You are on page 1of 34

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

-----🙞🙜🕮🙞🙜-----

BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM

Đề bài: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA HY LẠP TRƯỚC


VÀ SAU KHI GIA NHẬP EU

Môn học: Tài chính quốc tế

Mã lớp học phần: 231TN0301

Nhóm thực hiện: Nhóm 6

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Bùi Kim Phương

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2023


DANH SÁCH THÀNH VIÊN

HỌ VÀ TÊN MSSV

1. Trần Tất Anh K214142056

2. Lê Phước Hồng Cẩm K214142057

3. Nguyễn Đình Chương K214142058

4. Trần Ý Vy K214142100

5. Văn Hào Thiên Phú K214140949

i
LỜI NÓI ĐẦU

Chính sách tiền tệ luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc quản lý nền kinh tế
của một quốc gia. Nó ảnh hưởng đến tình hình lạm phát, tỷ giá hối đoái, sự ổn định tài
chính, và khả năng tham gia vào các liên minh và hiệp định quốc tế. Hy Lạp, như một
quốc gia nằm ở khu vực Châu Âu, đã trải qua một số thay đổi đáng kể trong chính sách
tiền tệ của mình trong quá khứ và đặc biệt sau khi gia nhập Liên minh Châu Âu (EU).
Bài tiểu luận này nhằm nghiên cứu sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của Hy Lạp
trước và sau khi gia nhập EU dựa trên 2 câu hỏi chính: (1) Quá trình hội nhập tiền tệ
và sử dụng đồng Euro mang lại lợi ích gì cho Hy Lạp và (2) Tác động của chính sách
tiền tệ mới lên nền kinh tế Hy Lạp. Nghiên cứu sẽ sử dụng dữ liệu kinh tế, tài chính và
tài liệu chính sách để hỗ trợ phân tích.

ii
LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến ThS. Bùi Kim Phương - giảng
viên bộ môn Tài chính quốc tế. Trong suốt quá trình học tập, cô đã rất tâm huyết giảng
dạy và hướng dẫn cho chúng em nhiều điều bổ ích trong môn học. Môn Tài chính quốc
tế là môn học thú vị, có ích và giúp chúng em có những bước đầu tiếp cận với cấu tạo,
cơ chế vận hành và hoạt động các hệ thống thị trường tài chính quốc tế; mối quan hệ
qua lại trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ đồng thời cung cấp các kiến thức có liên quan
đến vai trò, vị trí và ảnh hưởng của tài chính quốc tế đến các hoạt động của các doanh
nghiệp, nhất là các công ty đa quốc gia,..Song, vì kiến thức bản thân còn nhiều hạn chế
và sự tìm hiểu chưa được sâu sắc nên đôi lúc không tránh khỏi những thiếu sót. Mong
cô sẽ châm chước và cho nhóm em những lời góp ý để bài nghiên cứu của nhóm được
hoàn thiện hơn. Một lần nữa nhóm chúng em chân thành cảm ơn cô và chúc cô thật
nhiều sức khỏe, hạnh phúc và thành công trong công việc giảng dạy.
Trân trọng!

iii
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU....................................................................................................................ii

LỜI CẢM ƠN...................................................................................................................iii

DANH MỤC HÌNH ẢNH................................................................................................vi

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN.....................................................................1

1.1 Về Liên minh Châu Âu EU........................................................................................1

1.2 Về chính sách tiền tệ và tầm quan trọng trong nền kinh tế........................................1

CHƯƠNG 2: HIỆN TRẠNG KINH TẾ VÀ TIỀN TỆ CỦA HY LẠP TRƯỚC VÀ


SAU KHI GIA NHẬP EU.................................................................................................4

2.1 Hiện trạng kinh tế và tiền tệ của Hy Lạp trước gia nhập EU.....................................4

2.1.1 Chính sách tiền tệ trước gia nhập EU..................................................................4

2.1.2 Tình hình kinh tế trước gia nhập EU...................................................................5

2.2 Quá trình gia nhập EU của Hy Lạp............................................................................9

2.3 Hiện trạng kinh tế và tiền tệ của Hy Lạp sau khi gia nhập EU................................10

2.3.1 Chính sách tiền tệ sau khi gia nhập EU.............................................................10

2.3.2 Tình hình kinh tế Hy Lạp sau khi gia nhập EU.................................................13

2.3.3 Cuộc suy thoái kinh tế và những tác động đến Hy Lạp.....................................13

2.4 Các ảnh hưởng lên nền kinh tế và tài chính của Hi Lạp...........................................17

2.4.1 Ảnh hưởng đến tình hình tài chính....................................................................17

2.4.2 Ảnh hưởng đến nền kinh tế................................................................................18

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VÀ KẾT LUẬN...................................................................21

3.1 Những thách thức và cơ hội sau khi gia nhập EU....................................................21

3.1.1 Điểm mạnh và điểm yếu của chính sách tiền tệ Hy Lạp sau gia nhập EU........21

iv
3.1.2 Những thách thức mà Hy Lạp đối diện..............................................................22

3.1.3 Cơ hội mở ra khi duy trì chính sách tiền tệ ổn định...........................................24

3.2 Những học kinh nghiệm có thể áp dụng cho các quốc gia khác..............................24

3.3 Kết luận....................................................................................................................25

TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................27

v
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 2.1 Tỷ lệ lạm phát ở Hy Lạp từ 1970-2000................................................................6

Hình 2.2 Tỷ lệ thất nghiệp ở Hy Lạp từ 1970-1993............................................................7

Hình 2.3 Mức nợ của Hy Lạp so với mức nợ trung bình Châu Âu từ 1977-2017...............9

Hình 2.4 Tình hình kinh tế của Hy Lạp so với Châu Âu từ năm 1989-1999....................11

Hình 2.5 Bảng Tiêu chí hội tụ đồng Euro các nước năm 2000.........................................13

Hình 2.6 Kim ngạch xuất - nhập khẩu của Hy Lạp từ năm 2008-2018.............................15

Hình 2.7 Tỷ lệ nợ công/GDP của Hy Lạp từ 2000-2009 và 2010-2014............................16

Hình 2.8 Chỉ số GDP bình quân đầu người của Hy Lạp từ 1960-2003.............................20

Hình 2.9 Chỉ số năng suất (GDP trên mỗi nhân viên từ 1991 – 2003)..............................20

vi
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
1.1 Về Liên minh Châu Âu EU

Liên minh Châu Âu (EU – European Union) là một tổ chức liên chính phủ của
các nước Châu Âu. Ngày nay Liên minh Châu Âu là khối liên kết kinh tế - chính trị
có tính tổ chức trong sự thống nhất cao nhất trong các liên kết của thế giới.

Liên minh Châu Âu đã phát triển một thị trường chung thông qua một hệ thống
luật lệ chuẩn hóa áp dụng cho toàn bộ thành viên. Chính điều này bảo đảm chắc
chắn sự tự do lưu thông sức lao động, hàng hóa, dịch vụ và vốn; duy trì chính sách
bình đẳng chung về thương mại, nông – ngư nghiệp, và là một chính sách phát triển
khu vực. 19 quốc gia thành viên đã phê chuẩn áp dụng đồng tiền chung - đồng Euro,
giúp nâng cao vai trò trong điều hành chính sách ngoại thương, đại diện cho các
nước thành viên tại Tổ chức Thương mại thế giới, G8 hay Liên Hợp Quốc. 21 thành
viên Liên minh Châu Âu nằm trong NATO. Liên minh Châu Âu đã nâng cao vai trò
của mình trong các vấn đề cư trú và tư pháp, bao gồm việc bãi bỏ kiểm soát thị thực
xuất nhập cảnh giữa nhiều nước trong khối (quy định trong Hiệp ước Schengen).

