You are on page 1of 21

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA: CÔNG NGHỆ NHIỆT LẠNH

MÔN: NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO


Tiểu luận:
CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI TÍNH BỀN
VỮNG

GVHD: Nguyễn Hiếu Nghĩa


Nhóm: A+
Thành viên nhóm:

STT Họ và Tên MSSV

1 Nguyễn Xuân Hiếu ( Nhóm trưởng) 19430831

2 Nguyễn Phạm Kiên Hội 17038151

3 Đinh Nhật Trung 19441801

4 Huỳnh Nguyễn Anh Phương 19430261

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 12 năm 2021

1
Mục Lục:
LỜI MỞ ĐẦU:....................................................................................................3
I/ Các từ viết tắt :................................................................................................3
II/ Giới thiệu:.......................................................................................................3
III/ Phát sinh chất thải rắn đô thị:....................................................................5
3.1/ Các nguồn phát sinh chất thải rắn ở đô thị:................................................5
3.2/ Lượng phát sinh chất thải rắn đô thị:..........................................................6
3.3/ Thành phần chất thải rắn đô thị:.................................................................8
IV/ Thực trạng công tác quản lý chất thải rắn hiện nay ở Việt Nam:...........9
4.1/ Thu gom chất thải rắn:................................................................................9
4.2/ Tái chế:.......................................................................................................9
4.3/ Xử lý/tiêu hủy:............................................................................................9
V/ Các lợi ích và tác động đến môi trường:......................................................9
VI/ Trình điều khiển và rào cản:.....................................................................13
VII/ Các vấn đề và thách thức chính về quản lý chất thải rắn hiện nay:....13
7.1/ Về công tác quản lý chất thải rắn:............................................................13
7.2/ Về công nghệ xử lý chất thải rắn:.............................................................14
VIII/ Một số giải pháp đề xuất trong thời gian tới:.......................................14
8.1/ Về công tác quản lý:.................................................................................14
8.2/ Về công nghệ xử lý chất thải:...................................................................15
IX/ Vai trò của công nghệ:...............................................................................16
X/ Nguồn năng lượng tái tạo:..........................................................................17
XI/ Đóng góp cho năng lượng bền vững:........................................................18
XII/ Một số phương pháp phổ biến sản suất năng lượng từ chất thải :......19
12.1/Phương pháp vật lý:....................................................................................19
12.2/ Phương pháp nhiệt:.................................................................................19
12.3/ Phương pháp sinh học:...........................................................................20
XIII/ Kết luận:...................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................21

2
LỜI MỞ ĐẦU:
Ngày nay, quá trình công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ với sự hình thành, phát
triển của sản xuất, sinh hoạt, năng lượng,...là động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế- xã hội. Song song với đó là vấn đề về môi trường, đặc biệt là chất thải rắn từ
sinh hoạt, công nghiệp, đô thị. Việc sử lí chất thải rắn đang là bài toán khó hiện
nay và hiện nay đang có nhiều chiến dịch đề ra để giải quyết bài toán này.
Sau khi học qua môn Năng lượng tái tạo, được sự hướng dẫn và giảng dạy của
thầy Nguyễn Hiếu Nghĩa thì nhóm A+ chúng em đã lấy đề tài “ Chất thải rắn đô
thị và vai trò của nó đối với tính bền vững” để thấy được chất thải rắn đô thị
hiện nay và những gì mà chúng ta có thể biến nó thành năng lượng.
Bài tiểu luận của nhóm chúng em sẽ có nhiều sai sót mong thầy xem xét. Nhóm
em xin cảm ơn thầy.
I/ Các từ viết tắt :
- CHP : Kết hợp nhiệt độ và năng lượng
- CH4 : Mêtan. Khí nhà kính mạnh gấp 23 lần CO2
- CO2 : Cac-bon đi-ô-xít
- NS : Cộng đồng châu Âu
- EU : Liên minh Châu Âu
- NS : gam
- IEA : Cơ quan năng lượng quốc tế Ủy ban liên
- IPCC : Chính phủ về biến đổi khí hậu kilôgam
- kWh : Kilowatt giờ
- Kyoto : Nghị định thư Kyoto - một thỏa thuận quốc tế nhằm giảm phát thải khí
nhà kính
- MJ : Megajoules (106 Joules)
- MSW : Chất thải rắn đô thị
- CTRSH: chất thải rắn sinh hoạt
- SRF : Nhiên liệu thu hồi rắn
II/ Giới thiệu:

Chất thải rắn đô thị (MSW) chủ yếu là chất thải được sản xuất bởi hộ gia
đình, nhưng cũng bao gồm một số chất thải thương mại và công nghiệp có tính
chất tương tự như chất thải sinh hoạt và đã được gửi tại các bãi chôn lấp của
thành phố. CTRSH có thể là một khoản nợ phải trả nếu cần phải xử lý nhưng
cũng đại diện cho một nguồn tài nguyên đáng kể có thể được phục hồi một
cách có lợi, ví dụ, bằng cách tái chế các vật liệu như lon nhôm, kim loại, thủy
tinh, sợi, v.v. hoặc thông qua các hoạt động phục hồi như chuyển đổi thành
năng lượng và ủ phân. Tuy nhiên, một lượng đáng kể CTRSH tiếp tục được xử

3
lý tại bãi chôn lấp phần lớn do chi phí thấp và sẵn có. Tại Liên minh Châu Âu,
chỉ thị về bãi chôn lấp (1999/31 / EC), cũng như nhiều quy định quốc gia, sẽ
giảm 65% so với mức năm 1995, lượng vật liệu phân hủy sinh học được đưa
vào bãi chôn lấp vào năm 2016.[1]

