You are on page 1of 12

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC

BỘ MÔN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN


PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Tên đề tài : Trách nhiệm pháp lý là gì? Trách nhiệm pháp lý đối với Chủ thể
không thực hiện các quy định của Nhà nước về phòng chống Covid trong giai
đoạn hiện nay.

HỌ VÀ TÊN : .....Nguyễn Vũ Phong…...


MÃ SINH VIÊN :…….20810410068…..
LỚP :……………….….D15DKTDH2….

HÀ NỘI , 07/2021
MỤC LỤC
1. Lí do chọn đề tài

2. Mở bài

3. Nội dung

 Khái niệm vi phạm pháp luật và khái niệm trách nhiệm pháp lí.

 Khái niệm trách nhiệm pháp lí:

 Đặc điểm trách nhiệm pháp lí:

 Căn cứ áp dụng trách nhiệm pháp lí:

 Phân loại trách nhiệm pháp lý. Các hình thức chế tài

 Các hình thức của chế tài

4. Kết luận
Lí do chọn đề tài:
Hiện nay, vượt biên trái phép, không tuân thủ quy định của nhà nước, trốn cách li tập
trung đang là vấn đề được rất nhiều người quan tâm, nhất là khi dịch bệnh Covid-19 đang
diễn biến ngày càng phức tạp. Nó đòi hỏi nhà nước phải có biện pháp xử lí nghiêm khắc
với chủ thể không thực hiện các quy định của nhà nước về phòng chống Covid trong giai
đoạn hiện nay- giai đoạn dịch bệnh phát triển nguy hiểm. Vì vậy, để tìm hiểu rõ hơn về
trách nhiệm pháp lí và trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể không thực hiện các quy định
của Nhà nước về phòng chống Covid-19 trong giai đoạn hiện nay, tôi đã chọn đề tài này
để nêu lên những tìm hiểu và hiểu biết của bản thân.

A. Mở bài
Đại dịch Covid-19 là một trong những đại dịch lây nhiễm toàn cầu lớn nhất được ghi
nhận cho đến thời điểm hiện tại. Toàn thế giới đâu đâu cũng phát những thông tin về dịch
bệnh Covid-19. Ý thức của người dân cũng được nâng cao, sẵn sàng phòng bệnh, nghe
theo những sự chỉ đạo của Nhà nước. Tuy nhiên, cũng có một số người vì lợi ích trước
mắt của bản thân mà vượt biên trái phép, trốn cách li tập trung,... làm cho dịch bệnh lây
lan và diễn biến nguy hiểm hơn, không màng đến sự cố gắng của toàn dân và Nhà nước
ta. Việc này cũng từng gây ra rất nhiều làn sóng phẫn nộ của phần lớn nhân dân toàn thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy, câu hỏi được đặt ra hiện nay là:
trách nhiệm pháp lí là gì? Trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể không thực hiện các quy
định của Nhà nước về phòng chống Covid trong giai đoạn hiện nay là gì?