Từ khi thành lập, EU đã thiết lập một nền kinh tế xuyên suốt lãnh thổ các
thành viên. Hiện tại một đồng tiền chung đang được sử dụng giữa 19 quốc gia thuộc
“Khu vực đồng Euro” (Eurozone). Được xem như một nền kinh tế thống nhất, EU
tạo ra GDP danh nghĩa là $16.83 ngàn tỉ năm 2007, $18 493.009 tỉ (€12 581 tỉ) năm
2008 (theo số liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF) , chiếm 31% tổng sản lượng kinh
tế thế giới. EU là nền kinh tế lớn nhất thế giới xét về GDP danh nghĩa, cũng là nhà
xuất khẩu lớn nhất, nhà nhập khẩu lớn thứ 2 và là đối tác thương mại hàng đầu của
nhiều quốc gia có tầm cỡ như Ấn Độ, Trung Quốc.

1.2 Về chính sách tiền tệ và tầm quan trọng trong nền kinh tế

Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý, hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay
ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt như kiềm chế lạm phát,

1
duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh
tế.

Chính sách tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều tiết khối lượng
tiền lưu thông trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua chính sách tiền tệ ngân hàng
Trung ương có thể kiểm soát được hệ thống tiền tệ để từ đó kiềm chế và đẩy lùi lạm
phát, ổn định sức mua của đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Có thể kể đến
một số mục tiêu của chính sách tiền tệ được nhiều quốc gia hướng tới như sau:

Tăng trưởng kinh tế: Sự tăng trưởng kinh tế thông qua hai yếu tố: Lãi suất và
số cầu tổng quát. Khối tiền tệ tăng hay giảm đều có tác động mạnh đến lãi suất và số
cầu tổng quát, từ đó tác động đến sự gia tăng đầu tư sản xuất và cuối cùng là tác
động lên tổng sản lượng quốc gia, tức là tác động lên sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Bởi vậy chính sách tiền tệ phải nhằm vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế thông qua
việc tăng hay giảm khối tiền tệ thích hợp.

Giảm tỷ lệ thất nghiệp: Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng
trực tiếp đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh
doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất
nghiệp thấp thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên. Tình hình đó đặt ra cho
ngân hàng Trung ương trách nhiệm là phải vận dụng các công cụ của mình góp phần
tăng cường mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh đồng thời phải tham gia tích cực
vào sự tăng trưởng liên tục và ổn định khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá
mức tăng thất nghiệp tự nhiên.

Ổn định giá cả: Ổn định giá cả giúp cho Nhà nước hoạch định được phương
hướng phát triển kinh tế một cách có hiệu quả hơn vì loại trừ được sự biến động của
giá cả. Ổn định giá cả giúp cho môi trường đầu tư ổn định góp phần thu hút vốn đầu
tư, khai thác mọi nguồn lực xã hội, thúc đẩy các doanh nghiệp cũng như các cá nhân
sản xuất đem lại nguồn lợi cho mình cũng như xã hội.

Ổn định lãi suất: Thực hiện lãi suất tín dụng cung ứng phương tiện thanh
toán, cho nền kinh tế quốc dân thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên
2
các quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền gửi của xã hội và với một hệ thống
lãi suất mềm dẻo phải linh hoạt, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường.

Ổn định thị trường tài chính: Việc ổn định thị trường tài chính là mục tiêu
rất quan trọng trong công tác điều hành nền kinh tế của mỗi chính phủ, ổn định thị
trường tài chính cũng được thúc đẩy bởi sự ổn định lãi suất bởi vì biến động trong
lãi suất có thể gây nên sự mất ổn định cho các tổ chức tài chính.

Ổn định thị trường ngoại hối: Thị trường ngoại hối là thị trường mà ở đó tiền
tệ của các nước khác nhau được đem ra trao đổi với nhau, chính tại thị trường này tỷ
giá hối đoái được xác định. Việc tỷ giá ổn định không chỉ có tác động tích cực do
một phần vốn đầu tư USD trước đây có thể chuyển vào thị trường chứng khoán để
“đánh sóng” mà nó còn có ý nghĩa rất lớn đối với việc củng cố niềm tin của nhà đầu
tư nước ngoài.

Tuy nhiên, các mục tiêu này thường mâu thuẫn lẫn nhau nên các quốc gia (như
Hy Lạp) thường sẽ chọn 1-2 mục tiêu chính để phát triển. Chính vì điều này nên xảy
ra sự biến đổi trong chính sách tiền tệ của Hy Lạp trước và sau khi gia nhập Liên
minh Châu Âu (EU)

3
CHƯƠNG 2: HIỆN TRẠNG KINH TẾ VÀ TIỀN TỆ CỦA HY
LẠP TRƯỚC VÀ SAU KHI GIA NHẬP EU
2.1 Hiện trạng kinh tế và tiền tệ của Hy Lạp trước gia nhập EU

2.1.1 Chính sách tiền tệ trước gia nhập EU

 Mô tả cụ thể về chính sách tiền tệ của Hy Lạp trước khi gia nhập EU

Chính sách tiền tệ của Hy Lạp trước năm 1981 có đặc điểm là lạm phát cao và
mất ổn định tiền tệ. Đồng Drachma của Hy Lạp đã bị mất giá nhiều lần. Mục tiêu
chính của chính sách tiền tệ trong giai đoạn cuối những năm này 1970 và đầu những
năm 1980 là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và việc làm bao gồm: tập trung vào ổn
định tỷ giá hối đoái và sử dụng lãi suất để kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm
phát cao đã khiến việc đạt được các mục tiêu này trở nên khó khăn.

Ngân hàng Hy Lạp, ngân hàng trung ương của Hy Lạp, đã sử dụng nhiều công
cụ khác nhau để thực hiện chính sách tiền tệ, bao gồm các hoạt động thị trường mở,
lãi suất và yêu cầu dự trữ tối thiểu. Tuy nhiên, hiệu quả của các công cụ này bị hạn
chế do tỷ lệ lạm phát cao.

Sau đây là một số ví dụ cụ thể về chính sách tiền tệ của Hy Lạp trước năm
1981:

Năm 1974, Ngân hàng Hy Lạp đưa ra khuôn khổ chính sách tiền tệ mới tập
trung vào việc kiểm soát nguồn cung tiền. Ngân hàng Hy Lạp sử dụng lãi suất để
kiểm soát lạm phát và tác động đến tỷ giá hối đoái. Ngân hàng tăng lãi suất khi lạm
phát cao và hạ lãi suất khi lạm phát thấp. Tuy nhiên, khuôn khổ này không có hiệu
quả trong việc giảm lạm phát.

