You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ




TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN I
Đề tài:
VI PHẠM PHÁP LUẬT CỦA SINH
VIÊN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Tên học phần : Pháp luật đại cương


Lớp học phần : 2111POLI190317
Sinh viên thực hiện : Lạc Ngọc Nhi
MSSV : 47.01.751.203
1

Thành phố Hồ Chí Minh - 2022


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU...................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1. Lý luận chung về vi phạm pháp luật............................................ 3
1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật................................................................... 3
1.1.1. Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật........................................................... 3
1.1.2. Các loại vi phạm pháp luật.......................................................................... 4
1.1.3. Các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật...................................................... 6
1.2. Tiểu kết chương 1.................................................................................... 10
CHƯƠNG 2. Thực tiễn vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay................ 11
2.1. Tình hình vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay................................ 11
2.1.1. Thực trạng.................................................................................................. 11
2.1.2. Nguyên nhân............................................................................................... 12
2.1.3. Hậu quả...................................................................................................... 14
2.1.4. Một số giải pháp giúp hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật ở sinh viên.. . 15
2.2. Tiếu kết chương 2........................................................................................ 15
KẾT LUẬN......................................................................................................... 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................... 17
2

LỜI NÓI ĐẦU

Ở nước ta hiện nay có hơn 25% dân số là thanh niên, bao gồm cả sinh viên.
Có thể nói, sinh viên là một bộ phận rất quan trọng trong cơ cấu thanh niên Việt
Nam, đây là lực lượng nòng cốt, kế thừa và phát huy nguồn trí tuệ của nước nhà, là
lực lượng then chốt trong sự nghiệp phát triển đất nước. Sinh viên sẽ là những
nguồn nhân lực dồi dào bởi sinh viên là những tri thức trẻ, có sự sáng tạo phong phú
cho công việc và cuộc sống, có ý chí và thực lực để hướng đến một tương lai tốt
đẹp. Tuy nhiên, trước những tác động, những cạm bẫy của mặt trái xã hội đã làm
cho nhiều sinh viên trở nên mất phương hướng, đi sai quỹ đạo mà họ đã đề ra, lười
học tập, sa vào các tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật. Đây thật sự là một thực trạng
đáng báo động. Do đó, việc nghiên cứu vấn đề vi phạm pháp luật của sinh viên hiện
nay có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm ra phương hướng và giải quyết, ngăn
chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật của thế hệ trẻ. Tuy nhiên, vi phạm pháp
luật là gì? Những vấn đề lý luận và thực tiễn ra sao? Ta sẽ phân tích và làm rõ
chúng trong bài tiểu luận này.
3

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT

1.1. Khái niệm vi phạm pháp luật


Vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người trái với quy định của
pháp luật, có lỗi do chủ thể có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại
hoặc đe dọa xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. Vi
phạm pháp luật là trường hợp các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng những quy định của pháp luật. Vi phạm pháp luật là một hiện tượng nguy
hiểm, gây tác động tiêu cực đến xã hội.
1.1.1. Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật
- Thứ nhất, hành vi xác định của cá nhân, pháp nhân hay cụ thể
Hành vi của con người là sự thể hiện ý chí ra bên ngoài bằng hành động
(hoặc không hành động) một cách có ý thức nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt
quan hệ pháp luật. Có thể nói theo một cách khác, bất kỳ một sự việc nào mà con
người tạo nên bắt nguồn từ những hành động, nguyên nhân nào đó và được thực
hiện, sự thực hiện thể hiện bằng hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành
động nhằm đạt được mục đích nào đó.
- Thứ hai, hành vi xác định phải trái pháp luật hiện hành
Một hành vi được coi là trái pháp luật khi hành vi đó không phù hợp với các
quy định của pháp luật, tức là làm những điều mà pháp luật cấm hay không làm
những điều mà pháp luật yêu cầu phải làm. Hành vi bất hợp pháp ấy của chủ thể có
thể là hành vi của cá nhân hay tổ chức, xâm hại đến các quyền công dân, quyền tài
sản dưới sự quản lý của Nhà nước, … Sự quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý để
xác định hành vi của một chủ thể cụ thể nào đó có trái với pháp luật hay không. Một
người sẽ không phải chịu trách nhiệm pháp lý của mình khi hành vi đó không nằm
trong những điều mà pháp luật đã quy định. Hành vi của con người có thể được cái
quy phạm xã hội khác điều chỉnh.
4