B. Nội dung
1. Khái niệm vi phạm pháp luật và khái niệm trách nhiệm pháp lí.
 Khái niệm vi phạm pháp luật:
Vi phạm pháp luật là một hiện tượng lệch chuẩn xã hội, gây ra hoặc đe dọa gây ra những
hậu quả xấu cho xã hội. Việc nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vi phạm pháp luật có ý
nghĩa quan trong, nó giúp cho việc nhận diện hiện tượng xã hội này, phân biệt chúng với
các hiện tượng xã hội lệch chuẩn khác, từ đó có các biện pháp có hiệu quả để ngăn ngừa,
giảm thiểu hiện tượng này trong đời sống. Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có
lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ. Vi phạm pháp luật là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện từ khi có
pháp luật. Qua các thời đại, nhận thức của con người về vi phạm pháp luật có sự khác
nhau. Ngày nay, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, nhận thức của con người về
vi phạm pháp luật cũng ngày càng toàn diện, đầy đủ và chính xác hơn.
Theo đó, một hiện tượng xã hội bị coi là vi phạm pháp luật khi có đủ các dấu hiệu cơ bản
sau:
 Vi phạm pháp luật là hành vi thực tế của con người Hành vi là xử sự của con người
trong một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, biểu hiện bằng lời nói, thao tác, cử chỉ nhất
định hoặc bằng sự thiếu vắng những thao tác, cử chỉ, lời nói nào đó. Pháp luật
được đặt ra là để điều chỉnh hành vi con người nhằm xác lập và duy trì trật tự xã
hội. Bằng pháp luật, nhà nước và xã hội chính thức thể hiện quan điểm của mình
trong việc khuyến khích hay ngăn cấm một hành vi cụ thể nào đó. Do vậy, phải có
hành vi thực tế của chủ thể mới có cơ sở để xác định có vi phạm pháp luật hay
không.
 Vi phạm pháp luật không phải là suy nghĩ, ước mơ, giấc mơ của con người hay
những sự biến xảy ra nằm ngoài ý thức của con người... Vi phạm pháp luật phải là
kết quả của ý thức của con người, được thể hiện ra thế giới khách quan bằng hành
vi thực tế cụ thể.
 Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật Các quy phạm pháp luật là khuôn mẫu
cho cách xử sự của con người, thông qua quy phạm pháp luật, các cá nhân, tổ chức
trong xã hội biết mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì, phải làm như
thế nào... Những hành vi ngược với cách xử sự nêu ra trong quy phạm pháp luật bị
coi là hành vi trái pháp luật. Đó có thể là hành vi bị pháp luật cấm, hành vi vượt
quá sự cho phép của pháp luật, hành vi không thực hiện sự bắt buộc của pháp luật
hay hành vi thực hiện không đứng cách thức mà pháp luật yêu cầu. Sự quy định
trước của pháp luật là cơ sở pháp lí để xác định tính trái pháp luật trong một hành
vi cụ thể. Một hành vi nào đó có thể gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho xã hội
nhưng nếu chưa được pháp luật quy định thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
Những hành vi trái đạo đức xã hội, trái với quy định của các tổ chức trong xã hội,
trái phong tục tập quán... nhưng không trái pháp luật không phải là vi phạm pháp
luật.
 Vi phạm pháp luật do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện Một người
được coi là có năng lực trách nhiệm pháp lí khi họ đạt đến độ tuổi do pháp luật quy
định, đồng thời có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Đối với
mỗi lĩnh vực khác nhau, pháp luật quy định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí
khác nhau. Khả năng nhận thức ở đây được hiểu là, chủ thể nhận thức được hành
vi của mình là đúng hay sai theo chuẩn mực xã hội, hành vi đó được xã hội khuyến
khích, bắt buộc hay bị xã hội ngăn cấm... Khả năng điều khiển được hiểu là, trên
cơ sở của sự nhận thức, chủ thể có thể chủ động, tích cực, quyết tâm thực hiện
hành vi mà họ cho là phù hợp với đòi hỏi của xã hội; kiềm chế, không thực hiện
hành vi nếu cho rằng nó đi ngược lại lợi ích của xã hội...
 Thông thường, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con người phát triển
dần dần cùng với sự trưởng thành về tuổi tác của họ. Chính vì vậy, pháp luật của
các nhà nước đều lấy dấu hiệu độ tuổi để phản ánh khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi của chủ thể. Bên cạnh đó, sự quy định độ tuổi chịu trách nhiệm pháp
lí còn phản ánh chính sách pháp luật của một nhà nước cụ thể. Bởi lẽ, sự chênh
lệch không lớn về độ tuổi không phản ánh rõ nét sự khác biệt trong khả năng nhận
thức và điều khiển hành vi của con người. Các nhà nước khác nhau có thể có sự
quy định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí một cách khác nhau, điều đó thể
hiện mức độ nhân đạo trong pháp luật của các nhà nước. Trên thực tế, nhiều trường
hợp mặc dù đã đạt đến độ tuổi luật định nhưng vì những lí do khác nhau dẫn đến bị
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi nên cũng được coi là
không có năng lực trách nhiệm pháp lí.
 Vi phạm pháp luật luôn chứa đựng lỗi của chủ thể .Trong đời sống hàng ngày, lỗi
được hiểu là điều sai sót, không nên, không phải trong cách cư xử, trong hành
động. Theo đó, lỗi được đồng nhất với hành vi, đó là những hành vi sai sót, hành vi
không nên có, không đáng có. Trong khoa học pháp lí, lỗi là trạng thái tâm lí phản
ánh thái độ tiêu cực của một người đối với hành vi trái pháp luật của họ và hậu quả
của hành vi đó. Như vậy, lỗi trong khoa học pháp lí không phải là bản thân hành vi
mà là thái độ của chủ thể đối với hành vi của chính mình và hậu quả của hành vi
ấy. Lỗi trong khoa học pháp lí chỉ được đặt ra khi chủ thể có hành vi trái pháp luật.
Trạng thái tâm lí của chủ thể khi thực hiện một hành vi có thể là vui, buồn, lo lắng,
sợ hãi, tức giận, tích cực hoạt bát, thờ ơ lãnh đạm, nhận thức được hay không nhận
thức được, mong muốn, không mong muốn... Một người bị coi là có lỗi khi thực
hiện một hành vi trái pháp luật nếu đó là kết quả của sự tự lựa chọn, quyết định và
thực hiện của chính chủ thể trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn, quyết định và
thực hiện một xử sự khác phù hợp với các quy định của pháp luật. Như vậy, không
phải mọi trường họp chủ thể có hành vi trái pháp luật cũng đều bị coi là có lỗi. Một
hành vi mặc dù trái pháp luật nhưng được thực hiện trong trường hợp chủ thể
không có sự lựa chọn nào khác (bất kì ai trong điều kiện đó cũng chỉ có thể có sự
lựa chọn như thế) hoặc trong trường hợp chủ thể bị mất tự do ý chí thì chủ thể
không bị coi là có lỗi, do vậy hành vi đó không bị coi là vi phạm pháp luật.
 Tóm lại, các dấu hiệu trên đây là cơ sở nhận diện vi phạm pháp luật. Một hiện tượng
cụ thể xảy ra trong đời sống chỉ bị coi là vi phạm pháp luật khi chứa đựng đầy đủ các
dấu hiệu nêu trên. Do vậy, có thể khẳng định, mọi vi phạm pháp luật đều là hành vi
trái pháp luật, nhưng không phải tất cả hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi phạm
pháp luật. Chỉ những hành vi trái pháp luật do người có năng lực trách nhiệm pháp lí
thực hiện trong trường hợp có lỗi mới bị coi là vi phạm pháp luật.

