Professional Documents
Culture Documents
caca(ìsoso
Khoa Nhân học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
(Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) được thành lập đến nay
đã tròn 15 năm, đảm nhận đào tạo chương trình đại học và sau đại
học. Cùng với hoạt động đào tạo và nghiền cứu khoa học, các cán bộ
giảng dạy đã tiến hành biên soạn các tập bài giảng, giáo trình, dịch
thuật nhiều tài liệu tham khảo từ tiếng nước ngoài đê phục vụ công tác
nghiên cứu, giảng dạy và học tập nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
Một trong những công việc cấp bách của khoa là biên soạn giáo trình
Nhân học đại cương đề giảng dạy cho sinh viên ngành nhần học cùng
các ngành khoa học xã hội — nhân văn khác trong và ngoài trường.
Việc biên soạn giáo trình Nhân học đại cương là một công việc
khó khăn, vì đây là ngành học mới được đào tạo ở Việt Nam và nguồn
tài liệu tham khảo cho việc biên soạn chủ yêu phải đựa vào các giáo '
trình và tài liệu bằng tiếng nước ngoài, nhất là tiếng Anh mà những
người tham gia biên soạn mới được tiếp cận trong thời gian chưa lâu.
Mặc dù vậy, quyển giáo trình Nhân học đại cương cũng được hoàn
thành và xuất bản vào năm 2008. Đến năm 2013, quyển giáo trình này
được sửa chữa bổ sung và tái bản. Hiện nay, quyền giáo trình tái bản
này cũng đã trải qua gần 5 năm nên nội dụng của quyền giáo trình cần
tiếp tục bổ sung, chỉnh sửa cho phù hợp với sự phát triển của khoa học
mới. Vì thế, tập thẻ giảng viên khoa Nhân học đã tiếp tục chỉnh sửa
nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng của quyền giáo trình này.
Quyển giáo trình Nhân học đại cương mà quí vị đang cầm trên
tay là quyển được tái bản lần thứ 2. Bố cục vẫn là 10 chương hai
quyển trước, nhưng việc sắp xếp các chương có sự thay đổi để mang
tính logic hơn; nội dung của từng chương cũng được bỗ sung, chỉnh .
sửa lại cho hợp lý hơn, giúp người đọc dễ hiểu và nắm bắt vấn đề
nhanh hơn.
Tuy đã rất cố gắng cho quyển giáo trình tái bản lần 2 này; nhưng
chúng tôi tĩn vẫn còn những điều hạn chế, thiếu sót. Chúng tôi luôn
mong nhận được sự góp ý chân tình của các nhà khoa học, các cán bộ
—
giảng đạy và bạn đọc để có thể tiếp tục sửa chữa, bổ sung nâng cao
Nhân địp tái bản quyền giáo trình Nhân học đại cương lần thứ hai
này, chúng tôi chân thành cảm ơn GS.TS. Lương Văn Hy (Khoa Nhân
học, Đại học Toronto, Canada) đã luôn đồng hành và đóng góp ý kiến
về mặt khoa học cho các bản thảo liên quan đến quyền giáo trình này;
và cũng xin gửi lời cám ơn đến Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP Hồ
Chí Minh đã hỗ trợ và cấp phép tái bản quyền giáo trình để sớm tới
_VÏ
MỤC LỤC
/98/90E2710000055............. ¬.. V
Chương 2: Sự xuất hiện con người và các chủng tộc loài người..... 47
Ngô Thị Phương Lan - Huỳnh Ngọc Thu - Trương Thị Tìu Hằng
vũ
Chương 1
Nhân học là ngành khoa học ra đời vào thế kỉ XIX, lấy con
người làm đối tượng nghiên cứu, nhằm mục đích tìm hiểu bản
chất con người trong bối cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
của từng tộc người, từng xã hội loài người. Quan sát — tham dự
và phỏng vấn sâu là những phương pháp nghiên cứu chủ yếu của
ngành nhân học. Trong đó, buộc người nghiên cứu phải dấn
thân, ba cùng với cộng đồng được xem là đối tượng nghiên cứu.
Khi nghiên cứu, các nhà nhân học thường, xem xét vấn đề trong
bối cảnh rộng lớn hơn và đặt nó trong mỗi tương quan với các
ngành khoa học khác liên quan. đến con người, như lịch sử, triết
học, tâm H, giáo dục, chính trị, tôn giáo, xã hội,... Do đó, nhân
học luỗn thể hiện quan điểm toàn diện và so sánh trong mối
1. KHÁI NIỆM
Hy Lạp cổ, được ghép lại bởi hai từ anthropos nghĩa là người,
trong một số tài liệu ở Việt Nam gọi là Nhân loại học hay Nhân
chủng học.
chât của con người! trên các phương diện sinh học, xã hội, văn
hóa của các nhóm người, các cộng đông tộc người khác nhau, cả
Tuy nhiên cũng có định nghĩa khác: Nhân học nghiên cứu
sự tiễn hóa của con người, các xã hội và văn hóa khác nhau do
con người sảng tạo ra trong quá trình lịch sử và tính ấa dạng
của các xã hội con người trên thế giới ngày nay”.
Hai định nghĩa này nói rõ nhân học là khoa học nghiên cứu
về con người, nhưng định nghĩa thứ nhất nhắn mạnh tính cụ thể
con người. Đó là các nhóm người, các cộng đồng người khác
nhau trong tính đa dạng của con người. Và, nghiên cứu con
người không chỉ chú trọng vào sự tiến hóa về mặt sinh học mà
còn quan tâm đến sự tương tác của các phương điện văn hóa —
xã hội. Do đó, định nghĩa một mang tính phổ quát hơn trong bối
Cần phải khẳng định rõ rằng, đối tượng nghiên cứu của
ngành nhân học là cøn người. Đặt con người được nghiên cứu
trong mỗi quan hệ tương tác TỘng lớn hơn với bên ngoài, trong
đó nhắn mạnh đến các yếu tố môi trường tự nhiên, kinh tế, văn
hóa, xã hội, giao lưu tộc người,... đến đối tượng người được:
nghiên cứu.
Vấn đề đặt ra, nhân học đảm nhận chức năng nghiên cứu về
con người, vậy các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác sẽ
Để trả lời cho câu hỏi này, cần khẳng định, trong nghiên cứu
khoa học phải phân biệt giữa khách thể nghiên cứu và đi
Grant Evant (cb) (2001), Bức khám văn hóa châu Á— tiện cận nhân học, NXB
với tư cách là thực thể sinh học-xã hội, lúc đó con người chỉ là
khách thể nghiên cứu, chưa phải đối tượng nghiên cứu của bắt
kỳ ngành khoa học nào. Với khách thể nghiên cứu phong phú,
đa diện như con người, để tìm hiểu, nghiên cứu, buộc phải chia
ra nhiều lĩnh vực mang tính chuyên biệt. Mỗi lĩnh vực là đối
tượng nghiên cứu của một khoa học chuyên ngành. Do đó, có
thể thấy nhiều ngành khoa học liên quan đến con người như y
học, sinh học, triết học, văn học, ngôn ngữ, kinh tế, chính trị,
luật pháp,... đều có nghiên cứu về con người; nhưng con người
lúc này chỉ là khách thể nghiên cứu, vì mang đối tượng nghiên
Đối với nhân học, do muốn in biểu về bản chất của con -
người để trả lời cho câu hỏi “tại sao họ lại như thế?”, nên đã tiếp
cận nghiên cứu con người trong tính toàn diện và so sánh, đối
chiếu cả về không gian và thời gian (so sánh đồng đại và lịch
đại), nên con người trở thành đối tượng nghiên của ngành khoa
học này, Mặc dù, các vấn đề nghiên cứu của nhân học có thể
nhận thấy như ngôn ngữ, văn hóa, xã hội, tôn giáo,... nhưng tất
cả vấn đều nhằm hướng đến việc trả lời cho câu hội; “Tại sao
con người lại như thế?”. Con người trong ngành nhân học không
Do đối tượng nghiên cứu của nhân học là con người và được
xét trong bối cảnh tương tác rộng lớn với bên ngoài, nên quan
điểm nghiên cứu của ngành. nhân học được chú trọng đến tính
toàn diện và so sánh đối chiếu.
biết sâu sắc hơn rất nhiều so với trước đây, song dẫu sao sự hiểu
biết đó về con người vẫn còn nhỏ bé và hời hợt. Nhận thức về
3
con người là một quá trình vô tận mà ngày nay chúng ta mới đi
được chặng đầu. Còn quá nhiều vấn đề về sự tồn tại của con
người, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến thế giới tinh thần,
tâm linh chưa được hiểu biết thấu đáo. Nói cách khác, chính
những thành tựu mới của khoa học hiện đại, đặc biệt là những
thành tựu của khoa học chuyên sâu đã làm cho khái niệm con
người bị phân thành từng mảnh riêng biệt. Trước thực trạng đó,
khoa học nhìn toàn diện. Nhân học chính là ngành khoa học có
Khác với các ngành khoa học khác, nhân học luôn tích hợp
thành tựu nghiên cứu của nhiều ngành khoa học để tìm hiểu về
con người trong tính toàn diện của nó. Đó là việc sử dụng kết
quả khám phá của các ngành khoa học khác và kết hợp chúng
với những dữ kiện riêng của mình để tìm hiểu con người. Đặc
biệt, xem xét các yếu tố kinh tế, chính trị, lịch sử, văn hóa, xã
hội, tôn giáo,... đã tác động với nhau như thế nào, để tạo nên đời
sống của con người như chúng ta thấy. Điều đó chứng tỏ, nhân
học là ngành học mang tính toàn diện (holistic). Đây chính là
Chính vì vậy, các nhà nhân học khi nghiên cứu về một cộng
đồng người, hay một tộc người thường phải quan tâm đến nhiều
khía cạnh khác nhau trong đời sống của con người, như môi
trường sinh thái nơi con người đó cư trú; sự phát triển kinh tế-xã
hội ở khu vực này; yếu tố chính trị của quốc gia, khu vực nơi
con người sinh sống: tộc người này sống biệt lập hay có sự giao
lưu với các tộc người khác; lịch sử hình thành tộc người được
nghiên cứu,... Đó chính là quan điểm toàn điện mà các nhà nhân
Bên cạnh quan điểm toàn diện nêu trên, nhân học khi nghiên
cứu cần đến một quan điểm nữa là so sánh — đối chiếu. Do bởi,
4
đối tượng nghiên cứu là con người của ngành nhân học có phạm ,
vi thời gian và không gian lớn; và nhân học không chỉ quan tâm
đến các tộc người sống trong một không gian nhất định, mà còn
quan tâm đến tiễn trình xuất hiện và tiễn hóa về mặt sinh học của
con người từ xa xưa đến hiện nay. Mục đích nhận thấy được sự
thời gian của con người trên thế giới. Như vậy, nhân học nghiên
cứu về con người theo hai chiều kích: lịch đại và đồng đại, để
tìm hiểu sự đa dạng của con người qua hình thể cũng như đời
sống văn hóa — xã hội, phong tục — tập quán của họ.
Từ hai quan điểm nghiên cứu trên của ngành nhân học cho
thấy, ngành khoa học này cần có mối quan hệ với nhiều ngành
khoa học khác. Mục đích của các mối quan hệ này là nhằm kết
hợp để giải thích về sự đa đạng của con người trên thế giới và
cũng hướng đến việc trả lời một cách tốt nhất cho câu hỏi: “Con
người tại sao lại như thế?”. Các ngành khoa học được xem là có
* Sử học
- Nhân học có mối quan hệ chặt chẽ với sử học bởi-vì nhân
học nghiên cứu con người về các phương điện sinh học, văn hoá,
xã hội thường tiếp cận từ góc độ lịch sử (theo lịch đại). Một điều
dễ nhận thấy trong các bộ sử xa xưa đến nay có chứa đựng khá
nhiều tài liệu nhân học mà các nhà nhân học khi nghiên cứu về
con người không thể không quan tâm; đặc biệt những vẫn đề
liên quan đến lịch sử của các tộc người, các nhóm địa phương,..
Thông thường, những vấn đề nghiên cứu về con người của nhân
học không thể tách rời bối cảnh lịch sử của con người đó cả về
không gian lẫn thời gian. Thiếu tri thức lịch sử, nhà nhân học sẽ
Triết học là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất
học là quan hệ giữa một ngành khoa học cụ thể với một ngành
khoa học về thế giới quan khoa học. Triết học là nền tắng về thế
giới quan. Nhân học là một ngành khoa học cụ thể. Nhân học sử
dụng quan điểm về thế giới quan của triết học để giải đáp những
vấn đề thực tiễn sinh động trong cuộc sống con người. Các kết
quả nghiên cứu của nhân học thường không thể những quy luật
chung nhất về sự phát triển của xã hội loài người và đây cũng
* Xổ hội học
ˆ- Nhân học và Xã hội học có ảnh hưởng tương quan lẫn nhau.
Nhiều khái niệm mang tính lí thuyết của xã hội học bắt nguồn từ
nhân học. Ngược lại, xã hội học cũng có tác động trở lại đối với
nhân học về mặt phương pháp luận nghiên cứu, ví dụ quan điểm
Trong những thập niên gần đây, nhân học mở rộng đối
tượng nghiên cứu tới các xã hội công nghiệp hiện đại. Để tiếp
nghiên cứu định lượng của xã hội học và các phương pháp khác.
Trái lại, các nhà xã hội học cũng đã sử dụng khá quen thuộc
những phương pháp nghiên cứu của nhân học như phương pháp.
quan sát tham gia, phỏng vấn sâu. Nhiều lúc các nhà nhân học
và xã hội học đã phối hợp nghiên cứu về những chủ đề mà ranh
* Địa lí học
:: Nhân học và ổịa lí học có mỗi quan hệ nhau trong lĩnh vực
nghiên cứu về sinh thái (bao gồm cả sinh thái tự nhiên và sinh
thái nhân văn) nhãm giải quyết mỗi quan hệ tương tác giữa con
6
người với môi trường tự nhiên và hành vi ứng xử của con người
với môi trường xã hội và nhân văn. Nhân học sinh thái liên quan
với địa lí kinh tế trong việc phân vùng lãnh thổ mà các tộc người
sinh sống, địa - văn hóa để có cái nhìn tổng thể trong mối quan
ứng xử.
* Kinh tế học
Nghiên cứu liên ngành giữa nhân học và kinh tế học trong
lĩnh vực nhân học kinh tế. Nhân học kinh tế vận dụng một số
quan niệm,' phạm trù lí thuyết của kinh tế học vào công tác
hội, vôn tự nhiên, thị trường, v.v. Nhân học không đi sâu nghiên
cứu các quy luật của kinh tế học mà tập trung tiếp cận trên bình
điện văn hóa - xã hội của quá trình hoạt động kinh tế như cách
thức chế tạo công cụ, hình thức tổ chức sản xuất, trao đổi, phân
phối, tiêu dùng mang yếu tố văn hóa tộc người, địa phương,
nghề nghiệp phản ánh truyền thống văn hóa tộc người.
* Tâm lĩ học
Mối quan hệ giữa I nhân học và tâm lí học xuất hiện trong
lĩnh vực nghiên cứu về nhân học tâm lí hay tâm lí tộc người.
Trong tâm lí học, sự quan tâm chủ yếu đành cho việc phân tích
những nét tâm lí của cá nhân trong những kinh nghiệm nghiên
cứu xuyên văn hóa; còn nhân học tập trung nghiên cứu tính cách
dân tộc, ý nghĩa của tính tộc người với tư cách là tâm lí học cộng
đồng tộc người lại có ý nghĩa to lớn. Mối quan hệ giữa nhân học
và tâm lí thể hiện xu hướng tâm lí trong nghiên cứu văn hóa và
các lí thuyết văn hóa theo xu hướng nhân học tâm lí trong những
* Xuật học
Nhân học pháp luật có liên quan đến luật học, do bởi nhân
học luật pháp nghiên cứu những nhân tố văn hóa - xã hội tác
7
ˆ_ động đến luật pháp trong các nền văn hóa và các tộc người khác
nhau. Nhân học luật pháp còn nghiên cứu đến luật tục là hiện
tượng phổ quát của nhân loại trong thời kỳ phát triển tiền công
nghiệp và tồn tại cho đến ngày nay ở các dân tộc trên thế giới.
Các nhà nhân học nghiên cứu mối quan hệ giữa luật tục và luật
pháp để từ đó vận dụng luật tục và luật pháp trong quản lí xã hội
Cộng đồng tộc người và cộng đồng tôn giáo là hai dạng thức
khác nhau của cộng đồng người và có mối quan hệ gắn bó mật
thiết với nhau trong quá trình phát triển. Tôn giáo được xem như
là thành tố văn hóa của tộc người và dĩ nhiên nhân học phải
nghiên cứu tôn giáo. Khác với triết học tôn giáo và tôn giáo học,
nhân học tôn giáo quan tậm tới việc nghiên cứu các hình thái tôn
giáo sơ khai, các tôn giáo dân tộc và tôn giáo thê giới trong mối
quan hệ với văn hóa tộc người. Nhân học tôn giáo đi sâu nghiên
cứu các biểu tượng tôn giáo, các nghi thức, các hành vi, lễ hội và
các thiết chế xã hội tôn giáo khác nhau. Nhân học tôn giáo còn
quan tâm nghiên cứu mối quan hệ trong sinh hoạt tôn giáo với
giới tính, các phong trào tôn giáo, xung đột tôn giáo trong mối
Nhân học tổn tại với tư cách là một ngành khoa học thực sự
chỉ được ra đời vào giữa thế kỉ XEX, mặc đù trước đó trong các
-thời kì cỗ và trung đại những tri thức về nhân học như sự khác
biệt giữa các chủng tộc, các phong tục tập quán và văn hóa của
các dân tộc khác nhau trên hành tỉnh được ghi chép lại trong các
biên niên sử, địa chí; tiêu biểu là tác phẩm 7;ch sử nỗi tiếng gồm
Thiên ở Trung Quốc. Nhân học ra đời dựa trên những cội nguồn
8
tư tưởng triết học và khoa học, gắn liền với thời kì phát triển của
chủ nghĩa tư bản đang lên ở châu Âu chống lại chế độ phong
kiến, gắn liền với những phát kiến địa lí và sau đó là sự tiếp tục
mở rộng thuộc địa của chủ nghĩa thực dân đến các nước Á, Phi,
Mỹ-Latinh.
thần thoại sang thế giới của khoa học với sự khẳng định thế giới
quan tiến hóa dựa vào giả thuyết nguồn gốc vũ trụ của E. Kant
Trong lĩnh vực sinh vật học, với sự ra đời của những nghiên cứu
giải phẫu, sinh lí học cơ thể người, trong thời kì Phục hưng nhờ
đó mà kho tàng kiến thức của con người về chính mình và các
một bước ngoặt lớn cho việc nghiên cứu lịch sử tự nhiên. Loài
người cũng trở thành đối tượng nghiên cứu về lịch sử tự nhiên
trên cơ sở công nhận mình là một loài sinh vật. Lúc bẩy giờ đã
diễn ra một cuộc cách mạng vĩ đại gắn liền với sự ra đời của các
tác phẩm nỗi tiếng: Hệ thống tự nhiên của Carolus Lineaus năm
1735, đặc biệt là cuốn Nguồn gốc các loài của Charles Darwin
năm 1859 đã khiến cho việc nghiên cứu lịch sử tự nhiên và con
dùng để chỉ khoa học nghiên cứu về con người. Nhưng lúc bấy
giờ, người ta chủ yêu nghiên cứu con người về phương diện sinh
vật học như nguồn gốc và sự tiến hóa của con người và các
chủng tộc. Như vậy khái niệm nhân học có phạm vị hẹp hơn so
địa các đân tộc ngoài châu Âu nhằm phục vụ cho sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản. Sự giao lưu tiếp xúc giữa người châu Âu
và các dân tộc khác ngoài châu Âu đã cho thấy các cư dân, dân
tộc trên thế giới không chỉ khác nhau về hình thể mà cả văn hóa
9
với tất cả tính đa dạng của nó. Người ta ngày càng quan tâm _
nhiều hơn đến việc nghiên cứu các đân tộc và các nền văn hóa
khác, tất cả những điều này đã khiến cho đối tượng nghiên cứu
nhân học không chí bó hẹp trong việc nghiên cứu phương diện
sinh học của con người mà cả văn hóa và xã hội. Nhân học được
hình thành và đần dần định hình từ đó. Dấu ấn của nó còn để lại
trong lịch sử phát triển nhân học. Tại châu Âu như Hà Lan, Đức,
Pháp nói đến nhân học về cơ bản cũng có nghĩa là nói về nhân
Cùng thời gian này ngành dân tộc học cũng ra đời để
nghiên cứu về các dân tộc và văn hóa của họ. Dân tộc học
quan tâm nghiên cứu đến văn hóa của các dân tộc và ít chú
trọng về mặt sinh học của con người. Dân tộc học được phát
triển ở Pháp, Đức, Nga và các nước chịu ảnh hưởng: trong khi
đó nhân học (cả phương điện sinh học và văn hóa) lại phát
chung là thiết lập một ngành khoa học mang tính bao trùm gọi
là nhân học - nghiên cứu toàn điện con người cả về con người
tự nhiên và con người xã hội. Như thế, dân tộc học đường như
chỉ tương ứng với nhân học văn hóa - xã hội, mặc dù trong
quá trình phát triển chúng có những nét riêng biệt. Thuở ban
đầu tuy có khác nhau về tên gọi nhưng nhân học và dân tộc
học vẫn bó hẹp đối tượng của mình là những cư đân ngoài
châu Âu, đặc biệt là các tộc người được gọi là “nguyên thủy”,
“đã man” hoặc là các cư dân còn ở trạng thái văn minh nông
nghiệp. Nghiên cứu cư dân châu Âu thuộc nền văn minh công
nghiệp là đối tượng của các ngành khoa học xã hội và nhân văn
khác như lịch sử, xã hội học, kinh tế, luật học v.v.
Vào giữa thế kỉ thứ XIX ở một số nước châu Âu đã thành
lập các hội nghiên cứu về địa lí, nhân học, dân tộc học, trong đó
đã tích luỹ được nhiều thông tin về những đặc điểm và sự vận
hành của các nền văn hóa khác nhau. #đội dân tộc học Paris
10
được thành lập đầu tiên vào năm 1839 sau đó cải tổ thành Hội
nhân học năm 1859. Ở New York đã thành lập Hội dân tộc học
Mỹ vào năm 1842. Hội dân tộc học Ánh ra đời vào năm L871 và
sau đó hàng. loạt các Hội nhân học và Dân tộc học được thành
lập ở châu Âu; cùng với nó các bảo tàng nhân học và dân tộc
học cũng như các tạp chí nhân học và dân tộc học ra đời.
Với sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
và với sức mạnh của công nghiệp đang diễn ra ở các nước thuộc
địa và phụ thuộc phá vỡ các xã hội tiền công nghiệp truyền
thống, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã đưa hầu hết
các dân tộc thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân vào
nửa sau thế kỉ XX. Việc nghiên cứu các cư dân, dân tộc thuộc
các nước thuộc địa và phụ thuộc để phục vụ cho chính sách của
chủ nghĩa thực dân không còn là nhu cầu cấp bách nữa. Đã đến
lúc đối tượng nghiên cứu của Nhân học cần phải thay đổi và mở:
rộng. Dù là cư dân thuộc các nước tư bản chủ nghĩa hay xã hội
chủ nghĩa, thế giới ngày nay đang chuyển mình sang xã hội công
nền văn minh ngoài châu Âu, chủ nghĩa trung tâm châu Âu
thước đo giá trị văn minh ngày càng bị phê phán vì bị cho rằng
phân biệt chủng tộc. Từ đấy dẫn đến tình hình buộc người
nghiên cứu có cái nhìn công bằng hơn, toàn điện hơn những giá
trị văn hóa ngoài châu Âu. Đã đến lúc đối tượng của nhân học
hay dân tộc học cần được mở rộng với cái nhìn tông thể qua sự
so sánh đối chiếu về con người không chỉ ở các nước châu Âu,
châu Á, châu Phi, Ức. Bấy giờ dù là nhà nhân học hay dân tộc
học không chỉ nghiên cứu các nước ngoài châu Âu mà cả các
nước của chính châu Âu và Bắc Mỹ, không chỉ nghiên cứu các
1l
cư dân nông nghiệp mà cả những cư dân công nghiệp và hậu
công nghiệp, không chỉ nghiên cứu con người ở nông thôn mà
cả. con người ở đô thị. Trong bối cảnh công nghiệp hóa và toàn
cầu hóa, nhân học và dân tộc học phải đối mặt với những thay
đổi to lớn, đòi hỏi phải mở rộng đối tượng và phương pháp
nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu thay đổi từ xã hội tĩnh sang
hội công nghiệp với những quan hệ xã hội đan xen chẳng chịt.
Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu cũng thay đổi từ góc độ hẹp
sang góc độ rộng hơn, mang tính phổ biến hơn. Dù là nhân học
hay dân tộc học, xu hướng nghiên cứu liên ngành giữa nhân
học/dân tộc học với các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác
và xu hướng xích lại gần nhau, hòa vào nhau giữa nhân học và
dân tộc học đến mức khó phân biệt rạch ròi. Sự tiếp cận nghiên
cứu liên ngành đã xuất hiện các phân ngành nghiên cứu sâu về
từng lĩnh vực như nhân học/dân tộc học kinh tế, nhân học/dân
tộc học môi trường, nhân học /dân tộc học tôn giáo, nhân
học/dân tộc học đô thị, nhân học/dân tộc học du lịch v.v. Dù
truyền thống lịch sử khoa học ở các nước có khác nhau, nhưng
xu hướng xích lại gần nhau giữa dân tộc học và nhân học văn
hóa - xã hội đang diễn ra và những nhà nhân học hay dân tộc
học vẫn coi nhan như những người đồng nghiệp trong Hội nhân
Ở Việt Nam, tri thức dân tộc học có trong các bộ địa chí và
lịch sử do các nhà sử học biên soạn. Về mặt nghiên cứu dân tộc
học, sau khi thực dân Pháp bình định xong Việt Nam vào đầu
thế kỉ XX, Pháp đã lập ra một số cơ quan nghiên cứu nhằm phục
vụ cho chính sách cai trị của chúng. Các nghiên cứu dân tộc học
buổi đầu phần lớn là các học giả, các linh mục, các quan cai trị
người Pháp. Những công trình nghiên cứu được công bố trên các
tập san của Trường Viễn Đông bác cổ (BEFEO), hay trên tập
san Những người bạn cố đô Huế (BAVH), Tạp chí Đông Dương
12
(RD) và sau đó là hàng loạt công trình nghiên cứu của các học giả
Việt Nam như Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn
Huyện,... Sau năm 1954, Tổ dân tộc học thuộc Viện Sử-tiền
thân của Viện Dân tộc học được thành lập năm.1968 ở miền
Bắc. Dân tộc học Việt Nam với tư cách là một lĩnh vực khoa học
được đào tạo đại học chính thức từ đầu thập niên 60 cuả thế kí
XX với sự ra đời của Bộ môn dân tộc học tại khoa Sử, Trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội ở miền Bắc và Đại học Văn khoa tại
Sài Gòn ở miền Nam. Nếu như ở miền Bắc XHCH về mặt đào
-tạo và nghiên cứu chịu ảnh hưởng sâu đậm của trường phái dân
tộc học Xô Viết, vì phần lớn các nhà dân tôc học được đào tạo từ
Liên xô cũ và các nước XHCH Đông Âu, thì ở miền Nam dưới
chế độ VNCH, dân tộc học chịu ảnh hưởng của dân tộc học
Pháp nhiều hơn là chịu ảnh hưởng của Nhân học Mỹ. Sau giải
phóng đất nước năm 1975, ảnh hưởng của dân tộc học Xô Viết
vẫn sâu đậm hơn cả vì phần đông các nhà dân tộc học đầu ngành
Do chịu ảnh hưởng của trường phái dân tộc học Pháp và
Liên Xô (cũ), dân tộc học được coi là một chuyên ngành khoa
học lịch sử và được đào tạo từ những thập niên 60 của thế kỉ
XX. Trong những thập niên qua, đân tộc học Việt Nam đã có
những thành tựu khoa học đáng kể góp phần vào sự nghiệp
giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trước yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để hội nhập
khoa học với thế giới trong bối cảnh khu vực hóa và toàn cầu
hóa, ngành Dân tộc học Việt Nam vào thập niên đầu của thế
ki XXI đã tiến hành các cuộc hội thảo và đi đến nhất trí là: về
mặt đào tạo tách bộ môn đân tộc học ra khỏi khoa lịch sử, đổi
tên ngành Dân tộc học thành Nhân học, xây dựng và phát triển
ngành Nhân học trở thành một ngành khoa học độc lập ngang
hàng với sử học và các ngành khoa học xã hội và nhân vấn
13
thuộc Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
_ Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2002, sau đó là
khoa Nhân học vào năm 2008. Đồng thời Bộ môn nhân học
của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội cũng thành lập năm 2007 và tiến hành đào tạo năm
2010. Viện Dân tộc học và Viện Nghiên cứu con người thuộc
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam cũng tiến hành đào tạo Tiến
sĩ ngành Nhân học văn hóa. Tương lai của ngành nhân học là
rộng mở, nhưng trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn thách đó
trên con đường phát triển. Để xây dựng ngành nhân học chúng
ta phải thừa kế những thành tựu của ngành dân tộc học lâu
nay, tiếp thu những tri thức nhân học thế giới về lí luận và
phương pháp nghiên cứu, đặt trong bối cảnh lịch sử — cụ thể
sử, địa lí và có tính toàn diện trong cách tiếp cận nghiên cứu con
người so với các ngành học khác. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu
của nhân học là rất rộng. Theo truyền thống, các nhà nhân học
đã chọn cách tiếp cận bản chất con người theo hai hướng khác
Nhân học hình thê là chuyên ngành ra đời đầu tiên và sớm
nhất của ngành nhân học. Vấn đề quan tâm chính của các nhà
nhân học hình thể là con người với tư cách là một thực thê sinh
vật. Mục đích của họ là khám phá ra những nét tương đông và dị
biệt của con người và các loài động vật khác.
Nhân học hình thể tìm kiếm câu trả lời cho hai đạng câu hỏi
riêng biệt. Dạng đầu tiên gôm những câu hỏi về sự xuât hiện vê
con người và sự tiễn hóa sau này để tìm hiểu nguồn gốc và quá
14
trình hình thành con người. Phân ngành của nhân học hình thể
paleontology hay Paleanthropology). Dạng câu hỏi thứ hai trả lời
về vẫn đề như thế nào và tại sao các cư đân đương đại khác nhau
về mặt sinh học (tập trung để cập tới sự đa dạng của con người
human variation).
con người, tiền thân của con người để tát hiện lại sự tiễn hóa của
{Homo sapiens). Trong quá trình nghiên cứu sự tiến hóa của con
người, các nhà cổ nhân học còn sử dụng các thông tin địa chất
học về các biến đổi khí hậu, môi trường, các loại thực vật và
động vật qua thời gian để lí giải vấn đề môi trường và điều kiện
sống của các hóa thạch người trong quá trình tiến hoá.
họ hàng gần gũi nhất với con người- loài linh trưởng từ những
hóa thạch của chúng qua các thời kỳ địa chất cho đến các nhóm
linh trưởng còn tổn tại hiện nay như khi, vượn, đười ươi v. Từ
việc nghiên cứu các loài linh trưởng, các nhà nhân học cố găng
khám phá các đặc điểm riêng của con người khác với các đặc
điểm thừa hưởng được từ các loài linh trưởng. Với thông tin này,
họ có thể nghiên cứu tổ tiên thời kỳ tiền sử của chúng †a như thế
nào. Những kết luận từ việc nghiên cứu loài linh trưởng hiện nay
so sánh với các hoá thạch linh trưởng giúp cho chúng ta hiểu biết
đầy đủ hơn về nguồn gốc của loài người và văn hóa của chúng ta
nghiên cứu sự đa dạng của con người, giải thích tại sao hiện nay
ở các vùng trên trái đất con người khác nhau về đặc điểm sinh
học và hình thể? Tất cả loài người hiện nay đều thuộc một loài
Homo sapiens mà tất cả mọi người có thể lai giống với nhau
mặc dù về hình đáng cơ thể, màu da, tóc, mắt khác nhau.
15
* Chúng tộc học ra đời khá sớm ở châu Âu để nghiên cứu
các chủng tộc khác nhau trên thế giới khi tiến hành phân loại cư
dân trên thế giới thành bến đại chủng: Ơrôpôit, Mông6lôït,
Nêgrôit và Ôtxtralôit và các phân cấp nhỏ hơn như tiểu chủng và
các nhóm loại hình khi đựa vào tổng hợp các đặc trưng nhân học
chủ yếu về hình thái sinh lí của con người. Những nhà khoa học
chân chính đã chứng minh rằng, những đặc trưng phân loại này
không mảy may liên quan đến trí tuệ của con người, đến sự phát
triển của xã hội và đang đấu tranh chống lại chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc khi phân chia loài người thành những “chủng tộc
thượng đẳng” có khả năng phát triển mọi mặt về trí tuệ, tỉnh thần
là người xây dựng nền văn minh nhân loại, đối lập với những
“chủng tộc hạ đắng”, được xem là hèn kém, dốt nát cần được
khai hoá. Phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc ngày càng dâng cao và ngay ở nước Mỹ, nhiều nhà nhân học
đang vạch trần và phê phán những định kiến sai lầm và phản
người hiện nay, các nhà nghiên cứu hình thể đã sử dựng các
nguyên tắc, khái niệm và kĩ thuật của ba ngành: nghiên cứu gen
người (nghiên cứu các đặc điểm của con người di truyền), sinh
học dân số (nghiên cứu sự tác động của môi trường và sự tương
tác với các đặc điểm dân số) và nghiên cứu dịch tễ học (nghiên
cứu như thế nào và tại sao các bệnh tật ảnh hưởng tới cộng đồng
và cư đân theo các cách khác nhau). Nghiên cứu sự đa dạng của
con người vì thể nó liên quan đến các lĩnh vực nghiên cứu khác.
Những người tự coi mình là nhà nhân học hình thể quan tâm
nhiều đến các cộng đồng người với sự khác biệt về mặt sinh học.
4.2. Nhân học văn hóa
Một hệ quả của sự tiên hoá của nhân loại có tác động sâu
xa đên bản chât của con người là sự xuất hiện của văn hóa.
lồ
người học hỏi được với tư cách là thành viên của xã hội. Con
người dùng văn hóa để thích ứng với thế giới trong đó họ đang
Các nhà nhân học đôi khi phân biệt văn hóa (Culture) và
những nền văn hóa (cultures). Văn hoá được xem là thuộc tính
của nhân loại nói chung - đó là khả năng Sáng tạo ra những
hành vi và quan niệm để con người có thể tồn tại như là cơ thể
sinh học. Ngược lại, những nên văn hóa là những truyền thống
tập thể người học hỏi được vì họ là thành viên của xã hội đó.
Mỗi truyền thống có thể được gọi là một nên văn hóa riêng
mặc dù biên giới ngăn cách giữa một nền văn hóa khác
Nhân học văn hóa được chia ra làm ba chuyên ngành nhỏ
hơn: khảo cỗ học, nhân học ngôn ngữ và nhân học văn hóa -
xã hội.
* Khảo cỗ học
Khảo cổ “học là một chuyên ngành của nhân học văn hóa
nghiên cứu về văn hóa quá khứ của con người. Ki sử dụng các
phương pháp phân tích các đi tích vật chất các nhà khảo cỗ học
không chỉ tái hiện lại đời sống hàng ngày và phong tục của các:
dân tộc trong quá khứ mà còn tìm lại những biến đổi văn hóa và
đã đưa ra những câu trả lời có thể cho những biến đổi này qua
nghiên cứu các di vật tìm được trong các cuộc khai quật khảo cỗ
học. Mối quan tâm này cũng giống mối quan tâm của các nhà sử
học, nhưng những nhà khảo cô học có thể tìm hiểu những
khoảng thời gian : xa xưa hơn. Các nhà sử học chỉ nghiên cứu các
xã hội có chữ viết thông qua các văn bản cổ còn giữ lại, vì thế
_ phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn trong khoảng 5.000 năm của
lịch sử nhân loại. Tuy nhiên loài người đã tồn tại hơn một triệu
năm mà chỉ một phần nhỏ trong khoảng năm ngàn năm qua là có
tài liệu phi chép. Còn đối với các xã hội không có văn bản chữ
17
viết thì nhà khảo cổ học đóng vai trò như một nhà sử học. Thiếu
những ghi chép để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học phải cố
gắng tái hiện lại lịch sử từ những dấu vết còn lại của các nền văn
hóa con người. Đó là các công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt
hàng ngày, đồ trang sức, các đồng rác, những mảnh gốm vỡ, v.v.
Đa số các nhà khảo cỗ học nghiên cứu về thời tiền sử, thời
gian trước khi có những ghi chép lịch sử (khảo cỗ học tiền sử).
Ngoài ra còn có những nhà khảo cổ học nghiên cứu các dân tộc
có chữ viết cũng như các nền văn hóa, văn minh của các dân tộc,
cư dân khác nhau trên thể giới (khảo cổ học lịch sử). Qua nguồn
đữ liệu mà họ đã khai quật và thu thập được, kết hợp kiến thức
của khoa học địa lí, lịch sử, kế cả những thành tựu của khoa học
tự nhiên như vật lí, hóa học, sinh học, các nhà khảo cổ học sẽ trả
lời được hàng loạt vấn để như: Con người làm ra công Cụ sản
xuất từ khi nảo, cách chế tạo ra sao? Con người thời tiền sử hoạt
động kiếm sống như thế nào? Ở đâu và khi nào nông nghiệp tồn
tại và phát triển? Chữ viết và đô thị xuất hiện khi nào và ở đâu?
v.v... Nhờ có những thành tựu nghiên cứu của các nhà khảo cổ
học, lịch sử loài người và nền văn hóa xa xưa của họ được tái
hiện góp phần tìm hiểu lịch sử và văn hóa của các cư dân, các
Một chuyên ngành thứ hai của nhân học văn hóa là nhân học
ngôn ngữ. Với tư cách là một khoa học, ngôn ngữ học nghiên
cứu về ngôn ngữ đã có trước nhân học. Khi nhân học ngôn ngữ
hình thành và phát triển hai ngành này có mối quan hệ gần gũi
.với nhau từ những ngày đầu của công tác nghiên cứu điền đã
nhân học, khi các nhà nhân học cần sự giúp đỡ của các nhà ngôn
ngữ để nghiên cứu ngôn ngữ của các dân tộc không có chữ viết.
Khác với các nhà ngôn ngữ, các nhà nhân học ngôn ngữ quan
tâm chủ yếu đến lịch sử và cấu trúc của các ngôn ngữ không có
18
chữ viết trước đây. Một số nhà nhân học ngôn ngữ quan tâm tới
sự xuất hiện của ngôn ngữ và sự phân chia của chúng qua hàng
ngàn năm và sự biến đổi qua thời gian cũng như mối quan hệ cội
Khác với các nhà nhân học ngôn ngữ lịch sử, các nhà nhân
học ngôn ngữ miêu tả (hay cấu trúc) quan tâm tới việc phát hiện
và ghi lại những quy tắc quy định các âm và từ được ghép với
nhau như thế nào trong lời nói. Ngôn ngữ hiểu theo nghĩa rộng
là một bộ phận hợp thành của văn hóa. Vì vậy, các nhà Nhân
.học ngôn ngữ nghiên cứu những cách thức cũng như những hình
thức trao đổi thông tin khác của con người trong quá trình phát
triển và sự chuyển biến của các nền văn hóa. Lĩnh vực này chủ
yếu đi sâu vào vai trò của ngôn ngữ và các hình thức trao đôi
thông tin khác ảnh hưởng đến quá trình phát sinh phổ biến các
khái niệm như quan hệ quyền lực, ý thức hệ, những biểu hiện
phân hoá về mặt văn hóa, phân tằng giai cấp, tính đồng nhất dân
tộc, sự khác biệt giữa các nhóm địa phương, giới tính, v.v.
Các nhà nhân học ngôn ngữ hiện đại đã được đào tạo cả
về ngôn ngữ học và nhân học, nhất là nhân học văn hóa. Và
ngược lại các nhà nhân học văn hóa cũng được đào tạo về
ngôn ngữ học để phục vụ cho công tác chuyên môn của họ.
Các nhà nhân học ngôn ngữ tìm cách hiểu ngôn ngữ một cách
toàn diện trong tương quan với bối cảnh rộng lớn hơn về văn
hóa, lịch sử và sinh học.
Một chuyên ngành thứ ba được các nhà nhân học quan tâm
hơn cả là nhân học văn hóa - xã hội. Tuỳ thuộc vào quan miệm
của các trường phái nhân học mà có các tên gọi khác nhau. Ở
Anh, người ta nhấn mạnh đến nhân học xã hội, ở Mỹ lại quan
tâm nhiều hơn đến nhân học văn hóa. Xu hướng chung hiện nay
là người ta kết hợp cả nhân học văn hóa và xã hội gọi chung là
nhân học văn hóa - xã hội. Trong nhiều trường hợp người ta còn
19
gọi là đân tộc học. Theo truyền thống, các nước Bắc Mỹ và các
nước nói tiếng Anh gọi là nhân học văn hóa - xã hội trong khi đó
ở trường phái Pháp, Nga và các nước chịu ảnh hưởng (trong đó
có Việt Nam) gọi là đân tộc học. Về đối tượng và phương pháp
nghiên cứu nhân học văn hóa - xã hội và dân tộc học có nhiều
Khi nghiên cứu đời sống của các dân tộc các nhà nhân học
nhận thấy rằng không thể dùng yếu tố sinh học hay chủng tộc để
giải thích vì sao các dân tộc trong quá khứ và hiện nay không ăn
mặc giống nhau, không nói cùng một ngôn ngữ, không cầu
nguyện chung một thần và cách thức tổ chức đời sống xã hội
cũng rất khác nhau, có dân tộc huyết thống tính theo mẹ (mẫu
hệ), có dân tộc theo cha (phụ hệ). Họ cho rằng những cái khác
nhau giữa các dân tộc chính là văn hóa. Văn hoá là tập hợp các
hành vi và quan niệm mà con người học hỏi được với tư cách là
Vì con người khắp mọi nơi dùng văn hóa để thích ứng với
thế giới họ đang sống nên phạm vi của nhân học văn hóa là rất
rộng. Các nhà nhân học văn hóa không chỉ nghiên cứu văn hóa -
xã hội của các dân tộc ngoài châu Âu, các dân tộc đang ở giai
đoạn phát triển tiền công nghiệp mà còn nghiên cứu cả những xã
Do phạm vi của nhân học văn hóa rất rộng, vì vậy các nhà.
khoa học có khuynh hướng nghiên cứu chuyên sâu một lĩnh vực
nào đó của văn hóa con người. Có nhà nhân học văn hóa đi sâu
tìm hiểu các dạng thức của đời sống vật chất của con TIBƯỜI
trong các nhóm cư dân khác nhau như hình thức cư trú, nhà ở, y
phục và trang sức, ăn uống, các phương thức mưu sinh, công cụ,
kĩ thuật sản xuất lương thực và vIỆc chế tạo các vật dụng. Nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm đến đời sống vật chất, miêu tả môi
20
Lại có những nhà nhân học tập trung nghiên cứu về những
thiết chế chính trị - xã hội của các cộng đồng cư dân từ tổ
chức nhà nước đến các hình thức tổ chức đời sống cộng đồng;
sự phân tầng xã hội và chuyên biến xã hội, các giai cấp, đẳng
cấp, các hội đoàn, các tổ chức thân tộc, gia đình và hôn nhân
Bên cạnh đó, lại có những nhà khoa học nghiên cứu các lĩnh
vực khác nhau của đời sống tỉnh thần như tôn giáo, lễ nghỉ, âm
Các nhà nhân học khi nghiên cứu đã tiến hành so sánh các
hình thức khác nhau về đời sống văn hóa - xã hội của các dân.
tộc để tìm hiểu tính đa dạng của văn hóa cũng như nghiên cứu
động thái của văn hóa trong quá trình phát triển và biến đổi của
chúng. Do tầm quan trọng của vị trí chuyên ngành nhân học văn.
hóa - xã hội cho nên nó có mối quan hệ hữu cơ với các ngành
khác dẫn đến hỉnh thành các phân ngành trong Nhân học văn
hóa - xã hội như: nhân học sinh thái môi trường, nhân học kinh
tế, thân tộc và tổ chức xã hội, nhân học chính trị và pháp luật,
nhân học tâm lí và nhận thức, nhân học tôn giáo và lễ nghỉ, nhân
Nhân học ứng dụng là một chuyên ngành của nhân học mới
được phát triển trong những năm gần đây. Các nhà nhân học sử
dụng thông tin và kiến thức của các chuyên ngành nhân học
khác để giải quyết những vấn đề thực tế, thường là phục vụ cho
các cơ quan ngoài học thuật. Nhân học ứng dụng bao gồm cả
nghiên cứu ứng dụng và can thiệp. Vai trò của nhà nhân học ứng
dụng được thể hiện là người biện hộ cho những nhóm xã hội và
các dân tộc bị thiệt thôi; là người xúc tiến, thúc đây các chính
_ sách liên quan đến con người; là người cung cấp thông tỉn cho
những nhà hoạch định chính sách về con người; là người phân
21
tích các tư liệu về con người và là người trung gian giữa chính
Ví dụ, nhà nghiên cứu nhân học hình thể sử dụng những kết
quả nghiên cứu của mình về y học để phục vụ sức khỏe cộng
đồng, sử đụng những kết quả nghiên cứu nhân trắc để thiết kế và
may quần áo sẵn cho cộng đồng,... Nhà nhân học ngôn ngữ có
thể sử dụng kết quả nghiên cứu vào trong các chương trình đào
tạo giáo dục: làm từ điển, chương trình giáo dục song ngữ, đa
ngữ. Các nhà khảo cổ có thể sử dụng kết quả nghiên cứu hiện
vật để tổ chức trưng bày trong các bảo tàng lịch sử và văn hóa để
phục vụ đại chúng. Những nhà nhân học văn hóa nghiên cứu tri
thức địa phương trong canh tác nông righiệp, trong việc bảo vệ
môi trường, luật tục và các thiết chế xã hội truyền thống để phục
vụ cho công cuộc phát triển nông thôn vừa đuy trì văn hóa
truyền thống đồng thời cũng kế thừa những tri thức này cho việc
phát triển cộng đồng. Các lĩnh vực mang tính ứng dụng rộng rãi
là: nhân học đô thị, nhân học y tế, nhân học du lịch,...
Nhân học ứng dụng còn quá mới mẻ và nó liên quan đến
trường đại học giảng đạy các chương trình thuộc ngành này.
Cũng như bất cứ ngành khoa học nào, trong quá trình hình
thành và phát triển, ngành nhân học đã xuất hiện các trường
thuyết có những quan điểm chung về cách thức giải thích các
hiện tượng văn hóa. Ở đây, chúng tôi chỉ giới thiệu những
dưới góc độ những vấn đề được quan tâm hoặc phương pháp
nghiên cứu mang tính học thuật theo trình tự lịch đại một cách
tương đối.