Trong bãi chôn lấp, các thành phần có thể phân hủy sinh học của CTRSH
(ví dụ như giấy và chất thải thực phẩm) sẽ phân hủy và thải ra khí mê-tan - một
loại khí nhà kính mạnh gấp 23 lần so với carbon dioxide (IPCC, 2001) và là
nguyên nhân của các vấn đề môi trường nghiêm trọng. Các thành phần khác (ví
dụ, nước rỉ rác) cũng có thể gây ô nhiễm môi trường đáng kể trong không khí và
nước ngầm, và làm phát sinh mùi. Nói chung, các nguồn lực có giá trị đều bị
lãng phí. Vì những lý do này, hầu hết các quốc gia đều hướng tới mục tiêu giảm
bớt sự phụ thuộc vào việc sử dụng các bãi chôn lấp CTRSH. Các nước EU nói
riêng đã đặt ra các mục tiêu đầy tham vọng nhằm giảm thành phần có thể phân
hủy sinh học của CTRSH được đưa vào bãi chôn lấp và kéo theo đó là sự gia
tăng CTRSH do các hoạt động tái chế và thu hồi. Một số quốc gia Châu Âu, ví
dụ: Thụy Điển, Đức và Hà Lan, đã quyết định cấm phần phân hủy sinh học từ
các bãi chôn lấp trong những năm tới. Trong các bãi chôn lấp hiện đại, khí được
khai thác và sử dụng cho các mục đích năng lượng. [1]
Quá trình đô thị hóa ở Việt Nam đang diễn ra rất mạnh mẽ, rất nhiều đô
thị được chuyển từ đô thị loại thấp lên đô thị loại cao và nhiều đô thị mới được
hình thành. Nếu năm 2000, nước ta có 649 đô thị thì năm 2005, con số này là
715 đô thị và đã tăng lên thành 755 đô thị lớn nhỏ vào giữa năm 2011 (Bộ Xây
dựng, 2011). Đô thị phát triển kéo theo vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị.
Năm 2009, dân số đô thị là 25,59 triệu người (chiếm 29,74% tổng dân số cả
nước), đến năm 2010, dân số đô thị đã lên đến 26,22 triệu người (chiếm 30,17%
tổng số dân cả nước) (TCTK, 2011). Dự báo, đến năm 2015 dân số đô thị là 35
triệu người chiếm 38% dân số cả nước, năm 2020 là 44 triệu người chiếm 45%
dân số cả nước và năm 2025 là 52 triệu người chiếm 50% dân số cả nước.[2]

Hình 1: Số lượng đô thị các loại qua các năm từ 2005-2025


Nhiều quốc gia phát triển đã áp dụng nguyên tắc phân cấp chất thải để
hướng dẫn các chính sách của họ về quản lý CTRSH.
4
Hình 2: Hệ thống phân cấp chất thải

Ở những nơi có hiệu quả kinh tế và phù hợp với môi trường, việc tái chế
vật liệu được ưu tiên hơn là xử lý để thu hồi năng lượng. Tuy nhiên, trên thực
tế, ngay cả ở các quốc gia có cơ sở hạ tầng tái chế phát triển cao, một lượng lớn
CTRSH vẫn còn sau khi tái chế để làm cho việc thu hồi năng lượng trở thành
một phương án hợp lý về mặt môi trường và khả thi về mặt kinh tế - trước khi
xử lý cuối cùng đến bãi chôn lấp. Các nghiên cứu, trình diễn và phổ biến hiện
đang tập trung vào sự cân bằng giữa giảm thiểu chất thải, tái chế vật liệu, thu
hồi năng lượng và chôn lấp các phần không thể phân hủy được. [1]

Trong khi thành phần của CTRSH có thể rất khác nhau, đặc biệt là giữa
các quốc gia phát triển và đang phát triển, việc loại bỏ các vật liệu để tái chế có
xu hướng để lại một chất cặn có giá trị nhiệt (nhiệt) đáng kể khiến nó phù
hợp với các hoạt động thu hồi năng lượng. MSW có khoảng một phần ba
nhiệt trị của than (8-12 MJ / kg đối với MSW và 25-30 MJ / kg đối với than) và
có thể tạo ra khoảng 600 kWh điện. Trong các cơ sở đốt hàng loạt; tuy nhiên,
xu hướng với các hệ thống lắp đặt mới là sử dụng năng lượng hiệu quả hơn
và sản xuất Nhiệt và Điện kết hợp (CHP). Một số quốc gia có yêu cầu về hiệu
quả tối thiểu. Luật pháp gần đây ở EU và Úc chỉ phân loại phần sinh khối tái
tạo. [1]

Vì vậy, CTRSH nên được xem như một nguồn tài nguyên cần được khai
thác hơn là một chất thải cần phải xử lý.

ủIII/ Phát sinh chất thải rắn đô thị:


3.1/ Các nguồn phát sinh chất thải rắn ở đô thị:
Phát sinh CTR ở đô thị chủ yếu là CTR sinh hoạt chiếm khoảng 60 - 70%
lượng CTR phát sinh, tiếp theo là CTR xây dựng, CTR công nghiệp, CTR y
tế,...[3]

5
 CTR đô thị bao gồm:
- CTR sinh hoạt: phát sinh chủ yếu từ các hộ gia đình, các khu tập thể, chất thải
đường phố, chợ, các trung tâm thương mại, văn phòng, các cơ sở nghiên cứu,
trường học,...
- CTR xây dựng: phát sinh từ các công trình xây dựng, sửa chữa hạ tầng;
- CTR công nghiệp: phát sinh từ các cơ sở công nghiệp nằm trong đô thị, hoặc
từ các KCN;
- CTR y tế: phát sinh từ các bệnh viện, các cơ sở khám chữa bệnh;
- CTR điện tử: phát sinh từ các hoạt động sinh hoạt của con người như: đồ điện
tử cũ hỏng bị loại bỏ,..

