You are on page 1of 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

***********

BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

ĐỀ TÀI:

CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG – CÁI RIÊNG


CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT. VẬN
DỤNG CẶP PHẠM TRÙ NÀY TRONG HOẠT
ĐỘNG LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA - ĐẠI HỌC
QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LỚP L05 -- NHÓM 1 -- HỌC KỲ 231

NGÀY NỘP:

Giảng viên hướng dẫn:

Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2023


TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Môn: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN – SP 1031
Lớp: L05 Tên nhóm: 1
Đề tài: CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG - CÁI RIÊNG CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT. VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ
NÀY TRONG HOẠT ĐỘNG LÀM VIỆC NHÓM CỦA SINH VIÊN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA - ĐẠI HỌC QUỐC
GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Tỷ lệ % thành viên nhóm
STT Mã số SV Họ Tên Nhiệm vụ được phân công Ký tên Điểm
tham gia BTL

1 2210167 Nguyễn Duy Hoàng Ân

2 2210066 Lê Ngọc Quỳnh Anh

3 2210096 Nguyễn Phương Anh

4 2210053 Hoàng Thị Ngọc Anh

5 2210213 La Quốc Bảo

6 2210020 Nguyễn Phạm Quốc An


Họ và tên nhóm trưởng:...........Nguyễn Phạm Quốc An..................., Số ĐT: ...............................................Email: ..................................................................

Nhận xét của GV: .........................................................................................................................................................................................................................


.........................................................................................................................................................................................................................................................
NHÓM TRƯỞNG
GIẢNG VIÊN (Ký và ghi rõ họ, tên)
(Ký và ghi rõ họ, tên)

Nguyễn Phạm Quốc An


TS. An Thị Ngọc Trinh
MỤC LỤC

I. PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................2
II. PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................3
CHƯƠNG 1. CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG – CÁI RIÊNG CỦA
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT................................................................3
1.1 Những khái niệm cơ bản...................................................................3
1.2. Mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù cái chung – cái riêng
...................................................................................................................5
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù cái chung – cái
riêng..........................................................................................................8
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG – CÁI
RIÊNG TRONG TRONG VIỆC TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG LÀM VIỆC
NHÓM CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA - ĐẠI
HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...................................10
2.1 Khái quát về trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.......................................................................10
2.2 Hoạt động làm việc nhóm của sinh viên........................................11
2.3 Đánh giá hoạt động làm việc nhóm của sinh viên trường Đại học
Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. . .14
2.4 Đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế trong quá trình làm việc
nhóm của sinh viên trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.......................................................19
III. KẾT LUẬN..................................................................................................21
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................22

1
I. PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài này đối với thực
tiễn: Cặp phạm trù cái chung – cái riêng của phép biện chứng duy vật được vận dụng
rất nhiều vào đời sống thực tế. “ Cái chung tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng
để thể hiện sự tồn tại” từ đó mà Lênin cho rằng việc xem xét và giải quyết các vấn đề
chung trước đây giúp xây dựng một cơ sở cho việc đánh giá và quản lý các vấn để
riêng biệt; điều này giúp đảm bảo các quyết định được đưa ra dựa trên những nguyên
tắc và mục tiêu tổng quát, thay vì dựa vào phản ứng ngẫu nhiên và hành động cụ thể.
Từ các khái niệm, mối quan hệ và ý nghĩa của phạm trù cái chung – cái riêng của phép
biện chứng duy vật ta có thể vận dụng nó vào việc giải quyết vấn đề hoạt động nhóm
của sinh viên trường Đại học Bách khoa. Thực tế việc hoạt động nhóm của các bạn
sinh viên hiện nay không thực sự hiệu quả vì nhiều nguyên do; chẳng hạn như hoạt
động cá nhân mang tính thụ động, đùn đẩy công việc cho cá nhân khác, tập thể nhóm
không có tiếng nói chung… Điều này ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng giảng dạy
của trường, độ hiệu quả của việc học tập tại lớp và nhiều hậu quả ảnh hưởng tới cá
nhân mỗi sinh viên. Vì thế việc vận dụng cặp phạm trù cái chung – cái riêng của phép
biện chứng duy vật là giải pháp tối ưu và hiệu quả để giải quyết vấn đề nan giải này.
Mục đích nghiên cứu: Làm rõ nội dung cơ bản của cặp phạm trù cái chung – cái riêng
của phép biện chứng duy vật, từ đó vận dụng cặp phạm trù để cải thiện hoạt động làm
việc nhóm của sinh viên tại trường Đại học Bách khoa.
Đối tượng nghiên cứu: Cặp phạm trù cái chung – cái riêng của phép biện chứng duy
vật, thực tế về hoạt động về việc làm việc nhóm của sinh viên tại trường Đại học Bách
khoa.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích, nghiên cứu, tổng hợp, thu thập tài
liệu,...
Kết cấu đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 02
chương, 07 tiểu tiết.

2
II. PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG – CÁI RIÊNG CỦA PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT
1.1 Những khái niệm cơ bản
Cặp phạm trù ‘“cái chung - cái riêng” trong phép biện chứng duy vật là một
khái niệm quan trọng trong triết học cổ điển, là cặp phạm trù trong phép biện chứng
duy vật Mác-Lênin. Khái niệm này đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu bản
chất của thực thể, sự tồn tại, và cách chúng ta hiểu thế giới xung quanh.
1.1.1. Khái niệm cái chung
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không
những có ở một sự vật, hiện tượng nào đó, mà còn lặp lại trong nhiều sự vật, hiện
tượng (nhiều cái riêng) khác. Chẳng hạn như cái chung đại diện cho những đặc điểm,
tính chất, hoặc những khía cạnh mà có thể thể hiện ở nhiều thực thể khác nhau, tạo nên
một loại khái niệm tổng quát về một nhóm các thực thể.
Ví dụ khái niệm “động vật” là cái chung vì nó bao gồm nhiều loại động vật
khác nhau như cún, mèo, cá. Mặc dù chúng có các đặc điểm riêng biệt, nhưng tất cả
chúng thuộc vào một danh mục tổng quát là "động vật" do có những đặc điểm chung
như cần ăn, di chuyển, và có một hệ thống sinh học.

Hình 1 1 Ví dụ về các loại động vật

3
1.1.2 Khái niệm cái riêng
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định.
Ví dụ về "nhà ở" là một cái riêng. Mỗi ngôi nhà là một sự vật hoặc hiện tượng
cụ thể và riêng biệt với các ngôi nhà khác

Hình 1 2 Ví dụ về nhà ở

Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc điểm chỉ vốn có ở
một sự vật, hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng nào
khác.
Ví dụ về hệ thống Đại học Quốc gia TPHCM là một ví dụ tuyệt vời để minh họa rõ
nhất về khái niệm cái chung, cái riêng và cái đơn nhất. Trong trường hợp này, ta có thể
xem Đại học Quốc gia là cái chung. Đây là khái niệm tổng quát, là đại diện cho toàn bộ
các trường Đại học và các khoa trực thuộc của Đại học Quốc gia TPHCM. Các trường như
“Đại học Bách Khoa”, “Đại học Khoa học Tự nhiên”, “Đại học Công nghệ Thông tin”
được coi là cái riêng, bởi mỗi trường đều có những đặc điểm, chương trình học và lịch sự
phát triển trường riêng biệt chỉ áp dụng cho từng trường. Cái đơn nhất ở đây có thể kể đến
như “logo trường Đại học Bách khoa” có hình ảnh chữ BK và có màu sắc đặc trưng, đại
diện cho trường Đại học Bách khoa trong hệ thống trường Đại học Quốc gia TPHCM.