Năm 1979, Ngân hàng Hy Lạp đưa ra một chế độ tỷ giá hối đoái mới gắn đồng
Drachma với loại tiền tệ. Ngân hàng Hy Lạp can thiệp vào thị trường ngoại hối để
mua bán ngoại tệ. Điều này được thực hiện để duy trì tỷ giá hối đoái ở mức mong

4
muốn. Điều này giúp giảm bớt sự biến động của tỷ giá nhưng không giải quyết được
vấn đề lạm phát cao.

Ngoài ra, Ngân hàng Hy Lạp áp đặt giới hạn về số tiền tín dụng mà các ngân
hàng có thể cho các doanh nghiệp và cá nhân vay. Điều này được thực hiện để kiểm
soát lạm phát và ngăn chặn bong bóng trên thị trường nhà đất.

Chính sách tiền tệ của Hy Lạp trước năm 1981 đã không thành công trong việc
giảm lạm phát và ổn định giá cả. Đây là thách thức lớn đối với nền kinh tế Hy Lạp
trong thời kỳ này. Chính vì những lý do trên, Hy Lạp đã đệ đơn gia nhập vào Liên
minh Châu Âu.

2.1.2 Tình hình kinh tế trước gia nhập EU

 Thống kê và phân tích tình hình kinh tế của Hy Lạp trước gia nhập EU

Những năm từ 1950-1973, Hy Lạp là một trong những quốc gia có tốc độ tăng
trưởng kinh tế ở mức cao trong khối, đây thời kỳ được gọi là bùng nổ của kinh tế
Hy Lạp với mức tăng trưởng bình quân 7%/năm.

Vào những năm 1970, nền kinh tế Hy Lạp bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc
khủng hoảng dầu mỏ và suy thoái kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế Hy Lạp trước khi
gia nhập Liên minh Châu Âu (EU) vào năm 1981 có đặc điểm là:

Lạm phát cao (xem hình 2.1.1): Tỷ lệ lạm phát ở Hy Lạp tăng vọt, tăng mạnh
vào đầu những năm 1970, đạt trên 20% vào năm 1974. Tỷ lệ lạm phát duy trì ở mức
cao trong suốt những năm 1970 và đầu những năm 1980.

5
Hình 2.1 Tỷ lệ lạm phát ở Hy Lạp từ 1970-2000

Thất nghiệp cao: Tỷ lệ thất nghiệp ở Hy Lạp tăng mạnh vào cuối những năm
1970, đạt từ 8% đến 10%. Tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng đạt trên 8% vào những năm
năm 1980. Tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức cao trong suốt những năm 1970 và đầu
những năm 1980.

6
Hình 2.2 Tỷ lệ thất nghiệp ở Hy Lạp từ 1970-1993

 Tóm tắt về tình hình tài chính và tiền tệ

Chính phủ Hy Lạp đã thực hiện một số bước nhằm cố gắng cải thiện tình hình
kinh tế vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980. Bao gồm việc phá giá
đồng Drachma, áp đặt các biện pháp kiểm soát giá cả và cắt giảm chi tiêu của chính

7
phủ. Tuy nhiên, những biện pháp này đã không thành công trong việc giảm lạm phát
hoặc thất nghiệp. Do tỷ lệ lạm phát cao vào những năm 1970 và đầu những năm
1980 thì tỷ lệ lạm phát này có dấu hiệu tăng nhẹ. Điều này làm xói mòn sức mua
của đồng drachma Hy Lạp và dẫn đến sự bất ổn gia tăng trong nền kinh tế.

Đồng drachma của Hy Lạp cũng mất giá đáng kể sau cuộc khủng hoảng dầu
mỏ. Giá trị của đồng drachma đã giảm hơn 50% so với đồng đô la Mỹ từ năm 1973
đến năm 1979.

Hy Lạp tích lũy một lượng nợ nước ngoài đáng kể, góp phần gây ra sự bất ổn
tài chính. Gánh nặng nợ tăng lên do đất nước không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
trả nợ sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973.

Hình 2.3 Mức nợ của Hy Lạp so với mức nợ trung bình Châu Âu từ 1977-2017

8
2.2 Quá trình gia nhập EU của Hy Lạp

Năm 1975, Hy Lạp đệ đơn gia nhập Thị trường chung Châu Âu (tên thường
gọi của của Cộng đồng Kinh tế Châu Âu EEC - European Economic Community).
Khi này, vấn đề dân chủ, nhân quyền và chính sách kinh tế theo hướng thị trường tự
do là những điều kiện tiên quyết để gia nhập EEC, song Hy Lạp lại có vấn đề về dân
chủ và nhân quyền. Mặc dù ý thức được những nguy cơ có thể xảy ra, nhưng EEC
vẫn có những tính toán riêng để xúc tiến việc kết nạp thành viên cho quốc gia vùng
Địa Trung hải này. EEC thấy rằng, nếu kết nạp Hy Lạp thì sẽ khuyến khích được
nền dân chủ ở bán đảo Hy Lạp phát triển; bên cạnh đó sẽ giúp cho sự liên kết của
các nước này gần gũi hơn với Tây Âu và NATO. Cho đến ngày 1 tháng 1 năm 1981,
Hy Lạp trở thành thành viên thứ 10 của EEC (nay là Liên minh Châu Âu - EU).

Ngày 1/1/1999, đồng tiền chung Châu Âu (đồng EURO) chính thức ra mắt.
Tham gia đồng Euro đợt đầu có 11 nước thành viên: Đức, Pháp, Italia, Tây Ban
Nha, Hà Lan, Áo, Bỉ, Luxembourg, Bồ Đào Nha, Phần Lan và Ailen. Ba nước Anh,
Thuỵ Điển và Đan Mạch chưa tham gia đợt này, còn Hy Lạp chưa thể trở thành
thành viên do không đáp ứng được các tiêu chí cần thiết theo Hiệp ước Maastricht
như là: (1) Lạm phát thấp, không vượt quá 1,5% so với mức trung bình của 3 nước
có mức lạm phát thấp nhất; (2) Thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP; (3)
Nợ nhà nước dưới 60% GDP và biên độ giao động tỷ giá giữa các đồng tiền ổn định
trong hai năm theo cơ chế chuyển đổi (ERM); (4) Lãi suất (tính theo lãi suất công
trái thời hạn từ 10 năm trở lên) không quá 2% so với mức trung bình của 3 nước có
lãi suất thấp nhất.

Ngày 1/1/2001, Hy Lạp đã trở thành quốc gia thứ 12 của Liên minh EU tham
gia sử dụng Euro làm đồng tiền chính thức sau 2 năm điều chỉnh chính sách của
mình để đáp ứng Hiệp ước chung. Theo kế hoạch, mọi giao dịch thương mại trong
năm 2001 của Hy Lạp vẫn được thông qua đồng Drachma và tính theo giá trị của
đồng Euro. Vào ngày 1/1/2002, đồng Euro chính thức được lưu hành trên toàn lãnh
thổ Hy Lạp.

9
2.3 Hiện trạng kinh tế và tiền tệ của Hy Lạp sau khi gia nhập EU

2.3.1 Chính sách tiền tệ sau khi gia nhập EU

Sau khi gia nhập EU vào năm 1981, Hy Lạp gia nhập EMU (Liên minh Kinh
tế Tiền tệ Châu Âu) và chấp nhận sử dụng đồng Euro vào năm 2001. Điều này có
nghĩa là chính phủ Hy Lạp đã mất quyền kiểm soát chính sách tiền tệ của mình.

