều xấu xa, nhơ bẩn, ông
vẫn giữ được cho mình một niềm say mê bất tận đối với cái đẹp.
[2] Phẩm chất 2: Quý trọng cái tài
- Mở đầu tác phẩm:
+ Khen tài viết chữ: “cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”.
+ Thừa nhận Huấn Cao văn võ toàn tài: “cũng gần như vậy”.
 Quản ngục và thơ lại gặp nhau ở tấm lòng kính trọng người tài.
- Lựa chọn của quản ngục:
+ Nếu đối xử với Huấn Cao như một tử tù - đúng với phận vị của một kẻ coi ngục: Quản ngục sẽ mãi mãi là một kẻ giữ
tù, mãi mãi bị chôn mình trong thế giới tối tăm của đề lao.
+ Xem Huấn Cao như một người tài mà mình kính trọng - đúng với tâm hồn mình: Quản ngục sẽ giữ được phần tốt đẹp
trong con người mình => Tạo ra một bước ngoặt
- Tâm trạng của quản ngục trong lúc chờ đợi cho thấy rõ tấm lòng trân quý của ông đối với tài năng của Huấn Cao.
“Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương.” Quản ngục đang trăn trở về nhiều thứ: về việc đón Huấn Cao, về việc
đối xử với Huấn Cao trong thời gian ông ở ngục, về mong muốn có được con chữ… Khi cuộc suy tư đã thành, trên
khuôn mặt tư lự của viên quản ngục lúc này chỉ còn “mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”.
 Nguyễn Tuân không nói cụ thể lựa chọn của quản ngục nhưng sự thể đã quá rõ ràng.
 Quản ngục đã chọn “biệt đãi Huấn Cao”, ông đã đứng về phía thiên lương, con người trọng cái tài đã chiến
thắng con người phận vị: Con người đứng cao hơn thân phận của mình.
 Giữa thế giới ngục tù và xã hội đương thời nhiễu nhương, giông bão, một thoáng bình yên như ao xuân trên
khuôn mặt viên quản ngục đã ứng chiếu tất cả cái đẹp trong tâm hồn ông.
- Nhận xét của người kể: “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và
lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một
bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ.” Người kể nói về cùng một thế giới nhưng ở đó đã phân ra 2 chiến tuyến:
NGƯỜI TA VIÊN QUAN COI NGỤC
sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng
người ngay

8
 Với tấm lòng trọng người tài, người ngay, viên quan coi ngục đã đột ngột tách khỏi thế giới tăm tối mà ông
đang sống.
- Biệt đã Huấn Cao:
+ Hành động: Biệt đãi rượu thịt, luôn cung kính
+ Thái độ: Khép nép, kính nể
+ Lời nói: “Xin lĩnh ý”, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
 Khi bị Huấn Cao quát, ông hoàn toàn không một chút giận dữ hay tự ái, bởi ông biết “những người chọc trời
quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một
kẻ tiểu lại giữ tù.”
+ Trong nhận thức của quản ngục:
QUẢN NGỤC HUẤN CAO
“tiểu lại”: tự nhận mình nhỏ bé, thấp kém; “chọc trời quấy nước”: không giấu được niềm kính
trọng, nể phục;
 Đó không phải là sự sợ hãi, mà là sự quy phục, sự kính cẩn hạ mình trước một nhân cách, một tấm lòng
của kẻ biết yêu cái đẹp, trọng cái tài. Nguyễn Tuân trong “Nhà Nguyễn” cũng viết rằng mình là một kẻ dù
kiêu bạc đến đâu cũng biết cúi đầu trước cái chân tài.
+ Đối với sự biệt đãi Huấn Cao, không phải quản ngục ung dung biệt đãi mà bản thân ông cũng e sợ phép vua luật nước:
➢ Ông e ngại, không dám nói thẳng ý nguyện của mình cho thơ lại khi chưa biết tấm lòng của hắn: “Chuyện triều
đình quốc gia, chúng ta biết gì mà bàn bạc cho thêm lời…”
➢ Ông cũng sợ Huấn Cao tiết lộ sự biệt đãi của mình: “Miễn là ngài giữ kín cho”.
 Quản ngục sợ luật vua phép nước là điều hợp lí. Ông Huấn Cao là cầm đầu một đảng phản nghịch, nếu triều
đình biết quản ngục đối đãi tốt với Huấn Cao thì chẳng phải ông sẽ bị xếp vào đồng đảng, lúc đó thì đừng nói
quản ngục mà cả gia đình ông có khi cũng mang hoạ tru di. Dù sợ luật vua nhưng tấm lòng của ông đối với cái
tài, cái đẹp vẫn khiến ông vượt qua mọi rào cản - CÁI DŨNG. Quản ngục chính là hình ảnh con người vươn
tới cái đẹp, kính phục cái chân tài bất kể mọi cách ngăn xã hội.