 Khái niệm trách nhiệm pháp lí:


 Định nghĩa  
Trách nhiệm pháp lý là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải gánh chịu thể hiện
qua việc họ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong
phần chế tài của các quy phạm pháp luật khi họ vi phạm pháp luật hoặc khi có thiệt hại
xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định.  Tùy theo tính chất, mức độ
của hành vi vi phạm pháp luật mà cá nhân, tổ chức vi phạm phải gánh chịu những loại
trách nhiệm pháp lý khác nhau như trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách
nhiệm bồi thường dân sự.
 Đặc điểm
 Trách nhiệm pháp lý là loại trách nhiệm do pháp luật quy định. Đây là điểm khác biệt
cơ bản giữa trách nhiệm pháp lý với các loại trách nhiệm xã hội khác như trách nhiệm
đạo đức, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm chính trị…  
 Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với các biện pháp cưỡng chế nhà nước được quy
định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Đây là điểm khác biệt giữa trách
nhiệm pháp lý với các biện pháp cưỡng chế khác của nhà nước như bắt buộc chữa
bệnh, giải phóng mặt bằng…  
 Trách nhiệm pháp lý luôn là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải gánh chịu thể
hiện qua việc chủ thể phải chịu những sự thiệt hại nhất định về tài sản, về nhân thân,
về tự do… mà phần chế tài của cábc quy phạm pháp luật đã quy định.  
 Trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có vi phạm pháp luật hoặc có thiệt hại xảy ra do
những nguyên nhân khác được pháp luật quy định.
2. Đặc điểm trách nhiệm pháp lí:
Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý gồm:
 Trách nhiệm pháp lý là loại trách nhiệm do pháp luật quy định, đây là quy định khác
biệt so với các loại trách nhiệm như trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm đạo đức…
 Trách nhiệm pháp lý luôn gắn với các biện pháp cưỡng chế của nhà nước.
 Chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật phải gánh chịu hậu quả, chịu trách nhiệm pháp
lý trước pháp luật.
 Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bắt buộc chủ thể phải gánh chịu như thiệt hại về tài
sản, về nhân thân…mà trong phần chế tài của quy phạm pháp luật quy định.
 Khi có thiệt hại xảy ra mà được pháp luật quy định thì phát sinh trách nhiệm pháp lý.