Hình 3: Các loại chất thải rắn đô thị của Hà Nội năm 2011
3.2/ Lượng phát sinh chất thải rắn đô thị:
Tổng lượng CTR sinh hoạt ở các đô thị phát sinh trên toàn quốc tăng
trung bình 10 ÷ 16 % mỗi năm. Tại hầu hết các đô thị, khối lượng CTR sinh
hoạt chiếm khoảng 60 - 70% tổng lượng CTR đô thị (một số đô thị tỷ lệ này lên
đến 90%). Chỉ số phát sinh CTR đô thị bình quân đầu người tăng theo mức
sống. Năm 2007, chỉ số CTR sinh hoạt phát sinh bình quân đầu người tính trung
bình cho các đô thị trên phạm vi toàn quốc vào khoảng 0,75 kg/người/ngày.
Năm 2008, theo Bộ Xây dựng thì chỉ số này là 1,45 kg/người/ngày, lớn hơn
nhiều so với ở nông thôn là 0,4 kg/người/ngày. Tuy nhiên, theo Báo cáo của các
địa phương năm 2010 thì chỉ số phát sinh CTR sinh hoạt đô thị trung bình trên
đầu người năm 2009 của hầu hết các địa phương đều chưa tới 1,0
kg/người/ngày. Các con số thống kê về lượng phát sinh CTR sinh hoạt đô thị
không thống nhất là một trong những thách thức cho việc tính toán và dự báo
lượng phát thải CTR đô thị ở nước ta. [3]

6
Hình 4: Chất thải rắn đô thị phát sinh các năm 2007-2010
Kết quả điều tra tổng thể năm 2006 – 2007 đã cho thấy, lượng CTR đô thị
phát sinh chủ yếu tập trung ở hai đô thị đặc biệt là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh,
chiếm tới 45,24% tổng lượng CTR sinh hoạt phát sinh từ tất cả các đô thị tương
ứng khoảng 8.000 tấn/ngày (2,92 triệu tấn/năm). Tuy nhiên, cho đến thời điểm
hiện tại, tổng lượng và chỉ số phát sinh CTR đô thị của đô thị đặc biệt và đô thị
loại 1 hiện nay đã tăng lên rất nhiều. Nguyên nhân của sự gia tăng này là do Thủ
đô Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính thì lượng CTR đô thị phát
sinh đã lên đến 6.500 tấn/ngày (con số của năm 2007 là 2.600 tấn/ngày), bên
cạnh đó, số đô thị loại 1 đã tăng lên 10 đô thị (trong khi năm 2007 là 4 đô thị
loại 1). [3]

Hình 5: Tỷ lệ phát sinh chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị Việt Nam năm 2007
Trong các vùng trọng điểm, vùng Đông Nam Bộ (bao trùm cả KTTĐ phía
Nam) là nơi có lượng CTR đô thị nhiều nhất, tiếp đến là vùng Đồng bằng sông
Hồng (bao trùm cả vùng KTTĐ Bắc Bộ), ít nhất là khu vực Tây Nguyên. [3]

7
Hình 6: Hiện trạng phát sinh chất thải rắn theo các vùng kinh tế năm 2003,2008
và 2015[4]
3.3/ Thành phần chất thải rắn đô thị:
Thành phần CTR sinh hoạt phụ thuộc vào mức sống ở một số đô thị. Mức
sống, thu nhập khác nhau giữa các đô thị đóng vai trò quyết định trong thành
phần CTR sinh hoạt. [3]

Hình 7: CTR phát sinh một số tỉnh, thành phố năm 2010
Trong thành phần rác thải đưa đến các bãi chôn lấp, thành phần rác có thể
sử dụng làm nguyên liệu sản xuất phân hữu cơ rất cao từ 54 - 77,1%; tiếp theo
là thành phần nhựa: 8 - 16%; thành phần kim loại đến 2%; CTNH bị thải lẫn
vào chất thải sinh hoạt nhỏ hơn 1%.[3]

8
IV/ Thực trạng công tác quản lý chất thải rắn hiện nay ở Việt Nam:
4.1/ Thu gom chất thải rắn:
Đối với CTR sinh hoạt đô thị, tỷ lệ thu gom đã tăng từ 78% năm 2008 lên
85,5% năm 2017 (Ban Cán sự Đảng Bộ TNMT, 2018). Dịch vụ thu gom đã
được mở rộng tới các đô thị loại V. Một số đô thị đặc biệt, đô thị loại I như Tp.
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng có tỷ lệ thu gom khu vực nội thành đạt
100% (Bộ TNMT, 2016); riêng TP Hà Nội đạt khoảng 98% ở 12 quận và thị xã
Sơn Tây (Bộ TNMT, 2017). Tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt tại khu vực nông
thôn mới đạt khoảng 40-55% (Bộ TNMT, 2018). Tỷ lệ thu gom tại các vùng
nông thôn ven đô hoặc thị trấn, thị tứ đạt tỷ lệ cao hơn, khoảng 60-80%, còn tại
một số nơi vùng sâu, vùng xa, tỷ lệ thu gom chỉ đạt dưới 10% (Bộ Xây dựng,
2017). [5]
4.2/ Tái chế:
Tỷ lệ tái chế CTR sinh hoạt hiện vẫn còn thấp, khoảng 8-12% CTR sinh
hoạt đô thị và 3,24% đối với CTR sinh hoạt vùng nông thôn (Ban Cán sự Đảng
Bộ TNMT, 2018). Một số công nghệ tái chế chất thải như chế biến phân vi sinh,
viên nhiên liệu hay đốt thu hồi năng lượng cũng đã được triển khai. Cả nước
hiện có khoảng 35 cơ sở xử lý CTR bằng công nghệ ủ sinh học làm phân hữu
cơ, điển hình như ở Hải Phòng, Nam Định, Hà Tĩnh, Ninh Thuận, TP Hồ Chí
Minh, Bình Dương (Bộ TNMT, 2017). Hoạt động tái chế phi chính thức ở các
làng nghề được phát triển như tái chế nhựa ở Minh Khai (Hưng Yên), tái chế
chì ở Chỉ Đạo (Hưng Yên), tái chế giấy ở Văn Phong (Bắc Ninh), tái chế chất
thải điện tử ở Văn Môn (Bắc Ninh)..., đang gây ô nhiễm môi trường. [5]
Việc chế biến, thu hồi năng lượng từ chất thải mới chỉ bước đầu được
triển khai mặc dù tiềm năng rất lớn. Hiện có một số dự án đốt chất thải thu hồi
năng lượng (như ở Quảng Bình, Hà Nam, Bình Dương, Hà Nội), 01 dự án nhà
máy nhiệt điện đốt trấu; 01 dự án phát điện từ chất thải phân gia súc, gia cầm và
06 dự án điện bã mía (Bộ TNMT, 2017). [5]
4.3/ Xử lý/tiêu hủy:
Hiện nay, phương pháp chính trong xử lý/tiêu hủy CTR vẫn là chôn lấp;
ước tính 70-75% CTR sinh hoạt đang được xử lý theo phương pháp này. Năm
2016, cả nước có khoảng 660 bãi chôn lấp CTR sinh hoạt với tổng diện tích
khoảng 4.900ha, trong đó có chỉ có 203 bãi chôn lấp hợp vệ sinh, chiếm 31%
(Bộ TNMT, 2017). Bên cạnh đó, tiêu hủy CTR bằn hình thức đốt cũng được
thực hiện ở nhiều nơi với 02 dạng chủ yếu là lò đốt rác hóa lỏng và công nghệ
đốt chất thải thu hồi năng lượng. Tính đến hết năm 2016, cả nước có khoảng 50
lò đốt CTR sinh hoạt. [5]

