You are on page 1of 12

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP– PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Câu 1. Các thuộc tính của pháp luật. Cho ví dụ về các thuộc tính của pháp luật.
Thuộc tính của pháp luật là những đặc trưng, đặc điểm vốn có, không thể tách rời của pháp
luật. Thông qua thuộc tính của pháp luật, có thể phân biệt được pháp luật với các quy phạm
xã hội khác. Pháp luật có bốn thuộc tính cơ bản:
Thuộc tính thứ nhất: Pháp luật có tính quyền lực nhà nước
Quyền lực nhà nước là một thuộc tính riêng của pháp luật mà không một quy phạm
nào có thể có được. Để có thể thực hiện việc tổ chức và quản lý xã hội, nhà nước cần phải có
pháp luật, nhằm mục đích bắt buộc mọi người phải thực hiện. Các quy định của pháp luật có
thể do nhà nước đặt ra, cũng có thể được tạo nên từ việc nhà nước thừa nhận những quy tắc
ứng xử đã có sẵn từ trong xã hội (đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo,...) Và với
kết cấu là những quy tắc xử sự chung, pháp luật chính là những yêu cầu, đòi hỏi hoặc cho
phép của nhà nước đối với các hành vi ứng xử của mọi người trong xã hội. Nói cách khác,
pháp luật là sự thể hiện ý chí của nhà nước.
Thông qua pháp luật, nhà nước cho phép các chủ thể được làm gì, không được làm gì,
nên làm gì, không nên làm gì và có thể bắt buộc họ phải làm gì, làm như thế nào, . . . Mặt
khác, với thuộc tính quyền lực nhà nước của mình, pháp luật có thể có các biện pháp cưỡng
chế từ nhà nước, để bắt buộc người dân phải thực hiện theo những quy định được nên ra của
pháp luật, nếu không họ sẽ bị trừng phạt, để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm
chỉnh trong cuộc sống.
Ví dụ: Luật an toàn giao thông đường bộ được Nhà nước ban hành và đảm bảo bằng sức
mạnh quyền lực nhà nước (đại diện là Cảnh sát giao thông, Cảnh sát cơ động, …..). Những
người vi phạm Luật giao thông đường bộ đều phải chịu phạt theo điều luật đã quy định.
Thuộc tính thứ hai: Pháp luật có tính quy phạm phổ biến
Pháp luật được tạo bởi hệ thống các quy phạm pháp luật, quy phạm là tế bào của pháp
luật, là khuôn mẫu, là mô hình xử sự chung. Trong xã hội các hành vi xử sự của con người rất
khác nhau, tuy nhiên trong những hoàn cảnh điều kiện nhất định vẫn đưa ra được cách xử sự
chung phù hợp với đa số.
Cũng như quy phạm pháp luật, các quy phạm xã hội khác đều có những quy tắc xử sự
chung, nhưng khác với các quy phạm xã hội, pháp luật có tính quy phạm phổ biến. Các quy
phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trên lãnh thổ, việc áp dụng các quy phạm này chỉ bị
đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, bổ sung, sửa đổi bằng những quy định
khác hoặc thời hiệu áp dụng các quy phạm đã hết.
Tính quy phạm phổ biến của pháp luật dựa trên ý chí của nhà nước "được đề lên thành
luật". Tùy theo từng nhà nước khác nhau mà ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội mang
tính chất chủ quan của một nhóm người hay đáp ứng được nguyện vọng, mong muốn của đa
số nhân dân trong quốc gia đó.
Ví dụ: Luật giao thông đường bộ được áp dụng đối với tất cả công dân đang sinh sống
trên lãnh thổ nước Việt Nam, đối với tất cả mọi người không phân biệt lứa tuổi, giới tính, tôn
giáo, dân tộc,…. và được áp dụng nhiều lần.
Thuộc tính thứ ba: Pháp luật có tính hệ thống
N gay chính bản thân khái niệm của pháp luật đã là một hệ thống các quy tắc xử sự
chung, hoặc là các quy phạm, cũng có thể là các nguyên tắc hoặc khái niệm pháp lý . . . Pháp
luật điều chỉnh quan hệ xã hộ thông qua việc tác động một cách trực tiếp lên các cách xử sự
của các chủ thể khi tham gia vào mối quan hệ xã hội đó, nhưng những quy định đó lại không
tồn tại một cách biệt lập, tách rời mà giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó và thống
nhất với nhau, tạo nên một chỉnh thể hoàn chỉnh.
Ví dụ: Luật giao thông đường bộ; Nghị định 100/2019/NĐ-CP
Thuộc tính thứ tư: Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức
Quy phạm có thể hiểu một cách đơn giản là các khuôn mẫu, chuẩn mực. Các quy định
của pháp luật được xem như là các quy phạm trong xã hội và nó được biết đến, và sử dụng
một cách vô cùng phổ biến. Từ đó, pháp luật định hướng cho nhận thức và hành vi của các
chủ thể trong xã hội. Khi rơi vào một tình huống nhất định, dựa vào thuộc tính quy phạm của
pháp luật, các chủ thể sẽ được định hướng hành vi cho bản thân mình để đảm bảo theo quy
định của pháp luật.
