You are on page 1of 7

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật là tập hợp những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành và đảm
bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là nhân tố điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát triển phù hợp mục đích, định hướng nhà nước. Đối với
xã hội, pháp luật có vai trò giải quyết các mâu thuẫn, bảo đảm an toàn, bảo vệ
quyền con người, đảm bảo dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội
đồng thời điều tiết và định hướng sự phát triền của quan hệ xã hội. Đối với nhà
nước, pháp luật là cơ sở pháp lý vững chắc cho sự tồn tại của nhà nước, là công
cụ kiểm sát quyền lực và để nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống xã hội.
Như vậy có thể thấy pháp luật có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của
đất nước, xã hội.
Theo thống kê của Bộ Công an năm 2020, toàn quốc xảy ra 47.062 vụ; khám
phá 39.250 vụ; bắt giữ, xử lý 81.901 đối tượng; tỷ lệ khám phá đạt 83,40%;
triệt phá 1.944 băng, nhóm.1 Như vậy, bên cạnh những thanh niên luôn cố gắng
rèn luyện văn hóa và đạo đức thì cũng có một bộ phận không nhỏ thanh niên đã
và đang vi phạm pháp luật. Bởi lẽ, thanh niên là giai đoạn có những suy nghĩ
chưa chính chắn, chưa hiểu rõ và có nhận thức đầy đủ về pháp luật nên đã vi
phạm pháp luật. Thực trạng vấn đề vi phạm pháp luật ở lứa tuổi thanh niên
đang là một vấn đề được xã hội quan tâm.
Để làm rõ thêm những điều trên, nhóm chúng em chọn đề tài: “Vi phạm
pháp luật”.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Tìm hiểu và phân tích để làm sáng tỏ thế nào là vi phạm pháp luật, dấu hiệu,
các loại vi phạm pháp luật.
Tìm hiểu việc vận dụng những điều nghiên cứu được vào thực trạng vi phạm
pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

1
Bộ Công an. Bộ Công an công bố số liệu thống kê năm 2020. Truy cập ngày
01/05/2023. Đường dẫn: https://bocongan.gov.vn/tintuc/Pages/thong-ke.aspx?
ItemID=29447
3. Phương pháp nghiên cứu
Tra cứu tài liệu và Internet, tổng hợp và chọn lọc lại thông tin, phân tích,
nghiên cứu và từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá. Đứng vững trên lập trường của
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Vận dụng quan điểm toàn
diện và hệ thống, kết hợp khái quát và mô tả, phân tích và tổng hợp, các
phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn.

PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật có lỗi, do chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại tới các quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ.2
Các hành vi vi phạm pháp luật có thể bao gồm nhiều hình thức, từ vi phạm giao
thông đến tội phạm nghiêm trọng như gết người, cướp tài sản, ma túy, tội trốn
thuế, tội tham nhũng... Những hành vi này đều gây ra những hậu quả nghiêm
trọng, không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức mà còn ảnh hưởng đến toàn
bộ xã hội nói chung. Khi một người hoặc một tổ chức vi phạm pháp luật, hành
động của họ có thể gây ra rủi ro cho những người khác, dẫn đến sự suy yếu của
các giá trị đạo đức và pháp lý của xã hội.
Do đó, việc chấp hành pháp luật là rất quan trọng trong đời sống xã hội. Pháp
luật được tạo ra để bảo vệ sự công bằng và sự an toàn của mọi người, đồng thời
là động lực để khuyến khích mọi người tuân thủ các quy định pháp luật. Khi
các hành vi vi phạm pháp luật được phát hiện và xử lý đúng mức, đúng thời
điểm, điều đó sẽ góp phần vào việc giữ gìn trật tự, tôn vinh công lý và phát
triển bền vững cho xã hội.
1.2. Dấu hiệu vi phạm pháp luật