Hình 1 3 Ví dụ về hệ thống ĐHQG TPHCM

4
1.2. Mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù cái chung – cái riêng

Các nhà duy


thực đã đưa ra luận giải về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, và có hai quan
điểm chính:

Theo luận giải thứ nhất, cái chung tồn tại dưới dạng các khái niệm chung hoặc
là tư tưởng. Điều này có nghĩa rằng cái chung không tồn tại ở dạng vật chất mà nó tồn
tại dưới dạng các ý niệm hoặc khái niệm trừu tượng. Ví dụ, một "con ngựa" là một
khái niệm chung, và nó tồn tại trong tư tưởng của mọi người nhưng không phải là một
thực thể vật lý cụ thể.

Theo luận giải thứ hai, cái chung tồn tại dưới dạng vật chất, và nó có thể tồn tại
dưới dạng một khối không đổi hoặc bao trùm tất cả các trường hợp của cái chung. Một
ví dụ là sự tồn tại của "loài ngựa" trong một ngữ cảnh vật lý. Cái chung, trong trường
hợp này, có thể được hiểu là một khối vật chất tồn tại riêng rẽ và độc lập.

Cái riêng, theo cả hai luận giải, có thể hoàn toàn không tồn tại (do một số triết
học gia xem các sự vật cảm tính là không thực, chỉ là các bóng đổ của các ý niệm)
hoặc tồn tại phụ thuộc vào cái chung. Cái riêng thường được xem là cái tạm thời và có
thể phát sinh từ cái chung.

Các nhà duy danh (như Occam và Berkeley) thường cho rằng cái chung không
tồn tại trong hiện thực khách quan và chỉ có cái riêng tồn tại thực tế. Cách mà các nhà
duy danh giải quyết về hình thức tồn tại của cái riêng có thể khác nhau. Occam cho
rằng cái riêng tồn tại như đối tượng vật chất cảm tính, tức là mỗi sự vật đơn lẻ tồn tại
trong hiện thực và có thể cảm nhận bằng các giác quan. Berkeley, ngược lại, cho rằng
5
cảm giác là hình thức tồn tại của cái riêng, tức là chỉ có các trạng thái tư duy và cảm
giác tồn tại và thế giới ngoài kia chỉ tồn tại qua cảm giác của con người.

Những khuyết khiếm của cả hai quan điểm thuộc hai trường phái trên được
khắc phục bởi chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc lý giải mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cố gắng đề xuất một quan điểm
thống nhất về tồn tại và hiện thực bằng cách xem xét cả cái chung và cái riêng, và
thông qua mối quan hệ phức tạp giữa chúng, họ tìm cách khắc phục những vấn đề về
sự tồn tại và tư duy mà trường phái duy danh và duy tâm gặp phải.

1.2.1. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại

Bất kỳ cái chung nào cũng tồn tại trong cái riêng, nằm trong mối quan hệ chặt
chẽ với cái đơn nhất, chúng không tồn tại độc lập, tự thân, vì chúng là thuộc tính gắn
với đối tượng xác định (chỉ cái riêng) nên cần thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn
tại của mình. Cái chung thường là một khái niệm tổng quát, được hình thành thông qua
việc tập hợp và so sánh giữa những cái riêng lẽ, trong khi cái đơn nhất có thể để cập
tới nguồn gốc hoặc nguyên tắc cơ bản mà cái riêng có thể xuất phát từ đó. Mối quan hệ
giữa chúng thường là mối quan hệ phức tạp, không tách rời.

Ví dụ: như màu sắc đỏ trong bảng phân phối màu, cái chung ở đây là màu đỏ,
đây là một thuộc tính mà chúng ta sử dụng để mô tả một loại màu sắc và có thể sử dụng
cho nhiều loại đối tượng khác nhau chẳng hạn như quả táo, đám hoa hồng. Còn quả táo
có màu đỏ sẫm được xem như là một cái riêng. Bởi lẽ có các loại táo khác có cùng màu
sắc đỏ nhưng lại có đặc trưng riêng khác nhau như loại táo gala có màu đỏ nhạt, táo lucy
glo có màu đỏ hồng…Trong trường hợp này, màu đỏ không thể tự tồn tại được mà nó
cần thông qua quả táo để thể hiện sự tồn tại của chính nó.

6
Hình 1.2.1 1 Ví dụ về màu sắc đỏ

1.2.2. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung

Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ của cái chung, không có cái riêng nào tồn
tại độc lập tách rời cái chung. Bởi vì cái riêng là kết quả của sự tổng hợp cái chung và
cái đơn nhất, còn cái chung có tình phổ biến và tuân theo quy luật rõ ràng hơn cái riêng.

Ví dụ như ta có một hệ điều hành máy tính, ta có thể thấy rằng cái chung ở đây
là các quy luật, nguyên tắc cơ bản của hệ điều hành như quản lý tài nguyên, lập lịch và
giao tiếp với phần cứng. Cái đơn nhất có thể đại diện cho đặc điểm riêng biệt của một
máy tính cụ thể như dung lượng dùng để lưu trữ hay cấu trúc phần cứng. Cái riêng
trong trường hợp này sẽ là các tình huống cụ thể khi máy tính hoạt động, điều này bao
gồm cả quản lý tài nguyên và lập lịch một cách cụ thể. V.I Lênin viết: “Bất cứ cái
riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng
thuộc loại khác (sự vật, hiện tượng, quá trình)”.1 Vậy nên trong trường hợp hệ điều
hành máy tính, mỗi trường hợp cụ thể của hoạt động điều hành sẽ thể hiện rõ sự tương
tác giữa các quy luật và nguyên tắc chung với các đặc điểm cụ thể của máy tính và
công việc đang được thực hiện trên máy tính.