Phạm vi tác động của pháp luật rất lớn, nó là khuôn mẫu ứng xử cho mọi người, cho
cá nhân, tổ chức trong phạm vi của một quốc gia và được sử dụng trong cuộc sống hàng
ngày; hay thể hiện trên mọi lĩnh vực của các mối quan hệ xã hội. Cũng chính vì vậy, pháp
luật mới mang thuộc tính phổ biến.
Ví dụ: Luật an toàn giao thông có văn bản chứa quy phạm pháp luật. Trong đó sẽ ghi rõ
những trường hợp cũng như hình phạt cho những lỗi vi phạm, như: điều 60 quy định về độ
tuổi của người điều khiển xe máy:
+ Người đủ 16 tuổi trở lên được điều khiển xe gắn máy có dung tích xi-lanh dưới 50 cm3
+ Người đủ 18 tuổi trở lên được điều khiển xe gắn máy có dung tích xi-lanh từ 50 cm3
trở lên.
Câu 2. Nêu khái niệm vi phạm pháp luật và phân tích cấu thành của vi phạm pháp luật
đó.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Cấu thành vi phạm pháp luật là những dấu hiệu đặc trưng của một vi phạm pháp luật
cụ thể.
Vi phạm pháp luật bao gồm 4 yếu tố cấu thành là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ
thể và khách thể.
Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý và
đã thực hiện hành vi trái pháp luật. Mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng
tùy thuộc vào mức độ xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
Khách thể của vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị
hành vi trái pháp luật xâm hại tới. Tính chất của khách thể vi phạm pháp luật cũng là một yếu
tố đánh giá mức độ nguy hiểm trong hành vi trái pháp luật. Là một trong những căn cứ để
phân loại hành vi vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật gồm lỗi, động cơ, mục đích vi phạm pháp luật:
– Lỗi là một trạng thái tâm lý thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hậu quả xấu trong
hành vi của mình (nhìn thấy trước được hậu quả xấu trong hành vi của mình mà vẫn thực
hiện) và trong chính hành vi đó (hành vi chủ động, có ý thức….) tại thời điểm chủ thể thực
hiện hành vi trái pháp luật đó.
Lỗi được chia thành hai loại: cố ý và vô ý
+ Lỗi cố ý gồm:
Lỗi cố ý trực tiếp: là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật nhận thức rõ
hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn
cho hậu quả đó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi trái pháp luật nhận
thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, tuy không
mong muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi vô ý gồm:
Lỗi vô ý do cẩu thả :là lỗi của một chủ thể đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng do
cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc dù có thể thấy
trước và phải thấy trước hậu quả này.
Lỗi vô ý vì quá tự tin: là lỗi của một chủ thể tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra
hậu quả nguy hiểm cho xã hội song tin chắc rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc cỏ thể
ngăn ngừa được nên mới thực hiện và có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
– Động cơ là cái thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
– Mục đích là kết quả cuối cùng mà chủ thể vi phạm pháp luật mong đạt tới khi thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật.
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật.
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách
quan của vi phạm pháp luật. Nó bao gồm hành vi trái pháp luật, sự thiệt hại cho xã hội và
quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội, thời gian, địa điểm,
công cụ vi phạm. Trước hết phải xác định xem vụ việc vừa xảy ra có phải do hành vi của con
người hay không, nếu phải thì hành vi đó có trái pháp luật không, nếu trái pháp luật thì trái
như thế nào. Sự thiệt hại cho xã hội là những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần do hành vi
trái pháp luật gây ra.
Quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội là việc xác định
xem hành vi trái pháp luật có phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự thiệt hại cho xã hội hay
không và sự thiệt hại cho xã hội có phải kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật hay không,
vì thực tế có trường hợp hành vi trái pháp luật không trực tiếp gây ra sự thiệt hại cho xã hội,
mà sự thiệt hại đó do nguyên nhân khác. Ngoài ra con phải xác định: thời gian vi phạm pháp
luật là giờ, ngày, tháng, năm nào. Địa điểm vi phạm pháp luật là ở đâu. Phương tiện thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật là gì.
– Hành vi trái pháp luật hay còn gọi là hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi trái với
các yêu cầu của pháp luật, nó gây ra hoặc đe dọa gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
– Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là những thiệt hại về người và của hoặc những thiệt hại
phi vật chất khác do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội.
– Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức là giữa chúng
phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu với nhau. Hành vi đã chứa đựng mầm gây ra hậu quả
hoặc là nguyên nhân trực tiếp của hậu quả nên nó phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian;
còn hậu quả phải là kết quả tất yếu của chính hành vi đó mà không phải là của một nguyên
nhân khác.