2
Nguyễn Thị Tuyết Nga, Lê Văn Hợp. Những vấn đề cơ bản của Pháp luật đại
cương. NXB ĐHQG 2020, trang 58
Các dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật bao gồm:
Hành vi vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người bởi hành vi là các
biểu thị mang ý chí của con người ra bên ngoài, có thể là hành động hoặc
không hành động. Chỉ với hành vi cụ thể mới bị coi là những hành vi vi phạm
pháp luật; những ý nghĩ dù xấu hay tiêu cực cũng không thể coi là phạm pháp.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật do hành vi trái pháp luật là hành vi
không thích hợp với các quy định của pháp luật như thực hiện 1 việc mà pháp
luật cấm (không chấp hành những quy định mà pháp luật bắt buộc chẳng hạn
như không đội nón bảo hiểm, không cáo giác tội phạm...) hoặc sử dụng quyền
hạn vượt quá giới hạn pháp luật cho phép (chẳng hạn như hành vi giết người
vượt quá phòng vệ chính đáng hoặc thanh tra xử phạt quá thẩm quyền).
Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi, lỗi là khía cạnh chủ quan bộc lộ thái độ
của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của họ đã gây ra.
Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ là biểu thị ra bên ngoài của hành vi. Để xác
định hành vi có phạm pháp hay không cần xem xét cả mặt chủ quan của hành
vi, nghĩa là buộc phải xác định trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi trái
pháp luật của mình. Nếu một hành vi trái pháp luật được thực hiện do những
tình cảnh và điều kiện khách quan, chủ thể hành vi đấy không cố ý và không vô
ý thực hiện hoặc không thể ý thức được, từ ấy không thể chọn cách ứng xử theo
yêu cầu của pháp luật thì hành vi đó không thể coi là có lỗi và chủ thể không bị
coi là vi phạm pháp luật. Kể cả những hành vi trái pháp luật mà chủ thể bị buộc
phải thực hiện trong điều kiện không được tự do ý chí thì cũng không thể bị coi
là có lỗi.
Ví dụ như:
1.3. Phân loại vi phạm pháp luật
Căn cứ vào quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ bị hành vi xâm hại đến vào
tính chất nguy hiểm của hành vi, mức độ thiệt hại hoặc khả năng gây thiệt hại
cho xã hội mà vi phạm pháp luật thường được chia thành 4 loại:
1.3.1. Vi phạm hình sự
Vi phạm hình sự, hay còn gọi là tội phạm, là một trong những hành vi nguy
hiểm nhất đối với xã hội. Được quy định trong Bộ Luật Hình sự, tội phạm được
xác định là những hành vi xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước, hoặc xâm phạm đến chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, và quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức.
Tội phạm có thể được thực hiện cố ý hoặc vô ý, bởi người có năng lực trách
nhiệm hình sự. Các hành vi vi phạm hình sự gây nguy hiểm cho cả những cá
nhân và toàn bộ xã hội, gây thiệt hại về tài sản, danh dự, nhân phẩm, và cả tính
mạng của người dân. Chính vì vậy, hình sự luôn là lĩnh vực quan trọng và đặc
biệt nhất trong hệ thống pháp luật của một quốc gia.
Tội phạm có thể xảy ra ở bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống xã hội, từ giao thông
đến kinh tế, chính trị, văn hoá, và xã hội. Chẳng hạn như việc vi phạm luật giao
thông, vi phạm quy định về môi trường, vi phạm quy định về chính sách tài
chính, vi phạm quy định về chính trị, và cả vi phạm quy định về đạo đức và
nhân phẩm.
Các hành vi vi phạm hình sự không chỉ xâm phạm đến quyền lợi của cá nhân
mà còn ảnh hưởng đến trật tự pháp luật và an ninh xã hội. Vì vậy, việc chấn
chỉnh, xử lý và ngăn chặn các hành vi vi phạm hình sự là một nhiệm vụ cấp
