Professional Documents
Culture Documents
Câu 1. Các thuộc tính của pháp luật. Cho ví dụ về các thuộc tính của pháp luật.
Thuộc tính của pháp luật là những đặc trưng, đặc điểm vốn có, không thể tách rời của pháp
luật. Thông qua thuộc tính của pháp luật, có thể phân biệt được pháp luật với các quy phạm
xã hội khác. Pháp luật có bốn thuộc tính cơ bản:
Thuộc tính thứ nhất: Pháp luật có tính quyền lực nhà nước
Quyền lực nhà nước là một thuộc tính riêng của pháp luật mà không một quy phạm
nào có thể có được. Để có thể thực hiện việc tổ chức và quản lý xã hội, nhà nước cần phải có
pháp luật, nhằm mục đích bắt buộc mọi người phải thực hiện. Các quy định của pháp luật có
thể do nhà nước đặt ra, cũng có thể được tạo nên từ việc nhà nước thừa nhận những quy tắc
ứng xử đã có sẵn từ trong xã hội (đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo,...) Và với
kết cấu là những quy tắc xử sự chung, pháp luật chính là những yêu cầu, đòi hỏi hoặc cho
phép của nhà nước đối với các hành vi ứng xử của mọi người trong xã hội. Nói cách khác,
pháp luật là sự thể hiện ý chí của nhà nước.
Thông qua pháp luật, nhà nước cho phép các chủ thể được làm gì, không được làm gì,
nên làm gì, không nên làm gì và có thể bắt buộc họ phải làm gì, làm như thế nào, . . . Mặt
khác, với thuộc tính quyền lực nhà nước của mình, pháp luật có thể có các biện pháp cưỡng
chế từ nhà nước, để bắt buộc người dân phải thực hiện theo những quy định được nên ra của
pháp luật, nếu không họ sẽ bị trừng phạt, để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm
chỉnh trong cuộc sống.
Ví dụ: Luật an toàn giao thông đường bộ được Nhà nước ban hành và đảm bảo bằng sức
mạnh quyền lực nhà nước (đại diện là Cảnh sát giao thông, Cảnh sát cơ động, …..). Những
người vi phạm Luật giao thông đường bộ đều phải chịu phạt theo điều luật đã quy định.
Thuộc tính thứ hai: Pháp luật có tính quy phạm phổ biến
Pháp luật được tạo bởi hệ thống các quy phạm pháp luật, quy phạm là tế bào của pháp
luật, là khuôn mẫu, là mô hình xử sự chung. Trong xã hội các hành vi xử sự của con người rất
khác nhau, tuy nhiên trong những hoàn cảnh điều kiện nhất định vẫn đưa ra được cách xử sự
chung phù hợp với đa số.
Cũng như quy phạm pháp luật, các quy phạm xã hội khác đều có những quy tắc xử sự
chung, nhưng khác với các quy phạm xã hội, pháp luật có tính quy phạm phổ biến. Các quy
phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trên lãnh thổ, việc áp dụng các quy phạm này chỉ bị
đình chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, bổ sung, sửa đổi bằng những quy định
khác hoặc thời hiệu áp dụng các quy phạm đã hết.
Tính quy phạm phổ biến của pháp luật dựa trên ý chí của nhà nước "được đề lên thành
luật". Tùy theo từng nhà nước khác nhau mà ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội mang
tính chất chủ quan của một nhóm người hay đáp ứng được nguyện vọng, mong muốn của đa
số nhân dân trong quốc gia đó.
Ví dụ: Luật giao thông đường bộ được áp dụng đối với tất cả công dân đang sinh sống
trên lãnh thổ nước Việt Nam, đối với tất cả mọi người không phân biệt lứa tuổi, giới tính, tôn
giáo, dân tộc,…. và được áp dụng nhiều lần.
Thuộc tính thứ ba: Pháp luật có tính hệ thống
N gay chính bản thân khái niệm của pháp luật đã là một hệ thống các quy tắc xử sự
chung, hoặc là các quy phạm, cũng có thể là các nguyên tắc hoặc khái niệm pháp lý . . . Pháp
luật điều chỉnh quan hệ xã hộ thông qua việc tác động một cách trực tiếp lên các cách xử sự
của các chủ thể khi tham gia vào mối quan hệ xã hội đó, nhưng những quy định đó lại không
tồn tại một cách biệt lập, tách rời mà giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó và thống
nhất với nhau, tạo nên một chỉnh thể hoàn chỉnh.
