Professional Documents
Culture Documents
Tên đề tài : Trách nhiệm pháp lý là gì? Trách nhiệm pháp lý đối với Chủ thể
không thực hiện các quy định của Nhà nước về phòng chống Covid trong giai
đoạn hiện nay.
HÀ NỘI , 07/2021
MỤC LỤC
1. Lí do chọn đề tài
2. Mở bài
3. Nội dung
Khái niệm vi phạm pháp luật và khái niệm trách nhiệm pháp lí.
Phân loại trách nhiệm pháp lý. Các hình thức chế tài
4. Kết luận
Lí do chọn đề tài:
Hiện nay, vượt biên trái phép, không tuân thủ quy định của nhà nước, trốn cách li tập
trung đang là vấn đề được rất nhiều người quan tâm, nhất là khi dịch bệnh Covid-19 đang
diễn biến ngày càng phức tạp. Nó đòi hỏi nhà nước phải có biện pháp xử lí nghiêm khắc
với chủ thể không thực hiện các quy định của nhà nước về phòng chống Covid trong giai
đoạn hiện nay- giai đoạn dịch bệnh phát triển nguy hiểm. Vì vậy, để tìm hiểu rõ hơn về
trách nhiệm pháp lí và trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể không thực hiện các quy định
của Nhà nước về phòng chống Covid-19 trong giai đoạn hiện nay, tôi đã chọn đề tài này
để nêu lên những tìm hiểu và hiểu biết của bản thân.
A. Mở bài
Đại dịch Covid-19 là một trong những đại dịch lây nhiễm toàn cầu lớn nhất được ghi
nhận cho đến thời điểm hiện tại. Toàn thế giới đâu đâu cũng phát những thông tin về dịch
bệnh Covid-19. Ý thức của người dân cũng được nâng cao, sẵn sàng phòng bệnh, nghe
theo những sự chỉ đạo của Nhà nước. Tuy nhiên, cũng có một số người vì lợi ích trước
mắt của bản thân mà vượt biên trái phép, trốn cách li tập trung,... làm cho dịch bệnh lây
lan và diễn biến nguy hiểm hơn, không màng đến sự cố gắng của toàn dân và Nhà nước
ta. Việc này cũng từng gây ra rất nhiều làn sóng phẫn nộ của phần lớn nhân dân toàn thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy, câu hỏi được đặt ra hiện nay là:
trách nhiệm pháp lí là gì? Trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể không thực hiện các quy
định của Nhà nước về phòng chống Covid trong giai đoạn hiện nay là gì?
B. Nội dung
1. Khái niệm vi phạm pháp luật và khái niệm trách nhiệm pháp lí.
Khái niệm vi phạm pháp luật:
Vi phạm pháp luật là một hiện tượng lệch chuẩn xã hội, gây ra hoặc đe dọa gây ra những
hậu quả xấu cho xã hội. Việc nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vi phạm pháp luật có ý
nghĩa quan trong, nó giúp cho việc nhận diện hiện tượng xã hội này, phân biệt chúng với
các hiện tượng xã hội lệch chuẩn khác, từ đó có các biện pháp có hiệu quả để ngăn ngừa,
giảm thiểu hiện tượng này trong đời sống. Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có
lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ. Vi phạm pháp luật là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện từ khi có
pháp luật. Qua các thời đại, nhận thức của con người về vi phạm pháp luật có sự khác
nhau. Ngày nay, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, nhận thức của con người về
vi phạm pháp luật cũng ngày càng toàn diện, đầy đủ và chính xác hơn.
Theo đó, một hiện tượng xã hội bị coi là vi phạm pháp luật khi có đủ các dấu hiệu cơ bản
sau:
Vi phạm pháp luật là hành vi thực tế của con người Hành vi là xử sự của con người
trong một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, biểu hiện bằng lời nói, thao tác, cử chỉ nhất
định hoặc bằng sự thiếu vắng những thao tác, cử chỉ, lời nói nào đó. Pháp luật
được đặt ra là để điều chỉnh hành vi con người nhằm xác lập và duy trì trật tự xã
hội. Bằng pháp luật, nhà nước và xã hội chính thức thể hiện quan điểm của mình
trong việc khuyến khích hay ngăn cấm một hành vi cụ thể nào đó. Do vậy, phải có
hành vi thực tế của chủ thể mới có cơ sở để xác định có vi phạm pháp luật hay
không.
Vi phạm pháp luật không phải là suy nghĩ, ước mơ, giấc mơ của con người hay
những sự biến xảy ra nằm ngoài ý thức của con người... Vi phạm pháp luật phải là
kết quả của ý thức của con người, được thể hiện ra thế giới khách quan bằng hành
vi thực tế cụ thể.