9
V/ Các lợi ích và tác động đến môi trường:
Như với tất cả các công nghệ năng lượng tái tạo, lợi ích chính liên quan
đến việc thu hồi năng lượng từ CTRSH là giảm các chất ô nhiễm dạng khí gây
ra cả tác động cục bộ và toàn cầu. Gần đây IEA đã hoàn thành một nghiên cứu
toàn diện về tác động tích cực và tiêu cực của một loạt các công nghệ năng
lượng tái tạo. Nghiên cứu đã áp dụng cách tiếp cận dựa trên vòng đời để tính
đến lượng khí thải liên quan đến việc sản xuất hệ thống, xây dựng, vận hành và
xử lý chúng. Tổng phát thải CO 2 là 1100 kg / tấn MSW và 1833 gram CO 2 mỗi
kWh. Nhiều đánh giá khác nhau đã chỉ ra rằng khoảng 20-40% (phụ thuộc
nhiều vào mức độ thu gom riêng biệt giấy và rác hữu cơ) carbon trong CTRSH
có nguồn gốc từ các nguồn hóa thạch, ví dụ như nhựa. Phần còn lại có nguồn
gốc từ sinh khối và có thể được coi là một nguồn tài nguyên tái tạo.2 mỗi kWh
(tức là 20% tổng lượng phát thải 1833 gam CO 2 mỗi kWh). Trong hình 2 CO2

điển hình phát thải từ CTRSH được so sánh với phát thải từ các nguồn nhiên
liệu hóa thạch. [1]ệ
n
Hình 8: Vòng đời CO2 lượng khí thải- gam trên mỗi kwh điện
CO2 phát thải đối với CTRSH không tính đến lượng phát thải tránh được
do thu hồi năng lượng từ CTRSH. Ví dụ, nếu MSW được đưa đến bãi chôn lấp
thì khoảng 70 kg khí mêtan (khoảng 50-100 kg thực tế) có thể được thải ra cho
mỗi tấn chất thải. Đưa ra tiềm năng nóng lên toàn cầu của khí mêtan cao hơn,
tương đương với 1610 kg CO2 mỗi tấn CTRSH. Trong các bãi chôn lấp hiện
đại, khoảng một nửa lượng mêtan có thể được chiết xuất và sử dụng để sản xuất
năng lượng, do đó làm giảm lượng khí thải tổng thể. Hơn nữa, việc tạo ra năng
lượng từ MSW tránh được các khí thải liên quan đến tạo ra năng lượng đó từ
các nguồn hóa thạch. Do đó, việc thu hồi năng lượng từ MSW có thể dẫn đến
một giảm ròng trong phát thải khí nhà kính (xem Hình 9). Do đó, theo quan

10
điểm bi quan nhất, tức là bỏ qua lợi ích của việc tránh chôn lấp, thu hồi năng
lượng từ CTRSH dẫn đến tiết kiệm đáng kể lượng phát thải khí nhà kính khi so
sánh với việc tạo ra năng lượng thông thường từ nhiên liệu hóa thạch. [1]ệ
MSW là điện tái

Hình 9: Phát thải khí nhà kính từ sản xuất điện: Đốt CTRSH so với đốt than và
chôn lấp CTRSH. (kWhe = kilowatt giờ điện)
Các kết quả nghiên cứu gần đây khác về tác động của hệ thống xử lý chất thải
rắn đối với phát thải khí nhà kính được trình bày trong Hình 10. Trong bãi chôn
lấp, khoảng một nửa số CH4 được thu hồi (phạm vi tỷ lệ thu hồi 20-80%) và do
đó một số khí thải vẫn còn xảy ra. Nếu khí bãi rác được sử dụng trong sản xuất
điện, một lượng CO2 tương đương có thể tránh được khí thải. Với việc giảm
chôn lấp các vật liệu có thể phân hủy sinh học, tiềm năng thu hồi năng lượng sẽ
giảm xuống. Một số vật liệu có năng lượng nhúng cao, nhưng nhiệt trị bằng
không (ví dụ: thép và thủy tinh) có thể được thu hồi trước khi đốt và do đó một
số CO2 có thể tránh được khí thải. Người ta cho rằng điện được tạo ra thay thế
điện ngưng tụ bằng than, như ở bãi chôn lấp, và liên quan đến năng lượng do đó
phát thải là âm mặc dù một lượng CO khá lớn2 được thải ra từ quá trình đốt rác.
Trong quá trình thu hồi nhiên liệu rắn (SRF), lượng phát thải từ bãi chôn lấp là
nhỏ do lượng rác hữu cơ được xử lý rất nhỏ. Bởi vì phân loại chất thải hiệu quả
hơn và sau đó tái chế, nhiều CO hơn2 Khí thải từ sản xuất thép và thủy tinh có
thể tránh được so với đốt hàng loạt. Ảnh hưởng lớn nhất đến khí thải là do thay
thế SRF cho than đá. Với SRF và thu hồi sợi giấy, ảnh hưởng đối với khí thải
liên quan đến năng lượng nhỏ hơn trong loại trước vì một phần vật liệu dễ cháy
(sợi giấy) được đưa đi tái chế vật liệu. Mặc dù lượng khí thải sản xuất giấy được
tiết kiệm nhiều hơn, nhưng tổng tác động có cùng mức độ với trường hợp sản
xuất SRF. [1]ệ

