You are on page 1of 11

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LUẬT KINH TẾ


BÀI TẬP CÁ NHÂN VỀ CHỦ ĐỀ “ CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ”
Học phần: Kinh tế chính trị Mác – Lênin
Giảng viên giảng dạy: Nguyễn Thị Thanh Hiếu
Sinh viên thực hiện: Hoàng Minh Anh
Lớp: LUKT31A
Mã sinh viên: 19230834

Đề bài: Phân tích mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường?
Vì sao trong nền kinh tế thị trường phải bảo vệ cạnh tranh, hạn chế độc quyền? Liên hệ với
thực tiễn nước ta.
BÀI LÀM
1. Cạnh tranh và độc quyền:
1.1. Khái niệm về cạnh tranh:
Khái niệm cạnh tranh ra đời khi nền kinh tế thị trường xuất hiện. Trong lịch sử phát triển
của nền kinh tế thế giới đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh.
Các nhà kinh tế học thuộc trường phái cổ điển cho rằng cạnh tranh là quá trình bao gồm
các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra trong mỗi thành viên trong thị trường một dư
địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so với khả
năng của mình.
Cạnh tranh theo hàm nghĩa kinh tế học là chỉ quá trình tranh đấu tiến hành không ngừng
giữa các chủ thể kinh tế trong thị trường nhằm thực hiện lợi ích kinh tế và mục tiêu đã
định của bản thân. Động lực nội tại của cạnh tranh là lợi ích kinh tế của tự thân chủ kinh
tế, biểu hiện cụ thể trong quá trình cạnh tranh là giữ hoặc mở rộng mức chiếm hữu thị
trường, gia tăng mức tiêu thụ, nâng cao lợi nhuận. Áp lực bên ngoài của cạnh tranh là đọ
sức kịch liệt giữa các đối thủ cạnh tranh, kẻ bại tất sẽ bị đào thải.
Nói một cách đơn giản, cạnh tranh chính là toàn bộ nỗ lực của doanh nghiệp để cố gắng
giành lấy khách hàng hoặc khách hàng của doanh nghiệp khác bằng cách cung cấp các
sản phẩm khác nhau, giao dịch tốt hơn, chất lượng phục vụ tốt hơn (Theo Marx “Cạnh
tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”.
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh giúp cho sự
phân bổ nguồn lực xã hội có hiệu quả, đem lại ích lợi lớn hơn cho xã hội).
1.2. Khái niệm về độc quyền:
Độc quyền là thuật ngữ trong kinh tế học chỉ về trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một
người bán và sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi³. Trong tiếng
Anh, "monopoly" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "monos" (nghĩa là một) và "polein"
(nghĩa là bán).
Độc quyền là một trạng thái của thị trường trong lĩnh vực kinh tế học chỉ sự duy nhất mà
trong thị trường đó chỉ có một người cung cấp sản phẩm, dịch vụ hoàn toàn không có sự
gia nhập thị trường và không có bất kỳ sản phẩm, dịch vụ thay thế gần gũi nào. Tóm lại,
độc quyền là thị trường không cạnh tranh. Đây là hiện tượng chỉ có duy nhất một doanh
nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp chiếm vị trí độc tôn trong việc cung cấp sản phẩm,
dịch vụ nhất định nào đó mà họ có thể toàn quyền kiểm soát giá cả sản phẩm, dịch vụ
nhằm tạo ra lợi nhuận tối đa và ngăn các đối thủ khác xâm nhập thị trường.
o Nguyên nhân hình thành độc quyền:
 Một là, do sự phát triển của lực lượng sản xuất.
 Hai là, do cạnh tranh.
 Ba là, do khủng hoảng
 Bốn là, do sự phát triển của hệ thống tín dụng.
1.3. Các loại cạnh tranh vầ độc quyền:
1.3.1. Phân loại các loại cạnh tranh:
o Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường:
Theo tiêu thức này, người ta chia cạnh tranh thành ba loại:
 Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Có thể hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là
một sự mặc cả theo luật mua rẻ -bán đắt. Cả hai bên đều muốn được tối đa hoá lợi
ích của mình .
 Cạnh tranh giữa người mua và người mua: Nó xảy ra khi mà trên thị trường mức
cung nhỏ hơn cầu của một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. Lúc này hàng hoá trên thị
trường khan hiếm , người mua sẵn sàng mua hàng với một mức giá cao. Mức độ
cạnh tranh giữa những người mua trở nên gay gắt hơn.
 Cạnh tranh giữa người bán và người bán: Đây là một cuộc cạnh tranh gay go và
quyết liệt nhất và phổ biến trong nền kinh tế thị trường hiên nay. Các doanh
nghiệp phải luôn ganh đua, loại trừ lẫn nhau để giành cho mình những ưu thế về
thị trường và khách hàng nhằm mục tiêu tồn tại và phát triển
o Xét theo tính chất và mức độ:
Theo tiêu thức này, cạnh tranh được chia làm ba loại :
 Cạnh tranh hoàn hảo: xảy ra khi trên thị trường có rất nhiều người bán và không
có người nào có ưu thế về số lượng cung ứng đủ lớn để ảnh hưởng tới giá cả trên
thị trường. Các sản phẩm bán ra rất ít có sự khác biệt về quy cách, phẩm chất, mẫu
mã. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo các doanh nghiệp bán sản phẩm và dịch
vụ của mình ở mức giá do thị trường xác định dựa trên quy luật cung cầu.
 Cạnh tranh không hoàn hảo: cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn các sản phẩm
không đồng nhất với nhau. Một loại sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác
nhau nhằm phân biệt các nhà sản xuất hay cung ứng, mặc dù sự khác biệt giữa các
sản phẩm có thể không lớn.
 Cạnh tranh độc quyền: hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có một số người
bán một số sản phẩm thuần nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng
sản phẩm và dịch vụ bán ra trên thị trường. Thị trường cạnh tranh độc quyền
không có sự cạnh tranh về giá, người bán có thể bắt buộc người mua chấp nhận giá
sản phẩm do họ định ra. Họ có thể định giá cao hơn hoặc thấp hơn giá của thị
trường tuỳ thuộc vào đặc điểm tác dụng của từng loại sản phẩm, uy tín người cung
ứng…nhưng mục tiêu cuối cùng là đạt được mục tiêu đề ra thường là lợi nhuận.
Những doanh nghiệp nhỏ tham gia vào thị trường này phải chấp nhận bán theo giá
của các nhà độc quyền.
o Xét theo phạm vu ngành kinh tế cạnh tranh:
 Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ. Kết quả của
cuộc cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển.
 Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các
ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này có
sự phận bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giữa các ngành, kết quả là hình thành tỷ
suất lợi nhuận bình quân.
o Xét vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh:
 Cạnh tranh lành mạnh: Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với chuẩn mực xã
hội và được xã hội thừa nhận, nó thướng diễn ra sòng phẳng, công bằng và công
khai.
 Cạnh tranh không lành mạnh: Là cạnh tranh dựa bào kẽ hổ của luật pháp, trái với
chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án ( như trốn thuế buôn lậu, móc ngoặc, khủng
bố vv…)
1.3.2. Phân loại các loại độc quyền:
Sự tập trung và tích luỹ sản xuất đến mức cao tạo nên các tổ chức độc quyền. Bởi vì một
mặt, do số lượng các doanh nghiệp lớn ít nên có thể dễ dàng thỏa hiệp với nhau; mặt
khác, các doanh nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật cao nên cạnh tranh sẽ rất khốc liệt, gay
gắt, khó đánh bại nhau, do đó đã dẫn đến khuynh hướng thương lượng với nhau để chiếm
lấy địa vị độc quyền.
Khi mới khởi đầu quá trình độc quyền hoá, các tổ chức độc quyền hình thành theo liên
kết ngang, tức là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về
sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc,
mở rộng ra nhiều ngành khác nhau.
o Cartel là hình thức tổ chức độc quyền trong đó các xí nghiệp tư bản lớn ký các
hiệp nghị thoả thuận với nhau về giá cả, sản lượng hàng hóa, thị trường tiêu thụ,
kỳ hạn thanh toán,... Các xí nghiệp tư bản tham gia Cartel vẫn độc lập cả về sản
xuất và lưu thông hàng hóa. Họ chỉ cam kết thực hiện đúng hiệp nghị đã ký, nếu
làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của hiệp nghị. Vì vậy, Cartel là liên minh độc
quyền không vững chắc. Trong nhiều trường hợp những thành viên thấy ở vào vị
trí bất lợi đã rút ra khỏi Cartel, làm cho Cartel thường tan vỡ trước kỳ hạn.
o Syndicate là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn Cartel. Các xí
nghiệp tư bản tham gia Syndicate vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về
lưu thông hàng hóa (mọi việc mua, bán do một ban quản trị chung của Syndicate
đảm nhận). Mục đích của Syndicate là thống nhất đầu mối mua và bán để mua
nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hoá với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền
cao.
o Trust là hình thức độc quyền cao hơn Cartel và Syndicate. Trong Trust thì cả việc
sản xuất, tiêu thụ hàng hóa đều do một ban quản trị chung thống nhất quản lý. Các