– Thời gian vi phạm pháp luật là giờ, ngày, tháng, năm xảy ra vi phạm pháp luật.
– Địa điểm vi phạm pháp luật là nơi xảy ra vi phạm pháp luật.
– Phương tiện vi phạm pháp luật là công cụ mà chủ thể sử dụng để thực hiện hành vi trái
pháp luật của mình. Khi xem xét mặt khách quan của vi phạm pháp luật thì hành vi trái pháp
luật luôn luôn là yếu tố bắt buộc phải xác định trong cấu thành của mọi vi phạm pháp luật,
còn các yếu tố khác có bắt buộc phải xác định hay không là tuỳ từng trường hợp vi phạm. Có
trường hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả
nguy hiểm cho xã hội cũng là yếu tố bắt buộc phải xác định, có trường hợp địa điểm vi phạm
cũng là yếu tố bắt buộc phải xác định.
Câu 3. Các kiểu Nhà nước trong lịch sử.
Học thuyết Mác – Lênin về hình thái kinh tế – xã hội là cơ sở khoa học để phân chia các
nhà nước trong lịch sử thành các kiểu. Trong lịch sử nhân loại từ khi xuất hiện xã hội có giai
cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế – xã hội, đó là: chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản và xã
hội chủ nghĩa. Tương ứng với bốn hình thái kinh tế xã hội đó, có bốn kiểu nhà nước. Cụ thể
các kiểu nhà nước trong lịch sử gồm:
+ Kiểu nhà nước chủ nô;
+ Kiểu nhà nước phong kiến;
+ Kiểu nhà nước tư sản;
+ Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các kiểu nhà nước trong lịch sử chủ nô, phong kiến và tư sản tuy có những đặc điểm
riêng về bản chất, chức năng và vai trò xã hội, nhưng đều là nhà nước bóc lột được xây dựng
trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, là công cụ để duy trì và bảo vệ sự thống
trị của giai cấp bóc lột đối với đông đảo nhân dân lao động trong xã hội. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa là kiểu nhà nước mới, tiến bộ vì đặc điểm đông đảo nhân dân lao động trong xã hội tiến
tới xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.
1. Kiểu nhà nước chủ nô.
Kiểu nhà nước chủ nô là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp chủ nô. Nhà nước chủ
nô ra đời trên cơ sở tan rã của chế độ thị tộc, bộ lạc gắn liền với sự xuất hiện của chế độ tư
hữu và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng. Trong kiểu nhà nước chủ nô giai
cấp thống trị xã hội là chủ nô.

Cơ sở hình thành của nhà nước chủ nô là chế độ sở hữu của giai cấp chủ nô với tư liệu
sản xuất và nô lệ. Bản chất của nhà nước chủ nô là thực hiện nền chuyên chính của giai cấp
chủ nô, duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của chủ nô; đàn áp nô lệ và tầng lớp lao động
khác.
Hình thức của nhà nước chủ nô rất đa dạng. Do sự hình thành và phát triển của các
nhà nước chủ nô trong những hoàn cảnh, điều kiện hết sức khác nhau nên việc 6 tổ chức và
thực hiện quyền lực ở mỗi nước có rất nhiều khác biệt, ở mỗi thời kỳ phát triển của đất nước
cũng có nhiều thay đổi phụ thuộc vào sự phát triển của chế độ nô lệ.
Để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, các Nhà nước chủ nô đều thiết lập,
củng cố cho mình một bộ máy nhà nước mang nặng tính quân sự và tập trung quan liêu.
Nhiệm vụ chủ yếu của bộ máy nhà nước chủ nô là trấn áp nô tệ trong nước, xâm lược các
nước khác, giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích cho giai cấp chủ nô, cưỡng bức nô lệ làm giàu
cho giai cấp chủ nô. Bộ máy nhà nước chủ nô giai đoạn đầu rất đơn giản, chỉ gồm rất ít các
cơ quan. Cùng với sự phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ, nhu cầu quản lý xã hội tăng dần
đòi hỏi bộ máy nhà nước chủ nô phát triển, phức tạp hơn, hoàn thiện hơn. Nhiều Nhà nước
chủ nô đã thiết lập ra những bộ máy nhà nước khá hoàn thiện và phát triển như bộ máy Nhà
nước Aten, Nhà nước La Mã… Trong những bộ máy nhà nước này đã có sự chuyên môn hoá
tương đối cao.
2. Kiểu nhà nước phong kiến.
Kiểu nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước thứ hai trong lịch sử xã hội loài người, ra đời
trên sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ hoặc xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của xã hội cộng
sản nguyên thủy. Trong kiểu nhà nước phong kiến giai cấp thống trị xã hội là địa chủ phong
kiến, còn nông dân chỉ có quyền sở hữu nhỏ phụ thuộc vào địa chủ và hầu như không có
quyền gì.