Các hành vi trái pháp luật được thể hiện dưới dạng như:
- Làm một việc (hay một hành động) mà pháp luật cấm không được làm
- Không làm một việc (hay không hành động) mà pháp luật đòi hỏi
- Sử dụng quyền hạn vượt quá quy định của pháp luật.
- Thứ ba, hành vi trái pháp luật đó phải có lỗi của chủ thể
Lỗi là yếu tố không thể thiếu để xác định hành vi vi phạm pháp luật. Đây là
yếu tố thể hiện thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của chính mình, tức
là mặt chủ quan của hành vi, hay lỗi của chủ thể. Chủ thể có khả năng nhận thức về
hành vi của mình nhưng cố ý hay vô ý thực hiện hành vi trái pháo luật thì bị coi là
có lỗi. Do đó, có những hành vi trái pháp luật nhưng họ bắt buộc phải thực hiện
trong hoàn cảnh khó, không còn cách xử sự nào khác thì hành vi trái pháp luật này
không được coi là có lỗi và không cấu thành hành vi vi phạm pháp luật được. Ví dụ
như A đang đi trên đường vắng, đi một mình và vào buổi tối thì đột nhiên B xuất
hiện, đuổi theo A và cướp lấy điện thoại mà A đang cầm trên tay. Lúc đó, A đã đuổi
theo B và dùng chân đá B, làm cho B bị té xuống và bị tay phải. Lúc này, không thể
nói A đã vi phạm pháp luật được do A đã ở trong tình thế cấp thiết, phòng vệ chính
đáng và bảo vệ tài sản của mình.
- Thứ tư, chủ thể vi phạm pháp luật phải có đủ năng lực chủ thể
Người có đủ năng lực chủ thể là người có khả năng nhận thức được hành vi,
có khả năng lựa chọn cách hành động, cách xử sự của mình, có thể nhận biết được
hành vi của mình có thể gây nên những hậu quả như thế nào mà vẫn thực hiện thì
đây được xem là hành vi vi phạm pháp luật. Vậy nên những hành vi trái pháp luật
do những người không thể nhận thức được, do những người không có năng lực
hành vi như mất trí, bị bệnh tâm thần, … thực hiện thì không được xem là hành vi
vi phạm pháp luật được.
1.1.2. Các loại vi phạm pháp luật
Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật,
chúng được chia thành tội phạm và các vi phạm pháp luật khác mà không phải là tội
5

phạm. Tội phạm là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội ở mức cao nhất. Còn các vi
phạm pháp luật khác là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, nhưng ở mức thấp
hơn tội phạm.
Vi phạm pháp luật được chia thành bốn loại là: Vi phạm hình sự (tội phạm),
vi phạm hành chính, vi phạm dân sự, vi phạm kỷ luật. Cơ sở để chia thành bốn loại
này là các yếu tố bao gồm khách thể, chủ thể, hậu quả, cách thức thực hiện hành vi.
- Vi phạm hình sự (tội phạm): là hành vi trái pháp luật được quy định trong bộ
luật hình sự, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý gây ra một cách vô
ý hoặc cố ý, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chế độ Nhà nước; tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân.
Chủ thể của vi phạm hình sự có thể là cá nhân, pháp nhân. Ví dụ như giết người,
buôn lậu…
- Vi phạm hành chính: là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do cá nhân, tổ chức có
năng lực pháp lý thực hiện, xâm phạm các quy tắc quản lý Nhà nước mà không phải
là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Vi phạm
hành chính là loại vi phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn vi phạm hình
sự. Vi phạm hành chính có thể được thể hiện trên hai khía cạnh, một là, khách thể
của vi phạm hành chính có tầm quan trọng đối với đời sống xã hội thấp hơn so với
khách thể của tội phạm, hai là, tính chất và mức độ thiệt hại cho xã hội của hành vi
vi phạm hành chính thấp hơn so với tội phạm… Quy tắc quản lý của Nhà nước rất
đa dạng: Quản lý trật tự an toàn xã hội; trật tự quản lý văn hóa, giáo dục, đất đai, tài
nguyên môi trường; trật tự an toàn giao thông. Chủ thể của vi phạm hành chính có
thể là chá nhân hoặc tổ chức. Vi phạm hành chính được quy định trong Luật xử lý
vi phạm hành chính và các Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh
vực cụ thể. Ví dụ như trốn thuế, phá hỏng tài sản thuộc quản lý của Nhà nước.
- Vi phạm dân sự: là những hành vi xâm hại đến quan hệ tài sản, quan hệ nhân
thân có liên quan đến tài sản hoặc không liên quan đến tài sản được quy định trong
Bộ luật Dân sự. Đây là loại vi phạm mà trong trường hợp chủ thể không thực hiện
6

hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của họ trong mối quan hệ pháp
luật dân sự cụ thể nào đó. Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người về những
lợi ích về vật chất được tạo ra trong quá trình hoạt động sản xuất của xã hội như:
quan hệ sở hữu, quan hệ thừa kế… Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn liền với một
tài sản bất kỳ nào đó. Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về những
lợi ích phi vật chất, không có giá trị về mặt kinh tế, không tính ra được thành tiền
hay không thể chuyển giao vì nó gắn liền với một cá nhân, tổ chức nhất định. Nó
ghi nhận đặc tính riêng biệt về sự đánh giá của xã hội đối với cá nhân hay tổ chức
đó. Quan hệ nhân thân thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành Luật dân sự gồm quan
hệ nhân thân liên quan đến tài sản (như: quyền tác giả, quyền sở hữu công nghệ,
…), quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản (như: danh dự, nhân phẩm, …).
Chủ thể của vi phạm dân sự là cá nhân hoặc tổ chức. Vi phạm dân sự dẫn đến việc
áp dụng các chế tài do những quy phạm pháp luật dân sự quy định. Ví dụ như tranh
chấp đất đai, nhà cửa…
- Vi phạm kỷ luật: là hành vi có lỗi, trái với những quy chế, quy tắc xác lập
trật tự trong nội bộ cơ quan, xí nghiệp, trường học, … Vi phạm kỷ luật dẫn đến việc
áp dụng các biện pháp thi hành kỷ luật khác nhau như: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc
lương, … Chủ thể của vi phạm pháp luật có thể là cán bộ - công chức Nhà nước,
học sinh – sinh viên, … Ví dụ sinh viên dùng tài liệu trong giờ thi (đề đóng) là hành
vi vi phạm kỷ luật.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành hành vi vi phạm pháp luật
Các yếu tố cấu thành là dấu hiệu đặc trưng của một hành vi vi phạm pháp
luật cụ thể. Trong khoa học pháp lý, về mặt cấu trúc vi phạm pháp luật thường được
xem xét trên những yếu tố: Mặt khách quan, mặt chủ quan, mặt chủ thể và mặt
khách thể.
- Mặt khách quan:
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ những dấu hiệu biểu hiện
ra bên ngoài thế giới khách quan của vi phạm pháp luật, bao gồm các yếu tố: hành
7

vi trái pháp luật, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm…
a. Hành vi trái pháp luật là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, trái
với các yêu cầu của pháp luật, nó gây ra hoặc đe dọa gây ra những hậu quả nguy
hiểm cho xã hội. Hành vi trái pháp luật có thể thể hiện dưới dạng hành động như
đâm, chém người, cướp giật, …; hành vi trái pháp luật cũng có thể thể hiện dưới
dạng không hành động như không tố giác tội phạm, trốn tránh nghĩa vụ, …
b. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là kết quả trực tiếp của hành vi vi phạm
pháp luật, là những thiệt hại gây ra cho xã hội. Bất cứ một hành vi vi phạm pháp
luật nào cũng gây ra hoặc đe dọa gây ra một hoặc một vài thiệt hại nhất định. Hậu
quả của hành vi vi phạm pháp luật được biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình
thường của các quan hệ xã hội bị xâm hại. Hậu quả mà vi phạm pháp luật gây ra có
thể là những hậu quả nhìn thấy được như thiệt hại về vật chất, về tính mạng, về sức
khỏe con người. Ngoài ra, nó cũng có thể là những thiệt hại trừu tượng mà con
người khó nhận biết được như thiệt hại bề tinh thần, mức độ nguy hiểm của tính
mạng con người. Hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật là cơ sở để đánh giá mức
độ nguy hiểm gây ra cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật đó.
c. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức
là giữa chúng phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu với nhau. Hành vi đã chứa
đựng mầm mống gây ra hậu quả hoặc là nguyên nhân trực tiếp của hậu quả nên nó
phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; còn hậu quả phải là kết quả tất yếu của
chính hành vi đó mà không phải là của một nguyên nhân khác.
d. Thời gian vi phạm pháp luật là thời điểm hoặc khoảng thời gian, là giờ,
ngày, tháng, năm mà hành vi vi phạm pháp luật được thực hiện.
e. Địa điểm vi phạm pháp luật là nơi xảy ra vi phạm pháp luật.
f. Phương tiện vi phạm pháp luật là công cụ mà chủ thể sử dụng để thực
hiện hành vi trái pháp luật của mình. Chẳng hạn như mã tấu để chém, giết người; xe
máy để chạy đi cướp, …
8