22
Khi đề cập đến các trường phái và khuynh hướng lí thuyết,
chúng tôi điểm qua những quan điểm cơ bản và ¿ những tác giả
Vào những thập niên đầu tiên nửa sau thế kỉ XIX, các nhà
tiễn hoá luận chỉ ra tư tưởng về sự thống nhất của loài người và
sự đồng nhất trong phát triển về văn hóa, xã hội. Có thể xem,
niệm tiến hoá và đưa quan điểm của mình trong việc nghiên cứu
xuất bản vào năm 1850, SDEnCer đưa ra những khái niệm như
“thích nghỉ với những điều kiện sinh tồn” (ñtmess to the
existence); và đã ảnh hưởng đến thuyết tiễn hoá trong sinh học
Nguồn gốc chủng loại, xuất bản năm 1858. Quan điểm của
Darwin là phát triển và biến đổi của mọi sinh vật trên thế giới tử
đơn giản đến phức tạp thông qua cơ chế của sự chọn lọc tự nhiên
bằng việc đấu tranh, điều chỉnh để thích nghỉ với điều kiện tự
Đối với Spencer, ông cho rằng xã hội không phát triển theo
sách Principles oƒ Sociology III là “Cũng giống như các loại tiến
hướng (divergenÐ,... Trong tiến trình phân tái ra khắp toàn cầu,
nhân loại đã tạo ra những môi trường có tính cách khác nhan,..
[đưa đến nhiều chủng loại xã hội khác nhau]” [1876: 331]. Do
đó, có thể xem Sp€ncer gần với quan niệm tiến hoá đa. tuyến hơn
là đơn tuyến. Điều này khác với quan điểm tiễn hoá của Edward
1889), là những người ủng hộ học thuyết tiến hoá đơn tuyến.
23
Nhà bác học người Anh Edward B. Tylor là người ủng hộ
thuyết tiễn hoá về mặt văn hoá và cho rằng, các xã hội khác
nhau đương thời đã ở những giai đoạn phát triển khác nhau.
Theo ông, những dân tộc sơ khai vào thời điểm đó chưa đạt tới
giải đoạn phát triển cao hơn. Vì vậy, những xã hội cùng thời
nhưng sơ khai hơn được cho là giống với các xã hội cỗ đại. Trái
lại, những xã hội tiến bộ đã minh chứng cho sự phát triển văn
hóa qua tàn dư là những vết tích còn tồn tại trong nền văn hóa
hiện đại.
Theo ông, thì sự phát triển văn hóa cũng là một quá trình
như là sự phát triển của giới động vật, thực vật và động lực phát
triển của xã hội loài người không phải do sân xuất quyết định mà
là sự phát triển tâm lí của con người. Tâm lí con người càng phát
triển hoàn thiện thì văn hóa con người ngày một cao. Đây là
quan điểm duy tâm đã áp dụng một cách máy móc quy luật của
Vận dụng tri thức khoa học tự nhiên vào việc nghiên cứu
văn hóa, ông đã chọn những đơn vị nghiên cứu là những yếu tố
riêng lẻ của văn hóa (công cụ lao động, cung tên, huyền thoại,
nghi lễ, v.v) và coi các hiện tượng văn hóa như là những dạng
thức thực vật, động vật do các nhà tự nhiên học nghiên cứu.
Tylor đã mắc phải những thiếu sót nghiêm trọng khi coi sự
tiến hoá của những hiện tượng hoặc yếu tố văn hóa đã được
nghiên cứu tách rời khỏi sự phụ thuộc và mối quan hệ lẫn
nhau giữa chúng.
Mặc dù có những thiếu sót trong thời kì phát triển khoa học
lúc bấy giờ, nhưng Tylor đã có những cống hiến khoa học to lớn
và được xem như là người có công xây dựng ngành nhân học
trong buổi đầu phát triển, có ảnh hưởng trong giới. nghiên cứu
nhân học cuối thế kỉ XIX, nhất là sự ra đời của cuốn sách Ứăn
hoá nguyên thủy đã trở thành một sự kiện quan trọng trong giới
24
Cùng với Tylor, Morgan là nhà tiến hoá luận với tác phẩm
nổi tiếng Xã hội cổ đại được K. Marx và F. Engels đánh giá cao
và chính Engels đã sử dụng một phần tài liệu quan trọng của
Morgan để viết tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư
Khác với các đại biểu khác của trường phái tiến hoá luận,
Morgan là người đầu tiên phân kì xã hội nguyên thủy dựa trên
cơ sở phát triển của sản xuất và văn hóa. Cũng giống như Tylor,
ông chia lịch sử loài người thành ba thời đại: mông muội, dã
man và văn minh. Mỗi thời đại được chia làm ba giai đoạn: thấp,
giữa, cao căn cứ vào sự phát triển của phương tiện sinh sống
biểu hiện bằng những sáng chế, phát minh như lấy cá làm thức
ăn, xuất hiện cung tên, đồ gốm,v.v. Ông cũng chỉ ra đặc tính lịch.
biến trong-xã hội nguyên thủy. Đây là đơn vị xã hội phát triển từ
hình thức tạp hôn trước đó. Ông cũng quan tâm đặc biệt về quá
trình tiến hoá của hôn nhân và gia đình, hệ thống thân tộc. Các
công trình của ông về người Anh điêng Bắc Mỹ được biết đến
Đồng thời, Morgan cũng như các đại biểu của trường phái
tiến hoá khác đã có những hạn chế nhất định. Những thành tựu
nghiên cứu hiện nay về phân kì xã hội nguyên thủy cũng như
lịch sử hôn nhân và gia đình đã chỉ ra những sai lầm và thiếu sót
của ông như: đã sử dụng tài liệu không chính xác khi áp dụng
phương pháp tàn dư để dựng lại lịch sử phát triển của xã hội
nguyên thủy, cũng như luận điểm về sự tồn tại của gia đình
điển xem xét sự tiến hoá văn hóa theo xu hướng đơn tuyến khi
chia sự tiến hoá văn hóa của các dân tộc trên thế giới là đi từ
25
Như vậy, cùng với sự phát triển của khoa học, trường phái
pháp luận. Cuối thế ki XIX và đầu thế ki XX, các nhà khoa
học đã tiến hành phê phán nó. Trước hết, lí thuyết tiến hoá
luận không giải thích thỏa đáng những biến đổi văn hóa và tại
sao lại có sự biến đổi như vậy. Chẳng hạn, ở một vài xã hội
hiện nay đang ở giai đoạn cao hơn của thời đại mông muội và
tâm lí của nhân loại đã giải thích cho sự tương đồng về mặt
văn hóa nhưng không thể giải thích được những dị biệt văn
hóa ở những cư dân thuộc các giai đoạn phát triển khác nhau.
minh” nhưng có một vài xã hội trong số đó không trải qua các
giai đoạn phát triển. Vì vậy, lí thuyết tiến hoá không thể giải
thích một cách chỉ tiết về những biến đổi và tiến hoá văn hóa
Trong quá trình phê phán thuyết tiến hoá đã xuất hiện các
trường phái khoa học mới để khắc phục những thiếu sót trên.
Để khắc phục những hạn chế của thuyết tiến hoá cổ điển
cuối thế kỉ XIX trong nhân học Mỹ cuối thế ki XIX đầu thế kỉ
XX đã xuất hiện một khuynh hướng nghiên cứu nhân học mới là
“Tương đối luận văn hoá” mà hai người tiên phong là Franz
trò của các ông. Boas tô thái độ bất đồng với những người theo
thuyết tiến hoá về giả thiết cho rằng quy luật của vũ trụ thống trị
văn hóa nhân loại. Ông cho rằng các học giả của thế kỉ 19 đã
không có đủ dữ liệu để diễn đạt một cách khái quát và đúng đắn.
Boas đã nhấn mạnh tính phức tạp bề ngoài của sự biến đổi
văn hóa và nhận thấy rằng những nét văn hóa riêng lẻ phải được
26
phản đối phương pháp nghiên cứu của những nhà tiễn hoá luận,
ông đã có bài báo Sự hợn chế của phương pháp so sảnh trong
nhân học. Trong đó ông nhân mạnh là các nhà nhân học nên
giành ít thời gian hơn trong việc xây dựng các lí thuyết khi đựa
trên những đữ liệu chưa đầy đủ. Tốt hơn cả là họ nên bỏ nhiều
công sức để thu thập càng nhiều tr liệu càng tốt, càng nhanh
càng tốt trước khi nền văn hóa đó chưa kịp thời biến mất. Ông
khẳng định, chỉ có đữ liệu được thu thập đầy đủ, có thể đưa ra
những lời giải thích cho các vấn đề thì lúc đó mới xây dựng
được các lí thuyết. Boas cho rằng, nếu chúng ta thu thập được
một khối lượng tư liệu lớn thì lúc đó qui luật về sự biến đổi văn
Ông cũng cho rằng, mỗi nền văn hóa là đơn nhất mà nó chỉ
được nghiên cứu trong những giới hạn nhất định. Mỗi nền văn
hóa có con đường riêng của nó. Có thê không có quy luật về tổ
chức xã hội và sự thay đổi nó cũng không có khả năng theo một
khuôn mẫu lí thuyết chưng về xã hội hoặc sự phát triển lịch sử.
Các nền văn hóa đã hòa trộn và vay mượn nhiều từ các nền văn
hóa khác. Boas và những người ủng hộ ông đặc biệt phê phân H
sánh của tiến hóa luận bằng phương pháp lịch sử của nhân học
lịch sử. Ông nhẫn mạnh việc nghiên cứu thực chứng để chống
lại việc xây dựng lí luận đựa trên sự đuy lí vốn là đặc trưng của
Boas là người nhấn mạnh tầm quan trọng của thuyết Tương
đối văn hóa với ý tưởng chủ yếu là thừa nhận sự bình đẳng của
các giá trị văn hóa do các cư dân khác nhau sáng tạo ra. Ông cho
rằng, không có một nền văn hoá nào cao hơn một nền văn hoá
khác, không có sự hơn kém, tốt xấu giữa các nền văn hoá. Đó
cũng là việc thừa nhận tính độc lập và giá trị tự thân của mỗi nền
văn hóa, là sự phủ nhận giá trị tuyệt đôi của hệ thông chuân mực
27,
phương Tây, khước từ những nguyên tắc tộc người trung tâm:
(enthnocentrism)” khi so sánh các nền văn hóa của các cư đân
khác nhau. Thuyết tương đối văn hóa có tiền đề ở tính đa dạng
của văn hóa con người, tức dung nhận sự tồn tại của người khác
có văn hóa khác “ta” (người nghiên cứu). Tư tưởng này vẫn còn
là quan điểm nền tảng cho nhân học cho tới hiện nay.
Thuyết tiến hoá luận cổ điển vào cuối thế ki XIX đầu thế kỉ
XX bị phê phán bởi các đại biểu của các trường phái tương đối
Ở Mỹ, vào thập niên 30-50 của thế ki XX xuất hiện một
khuynh hướng gọi là Tân tiến hoá luận. Đây là một hiện tượng
khá rõ ràng trong lĩnh vực lí thuyết nhân học Mỹ, những người
ủng hộ nó còn có cá ở Cộng hoà liên bang Đức. Đại biểu cho
Ehần đông những người theo thuyết Tân tiền hoá bấy giờ tán
- đồng quan niệm về quá trình phát triển xã hội mang tính qui luật.
Ngoại lệ có một vài đại biểu như White và Harris, họ không thừa
* Quan điểm của Leslie White: Đặc điểm nỗi bật trong
quan niệm của White là khẳng định nguyên tắc tiến hoá luận
trong các khoa học về văn hóa. Ông đã tắn công vào các quan
điểm của Boas về tương đối luận văn hóa - và thừa nhận
những công lao của các nhà tiến hoá luận tiền bối Gylor,
hoá luận mà vẫn trung thành với điều đã bị lãng quên trong
3. Đây là học thuyết đề cao văn hoá của tộc người mình
28
White cho rằng, mọi chế độ xã hội và văn hóa đều có cơ sở
vật chất và kĩ thuật; đó là chìa khóa nắm giữ sự tiến hóa của tổ
chức xã hội ấy. Theo ông, văn hóa là “hệ thống thống nhất có tổ
kỹ thuật có liên quan đến sự sinh tồn của con người như lương
thực, nhà ở và nguồn tài nguyên quan trọng nhất cho sự sinh tồn
là năng lượng. Ông coi năng lượng và mức sử dụng năng lượng
của một người trong một năm của một xã hội là tiêu chí để đo
__ Nói một cách khác, sự phát triển công nghệ đã tạo điều kiện
cho con người kiểm soát được nhiều nguồn năng lượng hơn
(năng lượng con người, động vật, mặt trời,...) và kết quả là văn
Học thuyết của White gần gũi với quan điểm của chủ nghĩa
Mác nhẫn mạnh đến kĩ thuật (kinh tế) như là cơ sở của văn hóa,
'hội. Ông cũng nhắn mạnh nguyên lí chung của thuyết tiễn hóa
có thể áp dụng phổ biến đối với mỗi nền văn hóa, chính vì thế,
` người ta gọi học thuyết của :ông là thuyết tiến hóa phổ quát
trong sự phát triển văn hóa nhân loại, ông cho rằng các điều kiện
bên trong của một nền văn hóa sẽ quyết định sự phát triển của
hưởng của môi trường, lịch sử hoặc tâm lí đối với sự phát triển
văn hóa. Như vậy, làm thế nào để giải thích, một số nền văn hóa
thì phát triển, nhưng một số khác lại biến mất? Có thể cho rằng, -
lí thuyết của White đã né tránh câu hỏi tại sao chỉ có một số nền
29
* Quan điễm của Julian Steward: Một người theo thuyết
Tân tiến hoá khác là Steward, ông đã chia tư tưởng tiến hoá
Morgan là tắm gương điển hình của trường phái đơn tuyến để
giải thích sự phát triển văn hóa theo cấp bậc và trình tự của
tiến hoá. Ngược lại, những người theo thuyết tiến hoá phổ
quát như White lại quan tầm đến sự phát triển văn hóa của
loài người như là sự thích ứng với môi trường thông qua việc
mở rộng năng lượng tiêu thụ. Trên quan điểm sinh ¿hải học
văn hóa, Steward nhẫn mạnh tầm quan trọng của môi trường
trong sự biến đổi mang tính tiến hóa của văn hóa, giải thích
'mối quan hệ giữa văn hóa và môi trường từ quan điểm coi con
người là một thực thể tồn tại thích ứng với môi trường thông
qua văn hóa, còn văn hóa thì chịu ảnh hưởng lớn của các loại
rằng, trong mọi nền văn hóa ở mọi nơi trên thế giới đều có
những cách tiến hóa khác nhau và có những nét riêng ít nhiều
do điều kiện đặc thù của môi trường tự nhiên và lịch sử nơi
ấy. Ông cũng giải thích sự phát triển của cái nền văn hóa cụ
thể và chứng mỉnh sự tương đồng văn hóa ở các vùng khác
.nhau. Theo ông, những loại hình cơ bản của văn hóa có thể
phát triển bằng những cách giống : nhan trong những điều kiện
như nhau, mặc dù ở cách xa nhau về mặt địa lí. Ông nhân mạnh,
trong những khu vực khác nhau nhưng có môi trường giống
nhau và phương pháp khai thác môi trường giống nhau có khả
năng có những nền văn hóa giống nhau phát triển song hành.
Chính vì thế, ông phát triển học thuyết sinh thái văn hóa.
Quan niệm của ông là nghiên cứu sinh thái văn hóa, có nghĩa là
phân tích mối quan hệ giữa một nền văn hóa và môi trường của
nó. Mục đích của ông là tìm hiểu những biến đổi xã hội bên
trong mang tính chất tiến hoá phải bắt đầu từ sự thích nghỉ với
30
môi trường để biến thành một nền văn hóa tĩnh. Khái niệm “loại
hình văn hóa” đóng vai trò quan trọng trong lí luận của Steward,
nó được định nghĩa như là một tập hợp những nét tạo nên hạt
nhân của nền văn hóa. Những nét này nảy sinh như hậu quả
thích nghỉ của nền văn hóa đối với môi trường và xác định trình
độ hòa nhập giống nhau của chúng. Hạt nhân văn hóa là tập hợp
những đặc điểm gắn liền một cách trực tiếp nhất với những hoạt
động sản xuất ra những phương tiện tồn tại và với thiết chế kinh
tế của xã hội, chính trị, tôn giáo tương tác mật thiết với việc sản
xuất ra những phương tiện tỒn tại. Những ý tưởng của Steward
. còn được phát triển trong những tác phẩm của những đại điện
Rappaport. Đối tượng nghiên cứu của họ là các quần thể người.
Những người này mong muốn đưa những qui tắc của sinh thái
sinh vật học vào nghiên cứu sinh thái văn hóa để tạo ra một khoa
học riêng về sinh thái học. Theo quan điểm của họ, các đặc điểm
văn hóa giống như các đặc điểm sinh học, có thể được xem là có
hay không có khả năng thích nghi. Họ giả định rằng, sự thích
_ nghỉ văn hóa bao gồm thuyết cơ giới của sự chọn lọc tự nhiên,
Môi trường bao gồm môi trường tự nhiên (vật chất) và môi
trường xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển các đặc điểm văn hóa;
những mức độ thành công khác nhau trong việc sinh tồn và tái
sản xuất và kết quả là tạo ra sự biến đổi các cư xử của họ từ thế
dân tộc học Xô Viết về lí thuyết loại hình kinh tế- văn hóa do
nữa, sinh thái học tộc người là môn khoa học để nghiên cứu các
đặc điểm của các hệ thống cỗ truyền, đảm bảo sự sống cho cộng
31
đồng văn hóa - tộc người, ảnh hưởng của những liên hệ sinh thái
đến sức khỏe con người, tác động của nền văn hóa đến cân bằng
sinh thái trong tự nhiên. Trong việc nghiên cứu những đặc
điểm bảo đâm sự sống, người ta chia sự đảm bảo ấy thành hai
mặt vật chất và tinh thần. Thuộc về mặt thứ nhất là sự thích
nghỉ về thể chất của con người với môi trường tự nhiên và sự
thích nghỉ xã hội - văn hóa thế hiện qua những yếu tố như ăn,
ở, mặc.. v.v... Mặt thứ hai biểu hiện ở sự thích nghỉ về tâm lí
của con người với môi trường tự nhiên xung quanh bằng cách
áp dụng những phương pháp do văn hóa quy định để cân bằng
điểm của cả hai ông đưa ra hai loại tiễn hoá đặc thù (specifc) và
Tiến hoá đặc thù đề cập đến tính liên tục, cụ thể của những
biến đổi và thích nghỉ của một xã hội cụ thể trong một số trường
hợp cụ thể. Tiến hóa đặc thù là sự biến đạng thích nghỉ của
những văn hóa riêng lẻ, là sự chuyển tiếp của văn hóa có nhiều
nhánh theo lịch sử, theo nhiều con đường.Tiến hoá tổng quát đề
cập đến quá trình phát triển chung của xã hội loài người, trong
đó những xã hội phát triển cao hơn (có phương pháp lưu giữ
năng lượng tốt hơn) phát triển vượt trội hơn xã hội kém phát
triển. Hay nói cách khác, tiến hoá tổng quát là sự chuyến tiếp
của sự biến đổi năng lượng từ ít đến nhiều, từ mức độ liên kết
thấp đến mức độ liên kết cao hơn, từ sự thích ứng ít đến sự thích
ứng nói chung lớn hơn.
Như vậy, tiến hoá đặc thù tương tự như tiễn hoá đa tuyến
của Julian Steward và tiến hoá tổng quát lại giống như tiễn hoá
32
Mặc đù có sự kết hợp cả hai quan điểm nhưng nó vẫn không
giải thích được tại sao quá trình tổng quát hóa đã xảy ra như thế
nào. Tuy nhiên, không giống như những người theo thuyết tiến
hoá luận cỗ điển, những người theo thuyết Tân tiến hoá đã đề
nghị giải thích cho sự tiến hoá của một số nền văn hóa đặc thù là
Trường phái chức năng xuất hiện như là một phương thức
nghiên cứu gắn liền với tên tuổi của Bronislaw Malinowski
.của quan điểm Spencer, khái niệm văn hóa của Malinowski
được coi như một phương tiện chức năng xây đựng trên nguyên
tắc sinh học có quan hệ chặt chẽ với việc nghiên cứu các phương
thức nhằm thỏa mãn những nhu cầu cuộc sống của con người
trong ăn ở, sinh hoạt, Lí thuyết nhu cầu là nền tảng trong khái
niệm văn hóa của ông. Ông đã chia các nhu cầu cơ bản của con
người và nhu cầu sản xuất sinh ra trong môi trường văn hóa.
Theo ông, văn hóa là cái nhằm thoả mãn nhu cầu sinh học và
tâm lí của con người, hơn nữa nó cải tạo môi trường xung quanh
và tạo ra môi trường sản xuất. Văn hoá là tổng thể những đáp
ứng đối với những nhu cầu cơ bản và nhu cầu sản xuất.
Durkheim, khi cho rằng xã hội là một thực thể đặc biệt không
đồng nhất với cá thể. Bất kỳ một hệ thống nào cũng được xác
định: bằng các đơn vị (yếu tố) cấu thành nó và các ° quan hệ
giữa chúng. ˆ
33
Theo R-Brown, cần nhìn nhận xã hội như một thực thể sinh
vật, mặc dù ông công nhận hai khác biệt giữa xã hội và sinh vật.
Trong đó, hình thái sinh vật có thể được mô tả riêng và so với
chức năng của các bộ phận, nhưng hình thái xã hội chỉ có thể
quan sát được qua sự hoạt động cụ thể; không có thay đổi cơ cầu
của sinh vật trong đời của chúng, nhưng xã hội thì có thể thay
đổi cơ cầu.
Công việc của nhà nhân học xã hội là mô tả hình thái cơ cầu
xã hội và chức năng của các hiện tượng xã hội (đạo đức, luật
pháp, tôn giáo, chính quyền, giáo dục) cho việc tồn tại của cơ
cấu xã hội. R-Brown không quan tâm đến cá thể (cấp độ tâm lí.
hay sinh học) mà quan tâm đến quy luật xã hội trong việc vận
hành xã hội nói chung (VD: những nguyên tắc trong ứng xử gia
đình, dòng họ,...). Cơ cấu xã hội không thể thấy trực tiếp được,
mà phải suy luận ra từ việc quan sát những điều lặp đi lặp lại
trong các hành động của những người tham dự. Chức năng của
mỗi tập tục là vai trò mà nó nắm giữ trong việc duy trì sự toàn
nhân học xã hội như là một môn học ứng dụng, bảo đám xử lí
những nhiệm vụ thực tiễn cấp bách trước hết là tại các nước
thuộc địa của Anh. Ông cũng chủ trương duy trì sự thống trị các
nền văn hóa truyền thống và quản lí gián tiếp họ dựa vào các .
thiết chế xã hội truyền thống thông qua các tù trưởng địa phương
Khi tìm hiểu các nền văn hóa khác có lối sống xa lạ đối với
người châu Âu, ông đã nghiêm túc nghiên cứu văn hóa của họ từ
bên trong, có ý thức đối với giá trị của các nền văn hóa khác.
Đây cũng là một thành quả quan trọng của sự phát triển lí thuyết
chức năng.
34
5.4. Cầu trúc luận
Trường phái cấu trúc luận xuất hiện vào cuối Chiến tranh
thế giới thứ hai và được phổ biến trong giới khoa học phương
phong trong việc đề xuất một phương pháp phân tích văn hóa
được gọi là Cấu trúc luận. Ngoài Durkheim, ảnh hưởng nhất
định đến Lévi Strauss là ngôn ngữ học cấu trúc mà người tiêu
không có bất kỳ một ý nghĩa nào và chỉ có sự kết hợp của chúng
thống ký hiệu — một cấu trúc và ý nghĩa của từng ký hiệu được
xác lập bởi mỗi mối quan hệ giữa chúng với nhau. Đặc biệt quan
trọng ở đây là quan hệ của những khác biệt, bao gồm các mỗi
quan hệ nhị nguyên đối ngẫu. Luận điểm cơ bản của ông đưa ra
là, nhiệm vụ của khoa học là ở chỗ giải thích cấu trúc được che
phú bởi lớp hiện tượng bên ngoài mà con người không nhận
thức được. Để giải thích về cầu trúc xã hội, ông đưa ra khái niệm
coi là tồn tại nếu một xã hội được chia làm hai nhóm cặp đôi.