xí nghiệp tư bản tham gia Trust trở thành những cồ đông để thu lợi nhuận theo số
lượng cồ phần.
o Consortium là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các
hình thức độc quyền trên. Tham gia Consortium không chi có các xí nghiệp tư bản
lớn mà còn có cả các Syndicate, các Trust, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên
quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một Consortium
có thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính
vào một nhóm các nhà tư bản kếch xù.
1.4. Tác động của cạnh tranh và độc quyền:
- Cạnh tranh là động lực thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ khoa học và sự phát triển lực
lượng sản xuất. Cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, thường
xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, thay đổi phương thức tổ chức
quản lý hiệu quả hơn, đổi mới sản phẩm… để đáp ứng nhu cầu thị trường và xã
hội tốt hơn. Ở đâu có độc quyền, thiếu cạnh tranh thì ở đó trì trệ bảo thủ, kém hiệu
quả vì mất đi cơ chế có tác dụng đào thải lạc hậu, bình tuyển tiến bộ. Mặt trái của
cạnh tranh là phân hoá người sản xuất; gây rối, phá hoại thị trường; cạnh tranh
bằng các thủ đoạn phi đạo đức, vi phạm luật pháp để thu lợi cá nhân, gây tổn hại
lợi ích tập thể và xã hội. Điều này đòi hỏi nhà nước phải có biện pháp để hạn chế,
ngăn chặn mặt trái của cạnh tranh.
- Tác động của độc quyền trong nền kinh tế thị trường:
+ Tích cực:
Thứ nhất, độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai
các hoạt động khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật.
Thứ hai, độc quyền có thể làm tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh
tranh của bản thân tổ chức độc quyền.
Thứ ba, độc quyền tạo được sức mạnh kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển theo hướng sản xuất lớn hiện đại
+ Tiêu cực:
Một là, độc quyền xuất hiện làm cho cạnh tranh không hoàn hảo gây thiệt hại
cho người tiêu dùng và xã hội.
Hai là, độc quyền có thể kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự phát
triền kinh tế, xã hội.
Ba là, khi độc quyền nhà nước bị chi phối bởi nhóm lợi ích cục bộ hoặc khi dộc
quyền tư nhân chi phối các quan hệ kinh tế, xã hội sẽ gây ra hiện tượng làm tăng sự
phân hóa giàu nghèo.
2. Mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường:
2.1. Phân tích chi tiết mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền:
Mối quan hệ của cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường hiện nay có thể
được phân tích như sau:
- Theo Mác - Lênin, cạnh tranh và độc quyền là hai mặt đối lập và đồng thời là hai giai
đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Cạnh tranh là giai đoạn đầu
tiên, khi các doanh nghiệp tư nhân tự do sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, giá cả do thị
trường quyết định, lợi nhuận bình quân trên mọi doanh nghiệp. Độc quyền là giai đoạn
sau, khi các doanh nghiệp lớn liên minh với nhau để chi phối thị trường, định giá độc
quyền, thu lợi nhuận độc quyền cao hơn lợi nhuận bình quân.
- Cạnh tranh và độc quyền có mối quan hệ mâu thuẫn và phụ thuộc lẫn nhau. Mâu thuẫn
là vì cạnh tranh dẫn đến sự tập trung sản xuất, tạo ra các tổ chức độc quyền, nhưng độc
quyền lại phá vỡ cạnh tranh hoàn hảo, gây ra khủng hoảng kinh tế và xã hội. Phụ thuộc là
vì cạnh tranh vẫn tồn tại trong các tổ chức độc quyền, giữa các tổ chức độc quyền với các
doanh nghiệp ngoài độc quyền, giữa các tổ chức độc quyền khác ngành có liên quan với
nhau.
- Cạnh tranh và độc quyền cũng có một số ý nghĩa tích cực và tiêu cực trong nền kinh tế
thị trường. Ý nghĩa tích cực của cạnh tranh là thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, tăng suất và lực sản xuất, tạo ra sức mạnh kinh tế cho các doanh nghiệp. Ý nghĩa
tích cực của độc quyền là tạo điều kiện cho việc sử dụng hiệu quả nguồn lực, tiết kiệm
chi phí sản xuất, ổn định giá cả và thị trường. Ý nghĩa tiêu cực của cạnh tranh là gây ra sự
lãng phí nguồn lực, sự bất ổn của giá cả và thị trường, sự phân hóa giàu nghèo giữa các
doanh nghiệp. Ý nghĩa tiêu cực của độc quyền là kìm hãm sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, gây ra sự bóp méo của giá cả và thị trường, tăng sự phân hóa giàu nghèo giữa các
tầng lớp xã hội.