Hình 1.2.2 Ví dụ về hệ điều hành máy tính


1.2.3. Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, cái chung là cái bộ phận, sâu sắc

Mối liên hệ giữa cái chung với cái riêng biểu hiện ở mối liên hệ lẫn nhau giữa
các thuộc tính (hay các bộ phận) cùng có ở nhiều đối tượng với từng đối tượng đó

1
V. I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.

7
được xét như cái toàn bộ. Vậy nên cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái
chung, cái chung chỉ là bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng có thể phong
phú hơn cái chung vì nó không chỉ chứa những đặc điểm riêng biệt của một thực thể
cụ thể mà còn có những đặc điểm độc đáo mà không có ở các thực thể khác. Tuy
nhiên, cái chung có thể sâu sắc hơn cái riêng vì nó thể hiện những thuộc tính, tính chất,
hoặc mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều thực thể cùng loại, và nó có thể là
nền tảng cho việc xác định các đặc điểm riêng biệt trong một nhóm.
Ví dụ ta có một cây cỏ trong một khu vườn thì đây là cái riêng, nó bao gồm tất
cả các đặc điểm, tính chất của cây cỏ đó như hình dạng, kích thước, màu sắc, và vị trí
của cây cỏ đó trong một khu vườn. Cái chung trong trường hợp này có thể là các đặc
tính chung của tất cả các loại cây cỏ, đại diện như tất cả cây cỏ đều có lá màu xanh và
càn cung cấp nước để duy trì sự sống. Vậy nên, ta có thể thấy rằng cái chung của cây
cỏ là việc tất cả bọn chúng đều cần nước để tồn tại hoặc đều có lá màu xanh thì được
coi là một sự tổng quát. Tuy nhiên, cái riêng là cây cỏ cụ thể đó vẫn phức tạp hơn khi
so với nhiều đặc điểm riêng biệt khác ngoài việc cây cần nước

Hình 1.2.3 1 Ví dụ về cây cỏ

1.3 Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù cái chung – cái riêng

8
Thứ nhất, cái chung tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện sự tồn
tại. Vậy nên, cái riêng có liên hệ với cái chung đó, chỉ có thể tìm cái chung trong những
sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Cần nhận thức rõ những nguyên tắc hoặc quy luật tổng quát
chung khi áp dụng vào các tình huống cụ thể trong cuộc sống. Nếu thiếu hiểu biết về cái
chung, chúng ta có thể sẽ gặp khó khăn và mắc sai lầm khi đối mặt với từng tình huống
cụ thể riêng biệt. Vậy nên, để hiểu rõ được bản chất của cái chung, chúng ta cần nghiên
cứu và tìm hiểu kỹ về những đặc điểm riêng của từng trường hợp, bởi vì cái chung
không tồn tại độc lập mà dược xây dựng từ những tình huống cụ thể riêng biệt.

Thứ hai, cái chung đại diện cho bản chất sâu thẩm, chi phối mọi cái riêng,
chúng ta cần có khả năng nhận diện cái chung và áp dụng nó để tạo ra cái riêng. Từ
điều này, ta rút ra kết luận rằng mỗi cái chung khi được áp dụng vào từng trường hợp
riêng cũng cần phải được tùy chỉnh riêng biệt. Trong việc áp dụng các nguyên lý của
chủ nghĩa Mác-Lênin vào quá trình nhận thức và thực tiễn, nếu không tập trung vào sự
tùy chỉnh đó mà cứng nhắc áp dụng nguyên tắc tổng quát, tuyệt đối hóa cái chung, sẽ
dẫn đến việc sai lầm và giả mạo. Ngược lại, nếu lơ là, xem thường cái chung, tập trung
một cách tuyệt đối vào cái riêng, cái duy nhất, sẽ gây ra các vấn đề về cảm tính, ý
muốn, và lấy kinh nghiệm cá nhân làm chủ.

Thứ ba, cái đơn nhất, cái chung có thể chuyển đổi lẫn nhau trong quá trình phát
triển của sự vật, hiện tượng nên trong hoạt động thực tiễn cần phải tạo thuận lợi để
“cái chung “bất lợi biến thành “cái đơn nhất” và “cái đơn nhất” có lợi sẽ biến thành
“cái chung” có lợi cho con người. Phương pháp tối ưu nhất để thực hiện điều này là
thông qua quá trình học tập và nghiên cứu của con người. Đầu tiên con người cần nắm
vững kiến thức cơ bản và cái riêng trong từng lĩnh vực hoặc vần đề cụ thể trước. Sau
khi họ hiểu sâu về “cái đơn nhất” trong một lĩnh vực, họ có thể áp dụng kiến thức đó
để hiểu rõ hơn về “cái chung” và áp dụng nó vào các tình huống cụ thể. Hơn thế nữa,
trong đời sống hằng ngày, chúng ta cần áp dụng nguyên tắc này. Chúng ta nên cố gắng
tìm hiểu các khía cạnh đặc thù thay vì chỉ tập chung vào cái chung nào đó. Bằng cách
làm này, chúng ta có thể tận dụng lợi thế của “cái đơn nhất” để tạo ra “cái chung” có
lợi cho bản than và xã hội.
V.I. Lênin đã từng viết: “Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi
giải quyết vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi những

9
vấp váp những vấn đề chung một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những
vấn đề đó trong từng trường hợp riêng có nghĩa là đưa ra những chính sách của mình
đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất đi hẳn tính nguyên tắc.” 2Trích dẫn
này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề chung trước khi xem xét các
vấn đề riêng biệt khác. V.I. Lênin cho rằng việc xem xét và giải quyết các vấn đề
chung trước đây giúp xây dựng một cơ sở cho việc đánh giá và quản lý các vấn để
riêng biệt. Điều này giúp dẳm bảo các quyết định được đưa ra dựa trên những nguyên
tắc và mục tiêu tổng quát, thay vì dựa vào phản ứng ngẫu nhiên và hành động cụ thể.

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG – CÁI RIÊNG
TRONG TRONG VIỆC TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG LÀM VIỆC NHÓM CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA - ĐẠI HỌC QUỐC GIA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
2.1 Khái quát về trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh
Trường Đại học Bách khoa là trường đại học đầu ngành về lĩnh vực kỹ thuật
ở miền Nam Việt Nam được thành lập năm 1957 và đã trải qua một quá trình phát
triển đáng kể trong suốt hơn nửa thế kỷ, có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt
Nam. Trường Đại học Bách khoa được xem là một trong những trường đại học lớn và
danh giá nhất Việt Nam về kỹ thuật, trực thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh và được xếp vào nhóm các đại học trọng điểm quốc gia, tập trung mạnh mẽ vào
cung cấp giáo dục chất lượng và thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội.

Về cơ sở vật chất và hạ tầng

Vị trí địa lý của Đại Học Bách Khoa tại trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh và
một cơ sở ở Dĩ An, Bình Dương là một ưu điểm lớn, giúp tiếp cận dễ dàng cho sinh
viên và giảng viên. Trường với sự đầu tư liên tục và sự chú trọng đến việc duy trì và
phát triển, Đại Học Bách Khoa đã xây dựng một môi trường học tập và nghiên cứu
hiện đại và tiện nghi. Trường có một khuôn viên rộng lớn và với hơn 30 tòa nhà giảng
đường và hơn 100 phòng thí nghiệm. Các tòa nhà này được thiết kế để phù hợp với các

2
V. I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.

10
ngành học và nhu cầu cụ thể của giảng viên và sinh viên. Những nơi này cung cấp
không gian lý tưởng để tổ chức các buổi học, bài giảng, và thực hành, đồng thời tạo
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu và thảo luận.