g. Phương pháp, thủ đoạn là cách thức thực hiện hành vi vi phạm, cách thức
sử dụng công cụ vi phạm.
- Mặt chủ quan:
Mặt chủ quan là toàn bộ diễn biến tâm lý của chủ thể, là diễn biến bên trong
của con người mà bằng giác quan thì người khác không thể nào nhìn thấy được. Các
dấu hiệu của mặt chủ quan bao gồm lỗi, động cơ, mục đích của chủ thể đối với hành
vi và hậu quả của sự vi phạm pháp luật.
- Lỗi là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể khi có hành vi vi phạm pháp
luật, lỗi là một yếu tố quan trọng để đánh giá, phản ánh mức độ nguy hiểm mà hành
vi vi phạm pháp luật đó gây ra cho xã hội. Căn cứ vào dấu hiệu ý chí và lý trí, lỗi
bao gồm hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý.
+ Lỗi cố ý gồm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.
 Lỗi cố ý trực tiếp: là lỗi của chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật nhận
thức rõ được hành vi của mình đang làm là trái pháp luật, nhìn thấy trước
hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi và mong muốn điều đó xảy ra. Ví
dụ: A và B xảy ra mâu thẫu, A đã dùng dao đâm B với ý muốn đâm chết, giết
chết B. Như vậy, rõ ràng A có thể nhận thức được việc mình làm là hoàn
toàn nguy hiểm cho xã hội và A có mong muốn hậu quả chết người xảy ra.
Vì vậy A có lỗi cố ý trực tiếp.
 Lỗi cố ý gián tiếp: là lỗi của chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật nhận
thức rõ được hành vi của mình đang làm là trái pháp luật, nhìn thấy trước
hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tuy không mong muốn nhưng để
mặc cho hậu quả xảy ra. Ví dụ: A đang đi trên đường đi làm về và gặp B bị
trượt chân té xuống sông. Tuy nhiên A đã làm ngơ, bỏ mặc đến tính mạng
của B và A đã tiếp tục đi mà không cứu giúp, kêu gọi cứu giúp B. Như vậy,
A đã có ý thức bỏ mặc hậu quả nguy hiểm chết người xảy ra, A có lỗi cố ý
gián tiếp.
+ Lỗi vô ý gồm lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
9

 Lỗi vô ý vì quá tự tin: là lỗi của chủ thể vi phạm tuy thấy trước được hành vi
của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm nhưng tin rằng nó không xảy ra
hoặc có thể ngăn ngừa được. Ví dụ: A lái xe quá tốc độ và A tin rằng tay lái
của mình rất chắc chắn, không thể xảy ra tai nạn được. Tuy nhiên, thực tế A
đã gây ra tai nạn giao thông. Vậy nên A có lỗi vô ý vì quá tự tin.
 Lỗi vô ý do cẩu thả: là lỗi của chủ thể vi phạm không nhận thức được hậu
quả nguy hiểm do hành vi của mình mặc dù trách nhiệm phải biết và có thể
biết. Ví dụ: A là kế toán của công ty B, trong lúc kết sổ vào cuối ngày, vì sự
cẩu thả của mình mà A đã nhập liệu thiếu một số 0, việc này làm tổn thất đến
công ty. Có thể thấy A là một kế toán, A có trách nhiệm phải xem xét kỹ
những chi tiết nhập liệu, nhưng do cẩu thả nên A đã nhập thiếu và gây ảnh
hưởng đến công ty. Vì vậy, A có lỗi vô ý do cẩu thả.
- Động cơ vi phạm pháp luật là động lực bên trong, là những nguyên nhân
bên trong (các nhu cầu thỏa mãn) thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật. Mặc nhiên, chỉ những trường hợp có lỗi cố ý thì mới có yếu tố động
cơ, bởi vì những người có lỗi vô ý thì họ không nhận thức được hành vi của
mình là vi phạm pháp luật hoặc họ hoàn toàn tin rằng hành vi mình đã và đang
làm là đúng và hợp pháp. Chẳng hạn như ghen tuông, đố kỵ, lòng tham, … là
những động cơ thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật để thỏa
mãn nhu cầu của chính mình.
- Mục đích vi phạm pháp luật là kết quả, mục tiêu trong ý thức mà chủ thể vi
phạm pháp luật đã đặt ra và mong muốn đạt tới khi thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật. Chỉ những hành vi vi phạm pháp luật do lỗi cố ý trực tiếp thì mới có
mục đích vi phạm pháp luật bởi chủ thể vi phạm pháp luật muốn đạt được mục
tiêu, múc đích mà mình đề ra để thỏa mãn mình.
- Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức phải có năng lực chịu
trách nhiệm pháp lý đã có hành vi vi phạm pháp luật. Năng lực trách nhiệm pháp
lý của cá nhân căn cứ vào độ tuổi, vào khả năng nhận thức điều khiển hành vi
của họ. Mọi tổ chức hợp pháp đều có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý về mọi
10