11
Hình 10: Phát thải khí nhà kính của các hệ thống quản lý chât thải khác nhau
trong việc thay thế than. Một ví dụ với một thành phố với 1 triệu dân.
Việc thay thế năng lượng từ MSW cho năng lượng từ than đá, dẫn đến
tiết kiệm đáng kể lượng phát thải khí nhà kính. [1]ệ
Ngay cả khi CTRSH được đưa đến bãi chôn lấp, vẫn có khả năng sử dụng
khí bãi rác được tạo ra (giàu mêtan) để thu hồi năng lượng, nhưng tiềm năng thu
hồi đáng kể sẽ giảm do lượng vật liệu phân hủy sinh học giảm. Ngoài ra, việc
tái chế các vật liệu thứ cấp giúp tiết kiệm năng lượng mà nếu không sẽ được
tiêu thụ để sản xuất các sản phẩm từ nguyên liệu thô sơ cấp (ví dụ: phân trộn
đấu với phân hóa học). [1]ệ
Việc thu hồi năng lượng từ CTRSH cũng tránh được tất cả các tác động
tiềm ẩn khác liên quan đến việc lắng đọng chất thải, ví dụ như nước rỉ rác / ô
nhiễm nước ngầm và các trách nhiệm ô nhiễm lâu dài hơn. Các tác động môi
trường và chính những tác động này chứ không phải là các mối quan tâm về
môi trường quốc gia hoặc toàn cầu ảnh hưởng đến khả năng chấp nhận của công
chúng và các quyết định lựa chọn. Đối với việc thu hồi năng lượng CTRSH, các
tác động cục bộ liên quan đến chuyển động giao thông, tiếng ồn, xâm nhập thị
giác, mất tiện nghi và ảnh hưởng cục bộ của các chất ô nhiễm. Cũng như các
công nghệ khác, những tác động này có thể được giảm thiểu nếu áp dụng các
phương pháp tốt nhất trong thiết kế, bố trí và vận hành nhà máy. [1]ệ
Lợi ích của việc thu hồi năng lượng từ nhiên liệu thải là bất kỳ chính sách
quản lý chất thải hiện đại nào cũng phải bao gồm việc thu hồi năng lượng bất kể
sở thích chiến lược của từng địa phương (ví dụ: ủ phân compost đấu với phân
hủy kỵ khí). [1]ệ