 Mối quan hệ giữa Huấn Cao và quản ngục:
Huấn Cao Quản ngục
Bình - Kẻ tử tù. - Người quản ngục.
diện xã - Tên cầm đầu bọn phản loạn - Quan lại triều đình phong kiến.
hội  Mối quan hệ đối lập.
Bình - Người sáng tạo ra cái đẹp. - Người biết thưởng thức và trân trọng cái đẹp.
diện - Người trân trọng thiên lương. - Người có và gìn giữ được thiên lương.
nghệ  Mối quan hệ tri âm tri kỉ.
thuật
Tình Đây là một tình huống éo le, oái ăm. Hai con người gặp nhau trong cảnh ngục tù tối tăm, mối quan
huống hệ giữa họ bị chồng chéo giữa những phận vị khác nhau. Điều này đặt nhân vật viên quản ngục vào
truyện tình thế phải chọn lựa giữa hai phận vị: là ngục quan hay là người thưởng thức cái đẹp? Từ đó tạo
tiền đề để thể hiện quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp.
2.4. Cảnh cho chữ:
- Dù chỉ có 365 từ nhưng đoạn văn đã kết tinh tư tưởng chủ đề của tác phẩm và cũng là chỗ tập trung tinh hoa trong bút
lực Nguyễn Tuân.
a. Nội dung:
+ Đây là việc làm đáp lại một tấm lòng trong thiên hạ, tấm lòng của kẻ tri âm dành cho người tri kỷ.
+ Cái tâm đang điều khiển cái tài, cái tài đang phụng sự cái tâm
⭢ Cái tài + cái tâm + cái dũng = Cái đẹp
🢥 Cao trào của bài ca bi tráng về cái đẹp - cái đẹp của tài năng –khí phách và thiên lương.
b. Cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có:
• Hoàn cảnh khai sinh cái đẹp:
▪ Không gian và thời gian:
- Không gian: Trong một phòng giam bẩn thỉu, tăm tối: “Buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa
bãi phân chuột, phân gián.”: “Việc cho chữ chỉ diễn ra ở những nơi tao nhã. Còn ở đây nó diễn ra ngay giữa nhà tù,

9
nơi ngự trị của bóng tối và tội ác, những thứ thù địch với cái đẹp. Vậy mà, Nguyễn Tuân đã chọn chính nơi này để cho
Cái Đẹp chào đời.” (Phạm Trọng Luận)
- Thời gian: Lúc nửa đêm + Trước ngày Huấn Cao ra pháp trường: Cái chết cận kề cũng không cản được người nghệ sĩ
sáng tạo ra cái đẹp. Sức sống của cái đẹp vượt qua mọi rào cản không gian, thời gian, thậm chí cái chết của người nghệ
sĩ.
Bóng tối Ánh sáng
+ Khung cảnh ngập tràn BÓNG TỐI; + “Ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người
“quạnh quẽ” và “tối mịt”, tất cả đều đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”: Nguồn
nhuốm vẻ âm thầm, u ám - một cõi nhân sáng duy nhất được nhắc đến là ngọn đuốc soi tỏ cả ba nhân vật. Bóng
sinh mà bóng tối nhiều hơn ánh sáng. Thời tối bủa vây nhưng ánh sáng cũng rực rỡ: Cảnh cho chữ trở thành điểm
gian cũng là khoảnh khắc tối tăm nhất của sáng bừng trong không gian.
ngày. + “Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam,
tàn lửa tắt nghe xèo xèo.”: Ánh sáng lại được khắc hoạ sau đoạn
khuyên nhủ của Huấn Cao: vừa “cháy rực” (phát sáng rực rỡ), vừa
“rụng xuống” (lan đi, tắt đi) như chính Huấn Cao.
 Cảnh cho chữ của bậc tao nhân mặc khách thường diễn ra nơi thư phòng trang trọng, nhưng ở đây lại diễn ra
trong một nơi mà người ta tưởng rằng một hành động sáng tạo cái đẹp như thế không thể nào diễn ra được. Thời
gian ở đây cũng là một khoảng thời gian đặc biệt, nó không chỉ là thòi khắc đêm tối mà còn là đêm trước khi
Huấn Cao ra pháp trường.
▪ Người cho chữ và người xin chữ:
- Người cho chữ: Kẻ tử tù, đang trong cảnh “Cổ đeo gông, chân vướng xiềng” và chỉ sáng tinh mơ ngày mai bị giải
vào kinh chịu án tử hình.
+ Huấn Cao bình thản “dậm tô từng nét chữ”:
➢ Cái dũng của NGƯỜI ANH HÙNG;
➢ Cái say mê, tỉ mẩn của NGƯỜI NGHỆ SĨ.