hành vi của họ, điều này dựa trên cơ sở địa vị pháp lý của tổ chức họ. Tùy thuộc
vào khách thể được pháp luật bảo vệ mà quy định năng lực chịu trách nhiệm
pháp lý trong các ngành Luật. Ở mỗi loại vi phạm pháp luật, tùy theo quy định
của pháp luật đều có chủ thể riêng.
- Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ nhưng lại bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Khách thể là một yếu tố
quan trọng trong việc xác định tính chất nguy hiểm của hành vi. Một vi phạm
pháp luật có thể xâm hại đến một hoặc nhiều khách thể, chẳng hạn như hành vi
cướp giật vừa xâm hại đến tình trạng sức khỏe của con người, vừa xâm hại đến
vật chất là tài sản của người bị hại. Cần phân biệt khách thể của vi phạm pháp
luật với đối tượng tác động của vi phạm đó. Đối tượng tác động của vi phạm
pháp luật là những bộ phận của khách thể, có thể là con người, các vật thể cụ thể,
hoạt động của con người...
1.2. Tiểu kết chương 1
Việc tìm hiểu khái niệm vi phạm pháp luật, phân tích các dấu hiệu cơ
bản của vi phạm pháp luật, các loại vi phạm pháp luật và các yếu tố cấu thành
nên hành vi vi phạm pháp luật sẽ giúp chúng ta, đặc biệt là các bạn sinh viên có
thể hiểu rõ hơn và chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Tất cả những mối
quan hệ diễn ra xung quanh đời sống của sinh viên đều được pháp luật bảo vệ để
mang lại sự công bằng cũng như giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Việc vi phạm
pháp luật ở sinh viên hiện nay diễn ra rất nhiều, rất phức tạp và bằng nhiều hình
thức, thủ đoạn khác nhau, bao phủ khắp cả nước, không nơi nào mà không có sự
việc vi phạm pháp luật mà liên quan đến sinh viên. Việc này làm ảnh hưởng đến
giá trị cốt lõi mà mỗi sinh viên vốn có. Thông qua việc tìm hiểu và phân tích các
vấn đề liên quan đến pháp luật đã giúp chúng ta, giúp sinh viên có cái nhìn bao
quát hơn về các hành vi vi phạm pháp luật, các hành vi tiêu cực. Từ đó, có nhận
thức đúng đắn hơn, ngày càng hoàn thiện bản thân để trở thành một thế hệ kế
thừa thật xứng đáng của xã hội.
11

CHƯƠNG 2

THỰC TIỄN VI PHẠM PHÁP LUẬT CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY

2.1. Tình hình vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay
2.1.1. Thực trạng
Theo khái niệm của nước ta hiện nay, sinh viên là những người đang học tập
và rèn luyện tại các trường Cao đẳng, Đại học, … Sinh viên đa phần có đặc điểm là
còn khá trẻ, thích khám phá, dễ bị khủng hoảng tâm lý dẫn đến những suy nghĩ tiêu
cực, hành động sai trái nếu gia đình và nhà trường chưa có sự quan tâm đúng mức.
Hiện nay, Việt Nam chúng ta đã và đang trong quá trình hội nhập quốc tế, nhiều
sinh viên có ý chí vươn lên trong học tập, trong cuộc sống và có cả những hoài bão
riêng cho mình. Tuy nhiên, dưới tác động của nhiều mặt đã khiến nhiều sinh viên có
suy nghĩ lệch lạc, đi sai hướng và gây nên những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng
đến xã hội và ảnh hưởng đến cả tương lai tươi sáng của họ. Hiện nay, có rất nhiều
hình thức vi phạm pháp luật, có thể kể đến như vi phạm trật tự an toàn giao thông,
vi phạm kỷ luật, trộm cắp tài sản, bạo lực học đường, …
Tình trạng vi phạm pháp luật trong đời sống xã hội của sinh viên hiện nay
đang ngày càng gia tăng về số lượng và về mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi
trái pháp luật. Đáng lo ngại hơn là tình trạng vi phạm pháp luật xảy ra ở sinh viên là
do một phần thiếu hiểu biết về pháp luật, một phần là do đã hiểu, đã nhận thức được
đó là hành vi trái pháp luật, nhưng lo sợ sẽ bị phạt nên sinh viên cố tình lẫn tránh,
vờ như không hiểu biết về pháp luật và đi theo hướng đã sai càng thêm sai. Tình
12