12
VI/ Trình điều khiển và rào cản:
Việc sử dụng phần CTRSH có thể phân hủy sinh học như một nguồn
năng lượng sinh học có mối liên hệ mật thiết với các chính sách quản lý chất
thải mà một quốc gia thực hiện và với nhận thức của công chúng. Do đó, hệ
thống thu hồi năng lượng cho CTRSH phải được tích hợp với các phương pháp
xử lý, thu hồi và tiêu hủy khác để tránh các tuyên bố mâu thuẫn về dòng chất
thải / nhiên liệu. Các chính sách thúc đẩy việc phân loại chất thải từ bãi chôn lấp
tạo cơ hội cho việc thu hồi năng lượng từ CTRSH. [1]ệ
Nhận thức và thái độ thù địch của công chúng hiện đang là những rào cản
quan trọng cản trở việc triển khai các hệ thống thu hồi năng lượng cho CTRSH
ở một số quốc gia. Báo cáo có chọn lọc về lượng khí thải đã góp phần vào nhận
thức tiêu cực. Ví dụ, báo cáo lượng khí thải từ các cơ sở 30 năm tuổi nhưng
không phải từ các cơ sở mới đáp ứng các tiêu chuẩn khí thải hiện đại nghiêm
ngặt nhất. [1]ệ
IEA Bioenergy (năng lượng sinh học) có thể đóng một vai trò quan trọng
trong việc xóa bỏ những quan niệm sai lầm liên quan đến việc thu hồi năng
lượng MSW bằng cách thúc đẩy trao đổi thông tin và trình bày dữ liệu đáng tin
cậy về lượng khí thải từ các cơ sở thu hồi năng lượng thải hiện đại. [1]ệ
MSW chuyển đổi thành năng lượng, như bất kỳ khác quá trình chuyển
đổi nhiên liệu thành năng lượng, sẽ tạo ra phát thải các chất ô nhiễm. Tuy nhiên,
tất cả các công nghệ chuyển đổi CTRSH hiện đại thành năng lượng đều được
chứng nhận đáp ứng các tiêu chuẩn khí thải nghiêm ngặt nhất, bao gồm các tiêu
chuẩn về dioxin, furan và các chất ô nhiễm độc hại khác. [1]ệ
VII/ Các vấn đề và thách thức chính về quản lý chất thải rắn hiện nay:
7.1/ Về công tác quản lý chất thải rắn:
Mặc dù đã có những bước tiến đáng ghi nhận song công tác quản lý CTR
hiện vẫn còn nhiều tồn tại. CTR chưa được phân loại tại nguồn; các biện pháp
giảm thiểu phát sinh chưa được áp dụng mạnh mẽ; tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt
nông thôn còn thấp và chưa có chuyển biến tích cực; việc tái chế còn lạc hậu,
gây ô nhiễm và; phương thức xử lý chính vẫn đang là chôn lấp.[5]
Nguyên nhân là do hệ thống chính sách pháp luật về quản lý CTR còn
chưa đầy đủ, chồng chéo. Việc tổ chức, phân công trách nhiệm về CTR vẫn còn
phân tán và thiếu sự thống nhất gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện.
Trong khi đó, việc triển khai thực thi các chính sách, văn bản quy phạm pháp
luật về CTR vẫn còn những khó khăn, vướng mắc. Công tác thanh tra, kiểm tra
thực thi pháp luật còn nhiều hạn chế, các chế tài quy định về xử phạt đối với các
vi phạm về quản lý CTR chưa đủ sức răn đe (Bộ TNMT 2015, 2017; Bộ XD,
2017; TCMT, 2019; H. D. Tùng, 2012). [5]
Mặt khác, việc tổ chức triển khai quy hoạch quản lý CTR đã phê duyệt tại
các địa phương còn chậm (Bộ TNMT, 2017; Bộ XD, 2017). Ðầu tư cho công
tác quản CTR còn hạn chế, chưa đáp ứng đuợc nhu cầu thực tế do thiếu nguồn
13
lực tài chính. Công tác xã hội hóa hiện còn yếu do thiếu các quy định phù hợp
nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư (Bộ TNMT, 2017; TCMT, 2019). [5]
7.2/ Về công nghệ xử lý chất thải rắn:
Vấn đề lựa chọn công nghệ xử lý CTR tối ưu vẫn đang là bài toán thách
thức đối với các nhà quản lý và các nhà khoa học trong khi hiện chưa có mô
hình công nghệ xử lý CTR sinh hoạt hoàn thiện đạt được cả các tiêu chí về kỹ
thuật, kinh tế, xã hội và môi trường (Bộ TNMT, 2015). Các công nghệ xử lý
CTR của Việt Nam chưa thực sự hiện đại và đang có quy mô nhỏ (N.T.Hiền và
cs, 2015). Hầu hết công nghệ xử lý chất thải rắn nhập khẩu không phù hợp với
thực tế CTR tại Việt Nam do chưa được phân loại tại nguồn, nhiệt trị của CTR
sinh hoạt thấp, độ ẩm không khí cao… Còn các công nghệ xử lý CTR chế tạo
trong nước lại chưa đồng bộ và hoàn thiện nên chưa thể phổ biến và nhân rộng
(Bộ TNMT, 2017; Bộ XD, 2017; Ngan, T., 2018). [5]
Hơn nữa, hoạt động tái chế CTR còn mang tính nhỏ lẻ, tự phát, phi chính
thức ở các làng nghề, thiếu sự quản lý và kiểm soát của các cơ quan BVMT địa
phương. Phần lớn các cơ sở tái chế có quy mô nhỏ, mức độ đầu tư công nghệ
không cao, đa số công nghệ đều lạc hậu, máy móc thiết bị cũ, gây ô nhiễm môi
trường. Trong khi đó, Nhà nước chưa có quy định về sử dụng công nghệ rõ
ràng, chưa có chỉ tiêu và tiêu chuẩn lựa chọn thiết bị, công nghệ xử lý phù hợp
(Bộ TNMT, 2017; Bộ Xây dựng, 2017). [5]
VIII/ Một số giải pháp đề xuất trong thời gian tới:
8.1/ Về công tác quản lý:
Thứ nhất, cần tiếp tục tăng cường quản lý nhà nước đối với CTR. Cần
nhanh chóng sửa đổi các quy định pháp luật để triển khai thực hiện Nghị quyết
của Chính phủ về việc giao Bộ TNMT làm đầu mối thống nhất quản lý về CTR.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, hệ thống tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật; xây dựng cơ sở dữ liệu đầy đủ về quản lý CTR. Cụ thể như cơ
chế phối hợp liên vùng, địa phương trong quản lý CTR; các tiêu chuẩn, quy
chuẩn về tái chế chất thải, về sản phẩm tái chế, về lò đốt, về trang thiết bị thu
gom, vận chuyển… Kiện toàn, thống nhất tổ chức bộ máy ở Trung ương và địa
phương theo hướng phân định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành và giao Sở
TNMT làm cơ quan đầu mối, thống nhất quản lý CTR ở tất cả các tỉnh, TP. [5]
Thứ hai, cải thiện cơ chế, chính sách để thu hút các doanh nghiệp ngoài
nhà nước tham gia quản lý CTR. Các địa phương cần phải xây dựng và công bố
công khai các đơn giá về thu gom, vận chuyển và xử lý CTR phù hợp với điều
kiện và hoàn cảnh phát triển kinh tế, xã hội. Thực hiện công khai, minh bạch
trong đấu thầu, tuyển chọn nhà đầu tư quản lý CTR. Thực hiện đàm phán rõ
ràng với nhà đầu tư, tránh trường hợp không đạt được mục tiêu BVMT; xem
xét, nâng thời gian hợp đồng để khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới, nâng
cấp trang thiết bị, công nghệ. [5]