thiết của nhà nước và của toàn xã hội.
Việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm hình sự là một quá trình phức tạp,
yêu cầu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng của nhà nước cùng với sự hỗ
trợ và
Ví dụ: Vì muốn có tiền để đánh bạc nên anh A đã đến nhà B giả vờ hỏi mượn
xe máy trị giá 50 triệu đồng để đi thăm người thân trong bệnh viện. Khi B cho
A mượn xe thì A đã đi xe máy này đến cửa hàng mua bán xe máy và bán được
20 triệu đồng và A lấy số tiền này để đánh bạc.
Vụ việc này có thể được xem là một hành vi vi phạm hình sự. Đầu tiên, A đã
lừa đảo và gian lận để chiếm đoạt tài sản của B, khi A đã đến nhà B giả vờ hỏi
mượn xe máy để đi thăm người thân trong bệnh viện. Hành vi gian lận và lừa
đảo này đã khiến B tin tưởng và cho phép A mượn xe máy trị giá 50 triệu đồng.
Sau đó, A đã sử dụng xe máy của B để đi đến cửa hàng mua bán xe máy và bán
được chiếc xe này với giá trị 20 triệu đồng. A đã chiếm đoạt số tiền này để sử
dụng cho mục đích cá nhân của mình, đó là đánh bạc. Hành vi này cũng vi
phạm pháp luật về trộm cắp và lừa đảo.
Theo Bộ Luật Hình sự Việt Nam, việc chiếm đoạt tài sản của người khác thông
qua gian lận, lừa đảo, hoặc lợi dụng sự thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm, hoặc
sự bất cẩn của người khác để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của người khác là một
hành vi vi phạm hình sự. Vì vậy, A có thể bị truy tố và bị xử lý theo pháp luật
về hành vi chiếm đoạt tài sản và lừa đảo.
1.3.2. Vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một trong những loại vi phạm pháp luật thường gặp
trong cuộc sống hàng ngày. Đây là các hành vi vi phạm các quy định pháp luật
quản lý của Nhà nước mà không đủ điều kiện để coi là tội phạm hình sự. Vi
phạm hành chính có thể là do cá nhân, tổ chức hoặc doanh nghiệp thực hiện,
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến các quy định pháp luật, chính sách,
quy định của Nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân khác.
Các hành vi vi phạm hành chính thường liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, xây
dựng, đất đai, môi trường, an toàn thực phẩm, giao thông vận tải, quản lý chất
lượng sản phẩm và dịch vụ, quản lý hành chính,... Chẳng hạn một doanh
nghiệp không thực hiện đầy đủ các quy định về an toàn lao động, một cá nhân
lái xe vi phạm luật giao thông, hoặc một chủ đầu tư xây dựng không tuân thủ
các quy định về quản lý chất lượng công trình, tất cả đều là những hành vi vi
phạm hành chính.
Người vi phạm hành chính sẽ phải chịu trách nhiệm và bồi thường thiệt hại cho
những tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm của mình. Ngoài ra,
người vi phạm còn phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật, bao gồm
các biện pháp giải quyết hành chính như: phạt tiền, tịch thu tài sản, thu hồi giấy
tờ, phong tỏa tài sản, hoặc các biện pháp khác tùy thuộc vào mức độ và tính
chất của vi phạm.
Ví dụ: Chị Bảy bán đồ ăn vặt trên vỉa hè, tại nơi có quy định cấm bán hàng
rong dù đã bị cơ quan chính quyền nhắc nhở nhiều lần nhưng vẫn tái phạm.
Không những vậy, chị Bảy còn xếp thêm bàn ghế để khách có thể ngồi ăn tại
chỗ mặc dù biết đó là phạm quy.
Chị Bảy là một người kinh doanh bán đồ ăn vặt trên vỉa hè, tại một khu vực có
quy định cấm bán hàng rong do cơ quan chính quyền địa phương ban hành.
Mặc dù đã nhận được nhiều lần nhắc nhở từ cơ quan chức năng nhưng chị Bảy
vẫn tiếp tục bán hàng trái phép trên vỉa hè này.