+ Mặc cho mùi ẩm mốc, hôi hám của nhà giam, Huấn Cao vẫn nhận ra mùi thơm của thoi mực.
 Đó là cái tâm cái tài, và mùi thơm của thoi mực bốc lên át đi mọi mùi ẩm mốc của nhà giam còn gì hơn là tâm
hồn nghệ sĩ đã vượt thoát khỏi thực tại u tối, đắm mình vào men say của cảnh giới nghệ thuật thuần túy?
- Người xin chữ: Viên quan coi ngục và viên thơ lại, những người nắm giữ quyền lực ở trại giam.
+ Thái độ: “vội”, “khúm núm”; “run run”.
+ Hành động: “cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa trắng”, “bưng chậu mực”.
 Đến cuối cảnh cho chữ, người tù trở thành người “huấn đạo”: “Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ
này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái
hoài bão tung hoành của một đời con người. […] Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến
nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.”
+ “Chỗ này không phải là nơi…”: Người nghệ sĩ có thể sáng tạo cái đẹp trong ngục tù tăm tối nhưng cái đẹp không thể
tồn tại lâu dài ở một nơi không phù hợp với nó.
+ “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”: Quản ngục có thể
giữ được thiên lương bất chấp hoàn cảnh nhưng rồi hoàn cảnh sẽ làm mai một nó đi.
+ Huấn Cao muốn nhấn mạnh: LÀNH-VỮNG: Không phải chỉ giữ gìn thiên lương mà phải làm sao cho cái thiên lương
ấy mãi mãi tốt đẹp. Muốn như thế thì phải chọn cho mình một đời sống, một nghề nghiệp phù hợp.
 Ngục quan trở thành người nghe giáo huấn: “Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu
mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.”
+ Nhận lời giáo huấn, xúc động đến nghẹn ngào;
+ Tự nhận mình là kẻ “mê muội”
 “Có những cái cúi đầu khiến cho con người ta trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho người ta đê tiện.
Nhưng cũng có cái cúi đầu bỗng làm cho con người ta trở nên cao cả, lớn lao, lẫm liệt, sang trọng hơn. Đó là
cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp và thiên lương” (Nguyễn Đăng Mạnh).
 Trật tự kỉ cương trong nhà tù bị đảo lộn hoàn toàn:
Tù nhân: người ban phát cái đẹp, răn dạy ngục quan >< Ngục quan: khúm núm đầy co ro, vái lạy tù
nhân.
b. Sức mạnh của cái đẹp

10
▪ Hình tượng chữ là: (1) Nhan đề tác phẩm; (2) Hình tượng trung tâm trong phần này của truyện; (3) Không chỉ
là con chữ vô tri vô giác mà là một nhân vật đặc biệt.
▪ Sức mạnh của chữ:
+ Con chữ là kết tinh tài năng, phẩm giá và hoài bão của Huấn Cao. “hoài bão tung hoành của một đời con người”:
CÁI ĐẸP CỦA CHỮ (tài năng) + NỘI DUNG CỦA CHỮ (hoài bão). Con chữ ấy chứa đựng đạo làm người của Huấn
Cao – cái đạo thiên lương;
+ Nó còn được đánh đổi bằng sự liều lĩnh, bất chấp hiểm nguy của quản ngục.
+ Chữ là đối tượng trung gian gắn kết Huấn Cao và quản ngục, gắn kết tấm lòng tri âm với người tri kỉ.
+ Trong gian phòng tăm tối này, cái đẹp đã nổi loạn, đã phá bỏ mọi trật tự, mọi xiềng xích. Chữ đảo lộn trật tự trong
nhà tù: Chỉ còn TRẬT TỰ CỦA CÁI ĐẸP, TRẬT TỰ CỦA NGHỆ THUẬT, TRẬT TỰ CỦA LƯƠNG TRI CON
NGƯỜI.
+ Sức mạnh khơi dậy sâu sắc trong viên quản ngục lòng cải hối, phục thiện và xúc động sâu xa trước cái thiên lương
của con người. Quản ngục tự do về thể xác nhưng chút thiên lương còn lại, lòng yêu cái đẹp thì bị TRÓI CHẶT TRONG
BÓNG TỐI CỦA NHÀ TÙ. Quản ngục có thiên lương nhưng cái thiên lương ấy rồi sẽ mai một, “nhem nhuốc” nếu ông
cứ mãi chôn mình trong chốn đề lao.
+ Huấn Cao muốn dùng con chữ để khuyên nhủ quản ngục phải giữ “thiên lương cho lành vững”:
✓ “lành”: Nguyên vẹn, tốt đẹp;
✓ “vững”: Không bị vấy bẩn bởi hoàn cảnh.