Năm 1992, khi Hiệp ước Maastricht (Hiệp ước về Liên minh Châu Âu) được
đàm phán để thiết lập khung pháp lý cho EMU, Hy Lạp là quốc gia có vấn đề điều
chỉnh lớn nhất trong số các nước thành viên EU. Hy Lạp có mức lạm phát và thâm
hụt tài chính cao hơn mức trung bình của EU, trong khi nền kinh tế Hy Lạp tăng
trưởng chậm hơn so với EU (Thể hiện từ hình 1-3 dưới đây). Tình hình kinh tế khó
khăn này là hậu quả của các chính sách kinh tế rất mở rộng trong những năm 1980.

Hình 2.4 Tình hình kinh tế của Hy Lạp so với Châu Âu từ năm 1989-1999

Chính phủ mới nhậm chức sau cuộc bầu cử vào năm 1993 đã giới thiệu một
chương trình hội tụ mới cho giai đoạn 1994-1999 theo yêu cầu của Điều 116 (2a)

10
Hiệp ước Maastricht. Hy Lạp đã cam kết thực hiện một chính sách ổn định kinh tế
nhằm:

 Giảm lạm phát từ 10,8% (1993) xuống 3,3% (1999)

 Hạn chế thâm hụt ngân sách từ 13,2% GDP (1994) xuống 2,1% GDP
(1999)

 Nợ công từ 112%GDP (1994) xuống 103% (1999).

 Hy Lạp đã quyết tâm đáp ứng các tiêu chí về tỷ giá hối đoái vào năm 1997
và giảm lãi suất dài hạn từ 19,5% (1994) xuống 2,1% (1999).

Giai Đoạn 1994 - 1997

Giai đoạn đầu tiên của chính sách hội tụ (1994-1997) được đánh giá là chính
sách không nhất quán và không phù hợp. Một mặt, chính sách điều chỉnh dựa trên
thu nhập thuế cao hơn, lãi suất cao và sự đánh giá lại đồng Drachma. Mặt khác,
chính phủ tiếp tục chính sách thu nhập mở rộng và không cắt giảm chi tiêu thực sự
của chính phủ. Các cải cách cấu trúc cần thiết để cải thiện điều kiện về mặt cung đã
bị hoãn lại. Mặc dù, chương trình hội tụ mang lại sự cải thiện đáng kể về hiệu suất
kinh tế vĩ mô, nó không đủ để đưa Hy Lạp tuân thủ tiêu chí hội tụ đồng Euro (Euro
Convergence Criteria) vào cuối năm 1997.

Giai đoạn 1997 - 2001

Vì thế, Chính Phủ đã sửa đổi kế hoạch hội tụ một lần nữa vào tháng 12 năm
1997. Mục tiêu của chương trình hội tụ mới là đáp ứng các tiêu chí hội tụ vào đầu
năm 2000, để Hy Lạp có thể gia nhập EMU vào năm 2001, một năm trước khi đồng
xu và tiền giấy Euro thay thế tiền tệ quốc gia.

Về chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương Hy Lạp đã được trao quyền độc
lập, do đó đáp ứng một trong những yêu cầu của EMU. Để đáp ứng tiêu chí tỷ giá
hối đoái, Hy Lạp gia nhập hệ thống tiền tệ Châu Âu (EMS) vào tháng 3 năm 1998.
Đồng thời, đồng Drachma đã bị giảm giá 12,3% so với ECU.

Mục tiêu chính của chính sách tài chính lúc này là:
11
 Cắt giảm thâm hụt tài chính và nợ nần.

 Tiêu thụ công giảm so với GDP và chi tiêu lương công bị hạn chế.

 Tỷ lệ lạm phát thấp hơn đã giúp giảm lãi suất dài hạn, do đó việc trả lãi cho
nợ công phải giảm từ 12% GDP vào năm 1996 xuống còn 9% vào năm 1999.

 Tác động kết hợp của thâm hụt thấp hơn, thu nhập từ việc tư nhân hóa các
doanh nghiệp nhà nước, và tăng trưởng thực tế đã dẫn đến việc giảm liên tục nợ so
với GDP kể từ năm 1997.

Đến năm 2000, Báo cáo của Ủy ban Châu Âu và Ngân hàng Trung ương Châu
Âu đã kết luận rằng Hy Lạp đã đáp ứng các yêu cầu này. Một quốc gia chỉ có thể gia
nhập EMU nếu nó đạt được "mức độ hội tụ bền vững cao" liên quan đến các tiêu chí
về sự ổn định giá cả, lãi suất dài hạn, tài chính công, tỷ giá hối đoái và một số yêu
cầu pháp lý, ví dụ như sự độc lập của ngân hàng trung ương.

Hình 2.5 Bảng Tiêu chí hội tụ đồng Euro các nước năm 2000

12
2.3.2 Tình hình kinh tế Hy Lạp sau khi gia nhập EU

Giá ổn định: Hy Lạp đã bước vào giai đoạn ổn định giá. Đặc biệt, lạm phát
trong giai đoạn tham chiếu từ năm 1999 đến 2000 là 2,0%, thấp hơn 0,4 điểm phần
trăm so với giá trị tham chiếu. Sự sụt giảm của lạm phát một phần do việc giảm thuế
gián tiếp và các thỏa thuận không chính thức giữa chính phủ Hy Lạp và các doanh
nghiệp để giảm giá bán lẻ.

Tỷ lệ lãi suất dài hạn: Mức lãi trung bình của Hy Lạp là 6,4%, thấp hơn 0,8
điểm phần trăm so với giá trị tham chiếu là 7,2%. Điều này là do giảm sự khác biệt
về lạm phát với các nước EMU và sự cải thiện nợ công của chính phủ. Hơn nữa,
triển vọng gia nhập EMU sắp tới đã góp phần vào sự hội tụ của lãi suất Hy Lạp khi
các nhà đầu tư đã chuyển từ trái phiếu Euro sang chứng khoán Hy lạp.

Tài chính công: Theo định nghĩa của Hiệp ước về Cộng đồng Châu Âu, một
quốc gia đáp ứng tiêu chí này nếu nó không có "thâm hụt quá mức". Đặc biệt, thâm
hụt tài chính phải dưới 3% GDP, nợ công dưới 60% GDR. Trong năm tham chiếu
1999, thâm hụt công của Hy Lạp là 1,6% GDP, thấp hơn đáng kể so với giá trị tham
chiếu là 3%. Tỷ lệ nợ là 104,4%, cao hơn đáng kể so với giá trị tham chiếu 60%. Vì
tỷ lệ nợ đã giảm từ năm 1997, Hội đồng Châu Âu đã quyết định rằng Hy Lạp không
có "thâm hụt quá mức".

Tỷ giá hối đoái: Trong giai đoạn tham chiếu hai năm 1998 đến 2000, đồng
Dracma đã tham gia EMS và cơ chế Tỷ lệ trao đổi tương ứng. Trong thời gian đó,
đồng Drachma dao động đáng kể, nhưng luôn ở trong phạm vi +15% tỷ giá hối đoái,
do đó đáp ứng các yêu cầu của tiêu chí tỷ giá.