Ngoài ra, Đại Học Bách Khoa còn có một thư viện lớn là một nguồn tài liệu vô
giá cho cả giảng viên và sinh viên. Với hơn 2 triệu sách và tài liệu nghiên cứu, nó là
một trong những thư viện lớn nhất tại Việt Nam. Thư viện được trang bị hệ thống máy
tính hiện đại và các phòng đọc đẹp mắt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập và
nghiên cứu. Sinh viên có thể dễ dàng tiếp cận các tài liệu quý báu và tìm kiếm thông
tin cần thiết cho dự án nghiên cứu của họ.

Về hợp tác quốc tế

Đại học Bách Khoa không ngừng mở rộng hợp tác quốc tế với các trường đại
học và tổ chức nghiên cứu trên toàn thế giới. Hiện nay, trường đã thiết lập quan hệ hợp
tác với hơn 150 đối tác quốc tế và thường xuyên tổ chức các chương trình trao đổi sinh
viên và giảng viên. Năm 2021, trường đã tiếp nhận hơn 500 sinh viên quốc tế đến học
tập tại ĐHBK, tạo nên môi trường đa dạng và quốc tế cho cộng đồng sinh viên.

Về chất lượng giảng dạy

Đại học Bách Khoa luôn tự hào về chất lượng giảng dạy tại trường, và sự phong
phú và đa dạng của đội ngũ giảng viên là một yếu tố quan trọng đó. Trong năm 2021,
trường đã có hơn 2.500 giảng viên phục vụ cho cộng đồng 40.000 sinh viên. 70%
trong số các giảng viên này đã đạt bằng tiến sĩ hoặc thạc sĩ và một số lượng đáng kể đã
nhận đào tạo tại các trường đại học và viện nghiên cứu hàng đầu trên thế giới.

Sự quốc tế hóa của đội ngũ giảng viên là một đặc điểm khá ấn tượng. Sự đa
dạng trong đội ngũ giảng viên và khả năng tiếp cận kiến thức toàn cầu làm nổi bật sự
ưu việt trong chất lượng giảng dạy. Bên cạnh đó, trường luôn tập trung vào việc áp
dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại, kết hợp giữa việc sử dụng công nghệ trong
giảng dạy và tạo điều kiện cho học tập thực hành. Đồng thời trường cũng thúc đẩy, tạo
điều kiện cho sinh viên làm việc nhóm nhằm phát triển các kỹ năng mềm, quản lý thời
gian và học hỏi từ nhau.

2.2 Hoạt động làm việc nhóm của sinh viên

11
Làm việc nhóm là quá trình mà một nhóm người, có mục tiêu chung, cộng tác
với nhau để đạt được kết quả hoặc mục tiêu cụ thể. Trong quá trình này, các thành viên
thường chia sẻ kiến thức, tài nguyên, nhiệm vụ và hợp tác để hoàn thành công việc
một cách hiệu quả. Điều này đòi hỏi sự tương tác, giao tiếp và sáng tạo để giải quyết
các vấn đề và thúc đẩy tiến bộ. Làm việc nhóm là một khía cạnh quan trọng trong cuộc
sống xã hội, giáo dục và nền kinh tế, và nó đòi hỏi các kỹ năng như lắng nghe, tư duy
nhóm, và khả năng thích nghi.

Trong khi làm việc nhóm, những mâu thuẫn sẽ nảy sinh cần phải giải quyết
“xung đột”. Từ đó, họ sẽ có khả năng giải quyết những mâu thuẫn, thuyết phục người
khác trong những hoàn cảnh có thể bắt gặp trong cuộc sống sau này. Tinh thần học hỏi
và khả năng lắng nghe người khác cũng sẽ là điều mà sinh viên sẽ học hỏi được.
Những kĩ năng này là rất quan trọng khi các bạn bước ra môi trường làm việc và đây
sẽ là tiền đề tốt để biết cách làm việc trong một môi trường tập thể. Làm việc, thảo
luận theo nhóm không chỉ đơn thuần là do yêu cầu của giảng viên đề ra cho sinh viên
mà quan trọng hơn nó còn là cách học tập, nghiên cứu của họ. Học tập nhóm sẽ tập
hợp được những ý kiến sáng tạo của từng cá nhân, từ đó sản phẩm học tập sẽ giàu tính
sáng tạo. Những phương pháp tối ưu nhất sẽ được lựa chọn từ những ý kiến được nêu
ra. Sản phẩm học tập lúc này cũng sẽ là kết quả của tất cả các thành viên.

Với sinh viên, học tập theo nhóm là một trong các phương pháp học tập hiệu quả
để qua đó rèn cho mình khả năng hợp tác, chia sẻ, bồi dưỡng, phát triển tư duy, nâng
cao trình độ tri thức. Học theo nhóm có rất nhiều lợi ích, như giúp rèn luyện và phát
triển kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, tạo điều kiện cho các thành viên học hỏi lẫn
nhau, phát huy vai trò trách nhiệm, tính tích cực xã hội trên cơ sở làm việc hợp
tác.Nhưng tóm chung lại, làm việc nhóm theo nhóm tác giả được phân loại thành ba loại
chính dựa trên mức độ hoàn thành công việc, hợp tác giữa các thành viên và mục đích
bao gồm: làm việc nhóm phối hợp, làm việc nhóm tự quản lý, làm việc nhóm sáng tạo.

Làm việc nhóm phối hợp là việc các thành viên trong nhóm cùng nhau giải
quyết một vấn đề chung để cùng đoạt được mục đích cuối cùng. Hình thức này thường
thúc đẩy mọi người trong nhóm phối hợp với nhau cùng nhau nghiên cứu, cùng thảo
luận và trình bày. Làm việc nhóm phối hợp giúp sinh viên phát triển khả năng làm việc
cùng nhau, học hỏi từ nhau và thúc đẩy tư duy sáng tạo trong giải quyết vấn đề.

12
Trái lại, làm việc nhóm tự quản lý là hình thức các thành viên trong nhóm tự
quản lý và tự tổ chức công việc được giao. Khi một dự án được giao xuống, các thành
viên sẽ ngồi cùng nhau phân chia công việc theo khả năng của từng thành viên và phân
chia thời gian hoàn thành. Sau đó, các thành viên tổng hợp lại các phần mình đã làm
để tạo thành một bài báo cáo hoàn chỉnh. Làm việc nhóm tự quản lý thúc đẩy trách
nhiệm cá nhân và quản lý thời gian. Hình thức này thường được bắt gặp tại các dự án
cần sự tập trung mạnh mẽ hoặc các dự án đã được phân chia rõ ràng.