 Ví dụ về các tổ chức độc quyền trong nền kinh tế thị trường hiện nay:

Một trong những ví dụ nổi bật về các tổ chức độc quyền trong nền kinh tế thị trường hiện
nay là các công ty công nghệ cao, như Google, Facebook, Amazon, Apple, Microsoft,
v.v. Các công ty này đều có thị phần lớn, doanh thu khổng lồ, quyền lực ảnh hưởng rộng
rãi đối với các doanh nghiệp khác, người lao động, người tiêu dùng và xã hội. Các công
ty này cũng thường xuyên bị cáo buộc vi phạm luật cạnh tranh, lợi dụng độc quyền để
gây bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh, kiểm soát dữ liệu cá nhân của người dùng, ảnh
hưởng đến quyền tự do ngôn luận và dư luận . Các công ty này cũng phải đối mặt với sự
can thiệp của nhà nước, như các cuộc điều tra, kiểm tra, phạt tiền, áp thuế, v.v .

 So sánh và đánh giá sự khác biệt giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế
thị trường hiện nay với cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa ở thời Mác - Lênin:

Một số sự khác biệt giữa cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường hiện nay
với cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ở thời Mác -
Lênin có thể được liệt kê như sau:

 Sự toàn cầu hóa: Cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường hiện nay
không chỉ diễn ra trong phạm vi một quốc gia hay một khu vực, mà còn diễn ra
trên phạm vi toàn cầu. Các doanh nghiệp phải cạnh tranh với các doanh nghiệp
khác trên thế giới để chiếm lĩnh thị trường và nguồn lực. Các tổ chức độc quyền
cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các tổ chức độc quyền khác trên toàn cầu.
Sự toàn cầu hóa có thể mang lại những lợi ích như mở rộng thị trường, tăng cường
hợp tác, khuyến khích sáng tạo, nhưng cũng có thể gây ra những bất lợi như mất
cân bằng kinh tế, xung đột lợi ích, suy thoái môi trường .
 Sự phát triển của khoa học kỹ thuật: Cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị
trường hiện nay được ảnh hưởng rất lớn bởi sự phát triển của khoa học kỹ thuật.
Các doanh nghiệp phải áp dụng các công nghệ mới để nâng cao hiệu quả sản xuất,
tiết kiệm chi phí, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, phù hợp với nhu cầu của
người tiêu dùng. Các tổ chức độc quyền cũng phải liên tục đổi mới và nghiên cứu
để duy trì ưu thế cạnh tranh, bảo vệ bằng sáng chế, khai thác dữ liệu lớn. Sự phát
triển của khoa học kỹ thuật có thể tạo ra những cơ hội mới cho sự phát triển kinh
tế, nhưng cũng có thể gây ra những thách thức mới về an ninh, đạo đức, văn hóa .
 Sự can thiệp của nhà nước: Cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường
hiện nay không chỉ phụ thuộc vào các quy luật của thị trường, mà còn phụ thuộc
vào các chính sách của nhà nước. Nhà nước có thể can thiệp vào nền kinh tế bằng
các biện pháp như điều tiết, quản lý, hỗ trợ, khuyến khích, kiểm soát, phạt tiền,
v.v. Nhà nước có thể ảnh hưởng đến sự cạnh tranh và độc quyền bằng cách thiết
lập các luật lệ, tiêu chuẩn, thuế, quyền lợi, trách nhiệm cho các doanh nghiệp. Sự