2.3.3 Cuộc suy thoái kinh tế và những tác động đến Hy Lạp

Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu 2007-2008 dẫn đến sự đổ vỡ hàng loạt hệ
thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá
tiền tệ quy mô lớn ở Mỹ và nhiều nước Châu Âu. Nó chính là giọt nước làm tràn ly
khiến Hy Lạp rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công tồi tệ nhất trong lịch sử. Bên cạnh

13
mức độ nghiêm trọng của các vấn đề tài chính, Hy Lạp liên tục mất khả năng cạnh
tranh về chi phí quốc tế, dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng lai ngày càng gia tăng và
thành tích kém về đầu tư trực tiếp nước ngoài.

 Sự tác động đến những biến số vĩ mô cơ bản

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu có tác động tiêu cực đặc biệt lớn đến tốc
độ tăng trưởng GDP ở Hy Lạp, với doanh thu giảm 15% trong năm 2009 → Hy Lạp
đã mất 25% GDP. Lạm phát, sản xuất đình trệ, hàng hóa thiếu cạnh tranh dẫn tới
tình trạng leo thang của giá cả.

Thâm hụt cán cân thương mại: Do lạm phát tăng cao, sự chênh lệch giữa đầu
tư và tiết kiệm, thâm hụt ngân sách và sự mất giá của đồng tiền trong nước. Cán cân
thương mại ở Hy Lạp theo % GDP năm 2008 là -12.61, khoảng cách quá lớn giữa
nhập khẩu và xuất khẩu có nghĩa là dòng tiền chảy ra ngoài Hy Lạp, dẫn đến giảm
phúc lợi xã hội.

Hình 2.6 Kim ngạch xuất - nhập khẩu của Hy Lạp từ năm 2008-2018

14
Những con số cho thấy các khoảng nợ đáng báo động: Tỷ lệ nợ công/GDP của
Hy Lạp giai đoạn 2007-2013 luôn ở mức 3 con số, thâm hụt tài khoản vãng lai của
Hy Lạp đã lên tới 15,9% GDP, thâm hụt chính phủ ở mức 6,5%và nợ chính phủ là
106,1%. Tăng nhanh nợ nước ngoài lên tới hơn 70% GDP vào năm 2008, sự mất
dần khả năng cạnh tranh trong mối quan hệ với các đối tác khu vực đồng Euro.

Hình 2.7 Tỷ lệ nợ công/GDP của Hy Lạp từ 2000-2009 và 2010-2014

Các chính sách tiền tệ lúc này đều nhằm mục tiêu khôi phục kinh tế, cụ
thể như sau:

Thứ nhất, cắt giảm chi tiêu mạnh mẽ và kiểm soát chặt chẽ chi tiêu chính
phủ: Chính phủ đã chủ động cắt giảm mạnh các khoản chi tiêu, giảm chi tiêu
công(chi tiêu cho giáo dục, quân sự và an sinh xã hội), giảm tối thiểu 1000 Euro các
khoản thưởng cuối năm, cắt hoàn toàn cho những người có lương từ 3000 Euro mỗi
tháng, giảm 8% trợ cấp, 3% chi tiêu công… tư hữu hóa các doanh nghiệp, sa thải
công chức và giảm chi tiêu y tế.

Thứ hai, thắt chặt tài chính: Giảm thâm hụt chính phủ của Hy Lạp từ ước
tính khoảng 13,6% GDP năm 2009 xuống dưới 3% vào năm 2012. Nhìn chung, các
biện pháp này có giá trị ước tính 21,6 tỷ USD. Các giải pháp chính sách cho hai
trong số các vấn đề kinh tế chính mà chính phủ Hy Lạp phải đối mặt: cắt giảm thâm

15
hụt ngân sách lớn của chính phủ và kích thích nền kinh tế trong suy thoái kinh tế
theo chu kỳ

Thứ ba, cải cách cơ cấu: Tăng cường việc làm, thúc đẩy tăng cường phát
triển khu vực tư nhân và hỗ trợ nghiên cứu, công nghệ và đổi mới cam kết cải cách
các tổ chức hưu trí, tái cơ cấu nền hành chính công của Hy Lạp.

Thứ tư, tăng lãi suất trái phiếu chính phủ: Do xếp hạng tín dụng liên tục
giảm nên giá trái phiếu chính phủ cũng giảm theo, do vậy để huy động được vốn từ
nguồn này buộc Chính phủ Hy Lạp phải liên tục nâng lãi suất của các chứng khoán
chính phủ. Hơn nữa. đơn giản hóa và hiện đại hóa hệ thống thuế. Mở rộng cơ sở
thuế, cụ thể là đối với VAT và tiến hành đề xuất hợp lý hóa thuế thu nhập cá nhân.
Các khoản thu của chính phủ nên được tăng lên bằng cách kết hợp thuế suất cao hơn
và thuế hiệu quả hơn. Gia tăng nguồn thu chủ động từ thuế, cụ thể là: Tăng các loại
thuế, đánh thuế vào các mặt hàng xa xỉ.

 Điểm qua những thay đổi cụ thể trong chính sách tiền tệ của Hy Lạp
sau khi gia nhập EU

Sau khi gia nhập EU vào năm 1981 và EMU vào năm 2001, một số thay đổi
quan trọng đã xảy ra:

Lãi suất cơ bản: Trước khi gia nhập EU, Hy Lạp có thể sử dụng lãi suất cơ
bản để điều chỉnh nền kinh tế của mình. Trong thời kỳ suy thoái, chính phủ Hy Lạp
có thể hạ lãi suất để khuyến khích đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên, sau khi gia nhập
EU, Hy Lạp không thể sử dụng lãi suất cơ bản để điều chỉnh nền kinh tế của mình.
Lãi suất cơ bản của Eurozone do Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) quyết
định, và lãi suất này được thiết kế để phù hợp với mục tiêu chung của Eurozone là
kiềm chế lạm phát.

Tỷ giá hối đoái: Trước khi gia nhập EU, Hy Lạp có thể sử dụng tỷ giá hối
đoái để tăng cường tính cạnh tranh của nền kinh tế. Nếu đồng Drachma mất giá so
với đồng Euro, hàng hóa và dịch vụ của Hy Lạp sẽ rẻ hơn đối với người tiêu dùng

16
nước ngoài. Tuy nhiên, sau khi gia nhập EU, Hy Lạp không thể sử dụng tỷ giá hối
đoái để tăng cường tính cạnh tranh. Đồng Euro là đồng tiền chung của 19 nước
thành viên Eurozone, và tỷ giá hối đoái của đồng Euro được quyết định bởi thị
trường ngoại hối.

Mặc dù lãi suất trái phiếu chính phủ dài hạn của Hy Lạp đã hoàn toàn hội tụ
với mức lãi của Đức và mức trung bình của EMU, nhưng lãi thực sự cao của thập
niên 1990 đã được thay thế bởi tỷ lệ lợi nhuận thực tế của Hy Lạp thấp hơn mức
trung gian của EMU, với giá trị ngày càng tiêu cực kể từ cuối năm 2001. Sự hội tụ
lạm phát đã bị ngừng lại và chênh lệch lạm dụng so với mức trung bình của EMU
thậm chí còn tăng lên một chút. Điều này đã dẫn đến sự đánh giá quá cao của tỷ giá
hối đoái thực tế của Hy Lạp, góp phần làm mức thâm hụt tài khoản hiện tại cao kỷ
lục được quan sát thấy kể từ năm 2001.