Ngoài ra, còn có một hình thức làm việc nhóm khá phổ biến hiện nay là làm
việc nhóm sáng tạo, là một phương pháp tập trung vào sự tạo ra, đổi mới và phát triển
ý tưởng, sản phẩm hoặc giải pháp một cách sáng tạo. Hình thức này thường gặp tại các
dự án không rõ ràng, yêu cầu sinh viên tự suy nghĩ đề tài hoặc trong việc nghiên cứu
phát triển sản phẩm mới. Hình thức này còn được thấy tại các hoạt động ngoại khóa
của sinh viên như hoạt động xã hội và từ thiện hoặc trong các cuộc thi sáng tạo. Đây là
hình thức hoạt động nhóm yêu cầu nhiều chất xám và giải quyết các vấn đề phức tạp.

Vai trò và lợi ích của làm việc

Thông qua hoạt động nhóm, các thành viên có thể cùng làm việc với nhau, chia
sẻ những công việc mà chắc chắn một thành viên không thể tự làm được trong một
thời gian nhất định. Không những thế, học nhóm còn thắt chặt tình bạn giữa các thành
viên với nhau, củng cố và mở rộng kiến thức đã được học và vận dụng chúng trong
quá trình thi - kiểm tra đạt kết quả cao. Học nhóm phát huy khả năng tư duy, trí tuệ
của từng cá nhân và cả nhóm, giúp lĩnh hội và giải quyết các vấn đề học tập một cách
nhanh chóng và hiệu quả. Quá trình học nhóm giúp học sinh có điều kiện nắm kiến
thức chắc hơn, lâu hơn và đây là cơ hội học hỏi các phương pháp, kinh nghiệm học
tập, phương pháp ghi nhớ kiến thức, phương pháp trả lời, làm bài thi của các thành
viên khác trong nhóm, từ đó nâng cao chất lượng học tập và thi – kiểm tra của mình.

Học tập trong môi trường nhóm sẽ thúc đẩy sự tích cực học tập của cá nhân, tạo
sự gắn kết trong một cộng đồng. Tinh thần học hỏi và khả năng lắng nghe người khác
cũng sẽ là điều mà học sinh sẽ học hỏi được. Những phương pháp tối ưu nhất sẽ được
lựa chọn từ những ý kiến được nêu ra. Sản phẩm học tập lúc này cũng sẽ là kết quả của
tất cả các thành viên.

13
2.3 Đánh giá hoạt động làm việc nhóm của sinh viên trường Đại học Bách khoa -
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

2.3.1 Những kết quả đạt được trong quá trình làm việc nhóm của sinh viên
trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Tại trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, có rất
nhiều môn học từ các môn đại cương đến các môn chuyên ngành, và cũng có những
hoạt động do khoa và nhà trường tổ chức, đều yêu cầu làm việc nhóm. Thông qua quá
trình làm việc nhóm, sinh viên không những giúp sinh viên có cơ hội để trau dồi thêm
những kĩ năng khi tham gia vào một công việc nhóm, mà còn gặt hái được nhiều kết quả
mang tính thực tiễn trong việc nghiên cứu về các lĩnh vực mang tính học thuật.

Thứ nhất, quá trình làm việc nhóm giúp tăng hiệu suất làm việc.

Để thành lập một nhóm - ‘cái chung’, chúng ta cần tập hợp các thành viên, mỗi
thành viên đại diện cho một ‘cái riêng’, và họ có những đặc điểm về tính cách, mục
tiêu, lối tư duy, hệ giá trị… được xem như các các ‘mặt’, các ‘bộ phận’ của ‘cái riêng’
ấy. Trong các mặt đó, sẽ có những mặt tương đồng nhau, và những mặt khác biệt với
nhau. Những cái tương đồng ấy được xem là ‘cái chung’ cơ bản trong một nhóm,
chẳng hạn như các thành viên đều phải làm một công việc lớn, hoàn thành một mục
tiêu xác định,… Còn những cái khác nhau, như: tính cách cá nhân, suy nghĩ, ý tưởng,
ưu điểm, khuyết điểm... là những ‘cái đơn nhất’ của các thành viên. Một nhóm có thể
ứng dụng những ‘cái chung’, ‘cái đơn nhất’ đó vào trong quá trình phân chia công
việc, giúp nâng cao hiệu suất làm việc. Cụ thể như: công việc được phân chia thành
các công việc nhỏ hơn, và các thành viên có thể bàn bạc với nhau để chọn lựa phần
nào phù hợp với bản thân dựa trên khả năng, kinh nghiệm và điểm mạnh của bản thân.
Điều này sẽ giúp hạn chế những khó khăn mà các thành viên trong nhóm có thể gặp
phải khi giải quyết công việc. Và khi những khó khăn đã được giảm bớt đến mức tiệm
cận với tối thiểu, thì các thành viên có thể hỗ trợ lẫn nhau trong việc tìm ra giải pháp
phù hợp nhất cho những vấn đề khó còn tồn đọng lại. Không những thế, chính nhờ
những ‘cái đơn nhất’ mà các thành viên sẽ có thể chia sẻ với nhau, tạo nên sự đa dạng
trong việc tìm nguồn cảm hứng và những ý tưởng mới mẻ, cũng như mang đến góc
14
nhìn đa chiều đối với dự án lớn chung. Chính những yếu tố này sẽ giúp hiệu suất công
việc cao hơn, công việc có khối lượng lớn được hoàn thành trong thời gian ngắn hơn
và kết quả đạt được cũng có chất lượng tốt hơn.

Thứ hai, quá trình làm việc nhóm giúp mỗi thành viên cải thiện, rèn luyện kỹ năng mềm.

Mỗi thành viên có những kỹ năng, kinh nghiệm khác nhau. Những kỹ năng nào
thật sự tốt, hiệu quả thì mọi thành viên có thể học hỏi theo đó và cải thiện chính bản
thân mình. Một số kỹ năng chúng ta có thể học được thông qua quá trình làm việc nhóm
như: Kỹ năng giao tiếp: Trong quá trình làm việc nhóm tại trường Đại học Bách Khoa,
các thành viên có thể đến từ nhiều khoa và nhiều khóa, có nghĩa rằng sẽ có rất nhiều
quan điểm, góc nhìn khác nhau. Vì vậy, để quan điểm của mình không bị hiểu sai, lệch
lạc thì chúng ta cần có được kỹ năng giao tiếp, trình bày tường minh và mạch lạc. Điều
này được chúng ta học hỏi từ các thành viên thông qua các buổi họp và hoạt động nhóm;
Kỹ năng sắp xếp công việc: Khi làm việc nhóm, mỗi thành viên đều phải hoàn thành
công việc của mình trước thời hạn đã được đặt ra. Nếu không, không chỉ kết quả công
việc của bản thân mà hiệu suất làm việc của nhóm cũng bị ảnh hưởng. Điều này đã thúc
đẩy mỗi thành viên phải biết sắp xếp thời gian của bản thân một cách hợp lí, đảm bảo
bản thân có thể cân bằng giữa các công việc với nhau; Kỹ năng tư duy phản biện: Quá
trình làm việc nhóm luôn có những cuộc họp định kỳ. Mỗi thành viên cần có kỹ năng tư
duy phản biện để có thể bảo vệ được suy nghĩ hai chiều khi tiếp nhận những quan điểm
khác. Qua đó, ta có thể xem xét tất cả các mặt của vấn đề và phân tích được các điểm tốt
- điểm xấu; Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn: Làm việc nhóm bắt buộc mọi thành viên
phải nêu lên quan điểm của bản thân, trao đổi công việc với nhau, khó tránh khỏi những
bất đồng về quan điểm, phương thức, ý tưởng. Từ tình huống mâu thuẫn đó, mọi người
sẽ học được cách giải quyết sao cho ổn thỏa và hài lòng nhất. Xây dựng được kỹ năng
giải quyết mâu thuẫn là một điều rất có ích cho tương lai. Khi tham gia vào quá trình
làm việc nhóm, không phải thành viên nào cũng có thể trang bị sẵn cho mình những kỹ
năng mềm cần thiết. Mỗi thành viên sẽ có cho mình những kỹ năng nổi trội – như kỹ
năng tư duy phản biện hoặc kỹ năng sắp xếp công việc... - ‘cái đơn nhất’ của mỗi người.
Và thông qua quá trình làm việc nhóm, kỹ năng nào hay, cần thiết thì mỗi thành viên có
thể học hỏi kỹ năng đó, từ đó ‘cái đơn nhất’ trở thành ‘cái chung’. Đây là mối quan hệ
chuyển hóa lẫn nhau của cái chung và cái đơn nhất.