trạng sinh viên vi phạm pháp luật đang ngày càng đáng báo động, tăng theo hướng
trẻ hóa và mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm pháp luật cũng ngày càng
tăng. Có thể nói vi phạm pháp luật ở sinh viên đang là nỗi lo chung của tất cả mọi
người.
Hiện nay, ở Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 100 trường Đại học, Cao
đẳng với gần một triệu sinh viên thuộc hệ chính quy (chưa kể các hệ liên thông, vừa
học – vừa làm, học từ xa). Theo đánh giá của Công an Thành phố Hồ Chí Minh cho
thấy số lượng sinh viên vi phạm pháp luật ngày càng gia tăng và gây nên những hậu
quả ngày càng nghiêm trọng. Ở những năm trước, những người ở lứa tuổi sinh viên
thường vi phạm pháp luật với các hành vi như trộm cắp, gây rối trật tự công cộng,
cố ý gây thương tích nhưng không gây hậu quả nghiêm trọng, thì những năm gần
đây, tính chất và mức độ nghiêm trọng của các hành vi vi phạm pháp luật do sinh
viên gây ra ngày càng cao, vượt quá giới hạn của độ tuổi sinh viên như: hình thành
các băng nhóm tội phạm có tổ chức, có cơ cấu chặt chẽ và mục đích rõ ràng; thực
hiện các hành vi phạm tội như giết người (thậm chí giết cả ông bà, cha mẹ, anh/chị,
em); cướp giật tài sản có tổ chức, hiếp dâm, mua bán trái phép chất ma túy. Số
lượng sinh viên vi phạm pháp luật và mức độ nghiêm trọng của từng hành vi là khác
nhau ở từng địa phương, và đặc biệt là số lượng và mức độ cao nhất là ở các thành
phố lớn. Theo thống kê từ năm 2005 đến nay, có hơn 2000 trường hợp đánh nhau ở
sinh viên, khoảng 900 tội phạm ma túy, 90 tội phạm giết người và hơn 2000 trường
hợp cướp tài sản trong cả nước.
Đặc biệt, trong những năm sắp tới, công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước
sẽ đặt ra nhiều yêu cầu về khoa học, kỹ thuật, kinh tế hơn nữa. Bên cạnh những mặt
tích cực như thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội theo nguyên tắc đôi
bên cùng có lợi, còn có mặt tiêu cực là làm gia tăng số lượng tội phạm, số lượng vi
phạm pháp luật ở sinh viên, tích chất cũng ngày càng nghiêm trọng hơn, đặc biệt
như tội phạm xuyên quốc gia, công nghệ cao, … Đây sẽ là những yếu tố cực kỳ
quan trọng, tác động mạnh mẽ đến tình hình vi phạm pháp luật ở sinh viên.
2.1.2. Nguyên nhân
13

Bất kỳ một sự việc nào xảy ra trên thế giới này đều có nguyên nhân của nó.
Vì nên, tình hình vi phạm pháp luật đáng báo động đang diễn ra của sinh viên hiện
nay là do đâu?
Có thể nói, trước tiên là nguyên nhân chủ quan, sinh viên bị thiếu kiến thức,
hiểu biết chưa đúng, không chính xác về pháp luật dẫn đến gây ra những hành vi vi
phạm pháp luật, ảnh hưởng đến tương lai của họ. Hoặc có thể là do nhận thức và ý
thức chấp hành các quy định của pháp luật kém như lái xe sai làn đường, vượt đèn
đỏ; cũng có thể do bị cám dỗ bởi vật chất dẫn đến con đường buôn bán trái phép
chất ma túy, … Ngoài ra, sinh viên đang ở lứa tuổi phát triển hoàn thiện về nhận
thức, về tâm sinh lý, các bạn thường hay thể hiện “cái tôi”, thích thể hiện bản thân
mình, thích làm những điều khác người và thích bức phá để khẳng định vị trí của
mình trong lòng người khác. Đa số các bạn được cha mẹ bảo bọc, ít vốn sống và
kinh nghiệm xã hội, khả năng tiếp nhận thông tin nhanh nhưng lại có ít khả năng
chọn lọc được thông tin nào là tốt, thông tin nào là xấu, và đây là điều kiện để kẻ
xấu lợi dụng, dẫn dắt và lôi kéo sinh viên vào con đường làm những việc trái pháp
luật, có thể nói các bạn vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân của các hành vi vi phạm
pháp luật.
Tiếp đến là nguyên nhân khách quan. Trước tiên có thể kể đến là từ phía gia
đình, đây được coi là nguyên nhân đầu tiên và chủ yếu, bởi mỗi đứa trẻ đều được
sinh ra trong gia đình, chịu ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình phát triển nhân cách của
chính chúng ta. Có thể nói vai trò giáo dục trong gia đình là hết sức quan trọng và
cần thiết, đặc biệt là vai trò của cha mẹ, đây là một quá trình liên tục và lâu dài kể từ
khi đứa trẻ được sinh ra cho đến khi nó lớn lên, trưởng thành. Điều này sẽ tạo điều
kiện cho con em phát triển một cách hoàn thiện nhất và toàn vẹn nhất. Nếu một đứa
trẻ được gia đình của nó giáo dục, dạy dỗ chu đáo thì đứa trẻ đó khi lớn lên sẽ thành
một người công dân tốt, có ích cho xã hội. Gia đình chỉ cần tạo điều kiện giáo dục
tốt, có nề nếp kỷ cương đúng mực thì cho dù điều kiện kinh tế có khó khăn thì đứa
trẻ đó vẫn trở thành một người tốt, là một người hạnh phúc và có lối sống lành
mạnh. Ngược lại, khi đứa trẻ lớn lên trong môi trường giáo dục không tốt thì đứa trẻ
14