 Sự tỉnh thức và hối cải sâu xa của viên quản ngục. Có lẽ kể từ đây, ông sẽ rời khỏi nơi này và bắt đầu một
cuộc sống mới, để gìn giữ “thiên lương cho lành vững” như lời dạy bảo của Huấn Cao.
 Quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp: Cái đẹp có sức mạnh vô song; cái đẹp khơi dậy và giữ gìn cái
thiện, “Cái đẹp cứu chuộc thế giới” (Dostoevsky).
▪ Tiểu kết: Đây là đoạn văn kết tinh tư tưởng chủ đề của tác phẩm và cũng là chỗ tập trung tinh hoa trong bút lực
Nguyễn Tuân.
- Nghệ thuật:
+ Sáng tạo ngôn ngữ trang trọng cổ kính sống động, có nhịp điệu riêng giàu sức tạo hình, biểu cảm
+ Viết theo lối tương phản, đối lập.
2.5. Sự tương tranh giữa ánh sáng và bóng tối
- Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chủ yếu được xây dựng dựa trên không gian nhà tù - một "trại giam tối
om", khung cảnh nền ấy ngập tràn bóng tối, "quạnh quẽ" và "tối mịt", tất cả đều nhuốm vẻ âm thầm, u ám - một cõi
nhân sinh mà bóng tối nhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là một ngọn đèn leo lét lọt thỏm giữa bóng tối mịt mù và
quạnh quẽ, chỉ là một vài vì tinh tú nhấp nháy xa xa, trong đó có một "ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ". Chút
ánh sáng ấy quá nhỏ nhoi so với toàn bộ màn đêm bao phủ nơi đây, nhưng giữa sự tương phản có vẻ không cân đối
ấy, tác giả muốn gởi gắm niềm tin về thiên lương con người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dù le lói nhưng không bao
giờ tắt, và nếu có cơ hội nó lại bùng lên mạnh mẽ như niềm tin của con người vào cái tốt cái đẹp, vào ánh sáng.
- Mẩu đối thoại ngắn đầy e dè, gìn giữ, nghi ngại lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thơ lại như khắc họa rõ hơn số phận
những con người quanh năm trong bóng tối.
- Nỗi băn khoăn dẫn đến quyết định biệt đãi Huấn Cao của quản ngục được đặt trong một không gian nền đầy bóng
tối - nơi chỉ có vài đốm sáng nhấp nháy trên bầu trời, thậm chí có một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ trụ, tất cả như
chòng chành giữa hai thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy nhỏ nhoi vẫn chiến thắng, dẫn đến một thái độ
ứng xử đẹp.
- Điểm đặc biệt nhất trong sự tương tranh giữa ánh sáng và bóng tối trong đoạn trích này là kết cấu “quần tụ tinh hoa”
(Nguyễn Thành Thi).
+ Khi ngục quan băn khoăn, trăn trở: “Hai ngọn bấc lép bép nổ, rụng tàn đèn xuống tập giấy bản đóng giấy son ti Niết.”
– Hai ngọn bấc này là hình ảnh của viên quản ngục và viên thơ lại, hai kẻ đang ngụp lặn trong bóng tối của nhà tù. “Viên
quan coi ngục ngất đầu, lấy que diêm khơi thêm một con bấc. Ba cái tim bấc được chụm nhau lại, cháy bùng to lên, soi
tỏ mặt người ngồi đấy.” – Đây là kết cấu quần tụ tinh hoa thứ nhất: Việc khơi thêm một con bấc tương ứng với quyết
định biệt đãi Huấn Cao. Ánh sáng từ ngọn bấc thứ ba đã soi sáng không chỉ khuôn mặt mà cả tâm hồn con người trong
chốn tối tăm.
+ Trong cảnh cho chữ: “Ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một
tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ.”
 Ba con người, ba nhân cách, ba trái tim, ba vẻ đẹp đã quyện kết vào nhau, cùng tôn nhau lên: Huấn Cao được
bất tử hóa bằng con chữ, thiên lương của viên quản ngục và tấm lòng biết trọng người ngay của viên thơ lại

11
được cứu rỗi giữa chốn ngục tù tối tăm, nơi bóng tối ngự trị. Đó là chiến thắng sau cùng của ánh sáng và cái
đẹp.
 Thông qua vẻ đẹp kỳ vĩ cùa người tử tù, Nguyễn Tuân khẳng định sự chiến thắng của cái tốt đẹp, cao thượng
đối với cái xấu xa, thấp hèn. Đồng thời, nhà văn gởi gắm lòng yêu nước thầm kín: vừa trân trọng vừa mong
muốn những nét đẹp truyền thống được lưu truyền và mãi mãi bất tử trong lòng người, trong thời gian.