Ông nói rằng, hệ thống bán cấu trúc phản ánh khuynh hướng suy
nghĩ và hành động trong cái gọi là những đối lập nhị phân —
những đối lập giữa cải này với cái khác. Lévi Strauss đã phát
triển lí thuyết ‹ cấu trúc trong phân tích cấu trúc hệ thống thân tộc .
* Câu trúc luận ở Anh và Mỹ: Các nhà câu trúc luận người
Anh và Mỹ như Edmund Leach, Mary Douglas, Marshall
Sahlins,... không theo hướng của Lévi Strauss trong việc tìm
kiếm những quy tắc nhị nguyên đối ngẫu, họ tập trung phân tích
cấu trúc đối với các xã hội và thể chế đặc thù. Ví dụ, Mary
Douglas đã đề cập đến một thói quen xảy ra trong gia đình, như
35
việc xem món súp là món ăn thích hợp cho buổi ăn tối. Bà cho
rằng, những bữa ăn trong gia đình có cùng văn hóa sẽ có những
quy tác cầu trúc chắc chắn. Chúng có một số tương phản: nóng
và lạnh, nhạt nhẽo và nhiều gia vị, lỏng và sển sệt và nhiều
- tương phản khác. Những món ăn này phải kết hợp cả ngũ cốc,
rau củ và chất đạm động vật. Douglas kết luận rằng, nếu thực
phẩm không tuân thủ những nguyên tắc này, nó sẽ không thể
xem là một bữa ăn. Hay, Marshall Sahlins khi nghiên cứu về
việc sử dụng thịt của các con vật để làm thức cho con người, ông,
quan tâm đến thịt con vật có ý nghĩa như thế nào đối với đời
sống con người. Ông đưa ra hai yếu tố non-human và human (xa
và gần VỚI Con người). Theo ông, con người chỉ ăn thịt con vật
khi nó mang yếu tố "xa" với con người. Vấn đề này là do văn
hoá qui định. Vì vậy, ông quan tâm đến sức mạnh của văn hóa
và cho rằng văn hóa là sức mạnh duy nhất tác động/thúc đây con
những hành xử đặc biệt. của con người trong những thời khắc
không rõ ràng. Theo ông, trong cuộc sống Của con người, xã hội
loài người luôn tồn tại những vấn đề không rõ ràng nằm giữa
những yêu tố rõ ràng — điều đó là sự đặc biệt khó phân định, nên
con người cũng có những hành xử đặc biệt. Ông đưa ra những
dẫn chứng là các hành vi đặc biệt, cũng như những nghỉ lễ đặc.
biệt mà khi con người thực hiện đều diễn ra trong những thời
- khắc không rõ ràng, như thời khắc đó không thuộc về trước cũng
không thuộc về sau. Đối với những nhà nhân học, họ thường chỉ
trích các nhà cấu trúc luận quá tập trung vào quá trình phân tích
lí thuyết, khó hiểu. Điều này trái với những quan sát và chứng cứ -
Dân tộc học đáng tin cậy. Ví dụ, về cách thức mà Lévi Strauss
giải thích về cầu trúc luận không phải lúc nào cũng rõ ràng và có
thống, trong trường hợp đó, độc giả phải quyết định đâu là lời
36
giải thích hợp lí. Vì vậy, những nghiên cứu của Lévi Strauss đã
được đề cập như là những nghiên cứu mơ hồ, ít có giá trị giải
thích. Hơn nữa, thậm chí nếu một vài mô thức chung tồn tại
dưới những hiện tượng văn hóa thì tính tổng quát và bất biến.
cũng không thể giải thích được những khác biệt văn hóa.
Về mặt triết học, người ta phê phán quan điểm cầu trúc luận
dẫn đến chủ nghĩa chủ quan chống lại quan điểm lịch sử.
luận rằng, các tác phẩm của K. Marx và F. Engels đã đề cập đến
vấn đề cấu trúc luận hoàn toàn khác. Đối với hai ông, vẫn đề là ở
chỗ, trong sự hiện có của những mối quan hệ quy luật mà trong
kiến trúc thượng tầng xã hội. Ngoài ra, ở những người sáng lập
chủ nghĩa duy vật lịch sử, nghiên cứu cầu trúc như là điều kiện
tiên quyết để nghiên cứu lịch sử. Với quan điểm này, các cầu
trúc chỉ có trong bối cảnh thời gian và sự hiện điện của chúng
thường gắn liền với điều kiện phù hợp, cụ thể một cách khách
quan. Với sự thay đổi điều kiện lịch sử này tất yếu cần phải thay
đổi cả cầu trúc xã hội. Vì thế nhiệm vụ trước tiên của chủ nghĩa
duy vật lịch sử là ở chỗ, khi nghiên cứu động thái lịch sử, đồng
thời trong đó nghiên cứu các động lực đang tác động. Quan điểm
này không tìm thấy trong các trường phái của cầu trúc luận.
5.4. Thuyết hành xử, hậu cấu trúc và hậu hiện đại
habiius. Đây là khái niệm nhắn mạnh đến các tâm thế hành vi
hướng tái tạo các tâm thế hành vì ấy bằng cách kích hoạt các
khung hành vi và thích ứng chúng với các điều kiện hay hoàn
37
cảnh mà họ sống trong đó. #/zbis thường là vô thức, và trong
những điều kiện khá tương đồng với môi trường quá khứ, thì
habiius đồng góp vào việc tái tạo (reproduce) những cơ chế văn
hoá xã hội.
của từng tầng lớp xã hội. Sự đặc thù đó được biểu thị qua từng
nhau được biểu thị trong habitus của từng tầng lớp xã hội là vốn
kủnh tẾ, vốn văn hóa, vốn xã hộf, vốn biểu tượng”. Sự tương
tác của các loại vỗn và việc chuyển đổi từ loại vốn này sang loại
giải hành động của con người. Zzb/us chịu tác động của môi
được nhập tâm, nên lại là một yếu tố chủ quan, tác động đến
hành vi của con người. Do đó, Pierre Bourdieu cho rằng tâm thế
hành vi có tính vô thức đóng vai trò rất lớn trong hành động con
người. Điều này trái ngược với quan điểm /a chọn duy IỄ và cả
thuyết Mác-xít (thuyết Hãy: nhân mạnh tằm quan trọng của yếu tố
duy vật;khi nhắn mạnlr đến vai trò của vốn văn hoá và gốc gác
Vến vấh hóa: là kiến thức và trì thức của cá nhân được hấp thụ qua giáo dục
trong hộc đường cũng như trong gia đình và xã hội. Gồm cả giọng nói và âm điệu
cũng như những cách hành sử có uy tínvà những kiến thức chuyên môn,
*® Vổnh | tá: có thể được xem là khả năng về rnặt kinh tế mà cá nhân có được,
Vấn xã hội: là tổng thể những nguồn lực thực tế hay tiềm năng mà người ta có
được từ việc người ta có một mạng lưới lâu bên những quan hệ ít nhiều được thể
chế hoá,,..
Vấn biểu tượng: như là những giá trị về danh dự, uy tín hay sự công nhận của cá -
Điều này trái ngược với quan điểm lựa chọn duy lý — đo quan điểm lựa chọn
duy lý luôn cho rằng, con người luôn có nhận thức (cần chắc kỹ) khi lựa chọn
hành động.
38
gia đình, dù là yếu tố giai cấp hay tầng lớp xã hội rất quan trọng
thuyết nhắn mạnh đến vai trò của diễn ngôn (đánh giá, nhận định
các ngôn từ được sử dụng). Bên cạnh đó còn đề cập đến khái
tổng thể các thể chế, cách thức, phân tích và suy tư, những tính
toán và chiến lược cho phép sử dụng hợp thể quyền lực của nhà
- nước vào đân chúng. Đây là khái niệm xem cách quản l¡ của
nhà nước là tắt cả những thành tố trong guồng máy nhà nước, có
mục đích duy trì một xã hội có quy củ và hạnh phúc. Những
nước đùng để tạo cho xã hội một cảm giác an sinh về kinh tế, xã
Nhà nước đạt được mục đích này qua nền kinh tế, cũng như qua
việc theo đối và kiểm soát như người chủ gia đình làm với gia
__` * Hậu hiện đại: Đây là lí thuyết bất nguồn từ kiến trúc học
và các ngành nhân văn, trong đó nhấn mạnh đến sự đa dạng các
hệ tư tưởng, nhấn mạnh đến vai trò của ngôn từ trong |hệ tư
tưởng và trong văn hóa, vai trò của quyền lực. Nghiên cứu dưới
góc độ hậu hiện đại luận là tập trung vào các loại uy quyền
quyền dựa vào quan sát và kinh nghiệm của nhà nghiên cứu
(experiential authority) như B. Malinowski từ thực hiện; 2) uy
quyền dựa vào diễn giải, được nhấn mạnh trong nghiên cứu
“hội thoại? và tương tác với đối tượng nghiên cứu (đialogic
nhận sự đa dạng của các tiếng nói, trong đó tiếng nói của nhà
39
nghiên cứu chỉ là một tiếng nói và yếu tố chủ quan và quyền lực
rộng, có xu hướng tích hợp các ngành khoa học xã hội và nhân
khoa học khác, nhất là trong những thập niên gần đây, đến độ
phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính của các ngành
khoa học xã hội và nhân văn khác (kinh tế, xã hội học, chính trị,
tâm lí, địa lí và sử học). Đồng thời nhân học cũng có phương
pháp nghiên cứu chuyên biệt riêng của ngành được các nhà nhân
học sử dụng mang tính truyền thống từ trước đến nay. Nhân học
thường sử dụng phương pháp quan sát tham gia sâu tại một hoặc
vài cộng đồng từ một năm trở lên và thông thạo ngôn ngữ địa
phương nơi mình điền dã. Hình thức sống và làm việc ở cộng
đồng như trên gọi là điền đã. Đây là công việc bất buộc và
đã. Theo đó, người nghiên cứu thâm nhập vào nhóm, cộng đồng -
thuộc vào đối tượng nghiên cứu và được tiếp nhận như là một
thành viên của nhóm hay cộng đồng. Khái niệm tham dự ở đây
được hiểu theo nhiều mức độ khác nhau: từ quan sát tham dự
một phần vào các hoạt động đến sự hòa nhập hoàn toàn của
người quan sát vào trong nhóm người được quan sát. Có thể xảy
ra hai trường hợp đối với vai trò của người quan sát: họ là người
quan sát đồng thời cũng là người tham gia vào các hoạt động của
cộng đồng. Quan sát tham dự thường là quan sát nhiều lần đối
40
với nhiều đối tượng khác nhau được lặp đi lặp lại trong quá trình
chung sống với cộng đồng trong một thời gian dài đến hàng
_ tháng hàng năm để chắc chắn rằng những thông tin thu nhận
được là tiêu biểu của các ý tưởng được bày tỏ của cộng đồng
theo điện rộng. Như vậy quan sát tham dự của người nghiên cứu
khác với một người khách du lịch họ đến với cộng đồng như là
người bên ngoài để tìm hiểu nền văn hóa của người khác với sở
thích và nhu cầu của họ. Khách du lịch thường là những người
quan sát không tham gia vì họ không thể trở thành thành viên
người nghiên cứu vào họat động của người được quan sát và
khắc phục được những hạn chế do trình độ tri giác thụ động gây
ra. Sự tham đự cho phép người quan sát đi sâu và cảm nhận
được, hiểu biết toàn bộ tình cảm và những hành động của đối
tượng được quan sát. Từ đó giúp cho việc thâm nhập vào thế
giới nội tâm của người được quan sát, để hiểu sâu hơn, đầy đủ
hơn về những nguyên nhân, động cơ của những hành động được
quan sắt,
những thông tin mà khi sử dụng các phương pháp khác khó có
thể có được. Đó là những thông tin liên quan đến hoạt động của
nhóm. Khi người quan sát trở thành một thành viên của nhóm vì
thế dễ đàng nhận biết những hành vi bình thường phong tục tập
quán theo thói quen của mỗi người trong nhóm cũng như những
quy tắc thông thường của nhóm, nghĩa là thấy được những gì là
thuộc tính vốn có trong bối cảnh văn hóa của mỗi người trong '
nhóm hoặc cộng đồng.
Để tiến hành quan sát tham gia đòi hói người nghiên cứu
phải có thời gian, có kỹ năng quan sát nghề nghiệp tốt, am hiểu
tiếng địa phương và phải có thời gian thích ứng với môi trường
41
mới. Phương pháp nghiên cứu tham gia đòi hỏi tốn nhiều thời
gia. Quá trình nhập thân vào cộng đồng phụ thuộc vào cả tính
cách của người được quan sát, các đặc trưng về giới tính tuổi tác...
Sự thành công của công việc quan sát còn phụ thuộc vào bầu
không khí thân thiện, các khía cạnh tâm lí, đạo đức của nhà
Tuy nhiên, tham gia quá tích cực, quá đài ngày của người
quan sát đối với cộng đồng làm cho họ quen với cộng đồng dẫn
đến ít quan tâm tới sự khác biệt và đa dạng văn hóa của cộng
đồng, trong một số trường hợp người quan sát không giữ được
cái nhìn khách quan trung lập hay làm giảm hiệu quả quan sát.
thường xuyên sử dụng trong điền đã. Qua đó, người được phỏng
vấn sẽ trả lời những câu hỏi mở do người phỏng vấn đặt ra nhằm
mnục đích thu thập thông tin phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ
nghiên cứu, Phỏng vấn trong nghiên cứu của ngành nhân học
thường là cuộc trò chuyện có chủ đích giữa nhà nghiên cứu với
người dân. Vì vậy, nhà nhân học có kiến thức ngôn ngữ địa
phương sẽ thuận lợi hơn khi tiếp xúc với cộng đồng. Hình thức
phỏng vấn trong điền dã dân tộc học là phóng vấn sâu. Với các
câu hỏi mở, nhà nhân học nói chuyện trực tiếp với người cung
cấp thông tin, hỏi và ghi chép câu trả lời. Đôi lúc có những câu.
hỏi bất chợt nảy sinh trong quá trình phỏng vấn.
điện dã
Một vẫn đề đặt ra trong công tác điền đã là, liệu các nhà
nghiên cứu bản địa có khả năng tôt hơn những nhà nghiên cứu
42 Ỷ
bên ngoài hay không khi tìm hiểu văn hoá xã hội của một tộc
người cho rằng, nếu người nghiên cứu là cư dân bản địa, khả
năng tiếp cận vấn đề nghiên cứu sẽ tốt hơn so với người bên
ngoài. Bởi những người bản địa sẽ am hiểu ngôn ngữ của đân
tộc mình và được nuôi dưỡng trong nền văn hoá của dân tộc đó
nên dễ dàng tiếp xúc với cộng đồng hơn. Một số người khác lại
cho rằng, người bên ngoài có thể đạt được thông thạo về ngôn
ngữ và do không được nuôi dưỡng trong nền văn hoá đó sẽ giúp
họ Ít rơi vào tình trạng thừa nhận nhiều sự việc “như là lẽ đương
nhiên”, nên họ đặt nhiều câu hỏi sâu sắc về văn hóa và ít ngại
ngùng khi đặt câu hỏi. Cuộc tranh luận vẫn còn kéo dài. Tuy
nhiên, cần quan niệm rằng, không có giải pháp nào là tuyệt đối.
Tùy theo tình hình cụ thể để thực hiện công tác điền dã, mục
đích cuối cùng của công tác điền đã là đạt được các yêu cầu về
Khác với cảnh huống người nghiên cứu là người ở bên trong
hay bên ngoài, quan điểm chủ thể và khách thể là nói đến quan
điểm của ngường trong cuộc và quan điểm của người ngoài
cuộc. Hai quan điểm này khác nhau, ví có cách nhìn khác nhau.
Quan điểm của người trong cuộc luôn đưa ra những đặc trưng
riêng về thế giới của họ, như vấn đề siêu thực trong thế giới tâm
linh. Quan điểm cúa người ngoài cuộc (người nghiên cứu) là đưa _
ra vẫn đề dưới góc nhìn mang tính khách quan trên quan điểm
khoa học để lí giải các hành vi của người trong cuộc trong bối
dụng kiến thức khoa học để đưa ra quan điểm khách quan của
4
- 6,5, Sốc văn hóa trong điền dã
Điền đã là quá trình thâm nhập vào cộng đồng tộc người của
nhà nghiên cứu. Đây là cuộc hành trình và sự gặp gỡ giữa các
truyền thống văn hóa, văn hóa của người nghiên cứu và văn hóa
của cộng đồng được nghiên cứu. Sự khác biệt về ngôn ngữ và
phong tục tập quán dễ dẫn đến những cú sốc văn hóa mà đôi khi
nhà nhân học chưa thể tiên liệu được. Các nhà nhân học dùng từ
_ sốc văn hóa để chỉ cảm giác bất ngờ, khó chịu thường xảy ra khi.
ta tiếp xúc với những nền văn hóa xa lạ. Nếu vượt qua những trở
ngại này, người nghiên cứu có được những kiến thức về nền văn
Khác với các ngành khoa học khác, đối tượng nghiên cứu
của nhân học là con người, vì vậy đạo đức trong nghiên cứu
nhân học là rất quan trọng. Trước hết những báo cáo khoa học
của chúng †a không thể bị sử dụng để làm phương hại đến cuộc
sống của cộng đồng mà chúng ta đã điều tra, không được làm
xúc phạm và làm tốn hại đến phẩm chất và lòng tự trọng của
những người bản địa được biết đến. Phải giữ bí mật cho những
người cung cấp tin, nhất là những thông tin thuộc về những vấn
đề nhạy cảm trong đời sống sinh hoạt của cộng đồng. Phải đảm
bảo tính trong sáng trong tiến trình nghiên cứu và sự trung thực
đối với các giá trị của đề tài để kết quả của công trình nghiên
cứu là hợp lí nhằm phục vụ lợi ích cho những đối tượng được
đặt ra.
của con người về mặt sinh học và văn hóa. Khác với các ngành
khoa học khác, nhân học nghiên cứu con người trong tính toàn
diện có phạm vi rộng lớn hơn cả về tính địa lí và lịch sử, trong
44
Nhân học hình thể nghiên cứu con người với tư cách là một
thực thể sinh học với ba phân ngành chính: cổ nhân học - nghiên
cứu nguồn gốc và quá trình hình thành con người; linh trưởng
học - nghiên cứu về các loài linh trưởng giúp cho chúng ta hiểu ,
biết đầy đủ hơn về nguồn gốc của loài người và văn hoá của họ
._ trong thời tiền sử và chủng tộc học - nghiên cứu sự đa dạng của
Nhân học văn hóa gồm ba phân ngành: khảo cổ học - nghiên
cứu về văn hóa quá khứ của con người để tái hiện lại cuộc sống
văn hóa và lịch sử của con người; nhân học ngôn ngữ - nghiên
cứu lịch sử ngôn ngữ và cấu trúc của ngôn ngữ các dân tộc cũng
như những hình thức trao đổi thông tin trong bối cảnh các nền
văn hóa và nhân học văn hóa - xã hội - nghiên cứu tính đa dạng
__ của các nền văn hóa cũng như các khía cạnh văn hóa của con
. người với các suy nghĩ và hành xử với tư cách là thành viên của
xã hội.
Nhân học ứng dụng sử dụng kiến thức các chuyên ngành
nhân học để đạt mục đích thực tiễn, thường là phục vụ cho các
Nhân học cùng với dân tộc học bình thành vào nửa sau thế
-kỉ thứ 19, Mặc đù có một số khác biệt về đối tượng và phương
pháp nghiên cứu nhưng Nhân học và Dân tộc học có mối quan
hệ gắn bó mật thiết với nhau ngay từ buổi đầu hình thành của nó.
Nhân học, dân tộc học từ đầu vẫn bó hẹp đối tượng nghiên cứu
của mình là các dân tộc ngoài châu Âu - các cư dân ở trạng thái
__ văn minh nông nghiệp. Nhưng kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ
_ hai, Nhân học và dân tộc học mở rộng đối tượng nghiên cứu tới
Trong quá trình hình thành và phát triển, ngành nhân học đã
xuất hiện các trường phái, khuynh hướng Hí thuyết khác nhau,
đối lập hoặc bổ sung cho nhau. Đó là các trường phái và khuynh
_45
hướng: Tiến hoá luận (cổ điển và tân tiến hóa), Đặc thù luận lịch `-
sử, Cầu trúc luận, Chức năng luận, Sinh thái văn hóa, v.v.
Điền đã là phương thức tiếp cận đối tượng nghiên cứu theo
nguyên tắc ba cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm tại cộng đồng
nghiên cứu. Nhà nhân học thường sử dụng phương pháp quan
sát tham gia sâu tại một vài ba cộng đồng trong một thời gian dài
và thông thạo ngôn ngữ địa phương nơi mình điền đã dân tộc
học để thu thập thông tin. Trong nghiên cứu điền đã dân tộc học,
các nhà nhân học tham gia nghiên cứu có cả nhà nhân học trong
cuộc (người bản địa) và những nhà nghiên cứu ngoài cuộc
(ngoại lai), tiếp cận nghiên cứu từ quan điểm chủ thể và khách
46
Chương 2
Đối tượng nghiên cứu của ngành nhân học là con người,
cộng đồng tộc người. Do đó việc trình bày về sự xuất hiện của
con người cũng như các chủng tộc loài người trên thế giới là cần
thiết. Hiện nay, tuy có nhiều quan điểm khác nhau về sự xuất
"hiện của con người trên trái đất cũng như việc phân loại các đại
chúng, tiêu chủng của loài người, và các quan điểm này có thể
bổ sung cho nhau, nhưng đôi khi cũng trái ngược, dẫn đến xung
đột lẫn nhau. Tuy nhiên, quan điểm của chúng tôi là sự xung đột
trong quan điểm là yếu tố quan trọng để khoa học phát triển;
trong đó việc lí giải nguồn gốc của con người và các chủng tộc
loài người trên thế giới sẽ trở nên rõ ràng hơn. Trong chương
này, chúng tôi không đi vào các cuộc tranh luận đó, mà dựa vào
bày về sự xuất hiện của con người và các chủng tộc loài người
như là nguồn tư liệu để tham khảo trong học tập. Quan điểm
được trình bày trong chương này là dựa vào cơ sở lí thuyết tiến
hóa về mặt sinh học để giải thích sự ra đời và tiễn hóa của con
— Từ khi con người nhận thức được về sự tồn tại của mình
trong tự nhiên thì nhu cầu tìm hiểu về nguồn gốc con người, sự
sống và vũ trụ luôn thôi thúc nhân loại. Sự giải thích những điều
bí ẩn này ở mỗi thời đại, mỗi dân tộc cũng khác nhau. Đầu tiên
là sự giải thích của con người bằng các huyền thoại và tôn giáo,
sau là những giả định của các nhà khoa học và cuối cùng là sự
47
1.1. Quan điêm thân thoại và tôn giáo về con người
sét tạo thành con người trên bàn xoay đồ gốm rồi trao cho linh
hồn sống. Người Nhật thì tin rằng tổ tiên của dân tộc mình là
Rồng cháu Tiên”.. vv.. -Thời nguyên thủy, ở nhiều thị tộc-bộ
lạc cổ xưa, con người tin rằng tổ tiên của mình sinh ra từ một
động vật hoang, một cây cỗ thụ hay một vật thể nào đó và tôn
làm vật tổ của mình mà các bộ lạc thổ dân ở châu Mỹ (người
Anhđiêng) gọi là “tô tem” - hình thái tôn giáo cỗ sơ của con
người, Khi Thiên chúa giáo ra đời, Thánh kinh (Bible) trình bày
về nguồn gốc của vũ trụ, muôn loài và con người một cách hệ
thống hơn. Theo đó Chúa trời có trước đời đời và sáng tạo ra tất
cả trong 6 ngày:
và đêm
thời gian. Trong đó có một vì tỉnh tú lớn nhất cai quản vào ban
ngày là Mặt trời và một vì cai quản vào ban đêm là Mặt trăng
- Ngày thứ năm sáng tạo ra các loài muông thú
- Ngày thứ sáu Chúa dùng đất sét sáng tạo ra con người
theo hình mẫu của mình. Người đầu tiên là đàn ông gọi là
Ađam, sau đó Chúa lấy xương sườn của Ađam để tạo ra người
48
Con người là sản phẩm tuyệt hảo nhất của Chúa, được Chúa
yêu thương nhất giao cho cai quản muôn loài, được sống và
hưởng sự sung sướng vĩnh hằng ở vườn địa đàng và được trực
tiếp giao tiếp với Chúa. Từ khi nghe lời con rắn dụ dỗ ăn trái
cấm (trái biết phân biệt), biết tình yêu vợ chồng, Ađam và Eva bị
đuổi khỏi vườn địa đàng để từ đó tạo ra thế giới loài người.