đó dễ lâm vào con đường vi phạm pháp luật, con đường tù tội và phải trả giá rất đắt
cho những hành vi của chính mình. Bên cạnh yếu tố gia đình thì yếu tố đến từ phía
nhà trường cũng góp một phần vào sự tác động đến sinh viên. Hầu hết các trường
đều cho sinh viên ký cam kết không được vi phạm pháp luật, nhưng điều này chỉ là
hình thức, vẫn còn rất nhiều trường hợp vi phạm pháp luật xảy ra ở môi trường Đại
học, Cao đẳng. Thông thường, các trường học không quá chú trọng đến việc dạy
pháp luật cho sinh viên, chưa có nhiều giải pháp để quản lý và dạy bảo sinh viên
chưa tốt. Khi gặp một sinh viên vi phạm kỷ luật thì thường đưa ra các hình thức
phạt nặng, có thể là kỷ luật đuổi học, điều này vô hình chung tạo nên một khoảng
trống thiếu đi sự quản lý, giáo dục một cách tinh tế dễ làm sinh viên va vào con
đường vi phạm pháp luật. Ngoài ra, giữa trường học và gia đình sinh viên chưa thật
sự gắn kết để cùng nhau dạy dỗ con em mình cũng là nguyên nhân khiến các bạn dễ
phạm sai lầm, khiến nhiều bạn đi vào con đường nghiện game, xem các phim ảnh
bạo lực hoặc thậm chí là khiêu dâm mà gia đình và nhà trường đều không hay biết.
Đây là một điều kiện tốt để các đối tượng xấu bên ngoài lôi kéo các em vào con
đường vi phạm pháp luật. Thêm nữa là nguyên nhân từ phía xã hội cũng quan trọng
không kém. Do tác động của nền kinh tế thị trường và sự quản lý thiếu sót, chưa
đánh giá đúng mức độ nguy hiểm, mức độ phức tạp của các hành vi vi phạm pháp
luật để đề ra những giải pháp hợp lý.
2.1.3. Hậu quả
Mỗi hành vi vi phạm pháp luật đều phải gánh chịu một hoặc vài hậu quả
tương đương mà chính hành vi đó gây ra, ta có thể gọi đó là trách nhiệm pháp lý.
Đây là mối quan hệ pháp luật đặc biệt giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với
chủ thể vi phạm pháp luật, trong đó cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc người
có hành vi vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi được quy định
trong phần chế tài của quy phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý sẽ giúp giáo dục,
răn đe, trừng phạt đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật, mặc khác phòng
ngừa chung đối với cộng đồng. Những tội phạm, chẳng hạn như cố ý giết người, sẽ
chịu trách nhiệm hình sự, hình phạt này do tòa án quyết định trên cơ sở của Bộ luật
15