2.4 Các ảnh hưởng lên nền kinh tế và tài chính của Hi Lạp

2.4.1 Ảnh hưởng đến tình hình tài chính

Ổn định tỷ giá hối đoái: Sử dụng đồng Euro đã loại bỏ yếu tố rủi ro tỷ giá hối
đoái cho Hy Lạp. Điều này có nghĩa rằng quốc gia này không còn phải lo lắng về sự
biến động tỷ giá, giúp tạo ra sự dự đoán và ổn định trong giao dịch quốc tế và đầu
tư.

Kiểm soát lạm phát: Việc sử dụng Euro đồng nghĩa với việc Hy Lạp phải duy
trì ổn định về lạm phát. Điều này giúp đảm bảo giá cả ổn định và duy trì sự tin
tưởng của thị trường và nhà đầu tư.

Giới hạn tỷ giá lãi suất: Hy Lạp đã phải tuân theo chính sách lãi suất của Khu
vực Đồng tiền chung, quy định bởi Chính phủ của Đồng tiền chung Châu Âu
(ECB). Điều này đồng nghĩa với việc họ không có khả năng kiểm soát tỷ giá lãi suất
trong mức độ lớn.

17
Giới hạn việc in tiền: Hy Lạp không còn quyền in tiền riêng của họ và phải
tuân theo các nguyên tắc và quy định của ECB. Điều này có thể hạn chế khả năng
họ tạo ra tiền mới để giải quyết vấn đề tài chính.

Áp lực kiểm soát ngân sách: Để tham gia vào Eurozone và duy trì sự ổn định
tài chính, Hy Lạp đã phải tuân theo các tiêu chuẩn về thâm hụt ngân sách và mức nợ
công. Điều này đã yêu cầu họ thực hiện các biện pháp kiểm soát ngân sách và cắt
giảm chi tiêu chính phủ.

Những ảnh hưởng này có thể giúp Hy Lạp duy trì sự ổn định tiền tệ và tài
chính trong thời kỳ ban đầu, nhưng cũng đã đặt ra một số thách thức và giới hạn cho
khả năng họ thực hiện các biện pháp tự quyết định về chính sách tiền tệ và tài chính
trong tình hình khủng hoảng

2.4.2 Ảnh hưởng đến nền kinh tế

Hy Lạp đã đạt được sự hội tụ danh nghĩa của nền kinh tế của mình với các
nước khác trong Liên minh Châu Âu, từ năm 2001 đã cố gắng khai thác những lợi
ích của Liên minh tiền tệ. Sự tập trung của chính sách kinh tế đã chuyển sang việc
đạt được sự hội tụ thực sự về GDP bình quân đầu người. Nền kinh tế Hy Lạp trong
những năm 2002-2003 đã phát triển đáng kể (tỷ lệ tăng trưởng GDP là 3,8% vào
năm 2002 và ước tính đạt 4,0% vào năm 2003). Điều này trái ngược với hoạt động
kinh tế chậm chạp trong khu vực đồng Euro (0,9% và 0,4% tương ứng). Nhiều yếu
tố đã đóng vai trò trong sự tăng trưởng của sản phẩm trong nước: tăng tiêu thụ tư
nhân; đầu tư nhiều hơn, đặc biệt là đầu tư vào các dự án công lớn và Olympic, cũng
như vào nhà ở; tăng xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, lạm phát vẫn cao, mặc dù
chênh lệch giữa Hy Lạp và khu vực đồng Euro đang bắt đầu thu hẹp (ước tính mức
tăng trung bình hàng năm trong Chỉ số giá tiêu dùng là khoảng 3,5% vào năm 2003,
tức là tương tự như năm 2002). Sự khác biệt này, tất nhiên, ảnh hưởng tiêu cực đến
khả năng cạnh tranh giá cả của nền kinh tế Hy Lạp

Về đặc điểm cấu trúc của nền kinh tế Hy Lạp, sự thay đổi đã xảy ra kể từ năm
1974 trong thành phần của GDP theo các lĩnh vực hoạt động kinh tế là đáng kể.
18
Ngành dịch vụ hiện cung cấp hơn 2/3 GDP, trong khi các lĩnh vực khác cung cấp
một tỷ lệ nhỏ hơn, cho thấy sự thay đổi tương ứng trong thành phần việc làm. Hơn
nữa, dựa trên các chỉ số cấu trúc cho nền kinh tế Hy Lạp (xem biểu đồ bên dưới),
GDP bình quân đầu người và năng suất sản xuất (GDP mỗi nhân viên) vẫn thấp hơn
mức trung bình của EU (70% và 86% tương ứng).

Hình 2.8 Chỉ số GDP bình quân đầu người của Hy Lạp từ 1960-2003

Hình 2.9 Chỉ số năng suất (GDP trên mỗi nhân viên từ 1991 – 2003)

19
Ngoài ra, việc mất quyền kiểm soát chính sách tiền tệ đã khiến Hy Lạp gặp khó
khăn trong việc điều chỉnh nền kinh tế của mình. Trong thời kỳ suy thoái, Hy Lạp
không thể hạ lãi suất để khuyến khích đầu tư và tiêu dùng. Điều này đã góp phần
làm trầm trọng thêm tình trạng suy thoái kinh tế của Hy Lạp.

Ngoài ra, việc không thể sử dụng tỷ giá hối đoái để tăng cường tính cạnh tranh
đã khiến Hy Lạp trở nên kém cạnh tranh hơn so với các nước khác trong Eurozone.
Điều này đã dẫn đến thâm hụt thương mại và thất nghiệp cao.

20
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ VÀ KẾT LUẬN
3.1 Những thách thức và cơ hội sau khi gia nhập EU

3.1.1 Điểm mạnh và điểm yếu của chính sách tiền tệ Hy Lạp sau gia nhập
EU

Điểm mạnh:

 Thúc đẩy lưu thông đồng Euro: Đây là đồng tiền mạnh và tương đối ổn
định, giảm bớt nguy cơ biến động tiền tệ và tạo sự tin tưởng cho việc cải thiện thu
chi ngân sách chính phủ

 Tận dụng được lãi suất vay thấp và được vay khoản tiền khổng lồ: Với việc
sử dụng Euro, Hy Lạp có lãi suất thấp hơn khi vay nguồn từ các tổ chức tài chính
quốc tế, giúp giảm chi phí vay và được ưu ái vay khoản tiền lớn

 Thúc đẩy thương mại ở thị trường chung Châu Âu: Việc Hy Lạp sử dụng
Euro góp phần đẩy lùi rủi ro tỷ giá hối đoái, làm cho xuất khẩu và nhập khẩu dễ
dàng hơn, thúc đẩy thương mại và tạo cơ hội cho tăng trưởng kinh tế.

 Tích cực hóa đầu tư nước ngoài: Hy Lạp dễ dàng thu hút đầu tư trực tiếp từ
các quốc gia khác trong Eurozone và nâng cao sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước
ngoài.