Như vậy tổ tiên của loài người là A đam và Eva, là sản phẩm
sáng tạo đặc biệt của Chúa trời. Quan điểm này đã ngự trị rất lâu
đài tới tận thời cận đại khi những dữ liệu khoa học giải thích
tự nhiên
Cách đây chừng 3,5 tỷ năm, sự sống đã phát triển phong phú
và đa dạng, chiếm lĩnh mọi miền trên trái đất. Để tồn tại trong
các điều kiện khác nhau, sinh giới được tự nhiên ban cho một ân
huệ đặc biệt- khả năng thích nghi. Cùng với thích nghỉ là biến
đổi và tiến hóa. Biến đổi để thích nghỉ. Tiến hoá để thích nghỉ tốt
hơn khi trong môi trường xuất hiện những sự kiện mới.
Đến thế kỉ XVII, tư tưởng về biến đổi của giống loài đã trở
thành trào lưu trong sinh học, triết học. Đồng thời với những dự
đoán táo bạo về nguồn gốc động vật của loài người, các nhà tự
nhiên học đã lập ra các lược đồ phân loại sinh học, trong đó đã
tách ra từ giới động vật một nhóm linh trưởng bao gồm vượn,
trong tác phẩm 7riết bọc động vật, là người đầu tiên giải thích về
sự thích nghỉ của cơ thể với môi trường sống và khả năng đi
49
Như vậy, cho tới Lamarck quan điểm về sự tiễn hóa để hình
thành con người đã trở nên khá phổ biến, nhưng phải đến
Charles Darwin (1809 - 1882), những luận điểm trên mới được
tổng hợp thành học thuyết - Học thuyết tiến hóa về mặt sinh học.
Điều này được biểu hiện trong tác phẩm Nguồn gốc các loài,
Darwin chỉ rõ, sự phát triển của các loài thông qua cơ chế của sự
chọn lọc tự nhiên, trở thành học thuyết tiễn hóa của giới hữu cơ,
đánh dẫu sự chuyển giai đoạn có tính chất cách mạng (rong sinh
học hiện đại. Năm 1871, Darwin xuất bản tiếp cuốn Sự phái sinh
loài người và chọn lọc giới tính, trong đó đề cập và lí giải những
người biểu hiện những đặc điểm cấu tạo và chức năng giống
như động vật từ thấp đến cao, đặc biệt với khi dạng người,
nhưng tổ tiên gân nhất của con người là một loài khi lớn đã
tuyệt diệt, vẫn sống ở cựu lục địa khí hậu nhiệt đới tương tự như
châu Phi, thời bu loài khi lớn này tách ra thành dòng tiễn hóa
tới người có thể ước vào Eoxen (thuộc ki Đệ tam)°'. Giả thiết về
nguồn gốc tổ tiện của loài người từ một loài khi, trải qua con
đường tiến hóa về mặt sinh học của Darwin đã mang lại cách
nhìn mới so với các quan điểm trước đó về vấn đề nguồn gốc
loài người. Theo Darwin, sự tiễn hóa đó là nhờ kết quả hai đặc
tính của sinh vật: đính đi truyền và tính biến dị. Theo ông, sự
chọn lọc tự nhiên là một quá trình vốn gia tăng tần suất của các
đặc điểm thích nghi theo thời gian. Hoạt động của sự chọn lọc tự
£ao. Trong đó: l) các cá thể có sự đa dạng TẤT lớn, một số thích
nghỉ với môi trường tốt hơn so với số khác còn lại. Sự tồn tại của
tính đa dạng khá quan trọng, nếu không thì sự lựa chọn tự nhiên
truyền là nguyên tắc thứ hai của sự chọn lọc tự nhiên. Con cháu
Dẫn lại từ Nguyễn Đình Khoa (2001), Nguân gốc loài người trong tiến hóa,
50
thừa hưởng những đặc điểm từ cha mẹ chúng, ít nhất ở một mức
độ nào đó và theo cách nào đó. 3) Sự thành công trong (đi sản
xuất khác nhau là nguyên tắc thứ ba của sự chọn lọc tự nhiên, vì
các cá thể thích nghỉ tốt hơn thường sản sinh ra nhiều con cháu
hơn qua các thế hệ so với số ít thích nghỉ hơn; đần dần gia tăng
các thế hệ sau. Một loài mới xuất hiện khi các thay đổi về đặc
điểm hay các giới hạn địa lí đẫn đến sự biệt lập tái sản xuất của
quần thể.
nhưng có những vấn để như các biến dị được truyền lại qua đi
này, thuyết Tân Darwin và thuyết Tiến hoá tổng hợp ra đời.
Thuyết Tân Darwin ra đời vào đầu thế kỉ 20, dựa trên những
thành tựu nghiên cứu mới về gen và sự tồn tại của gen. Quan
điểm này được học giả người Đức A. Weismann (1834-1914) đề.
cập đến. Ông gọi đó là những cấn tử quyết định tính di truyền,
con cái (ngày nay được hiểu là gen). Quan điểm của ông thể
- Có sự phân biệt giữa tế bào sinh dục và phần còn lại của cơ
thể; trong đó tế bào sinh dục truyền đạt tính đi truyền; và phần
còn lại của cơ thể là những tế bào đinh đưỡng. Theo ông, “sinh
chất phôi” gồm tế bào sinh dục, noãn và tỉnh trùng đã mang mọi
dấu hiệu của một cơ thể nguyên vẹn. Chúng sinh ra từ những tế
bào sinh dục bố mẹ chứ không phải từ tế bào dinh dưỡng. Khi
trứng thụ tỉnh và phân cách thì một nhóm tế bào (sinh chất phôi)
phân hóa và tách ra khỏi tế bào đinh dưỡng (sinh chất thể).
ảnh hưởng của sinh chất thể cũng như tác động của môi trường
ngoài. Những đấu hiệu tạp nhiễm trong đời sống cá thể không di
truyền cho thế hệ sau. Chỉ những biến đổi trong sinh chất phôi
31
Quan điểm này của Weismann đã làm sáng tỏ một số điểm
cơ bản của học thuyết Darwin về biến dị di truyền và vai trò của
đầu thể kỉ 20 đều xác định, định luật di truyền của Mendel
(rong đó có thuyết đột biến khi nghiên cứu trên đối tượng
ruồi giám) là sự phát hiện các hình thức đột biến của gen. -
Chính sự đột biến này làm xuất hiện hai dạng của cá thể song
đại) và dạng đột biến, . gọi chung là gen-alen. Chính các dạng
đột biết đã tạo ra nhiều ° “mặt hàng” cho chọn lọc tự nhiên
tuyển lựa những dạng thích hợp trong điều kiện sinh thái nhất
Thuyết đột biến góp phần xây đựng cốt lõi cho học thuyết
Tân Darwin. Nhưng quá trình tiến hóa sinh giới không diễn ra
trên đừng cá thể riêng biệt mà trong những nhóm cá thể cùng một
nguồn gốc di truyền gọi là quần thể. Từ đó, hình thành Tiên một
lĩnh vực mới, gọi là đi uyên học quân thể, nghiên cứu cầu trắc.
di truyền của các nhóm dựa trên các tính trạng di truyền và sự
biến đổi của chúng. Mỗi quân thể là kết quả của quá trình chọn
lọc tự nhiên, đặc trưng bởi các hệ gen của thành viên tạo nên vốn
gen. Những gen-alen bảo đảm tính ưu thế cho cá thể mang
chúng có nhiều khả năng phân bố rộng trong quần thể biểu thị -
giá trị chọn lọc của gen. Những thành tựu của toán học đã đưa ra
những phương pháp tính toán lí thuyết cho thấy sự phổ biến của
một alen trong quân thể là do ưu thế ban đầu của nó giành thắng
lợi trong cạnh tranh sinh tổn. Di truyền học, toán học và những
. thành tựu nghiên cứu khác đã khẳng định học thuyết tiến hoá
Darwin và nâng lên mức cao trở thành học Øzyết tiến hóa tổng
hợp. Hiện nay có những kết quả nghiên cứu mới bổ cứu và phát
32
Một trong những vấn để quan trọng của sinh học là nguồn
gốc các loài sinh vật trong đó có loài người. Một trong những ý
kiến gây tranh luận nhiều nhất về học thuyết Darwin là một loài
Loài là một nhóm quần thể tự nhiên giao phối với nhau và
cách biệt sinh sản với các nhóm khác. Loài là một quần thể
lớn. Sự hình thành loài hay sự phát triển của một loài có thể
xuất hiện nếu một nhóm phụ của một loài sống trong môi
trường hoàn toàn khác biệt. Trong quá trình thích nghi với
môi trường riêng biệt của chúng, hai quần thể có thể trải qua
các thay đổi di truyền đủ để ngăn không cho chúng lai giống
với nhau. Vô sô các ý kiến có thể ngăn cản sự trao đổi gen.
Hai loài sống trong cùng một khu vực có thể giao phối ở các
thời điểm khác nhau trong năm, hay hành vi giao phối của
chúng trong : suốt thời gian giao phối có thể rất khác nhau. Sự
khác nhau về cấu trúc cơ thể của các họ hàng gần nhau có thể
tự bản thân chúng cũng ngăn cản sự giao phối. Các ngăn cản
địa lí có thể là rào cản phổ biến cho sự lai giếng. Một khi đã
có sự khác biệt giữa các loài hiện hữu, quá trình tiến hóa
không thể đảo ngược lại được. Loài mới có thể không còn
giao phối với các loài khác có quan hệ với quần thể gốc.
thay đổi hình thái của một quần thể, chẳng hạn màu của con sâu
bướm hay chiều dài cái cổ của con hươu cao cổ. Nhưng chọn lọc
tự nhiên có thể vận hành đối với đặc điểm hành vi của các quần
thể. Cách tiếp cận sửa học xã hội và sinh thải hành ví bên quan
tới việc áp dụng các nguyên tắc tiến hóa trong hành vỉ các động
vật (sinh thái hành vị quan tâm đến việc làm thế nào tất cả các
loại hành vị liên quan đến môi trường; sinh học xã hội đặc biệt
quan tâm đến tổ chức xã hội và hành vi xã hội). Các hành vi đặc
trưng của một loài được cho là có tính thích nghi và tiến hóa đo
sự chọn lọc tự nhiên. Chẳng hạn, tại sao các loài có họ hàng. với
nhau lại có hành vi xã hội khác nhau thậm chí các loài này xuất
phát từ cùng một loài tổ tiên chung? Các thành viên của mèo thì
33
sống riêng lẻ, còn các thành viên của sư tử thì sống thành nhóm
xã hội. Người ta cho rằng, nhóm xã hội của sư tử có thể tiến hoá
chủ yếu do việc săn môi theo nhóm là thành công hơn để bắt các
thú hữu nhũ ở vùng trống và con sư tử con cũng cảm thấy an
toàn hơn khi sông trong nhóm xã hội hơn là chỉ sống với mẹ
chúng trước những con thú ăn thịt khác. Vì thế hành vi xã hội
của các chú sư tử có thể tiến hoá chủ yếu đo nó tạo ra các ưu thế
chọn lọc trong môi trường trống của các con sư tử.
hành vi học hỏi được hay không hay chỉ đối với hành vi 1nang
ban đầu của các nhà sinh học xã hội và sinh thái hành vi đường
như nhấn. mạnh đến yếu tố di truyền của hành vị. Nhưng sau
này, đa số các nhà sinh học hiểu là các đặc điểm thể hiện hiện
nay có thể quan sát được là kết quả đi truyền, môi trường và lịch
SỬ Cuộc sống, tất cả tương tác với nhau. Hành vi là sản phẩm của
ba yếu tố đó.
Các nhà sinh thái văn hóa lại cho là, các phong tục của một
xã hội có thể thích nghỉ nhiều hay ít hơn đo các hành vi văn hóa
cũng có thể tái sân xuất. Vì thế, sự chọn lọc của tự nhiên cũng
vận hành trong sự tiến hoá của văn "hóa hay không? Đa số các
nhà sinh học cho là không. Trong tiến hoá sinh học, sự đa dạng
xuất phát từ việc tái kết gen và đột biến. Trong tiến hoá văn hóa,
nó xuất phát từ việc tái kết các hành vi học được và từ sự phát
minh. Các nền văn hoá không chặt chẽ hay riêng biệt tái sản xuất ˆ
như là các loài. Một loài không thể mượn đặc điểm di truyền của
loài khác, nhưng một nền văn hoá có thể vay mượn các yếu tố
hành vi mới từ các nền văn hóa khác. Thí dụ, việc trồng bắp vốn
xuất hiện từ thế giới mới lan toả đến các vùng khác là một ví đụ
của hiện tượng này. Đối với yêu cầu về tính di truyền, mặc dù
các đặc điểm học hỏi được rõ ràng là không truyền cho thế hệ
sau qua việc di truyền, nhưng thế hệ cha mẹ thể hiện các đặc
điểm hành vi thích nghỉ có khả năng “tái sản xuất? những đặc
điểm này cho thế hệ con, người mà có thể học từ cha mẹ qua sự
54
bắt chước hay qua sự dạy dỗ. Trẻ em và người lớn có thể sao
chép các đặc điểm thích nghi, họ nhìn thấy ở người khác ngoài
gia đình.
Vì thế, tiến hoá sinh học và tiễn hoá văn hóa ở con người
không phải là hai quá trình tách biệt. Như đã biết, một số đặc
điểm sinh học quan trọng của con người -chẳng hạn đi bằng hai
chân và bộ não lớn — có thể đo kết quả của sự chọn lọc tự nhiên
đo tổ tiên chúng ta tạo ra các công cụ (một đặc điểm văn hóa).
Ngược lại, đặc điểm văn hóa của giáo dục chính thức và phi
giai đoạn đài non trẻ (một đặc điểm sinh học).
Khi loài người tiếp tục tồn tại và môi trường tự nhiên và xã
hội tiếp tục thay đổi thì có một lí do để chúng ta nghĩ là sự chọn
lọc tự nhiên của một số đặc điểm sinh học và văn hoá sẽ tiếp tục.
Đây là vẫn đề quan trọng khi chúng ta đề cập tới sự tiễn hoá của
cuối cùng xuất hiện một nhánh duy nhất dẫn đến con người.
Trong khoảng 50 niăm trở lại đây, nhiều cuộc khai quật
được tiên hành, thu được nhiêu tư liệu hóa thạch mới, từ đó cho
phép các nhà nghiên cứu đưa ra sơ đỗ khái quát về quá trình phát
(Australopithecus).
3. Quá trình phát triển của giống Người (Homo) qua các
loại hình;
55-
- Người cổ Xapiên (Homo Sapiens Neandertalensis),
phát hiện làm sáng tỏ thêm giai đoạn lịch sử các homimid trong
nhóm sau:
được tìm thấy vào những năm 1934 — 1937 trên đồi Xivalik Bắc
Ramapitec tồn tại cách nay khoảng 14 triệu năm với hai loài: R-
đứng thắng và đi bằng hai chân - một đặc điểm sinh học cơ bản
của con người hay chưa? Nhiều nhà nghiên cứu căn cứ vào việc
các đi cốt của Ramapitec được phát hiện trong những cảnh quan
cổ xưa quang đãng, không phải là rừng nên cho rằng nhiều khả
răng của Ôreôpitec được phát hiện trong các địa tầng Miocen-
Pliocen ở Toscan (Italia). Đến năm 1958 một bộ xương khá đầy
Nam của TP.Toscan. Hình thái đốt xương chậu, xương đùi,
3
xương gót chân đã tương đối đặc trưng cho sự đi thẳng. Cấu tạo.
hàm răng với cung hàm uốn tròn cạnh, nanh giảm kích thước,
phần mặt bớt đô. Tất cả những đặc trưng đó là bằng chứng để
những năm 1934-1935 phát hiện được một số răng, đến những
năm 1956-1958 mới phát hiện được 3 xương hàm đưới trong
hang đá vôi ở Quảng Tây (Trung Quốc), niên đại sơ hoặc trung
56
kì Pleistocen. Tiếp đó năm 1968 phát hiện thêm một xương hàm
đưới ở đồi Xivalik (Bắc Ấn), niên đại 6-8 triệu năm (Miocen-
hiện năm 1965 ở hang Thâm Khuyên (Lạng Sơn), hang Thẩm
Gigantôpitec (cá thể đực) đều rất lớn, gấp đôi người hiện đại.
như tiền hàm hai mấu, nanh không nhô .cao lắm, không có
tiết khô và lạnh giá làm cho rừng nhiệt đới bị triệt thoái từng nơi,
hình thành những trảng cỏ (savan), trong khi một số khi hình
nhân như Dryopitec vẫn sống trên cây trong rừng thì có những
mặt đất, tập đi bằng hai chân, bộ não và hoạt động thần kinh
phát triển, để từ đó sinh ra dạng khi lớn được coi là tổ tiên trực
loài người
Mazvi kaadi
-wu-Ltriệu Đảm Leưt :
-feg3 triệu PÁm trước 42-84 4 ÀVe km trước .35.003 bản ước
điưn Xeoae
an .na..m.ceenlea trước
? Phạm Thành Hỗ (1995), Nguồn gốc loài người, NXEB Giáo dục, tr. 12
$7
Năm 1924, tiến sĩ Raymond Dart, người dạy giải phẫu học ở
Đại học Witwatersrand - Nam Phi, nhận được mẫu sọ tìm thấy ở
Taung Nam Phi. Đó là sọ không đầy đủ một cá thể 3-5 tuổi, còn
. Tăng sữa, dung tích sọ 390cm” niên đại thuộc Pliocen muộn.
(mẫu tìm thấy năm 1924 ở Taung - miền Đông Nam Phi, từ sọ vẽ ra đầu)”
Onduvai ở Bắc Tanzania (Hẻm vực Onduvai rất đặc biệt ở chỗ
là vách đá dựng đứng cao cả trăm thước gồm các lớp địa chất
xếp chồng lên nhau theo thứ tự thời gian). Họ đặt tên cho mẫu
vật là Zinjanthropus boisei (Zij theo chữ Á Rập là Đồng Phi, còn
boisei bắt nguồn từ tên của người tài trợ cho cuộc khai quật -'
được mẫu gồm 52 xương không trùng lặp nhau của cá thể
58-
Tiếp đó hóa thạch Ôxtralôpitec được phát hiện nhiều nơi ở
Đông và Nam Phị, tới trên 250 cá thể với tuổi địa chất từ bốn
triệu đến một triệu năm cách ngày nay, trong đó Đông Phi được
coi là nơi phát sinh Ôxtralôpitec vì ở đây phát hiện các dạng cỗ
Australopithecus boisei.
° Phạm Thành Hồi (1995), Nguân gắc loài người, sđd, tr.39
59
_ Nghiên cứu sâu có thể nhận thấy một số đặc điểm chung của
mỏng. Hộp sọ loe rộng nhất ở phần đáy.- Ở loại hình vạm vỡ
. - Câu tạo phần sau hộp sọ, xương hông, xương chỉ chứng
hiện thấy nhiều xương và sừng động vật móng guốc lớn. Ông
mới chỉ biết sử dụng công cụ, mầm mống văn hóa của loài
Một số nhà nghiên cứu tương đối thống nhất cho rằng loài
trình phát triển của giống Người (Homo). Quá trình tiến hóa này
theo trình tự: người Khéo léo (Homo Habilis), người Đứng
Sapien Sapien).
60
- Người Kháo léo (Homo Habilis)
nhà nhân học Loui và Mary Leakey đã tìm thấy sọ của một trẻ
triệu năm. Sọ này có dung tích 683 cm3, cấu tạo hàm Tăng và
hình thái các gờ bám của cơ trên sọ rất giếng ở người nên theo
vợ chồng Leakey thì đây đã thực sự là con người đầu tiên và đặt
Leakey) tìm thấy một mẫu vật rất quan trọng có kí hiệu KNM
1470 (số lưu trữ trong sưu tập sọ của bảo tàng Narrobi. — Kenya).
Dung tích sọ KNM 1470 đạt 800 cm3 và nhiều nét giống người,
cũng có niên đại chừng 2 triệu năm. Sau đó nhiều xương cốt của
(Ethiopia), những nghiên cứu sâu về cấu tạo của Homo habilis
Đặc điểm hình thái, sinh lí: Người Khéo léo nhỏ và mảnh
thái giới tính rõ ràng, cá thể đực lớn gấp đôi cá thể cái. Các mẫu
hoá thạch thường ở tuổi 20, những cá thể ở tuổi 30 đã già chứng
Ôxtralôpitec, mặt thu hẹp, vùng trán nhô lên, gờ mắt ít nỗi rõ,
hàm nhỏ và răng nhỏ hơn đó là những đặc điểm gần với người
hiện đại. Nhưng các chi trước còn dài so với chỉ sau, các ngón
tay có khả năng cầm nắm chặt chứng tỏ còn co thể trèo nhảy trên
Cách sống: Homo habilis sống dưới các tán cây, thu lượm
trái, hạt, rễ, củ làm phần thức ăn quan trọng, ngoài ra họ còn sẵn
bắt các loài động vật nhỏ như côn trùng, ốc sên, kỳ nhông,v.v.
Homo habilis sống thành từng bầy khoảng vài chục cá thể,
đ1
Người Khéo léo đã biết làm ra công cụ lao động; đó là
những viên cuội được ghè đếo, tuy sơ sài nhưng chứng tỏ đã có
sự gia công. Với việc chế tạo ra công cụ lao động, nền văn hóa
đầu tiên của loài người đã ra đời. Đó là nền “Văn hóa đá cuội”
chính”. Nhờ quan sát tốt người Khéo léo đã có thể săn bất tốt,
nguồn thức ăn thịt nhiều hơn góp phần đáng kể cho hoạt động
tăng cường trí não. Nhờ vậy họ quan sát và ghi nhận tập tính các
loài, nhận biết các mùa, âm thanh và mùi chính xác, tri thức
được tích lũy dần. Trong cuộc sống dần dần đã xuất hiện sự
phân công lao động sơ khai, cá thể nam đi xa săn bắt, còn cá thể
nữ thu lượm gần nơi cư trú và nuôi con. Việc phân chia thực
phẩm và hợp tác trong săn bắt là cơ sở bạn đầu để dẫn tới đời
sống xã hội
một tổ chức xã hội sơ khai, một tín hiệu ngôn ngữ đơn giản (cử
chỉ, nét mặt) để trao đối. Đó là những mầm mống văn hóa sơ
thủy. Diều này khác hẳn với động vật, khi với chúng để thích
nghỉ phải phát triển theo hướng chuyên hóa những tính năng về
mặt sinh học. Trái lại, xuất hiện văn hóa, đù sơ thủy, thì đã
hướng sự thích nghỉ để phát triển của con người theo một hướng
mới, Đó là thay sự biến đổi về thể chất bằng sự sáng tạo của hoạt
động tỉnh thần. Sự phát triển của con người từ đây đã theo
hướng chú động. đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng theo
Tiếp nỗi người Khéo léo trong họ Người là một loài gọi
(Homo erectus).