Cơ sở hình thành của nhà nước phong kiến là chế độ sở hữu của địa chủ phong kiến với
tư liệu sản xuất và nô lệ. Bản chất của nhà nước phong kiến là công cụ trong tay giai cấp địa
chủ phong kiến để thực hiện chuyên chính với giai cấp nông dân, thợ thủ công và các tầng
lớp lao động khác, là phương tiện duy trì địa vị kinh tế bảo vệ lợi ích và sự thống trị của địa
chủ phong kiến. Hình thức phổ biến của nhà nước phong kiến là chính thể quân chủ chuyên
chế với quyền lực vô hạn của hoàng đế.
3. Kiểu nhà nước tư sản
Kiểu nhà nước tư sản là kiểu nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trong lòng hình thái
kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa.
Bản chất của nhà nước tư sản do chính những điều kiện nội tại của xã hội tư sản quyết
định, đó chính là cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội và cơ sở tư tưởng.
Nhà nước tư sản có những đặc điểm sau: thiết lập nguyên tắc chủ quyền nhà nước trên
danh nghĩa thuộc về nhân dân; cơ quan lập pháplà cơ quan đại diện của các tầng lớp dân cư
trong xã hội do bầu cử lập nên; thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực và kiềm chế, đối
trọng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng
trong bầu cử nghị viện và tổng thống; hình thức chính thể phổ biến của nhà nước tư sản là
cộng hòa và quân chủ lập hiến.
4. Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa
Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa, một công cụ quản lý mà đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo nhân dân tổ chức ra qua đó nhân dân thực hiện quyền và lợi ích của mình. Trong kiểu
nhà nước xã hội chủ nghĩa giai cấp thống trị xã hội là nhân dân lao động. Đây cũng là kiểu
nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người, ra đời sau Cách mạng tháng Mười Nga
năm 1917.
Cơ sở hình thành của nhà nước xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất.
Các đặc điểm cơ bản của kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa là: thiết lập và đảm bảo
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước, lãnh
đạo xã hội; tất cả các cơ quan nhà nước đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ; quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở có sự phân công và phối hợp hoạt
động giữa các cơ quan thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp; đảm bảo sự
đoàn kết, bình đẳng và tương trợ giữa các dân tộc.
Hình thức phổ biến là chính thể cộng hòa dân chủ.
Câu 4. Các dấu hiệu (đặc trưng) của Nhà nước.
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt, nên so với các tổ chức khác, Nhà nước có các dấu hiệu
đặc trưng, cơ bản sau:
+ Phân bố dân cư theo các đơn vị hành chính - lãnh thổ không phụ thuộc vào giai cấp, dân
tộc, tôn giáo, huyết thống, địa vị xã hội, nghề nghiệp;
+ Có bộ máy quyền lực công với sức mạnh cưỡng chế bao gồm quân đội, cảnh sát, Toà án
và một đội ngũ công chức chuyên nghiệp làm nhiệm vụ cai trị, quản lí xã hội;
+ Có chủ quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ của đất nước mình, quyết định các vấn đề
quan trọng nhất của đất nước về đối nội cũng như đối ngoại;
+ Có quyền ban hành pháp luật, những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung đối với
mọi thành viên trong xã hội, với tư cách là một công cụ đắc lực trong cai trị, quản lí xã hội;
+ Có quyền quy định các loại thuế mang tính bắt buộc đối với cá nhân và tổ chức trong xã
hội nhằm thiết lập nguồn tài chính nuôi bộ máy công quyền và thực hiện các chức năng của
mình.
Nhà nước thực hiện việc quản li dân cư theo lãnh thổ
Các tổ chức xã hội rất đa dạng, phức tạp, được hình thành và duy trì dựa trên những điều
kiện xã hội khác nhau, có thể là quan hệ huyết thống, giới tính, độ tuổi, quan điểm chính trị...
Trong khi đó, nhà nước lấy việc quản lí dân cư theo lãnh thổ 8 làm điểm xuất phát. Người
dân không phân biệt huyết thống, dân tộc, giới tính... cứ sống trên một địa vực nhất định thì
chịu sự quản lí của một nhà nước nhất định vă do vậy, họ thực hiện quyền và nghĩa vụ trước
nhà nước theo nơi mà họ cư trú.