Ví dụ: Luật giao thông đường bộ; Nghị định 100/2019/NĐ-CP
Thuộc tính thứ tư: Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức
Quy phạm có thể hiểu một cách đơn giản là các khuôn mẫu, chuẩn mực. Các quy định
của pháp luật được xem như là các quy phạm trong xã hội và nó được biết đến, và sử dụng
một cách vô cùng phổ biến. Từ đó, pháp luật định hướng cho nhận thức và hành vi của các
chủ thể trong xã hội. Khi rơi vào một tình huống nhất định, dựa vào thuộc tính quy phạm của
pháp luật, các chủ thể sẽ được định hướng hành vi cho bản thân mình để đảm bảo theo quy
định của pháp luật.
Phạm vi tác động của pháp luật rất lớn, nó là khuôn mẫu ứng xử cho mọi người, cho
cá nhân, tổ chức trong phạm vi của một quốc gia và được sử dụng trong cuộc sống hàng
ngày; hay thể hiện trên mọi lĩnh vực của các mối quan hệ xã hội. Cũng chính vì vậy, pháp
luật mới mang thuộc tính phổ biến.
Ví dụ: Luật an toàn giao thông có văn bản chứa quy phạm pháp luật. Trong đó sẽ ghi rõ
những trường hợp cũng như hình phạt cho những lỗi vi phạm, như: điều 60 quy định về độ
tuổi của người điều khiển xe máy:
+ Người đủ 16 tuổi trở lên được điều khiển xe gắn máy có dung tích xi-lanh dưới 50 cm3
+ Người đủ 18 tuổi trở lên được điều khiển xe gắn máy có dung tích xi-lanh từ 50 cm3
trở lên.
Câu 2. Nêu khái niệm vi phạm pháp luật và phân tích cấu thành của vi phạm pháp luật
đó.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Cấu thành vi phạm pháp luật là những dấu hiệu đặc trưng của một vi phạm pháp luật
cụ thể.
Vi phạm pháp luật bao gồm 4 yếu tố cấu thành là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ
thể và khách thể.
Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý và
đã thực hiện hành vi trái pháp luật. Mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng
tùy thuộc vào mức độ xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
Khách thể của vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị
hành vi trái pháp luật xâm hại tới. Tính chất của khách thể vi phạm pháp luật cũng là một yếu
tố đánh giá mức độ nguy hiểm trong hành vi trái pháp luật. Là một trong những căn cứ để
phân loại hành vi vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật gồm lỗi, động cơ, mục đích vi phạm pháp luật:
– Lỗi là một trạng thái tâm lý thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hậu quả xấu trong
hành vi của mình (nhìn thấy trước được hậu quả xấu trong hành vi của mình mà vẫn thực
hiện) và trong chính hành vi đó (hành vi chủ động, có ý thức….) tại thời điểm chủ thể thực
hiện hành vi trái pháp luật đó.
Lỗi được chia thành hai loại: cố ý và vô ý
+ Lỗi cố ý gồm:
Lỗi cố ý trực tiếp: là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật nhận thức rõ
hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn
cho hậu quả đó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi trái pháp luật nhận
thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, tuy không
mong muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
+ Lỗi vô ý gồm:
Lỗi vô ý do cẩu thả :là lỗi của một chủ thể đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng do
cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc dù có thể thấy
trước và phải thấy trước hậu quả này.
Lỗi vô ý vì quá tự tin: là lỗi của một chủ thể tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra
hậu quả nguy hiểm cho xã hội song tin chắc rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc cỏ thể
ngăn ngừa được nên mới thực hiện và có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
– Động cơ là cái thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
– Mục đích là kết quả cuối cùng mà chủ thể vi phạm pháp luật mong đạt tới khi thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật.
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật.
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách
quan của vi phạm pháp luật. Nó bao gồm hành vi trái pháp luật, sự thiệt hại cho xã hội và
quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội, thời gian, địa điểm,
công cụ vi phạm. Trước hết phải xác định xem vụ việc vừa xảy ra có phải do hành vi của con
người hay không, nếu phải thì hành vi đó có trái pháp luật không, nếu trái pháp luật thì trái
như thế nào. Sự thiệt hại cho xã hội là những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần do hành vi
trái pháp luật gây ra.
Quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội là việc xác định
xem hành vi trái pháp luật có phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự thiệt hại cho xã hội hay
không và sự thiệt hại cho xã hội có phải kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật hay không,
vì thực tế có trường hợp hành vi trái pháp luật không trực tiếp gây ra sự thiệt hại cho xã hội,
mà sự thiệt hại đó do nguyên nhân khác. Ngoài ra con phải xác định: thời gian vi phạm pháp
luật là giờ, ngày, tháng, năm nào. Địa điểm vi phạm pháp luật là ở đâu. Phương tiện thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật là gì.
– Hành vi trái pháp luật hay còn gọi là hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi trái với
các yêu cầu của pháp luật, nó gây ra hoặc đe dọa gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
– Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là những thiệt hại về người và của hoặc những thiệt hại
phi vật chất khác do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội.
– Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức là giữa chúng
phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu với nhau. Hành vi đã chứa đựng mầm gây ra hậu quả
hoặc là nguyên nhân trực tiếp của hậu quả nên nó phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian;
còn hậu quả phải là kết quả tất yếu của chính hành vi đó mà không phải là của một nguyên
nhân khác.
– Thời gian vi phạm pháp luật là giờ, ngày, tháng, năm xảy ra vi phạm pháp luật.
– Địa điểm vi phạm pháp luật là nơi xảy ra vi phạm pháp luật.
– Phương tiện vi phạm pháp luật là công cụ mà chủ thể sử dụng để thực hiện hành vi trái
pháp luật của mình. Khi xem xét mặt khách quan của vi phạm pháp luật thì hành vi trái pháp
luật luôn luôn là yếu tố bắt buộc phải xác định trong cấu thành của mọi vi phạm pháp luật,
còn các yếu tố khác có bắt buộc phải xác định hay không là tuỳ từng trường hợp vi phạm. Có
trường hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả
nguy hiểm cho xã hội cũng là yếu tố bắt buộc phải xác định, có trường hợp địa điểm vi phạm
cũng là yếu tố bắt buộc phải xác định.
Câu 3. Các kiểu Nhà nước trong lịch sử.
Học thuyết Mác – Lênin về hình thái kinh tế – xã hội là cơ sở khoa học để phân chia các
nhà nước trong lịch sử thành các kiểu. Trong lịch sử nhân loại từ khi xuất hiện xã hội có giai
cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế – xã hội, đó là: chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản và xã
hội chủ nghĩa. Tương ứng với bốn hình thái kinh tế xã hội đó, có bốn kiểu nhà nước. Cụ thể
các kiểu nhà nước trong lịch sử gồm:
+ Kiểu nhà nước chủ nô;
+ Kiểu nhà nước phong kiến;
+ Kiểu nhà nước tư sản;
+ Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các kiểu nhà nước trong lịch sử chủ nô, phong kiến và tư sản tuy có những đặc điểm
riêng về bản chất, chức năng và vai trò xã hội, nhưng đều là nhà nước bóc lột được xây dựng
trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, là công cụ để duy trì và bảo vệ sự thống
trị của giai cấp bóc lột đối với đông đảo nhân dân lao động trong xã hội. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa là kiểu nhà nước mới, tiến bộ vì đặc điểm đông đảo nhân dân lao động trong xã hội tiến
tới xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.
1. Kiểu nhà nước chủ nô.
Kiểu nhà nước chủ nô là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp chủ nô. Nhà nước chủ
nô ra đời trên cơ sở tan rã của chế độ thị tộc, bộ lạc gắn liền với sự xuất hiện của chế độ tư
hữu và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng. Trong kiểu nhà nước chủ nô giai
cấp thống trị xã hội là chủ nô.
Cơ sở hình thành của nhà nước chủ nô là chế độ sở hữu của giai cấp chủ nô với tư liệu
sản xuất và nô lệ. Bản chất của nhà nước chủ nô là thực hiện nền chuyên chính của giai cấp
chủ nô, duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của chủ nô; đàn áp nô lệ và tầng lớp lao động
khác.
Hình thức của nhà nước chủ nô rất đa dạng. Do sự hình thành và phát triển của các
nhà nước chủ nô trong những hoàn cảnh, điều kiện hết sức khác nhau nên việc 6 tổ chức và
thực hiện quyền lực ở mỗi nước có rất nhiều khác biệt, ở mỗi thời kỳ phát triển của đất nước
cũng có nhiều thay đổi phụ thuộc vào sự phát triển của chế độ nô lệ.
Để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, các Nhà nước chủ nô đều thiết lập,
củng cố cho mình một bộ máy nhà nước mang nặng tính quân sự và tập trung quan liêu.
Nhiệm vụ chủ yếu của bộ máy nhà nước chủ nô là trấn áp nô tệ trong nước, xâm lược các
nước khác, giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích cho giai cấp chủ nô, cưỡng bức nô lệ làm giàu
cho giai cấp chủ nô. Bộ máy nhà nước chủ nô giai đoạn đầu rất đơn giản, chỉ gồm rất ít các
cơ quan. Cùng với sự phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ, nhu cầu quản lý xã hội tăng dần
đòi hỏi bộ máy nhà nước chủ nô phát triển, phức tạp hơn, hoàn thiện hơn. Nhiều Nhà nước
chủ nô đã thiết lập ra những bộ máy nhà nước khá hoàn thiện và phát triển như bộ máy Nhà
nước Aten, Nhà nước La Mã… Trong những bộ máy nhà nước này đã có sự chuyên môn hoá
tương đối cao.