3. Căn cứ áp dụng trách nhiệm pháp lí:


Căn cứ pháp lí của việc truy cứu trách nhiệm pháp lí là tổng thể các quy định của pháp
luật được các chủ thể tiến hành sử dụng làm căn cứ cho tất cả các hoạt động trong quá
trình truy cứu trách nhiệm pháp lí.
Căn cứ pháp lí được pháp luật xác định bao gồm:
 Các quy định của pháp luật hiện hành xác định thẩm quyền, trình tự, thủ tục, cách thức
tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lí. Những quy định này thường được gọi là pháp luật
về tố tụng hay pháp luật về thủ tục.
 Các quy định của pháp luật hiện hành xác định hành vi bị coi là vi phạm pháp luật và
biện pháp cưởng chế dự kiến áp dụng đối với chủ thể thực hiện hành vi đó, những tình
tiết tăng nặng hay giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm pháp lí, điều kiện áp dụng một số
biện pháp cưỡng chế nhất định, các quy định về hồi tố (nếu có)...
 Các quy định của pháp luật hiện hành về thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lí. Thời
hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lí là một khoảng thời gian nhất định do pháp luật quy
định mà chỉ trong thời hạn đó, chủ thể vi phạm pháp luật mới có thể bị truy cứu trách
nhiệm pháp lí, nếu hết thời hạn đó mà hoạt động truy cứu chưa được tiến hành thì không
được truy cứu nữa. Tùy loại vi phạm mà pháp luật quy định thời hiệu truy cứu trách
nhiệm pháp lí dài, ngắn khác nhau, bên cạnh đó có những vi phạm không có thời hiệu
truy cứu.
Căn cứ thực tế của việc truy cứu trách nhiệm pháp lí chính là vĩ phạm pháp luật đã xảy ra
trên thực tế được xác định qua các yếu tố cấu thành của vi phạm đó. Cụ thể là:
 Căn cứ vào các yếu tố thuộc mặt khách quan của vi phạm pháp luật Có thể nói, hành vi
trái pháp luật là căn cứ đầu tiên cho việc truy cứu trách nhiệm pháp lí. Nếu không xác
định được hành vi trái pháp luật thì không thể tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lí.
Thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện, tính chất, phưong pháp, thủ đoạn thực hiện
hành vi cũng là căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lí bởi đó là những yếu tố có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định biện pháp cưỡng chế cụ thể. Mức độ thiệt hại có ý nghĩa
quan trọng để xác định loại trách nhiệm pháp lí cần truy cứu cũng như xác định biện pháp
cưỡng chế một cách tương xứng. Một hành vi dù trái pháp luật nhung thiệt hại mà nó gây
ra cho xã hội là không đáng kể thì có thể không cần phải truy cứu trách nhiệm pháp lí.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại cho xã hội là một căn cứ
quan trọng để truy cứu trách nhiệm pháp lí, bởi lẽ, một người sẽ không phải chịu trách
nhiệm về những thiệt hại không phải do hành vi của mình gây ra, và pháp luật cũng
không thể buộc một người phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại mà không phải do
hành vi của họ trực tiếp gây ra. Giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại cho xã hội được
coi là có mối quan hệ nhân quả nếu hành vi trái pháp luật xảy ra trước sự thiệt hại, hành
vi trái pháp luật chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại, thiệt hại xảy ra là kết
quả trực tiếp, tất yếu của hành vi trái pháp luật.Đối với tổ chức, địa vị pháp lí của tổ chức
là căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lí. Không truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với
một tổ chức mà sự tồn tại của nó là bất họp pháp. Trong trường hợp này, việc truy cứu
trách nhiệm được tiến hành đối với từng cá nhân tham gia tổ chức bất hợp pháp đó. Với
đặc thù của mình, tổ chức chỉ có thể bị áp dụng một số biện pháp cưỡng chế nhà nước
nhất định do pháp luật quy định. Cần chú ý các quy định về miễn trừ trách nhiệm pháp lí