14
Thứ ba, tăng cường thực hiện các biện pháp giảm thiểu phát sinh chất thải
và thúc đẩy phân loại tại nguồn. Cần khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng
các biên pháp SXSH, kiểm toán chất thải, vòng đời sản phẩm, ISO 14000. Thực
hiện các chương trình truyền thông để thúc đẩy tiêu dùng bền vững trong cộng
đồng dân cư. Thực hiện nghiêm các quy định của Nghị định 40/2019/NĐ-CP để
kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu phế liệu trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng
việc hạn chế nhập khẩu phế liệu. Cần thúc đẩy thực hiện phân loại tại nguồn
thành 3 loại: (1) chất thải có thể tái chế; (2) chất thải hữu cơ và; (3) còn lại. Cần
thực hiện thu gom, vận chuyển và xử lý riêng biệt đối với CTR đã được phân
loại, tránh chôn lấp chung. [5]
Thứ tư, cần quan tâm, chú ý đến một số loại chất thải mới nổi, đặc thù.
Xây dựng và triển khai thực hiện thành công các chính sách về quản lý chất thải
nhựa, túi nilon khó phân hủy, tiến tới chấm dứt hoàn toàn việc sản xuất, tiêu
dùng túi nilon và sản phẩm nhựa sử dụng một lần từ 2026. Đối với chất thải
điện tử, cần tiếp tục thúc đẩy thực hiện hiệu quả cơ chế thu hồi, xử lý các sản
phẩm thải bỏ sau sử dụng. Đối với chất thải xây dựng, cần phát triển các mô
hình tái chế, tái sử dụng. [5]
Nghiên cứu, xây dựng và ban hành văn bản riêng về quản lý CTR nông
thôn; nâng tỷ lệ thu gom và xử lý. Tăng cường trách nhiệm của các cấp chính
quyền địa phương trong việc lập quy hoạch, bố trí ngân sách và tổ chức thực
hiện công tác thu gom, xử lý CTR nông thôn; tăng cường sự phối kết hợp liên
vùng, địa phương trong quản lý CTR nông thôn. [5]
8.2/ Về công nghệ xử lý chất thải:
Thứ sáu, định hướng ứng dụng công nghệ xử lý CTR phù hợp với điều
kiện của từng vùng miền, địa phương. Thực hiện điều tra, đánh giá các loại hình
công nghệ xử lý CTR, từ đó có định hướng khuyến cáo áp dụng phù hợp đối với
từng địa phương, vùng, miền. Cần lưu ý đặc trưng của CTR sinh hoạt Việt Nam
là có hàm lượng hữu cơ cao (50-60%). Ví dụ, đối với vùng miền núi, vùng sâu,
vùng xa, có thể áp dụng công nghệ chế biến phân vi sinh; đối với vùng nông
thôn đồng bằng, áp dụng chế biến phân vi sinh với chôn lấp hợp vệ sinh; đối với
các đô thị lớn – xử lý bằng bioga và phát điện đối với chất thải hữu cơ và đốt
rác kết hợp phát điện đối với chất thải vô cơ, v.v…[5]
Thứ bảy, từng bước phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải. Từng
bước phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải chính quy, hiện đại, ứng
dụng công nghệ 4.0. Khuyến khích phát triển các mô hình, cơ sở xử lý CTR
hiện đại như ở Quảng Bình, Hà Nam, Hưng Yên, Bình Dương, Hà Nội… trong
thời gian gần đây. Lập và triển khai thực hiện các quy hoạch các khu, cụm công
nghiệp tái chế; thúc đẩy chuyển đổi công nghệ, loại bỏ dần các cơ sở tái chế lạc
hậu ở các làng nghề. [5]

15
IX/ Vai trò của công nghệ:
Nhiều quá trình chuyển đổi CTRSH thành năng lượng được minh họa
trong hình 11. Về cơ bản, chúng liên quan đến các quá trình nhiệt hóa (như đốt,
khí hóa và nhiệt phân) và các quá trình sinh học (như phân hủy kỵ khí). Các
tuyến hóa và nhiệt phân) và các quá trình sinh học (như phân hủy kỵ khí). các
tuyến bằng cách tách tại nguồn, sau đó là xử lý cơ học đơn giản như giảm kích
thước hoặc bằng cách xử lý cơ học rộng rãi đối với MSW để sản xuất Nhiên
liệu thu hồi rắn (SRF).

Hình 11: Lộ trình xử lý CTRSH cho các quy trinh thu hồi và tái chế.

SRF là một loại nhiên liệu rắn trong hầu hết các trường hợp có các đặc điểm,
tính chất và thành phần được xác định rõ ràng và có thể được mua bán như một
loại nhiên liệu để sản xuất năng lượng. SRF mang lại những cơ hội đáng kể vì
các nguồn ô nhiễm chính đã được loại bỏ trong quá trình tiền xử lý cơ học. Nó
có giá trị gia nhiệt tương đối cao và có thể được tiêu chuẩn hóa như một loại
nhiên liệu thương mại. SRF có thể được đồng sử dụng với một số nhiên liệu rắn
khác như than và hoặc sinh khối trong các quá trình đồng đốt hoặc đồng đốt. Ủy
ban Châu Âu đã ban hành ủy quyền cho CEN / TC 343 về việc thông qua tiêu
chuẩn Châu Âu về SRF để các nhiên liệu này có thể được mua bán trên thị
trường năng lượng.[1]

16
Hình 12: Các ứng dụng đồng sử dụng phổ biến của SRF
Có một số công nghệ hiện đại để chuyển đổi MSW thành năng lượng.
Hơn nữa, Nhiên liệu thu hồi rắn mang lại cơ hội môi trường và thị trường đáng
kể, tương đối sạch và có thể được giao dịch trên thị trường cho nhiều ứng dụng
năng lượng thay thế nhiên liệu hóa thạch. [5]
X/ Nguồn năng lượng tái tạo:
Về bản chất, MSW là một chất không đồng nhất bao gồm nhiều loại vật
liệu. Hình 13 minh họa thành phần điển hình cho CTRSH ở Vương quốc Anh -
có thể được mong đợi từ các quốc gia phát triển - và Hình 14 minh họa thành
phần điển hình của SRF. Trong Hình 15, tỷ lệ phần trăm cacbon có nguồn gốc
từ hóa thạch (ví dụ: nhựa) được so sánh với lượng cacbon từ các nguồn sinh
khối, nguồn tái tạo. [1]

Hình 13: Thành phần CTRSH chỉ định

17
Hình 14: Thành phần nhiên liệu thu hồi rắn

Hình 15: Hàm lượng cacbon của CTRSH (Wt%)


 Có tới 80% hàm lượng carbon của MSW là sinh khối có nguồn gốc từ sinh
khối và do đó có thể tái tạo được. [1]
XI/ Đóng góp cho năng lượng bền vững:
Các đánh giá dựa trên chu kỳ sống về các tác động môi trường chính
(hoặc các chỉ số bền vững) của CTRSH đã cho thấy những lợi ích tích cực thu
được từ việc thu hồi năng lượng CTRSH. [1]
● Giảm phát thải khí nhà kính
● Giảm phát thải khí axit
● Giảm sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên (nhiên liệu hóa thạch và vật
liệu)
● Giảm tác động vào nước (rửa trôi)
● Giảm ô nhiễm đất