15
Thứ ba, việc hoạt động nhóm được đẩy mạnh trong trường Đại học Bách Khoa, Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp nhà trường và sinh viên gặt hái được
vô vàn kết quả trong thực tiễn.

Việc ứng dụng phương pháp làm việc nhóm vào trong các môn học đã giúp các
sinh viên có cơ hội trau dồi và học hỏi được những kiến thức và kĩ năng vô cùng quan
trọng trong công việc tương lai, không chỉ thể, còn giúp sinh viên và nhà trường đạt
được nhiều thành quả trong các lĩnh vực học thuật và ứng dụng vào thực tiễn, cụ thể
như:
Trong năm 2021, nhóm ba sinh viên Kỹ thuật Hóa học đã đạt được giải nhất Giải
thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học - EURÉKA lần thứ 23 với đề tài: Chế tạo bộ
phản ứng xúc tác dehydrate tạo etylene định hướng sử dụng trong xử lý chín trái cây -
Lĩnh vực Công nghệ thực phẩm.
Nhóm nghiên cứu BK Hand Rehab cùng dự án Hand Rehab đã vinh dự nhận
được giải nhất cuộc thi Sáng kiến vì cộng đồng 2023 do tổ chức phi lợi nhuận SonTa
Foundation tổ chức. Hand Rehab là một trò chơi điện tử giúp phục hồi chức năng tay,
đã ứng dụng trí tuệ nhâm tạo (AI) để mang lại một phương pháp vật lý trị liệu đầy thú
vị và tiết kiệm ngay tại nhà.
Nhóm sinh viên, học viên cao học khoa Công nghệ Vật liệu, Trường Đại học
Bách khoa đã lọt vào vòng chung kết “Tech Planter Việt Nam 2023” và xuất sắc đạt
giải thưởng công nghiệp Kanomori với chủ đề “Vật liệu sinh thái cho ứng dụng môi
trường: tận dụng kính thải quang điện như vật liệu hữu ích”.

2.3.2 Những hạn chế nhất định trong quá trình làm việc nhóm của sinh viên
trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Thứ nhất, những thành viên trong nhóm không có sự tín nhiệm, thiếu sự kết nối.

Thiết lập niềm tin cơ bản giữa các thành viên là một điều rất quan trọng, có sự
tín nhiệm với nhau thì cả nhóm mới có thể làm việc tốt được. Nhưng tại trường Đại
học Bách Khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, có một số môn học đại
cương (như Vật Lý, Giải Tích,...) sẽ học và phân nhóm ngẫu nhiên. Mỗi lớp học đó sẽ
bao gồm nhiều khoa, nhiều khóa sinh viên khác nhau. Việc này dẫn đến sự khó khăn
16
trong giao tiếp, thiếu sự kết nối và không có sự tin tưởng lẫn nhau. Cái chung chỉ tồn
tại trong cái riêng, không tách rời cái riêng, cũng như cái riêng chỉ tồn tại trong mối
quan hệ với cái chung, không có cái riêng tách rời cái chung. Vì lẽ đó, khi thiết lập
một nhóm làm bài tập lớn - ‘cái chung’ - nhưng lại không có sự kết nối với các thành
viên - ‘cái riêng’ - sẽ dễ gặp phải những khó khăn như: Chính vì thiếu sự tin tưởng vào
nhau khiến mọi người có xu hướng cá nhân hóa công việc, không quan tâm đến các
thành viên khác mà chỉ tập trung làm xong phần của mình, không hỏi ý kiến của nhóm
vì không tin tưởng. Đây đồng thời cũng chính là biểu hiện của việc tuyệt đối hóa ‘cái
riêng’, tách rời ‘cái chung’. Bên cạnh đó, sự kết nối trong nhóm được đánh giá dựa
trên mức độ hòa hợp, sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau của từng thành viên. Thiếu
những điều này, nhóm sẽ trở nên rời rạc và làm việc không hiệu quả. Việc thiếu sự kết
nối gây nên tình trạng khó khăn khi thống nhất ý kiến của tất cả thành viên, chúng ta
không thể làm một công việc nhóm – xây dựng ‘cái chung’ – mà không thông qua các
thành viên – những ‘cái riêng’. Những vấn đề ấy sẽ khiến quá trình làm việc nhóm trở
nên trì trệ. Không khí làm nhóm căng thẳng ảnh hưởng tới kết quả làm việc của cả
nhóm.

Thứ hai, một số thành viên trong nhóm làm việc với thái độ thụ động, mang tư tưởng ỉ
lại vào tập thể.

Trong một nhóm sẽ có những thành viên hoạt động tích cực, sôi nổi, luôn hết
mình với công việc được giao, đôi khi là gánh vác gần hết các công việc của nhóm. Và
bên cạnh đó sẽ có những thành viên khác luôn làm việc với tư tưởng ỉ lại tập thể, đùn
đẩy trách nhiệm, công việc cho người khác. Những biểu hiện của vấn đề này tiêu biểu
như: Có những thành viên thường xuyên đùn đẩy trách nhiệm cho người khác cũng
như trốn tránh những trách nhiệm thuộc về bản thân. Trong quá trình làm việc nhóm,
một số cá nhân sẽ mang tâm lý ‘đó là việc của người khác chứ không phải việc của
mình’ và cố gắng đùn đẩy trách nhiệm cho những thành viên hoạt động tích cực và
chăm chỉ. Khi có vấn đề xảy ra, mọi người sẽ rơi vào những cuộc tranh cãi và hành vi
trốn tránh trách nhiệm khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn. Những điều này sẽ khiến cho
những thành viên làm việc chăm chỉ cảm thấy bất bình, dần dà sẽ gây nên những mâu
thuẫn và bất đồng không đáng có; Bên cạnh đó, những thành viên làm việc thụ động sẽ
không đưa ra ý kiến bản thân: Làm việc nhóm không phải ai cũng năng nổ, sáng tạo.