 Thông qua sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, Nguyễn Tuân đã xây dựng nên bối cảnh diễn ra câu chuyện
(từ cuộc gặp giữa Huấn Cao và quản ngục đến cảnh cho chữ). Từ trong sự tương tranh giữa bóng tối và ánh
sáng đó, cái đẹp đã khai sinh, đã chuyển hóa vào nhân tâm và sẽ còn tiếp tục tồn tại như lời khẳng định với sự
bất diệt của thiên lương con người.
3. TỔNG KẾT:
3.1. Nội dung:
Khắc hoạ thành công hình tượng Huấn Cao: tài hoa, có cái tâm trong sáng, khí phách hiên ngang bất khuất.
- Quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp, bộc lộ tấm lòng yêu nước thầm kín.
3.2. Nghệ thuật:
- Tạo dựng tình huống truyện độc đáo.
- Bút pháp xây dựng nhân vật: Kiểu nhân vật lý tưởng nhân vật chân dung ⭢ được dựng lên bằng bút pháp lý tưởng hoá
của cảm hứng lãng mạn.
- Bút pháp miêu tả cảnh:
+ Bút pháp tạo hình.
+ Giàu chất điện ảnh
- Ngôn ngữ: giàu có, văn xuôi có nhịp điệu riêng, giàu sức truyền cảm, sử dụng lớp từ Việt cổ, từ Hán Việt tạo không
khí cổ kính
II. TƯ LIỆU
1. “Về văn phong, phải nói Nguyễn Tuân trong tác phẩm đầu tay này đã đạt đến đỉnh cao mà về sau ông không đạt
tới nữa. Cái giọng khinh bạc, sâu cay, bừa bãi, lôi thôi, chúng ta thường nói, là ở trong những tác phẩm khác, nhất
là trong Chiếc lư đồng mắt cua, chứ trong Vang bóng một thời, thì trong sáng lạ lùng, đến kinh ngạc… Chưa ai
viết về quá khứ mà dựng lại được cái không khí thời xưa như Nguyễn Tuân. Ông kể chuyện các cụ thưởng trà, đánh
cờ, ngâm thơ thành thạo như người trong cuộc sống thời ấy.” (Trương Chính)
2. “Chữ người tử tù dựng lên một thế giới tăm tối, tù ngục, trong đó kẻ tiểu nhân, bọn độc ác bất lương làm chủ. Trên
cái nền tăm tối ấy, hiện lên ba đốm sáng lẻ loi, cô đơn: Huấn Cao, người quản ngục và viên thơ lại – những người
có tài và biết trọng tài, có nghĩa khí và biết trọng nghĩa khí. Họ tình cờ gặp nhau trong một tình thế oái oăm, từ chỗ
ngờ vực nhau, đối địch nhau, dần dần đi đến hiểu nhau và trở thành tri kỉ… Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân dạy
cho con người ta hiểu rằng, muốn nên người, phải biết kính sợ ba điều này: cái tài, cái đẹp và cái thiên tính tốt của
con người (thiên lương). Có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho con
người trở nên đê tiện. Nhưng cũng có cái cúi đầu làm cho con người bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, sang
trọng hơn. Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương.” (Nguyễn Đăng Mạnh)
3.
Ai có nhớ những thời hương phảng phất
Hạc theo trăng, tiên còn lẫn với người;
Những thời xa chim phượng xuống trần chơi,
Hoa cúc nở có người chờ đợi trước.
…Chúng ta nay trong cuộc thế ao tù
Đốt điếu thuốc chiêu hồn sương quá khứ
Mỗi khi thu đưa gió vàng lưỡng lự
Có buồn chăng, lòng bận ở đâu xưa?
(Mơ xưa, Xuân Diệu)
4. “Bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Tuân rất điêu luyện trong việc dựng cảnh, dựng người giàu tính tạo hình. Nhân
vật nào cũng rõ nét, cảnh nào cũng khắc sâu. Câu văn có nhịp điệu riêng, giàu sức truyền cảm. Không khí trang
nghiêm có phần bi tráng bao trùm cả thiên truyện. Ngòi bút tinh vi đầy nghệ thuật của ông đã làm sống lại bức
tranh con người và sinh hoạt văn học thời xưa.” (Nguyễn Phạm Hùng).
5. “Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, mọi thứ đều như vươn tới sự phi thường. Hiếm có nhà văn nào táo bạo như thế.”
(Nguyễn Trọng Hoàng).
6. “Nguyễn Tuân là một tín đồ tự nguyện tôn thờ Nghệ Thuật với hai chữ hoa.” (Nguyễn Đăng Mạnh).

12
7. “Viết văn, đối với Nguyễn Tuân là một thứ chơi ngông, nhưng cũng là một cuộc nổi loạn bằng nghệ thuật. Vang
bóng một thời chính là sự nổi loạn ấy, mà ngọn lửa rực rỡ, chói chang nhất của nó đã được thắp lên từ thiên truyện
Chữ người tử tù.” (Đặng Thai Mai).