đối với một số chủ thể đặc biệt. Mỗi loại vi phạm pháp luật có chủ thể riêng, do vậy cần
phải lưu ý vấn đề này khi truy cứu trách nhiệm pháp lí.Căn cứ vào mặt chủ quan của vi
phạm pháp luật Lỗi là yếu tố quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm pháp lí. Chỉ
những trường hợp khi thực hiện hành vi, chủ thể có lỗi mới có thể bị truy cứu trách
nhiệm pháp lí. cần lưu ý, như phần trên đã đề cập, trong khoa học pháp lí, trách nhiệm
pháp lí còn được hiểu là sự bắt buộc phải bồi thường khi có thiệt hại xảy ra mặc dù không
có vi phạm pháp luật. Theo đó, pháp luật có thể buộc chủ thể có liên quan phải gánh chịu
trách nhiệm pháp lí ngay cả khi họ không có lỗi (xem khoản 3 Điều 601 Bộ luật dân sự
Việt Nam năm 2015). Hình thức lỗi cụ thể là căn cứ để xác định biện pháp cưỡng chế nhà
nước cụ thể một cách phù hợp. Trong nhiều trường họp, động cơ, mục đích vi phạm cũng
là căn cứ quan trọng để quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể đối với
chủ thể vi phạm pháp luật.
 Căn cứ vào khách thể của vi phạm pháp luật Khách thể là căn cứ rất quan trọng để truy
cứu trách nhiệm pháp lí. Hành vi dù gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội nhưng nếu quan
hệ xã hội đó không được pháp luật bảo vệ thì không được truy cứu trách nhiệm pháp lí.
Tính chất và tàm quan trọng của quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội cũng như thái độ của nhà nước trong từng giai
đoạn phát triển của đất nước... Do vậy, cũng có thể phải căn cứ vào chính sách của nhà
nước đối với quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ để truy cứu trách nhiệm pháp lí cho
phù hợp.
4. Phân loại trách nhiệm pháp lý.
Các chế tài để áp dụng cho những hành vi không thực hiện các quy định.
 Phân loại trách nhiệm pháp lí: Theo quan điểm truyền thống và cũng có tính phổ biến,
tương ứng với bốn loại vi phạm pháp luật là bốn loại trách nhiệm pháp lí. Đó là trách
nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỉ luật nhà nước và trách nhiệm dân
sự. Một hành vi vi phạm pháp luật có thể đồng thời xâm hại một hoặc nhiều khách thể, vì
vậy, chủ thể có thể phải gánh chịu một hoặc nhiều loại trách nhiệm pháp lí. Tuy nhiên,
nếu chủ thể đã gánh chịu trách nhiệm hình sự thì không phải chịu trách nhiệm hành chính
và ngược lại, vì đây đều là các loại trách nhiệm của chủ thể vi phạm pháp luật trước nhà
nước.
 Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất do toà án áp dụng đối
với các chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội. Chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự có
thể phải gánh chịu các biện pháp chế tài pháp luật như cảnh cáo, phạt tiền, tù có thời hạn,
tù chung thân, tử hình...
 Trách nhiệm hành chính được áp dụng đối với chủ thể đã thực hiện hành vi vi phạm hành
chính. Chủ thể phải chịu trách nhiệm hành chính có thể phải gánh chịu các biện pháp chế
tài pháp luật như cảnh cáo, phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề...
 Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm của một chủ thể phải gánh chịu những biện pháp
cưỡng chế nhà nước nhất định khi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác hoặc khi vi
phạm nghĩa vụ dân sự đối với bên có quyền. Biện pháp cưỡng chế phổ biến đi kèm trách
nhiệm này là bồi thường thiệt hại.
 Trách nhiệm kỉ luật nhà nước được áp dụng đối với các chủ thể vi phạm kỉ luật nhà nước.
Chủ thể phải chịu trách nhiệm kỉ luật nhà nước có thể phải gánh chịu các biện pháp chế
tài pháp luật như cảnh cáo, hạ bậc lưorng, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc, buộc thôi
học... Loại trách nhiệm pháp lí này có thể đi kèm các loại trách nhiệm pháp lí khác nếu có
hành vi phạm tội, vi phạm hành chính hay vi phạm dân sự mà đồng thời cũng vi phạm kỉ