Nhà nước thực thỉ chủ quyền quốc gia


Nhà nước có quyền lực bao trùm phạm vi lãnh thổ quốc gia, đứng trên mọi cá nhân, tô
chức trong xã hội, vì vậy nhà nước là tổ chức duy nhất có đủ tư cách và khả năng đại diện
chính thức và hợp pháp của quốc gia, thay mặt quốc gia dân tộc thực hiện và bảo vệ chủ
quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị pháp lí, nó thể hiện quyền quyết
định tối cao và độc lập, tự quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào bất kì
cá nhân, tổ chức nào trong nước cũng như các nhà nước khác, các tổ chức quốc tế. Trong các
xã hội không có dân chủ, chủ quyền quốc gia thuộc về nhà nước. Trong điều kiện của xã hội
dân chủ, quyền lực tối cao trong xã hội thuộc về nhân dân, nhân dân ủy quyền cho nhà nước
thay mặt nhân dân tổ chức thực hiện và bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Nhà nước ban hành pháp luật, dùng pháp luật làm công cụ quản lí xã hội
Pháp luật là quy tắc ứng xử của con người trong đời sống cộng đồng. Nhà nước là tổ
chức đại diện cho xã hội, thay mặt xã hội ban hành pháp luật, cung ứng cho xã hội một loại
quy tắc xử sự mang tính bắt buộc đối với mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Nhà nước là tổ
chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật, đồng thời, với tư cách là người có sứ mệnh tổ
chức và quản lí mọi mặt của đời sống xã hội, nhà nước phải sử dụng pháp luật, dựa vào pháp
luật, là phưong tiện đặc biệt quan trọng để tổ chức và quản lí xã hội. Mọi cá nhân, tổ chức
trong xã hội có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh.
Nhà nước quy định và thực hiện việc thu thuế, phát hành tiền
Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân buộc phải nộp cho nhà nước theo quy
định của pháp luật. Nhà nước là một bộ máy được tách ra khỏi lao động sản xuất trực tiếp để
chuyên thực hiện chức năng quản lí xã hội, do vậy, nó phải được nuôi dưỡng từ nguồn của
cải do dân cư đóng góp. Thiếu thuế bộ máy nhà nước không thể tồn tại được. Bên cạnh đó,
thuế còn là nguồn của cải quan trọng phục vụ cho việc phát triển các mặt của đời sống. Chỉ
nhà nước mới có quyền quy định và thực hiện việc thu thuế vì nhà nước là tổ chức duy nhất
có tư cách đại diện chính thức cho toàn xã hội. Nhà nước phát hành tiền làm phương tiện trao
đổi trong sản xuất, phân phối, tiêu dùng của cải trong đời sống.
Câu 5. Hình thức chính thể của nhà nước.
Chính thể Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, thông qua nguyên tắc bầu
cử bình đẳng, phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín nhân dân đã bỏ phiếu bầu ra cơ quan đại
diện của mình (Quốc hội, HĐND các cấp).
Quyền lực Nhà nước tối cao thuộc về Quốc hội. Quốc hội được bầu theo nhiệm kỳ 5
năm, có quyền lập pháp, quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan Nhà nước,
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
– Chính thể cộng hòa dân chủ của Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có
nhiều đặc điểm riêng khác với cộng hòa dân chủ tư sản.
Thứ nhất, việc tổ chức quyền lực Nhà nước trong chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam
Đảng Cộng sản Việt Nam chính là một Đảng duy nhất tại nước ta, có vai trò và ý nghĩa
vô cùng lớn đối với nước ta. Có thể nói nhờ có Đảng mà chúng ta mới có thể có được những
sự độc lập, thống nhất và phát triển như hiện nay.
Trong Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Như vậy, Đảng chính là đường lối, chủ trương, chính sách, định hướng cho sự nghiệp
của toàn dân, toàn đảng trong từng thời kỳ. Với vai trò là một Đảng lãnh đạo, hằng năm Đảng
luôn đưa những Đảng viên ưu tú vào những vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước để thuận
tiện cho công tác quản lý và giám sát những hoạt động, chính sách và chiến lược đề ra. Đảm
bảo lợi ích của người dân, hạn chế những sai phạm do đội ngũ cán bộ thiếu trách nhiệm.
Thứ hai, quyền lực Nhà nước trong chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây
dựng theo nguyên tắc tập quyền nhưng có sự phân định rạch ròi giữa các cơ quan
Hiện nay, theo cơ cấu tổ chức nước ta có 03 nhánh quyền lực cụ thể là hành pháp, lập
pháp và tư pháp. Đứng đầu nhánh lập pháp là Quốc hội, đây là cơ quan quyền lực duy nhất
do nhân dân cả nước bầu ra. Ngoài ra còn có Hội đồng nhân dân các cấp cũng là những cơ
quan đại diện cho quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân đưa ra những chính sách, quan
điểm, ý kiến đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhiệm vụ chính của nhánh quyền lực này
chính là ban hành những văn bản pháp luật quy định những vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, y
tế…
Đứng đầu nhánh hành pháp là Chính phủ. Đây là cơ quan chịu tránh nhiệm quản lý mọi
vấn đề đời sống xã hội của người dân. Ngoài ra, tại địa phương sẽ có Ủy ban nhân dân các
cấp giúp việc.