Š Nguyễn Đình Khoa (1999), Sinh học và văn hóa, NOXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
tr.82
62
Các mẫu hóa thạch: Mẫu hóa thạch đầu tiên của loại hình
Lan, phát hiện được ở làng Trimi trên hòn đảo nhỏ Salo ở Giava
răng, xương dùi dài 45,5 cm và một vòm sọ có dung tích áng
chừng 850 —- 940 cm3. E.Duyboa đặt tên cho mẫu vật là
nhân đi thẳng (Thuật ngữ Pithecanthropus tác giả mượn của nhà
rằng con người chỉ sinh ra từ loại hình chuyển tiếp khi-người).
Sau đó, cho đến năm 1963, nhiều loại hình Piêcamrôp II, HH,
1V, V còn được phát hiện thêm ở Giava, niên đại ngày nay xác
Trong những năm 1927 - 1929, một bác sĩ trẻ người Canada
là D. Black và một nhà địa chất học Thụy Điển đã tìm thấy
người Đứng thắng ở đồi Chu Khẩu Điểm, cách Bắc Kinh 40km
Thiểm Tây (1963), cổ hơn người vượn Bắc Kinh, loại hình
triệu năm.
Đặc biệt ở châu Phi phát hiện nhiều loại hình phong phú về
Hình thái - sinh lí: Homo erectus cao khoảng 1,4m - 1,8m,
nhưng nhỏ hơn người hiện đại. Dáng sọ thấp, dung tích hộp sọ
63
Mu thành XƯơng SỌ dày gờ cung mày nổi rõ, phần mặt dô
nhiều, cằm lẹm, v.v. Lỗ châm và cột sống cho thấy đã có dáng đi
thắng, tuy còn hơi khom (xương ổủi cong về trước). Đặc biệt
thanh quản ở vị trí thấp chứng tỏ chưa có khả năng phát ra tiếng
nói có âm tiết.
Cách sống: Đời sống xã hội của H.erectus đã phát triển một
bước so với H.habili, điều này liên quan trực tiếp đến hai ưu thế
sinh học của H.erectus là đi thắng và sự tăng nhanh thể tích hộp
sọ. Nhờ vậy, có thể thấy kĩ thuật chế tác công cụ của H.erecfus
từng bước tiến bộ. Nếu công cụ của H.habilis còn thô kệch và
chủ yếu dựa vào hình khối của chất liệu tự nhiên nên chưa có
chuẩn mực thì đến công cụ của H.erecfus đã có hình dáng nhất
định thích dụng với từng loại công việc. Ví như loại ghè đếo một
mnặt là những trôpo (choppes), ghè đếo công phu hai mặt là công
loại dùng làm mũi nhọn (burims), loại làm búa (hammers), làm
(Ấn Độ). Theo phân kỳ của khảo cỗ học các loại hình công cụ
người để thu lượm (là chủ yếu) các thức ăn thực vật từ củ, hạt,
hoa, quả và săn bắt các loài động vật từ nhỏ như ốc, hến, cá,
rùa, chim chóc,... đến các thú lớn như hươu, nai. Ở một số
nơi có dấu tích của lều lân và bếp lửa. Họ chưa biết cách làm
ra lửa nhưng sử dụng lửa thì chắc chắn có dùng. Lửa giúp
người Đứng thẳng có thêm sức mạnh để chống thú dữ, sưởi
thể để nướng chín thức ăn. Tuy vậy, người Dứng thẳng vẫn trần
trụi chưa biết dùng các vật liệu che thân và quan hệ tính giao
64
- Người cỗ Xapiên (Homo Sapien Neandertalensis)
Hiện nay khó xác định được thời điểm xuất hiện cụ thể của loại
hình người cỗ này, các nhà nhân học ước chừng trong vòng 20 — `
40 vạn năm trước (trung kỳ Cánh tân) đến 3,4 — 4 vạn năm cách
ngày nay (hậu kỳ Cánh tân) tương ứng với các giai đoạn tiễn
thoái của băng hà đến khi băng hà triệt thoái hoàn toàn.
Dusseldorf ở Đức là dựa trên việc phát hiện một chỏm sọ, một
mẫu xương vai và một số đi cốt các xương chỉ của người hóa
thạch. Những mẫu xương này được đặt tên là người Nêandectan
và được coi là đại điện đầu tiên được tìm thấy của Homo
Ở châu Phi, năm 1921 mẫu người cổ Sapien được phát hiện
là sọ Rôdêdi trên ngọn đổi phía bắc sông Zambeze (nay thuộc
Zambia). Sau đó còn phát hiện thêm ở nhiều nơi khác như sọ
(1958) niên đại 7,5 — 13 vạn năm. Riêng ở Việt Nam chưa phát
vào các năm 1932 — 1933 phát hiện một khu mộ táng trong
tuổi, trong đó có 6 bộ xương gần như đầy đủ. Niên đại theo
Nêandectan (vòm mày nổi, cung răng giãn rộng,...) nhưng kết
6Š
hợp với nhiều đặc điểm hiện đại (trần thẳng, vòm sọ cao, hốc
mắt thấp). Năm 1934 — 1935 lại phát hiện thêm xương cốt của 5
cá thể tại hang động ở Djebel Kafzeh, gần thành phố Nazareth,
tương tự. Các nhà nhân học coi đây là loại hình người cổ đang
Hình thái - sinh lí: Nói chung người cỗ Sapien rất đa dạng vì
(trừ châu Mĩ và châu Úc). Những đặc điểm chung nhất là chiều
tự người hiện đại), gờ mày đô thành mái liên tục từ trái sang
phải, bề rộng lớn nhất của sợ địch xuống thấp, thành xương sọ
tương đối dày; phần mặt đô ra trước, cằm vất nhẹ ra sau; cung
răng rộng và doãng, răng to; xương chỉ to, khỏe, tương đối ngắn;
diện bám các cơ (nhám hoặc mấu lồi) phát triển rộng và chắc.
Những đặc điểm trên thể hiện mức tiến hóa cao của người cỗ
Hình 6. So sánh vòm sọ Pitêcantrôp (1), Nêandectan (2) và người hiện đại @}Ý
” . Nguyễn Đình Khoa (1999), Sinh học và văn hóa, sđỏ, tr.91.
66 l
Đời sống người cổ Xapiên: Giai đoạn lịch sử của người cổ
Xapiên ứng với trung kì thời đại đồ đá cũ. So sánh với sơ thời kỳ
chừng 20 vạn năm trước) thì tương đối ngắn (20 - 40 vạn năm
Nam nước Pháp (1909). 5o với công cụ của người Êrectut (kích -
thước lớn, thô nặng và không định hình rõ rệt) công cụ người
Xapiên cỗ được ghè đếo cần thận, cân xứng và giâm kích thước,
định hình theo chức năng mà tiêu biểu là mũi nhọn (points) và
cái nạo (scrapers). Xương sừng động vật được sử dụng phổ biến.
Hái lượm, săn bắt vẫn là hoạt động kiếm ăn hàng ngày,
nhưng đã có phân công lao động: phụ nữ, trẻ em thì hái lượm,
tìm kiếm những động vật nhỏ; săn bắt thú lớn (mammot, bò
rừng, gấu ở hang) và những động vật chạy nhanh (ngựa hoang,
linh dương) là công việc của nam giới. Họ tập trung thành các
đoàn để vây, đuổi, lùa các con thú xuống hỗ sâu,...có những đi
chỉ lớn ở châu Âu chứa hàng nghìn xương cốt bò rừng, hàng
trăm mammot và tê giác cổ,... chứng tỏ việc săn bắt có hiệu quả.
Nguồn thức ăn được đảm bảo, cuộc sống con người no đủ hơn ˆ
riên tuổi thọ loại hình Nêandectan đã được nâng cao, trung bình
gần 30 tôi.
khai thác tự nhiên của con người. Nhưng việc làm ra lửa có ý
nghĩa đặc biệt, vì là lần đầu tiên con người sáng tạo một năng
người Nêandectan đã tiễn lên một bước so với sáng tạo công cụ
67
~
thân, thường cư trú ở cửa hang, dưới mái đá hoặc làm lều
bằng xương và da thú lớn ngoài trời. Được bảo vệ bằng lửa và
hưởng sự yên tĩnh và thư thái về tỉnh thần, điều đó liên quan
nghiên cứu của trường phái Gaxtô đã chứng minh người là loài
Trong từng cộng đồng bắt đầu có sự phân biệt thành các thế hệ
người già, trung niên, trẻ em. Hôn phối giữa nam và nữ cùng thế
chết với những nghỉ thức nhất định như trải hoa trong huyệt mộ
(qua phân tích bào tử phần hoa), chôn theo đỗ tùy táng (công cụ,
xác súc vật,...), chứng tỏ họ không chỉ phát triển ý thức về tình
khác” sau khi chết. Ở một số di chỉ miền Trung Âu còn phát
hiện dấu hiệu việc tôn thờ vật tổ (gấu ở hang), việc bôi thổ
hoàng trên xương thú. Những dấu tích đó chứng minh về sự xuất
hiện mầm mống tôn giáo và nghệ thuật nguyên thủy trong đời
tập thể, cùng nhau chế tạo công cụ chắc hẳn họ đã phải có sự
giao tiếp bằng một thứ ngôn ngữ đơn giản (chủ yếu là cử chỉ và
Người Xapiên hiện đại xuất hiện khoảng 40.000 năm trước,
ứng với khí hậu thời đại Đồ đá cũ thuộc hậu kỳ Cánh tân. Mẫu
Xapiên hiện đại đầu tiên là người Cro-Magnon, lẫy tên một di
chỉ ở Tây Nam nước Pháp, phát hiện năm 1868 với bộ xương
Š Nguyễn Đình Khoa (1999), Sinh học và văn hóa, sảủ, trÐ1.
68
lẫn công cụ đá đếo. Châu Âu vốn là nơi cư trú của người
Nêandectan điển hình thì khoảng bến vạn năm về trước họ bỗng
biến mất không còn để lại đấu vết. Từ đó chỉ tìm thấy dấu tích
của người Xapiên hiện đại với hình thái bộ xương khác hẳn
người Nêandectan và cao lớn như người hiện nay ở châu Âu.
Sau đó di cốt người Xapiên hiện đại tiếp tục tìm thấy ở châu Âu
cũng như các khu vực khác của Cựu lục địa với dáng vẻ khác
nhau theo từng nơi, vì vậy các nhà nhân học xem đó là những
loại hình chủng tộc của con người thời tiền sử,
Sau khi xuất hiện, người Xapiên hiện đại đã phân bố rộng
trên hành tinh, tới châu Úc, châu Mỹ và những miền cực đới giá
lạnh. Ở châu Ức, đi chỉ sớm nhất được phát hiện là một mộ táng
mà xác người hóa táng chỉ còn sót lại một số mảnh xương ở phía
đông hồ Mungo, niên đại 25.500 năm trước”. Ngoài ra còn tìm
được một số sọ như Câylo, Côhun, Talgai niên đại muộn hơn.
Các nhà nghiên cứu đều có chung nhận xét cho rằng con người
Ở châu Mỹ, di cốt người Xapiên hiện đại sớm nhất tìm thấy
là “người cổ Los Angeles”, phát hiện năm 1936, niên đại xác
Trên những đặc điểm chủ yếu thì người Xapiên hiện đại
ra vấn đề cội nguồn người Xapiên hiện đại là từ đâu? Câu trả lời
(1949). Dựa vào các cứ liệu là những xương cốt phát hiện ở dãy
người hiện đại, chứng tỏ một quá trình chuyển biến loại hình.
Theo tác giả, cái nôi đầu tiên sinh ra người Xapiên hiện đại là
? Nguyễn Đình Khoa (1999), Sinh học và văn hóa, sđd, tr.100.
69
một khu vực trải dài từ Đông Nam Âu, Đông Phi, Tiền Á và có
thể cả miền Nam Á, rồi từ đó phân bố rộng ra khắp các châu lục.
trung: tâm” (Polycentrism) phát sinh người hiện đại. Thuyết này
phải được diễn ra ở các khu vực khác. Theo thuyết này có bốn
trung tâm hình thành người hiện đại từ những đòng người cổ
Ackêantrôp và Palêantrôp:
Ơrôpoit.
da đen.
tác ở Đại học Tổng hợp Oxford, Berkeley - California ứng dụng
bằng cách chiết rút AND ở nhân tế bào đối với gen huyết sắc tố -
(hemoglobine) và AND của tỉ thể làm đối tượng nghiên cứu
=_ Cái nôi duy nhất phát sinh người hiện đại là miền Nam
mới phần bố dần ra khắp Cựu lục địa và thay thế hoàn
70
Như vậy, những kết quả nghiên cứu mới của Di truyền
học phân tử đã đối lập với giả thuyết nhiều trung tâm phát
sinh người hiện đại của Uâyđonrêc. Các kết quả trên được
. TAUNG - : -
'
NGƯỜI Cổ
XAPIEN
tụ
>
Ytụ
+
402.000
NGưỡi
„ ÊRÊ£TUT
Hình 7. Giả thuyết về cội nguồn người Hiện đại (Homo Sapiens sapiens)'°
Một vấn đề cũng được bàn luận bấy lâu là sự xuất hiện
người Xapiên hiện đại ở châu Âu, thay thế hoàn toàn người
-Nêanđectan tại châu lục này. Vậy người Nêandectan biến mắt đi
đâu, nguyên nhân nào làm cho người Nêandectan tuyệt diệt
thắng (H.ErectuÐ thành Xapiên hiện đại qua giai đoạn trung gian
Nêandectan. Các tác giả của quan điểm này, như I.Raghinski,
!9. Nguyễn Đình Khoa (1999), Sinh học và văn hóa, sảd, tr.107
71
Xapiên-xapiên nhưng còn lưu lại một số đặc điểm Nềandectan
hiện đại.
- Giả thuyết 2: Dựa vào sự khác biệt rất lớn giữa người
Nêandectan và người hiện đại, một số tác giả cho rằng không có
người Xapiên hiện đại từ một địa bàn nào đó, ngoài châu Âu (có
- Giả thuyết 3: Sau này với những sọ phát hiện ở Đông Phi
xét rằng tại các sọ này chỉ thấy biểu hiện sự kết hợp những đặc
điểm của Erectut với XXapiên hiện đại mà không Bặp những nét
Nêandectan tiêu biểu. Tác giả cho răng cội nguồn của Tgười
Xapiên hiện đại từ một quần thể cư dân không phải Nêandectan
hiện đại”.
Xơ rên
=1 £rec tư £
mi
s # Trển Xopiễr
Trên N€undecian
!! Nguyễn Đình Khoa (1999), Sinh học và văn hóa, sđỏ, tr.10.
*.!° Nguyễn Đình Khoa (1999), Sinh học và văn hóa, sđỏ, tr.110,
!* Nguyễn Đình Khoa (1999), Sinh học và văn hóa, sđỏ, tr,109.
72
a. Có một giai đoạn Nêandectan rồi chuyển biến thành
Đời sống người hiện đại Xapiên: Sinh cảnh giai đoạn này có
liên quan rất lớn đến đời sống người hiện đại. Trong khi khí hậu
ấm dẫn ở các vùng phía nam (băng hà triệt thoái), rải rác xuất
hiện thảo nguyên và rừng nhiệt đới với những dáng vẻ hiện đại
(voi, hà mã, hươu, nai,...) thì ở Bắc Âu và Bắc Á vẫn còn cái
lạnh của kỉ băng hà cuối. Một số động vật lớn như mammôt, tê
ngưu lông đài biến mắt đần trong khi một số loài khác (ngựa
hoang, bò rừng) sinh sôi nảy nở phong phú, đặc biệt là hươu cực
đới (renne).
dưới các mái đá, sống chủ yếu dựa vào săn băn như ngành
kinh tế quan trọng bậc nhất, trong khi hái lượm thì phổ biến
thích ứng với lao động chuyên hóa. Xuất hiện những công cụ
phức hợp, tra cán, nhiều chức năng. Công cụ xương, sừng
được phát hiện tại Mianma (Văn hóa Aniachi), tại hang Nia
(Inđônêsia), tại Việt Nam văn hóa Sơn Vi, lấy tên một địa
phương thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
Về cơ cấu xã hội thì tổ chức công xã thị tộc ra đời cùng với
tục ngoại hôn (exogamy). Buổi đầu từng cặp hai thị tộc trao đổi
nam nữ với nhau (lưỡng hợp), về sau mở rộng ra nhiều thị tộc
khác. Các nhà nghiên cứu gọi đây là hình thái ngoại hôn thị tộc
lưỡng hợp theo chế độ quần hôn. Về nguyên nhân xuất hiện của
73
- thị tộc và ngoại hôn, có nhiều ý kiến khác nhau. Có tác giả cho
rằng những bầy người nguyên thủy sống tạp hôn hay quần hôn
về sau tăng dần về số lượng thành những nhóm lớn, gây xung
đột, cướp đoạn lẫn nhau. Vì vậy họ tìm cách lập quan hệ hữu
nghị, bằng cách là trao đổi hôn nhân. Lại có ý kiến trái ngược,
giả định rằng ngoại hôn là chủ yếu để điều hòa quan hệ rối rắm
trong nội bộ chứ không phải với bên ngoài. Muốn tồn tại và có
sức mạnh chống lại bên ngoài phải thiết lập trật tự nội bộ. Từ đó
xuất hiện tabu về ngoại hôn. Cũng có ý kiến cho rằng khi con
người nhận biết được suy thoái do nội hôn (cận huyết) thì ngoại
Trong chế độ thị tộc, đa số các nhà nghiên cứu thống nhất
cho rằng hình thức thị tộc mẫu quyền hình thành đầu tiên. Vì với
tính chất quần hôn thì con cái sinh ra chỉ biết có mẹ, còn trong
quần hôn nội tộc thì anh chị em cùng mẹ không được phép lấy
nhau. Nên chỉ dòng mẹ được thừa nhận (mẫu hệ). Cũng có thể
nói đến vai trò của người phụ nữ trong kinh tế: thời nguyên thủy,
một thời gian dài, hái lượm giữ trọng trách bảo đảm nguồn
lương thực chắc chắn, còn săn bắt, công việc đành cho nam giới
thì kết quả thất thường. Gia đình mẫu hệ là đơn vị nhỏ nhất của
xã hội. Số thành viên trong gia đình rất đông, bao gồm 4-5 thế
hệ. Dứng đầu gia đình là một phụ nữ cao tuỗi, có uy tín, có kinh
nghiệm trong sản xuất. Họ sống chung trong những nhà tròn
hoặc dài, điện tích hàng trăm mét vuông. Mỗi thị tộc mẫu quyền
gồm nhiều gia đình mẫu hệ tạo ra công xã thị tộc mẫu hệ. Đây là
giai đoạn sơ kì của chế độ mẫu hệ. Đến thời đại Đồ đá mới, chế
độ mẫu hệ đạt cực thịnh và xuất hiện những bộ lạc thị tộc mẫu
hệ. Chế độ mẫu hệ đã tồn tại một thời gian dài, khoảng trên 3
vạn năm, trước khi bị chế độ phụ hệ thay thế, sớm muộn tùy
từng nơi trên trái đất. Thị tộc phụ hệ (huyết tộc theo dòng cha) ra
đời vào thời đại Kim khí, cách ngày nay chừng 5-6.000 năm, đó
cũng là cái mốc đánh dấu sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên
74
Về đời sống tỉnh thần, những biểu hiện mầm mống của tôn
giáo và nghệ thuật nguyên thủy ở người cỗ Xapiên thì đến người
hình khắc động vật kèm theo các dấu hiệu khó hiểu, có tính ma
thuật. Đặc biệt là những tranh động vật và người trên vách hang
động thường có màu sắc do sử dụng các chất liệu tự nhiên (oxít
sắt, hoàng thổ) hoặc nhân tạo (muội than). Nhiều hình động vật
rất tính tế và sinh động chứng tỏ trong thực tiễn săn bắt, người
thợ săn đã quan sát kĩ lưỡng hình dạng và động tác của từng con
thú. Ngoài ra nhiều tượng động vật và người bằng đất nung,
bằng đá, phổ biến là tượng phụ nữ cách điệu, vai hẹp, bụng,
mông và bầu vú lớn. Đó là tượng trưng cho chế độ thị tộc mẫu
hệ. Ở một số di chỉ châu Âu còn thấy những hình tượng nửa
người, nửa thú, có khi là người đeo mặt nạ thú đang nhảy múa.
Có thể đây là biểu hiện thứ tôn giáo “Thờ vật tổ” (Tô tem giáo)
của thị tộc, một loại hình tôn giáo cổ xưa nhất của con người.
Nếu vậy thì từ xa xưa, trước khi có khoa học, ý niệm về mối
Nghi thức mai táng người chết cũng định hình rõ rệt. Cùng
với những tiện nghi về nhà cửa, quần áo, người hiện đại Xapiên
công cụ, còn gặp nhiều đồ trang sức. Có trường hợp người chết
được chôn ngay trong nơi cư trú, và nhiều trường hợp xác người
bị trói trước khi đem chôn, phản ánh một ý niệm, một tâm linh:
một mặt là tình cảm tha thiết không muốn xa rời, mặt khác có sự
lo sợ người chết hiện về làm hại.
Tóm lại, từ người Êrectut đến người hiện đại Xapiên, về mặt
thành tựu trong khai thác tự nhiên và bằng lao động sản xuất,
đặc biệt từ thời đại Đồ đá mới và về sau này, con người đã tạo ra
75
cho mình một môi trường thứ hai - môi trường xã hội, tác động
ngày một rõ nét và quyết định đối với đời sống của từng cá thể
và cả cộng đồng. Với người hiện đại, tiễn hóa sinh học đã đạt
Quá trình nhân hóa được bắt đầu từ một đặc trưng sinh học
hoàn toàn bàn tay khỏi chức năng vận chuyển để cầm nắm và
lao động: giảm kích thước phần mặt, chủ yếu phần xương hàm;
phát triển bộ não liên quan đến chức năng tinh thần. Những cơ
quan cảm giác quan trọng đều tập trung ở đầu và mặt, đặc biệt
thị giác. Tư thế đứng thắng giúp cho việc thu nhận tối đa những
thông tin về môi trường. 8o với não Ôxtralôpitec, dung tích não
người hiện đại lớn gấp ba lần; bề mặt tới 22.600cm2 mà 2/3 ấn
sâu trong các khe và rãnh, trong khi ở Gôri chỉ bằng 5.500cm2.
Ở người sự phát triển bộ não tập trung vào phần vỏ não mới
(neocortex) các thùy trán, thùy đỉnh, thùy thái đương là những -
trung tâm tiếp hợp phức tạp thần kinh về hoạt động tỉnh thần
(các chức năng phân tích ngôn ngữ, chữ viết đều nằm tại đây).
Nhờ sự phát triển nổi trội của bộ não và hoạt động kì điệu của
bàn tay, con người đã tiến tới lao động. Như vậy, sự đi thẳng của
người đã có áp lực chọn lọc lớn, tạo ra mọi biến đổi trơng quá
Vậy cơ chế sinh học của quá trình nhân hóa điễn biến ra
sao? Tại sao tổ tiên đi thắng của con người lại được tách ra từ
thế giới đi bằng bốn chân? Tại sao cấu tạo cơ thể của họ lại biến
đổi sâu sắc và đột ngột đến thế? Tại sao hình dạng sọ lại biến đối
từ cái mõm dài, những cái răng fianh mạnh mẽ, nhọn sắc của
'*ˆ Nguyễn Đình Khoa (1999), Sinh học và vấn hóa, sđd, tr.110-115.