17
Thực tế là có nhiều thành viên làm việc một cách rất thụ động, máy móc, chỉ làm để
hoàn thành chứ không có sự cố gắng để làm tốt hơn. Trong những buổi họp, những
thành viên này không nêu ra ý kiến bản thân, không chủ động phát biểu. Làm việc
nhóm như vậy khiến mất nhiều thời gian, hiệu quả kém và cũng khiến mọi người chán
nản. Đồng thời, việc hời hợt với những cuộc bàn luận trong nhóm cũng khiến cho
thành viên tự đánh mất đi tiếng nói và cơ hội đóng góp cho nhóm, sau cùng sẽ làm mất
đi giá trị của bản thân đối với thành quả đạt được; Những vấn đề trên có thể tóm gọn
lại rằng nhiều thành viên mang theo tâm lý ‘có người gánh’. Đây là vấn đề thường
thấy nhất trong quá trình làm việc nhóm. Không phải do tự ti, không có năng lực hay
kỹ năng, những cá nhân suy nghĩ như vậy chỉ đơn giản không quan tâm đến làm việc
nhóm, không muốn đóng góp gì, không quan tâm kết quả đạt được sẽ như thế nào,
thậm chí có những thành viên còn mang suy nghĩ không cần làm bất cứ công việc nào
thì vẫn sẽ có tên trong kết quả làm việc. Điều này gây ra nhiều bất công cho các thành
viên khác, đồng thời cũng tạo ra những mâu thuẫn trong nội bộ nhóm, ảnh hưởng
nghiêm trọng tới thành quả làm việc.

Thứ ba, xung đột và mâu thuẫn trong khi làm việc nhóm giữa các thành viên.

Chắc chắn rằng làm việc nhóm sẽ khó có thể tránh những xung đột, mâu thuẫn
khác nhau. Vì cơ bản mỗi thành viên đều là một ‘cái riêng’, đều có cá tính riêng, quan
điểm và ý kiến khác nhau nên việc thống nhất được cả nhóm sẽ gặp nhiều khó khăn.
Một số lý do dẫn đến xung đột tiêu biểu như: Bất đồng quan điểm: Việc các thành viên
có những quan điểm khác nhau chính là lý do chủ yếu của các cuộc xung đột, mâu
thuẫn. Một nhóm tập hợp nhiều cá nhân khác nhau – những ‘cái riêng’ nên sẽ có
những suy nghĩ, ý tưởng khác nhau, những cái đó có thể là ‘cái chung’ khi cùng ý kiến
với các thành viên khác và cũng có thể là ‘cái đơn nhất’ khi không trùng với bất kỳ ai.
Bất đồng quan điểm khi thảo luận nhóm là một điều bình thường, nó giúp quá trình
làm việc nhóm trở nên sôi nổi, sáng tạo hơn. Tuy nhiên, khi mọi người không dành
cho nhau những sự tôn trọng tối thiểu và lắng nghe ý kiến của nhau, chỉ khăng khăng
với ý tưởng của bản thân thì mọi chuyện sẽ trở nên tiêu cực, dễ dàng hình thành xung
đột. Không những thế, một lý do khác dẫn đến mâu thuẫn là có những thành viên
không tuân thủ đúng hạn công việc: Trong quá trình làm việc nhóm, mỗi thành viên –
‘cái riêng’ đều phải tuân thủ theo kế hoạch thời gian, cũng như công việc đã được

18
thống nhất khi làm việc nhóm – ‘cái chung’. Nhưng một số thành viên trong nhóm
không có khả năng sắp xếp thời gian biểu hợp lý sẽ không thể bắt kịp tiến độ chung
của nhóm, gây chậm trễ công việc. Chính những điều này sẽ gây ra những khó khăn
không đang có, những xung đột giữa các thành viên vì không tìm được tiếng nói
chung. Hậu quả của những bất đồng này là trạng thái làm việc của nhóm luôn căng
thẳng, đồng thời, việc tranh cãi thường xuyên cũng gây mất đoàn kết. Sau cùng, chất
lượng công việc sẽ bị ảnh hưởng theo hướng giảm sút.

Tóm lại, làm việc nhóm về bản chất vẫn là sự phối hợp giữa những thành viên
với nhiều sự khác biệt, điều này đem lại sự đa dạng trong ý tưởng cũng như góc nhìn
và cách giải quyết vấn đề chung. Tuy nhiên, chính những điều khác biệt ấy cũng khiến
cho quá trình làm việc nhóm gặp phải những hạn chế và khiến cho chất lượng và hiệu
suất làm việc cũng như thành quả cuối cùng bị giảm. Từ đó, ta cần phải tìm hiểu về
những giải pháp có thể khắc phục những hạn chế này để có thể giúp cho kết quả đạt
được là thành quả tốt nhất.

2.4 Đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế trong quá trình làm việc nhóm của sinh
viên trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Thứ nhất, trong quá trình làm việc, nhóm cần tổ chức những buổi họp, trao đổi ý kiến
với nhau để xây dựng lòng tin.

Vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với cái chung, không tồn tại ở bên ngoài mối liên
hệ dẫn tới cái chung cho nên để giải quyết cái riêng cũng phải gắn với cái chung. Mỗi
thành viên là một ‘cái riêng’ nên phải xác định được bản thân đang ở trong một nhóm -
‘cái chung’, phải biết tin tưởng các thành viên khác, xác định và đề cao mục tiêu
chung của nhóm chứ không phải cá nhân. Việc tổ chức các buổi họp, trao đổi sẽ gắn
kết được các thành viên với nhau. Mỗi thành viên phải giao tiếp với nhau thì mới có
thể thống nhất được mục tiêu chung, tìm hiểu được điểm mạnh - điểm yếu riêng của
từng người, từ đó xây dựng được niềm tin. Bên cạnh đó, khi trao đổi, bàn luận ý kiến
thì mỗi thành viên cũng cần tôn trọng lẫn nhau, đưa ra ý kiến, bảo vệ ý kiến của mình
chứ không phủ nhận thành viên khác. Tránh tuyệt đối hóa cái riêng mà coi thường cái
chung, tránh chủ nghĩa cá nhân cực đoan.

19
Thứ hai, nhóm cần xác định được nhiệm vụ và phân chia công việc rõ ràng, có biện
pháp cảnh cáo khi thành viên không làm nhiệm vụ.