Đứng đầu nhánh tư pháp chính là Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện
các công việc liên quan đến thủ tục tố tụng, đảm nhiệm chức năng xét xử và đồng thời kiểm
sát hoạt động tư pháp.
Như vậy, sự tập quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, mọi vấn đề đều liên quan đến
lợi ích của nhân dân. Các nhánh quyền lực này tập trung quyền lực với nhau nhưng có sự
phân chia quyền lực. Tuy nhiên, vẫn có sự phối hợp và quản lý với nhau về các vấn đề đời
sống xã hội của nhân dân.
Thứ ba, chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân,
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội
Việc mang bản chất của giai cấp công nhân gắn liền với ý nghĩa lịch sử giai cấp và nhân
dân lao động từ những năm gắn bó cùng nhau đánh giặc, kháng chiến giành độc lập dân tộc.
Chính vì sự đoạn kết này mà đất nước ta mới có được sự độc lập và thành tựu như ngày hôm
nay.
Thứ tư, trong chính thể Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận tổ quốc và
các tổ chức xã hội có vai trò quan trọng
Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của quyền lực
Nhà nước. Trong hệ thống chính trị không thể thiếu Mặt trận tổ quốc Việt Nam, đây được
xem là tổ chức có vai trò quan trọng đối với hoạt động tại các địa phương như vấn đề tuyên
truyền pháp luật, xây dựng mối quan hệ đoàn kết của các tầng lớp nhân dân lại với nhau, từ
đó xây dựng xã hội giàu mạnh, công bằng và văn minh.
Câu 6. Nguồn gốc của pháp luật.
Trong lịch sử phát triển của loài người đã có thời kỳ không có pháp luật đó là thời kỳ
xã hội cộng sản nguyên thủy. Trong xã hội này, để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo lập trật
tự, ổn định cho xã hội, người nguyên thủy sử dụng các quy phạm xã hội, đó là các tập quán
và tín điều tôn giáo.
Các quy phạm xã hội trong chế độ cộng sản nguyên thủy có những đặc điểm: Thể hiện
ý chí chung của các thành viên trong xã hội, bảo vệ lợi ích cho tất cả thành viên trong xã hội;
Là quy tắc xử sự chung của cả cộng đồng, là khuôn mẫu của hành vi;
Được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, dựa trên tinh thần hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, mặc
dù trong xã hội cộng sản nguyên thủy cũng đã tồn tại sự cưỡng chế nhưng không phải do một
bộ máy quyền lực đặc biệt tổ chức mà do cả cộng đồng tổ chức tạo nên.
Những tập quán và tín điều tôn giáo lúc bấy giờ là những quy tắc xử sự rất phù hợp để
điều chỉnh các quan hệ xã hội, bởi vì nó phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế – xã hội
của chế độ cộng sản nguyên thủy, phù hợp với tính chất khép kín của tổ chức thị tộc, bào tộc,
bộ lạc. Khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội phân chia thành giai cấp những quy phạm xã
hội đó trở nên không còn phù hợp.
Trong điều kiện xã hội mới xuất hiện chế độ tư hữu, xã hội phân chia thành các giai
cấp đối kháng, tính chất khép kín trong xã hội bị phá vỡ, các quy phạm phản ánh ý chí và bảo
vệ lợi ích chung không còn phù hợp. Trong điều kiện lịch sử mới xã hội đòi hỏi phải có
những quy tắc xã hội mới để thiết lập cho xã hội một “trật tự”, loại quy phạm mới này phải
thể hiện được ý chí của giai cấp thống trị và đáp ứng nhu cầu đó pháp luật đã ra đời.
Giai đoạn đầu giai cấp thống trị tìm cách vận dụng những tập quán có nội dung phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình, biến đổi chúng và bằng con đường nhà nước nâng chúng
lên thành các quy phạm pháp luật. Ví dụ: Nhà nước Việt Nam suốt thời kỳ Hùng Vương – An
Dương Vương chưa có pháp luật thành văn, hình thức của pháp luật lúc bấy giờ chủ yếu là
tập quán pháp.
Bên cạnh đó các nhà nước đã nhanh chóng ban hành các văn bản pháp luật. Bởi lẽ,
nếu chỉ dùng các tập quán đã chuyển hóa để điều chỉnh các quan hệ xã hội thì sẽ có rất nhiều
các quan hệ xã hội mới phát sinh trong xã hội không được điều chỉnh, vì vậy để đáp ứng nhu
cầu này hoạt động xây dựng pháp luật của các nhà nước đã ra đời. Hoạt động này lúc đầu còn
đơn giản, nhiều khi chỉ là các quyết định của các cơ quan tư pháp, hành chính, sau dần trở
nên hòan thiện cùng với sự phát triển và hòan hiện của bộ máy nhà nước.
Như vậy pháp luật được hình thành bằng hai con đường: thứ nhất, nhà nước thừa nhận
các quy phạm xã hội – phong tục, tập quán chuyển chúng thành pháp luật; thứ hai, bằng hoạt
động xây dựng pháp luật định ra những quy phạm mới.