luật nhà nước.Trách nhiệm dân sự được áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm
dân sự. Chủ thể phải chịu trách nhiệm dân sự có thể phải gánh chịu các biện pháp chế tài
pháp luật như buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc
thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại; phạt vi phạm... Trách nhiệm dân sự
cũng có thể đi kèm các loại trách nhiệm pháp lí khác nếu có hành vi phạm tội, vi phạm
hành chính hay vi phạm kỉ luật nhà nước mà những hành vi này cũng xâm hại đến quyền
dân sự của cá nhân, tổ chức trong xã hội (mà đồng thời cũng vi phạm dân sự). Hiện nay,
trong khoa học pháp lí còn có quan niệm về một số loại trách nhiệm pháp lí khác, chẳng
hạn trách nhiệm hiến pháp, trách nhiệm vật chất... Tuy nhiên, những vấn đề này còn đang
được tiếp tục tranh luận. Bên cạnh trách nhiệm pháp lí theo pháp luật quốc gia còn có
trách nhiệm pháp lí theo pháp luật quốc tế. Quốc gia cũng có thể phải chịu trách nhiệm
pháp lý quốc tế trong quan hệ quốc tế. Trách nhiệm này có thể phát sinh từ hành vi vi
phạm luật quốc tế của quốc gia. Ví dụ, quốc gia không thực hiện các cam kết quốc tế mà
mình đã công nhận (CEDAW) hoặc ban hành luật trái với luật quốc tế, không ngăn chặn
kịp thời các hành vi cực đoan tấn công cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài của những
người biểu tình… Trách nhiệm này cũng có thể phát sinh khi có hành vi mà luật quốc tế
không cấm. Ví dụ, Quốc gia sử dụng tên lửa vũ trụ, tàu năng lượng hạt nhân, nhà máy
điện nguyên tử … gây ra thiệt hại cho vật chất cho các chủ thể khác của luật quốc tế. Chủ
thể phải gánh chịu loại trách nhiệm này chủ yếu là các quốc gia do vi phạm điều ước
quốc tế mà quốc gia là thành viên. *Các chế tài để áp dụng cho những hành vi không
thực hiện các quy định:
 Trước hết, ta phải hiểu chế tài là gì? Chế tài là một trong ba bộ phận cấu thành một quy
phạm pháp luật. Chế tài là bộ phận xác định các hình thức trách nhiệm pháp lí khi có
hành vi vi phạm với những quy tắc xử sự chung được ghi trong phần quy định và giả định
của quy phạm pháp luật. Căn cứ vào tính chất của các nhóm quan hệ xã hội được pháp
luật điều chỉnh, chế tài được phân chia thành nhiều loại: chế tài hình sự, chế tài hành
chính, chế tài dân sự... Việc áp dụng chế tài cũng phụ thuộc vào những đặc điểm của lợi
ích mà pháp luật cần bảo vệ, căn cứ vào tính chất của hành vi phạm pháp, mức độ thiệt
hại và những vấn đề khác có liên quan (có ý nghĩa đối với việc tăng nặng hoặc giảm nhẹ
khi áp dụng chế tài). Chế tài gồm có các hình thức: chế tài trừng trị (trong lĩnh vực hình
sự), chế tài khôi phục trạng thái pháp lí ban đầu (trong lĩnh vực hành chính, dân sự), chế
tài bảo vệ và chế tài bảo đảm (trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, dân sự) và chế tài vô
hiệu hoá. Chế tài là bộ phận không thể thiếu trong một quy phạm pháp luật, nhằm bảo
đảm tính nghiêm minh của pháp luật; bảo đảm trật tự và an toàn xã hội. Chế tài thể hiện
thái độ của Nhà nước đối với những hành vi vi phạm pháp luật và có tác dụng phòng
ngừa, giáo dục để bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, góp phần thực hiện mục đích của Nhà
nước trong mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh... trong
từng giai đoạn cách mạng cụ thể. Căn cứ vào tính chất của các nhóm quan hệ xã hội được
pháp luật điều chỉnh, chế tài được phân chia thành nhiều loại: chế tài hình sự, chế tài
hành chính, chế tài dân sự... Như vậy, khái niệm chế tài là bộ phận chỉ ra những biện
pháp tác động mà Nhà nước sẽ áp dụng. Đối với chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng quy tắc xử sự. Đã được nêu trong phần giả định của quy phạm và cũng là hậu