2. Kiểu nhà nước phong kiến.
Kiểu nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước thứ hai trong lịch sử xã hội loài người, ra đời
trên sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ hoặc xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của xã hội cộng
sản nguyên thủy. Trong kiểu nhà nước phong kiến giai cấp thống trị xã hội là địa chủ phong
kiến, còn nông dân chỉ có quyền sở hữu nhỏ phụ thuộc vào địa chủ và hầu như không có
quyền gì.
Cơ sở hình thành của nhà nước phong kiến là chế độ sở hữu của địa chủ phong kiến với
tư liệu sản xuất và nô lệ. Bản chất của nhà nước phong kiến là công cụ trong tay giai cấp địa
chủ phong kiến để thực hiện chuyên chính với giai cấp nông dân, thợ thủ công và các tầng
lớp lao động khác, là phương tiện duy trì địa vị kinh tế bảo vệ lợi ích và sự thống trị của địa
chủ phong kiến. Hình thức phổ biến của nhà nước phong kiến là chính thể quân chủ chuyên
chế với quyền lực vô hạn của hoàng đế.
3. Kiểu nhà nước tư sản
Kiểu nhà nước tư sản là kiểu nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trong lòng hình thái
kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa.
Bản chất của nhà nước tư sản do chính những điều kiện nội tại của xã hội tư sản quyết
định, đó chính là cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội và cơ sở tư tưởng.
Nhà nước tư sản có những đặc điểm sau: thiết lập nguyên tắc chủ quyền nhà nước trên
danh nghĩa thuộc về nhân dân; cơ quan lập pháplà cơ quan đại diện của các tầng lớp dân cư
trong xã hội do bầu cử lập nên; thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực và kiềm chế, đối
trọng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng
trong bầu cử nghị viện và tổng thống; hình thức chính thể phổ biến của nhà nước tư sản là
cộng hòa và quân chủ lập hiến.
4. Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa
Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa, một công cụ quản lý mà đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo nhân dân tổ chức ra qua đó nhân dân thực hiện quyền và lợi ích của mình. Trong kiểu
nhà nước xã hội chủ nghĩa giai cấp thống trị xã hội là nhân dân lao động. Đây cũng là kiểu
nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người, ra đời sau Cách mạng tháng Mười Nga
năm 1917.
Cơ sở hình thành của nhà nước xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất.
Các đặc điểm cơ bản của kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa là: thiết lập và đảm bảo
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước, lãnh
đạo xã hội; tất cả các cơ quan nhà nước đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ; quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở có sự phân công và phối hợp hoạt
động giữa các cơ quan thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp; đảm bảo sự
đoàn kết, bình đẳng và tương trợ giữa các dân tộc.
Hình thức phổ biến là chính thể cộng hòa dân chủ.
Câu 4. Các dấu hiệu (đặc trưng) của Nhà nước.
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt, nên so với các tổ chức khác, Nhà nước có các dấu hiệu
đặc trưng, cơ bản sau:
+ Phân bố dân cư theo các đơn vị hành chính - lãnh thổ không phụ thuộc vào giai cấp, dân
tộc, tôn giáo, huyết thống, địa vị xã hội, nghề nghiệp;
+ Có bộ máy quyền lực công với sức mạnh cưỡng chế bao gồm quân đội, cảnh sát, Toà án
và một đội ngũ công chức chuyên nghiệp làm nhiệm vụ cai trị, quản lí xã hội;
+ Có chủ quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ của đất nước mình, quyết định các vấn đề
quan trọng nhất của đất nước về đối nội cũng như đối ngoại;
+ Có quyền ban hành pháp luật, những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung đối với
mọi thành viên trong xã hội, với tư cách là một công cụ đắc lực trong cai trị, quản lí xã hội;
+ Có quyền quy định các loại thuế mang tính bắt buộc đối với cá nhân và tổ chức trong xã
hội nhằm thiết lập nguồn tài chính nuôi bộ máy công quyền và thực hiện các chức năng của
mình.
Nhà nước thực hiện việc quản li dân cư theo lãnh thổ
Các tổ chức xã hội rất đa dạng, phức tạp, được hình thành và duy trì dựa trên những điều
kiện xã hội khác nhau, có thể là quan hệ huyết thống, giới tính, độ tuổi, quan điểm chính trị...
Trong khi đó, nhà nước lấy việc quản lí dân cư theo lãnh thổ 8 làm điểm xuất phát. Người
dân không phân biệt huyết thống, dân tộc, giới tính... cứ sống trên một địa vực nhất định thì
chịu sự quản lí của một nhà nước nhất định vă do vậy, họ thực hiện quyền và nghĩa vụ trước
nhà nước theo nơi mà họ cư trú.