Câu 7. Bản chất của pháp luật.
Có nhiều cách tiếp cận về pháp luật. Có các trường phái như pháp luật tự nhiên, pháp
luật thực chứng, pháp luật lịch sử, tâm lý học pháp luật, xã hội học pháp luật, Mác-Lênin về
pháp luật…Mỗi cách tiếp cận có ưu điểm và hạn chế riêng.
Theo cách tiếp cận của chủ nghĩa Mác – Lênin: Bản chất pháp luật là một thể thống
nhất bao gồm hai mặt – hai phương diện cơ bản: phương diện giai cấp và phương diện xã hội
hay thường được gọi là tính giai cấp và tính xã hội. Hai phương diện này có quan hệ mật
thiết, phụ thuộc, tác động lẫn nhau và cả hai đều mang tính tất yếu khách quan.
Do những điều kiện khách quan và chủ quan, sự thể hiện và thực hiện tính giai cấp và
tính xã hội của pháp luật có khác nhau trong các kiểu nhà nước, trong các giai đoạn phát triển
mỗi một nhà nước.
Trong các xã hội đương đại, tính xã hội, tính nhân loại ngày càng thể hiện rõ nét hơn.
Pháp luật không chỉ là công cụ quản lý, cần thiết của nhà nước mà còn là công cụ của mỗi cá
nhân và toàn xã hội.
– Tính giai cấp của pháp luật
Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện ở sự phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp
thống trị xã hội trong hệ thống các văn bản pháp luật, các hoạt động áp dụng pháp luật của
nhà nước. Các Mác và Ph.Ănghen đã viết về pháp luật tư sản: “Pháp luật của các ông chỉ là ý
chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung là do các điều kiện sinh
hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”. Nội dung của pháp luật tức ý chí nhà nước
được quy định bởi các điều kiện sinh hoạt vật chất, các yếu tố kinh tế và phi kinh tế. Cần có
quan điểm khách quan, toàn diện về pháp luật, không tuyệt đối hóa vai trò của các yếu tố
kinh tế trong đời sống pháp luật và nhà nước.
Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển
theo những mục đích, đường lối phát triển phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị và những
điều kiện khách quan của đất nước. Pháp luật, đương nhiên không phải là cấp số cộng giản
đơn tất cả các lợi ích, nhu cầu của mọi cá nhân trong giai cấp thống trị mà là những lợi ích
tiêu biểu, cơ bản và được chọn lọc, thông qua nhà nước “đề lên thành luật”.
Pháp luật của bất kỳ nhà nước nào cũng mang tính giai cấp sâu sắc, nhưng mức độ,
cách thức thể hiện và thực hiện trong thực tế tính giai cấp không hòan toàn giống nhau trong
các kiểu pháp luật và ngay cả trong một nhà nước, vào những thời điểm khác nhau. Pháp luật
chủ công công khai xác định quyền lực tuyệt đối, vô hạn của chủ nô và tình trạng vô quyền
của người nô lệ như là những “công cụ biết nói” trong xã hội đương thời. Pháp luật phong
kiến vẫn được coi là pháp luật “quả đấm” với hệ thống những quy định, chế tài trừng phạt giã
man, vô nhân đạo, bảo vệ công khai lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến. Mặc dù là một
bước tiến bộ, phát triển vượt bậc so các kiểu pháp luật trước đó cả về nội dung và hình thức,
song pháp luật tư sản vẫn là công cụ bảo vệ lợi ích giai cấp tư sản trước hết và chủ yếu.
– Tính xã hội của pháp luật
Phương diện thứ hai trong bản chất của pháp luật đó là phương diện xã hội. Điều đó có
nghĩa là, pháp luật vừa là sự thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị xã hội, vừa là
công cụ ghi nhận, bảo vệ lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác vì mục đích ổn
định và phát triển xã hội theo đường lối của giai cấp thống trị. Tính xã hội là một thuộc tính
khách quan, tất yếu và phổ biến của mọi nhà nước và pháp luật. Nếu không quan tâm đúng
mức đến tính xã hội trong hoạt động của nhà nước và trong hệ thống pháp luật sẽ dẫn đến
nhiều ảnh hưởng tiêu cực dưới những mức độ, hình thức nhất định đối với quá trình quản lý
xã hội của các nhà nước.
Xu hướng dân chủ hóa, những đòi hỏi về tự do, công bằng, hài hòa lợi ích luôn là động
lực thúc đẩy tiến bộ xã hội và luôn đặt ra cho nhà lập pháp phải quan tâm. Một hệ thống pháp
luật tốt, hiệu quả phụ thuộc phần lớn vào việc giải quyết hài hòa một cách tối ưu nhất lợi ích
cá nhân và lợi ích cộng đồng, xã hội. Các nhà nước luôn luôn phải chịu những áp lực xã hội
trong việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hay hủy bỏ các văn bản, các quy định pháp luật
cho phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại, ngày càng nẩy sinh và gia tăng các vấn đề xã hội
phức tạp luôn đặt lên vai các nhà nước phải xem xét và giải quyết.