Điểm yếu:

 Chính phủ không thể kiểm soát được chính sách tài chính và tài khóa dẫn
đến tình trạng nợ công cao, lạm phát cao, tăng trưởng kinh tế bị đình trệ

 Mất khả năng tự quyết định chính sách tiền tệ: Khủng hoảng tài chính năm
2010 đã buộc Hy Lạp phải xin sự giúp đỡ từ Liên minh Châu Âu và Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) để cứu trợ tài chính. Sự phụ thuộc vào sự hỗ trợ của các tổ chức này
đã giới hạn khả năng tự quyết định. Hy Lạp không thể điều chỉnh tỷ giá hối đoái để
cải thiện cán cân thương mại hoặc thực hiện chính sách tiền tệ độc lập mà họ cho là
phù hợp nhất với nền kinh tế của họ.

21
 Chính phủ mắc sai lầm lớn gây nên mâu thuẫn giữa chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa gay gắt: Hy Lạp đã tham gia vào EU, đồng nghĩa với việc phải
chấp nhận chính sách tiền tệ do Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) đề ra để
kiểm soát lạm phát. Chính sách tiền tệ này hợp lý khi cố ổn định đồng Euro. Tuy
nhiên, chính phủ Hy Lạp phải xây dựng chính sách tài khóa phù hợp với điều kiện
kinh tế trong nước. Lãi suất trên thị trường tiền tệ phụ thuộc chính sách lãi suất do
ECB quyết định. Trong khi lãi suất trái phiếu chính phủ lại do bộ tài chính Hy Lạp
quyết định. Sự quyết định của bộ tài chính lại phụ thuộc vào chính sách tài khóa của
quốc gia đó. Với Hy Lạp, khả năng cạnh tranh thường kém hơn, thâm hụt ngân sách
lại lớn hơn so với các quốc gia khác trong khu vực sử dụng đồng Euro. Để cân bằng
nền kinh tế, các quốc gia này thường phải phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất
cao hơn gây ra sự mất khả năng chi trả

3.1.2 Những thách thức mà Hy Lạp đối diện

Hiện nay, Hy Lạp đang đối diện với nhiều thách thức trong việc duy trì chính
sách tiền tệ ổn định sau khi gia nhập Liên minh Châu Âu (EU). Một số thách thức
đó bao gồm:

 Hệ lụy của sự ràng buộc: Trước khi gia nhập Eurozone, Hy Lạp là một
trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao trong khối, sau khi
chuyển đổi từ đồng drachma sang đồng Euro không lâu, ngành luyện kim của Hy
Lạp sụt giảm 30%, các hạn ngạch về lương thực thực phẩm (nhất là thịt và hoa quả)
đã đẩy nông nghiệp của nước này phụ thuộc khá nhiều vào thị trường Nga.

 Lạm phát: Những tưởng rằng việc sử dụng đồng tiền chung Euro sẽ giúp
kiểm soát lạm phát nhưng Hy Lạp vẫn phải đối mặt với tình trạng lạm phát cao, đặc
biệt là trong bối cảnh kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19.

 Nợ công: Khủng hoảng tài chính những năm 2008-2009 đã đẩy Hy Lạp vào
vòng xoáy nợ nần. Năm 2009, nợ công của Hy Lạp vượt ngưỡng GDP, đạt mức
127% và chỉ một năm sau đó con số này đã vọt lên 146%GDP. Chính sách tài khóa
và ngân sách thu chi không cân đối đã góp phần tạo ra một bức tranh nợ công bị
22
thâm hụt. Có thể kể đến một vài nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên như:
Hy Lạp đã không tuân thủ chặt chẽ các quy định trong Liên minh tiền tệ Quy định
quan trọng nhất của khối Liên minh tiền tệ này là các thành viên phải đáp ứng nhiều
chuẩn mực theo Hiệp ước Maastricht, trong đó có quy định mức bội chi của ngân
sách phải nhỏ hơn hoặc bằng 3% GDP, nợ chính phủ nhỏ hơn hoặc bằng 60% GDP,
Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia khu vực đồng tiền chung Châu Âu vào tháng 5-
1998 nhưng vẫn được phê duyệt với điều kiện phải nỗ lực cải thiện mức thâm hụt
ngân sách và nợ chính phủ, tuy nhiên đến nay Hy Lạp vẫn chưa thực hiện toàn bộ.
Nguyên nhân thứ hai là do tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực,
Theo quy định của EU, các quốc gia được phép giữ lại 25% thuế xuất nhập khẩu
hàng hóa vào EU để trang trải chi phí hoạt động và 75% còn lại được chuyển vào
ngân sách chung của EU. Điều này có nghĩa, các quốc gia có vị trí thuận lợi về giao
thông quốc tế như: sân bay, bến cảng... sẽ nhận được một nguồn thu đặc biệt từ thuế
nhập khẩu vào EU. Nhưng đối với các quốc gia nhỏ hơn, ở vị trí bất lợi hơn như Hy
Lạp không những không nhận được nguồn thu nào mà thậm chí đó còn là khoản
thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu đang tiêu thụ tại nước mình,

 Thất nghiệp: Tỷ lệ thất nghiệp ở Hy Lạp rất cao, đặc biệt là trong số thanh
niên và người dân có trình độ học vấn thấp. Tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp vẫn ở mức
cao nhất trong EU, trong khi lương tối thiểu thấp. Để giải quyết vấn đề này, Hy Lạp
cần phải tạo ra nhiều việc làm mới và cải thiện chất lượng giáo dục.

 Tăng trưởng kinh tế: Kinh tế Hy Lạp vẫn chưa hồi phục hoàn toàn sau
cuộc khủng hoảng nợ công vào năm 2010. Bên cạnh đó, những yếu tố khách quan
như cuộc khủng hoảng năng lượng, cơn bão giá tại Châu Âu, là trở lực lớn để vực
dậy nền kinh tế Hy Lạp. Để tăng trưởng kinh tế, Hy Lạp cần phải tăng cường đầu tư
vào các ngành kinh tế mới và cải thiện môi trường kinh doanh.

 Xảy ra làn sóng tự do hóa lao động: Điều này khiến chính phủ buộc phải
gia tăng các khoản chi phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình làm tăng
thâm hụt ngân sách

23
Ngoài ra, Hy Lạp còn phải đối mặt với các thách thức khác như: sự bất ổn
chính trị, sự suy giảm của ngành du lịch và sự gia tăng của các cuộc biểu tình và
cuộc biểu tình.

3.1.3 Cơ hội mở ra khi duy trì chính sách tiền tệ ổn định

 Mở ra thị trường xuất khẩu. EU là thị trường màu mỡ. Việc thâm nhập
thành công thị trường EU đồng nghĩa với việc Hy Lạp có cơ hội mở rộng quan hệ
hợp tác với cùng lúc 27 quốc gia thành viên, góp phần giải quyết bài toán đầu ra về
mở rộng, đa dạng hóa thị trường, tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, hướng tới sự
phát triển bền vững Hy Lạp - EU trong thời gian tới.

 Tăng cường tín dụng quốc tế: Với Euro là đồng tiền chung, Hy Lạp có thể
dễ dàng tiếp cận tài chính quốc tế và huy động vốn từ các thị trường quốc tế. Điều
này giúp cải thiện sự hấp dẫn của Hy Lạp đối với các nhà đầu tư quốc tế và tăng
cường khả năng vay mượn trên thị trường quốc tế.