quả pháp lý bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu khi không thực hiện đúng nội dung tại phần
quy định.
 Mặc dù là công cụ cần thiết để đảm bảo các chủ thể trong mỗi tình huống cần tuân theo
những quy định của pháp luật. Tuy nhiên việc áp dụng các chế tài cũng cần căn cứ từng
trường hợp cụ thể. Việc áp dụng chế tài cũng phụ thuộc vào nhưng đặc điểm của lợi ích
và pháp luật cần bảo vệ.
Chế tài gồm có các hình thức:
 Chế tài trừng trị ( trong lĩnh vực hình sự)
 Chế tài khôi phục trạng thái pháp lý ban đầu (trong lĩnh vực hành chính, dân
sự)Chế tài hành chính: Là những hậu quả pháp lý khi chủ thể vi phạm những quy
định trong pháp luật về hành chính. Bộ phận của quy phạm pháp luật hành chính
(giả định, quy định, chế tài). Xác định biện pháp xử lý của Nhà nước đối với cá
nhân, tổ chức. Có hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là
tội phạm, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
 Chế tài hình sự: Là những hậu quả về pháp lý khi chủ thể vi phạm những điều
được quy định trong luật hình sự. Chế tài hình sự là bộ phận hợp thành của quy
phạm pháp luật hình sự. Xác định loại và giới hạn mức độ hình phạt có thể áp dụng
đối với người thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong quy phạm pháp luật
hình sự đó. Chế tài được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự và được áp
dụng với người thực hiện hành vi phạm tội.
 Chế tài dân sự: Hậu quả pháp lý bất lợi ngoài mong muốn được áp dụng đối với
người có hành vi vi phạm trong quan hệ dân sự khi họ thực hiện. Thực hiện không
đúng các nghĩa vụ dân sự. Chế tài dân sự thường liên quan đến tài sản (buộc sửa
chữa, bồi thường thiệt hại, khôi phục lại tình trạng ban đầu. Hoàn trả lại cho nhau
những gì đã nhận…). Hoặc có thể là những biện pháp chế tài khác (buộc chấm dứt
hành vi vi phạm, buộc xin lỗi, cải chính công khai…).
 Chế tài thương mại: Chế tài thương mại là hậu quả được áp dụng cho bên vi phạm.
Khi có những hành vi vi phạm xảy ra trong giao kết, thực hiện hợp đồng thương
mại. Chế tài này còn được gọi là chế tài hợp đồng. Khi một bên chủ thể vi phạm
các quy định về thương mại được quy định trong Luật Thương mại 2005 và các
quy định khác có liên quan. Sẽ bị áp dụng các chế tài được quy định tại Điều 292,
Luật thương mại 2005.
C. Kết luận
Trách nhiệm pháp lý là gì?
Trách nhiệm pháp lý đối với Chủ thể không thực hiện các quy định của Nhà nước về
phòng chống Covid trong giai đoạn hiện nay đang là vấn đề được rất nhiều người quan
tâm, nhất là khi đại dịch Covid19 vẫn đang diễn ra phức tạp. Đảng và nhà nước cần có
biện pháp mạnh, xử phạt nặng đến những chủ thể không thực hiện các quy định của nhà
nước về phòng chống Covid-19. Có những chính sách đúng đắn bảo vệ đất nước khỏi đại
dịch và phát triển kinh tế mùa dịch. Bên cạnh Đảng và nhà nước, cá nhân chúng ta cần có
ý thức chấp hành quy định của nhà nước, hạn chế tiếp xúc với nhiều người, " ai ở chỗ nào
ở yên chỗ đó ", chỉ ra khỏi nhà khi thật sự cần thiết. Mỗi chúng ta cần cập nhật tin tức về
dịch bệnh hằng ngày, tìm hiểu và phổ biến cho mọi người xung quanh. Dân cùng Đảng
chung tay, chung sức tố cáo những người nhập cảnh trái phép, khai báo y tế gian dối. Tìm
hiểu về luật pháp , tìm hiểu về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm pháp lý đối với Chủ
thể không thực hiện các quy định của Nhà nước về phòng chống Covid trong giai đoạn
hiện nay là vấn đề mỗi chúng ta đều cần nắm rõ và quan tâm để chung tay cùng Đảng ta
đẩy lùi dịch bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Pháp luật đại cương (nxb Giáo Dục Việt Nam)
2. Giáo trình Pháp luật đại cương (nxb Chính trị quốc gia sự
thật) 3. Web: lapphap.vn
4. Web: Taptrimattran.vn
5. Web: Thuvienphapluat.vn

You might also like