8. “Chữ người tử tù là một hình thức để tác giả níu cổ hoài kim, là một dụng ý khác rõ ràng của Nguyễn Tuân để tỏ
thái độ bất đắc chí, bất mãn, phản kháng lại chế độ thực dân nghiệt ngã.” (Nguyễn Đăng Mạnh).
9. “Chữ người tử tù còn là khúc văn ca luyến tiếc một nhã thú văn học cổ truyền đang tàn lụi dần, đến thời Nguyễn
Tuân chỉ còn vang bóng.” (Nguyễn Đăng Mạnh)
10. “Tác giả đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo. Một cuộc gặp gỡ đặc biệt nơi ngục tù giữa những con người
đối lập nhau về vị thế xã hội nhưng lại gặp nhau ở lòng biết yêu nghệ thuật, biết trân trọng cái đẹp.” (Nguyễn
Trọng Hoàn)
11. “Việc cho chữ chỉ diễn ra ở những nơi tao nhã. Còn ở đây nó diễn ra ngay giữa nhà tù, nơi ngự trị của bóng tối và
tội ác, những thứ thù địch với cái đẹp. Vậy mà, Nguyễn Tuân đã chọn chính nơi này để cho Cái Đẹp chào đời.”
(Phạm Trọng Luận)
12. “Dường như con người ấy rất tự do, không phải sắp đi vào cõi chết mà như sắp đi vào cõi trường tồn bất tử.” (Trần
Nho Thìn).
13.
Thân thể tại ngục trung.
Tinh thần tại ngục ngoại.
(Ngục trung nhật kí – Hồ Chí Minh).
14.
Bần tiện bất năng di,
Uy vũ bất năng khuất.
15.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
(Cảm hoài – Đặng Dung)

III. BÀI VĂN THAM KHẢO


Đề: Phân tích truyện ngắn “Chữ người tử tù” (Nguyễn Tuân).
Bài tham khảo
“Cho dù tôi có là người kiêu bạc đến đâu thì cũng biết cúi đầu trước cái chân tài” – tâm sự của nhân vật “tôi”
trong tập kí “Những chuyến đi” cũng chính là tâm sự của Nguyễn Tuân. Suốt đời ông, dẫu là những khi chán chường
thực tại, muốn tìm về quá vãng hay những lúc muốn sà vào đời sống lao động sôi nổi của nhân dân, cũng đều hướng đến
một cái đẹp nào đó. Đời văn của Nguyễn Tuân là cuộc hành trình không ngừng tìm kiếm cái đẹp mà khởi đầu của cuộc
hành trình đó chính là tập “Vang bóng một thời” mà tiêu biểu là truyện ngắn “Chữ người tử tù”.
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” lúc đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng”, in năm 1938 trên tạp chí Tao đàn, sau
đó được tuyển in trong tập truyện “Vang bóng một thời” và đổi tên thành “Chữ người tử tù”. Cái độc đáo của truyện
ngắn này trước hết chính là tình huống truyện. Tình huống là “cái tình thế xảy ra chuyện”, là “một khoảnh khắc mà
trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, là cái “khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người” (Nguyễn Minh Châu). Tình
huống truyện còn được hiểu là mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh
và môi trường sống, qua đó, nhân vật bộc lộ rõ tâm trạng, tính cách hay thân phận của nó, góp phần thể hiện sâu sắc tư
tưởng của tác phẩm.
Trong “Chữ người tử tù”, Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Hai nhân vật Huấn
Cao và quản ngục, trên bình diện xã hội, hoàn toàn đối lập với nhau. Một người là tên “đại nghịch”, cầm đầu cuộc nổi
loạn nay bị bắt giam, đang chờ ngày ra pháp trường để chịu tội, còn một người là quản ngục, kẻ đại diện cho cái trật tự
xã hội đương thời. Nhưng cả hai nhân vật này đều là những con người có tâm hồn nghệ sĩ, trên bình diện nghệ thuật, họ
là tri âm, tri kỉ với nhau. Nguyễn Tuân đã đặt những nhân vật của mình vào chốn ngục tù tối tăm nhơ bẩn, tạo nên cuộc
gặp gỡ kì lạ giữa họ. Nguyễn Tuân đã đặt ra một tình huống truyện độc đáo: Mối quan hệ đặc biệt éo le, đầy trớ trêu
giữa những tâm hồn tri âm tri kỉ. Tác giả đã đặt những nhân vật này trong tình thế đối địch: tử tù và quản ngục. Chính
tình huống độc đáo này đã làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao, làm sáng tỏ tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên
quản ngục, đồng thời cũng thể hiện sâu sắc chủ đề của tác phẩm.