Mục tiêu cuối cùng của làm việc nhóm không đơn giản là hoàn thành công việc,
mà làm nhóm phải hoàn thành công việc nhanh hơn, xuất sắc hơn, hiệu quả cao hơn.
Để đạt được mục tiêu này thì các thành viên phải làm việc theo một hướng, hợp tác với
nhau. Vậy điều cần thiết trước tiên để định rõ con đường làm việc thì mỗi thành viên
đều phải biết mục tiêu chung – ‘cái chung’ ở đây là gì, đồng thời cũng hiểu được
nhiệm vụ của chính mình và nhiệm vụ của các thành viên còn lại là gì. Vì ‘cái chung’
chỉ tồn tại trong ‘cái riêng’, thông qua ‘cái riêng’ nên để xây dựng được một kế hoạch
phân chia công việc (cái chung) hợp lí thì ta cần khảo sát thời gian biểu, điểm mạnh,
điểm yếu, chuyên môn,... của từng thành viên (mỗi thành viên là một ‘cái riêng’). Việc
chia công việc một cách hợp lí, vừa phải rất quan trọng, trách trường hợp phân chia
không rõ ràng khiến các thành viên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Phân chia công
việc phải đảm bảo được tính công bằng, yêu cầu mọi thành viên nghiêm túc thực hiện,
và nếu công việc đã phân chia không được hoàn thành đúng thì thành viên đó sẽ phải
chịu trách nhiệm nhất định. Để cho các thành viên có thể tôn trọng nhóm, tuân thủ
đúng hạn công việc thì nhóm cũng cần bàn luận với nhau, thống nhất với nhau các yêu
cầu khi làm nhóm và biện pháp xử lý như thế nào khi có thành viên không nghiêm túc,
ỉ lại. Ví dụ nhóm cần đặt ra: Các thành viên phải nghiêm túc hoàn thành công việc
đúng thời hạn, có họp báo cáo tiến độ; các thành viên có thể hỗ trợ nhau một phần
nhưng phải biết cứng rắn từ chối không làm hết phần công việc không phải của mình;
không che đậy cho những thành viên ỉ lại, lười biếng; nếu thành viên đó có thái độ
không hợp tác với nhóm, không hoàn thành công việc thì trong tùy trường hợp, có thể:
nói chuyện riêng với thành viên đó, đánh giá xấu trong báo cáo, tệ nhất thì có thể liên
hệ giảng viên xin phép xóa thành viên đó khỏi nhóm.
Thứ ba, khi xảy ra xung đột và mâu thuẫn, nhóm cần bình tĩnh tìm cách giải quyết, tổ
chức một buổi nói chuyện hòa giải.
Có nhiều nguyên do dẫn đến mâu thuẫn nên điều đầu tiên chúng là cần làm là tổ
chức một buổi họp mặt tất cả thành viên, tìm ra nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn. Nếu
là xung đột giữa hai thành viên thì cần nhóm trưởng đứng ra hòa giải, còn nếu xung
đột giữa tất cả mọi người thì mỗi người đều cần nói ra suy nghĩ của mình khi hoạt
động nhóm, điều gì làm bản thân bất bình, khó chịu, gây mâu thuẫn trong nhóm, từ đó
20
mọi người có thể thấu hiểu nhau hơn và đưa ra biện pháp giải quyết. Nếu nguyên nhân
chính của xung đột là bất đồng quan điểm thì mọi người cần phải tôn trọng ý kiến của
nhau, không phủ nhận người khác. Vận dụng mối quan hệ chuyển hóa ‘cái chung’ và
‘cái đơn nhất’, chúng ta cần tạo cơ hội để những ý tưởng, quan điểm - ‘cái đơn nhất’
hay, tiến bộ hơn thành ý tưởng chung để áp dụng cho cả nhóm - ‘cái chung’. Mỗi
thành viên phải biết lắng nghe mọi người, biết phân tích điểm mạnh - điểm yếu của
từng ý tưởng. Đồng thời mỗi thành viên cũng cần phải hiểu được mục tiêu chung của
công việc và luôn xem xét lợi ích chung và riêng cùng lúc. Và sau khi giải quyết được
mâu thuẫn, các thành viên nên cởi mở với nhau hơn để làm dịu không khí và củng cố
được nhóm sau mâu thuẫn.
III. KẾT LUẬN
Trong quá trình tiếp nhận tri thức, chúng ta luôn cố gắng tìm hiểu sâu hơn về
những thuộc tính và mối liên hệ chung của các đối tượng vật chất, đó là không gian,
thời gian, đó là tính quy luật, tất yếu, ngẫu nhiên, đó là tính giống nhau, khác nhau,
mâu thuẫn,... Và các khái niệm phản ánh chúng chính là những phạm trù triết học. Các
nhà kinh điển triết học Mác - Lênin đã xem xét các phạm trù như một lăng kính phản
ánh về hiện thực một cách phổ biến, đồng thời cũng chính là những bước phát triển
của tiếp nhận tri thức xã hội và thực tiễn. Cụ thể, trong bài tiểu luận này, ta đã tìm hiểu
về cặp phạm trù cái chung và cái riêng, đồng thời là việc vận dụng nó để giải quyết các
vấn đề hoạt động nhóm của sinh viên trường Đại học Bách khoa, ĐHQG TPHCM.
Qua đó, ta đã thấy được rằng nhóm và các thành viên trong nhóm là những đối tượng
tồn tại và liên hệ không tách rời nhau, sẽ không bao giờ tồn tại một nhóm mà không có
những thành viên trong nhóm. Đồng thời, từng thành viên cũng chính là thể thống nhất
giữa cá tính riêng của bản thân và những mục tiêu, quy chuẩn chung của cả nhóm. Bên
cạnh đó, những đặc điểm là cái chung của cả nhóm thể hiện tính ổn định và sâu sắc
hơn so với những thuộc tính của từng thành viên. Mặt khác, khi nói đến những mục
tiêu, phương thức chung của cả nhóm thì đó vẫn là biểu hiện của cái chung đã được cá
biệt hóa, vậy nên tùy trường hợp cụ thể, cần phải thay đổi hình thức, phải cá biệt hóa
cho phù hợp với đặc điểm của từng nhóm. Không những thế, trong khi làm việc nhóm,
ta cần vận dụng quy luật chuyển hóa qua lại giữa cái chung và cái đơn nhất, tạo điều
kiện thuận lợi cho những cá tính tích cực riêng biệt của từng cá nhân để có thể chuyển
hóa thành đặc điểm chung của cả nhóm, và ngược lại, những đặc điểm chung chưa tốt

21
của cả nhóm sẽ là những cái cần phải vứt bỏ, dần sẽ trở thành ‘cái đơn nhất’. Sau
cùng, dựa trên những kiến thức đã tìm hiểu được, ta sẽ có thể nhận thấy được những
thành quả và hạn chế, đồng thời cũng tìm ra những giải pháp khắc phục những hạn chế
mà nhóm gặp phải trong quá trình hoạt động, để từ đó nâng cao hiệu quả làm việc và
chất lượng của kết quả nhận được.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ giáo dục & đào tạo (2021), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội
2. V. I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
3. Bộ giáo dục & đào tạo (2018), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ
nghĩa Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
4. PGS. Nguyễn Bằng Tường (2009), Giới thiệu tác phẩm "Bút ký triết học" của
V.I. Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

22

You might also like