76
vượn trở thành bộ mặt của người? Hay nói một cách khác, tại ˆ
sao lại xây ra những biến đổi cấu tạo để tách con người sơ khai
với tất cả các loài vượn? Đầu tiên người ta nghĩ tới yếu tế khí
hậu. Nhưng những biến đổi khí hậu (sự trở lạnh) là chung ở
toàn cầu, nếu chỉ do ở những biến đổi của khí hậu thì từ lân
Trong Hội nghị quốc tế tại Matxcơva năm 1982, lần đầu tiên
các nhà khoa học Liên Xô đưa ra lí thuyết về nguồn gốc con
người nằm trong những đột biến đi truyền. Các loài khí bậc cao
hiện nay như đười ươi (Đông Nam Á), gôri, Simpanzê (Trung
Phi) trong các linh trưởng hiện đại chúng gần người hơn cá. Cầu
trúc di truyền trong nhân tế bào của chúng có 24 cặp nhiễm sắc
thể - crômaxom — do khả năng bắt màu của chúng (từ chữ Hy
Lạp crôma là màn sắc và xôma là thể). Sự giảm bớt một cặp
nhiễm sắc thể ở người là do một chuyển đoạn nhiễm sắc thể
(translocation) đem dính hai nhiễm sắc thể tâm mút (acrocentric
chromosome) khiến số nhiễm sắc thê giảm bớt chỉ còn 46.
Vậy hiện tượng đột biến gây ra sự giảm bớt số nhiễm sắc thể
này xảy ra từ bao giờ? Nhiều khá năng là cấu trúc di truyền của
Hômô habilit đã gần người hiện đại, nghĩa là hiện tượng giảm
nhiễm (bớt một cặp) đã phải thực hiện rồi. Nhưng cũng có giả
định cho là từ khởi đầu của quá trình nhân hóa khi Hominid tách
ra. Như vậy thì Kênyapitec - Ramapitec cách đây 20 triệu năm
đã có 23 cặp nhiễm sắc thể như người hiện đại. Sơ đồ sau đây
77
Pongki (Gôr0 Gtừnpanzô) Nomo
| Kêmwap-raimapttec
Đryôpiec
Mioxen
Êpupiôpi
Olbgoxen phức
Như vậy, theo di truyền học, con người đã tách khỏi tổ tiên
chung với hắc tỉnh tỉnh, có thể tới gần hai mươi triệu năm trước
đây, là do kết quả của đột biến Nhà nhân học Nga,
dừng phát triển của một loài vượn người trong thời đại cổ xưa
nhất. Con người là một cái gì đó giống như một “quái thai”
vượn, không phải với quan điểm mỹ học, mà là với quan điểm
thuần túy động vật học. Con người có thể được xem xét như một
đứa con “không bình thường” của các loài vượn người, đứa con
được sinh ra với bộ não và trí tuệ rất phát triển so với bố mẹ của
nó,... Chúng ta biết rằng đôi khi có những đứa trẻ không bình
thường được sinh ra và khác biệt với bố mẹ bởi những khả năng
mới nào đó rất phát triển,... Buộc phải cho rằng có một số dạng
cơ thế không tuân theo sự phát triển chậm chạp, mà đột nhiên
xuất hiện và trong trường hợp này, tự nhiên đã tạo ra bước nhảy
vọt đáng kể,... Có lẽ, con người chịu ơn hiện tượng tự nhiên như
!° Nguyễn Đình Khoa (1999), Sinh học và văn hóa, sđủ, tr.121.
78
thế về nguồn gốc của mình. Một loài vượn nào đó, trong thời kỳ
biến dị những tính chất đặc thù của mình, đã sinh ra những đứa
Như vậy, con người xuất hiện không phải bằng con đường
biến đổi dần đần, chậm chạp, mà là theo cách đột biến như “đứa
con không bình thường”. Nhưng ở đâu và tại sao lại xảy ra cái
đột biến sinh học điệu kỳ và chỉ đuy nhất một lần ấy?
liều lượng bức xạ nào cũng có thể gây ra những biến đổi di
truyền, cũng có thể dẫn đến chỗ những cá thể “bình thường”
có tổ chức càng cao bao nhiêu thì càng nhạy cảm với bức xạ
bấy nhiều.
Quê hương đầu tiên của tổ tiên trực tiếp của loài người
là ở Nam và Đông Phi. Cũng chính ở đây khoa học địa chất
chứng minh có những vỉa quặng urani dày nhất thế giới, mácma -
phóng xạ phong phú. Mấy triệu năm trước đây, ở khu vực Đông
và Nam Phi, vào thời kỳ kiến tạo của bề mặt trái đất, núi non và
- những đứt gãy đã hình thành (mà một trong những dấu tích của
các đứt gãy đó là con sông Nïl ngày nay), cùng với hoạt động
tích cực của núi lửa v.v làm cho các mỏ quặng uram lộ rõ hoạt
động như những lò phản ứng tự nhiên cộng với bức xạ của các
loại đá núi lửa phun xuất, kết quả của tổng hợp tất cả các yếu tố
loài linh trưởng cư trú ở khu vực này (Nam và Đông Phi) đã
nhận được một liều lượng bức xạ tăng cao. Ở những con vượn bị
chiếu xạ đã xảy ra những biến đổi mạnh mẽ các tính trạng di.
truyền - những đột biến lớn và gây nên sự giảm bớt (dính kết)
hai nhiễm sắc thể và những cải biến khác trong AND. Kết quả
79
tiên của loài người. Còn cũng trong thời gian này, những loài
linh trưởng ở châu Phi xích đạo và Tây Phi không bị chiếu xạ
vẫn tồn tại một cách bình thường dưới dạng không biến đổi.
Một giả thuyết khác cho rằng: “Tiến hóa từ thú lên vượn
người, vượn người lên người còn có nguyên nhân đột biến
gien đi truyền do tiến hóa năng lượng vũ trụ tác động lên
vượn làm chúng biến đổi đi truyền sinh ra loài người có hình
thể như người cổ đại đã tỉm thấy trên các châu”. Tiến hoá con
người-còn có liên quan đến cấu trúc hình thể trong gen, AND.
Đó là nguyên nhân gì thì hiện nay chưa có câu trả lời chính
xác. Còn ở đây đã chứng minh về một mã hình thể con Tgười
đã được hình thành từ năng lượng tiến hóa vũ trụ tác động 1on
Còn vai trò của lao động? Hoạt động xã hội - lao động đã
xuất hiện hàng triệu năm sau khi có những biến đổi trong cấu
tạo của tổ tiên con người, vì vậy nó không thể là vai trò quyết
định. Hơn nữa như các nhà đi truyền học đã đi đến kết luận
chung rằng “những kết quả hoạt động xã hội - lao động, như
các định luật di truyền đã chứng minh, không thể ghi lại vào
các gen, không thể trở thành chủ thể của tiến hóa sinh học. Chất
mang tính đi truyền sinh học là các gen nằm trong các phân tử tử
axit nuclêic”.
Nhưng cần phải nhấn mạnh rằng khi các đột biến sinh học
đã cải biến vượn thành tổ tiên đi thẳng của con người thì đồng
thời cách đi thăng đã làm cho tổ tiên con người thanh nhã, hoặc
nói nh các nhà nhân học, yếu điệu hơn. Cải biến sinh học làm
cho tổ tiên chúng ta không còn những cái răng nanh mạnh mẽ và
những cái vuốt nhọn sắc để tìm kiếm thức ăn và chống lại thú
dữ; không còn khả năng chạy nhanh như động vật bốn chân;
cách đi thẳng cũng làm trở ngại cho việc leo trèo một cách khéo
80
léo lên cây như vượn, v.v. Nói một cách chung nhất, về thể lực,
cuộc đấu tranh sinh tồn khắc nghiệt của tự nhiên ấy, tổ tiên con
người sẽ không tránh khỏi sự diệt vong nếu không tìm được
phương thức sống với những vật thay thế cho toàn bộ những gì _
mà cải biến sinh học tự nhiên đã làm mắt đi. Và vật thay thế đó
người. Chính các đột biến sinh học đã chế định một tất yếu lịch
chế tạo ra công cụ một cách hệ thống, tức là chuyển sang lao
động. Công cụ đóng vai trò chủ chốt. Chính công cụ đã thay thế
những nanh, vuốt nhọn sắc, thể lực khoẻ, khả năng chạy nhanh
và leo trèo khéo léo cho mỗi thành viên của họ người. Không có
sự chuyên đổi từ cách sống dựa vào bản năng sinh học sang
phương thức sống bằng lao động - hoạt động sáng tạo của tỉnh
thần, tức là văn hóa, có lẽ con người đã bị tuyệt chủng. Hơn nữa,
chúng ta cũng nhớ lại rằng từ khi xuất hiện những con người đầu
tiên cùng với việc sáng tạo ra công cụ lao động — người Khéo
léo (Homo habilis) đến khi trở thành người Xapiên hiện đại
(Homo sapiens sapiens) là một khoảng thời gian rất đài. Trong
khoảng thời gian ấy con người không ngừng phát triển yếu tố lao
động - xã hội, và vì thế, về mặt câu trúc hình dáng cơ thể cũng
không ngừng được hoàn thiện theo hướng ngày càng thích nghi
Như vậy, đột biến sinh học đã tạo ra những cơ sở vật chất
(dáng đi thẳng, giải phóng hai tay, bộ não phát triển) để con
người tiến tới lao động và chính lao động - xã hội là điều kiện
quyết định quá trình hình thành và hoàn thiện của con người. „'
Tóm lại, con người và xã hội của nó từ khi xuất hiện đã
biến đổi không ngừng dưới tác động nhất quán của lao động
sản xuất. Tuy nhiên vào những giai đoạn sơ thủy của lịch sử,
cùng với ảnh hưởng của nhân tố xã hội còn phải kể đến những
8]
ràng buộc của nhân tố tự nhiên. Nhưng thành tựu văn hóa đã làm
cho hiệu lực của nhân tố tự nhiên giảm dần đến tối thiểu cùng
với chọn lọc tự nhiên. Và bắt đầu giai đoạn người hiện đại
Xapiên, đỉnh điểm của tiến hóa tự nhiên của giới hữu cơ trên
hành tỉnh chúng ta, thì tiến hóa rời sang địa hạt văn hóa mà sự
Cùng với sự hình thành con người hiện đại các chúng tộc
2.1. Chủng tộc là gì? Con người là một loài thống nhất
Trước kia chủng tộc được coi là một tập hợp các cá thể có
những đặc điểm hình thái giống nhau. Ngày nay với việc phát
hiện ra ' “quần thể sinh học” và lí thuyết khu vực địa lý, thì đơn vị
cơ bản để nghiên cứu nhân chủng là một tập hợp các quân thể
chứ không phải tập hợp các cá thể. Quan niệm này đã mang lại
cho định nghĩa về chủng tộc một nội dung mới chính xác và
Định nghĩa: “Chủng tộc là một quân thể (hoặc tập hợp các
quần thể) đặc trưng bởi những đặc điểm di truyền về hình thái,
sinh lí mà nguồn gốc và quá trình hình thành của chúng liên
Như vậy, khái niệm “Chúng tộc” là một khái niệm khoa học
phản ánh sự tồn tại khách quan của một thực tại sinh học hoàn
toàn xác định. Nhận thức chủng tộc trên cơ sở quần thể (chứ
không phải là cá thể) là một bước tiến quan trọng trong lí thuyết
nhân chủng và sinh học. Các chủng tộc loài người rất phong
phú, những đạng trung gian do hỗn chủng sinh ra ngày càng
nhiều, tiến tới làm thay đổi và xoá nhòa ranh giới giữa các chủng
82
* Con người là một loài thông nhất
Trong thế giới động vật giữa các loài và chúng có sự khác
biệt rất rõ ràng bởi một tập hợp những đặc điểm mà trong đó nỗi
rõ nhất là khả năng sinh sản. Con lai thuộc hai chủng khác nhau
thì không bị hạn chế khả năng sinh sản, ngược lại con lai của hai
loài khác nhau thì thường không có khả năng sinh sản. Ví dụ con
“la” là con vật lai giữa lừa và ngựa thì bản thân nó không thể
Đã từ lâu người ta quan tâm tới một vẫn đề là: _vậy các
chủng tộc loài người tương đương với cấp loài hay cấp chủng
trong hệ phân loại sinh học. Cho tới nay, chiếm ưu thế trong các
nhà nghiên cứu đều cho rằng con người hiện tại, trong mối quan
hệ sinh học, là một loài thống nhất là loài Homo sapiens và được
chỉa ra các đơn vị nhỏ hơn là chủng tộc. Điều khẳng định đó
1. Tất cả chủng tộc loài người, khi hỗn chủng với nhau đều
hoàn toàn có khả năng sinh sản. Số liệu sinh sản cao ở cư dân
các vùng Nam Á, quần đảo Mã Lai, ở Nam Mỹ, ... (là những
2. Mặc dù các chủng tộc rất khác nhau theo các đặc điểm
hình thái bên ngoài. Nhưng các chủng tộc đều có liên hệ với
nhau bởi một loạt những loại hình trung gian có thể chuyển hóa
Ví dụ: Thổ dân châu Úc (Ôxtraloït) rất giống với người Phi
chúng Nêgrôit về màu da đen, mỗi rộng, môi dày. Nhưng kiểu
tóc uỗn lượn sóng và nhiều râu cằm ở người Úc thì lại gần gũi
3. Ngày nay con người là một loài sinh vật có khả năng sống
ở mọi nơi trên trái đất, từ trên những đỉnh cao của dãy Hymalaya
đến các hòn đảo là là trên mặt biến, . .. Điều đó chứng minh vê
83
một khả năng thích nghỉ lớn của con người, đó cũng đồng thời
Những đặc điểm hình thái riêng vốn có của mỗi chủng tộc
tạo thành một tập hợp các đặc trưng cho phép chúng ta căn cứ
vào đó để phân biệt chủng tộc này với chủng tộc khác thì gọi là
các đặc điểm hay đấu hiệu phân biệt chủng tộc.
Các đặc điểm chủng tộc về mặt phân loại có thê chia ra làm
ba loại:
- Loại các đặc điểm mô tả: màu da, màu mắt, màu và kiểu
- Loại đặc điểm đo đạc (mêtric) như kích thước của đầu,
- Các loại đặc điểm hóa sinh: nhóm máu, nhóm huyết sắc tố.
Nhưng các đặc điểm chủng tộc lại có giá trị trong sự định
chủng không hoàn toàn giống nhau. Một số đặc điểm, có tính
chất phổ biến rộng rãi và khả năng bền vững ít thay đổi qua thời
gian, có giá trị định chủng cao được gọi là các đặc điểm cơ bản
(hay đặc điểm sơ cấp). Đó là màu da, màu tóc, máu mắt, mức độ
lông-trên thân người, ... và được đùng để phân loại các “Đại
chủng”. Còn những đặc điểm thường bị biến đị khá nhiều trong
khoảng mây nghìn năm lại đây như kích thước mặt, chỉ số đầu,
. gọI là những đặc điểm không cơ bản (hay đặc điểm thứ cấp),
được dùng để phân loại các “tiểu chủng” hay “nhóm loại hình
Từ thế kỉ 18 cho đến hiện nay đã xuất hiện liên tiếp các hệ
phân loại chủng tộc khác nhau, nhưng phân lớn họ thường dựa
trên những đặc điểm hình thái, tập trung chủ yếu ở đặc điểm đầu
và mặt.
34
Người sáng lập ra khoa học phân loại của sinh giới Carolus
Limnaeus đã xem nhân loại thuộc về một. loài đuy nhất, chia
thành bến chủng tộc: Mỹ, Âu, Á và Phi gắn liền với đặc điểm
lạnh nhạt.
Đến thế ki 19, dưới ảnh hướng của học thuyết tiến hoá của
Darwin, phân loại chủng tộc dựa trên những phát hiện về tính
tương đồng và dị biệt của các đặc điểm chủng tộc và đồng.
thời cũng tìm ra cội nguồn của các chủng tộc. Cuvier đề xuất.
ba chủng tộc cơ bản với các đặc điểm định chúng là chủng đa
(1870) đã nêu bốn chủng tộc gắn liền với khu vực địa lý: Âu, Á,
Phi và Úc.
Đến thế kỉ 20, đo sự phát triển của khoa học nhất là ngành đi
truyền học và lí thuyết về quần thể sinh học, các nhà nhân học
Mỹ, phương Tây và Nga thiệt lập hệ phân loại khác nhau.
phân loại hai cấp với các thuật ngữ: chủng lớn hay chủng sơ cấp,
chủng địa phương hay chủng thứ cấp. Có trường hợp lại thêm
cấp thứ 3 gọi là đưới chủng tộc hay loại hình nhân chủng. Nhân
học Mỹ có các thuật ngữ tương đương: chủng tộc địa lý, chủng
tộc địa phương và vi chủng tộc. Các nhà nhân học Nga trước đây
cũng phân thành ba cấp: đại chủng, tiểu chủng và các nhóm loại
hình. Dưới đây là mấy thí dụ về các cách phân loại khác nhau:
điểm hình thái. Hệ phân loại này gồm 9 chủng tộc địa lí với các
Phân loại của Th. Dobzansky, 1962, kết hợp quan điểm
quần thể với chủng tộc, sử đụng hai loại đặc diễm của 5. M.
Gacn. Các chủng tộc địa lí được tách chi tiết, "bao gồm 34 chủng
tộc, mỗi chủng tộc được phân thành các quần thể địa phương.
Với cách phân loại này xuất hiện một số chủng tộc lai.
85
Từ trước tới nay đã có nhiều nhà khoa học phân loại chủng
tộc theo các tiêu chí khác nhau và có nhiều bảng phân loại khác
nhau, nhưng bảng phân loại của N.Cheboksarov (nhà bác học
Khác với bảng phân loại trước đây chủ yếu dựa vào các đặc
điểm hình thái, bảng phân loại này đã kết hợp nhiều đặc điểm
chủng tộc khác (nhóm máu, đường vân tay, hình thái răng,...).
Bảng phân loại được chia ra thành 4 đại chủng và 3 hợp. nhóm
chuyển tiếp hoặc lai giữa các đại chủng nói trên, tất cả gồm 15
tiểu chủng (tức các chủng tộc địa phương) và 16 nhóm chuyển
nhóm chuyên tiệp hoặc lai _ |-chuyên tiệp hoặc hỗn chủng
s. nâu).
5 | Hợp nhóm chuyển tiếp giữa | Các nhóm Uran, nhóm Xibêri,
6 | Đại chủng Á Môngôlôit Các chủng tộc Bắc Á, chủng tộc địa
7 ¡ Họp nhóm chuyên tiếp giữa | Các nhóm Nam Á, nhóm Nhật Bản,
86
Cheboksarov nhận định rằng, kết hợp nhiều loại đặc điểm
chung trong nghiên cứu thì việc chia người hiện đại Hoơmo
- Đặc điểm nhân chẳng của đại chúng Ôitxtralôit hay thổ
dân du đen châu Úc: Da rất sẵm màu (đen hoặc nâu đen), mắt
đen; tóc đen uốn làn sóng; lông trên người rậm rạp, đặc biệt là
râu phát triển mạnh; mặt ngắn. và hẹp; mũi rộng, lễ mũi to, sống
mũi gầy; môi đày, môi trên vẫu; đầu thuộc loại đầu dài hay rất
đen châu Phí: Gọi là Nềgrôït vì màu da của đại chủng này đen
đen. Đặc điểm hình thái điển hình của đại chủng Nêgrôit là: da
đen, tóc xoăn tít, lông trên thân tất Ít, trần đứng, gờ trên ẳ mắt Ít
phát triển, cánh mũi rất rộng làm cho mũi bè ngang, sống mũi
không sẫy, môi rất dày nhưng hẹp. Ở một số loại hình mông rất
phát triển. Về đặc điểm huyết học thì các nhớm máu A1, A2 và
- Đặc điểm nhân học của đại chẳng Orôpôit hay người da
trắng châu Âu: Gọi là đại chủng Crôpôït vì đại chủng này sống
màu sáng trắng tới nâu tối; lông trên thân rất phát triển đặc biệt
là râu; tóc thường uốn sóng; mặt thường đô ra phía trước đặc
biệt là phần giữa mặt; mặt hẹp và dài không vấu; màu mắt
thường xanh, xám hay nâu nhạt, không có nếp mỉ góc, mũi cao
và hẹp; môi mỏng, cằm đài và vễnh, đầu thường là tròn; đặc biệt
có núm Carabeli ở răng hàm trên. Nhóm máu giống người Phi,
- Đặc điểm nhân học của đại chủng Môngôlôit hay người
87
thường có vị trí trung gian giữa Ơrôpôït và Ôtstralôit. Đặc điểm
chung là da sáng màu có ánh vàng hoặc ngăm đen; mắt và tóc
đen, hình tóc thắng và cứng: lông trên thân ít phát triển; mặt bẹt
vì hai xương, gò má rất phát triển; mũi rộng trung bình, sống mũi
không đô, gốc mỗi thấp; môi đày trung bình, hàm trên hơi vẫu;
nếp mi mông cổ tỷ lệ cao; đặc biệt có răng cửa hình xẻng là một
đặc trưng của đại chủng này. Thường có nhóm máu Diêgô mà
nhóm R.
và châu Mĩ.
Các hợp nhóm chuyên tiếp có đặc điểm nhân chủng giữa
các đại chủng với nhau nên khó định ra đầy đủ các đặc điểm của
Cho tới hiện nay đã có ý kiến phủ nhận khái niệm chủng tộc
và cho răng, từ những năm 1960, các nhà nhân học đã đồng ý
nhất trí với nhau rằng, khi áp dụng đối với con người, “chủng
tộc” không còn là thuật ngữ được dùng về mặt khoa học. Các
quần thể con người không thể phân lớp thành các nhóm riêng rẽ,
có thể định nghĩa trong các thuật ngữ về sự hiện diện hay thiếu
đi các đặc điểm sinh vật đặc trưng. Sự phân loại các chủng tộc
phải được thừa nhận nó là gì-thứ bậc xã hội mà các cá thê được -
chính họ và những người khác ấn định, dựa trên nền tảng giả sử
Tuy nhiên nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định khái niệm
chủng tộc, cho rằng chúng đã phát sinh và tồn tại trong những
giai đoạn nhất định của lịch sử, đồng thời để lại dấu ấn đến
hiện nay.
Các chủng tộc loài người được hình thành như thế nào? Đó
là một vẫn đề nan giải và vô cùng phức tạp cho tới nay chưa thể
s8
giải đáp hoàn chỉnh được. Song các nhà khoa học đã chỉ ra được
một số cơ chế và nguyên nhân phân hóa thành các chủng tộc của .
loài người.
xưa, số lượng ít lại sống trong các ô sinh thái khác nhau, trong
lúc tạo phẩm văn hóa còn đơn giản và nghèo nàn nên chọn lọc tự
nhiên đóng vai trò không nhỏ. Nhưng khi sự phát triển văn hóa
xã hội kéo theo sự gia tăng dân số đã phá vỡ biệt lập di truyền
giữa các nhóm cách li đồng thời làm yếu hẳn chọn lọc tự nhiên.
Theo nhiều nhà nghiên cứu thì từ buổi đầu của quá trình
hình thành chủng tộc đã nổi lên vai trò của hiện tượng mà các
tác giả gọi là quá trình đi truyền tự động hay phiêu bạt di truyền.
chúng tộc thì sự biệt lập của các quần thể có một vai trò quan
trọng to lớn, Trong những quần thể biệt lập ấy, suốt chiều đài
của nhiều thế hệ kế tiếp nhau hôn nhân hẳn như là nội hôn. Thời
gian qua đ dần dần xuất hiện những Thay đổi đáng kể làm cho
_ các quần thể vốn trước kia cùng một nguồn gốc giống nhau trở
thành khác biệt. Sự xuất hiện của các khác biệt này không mang
tính chất thích nghi mà là kết quả của các bước chuyển địch dần
-_ dần trong tần số xuất hiện những dấu hiệu riêng biệt làm cho,
cuối cùng, một số dấu hiệu có thể hoàn toàn biến mất, còn một
số khác trở thành phổ biến rộng rãi. Quá trình - do biệt lập và nội
hôn làm xuất hiện những đặc điểm khác biệt - như vậy được gọi
Người ta tính ra rằng với một quần thể cho biệt lập thì
những chuyển dịch trong việc phân bố các dấu hiệu khác biệt
diễn ra trong khoảng 50 thế hệ. Nếu lấy khoảng cách trung bình
Quá trình “Gien phiêu bạt? có một vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc phân hóa nội bộ các đại chủng thành những tiểu
89
chủng và các nhóm loại hình nhân chủng ít nhiều khác biệt nhau,
thành của chủng làn Nêgritô ở châu Úc, Đông Nam Á và Nêgrin
ở Trung Phi.