Điều đáng lưu ý là chị Bảy đã thực hiện vi phạm này với tình chất cố ý và lặp
đi lặp lại, làm ảnh hưởng đến trật tự an ninh trật tự công cộng, đồng thời gây
mất mỹ quan thành phố. Không chỉ vậy, chị Bảy còn tăng cường thêm bàn ghế
để khách có thể ngồi ăn tại chỗ, xâm phạm đến quy định về bố trí không gian
đô thị và mất mỹ quan của khu vực.
Vì vậy, hành vi kinh doanh bán hàng rong trái phép và vi phạm quy định về trật
tự an ninh trật tự công cộng cùng với vi phạm quy định về bố trí không gian đô
thị của chị Bảy được coi là một hành vi vi phạm hành chính, và chị Bảy sẽ phải
chịu hình thức xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.
1.3.3. Vi phạm dân sự
Vi phạm dân sự là các hành vi không tuân thủ các quy định pháp luật và gây ra
tổn thất, thiệt hại về tài sản, quan hệ nhân thân, hoặc các quyền lợi khác của cá
nhân hoặc tổ chức khác. Những hành vi này thường do người có năng lực trách
nhiệm dân sự thực hiện cố ý hoặc vô ý, làm xâm phạm đến các quan hệ dân sự.
Các hành vi vi phạm dân sự thường được quy định rõ ràng trong pháp luật và
cụ thể hóa cho từng trường hợp cụ thể. Các ví dụ về hành vi vi phạm dân sự
bao gồm việc không trả tiền khi mua hàng, không tuân thủ các thỏa thuận hợp
đồng, xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, quyền riêng tư, quyền
lợi của người lao động và những quyền lợi khác.
Trong trường hợp xảy ra vi phạm dân sự, người bị tổn hại có thể yêu cầu bồi
thường thiệt hại hoặc khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Những
trường hợp vi phạm dân sự có thể giải quyết thông qua các phương tiện hòa
giải, trọng tài, hoặc thông qua quá trình kiện tụng tại tòa án để giải quyết tranh
chấp và đòi lại quyền và lợi ích của mình.
Ví dụ: Chị M do vừa mới uốn tóc nên không chịu đội nóng bảo hiểm khi chạy
xe máy về.
Việc không đội nón bảo hiểm của M không chỉ là vi phạm dân sự, vi phạm quy
định giao thông, mà còn là một hành vi nguy hiểm có thể gây ra tai nạn giao
thông và tổn thất về tính mạng, sức khỏe của người tham gia giao thông. Nếu bị
phát hiện không đội nón bảo hiểm, chị M có thể bị xử phạt hành chính và bị
tước quyền sử dụng giấy phép lái xe trong một thời gian nhất định. Để tránh
việc này thì chị M có thể đi xe taxi.
1.3.4. Vi phạm kỷ luật
Vi phạm kỷ luật là những hành vi có lỗi, xâm hại đến chế độ kỷ luật lao động,
kỷ luật công vụ của đơn vị, cơ quan tổ chức nhất định.3
Ví dụ: Sinh viên L trường đại học Sư Phạm Kỹ Thuật TP,HCM vì ham chơi
nên đã lấy tiền đóng học phí tiêu sài quá mức nên đã không đóng đủ tiền đóng
học phí đúng hạn.
Hành vi của sinh viên L là thiếu trách nhiệm và chủ quan trong việc quản lý tài
chính cá nhân, dẫn đến vi phạm kỷ luật lao động. Việc không đóng đủ tiền học
phí đúng hạn sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của sinh viên L như không được
tham gia các hoạt động của trường, bị giảm điểm, và có thể bị cấm thi. Ngoài
ra, hành vi của sinh viên L còn ảnh hưởng đến hoạt động của trường và tạo áp
lực cho nhân viên phụ trách kế toán và thu học phí. Do đó, sinh viên L có thể bị
xử lý kỷ luật hoặc phải chịu mức phạt tiền tùy theo quy định của trường.

[1] Nguyễn Thị Tuyết Nga, Lê Văn Hợp. Những vấn đề cơ bản của Pháp
luật đại cương. NXB ĐHQG 2020, trang 58, 59, 63
[2] Bộ Công an. Bộ Công an công bố số liệu thống kê năm 2020. Truy cập
ngày 01/05/2023. Đường dẫn: https://bocongan.gov.vn/tintuc/Pages/thong-
ke.aspx?ItemID=29447

3
Nguyễn Thị Tuyết Nga, Lê Văn Hợp. Những vấn đề cơ bản của Pháp luật đại
cương. NXB ĐHQG 2020, trang 63

You might also like