can thiệp của nhà nước có thể giúp duy trì sự ổn định và công bằng của nền kinh
tế, nhưng cũng có thể gây ra sự biến dạng và phi lý của nền kinh tế .

 Kết luận:

Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị
trường hiện nay dưới góc nhìn kinh tế chính trị của Mác - Lênin là một mối quan hệ mâu
thuẫn và phụ thuộc lẫn nhau. Cạnh tranh và độc quyền có những ý nghĩa tích cực và tiêu
cực trong nền kinh tế. Cạnh tranh và độc quyền cũng có những sự khác biệt so với cạnh
tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ở thời Mác - Lênin. Để
giảm thiểu những tiêu cực và tăng cường những tích cực của cạnh tranh và độc quyền
trong nền kinh tế, cần có sự phối hợp giữa các doanh nghiệp, nhà nước và xã hội để tạo ra
một môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch và bền vững.

2.2. Giải thich vì sao cần phải bảo vệ cạnh tranh, hạn chế độc quyền?

Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh và độc quyền đại diện cho hai khía cạnh đối lập
và đan xen của quá trình phát triển sản xuất. Cạnh tranh xuất phát từ sự đấu tranh khốc
liệt giữa các doanh nghiệp, nhằm tranh giành thị phần, khách hàng, lợi nhuận và vị trí
trên thị trường. Trong khi đó, độc quyền bắt nguồn từ sự chi phối của một hoặc một
nhóm doanh nghiệp đối với một ngành sản xuất hoặc một loại hàng hóa, có khả năng thay
đổi giá cả và lợi nhuận một cách độc lập.

Trong quan điểm kinh tế chính trị theo lý thuyết Mác-Lênin, cạnh tranh và độc quyền
trong nền kinh tế thị trường có những đặc điểm quan trọng như sau:

 Giai đoạn phát triển: Cạnh tranh và độc quyền đại diện cho hai giai đoạn khác biệt
trong sự phát triển của tư bản chủ nghĩa. Cạnh tranh thường xuất hiện ở giai đoạn
ban đầu, khi các doanh nghiệp còn nhỏ, phân tán và đa dạng. Độc quyền thường
phát triển ở giai đoạn sau, khi các doanh nghiệp trở nên mạnh mẽ, tập trung và
thường kết hợp với nhau. Độc quyền thường là kết quả của cạnh tranh, khi các
doanh nghiệp mạnh mẽ thâu tóm hoặc loại bỏ các đối thủ yếu.
 Tác động biến động: Cạnh tranh và độc quyền đều gây ra sự biến động trong nền
kinh tế thị trường, nhưng ảnh hưởng của chúng xuất hiện ở các chu kỳ khác nhau.
Cạnh tranh thường dẫn đến sự biến động ngắn hạn, khi các doanh nghiệp phải điều
chỉnh sản lượng, giá cả, và chi phí để thích nghi với tình hình thị trường. Trong
khi đó, độc quyền thường dẫn đến sự biến động dài hạn, khi các doanh nghiệp có
độc quyền tạo ra sự bất ổn lớn về sản lượng, giá cả, và lợi nhuận để bảo vệ vị thế
của họ.
 Tác động đến sự phát triển sản xuất: Cạnh tranh và độc quyền đều ảnh hưởng đến
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Cạnh tranh thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng cường năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản
phẩm và giảm giá thành. Ngược lại, độc quyền thường dẫn đến sự trì trệ trong việc
sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, giảm năng suất lao động, giảm chất lượng sản
phẩm và tăng giá thành.