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật Các quy phạm pháp luật là khuôn mẫu
cho cách xử sự của con người, thông qua quy phạm pháp luật, các cá nhân, tổ chức
trong xã hội biết mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì, phải làm như
thế nào... Những hành vi ngược với cách xử sự nêu ra trong quy phạm pháp luật bị
coi là hành vi trái pháp luật. Đó có thể là hành vi bị pháp luật cấm, hành vi vượt
quá sự cho phép của pháp luật, hành vi không thực hiện sự bắt buộc của pháp luật
hay hành vi thực hiện không đứng cách thức mà pháp luật yêu cầu. Sự quy định
trước của pháp luật là cơ sở pháp lí để xác định tính trái pháp luật trong một hành
vi cụ thể. Một hành vi nào đó có thể gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho xã hội
nhưng nếu chưa được pháp luật quy định thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
Những hành vi trái đạo đức xã hội, trái với quy định của các tổ chức trong xã hội,
trái phong tục tập quán... nhưng không trái pháp luật không phải là vi phạm pháp
luật.
Vi phạm pháp luật do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện Một người
được coi là có năng lực trách nhiệm pháp lí khi họ đạt đến độ tuổi do pháp luật quy
định, đồng thời có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Đối với
mỗi lĩnh vực khác nhau, pháp luật quy định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí
khác nhau. Khả năng nhận thức ở đây được hiểu là, chủ thể nhận thức được hành
vi của mình là đúng hay sai theo chuẩn mực xã hội, hành vi đó được xã hội khuyến
khích, bắt buộc hay bị xã hội ngăn cấm... Khả năng điều khiển được hiểu là, trên
cơ sở của sự nhận thức, chủ thể có thể chủ động, tích cực, quyết tâm thực hiện
hành vi mà họ cho là phù hợp với đòi hỏi của xã hội; kiềm chế, không thực hiện
hành vi nếu cho rằng nó đi ngược lại lợi ích của xã hội...
Thông thường, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con người phát triển
dần dần cùng với sự trưởng thành về tuổi tác của họ. Chính vì vậy, pháp luật của
các nhà nước đều lấy dấu hiệu độ tuổi để phản ánh khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi của chủ thể. Bên cạnh đó, sự quy định độ tuổi chịu trách nhiệm pháp
lí còn phản ánh chính sách pháp luật của một nhà nước cụ thể. Bởi lẽ, sự chênh
lệch không lớn về độ tuổi không phản ánh rõ nét sự khác biệt trong khả năng nhận
thức và điều khiển hành vi của con người. Các nhà nước khác nhau có thể có sự
quy định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lí một cách khác nhau, điều đó thể
hiện mức độ nhân đạo trong pháp luật của các nhà nước. Trên thực tế, nhiều trường
hợp mặc dù đã đạt đến độ tuổi luật định nhưng vì những lí do khác nhau dẫn đến bị
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi nên cũng được coi là
không có năng lực trách nhiệm pháp lí.
Vi phạm pháp luật luôn chứa đựng lỗi của chủ thể .Trong đời sống hàng ngày, lỗi
được hiểu là điều sai sót, không nên, không phải trong cách cư xử, trong hành
động. Theo đó, lỗi được đồng nhất với hành vi, đó là những hành vi sai sót, hành vi
không nên có, không đáng có. Trong khoa học pháp lí, lỗi là trạng thái tâm lí phản
ánh thái độ tiêu cực của một người đối với hành vi trái pháp luật của họ và hậu quả
của hành vi đó. Như vậy, lỗi trong khoa học pháp lí không phải là bản thân hành vi
mà là thái độ của chủ thể đối với hành vi của chính mình và hậu quả của hành vi
ấy. Lỗi trong khoa học pháp lí chỉ được đặt ra khi chủ thể có hành vi trái pháp luật.
Trạng thái tâm lí của chủ thể khi thực hiện một hành vi có thể là vui, buồn, lo lắng,
sợ hãi, tức giận, tích cực hoạt bát, thờ ơ lãnh đạm, nhận thức được hay không nhận
thức được, mong muốn, không mong muốn... Một người bị coi là có lỗi khi thực
hiện một hành vi trái pháp luật nếu đó là kết quả của sự tự lựa chọn, quyết định và
thực hiện của chính chủ thể trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn, quyết định và
thực hiện một xử sự khác phù hợp với các quy định của pháp luật. Như vậy, không
phải mọi trường họp chủ thể có hành vi trái pháp luật cũng đều bị coi là có lỗi. Một
hành vi mặc dù trái pháp luật nhưng được thực hiện trong trường hợp chủ thể
không có sự lựa chọn nào khác (bất kì ai trong điều kiện đó cũng chỉ có thể có sự
lựa chọn như thế) hoặc trong trường hợp chủ thể bị mất tự do ý chí thì chủ thể
không bị coi là có lỗi, do vậy hành vi đó không bị coi là vi phạm pháp luật.
Tóm lại, các dấu hiệu trên đây là cơ sở nhận diện vi phạm pháp luật. Một hiện tượng
cụ thể xảy ra trong đời sống chỉ bị coi là vi phạm pháp luật khi chứa đựng đầy đủ các
dấu hiệu nêu trên. Do vậy, có thể khẳng định, mọi vi phạm pháp luật đều là hành vi
trái pháp luật, nhưng không phải tất cả hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi phạm
pháp luật. Chỉ những hành vi trái pháp luật do người có năng lực trách nhiệm pháp lí
thực hiện trong trường hợp có lỗi mới bị coi là vi phạm pháp luật.