 Hạn chế rủi ro tiền tệ: Việc không phải quản lý đồng tiền riêng của mình
giúp Hy Lạp tránh được các biến động tiền tệ và rủi ro liên quan đến tỷ giá hối đoái.

Tóm lại, gia nhập EU và sử dụng Euro đã mở ra cơ hội cho Hy Lạp trong lĩnh
vực tiền tệ, nhưng cũng đòi hỏi sự quản lý và tuân thủ chặt chẽ để tận dụng được
những lợi ích này.

3.2 Những học kinh nghiệm có thể áp dụng cho các quốc gia khác

Một trong những học kinh nghiệm quan trọng nhất mà Hy Lạp đã mang đến
cho quốc gia khác (chủ yếu là những quốc gia nhỏ, kém cạnh tranh) là nên cân nhắc
trước khi gia nhập Eurozone. Những lỗi mang tính hệ thống của EU là thủ phạm
chính gây ra cuộc khủng hoảng tại Hy Lạp. Hệ lụy rất có thể là một hiệu ứng
Domino vỡ nợ đối với Italy, Tây Ban Nha và thậm chí là cả Pháp vì tổng nợ của ba
quốc gia này vào đầu năm 2015 đã vượt ngưỡng 5 nghìn tỷ Euro.

Bên cạnh đó, các quốc gia khác phải nắm rõ việc duy trì kiểm soát nợ công và
tài khóa là cực kỳ quan trọng để tránh tình trạng khủng hoảng tài chính. Các quốc

24
gia khác có thể học cách quản lý và giảm thiểu nợ công cao để không đối diện với
áp lực tài chính đáng lo ngại.

Việc tuân thủ quy tắc tài khóa cũng là một yếu tố quyết định. Các quyết định
về chi tiêu và thuế nên được đưa ra dưới góc độ độc lập sau khi thảo luận kĩ càng,
tránh tạo ra thâm hụt ngân sách lớn.

Việc đa dạng hóa kinh tế và tăng cường sự cạnh tranh cũng là một học kinh
nghiệm quan trọng. Các quốc gia nên đầu tư vào việc phát triển nhiều lĩnh vực khác
nhau để giảm thiểu sự phụ thuộc vào một ngành hoặc nguồn thu nhập cụ thể.

Từ kinh nghiệm của Hy Lạp cũng cho thấy tầm quan trọng của việc tăng cường
quản lý tài sản và đầu tư thông minh. Quản lý tài sản quốc gia một cách hiệu quả và
thực hiện các dự án đầu tư có lợi cho kinh tế trong dài hạn có thể giúp cải thiện hiệu
suất tài chính và tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng bền vững.

Cuối cùng, việc hợp tác quốc tế và xây dựng dự trữ tài chính cũng rất quan
trọng. Các quốc gia nên hợp tác chặt chẽ với các tổ chức quốc tế để nhận sự hỗ trợ
và tư vấn trong việc quản lý tài chính và khủng hoảng tài chính. Đồng thời, việc xây
dựng dự trữ tài chính có thể giúp đối phó với khủng hoảng tài chính và giảm áp lực
tài chính trong thời kỳ khó khăn.

3.3 Kết luận

Bằng cách nghiên cứu về những thay đổi trong chính sách tiền tệ của Hy Lạp
trước và sau khi gia nhập Liên minh Châu Âu có thể thấy rằng quyết định này đã
mang đến những tác động lớn góp phần cải thiện nền kinh tế trong những bước đầu
tiên. Tuy nhiên do sự quản lý yếu kém và không tuân thủ quy tắc chung của chính
phủ đã đẩy Hy Lạp đến tình trạng suy thoái kinh tế, nợ công cao, lạm phát cao.
Quản lý cẩn thận và tuân thủ chặt chẽ quy tắc của EU là quan trọng để tận dụng
những lợi ích và giảm thiểu nhược điểm của việc sử dụng Euro.

25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Arghyrou, M. G. (2006, 10). Monetary Policy Before and After the Euro: Evidence
from Greece.ResearchGate. Retrieved October 25, 2023, from

https://www.researchgate.net/publication/
227360056_Monetary_Policy_Before_and_After_theEuro_Evidence_from_Greece

[2] Demekas, D. G. (1996, August 1). Unemployment in Greece in: IMF Working Papers
Volume 1996 Issue 091 (1996). IMF eLibrary. Retrieved October 25, 2023, from

https://www.elibrary.imf.org/view/journals/001/1996/091/article-A001-en.xml

[3] Herz, B., & Kotios, A. (2019, March 9). Coming Home to Europe: Greece and the
Euro. Retrieved October 25, 2023, from

https://50years.intereconomics.eu/files/downloads/ie-artikel/herz-kotios-coming-home-
to-europe-grece-and-the-euro.pdf

[4] HVTC. (2018, July 19). Vai trò của chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế. Học viện
Tài chính. Retrieved October 25, 2023, from

https://hocvientaichinh.com.vn/vai-tro-cua-chinh-sach-tien-te-doi-voi-nen-kinh-te.html

[5] Lazaretou, S. (2019, March 9). Monetary system and macroeconomic policy in
Greece: 1833-2003. Retrieved October 25, 2023, from

https://deliverypdf.ssrn.com/delivery.php?
ID=73808700612209612708110008207512609902808408909302305607700409000008
400111802301210806106202306203712605310110209610711708010501501707400201
21091211230800290110951160530860350690120020791010251150741161260680960

[6] LVH. (2019, March 9). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ công của Hy Lạp.
Retrieved October 25, 2023, from

https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/ttsk/ttsk_chitiet?
centerWidth=80%25&dDocName=CNTHWEBAP01162513221&leftWidth=20%25&rig

26
htWidth=0%25&showFooter=false&showHeader=false&_adf.ctrlstate=led9g4x9q_4&_a
frLoop=34196214155458023#%40%3F_afrLo

[7] Nhóm Người Viết. (2019, March 9). Tìm hiểu về Liên minh Châu Âu EU. Retrieved
October 25, 2023, from

https://luanvan.net.vn/luan-van/tieu-luan-tim-hieu-ve-lien-minh-chau-au-eu-35423/?
fbclid=IwAR1nMo24MuRjteAKOQ2Gn8G3-34oyRGMuK1Ii4amkx7OZpPyW96_fD-
8_Ek

[8] Phạm, H. (2015, July 9). Ai đẩy Hy Lạp đến bờ vực. Báo điện tử Chính phủ.
Retrieved October 25, 2023, from

https://baochinhphu.vn/ai-day-hy-lap-den-bo-vuc-102186583.htm

[9] Thanh Xuân. (2001, January 2). Hy Lạp tham gia khu vực đồng tiền chung châu Âu.
VnExpress. Retrieved October 25, 2023, from

https://vnexpress.net/hy-lap-tham-gia-khu-vuc-dong-tien-chung-chau-au-2661262.html

[10] World Development Indicators | DataBank. (n.d.). DataBank. Retrieved October 25,
2023, from

https://databank.worldbank.org/source/world-development-indicators

27

You might also like