Vì lý do này, trong nền kinh tế thị trường, cần đặc biệt quan tâm đến bảo vệ cạnh tranh và
hạn chế độc quyền. Dưới đây là một số lý do cụ thể:

- Bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng: Cạnh tranh giúp người tiêu dùng có nhiều sự
lựa chọn hơn, từ đó có thể mua sản phẩm phù hợp với nhu cầu và túi tiền của họ.
Ngược lại, độc quyền thường dẫn đến sự bắt buộc mua sản phẩm với giá cao và
chất lượng thấp.
- Bảo vệ sự công bằng của thị trường: Cạnh tranh đảm bảo rằng các doanh nghiệp
phải tuân thủ quy tắc và tiêu chuẩn của thị trường, không lợi dụng vị thế để gian
lận hoặc tạo ra sự độc quyền. Điều này giúp bảo vệ tính công bằng và tính minh
bạch của thị trường.
- Thúc đẩy sự phát triển và đổi mới: Cạnh tranh khuyến khích các doanh nghiệp
không ngừng đổi mới và cải tiến để duy trì hoặc mở rộng thị phần. Điều này thúc
đẩy sự phát triển và sáng tạo trong nền kinh tế.

Tóm lại, cạnh tranh và độc quyền là hai phương diện quan trọng của nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, cạnh tranh thường mang lại nhiều lợi ích hơn cho người tiêu dùng, thị
trường và nền kinh tế chung, và do đó, cần phải đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ cạnh
tranh và hạn chế độc quyền.

3. Liên hệ thực tiễn:

Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh và độc quyền là hai khái niệm có mối quan hệ
phức tạp và đôi khi đối lập nhau. Cạnh tranh là một quy luật vận động của nền kinh tế, là
một động lực thúc đẩy sự phát triển của các chủ thể kinh tế và đáp ứng nhu cầu của người
tiêu dùng. Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, có khả năng thâu tóm
việc sản xuất và tiêu dùng một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả độc quyền,
nhằm thu lợi độc quyền cao.

Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường phải bảo vệ cạnh tranh, hạn chế độc quyền để tăng
tính hiệu quả và công bằng của nền kinh tế. Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền. Một số giải pháp để bảo vệ cạnh tranh và hạn chế
độc quyền là:
- Ban hành và thực thi các luật pháp về cạnh tranh và chống độc quyền.

- Tăng cường giám sát và kiểm tra các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp lớn.

- Thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và vừa vào thị trường.

- Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh.

- Tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng và thuận lợi cho các chủ thể kinh
tế.

- Tham gia hội nhập và mở rộng thị trường quốc tế.

Liên hệ thực tiễn với hiện trạng hiện nay của nước Việt Nam, ta có thể nhận thấy rằng
cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam còn tồn tại nhiều bất cập và thách thức. Một số bất
cập và thách thức là:

- Tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc khối sở hữu nhà nước
với các doanh nghiệp thuộc tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

- Hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp không lành mạnh, vi phạm luật pháp, gây rối
loạn thị trường.

- Độc quyền của một số công ty lớn trong các ngành kinh tế chiến lược như điện, dầu khí,
bưu chính viễn thông, giao thông vận tải….

- Độc quyền trong các ngành kinh tế kết cấu hạ tầng như xây dựng, giao thông, y tế….

- Thiếu minh bạch trong việc ban hành và áp dụng các chính sách liên quan đến cạnh
tranh và độc quyền.

- Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội trong việc
giám sát và kiểm soát cạnh tranh và độc quyền.

Để khắc phục những bất cập và thách thức trên, Việt Nam cần phải nỗ lực trong việc
hoàn thiện pháp luật, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài, tham gia vào cạnh
tranh trên thị trường, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện cam kết về cạnh
tranh và chống độc quyền. Đây là những giải pháp cần thiết để phát triển một nền kinh tế
thị trường đầy sức sống và bền vững ở Việt Nam.

Một số ví dụ thực tiễn, cụ thể về cạnh tranh độc quyền và độc quyền ở Việt Nam là:
- Cạnh tranh độc quyền trong ngành bán lẻ: Các công ty bán lẻ như Vinmart, Co.opmart,
Big C, Lotte Mart... cung cấp các sản phẩm tiêu dùng hàng ngày cho người tiêu dùng.
Các sản phẩm này có tính thay thế tương đối cao nhưng không hoàn toàn giống nhau. Các
công ty bán lẻ cố gắng khác biệt hóa sản phẩm của họ bằng cách tạo ra các thương hiệu
riêng, thiết kế cửa hàng, chất lượng dịch vụ, chính sách khuyến mãi... Các công ty bán lẻ
cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các kênh bán hàng trực tuyến như Tiki, Shopee,
Lazada...

- Độc quyền trong ngành điện lực: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) là doanh nghiệp
nhà nước duy nhất được phép sản xuất, truyền tải và phân phối điện cho toàn quốc. EVN
có quyền định giá điện theo mức giá do Nhà nước quy định. EVN cũng có quyền ưu tiên
trong việc đầu tư vào các dự án điện lớn và chiếm lĩnh thị trường điện. EVN gây ra nhiều
bất cập cho người tiêu dùng như: giá điện cao, chất lượng dịch vụ kém, thiếu minh bạch
trong hoạt động kinh doanh, gây ô nhiễm môi trường...

Đối với ví dụ về cạnh tranh độc quyền trong ngành bán lẻ, một số biện pháp mà nhà nước
CHXHCN Việt Nam đã áp dụng là:

- Ban hành Luật Cạnh tranh năm 2018, quy định rõ các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, tập trung kinh tế và các biện pháp xử lý vi
phạm.

- Thành lập Cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công Thương, có nhiệm vụ giám sát,
điều tra, xử lý các vụ việc cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và doanh nghiệp.

- Thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo điều kiện cho họ tiếp cận
nguồn vốn, công nghệ, thị trường và hỗ trợ họ trong việc nâng cao năng lực sản xuất và
cạnh tranh.

- Mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào các hiệp định thương mại tự do như
CPTPP, EVFTA, RCEP... để tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng và minh bạch giữa
các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.

Đối với ví dụ về độc quyền trong ngành điện lực, một số biện pháp mà nhà nước
CHXHCN Việt Nam đã áp dụng là:

- Ban hành Luật Điện lực năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện
lực năm 2012, quy định rõ các nguyên tắc và chính sách về quản lý nhà nước, sản xuất
kinh doanh, sử dụng điện và bảo đảm an toàn điện.
- Thực hiện cơ cấu lại ngành điện lực theo hướng cạnh tranh, bao gồm việc tách EVN
thành các công ty con hoạt động theo các khâu sản xuất, truyền tải và phân phối điện;
khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp khác vào thị trường điện; thiết lập thị
trường bán buôn và bán lẻ điện.

- Đẩy mạnh đầu tư vào các nguồn điện tái tạo, như điện gió, điện mặt trời, điện sinh
khối... để giảm sự phụ thuộc vào các nguồn điện truyền thống như than, dầu khí, thuỷ
điện... và góp phần bảo vệ môi trường.

- Tăng cường minh bạch trong hoạt động kinh doanh của EVN, bao gồm việc công bố
thông tin về chi phí sản xuất kinh doanh, giá thành điện, chính sách giá điện, kết quả
kiểm toán... để tăng sự tin tưởng của người tiêu dùng và các bên liên quan.

You might also like