hình sự. Những hành vi vi phạm hành chính thì sẽ chịu trách nhiệm hành chính,
phải gánh chịu một biện pháp cưỡng chế hành chính tùy theo mức độ vi phạm của
họ. Những hành vi vi phạm dân sự thì sẽ chịu trách nhiệm dân sự, phải gánh chịu
một biện pháp cưỡng chế nhà nước nhất định khi xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, … của chủ thể khác. Biện pháp cưỡng chế phổ biến đi
kèm trách nhiệm này là bồi thường thiệt hại. Những hành vi vi phạm kỷ luật sẽ chịu
trách nhiệm kỷ luật do thủ trưởng Cơ quan Nhà nước hoặc thủ trưởng cơ quan cấp
trên trực tiếp áp dụng. Trách nhiệm kỷ luật đưa đến chế tài là khiển trách, cảnh cáo,
chuyển đi làm công việc khác hoặc buộc sa thải, thôi việc… Trách nhiệm vật chất là
trách nhiệm mà sinh viên, người lao động phải bồi thường thiệt hại cho trường học,
doanh nghiệp khi làm hỏng, mất dụng cụ. Qua những trách nhiệm pháp lý trên, có
thể thấy nếu sinh viên bước vào con đường vi phạm pháp luật thì phải chịu những
hậu quả nặng nề, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tương lai của chính bản thân
mình và mọi người xung quanh.
2.1.4. Một số giải pháp giúp hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật ở sinh viên
Thứ nhất, sinh viên cần tự ý thức bởi không ai có thể hoàn toàn điều khiển
người khác được cả. Sinh viên cần phải tìm hiểu nhiều hơn về pháp luật, về các loại
vi phạm pháp luật để tránh hành động sai, gây hậu quả nghiêm trọng. Ngoài ra, sinh
viên nên có lối sống lành mạnh, trong sáng, không nên chơi nhiều các trò chơi điện
tử, không nên tiếp cận và chơi thân với những người xấu vì họ có thể lôi kéo ta vào
con đường tội lỗi. Sinh viên nên chọn cho mình những người bạn tốt để chơi chung
và cũng không ngừng hoàn thiện bản thân để trở thành một người tốt và có ích.
Thứ hai, gia đình nên quan tâm, lo lắng đến con em mình nhiều hơn. Để ý,
giúp đỡ và dạy dỗ con mình để chúng không va vào con đường tội lỗi, gây ảnh
hưởng đến tương lai phía trước.
Thứ ba, nhà trường nên chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật
một cách chuẩn mực cho sinh viên. Không nên chỉ bồi dưỡng, giảng dạy kiến thức
chuyên ngành, mà nên phổ cập thêm kiến thức về pháp luật, về kỹ năng sống để
giúp sinh viên có đủ nhận thức và hành động một cách đúng đắn. Sự thiếu đổng bộ
16

trong công tác giáo dục đã dân đến hậu quả nghiêm trọng là ý thức pháp luật của
sinh viên chưa cao, dẫn đến tình trạng phạm tội ở lớp người này xảy ra nghiêm
trọng, chiếm tỷ lệ cao trong tổng số người phạm pháp và đang có xu thế ngày càng
tăng, trong số đó có nhiều trường hợp do kém hiểu biết pháp luật mà dẫn đến phạm
tội.
2.2. Tiểu kết chương 2
Vấn đề vi phạm pháp luật ở sinh viên hiện nay là một vấn đề đáng báo động,
đã có nhiều hình thức, nhiều thủ đoạn khác nhau để thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật. Bản thân sinh viên cần tự ý thức về mối nguy hiểm, đồng thời gia đình, nhà
trường cũng cần phối hợp để giáo dục sinh viên, giúp sinh viên có nhận thức đúng
đắn và phát triển một cách toàn diện vì đây sẽ là thế hệ kế thừa và phát huy những
giá trị tốt đẹp của đất nước.

KẾT LUẬN

Qua những tìm hiểu khi nghiên cứu về vấn đề vi phạm pháp luật của sinh
viên hiện nay, có thể thấy tình trạng sinh viên vi phạm pháp luật ngày càng gia tăng
về cả số lượng và mức độ nghiệm trọng của hành vi. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn
đến sự việc này, nhưng chủ yếu là do bản thân sinh viên chưa tự nhận thức đúng
đắn về pháp luật cũng như chưa có ý thức chấp hành các quy định của pháp luật tốt,
ngoài ra yếu tố gia đình, nhà trường, cũng tác động một phần đến những hành động,
suy nghĩ của sinh viên hiện nay. Từ những nhận thức về tầm quan trọng của sinh
viên và những nhận thức về mối nguy hiểm do vi phạm pháp luật gây ra, sinh viên
nên tự tìm hiểu về pháp luật nhiều hơn, tạo cho mình một cuộc sống lành mạnh hơn;
gia đình và nhà trường cũng nên tạo điều kiện để sinh viên phát triển toàn diện và
đúng đắn nhất. Điều này sẽ tạo nên một thế hệ trẻ tràn đầy nhiệt huyết, năng động
và có ích cho tương lai đất nước.
17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tập bài giảng Pháp luật đại cương của Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
2. https://luatduonggia.vn/phan-tich-cac-yeu-to-cau-thanh-cua-vi-pham-phap-
luat-lay-vi-du/
3. https://luatminhkhue.vn/phan-tich-cac-yeu-to-cau-thanh-cua-vi-pham-phap-
luat--.aspx
4. https://123docz.net/document/288343-vi-pham-phap-luat-mot-so-van-de-li-
luan-va-thuc-tien-o-viet-nam-hien-nay.htm
5. https://hoc360.net/thuc-trang-giao-duc-phap-luat-va-nang-cao-y-thuc-phap-
luat-cho-hoc-sinh-sinh-vien-o-nuoc-ta-hien-nay/
6. https://www.haui.edu.vn/vn/goc-nhin-haui/mot-so-giai-phap-nang-cao-y-
thuc-phap-luat-cua-sinh-vien-truong-dai-hoc-cong-nghiep-ha-noi/62230

You might also like