Trong “Chữ người tử tù”, ngòi bút Nguyễn Tuân đã tập trung khắc họa vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn
Cao. Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, một vẻ đẹp được lí tưởng hóa, được thể hiện một cách khác

13
thường trong một hoàn cảnh tưởng chừng như không thể nào xảy ra. Vẻ đẹp ấy thể hiện ở nhiều phương diện. Huấn Cao
trước hết là một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp. Người khắp vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao có “tài viết chữ
rất nhanh và đẹp”. Viên quản ngục chỉ có một ước mong cháy bỏng là xin được chữ Huấn Cao vì “chữ ông Huấn đẹp
lắm, vuông lắm”, “có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Nét chữ thể hiện dấu ấn cá tính, nhân
cách của Huấn Cao: “nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Huấn
Cao còn là một người có khí phách hiên ngang. Ông dám chống lại triều đình mà ông căm ghét. Không thèm chấp lời
dọa dẫm của tên lính áp giải, Huấn Cao thản nhiên dỗ gông: “lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu
thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Dù trong hoàn cảnh ngục tù, bị xiềng xích nhưng ông vẫn hoàn
toàn tự do về tinh thần. “Thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa
bị giam cầm”. Đó là một phong thái ung dung coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Dưới mắt Huấn Cao, việc những kẻ đại
diện cho quyền lực thống trị đang làm chỉ là những trò tiểu nhân thị oai. Khi quản ngục ngỏ ý muốn châm chước ít nhiều
cho Huấn Cao, ông đã trả lời quản ngục một cách khinh bạc: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà
ngươi đừng đặt chân vào đây”. Không chỉ thế, Huấn Cao còn là người có nhân cách cao cả (Huấn Cao là người có “thiên
lương – bản tính tốt lành” trong sáng). Huấn Cao là người có tâm hồn trong sáng, cao đẹp: “không vì vàng ngọc hay
quyền thế mà ép mình phải viết câu đối” và mới chỉ cho chữ “ba người bạn thân”. Như vậy, Huấn Cao là người trọng
nghĩa, khinh danh lợi, ông chỉ cho chữ những người tri kỉ. Do cảm “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” và hiểu ra “sở thích cao
quý” của quản ngục, Huấn Cao đã nhận lời cho chữ, ông chỉ cho chữ những người biết trọng cái tài và yêu quý cái đẹp.
Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao được bộc lộ một cách sáng chói, rực rỡ nhất trong cái đêm ông cho chữ
viên quản ngục. Cảm hứng mãnh liệt trước một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đã khiến Nguyễn Tuân say sưa sáng
tạo những ngôn từ vừa sắc sảo góc cạnh, vừa trang trọng cổ kính, sống động như có hồn, có nhịp điệu riêng, giàu sức
truyền cảm. Bút pháp dựng người dựng cảnh của nhà văn đạt đến mức điêu luyện. Những nét vẽ của ông như khắc như
chạm, giàu giá trị tạo hình. Chi tiết nào cũng sinh động, cũng gợi cảm, đầy ám ảnh nghệ thuật. Thủ pháp tương phản
được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả đã làm nổi bật hơn bao giờ hết vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực rỡ hào quang bất
tử của hình tượng nhân vật Huấn Cao.
Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã bộc lộ quan niệm về cái đẹp. Huấn Cao không chỉ là người có
tài mà còn có tâm, có “thiên lương” cao đẹp. Huấn Cao không chỉ có thái độ hiên ngang, bất khuất, không sợ chết, coi
khinh tiền bạc và đồng tiền phi nghĩa mà còn còn có một tấm lòng yêu quý cái thiện, cảm động trước “thiên lương” của
viên quản ngục (sẵn lòng cho chữ khi hiểu rõ thiện căn và sở thích cao quý của ông ta), biết sợ cái việc thiếu chút nữa
mình “phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Đó là hai mặt thống nhất trong một nhân cách lớn. Như vậy, trong quan
điểm của Nguyễn Tuân, cái tài phải đi đôi với cái tâm, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời nhau. Đó là một quan điểm
nghệ thuật tiến bộ. Yêu mến, ca ngợi Huấn Cao, tiếc nuối những người như ông Huấn, nhà văn kín đáo thể hiện tình cảm
yêu mến, trân trọng đối với những giá trị văn hóa truyền thống.