Mức độ thể hiện và thực hiện tính xã hội trong các kiểu pháp luật, trong một hệ thống
pháp luật của mỗi quốc gia vào các giai đoạn lịch sử khác nhau cũng có sự khác nhau. Điều
đó phụ thuộc vào hàng loạt những yếu tố khách quan và chủ quan như: điều kiện kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, truyền thống đạo đức, tập quán; tương quan lực lượng giai cấp, xã
hội, tôn giáo, dân tộc; xu thế phát triển quốc gia và quốc tế, các yếu tố chủ quan khác…
Chẳng hạn, xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ hóa mọi lĩnh vực quan hệ xã hội đòi hỏi
những cuộc cải cách lớn về pháp luật, đặc biệt là về tính công khai, minh bạch, sự ghi nhận
và bảo đảm, bảo vệ các quyền con người.
Ví dụ, pháp luật của các nhà nước phong kiến trước đây chủ yếu là bảo vệ lợi ích của
nhà nước và giai cấp địa chủ, đi ngược lại lợi ích của người lao động. Bên cạnh đó, pháp luật
phong kiến còn có những quy định tuy không nhiều liên quan đến quyền lợi của người nông
dân, các đối tượng yếu thế khác trong xã hội. Điển hình nhất là Bộ Luật Hồng Đức của nhà
Lê. Bản chất của Quốc triều hình luật được biểu hiện ở tính giai cấp và tính xã hội, bảo vệ
quyền lực thống trị của giai cấp phong kiến, trật tự xã hội phong kiến; đồng thời ghi nhận và
bảo vệ quyền lợi của giai cấp nông dân và những người lao động khác, của phụ nữ, trẻ em,
người già, người tàn tật.
Cũng như đạo đức, pháp luật có vai trò, giá trị xã hội to lớn ở tất cả các giai đoạn phát
triển của nhân loại nhưng trên những mức độ nhất định. Chính cuộc sống con người, các mối
quan hệ xã hội mà họ tham gia cần đến sự ổn định, trật tự được xác lập và đảm bảo bằng một
hệ thống các loại quy tắc xã hội như đạo đức, tập quán, pháp luật v.v… Các quy phạm pháp
luật là kết quả của sự tuyển chọn lâu dài trong thực tiễn xã hội, bản thân các quy phạm pháp
luật cũng mang tính quy luật. Những cách xử sự hợp lý, khách quan được trải nghiệm, kiểm
nghiệm trong cuộc sống, chuyển giao qua nhiều thế hệ, rất nhiều trong số đó có cội rễ từ
trong xã hội tiền giai cấp, được nhà nước “tuyển chọn”, đưa thêm các quan điểm, lợi ích của
mình và thông qua những thủ tục, hình thức pháp lý nhất định “ nâng lên” thành luật pháp.
Với tư cách là các quy tắc hành vi, pháp luật vừa có vai trò hướng dẫn, vừa có vai trò
đánh giá, kiểm tra, kiểm nghiệm các quá trình, các hiện tượng xã hội. Đồng thời, pháp luật
còn là công cụ ghi nhận các quá trình xã hội, nhận thức xã hội, định hướng các hoạt động xã
hội theo những tiêu chí, mục đích nhất định. Nhận thức đúng vai trò, giá trị xã hội của pháp
luật. Các Mác đã viết: “pháp luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là sự biểu hiện của
lợi ích và nhu cầu chung của xã hội” và, “chừng nào bộ luật không còn thích hợp với xã hội
nữa thì nó sẽ biến thành mớ giấy lộn”. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính
chất điển hình và phổ biến
Pháp luật là hiện tượng văn hóa, không chỉ của một quốc gia, dân tộc mà của nhiều
nền văn hóa thế giới. Những quan hệ trong lĩnh vực tổ chức nhà nước, dân sự, hôn nhân, gia
đình, thương mại v. v… luôn hiện hữu những nét tương đồng của nhiều nền văn hóa. Do vậy,
để có cái nhìn bao quát, toàn diện hơn về pháp luật, cần thiết phải đề cập đến các đặc điểm
khác nữa của pháp luật như tính dân tộc, tính mở, tính nhân loại bên cạnh tính giai cấp, tính
xã hội và giá trị xã hội của pháp luật. Sự xích lại gần nhau của các nền văn hóa, trong đó có
văn hóa pháp luật đã và đang là xu thế tất yếu của thế giới hiện đại. Phải thay đổi để tồn tại
trong một môi trường quốc tế hợp tác bình đẳng, cùng có lợi là con đường đi tất yếu của mọi
quốc gia, dân tộc.

You might also like