18
Về lâu dài, tiềm năng cung cấp năng lượng CTRSH bị hạn chế bởi nguồn
nguyên liệu thô sẵn có - mỗi khu vực có một nguồn tài nguyên hữu hạn. Tuy
nhiên, các đánh giá về tiềm năng ngắn hạn đến trung hạn đối với phạm vi các
nguồn tái tạo chỉ ra rằng việc thu hồi năng lượng MSW có thể là một yếu tố
đóng góp quan trọng vào sản xuất điện. Ví dụ, nghiên cứu của ATLAS chỉ ra
rằng hiện nay khoảng 7% năng lượng được sản xuất từ các nguồn tái tạo ở EU
có nguồn gốc từ MSW - khiến nó trở thành nguồn đóng góp lớn thứ ba sau quy
mô lớn thủy điện và sử dụng sinh khối để làm nhiệt. ATLAS cũng chỉ ra tầm
quan trọng của sự đóng góp của CTRSH trong tương lai, với xếp hạng tương tự
về thị phần trong 2010. Do đó, thu hồi năng lượng từ CTRSH là một trong
những yếu tố chính trong việc giới thiệu sớm năng lượng tái tạo. [1]
XII/ Một số phương pháp phổ biến sản xuất năng lượng từ chất thải :
12.1/Phương pháp vật lý:
Là phương pháp chế biến rác thải sử dụng như là nguyên liệu, các dạng
nguyên liệu này có tên viết tắt là RDF (refuse-derived fuel). RDF là loại nguyên
liệu được sản suất bằng cách nghiền nhỏ rác thải hoặc xử lý chúng với áp suất
trong nồi hơi. [1]
Quy trình chế biến RDF từ rác thải đô thị:
 Phân loại rác thải tại nguồn
 Phân loại rác thải tại nơi thu gom rác
 Giảm kích thước rác thải
 Phối trộn
 Sấy khô và ép viền
 Đóng gói và lưu trữ
12.2/ Phương pháp nhiệt:
Phương pháp nhiệt là quá trình sử dụng nhiệt để chuyển hóa chất thải từ
dạng rắn sang dạng khí, lỏng và tro…đồng thời giải phóng năng lượng đưới
dạng nhiệt. [1]
Phương pháp nhiệt có 3 cách để chuyển hóa rác thải thanh năng lượng:
 Thiêu đốt : Rác thải hữu cơ được đưa vào lò hơi để đốt và sinh nhiệt, dùng đun
nông nước trong lò hơi sau đó được sử dụng để sấy hoặc để chạy tua bin phát
điện. [1]
 Nhiệt phân: Là quá trình phân hủy ở nhiệt độ cao sinh ra hỗn hợp khí với thanh
phần chinh là hydro, CO. [1]
 Khí hóa: Nhiên liệu được gia nhiệt trong môi trường ít oxy, hay còn được biết là
công nghệ cháy không hoan toàn, tạo ra khí tổng hợp(syngas). [1]
12.3/ Phương pháp sinh học:

19
Biogas hay còn gọi là khí sinh học là một dạng khí hỗn hợp được sinh ra
từ quá trình phân hủy kỵ khí của phân động vật và những hợp chất hữu cơ lên
men dưới tác động của các vi sinh vật.
Hỗn hợp khí biogas (hay khí sinh học biogas) được sinh ra gồm: khí
metan (CH4) chiếm hơn 60%, khí cacbonic (CO2) chiếm khoảng 30% và các
khí khác như N2, H2, H2S,...
Trong đó khí metan (CH4) là chủ yếu và là khí tạo ra năng lượng khí đốt
nhờ khả năng gây cháy. Lượng biogas sinh ra còn phụ thuộc vào quá trình phân
hủy sinh học, loại phân, tỷ lệ phối trộn với nước và nhiệt độ môi trường,...
- Các ngăn cơ bản công nghệ biogas:
 Ngăn phối trộn
 Ngăn phân hủy
 Ngăn áp lực
XIII/ Kết luận:
Việc thu hồi năng lượng từ CTRSH đã và đang góp phần giảm thiểu các
tác động môi trường địa Phương và toàn cầu. Việc triển khai thu hồi năng lượng
CTRSH cần được khuyến khích ở bất kì nơi nào nó thể hiện một cách khả thi và
hấp dẫn để tích hợp với các hoạt động tái chế và tái sử dụng và giảm thiểu tác
động của việc xử lý chất thải.
Thu hồi năng lượng từ chất thải có thể làm giảm phát thải khí nhà kính và
các chất ô nhiễm ở thể khí, lỏng và rắn khác, có tiềm năng to lớn trong việc hỗ
trợ đáp ứng các nghĩa vụ của Kyoto và có thể đóng góp đáng kể vào phát triển
bền vững.

20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] IEA Bioenergy, “Municipal Solid Waste and its Role in Sustainability,”
IEA Bioenergy, p. 16, 2003.
[2] “Quyết định 445/QĐ-TTg phê duyệt điều chỉnh định hướng quy hoạch
tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 tầm nhìn
2050.” https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Xay-dung-Do-thi/Quyet-dinh-
445-QD-TTg-phe-duyet-dieu-chinh-dinh-huong-quy-hoach-tong-the-phat-
trien-he-thong-do-thi-Viet-Nam-den-nam-2025-tam-nhin-2050-
87123.aspx (accessed Dec. 20, 2021).
[3] “Phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn, tái chế và tái sử dụng là giải
pháp có ý nghĩa kinh tế, xã hội và môi trường ỏ các đô thị.”
http://vacne.org.vn/phan-loai-chat-thai-ran-sinh-hoat-tai-nguon-tai-che-va-
tai-su-dung-la-giai-phap-co-y-nghia-kinh-te-xa-hoi-va-moi-truong-o-cac-
do-thi/24735.html (accessed Dec. 20, 2021).
[4] “Viup - Viện Quy hoạch Đô thị và Nông thôn quốc gia - Bộ Xây dựng.”
https://www.viup.vn/ (accessed Dec. 20, 2021).
[5] “Quản lý chất thải rắn ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp.”
https://isponre.gov.vn/vi/news/doi-thoai/quan-ly-chat-thai-ran-o-viet-nam-
thuc-trang-va-giai-phap-1267.html (accessed Dec. 20, 2021).

21

You might also like