Nhân vật viên quản ngục cũng là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Tuân trong tác phẩm này. Viên quản ngục
sống giữa gông xiềng, tội ác, phải làm và chứng kiến bao điều tàn nhẫn lọc lừa nhưng lại biết đọc sách thánh hiền, luôn
day dứt vì đã chọn nhầm nghề. Tuy không phải là người làm người làm nghệ thuật, nhưng ngục quan là người có một
tâm hồn nghệ sĩ của một kẻ liên tài (quý trọng người tài): say mê và quý trọng cái tài, cái đẹp. Mặc dù Huấn Cao tỏ thái
độ cao ngạo, khinh mạn đối với viên quản ngục, nhưng hằng ngày quản ngục vẫn sai người dâng rượu và thức nhắm,
đồng thời nói năng với người tử tù nhất mực cung kính. Trước Huấn Cao, quản ngục tự thấy mình chỉ là một “kẻ tiểu lại
giữ tù” thấp hèn. Chính vì say mê cái đẹp, cảm phục tài năng và nhân cách Huấn Cao nên viên quản ngục đã bất chấp
luật pháp, làm đảo lộn trật tự trong nhà tù, biến một kẻ tử tù thành một thần tượng để tôn thờ. Ở đây vẻ đẹp của ngục
quan được thể hiện ở thái độ sùng kính Huấn Cao – hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái “thiên lương”. Và việc biệt đãi tử
tù của ông cần được xem như một hành động dũng cảm. Vẻ đẹp của viên quản ngục còn được thể hiện qua thái độ trân
trọng, khúm núm đối với Huấn Cao: “Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước
mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Hành động bái lĩnh của ngục quan cũng cho
thấy cái đẹp, cái thiện có sức mạnh cảm hóa con người. Bằng con đường của trái tim, sức mạnh ấy càng được nhân lên
gấp bội. Qua chi tiết này, Nguyễn Tuân thể hiện niềm tin vững chắc vào con người. Nhà văn khẳng định thiên lương là
bản tính tự nhiên của con người. Dù trong hoàn cảnh nào, con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân – thiện – mĩ.
Tác giả đã dùng hình ảnh so sánh viên quản ngục như “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc
luật đều hỗn loạn xô bồ”.
Qua nhân vật quản ngục, dường như nhà văn muốn gửi gắm một thông điệp : trong mỗi con người đều có một người
nghệ sĩ, đều ẩn chứa một tâm hồn yêu cái đẹp, cái tài, bên cạnh cái phần chưa tốt vẫn còn có chỗ của lòng tốt, của thiên
lương. Có khi cái đẹp, cái tốt tồn tại trong môi trường của cái ác, cái xấu nhưng không vì thế mà nó lụi tàn, trái lại nó
càng mạnh mẽ và bền bỉ, như đóa sen tỏa ngát trong đầm lầy.

14
Đáp lại một tấm lòng trong thiên hạ, là tấm lòng của kẻ tri âm dành cho người tri kỷ, đêm trước ngày ra pháp
trường, Huấn Cao đã tặng cho quản ngục những dòng chữ tài hoa của mình. Cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục là
“cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, bởi vì việc cho chữ vốn là một việc thanh cao, một sáng tạo nghệ thuật lại diễn ra
trong một căn buồng tối tăm, chật hẹp, ẩm ướt, hôi hám của nhà tù (tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân
gián). Cái đẹp lại được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn, thiên lương cao cả lại tỏa sáng ở chính cái nơi mà bóng tối
và cái ác đang ngự trị (Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi
lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch...) Người nghệ sĩ tài hoa say mê tô từng nét chữ không phải
là người được tự do mà là một kẻ tử tù trong tình cảnh cổ đeo gông, chân vướng xiềng, và chỉ sớm tinh mơ ngày mai đã
bị giải vào kinh chịu án tử hình. Hình ảnh uy nghi của Huấn Cao đối lập với hình ảnh co ro của thầy thơ lại “run run
bưng chậu mực” và hình ảnh viên quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ”. Trật tự, kỉ cương
trong nhà tù bị đảo ngược hoàn toàn: tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp, răn dạy ngục quan, còn ngục quan thì
khúm núm, vái lạy tù nhân.
Như vậy, giữa chốn ngục tù tàn bạo, không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị làm chủ mà là người
tù làm chủ. Qua cảnh tượng này, chủ đề của tác phẩm được thể hiện sâu sắc. Đó là sự chiến thắng của ánh sáng đối với
bóng tối, của cái đẹp đối với cái xấu xa nhơ bẩn, của cái thiện đối với cái ác... Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện và
nhân cách cao cả của con người bằng một bức tranh nghệ thuật đầy ấn tượng.
Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình tượng Huấn Cao một con người
tài hoa có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Qua đó, nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng
định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước.
Tác phẩm thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo, trong
nghệ thuật dựng cảnh, khắc họa tính cách nhân vật, tạo không khí cổ kính, trang trọng, trong việc sử dụng thủ pháp đối
lập và ngôn ngữ giàu tính tạo hình.

15

You might also like