Sự kiện cuối cùng điễn biến trong quá trình hình thành
thuần nhất.
Xã hội ngày càng phát triển, dân số ngày một tăng làm cho
các quần thể người đần mạnh và đông đúc lên và họ di cư tới
những vùng đất mới. Các quần thể vốn xưa cách biệt nay gấp
gỡ, giao lưu, tiếp xúc với nhau từ đó làm nảy sinh một yếu tố
mới rất quan trọng trong sự hình thành chủng tộc, đó là sự lai
giữa các quần thể người. Sự lai vừa là yếu tố hình thành nên các
chủng tộc mới, đồng thời cũng là yếu tố hợp nhất các chủng tộc
loài người. Nó là một bằng chứng về nguồn gốc cùng một loài
của các chủng tộc. Nhờ có sự hỗn chủng mà ranh giới giữa các
chủng tộc thuần khiết ban đầu bị xóa nhòa, các khác biệt giữa
các đại chủng mắt dần, các chủng tộc hợp nhất, hòa chủng ‹ để rồi
tiêu vong trong sự hòa đồng. Cả nhân loại sẽ là một quần thể
lớn, hôn phối tự do. Con người là một loài đuy nhất từ đa mẫu
Ngày nay, hơn 1⁄2 tống dân số thế giới là người lai. Nếu nói
theo nghĩa di truyền thì hiện nay trên thế giới không còn một
chủng tộc nào là hoàn toàn thuần chủng cả. Trong quá khứ sự lai -
đã hình thành nên các chủng tộc trung gian như người Êtiôpi là
trung gian giữa Phi và Âu, người Đông Nam Á trung gian giữa
Á và Úc.
Như vậy, khi con người mới chớm vào chuyển hóa và phân
ly thành các đại chủng dưới tác động của qui luật sinh học thì
các điều kiện của môi trường xã hội (như sự phát triển của văn
hóa, các dòng di cư dẫn tới sự giao lưu tiếp xúc,...), thời đại đồ
Đá mới đã ngăn cản và chống lại khuynh hướng phát triển này.
90
Nếu không có sự lai chủng xảy ra, để xóa dần đi những khác biệt
ban đầu của các đại chủng, thì rất có thể các đại chủng phát triển
độc lập lâu dài sẽ dẫn tới hình thành nên những loài người khác
nhau. Nhưng quá trình này đã sớm bị chấm dứt, tiến hóa sinh
học đã bị thay thế bằng tiến hóa xã hội mà cái mốc khởi đầu là
cách mạng Đá mới. Nhờ tiến bộ của kĩ thuật, lực lượng sản xuất
đã phát. triển mạnh mẽ; dân số bùng nỗ làm cho các dòng người
di cư tiếp xúc, hòa đồng rồi định cư sống tập hợp thành các quân
thế cư lớn. Có thể nói từ thời đại đồ Đá mới sự hình thành chủng
tộc theo nghĩa cổ điển không còn nữa, mà chỉ còn các loại hình
nhân chủng tiếp tục ra đời trên cơ sở hỗn giao trong phạm vỉ các
đại chủng và giữa các đại chủng với nhau. Rất nhiều các loại
hình trung gian xuất hiện tác động, thay thế lẫn nhau. Bức tranh
nhân chủng nhiều màu ấy không bất biến mà tiếp tục biến đổi
theo từng giai đoạn lịch sử. Cuối cùng cấu trúc của nhân loại,
trong hình thái tồn tại của nó về mặt sinh học, không phải là các
chủng tộc mà là các quần thể. Loài người mãi mãi hòa đồng trên
cơ sở hòa đồng của các quần thể cư dân lớn nhỏ, nhưng vẫn giữ
được những bản sắc độc đáo muôn hình muôn vẻ của mỗi cá
nhân. Đó chính là nét đặc thù của sự phát triển của các chủng tộc
loài người. Sự hình thành các đặc điểm chúng tộc có vai trò quan
Từ buổi bình minh của lịch sử tiến hóa nhân loại, các nhóm
cư dân cổ xưa số lượng ít lại phân bố rộng rãi trong các ổịa vực
sinh thái khác nhau, các tạo phẩm văn hóa còn giản đơn và
nghèo nàn chưa thể chỗng lại được với những biến đổi khắc
nghiệt của thiên nhiên. Để tồn tại con người phải tự biến đổi
mình để thích nghĩ với môi trường. Những đặc điểm thích nghĩ
của một cộng đồng sống ở khu vực này không được phổ biến,
lây lan sang cộng đồng khác. Vì khi Ấy các quân thể người sống
hoàn toàn biệt lập nhau do phương tiện đi lại chưa có. Dần dần,
lâu năm các đặc điểm hình thái do phải thích nghỉ xuất hiện, làm
cho các quần thể khác dần nhau vỆ màu da, màu mắt, hình dáng
mặt, mũi,.
“91
Người Phi châu da đen chịu ánh nắng mặt trời ở vùng xích
đạo và nhiệt đới tốt hơn người đa trắng, người Eskimô chịu lạnh
tốt hơn các cư dân khu vực phía nam. Những đặc điểm chủng
tộc như hình dáng của tóc, môi dày, mũi rộng,... được hình
thành dưới ảnh hưởng chọn lọc của môi trường địa lí trong thời
các độ cao khác nhau so với mực nước biển. Như chúng ta biết
oxy chiếm 21% trong thành phần không khí mà chúng ta thở ở
nhiệt độ cao ngang so với mực nước biển. Ở vùng cao hơn số
phần trăm oxy trong không khí cũng như vậy nhưng do áp suất
khí thấp hơn, nên chúng ta mỗi lần hít vào ít khí oxy hơn. Chúng
ta thở gấp hơn, tim đập nhanh hơn gây ra bệnh giảm oxy huyết,
Các nghiên cứu ban đầu về những người sống ở vùng cao Andes
ngực rộng hơn và sức chứa của phổi lớn hơn, cũng như phần
nhô ra bên ngoài của các mao quản của phổi (thứ được cho là
làm cho sự truyền ôxy vào máu đễ đàng hơn). Các nhà nghiên
cứu cho rằng, những biến đổi về di truyền cho phép người
Andes có khả năng nhận oxy cao nhất ở những vùng có áp suất
Việc hình thành nên các đặc điểm hình thái khác nhau ấy đã
diễn ra dưới tác động của qui luật chọn lọc tự nhiên. Khi điều
kiện môi trường thay đổi sẽ gây nên những đột biến trong các tế
bào của cơ thể. Những đột biến ấy có thể diễn ra theo hai hướng:
Hướng biến đổi không thích nghi sẽ ít có khả năng tồn tại và
phát triển, đần dần sẽ bị tiêu diệt. Còn những cá thể có những
biến đổi thích nghi, không những tổn tại khỏe mạnh mà còn để
lại được rất nhiều con cháu, mang những đặc điểm đi truyền của
mình. Trải qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau như vậy, các đặc điểm
do thích nghỉ ban đầu ít, sau tăng dần và rồi trở thành phổ biến,
đặc trưng cho quân thể này, khác biệt với các quần thể khác.
- 92
Như vậy, sự biệt lập của các quần thể kéo dài hàng vạn năm,
sự thích nghỉ với điều kiện sinh sống và khí hậu hoàn toàn khác
nhau ở các khu vực, cùng với vai trò của chọn lọc tự nhiên đó là
ba yếu tổ quan trọng chủ yếu dẫn tới sự hình thành các chúng tộc
Như đã niêu trên, chủng tộc là một phạm trù sinh học để chỉ
sự khác biệt về những đặc trưng nhân học của con người thể
hiện tính biến đị và di truyền sinh học của con người. Tuy nhiên,
nhân học Bắc Mỹ lại cho rằng, chủng tộc (race) cũng như tộc
người nói chung là một phạm trù văn hóa hơn là phạm trù sinh
học. Dù có quan niệm khác nhau thì sự phân chia chủng tộc
trong các nền văn hóa khác nhau có liên quan đến chủ nghĩa
phân biệt chủng tộc. Những người theo thuyết phân biệt chủng
tộc lại lợi đụng những điểm khác nhau của đặc trưng nhân học
giữa các chủng tộc, phóng đại nó lên để biến chúng thành những
khác biệt có:ý nghĩa bản chất và bất biến. Nói tóm lại thuyết
phân biệt chúng tộc đã phân chia loài người (hành những chủng
tộc thượng đẳng có khả năng phát triển trí tuệ về mọi mặt, là
người xây dựng nền văn mình nhân loại, đối lập với những
chúng tộc hạ đẳng bị xem là người hèn kém dốt nát, cần phải có
sự khai hoá của chủng tộc thượng đẳng và phải lệ thuộc vào họ
mới tồn tại được. Do tính ưu việt của chúng tộc thượng đẳng,
khi cần thiết để bảo vệ họ, để bảo vệ nền văn minh có thể hi sinh
Blumenbach đưa ra. Ông cho rằng, chủng tộc cổ xưa đáng
chủng tộc khác sống ở điều kiện khí hậu khắc nghiệt tại các
vùng biên giới nên thoái hóa dần. Ông đưa ra chuẩn văn hóa:
châu Âu là trung tâm của nền văn minh, xa trung tâm này chỉ
93
gặp những bầy người man rợ. Quan điểm này được nhà nhân
chủng học Pháp G. Buffon tán đồng và đưa thêm các chuẩn
sinh học và các đặc điểm cơ thể lẫn đặc điểm tâm lý, văn hóa;
tựu trung lại nhằm chứng minh nguồn gốc da trắng là thuần
khiết nhất của chủng tộc loài người. Như thế, sự phân biệt về
đẳng cấp có cội nguồn từ các nước phát triển về kinh tế-văn
khác người không giống mình về hình thái cơ thể, đời sống
nghèo khỗổ được xem là “hạ đẳng”. Quan điểm lấy châu Âu làm
chủng tộc, đồng thời thuyết phân biệt chủng tộc được thêu dệt
thêm cái quan điểm đẳng cấp của mình bởi những lí lẽ khoa học
giả hiệu nhưng đã gây ẫn tượng lúc bẩy giờ. Theo họ, những đặc
điểm chủng tộc là cội nguồn của số phận con người. Những năm
70 của thế kỉ 20, không ít người đã tin rằng, tội phạm là một hiện
tượng sinh học. Thuyết phân biệt chúng tộc đã gây không biết
bao nhiêu tai. hại ở các nước tư bản phương Tây, gieo rắc không
Mỹ là nơi có nạn phân biệt chủng tộc điển hình, nhất là sau
khi mới thành lập, những nhà tư bản Mỹ đã săn bắn thổ dân
Anhđiêng một cách tàn nhẫn như săn thú vật để chiếm lấy
những vùng đất màu mỡ; mang đến những bệnh lây nhiễm như
đậu mùa, lao khiến cho hàng ngàn thổ dân bị giết. Để bổ sung.
- cho nguồn nhân công thiếu hụt, họ đã sang châu Phi mua từng
đoàn người da đen đưa về Mỹ. Những người dân châu Phi biến
thành hàng hóa đem bán trên thị trường. Tư bản Mỹ làm giàu
trên mồ hôi xương máu của người da đen. Cho đến hiện nay, chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc được gọi là quy tắc hạ thấp địa vị xã
Thâm độc và tàn ác hơn nữa là tệ phân biệt chủng tộc của
Đức Quốc Xã dưới quyền thống trị của Hitler. Theo quan điểm
94
này, thì chủng tộc của người Ariăng (Arien) tổ tiên của những
mà người Đức là đại diện thuần khiết nhất. Muốn đảm bảo cho
nước Đức chiếm vị trí thượng đỉnh và điều khiển thế giới phải
có biện pháp bảo vệ cho tính thuần chủng của dân tộc Đức và
tăng cường hơn nữa ở các thế hệ tương lai, Đức Quốc Xã đã có
quan điểm chống các tộc người Xêmit, tức các tộc Ả Rập, Syria,
hàng loạt điều luật chống người Do Thái. Đặc biệt trong Chiến
tranh thế giới thứ hai, bọn Đức Quốc Xã đã tiêu diệt hơn 6 triệu
biệt chủng tộc và bị coi là tầng lớp tận cùng của người da
trắng, sau khi Nhà nước Israel ra đời (1948), người Do Thái
người Ả Rận, xem người Ả Rập là dân tộc thiểu số, có nhiều
điều luật bất: công mang dấu Ấn kỳ thị chủng tộc. Người Ả Rập
đã vùng dậy đấu tranh quyết liệt từ đó và cũng là cội nguồn củá
Đặc biệt phải kể đến chủ nghĩa Apacthal, tệ phân biệt t chủng
tộc ở Nam Phi. Dưới quyền cai trị của người da trắng, đời sống
của người da đen ví như địa ngục trần gian. Sự đối xử tàn nhẫn
của người da trắng khiến cho người Phi bản địa phải vùng dậy
sự thấp kém về mặt sinh học của các chủng tộc nào đó còn phản
ánh trong nền văn hóa và chỉ số thông minh của họ. Họ tranh
luận rằng, quốc gia phát triển là của người da trắng và quốc gía
kém phát triển thì không phải của những người này. Họ đã phớt
lờ lịch sử. Sự thực, nhiều quốc gia ngày nay bị xem là kém phát
95.
triển - chủ yếu là châu Á, châu Phi và Nam Mỹ là những nơi đã
hình thành những nền văn minh cỗ đại từ rất sớm trước khi các
nền văn minh khác của thổ dân da đỏ đã có những đóng góp
rất lớn đối với văn minh nhân loại. Trong khi các nền văn
minh phát triển tỏa sáng ở vùng Trung Đông thì người châu
Ấu vẫn còn lạc hậu. Khi xuất hiện các nền văn mỉnh Tây Phi,
Qua nhiều thế ki, những người theo chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc tìm cách chứng minh những khác biệt về sự thông
minh ở các chủng tộc. Họ đã lập luận rằng, địa vị xã hội thấp
kém và những cái bị cho là khiếm khuyết (về trí thông minh, khả
năng, tính cách hay vẻ bề ngoài) vĩnh viễn không thay đổi và
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Quan điểm này đã ủng hộ
bợn Đức Quốc Xã, chế độ Apacthai, cũng như biện hộ cho tính
- ưu việt của người da trắng đã từng là nền tảng cho học thuyết li
khai chủng tộc ở Mỹ. Đệ biện minh cho lí thuyết này, người ta
đã kiểm tra trí tuệ trên quy mô lớn khi bước vào Chiến tranh thế
giới thứ nhất. Hàng ngàn lính quân địch được đưa cho các bảng
Sau đó, các nhà tâm lí đã sắp xếp các kết quả của bài kiểm tra
đen trước sau cũng bị chấm điểm thấp hơn những người da
trắng. Kết quả này được xem như một bằng chứng khoa học về
tính thấp kém thiên bẩm về mặt trí tuệ của người da đen và để
bào chữa cho sự phân biệt xa hơn đối với họ. Một trong những
trường hợp nỗi tiếng gần đây là thuyết Jensen. Thuyết Jensen là
một sự điễn giải đáng nghỉ ngờ về quan sát, người ta thấy người
Mỹ gốc Phi thực hiện bài kiểm tra về trí thông mỉnh nói chung
%6
kém hơn người Mỹ gốc Âu. Thuyết Jensen khẳng định người da
đen đo di truyền nên năng lực hoạt động yếu kém hơn so với
đã đưa ra những biện luận tương tự trong cuốn sách xuất bản
năm 1994 “Quả chuông lắc”. Tuy nhiên những luận điểm mà họ
đưa ra không có sức thuyết phục, khi mà những bài kiểm tra ÏQ
chúng phản ánh kinh nghiệm của những người thiết kế chúng
mà họ mang nhiều định kiến về tầng lớp xã hội, đân tộc và văn'
hoá. Những cuộc nghiên cứu gần đây đã cung cấp quá đủ bằng
chứng cho thấy chất lượng kiểm tra đánh giá trình độ giáo dục
và nền tảng kinh tế, xã hội và văn hóa chứ không phải nhân tố đi
Những nghiên cứu của các nhà nhân học cho thấy rằng,
phần lớn sự khác biệt trong hành vị các nhóm người đương đại
nằm trong vẫn đề văn hóa chứ không phải nằm trong vấn để sinh
học. Những nghiên cứu cho thấy, nhân loại ngày nay đều có khả
năng tiến hóa văn hóa như nhau. Trong bất kỳ một xã hội phân
tầng nào, sự khác nhau về khả năng kinh tế, xã hội và tộc người
giữa các nhóm cũng đều phản ánh những cơ hội và kinh nghiệm
khác nhau chứ không phản ảnh cấu trúc đi truyền của nhóm đó.
kết luận về nguyên nhân của các cấp độ đạt được khác nhau thể
hiện qua các bài kiểm tra IQ không thể vẽ lên cho đến khi moi
người cùng có cơ hội bình đẳng để phát triển khả năng tiềm ấn
của họ. Ông nhắn mạnh tới sự cần thiết cho một xã hội dân chủ,
nơi mà tất câ mọi người có cơ hội phát triển những tài nặng hay
. năng khiếu của họ và lựa chọn con đường để phát triển.
Tiến hóa sinh vật và con người gắn liền với khả năng thích
- nghi và cùng với thích nghi là biến đổi và tiến hóa. Học thuyết
97.
tiến hóa gắn liền với tên tuổi của Darwin về tính di truyền và
biến dị, tiếp theo ông là học thuyết Tân Darwin và Tiến hóa tổng
hợp với khái niệm gen, đột biến gen và đi truyền học quân thẻ.
Quá trình nhân hóa là một chặng đường dài của tiễn hóa
trong họ người với các hominid để xuất hiện một nhánh duy
nhất dẫn đến hình thành con người qua sơ đồ: những dạng hóa
thạch họ người, tổ tiên trực tiếp của con người, quá trình phát
'triển của giống người: từ người khéo léo đến người thẳng đứng,
người cỗ Xapiên đến người Xapiên hiện đại. Cùng với quá trình
tiến hóa về mặt sinh học là quá trình sáng tạo văn hóa và tổ chức
Quá trình nhân hóa bắt đầu từ một đặc trưng cơ bản của sinh
chế tiến hóa là do đột biến gen đi truyền đưới tác động của năng
lượng vũ trụ và sau đó là vai trò của lao động trong quả trình
Tắt cả nhân loại' “hiện nay đều: thuộc một loài thống nhất là
loài người với Các chủng tộc ở các cấp độ khác nhau: đại chủng,
tiểu chủng và các nhóm chuyện tiếp với bốn đại chúng và ba hợp
nhóm chuyển tiếp với các đặc điệm khác nhau theo sự phân loại
hiện nay
Sự biệt lập của các quần thể kéo dài hàng vạn năm, sự thích
nghi với điều kiện sinh sống cùng với vai trò của chọn lọc tự
nhiên là những yếu tố dẫn đến sự hình thành các chủng tộc.
Đủ có quan niệm khác nhau về sự phân chia chủng tộc về
mặt sinh học thì trong các nền văn hóa khác nhau có liên quan
đến sự phân biệt chúng tộc. Học thuyết phân biệt chủng tộc đã
phân chia loài người thành các chủng tộc thượng đẳng và hạ
đẳng là hết sức sai lầm về mặt khoa học và phản động về mặt
chính trị cần được phê phán để bảo vệ quyền bình đẳng giữa các
98
Chương 3
Nghiên cứu về các dân tộc/tộc người, văn hóa các dân
tộc/tộc người là vấn đề then chốt trong việc phân định tộc người
và nhận biết các tộc người ở Việt Nam cũng như trên thế giới để
từ đó có những nhiệm vụ thủ trong việc góp phần phát triển tộc
người. Nội đung của chương này cung cấp những vấn đề cơ bản
về các vấn đề liên quan đến tộc người như các khái niệm, các
tiêu chí, các động thái của quá trình tộc người như phân li, hội
tụ,... Ngoài ra, còn đề cập một số vẫn để thực tiễn liên quan đến
các tộc người ở Việt Nam để minh họa cho một số vấn đề mang
tính lí thuyết của chương, giúp người học hiểu rõ hơn các vấn đề
1. TỘC NGƯỜI
_ Trong các tài liệu khoa học, tài liệu chính trị - xã hội và các
sách báo đại chúng, chúng ta thường gặp các từ như dân tộc Êđê,
đân tộc Chăm, dân tộc Việt Nam, các dân tộc thiểu số, đân tộc
đa số, các sắc tộc Thượng,... Trong nhiều trường hợp, nội hàm
của các khái niệm không được xác định rõ ràng gây khó khăn
cho người đọc. Thực ra, không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều nước
trên thế giới cũng gặp phải tình trạng tương tự. Những thành tựu
của nhân học khi nghiên cứu về các dân tộc trên thế giới kể từ
sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay đã đần làm rõ các khái
niệm này.
Liên quan đến vấn đề trên có ba thuật ngữ được sử dụng như
đân tộc (nation), tộc người (ethnic - tiếng Anh, efhnos — tiếng
Pháp), dân tộc/tộc người thiểu số (ethnic minority).
99
1.1.1. Khái niệm dân tộc: Khái niệm dân tộc ở nước ta từ lâu
được dùng với hai nghĩa: 1) Khi nói đán độc Kinh (ViệU, dân tộc
Tày, đần tộc Khmer,...từ đớn tộc được hiểu là một cộng đồng
người cùng sử dụng một ngôn ngữ, cùng biểu hiện một văn hóa,
và có tên gọi riêng (tộc danh) cho công đồng người này. 2) Khi
nói đán tộc Việt Nam, dân tộc Pháp, dân tộc Mỹ,... lúc này từ
dân tộc được hiểu là tổng thể các cộng đồng người sống trong
quốc gia đó, không phân biệt giữa. cộng đồng người này với
cộng đồng. người khác. Họ cùng sống chung trong một quốc gia,
với thể chế chính trị nhất định trong quốc gia đó, có Cương vực
lãnh thổ quốc gia, có ngôn ngữ giao tiếp chung trong quốc gia,
đang sống. Lúc này, khái niệm đân độc mang nghĩa rộng, nghĩa
Như vậy, khái nệm dân tộc có hai nghĩa: rộng và hẹp.
Nghĩa rộng mang hàm ý quốc gia dân tộc, đề cập đến cộng đồng
chung sống trong một quốc gia cụ thể, không phân biệt ngôn
ngữ, văn hóa, tộc danh. Nghĩa hẹp mang hàm ý của từng cộng
đồng người cụ thể, có tên gọi riêng, có ngôn ngữ riêng và văn
hóa riêng. Nghĩa hẹp này đồng nghĩa với khái niệm ¿ôc người.
Theo 7? điển nhân học của Thomas Barfeld xuất bản năm
1998, tộc người (ethmc) là một trong những thuật ngữ được
dùng lần đầu tiên trong nhân học, nhằm chỉ một cộng đồng
người trong cùng một xã hội, chia sẻ cùng một nền văn hóa và
đặc biệt, cùng một ngôn ngữ (văn hóa và ngôn ngữ của tộc
người được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác).
một nhóm cá nhân liên kết với nhau bởi một phức hợp các tính
chất chung — về mặt nhân chủng, chính trị - lịch sử,... Sự kết
hợp đó làm thành một hệ thống riêng, một cơ cấu mang tính văn
100
hóa là chủ yếu, gọi là nền văn hóa. Như thế, khái niệm tộc người
ở Pháp được xem là một tập thể hay đúng hơn là một cộng đồng
được hiểu là một tổng hợp bên vững nhiều thể hệ của những con
người được hình thành mạng tính lịch sử trên một lãnh thổ nhất
định có những đặc điểm chung tương đối bền vững về văn hóa
cũng như sự khác nhau của họ đối với các tộc người khác (ý
thức tự giác) được biểu hiện với một tên gọi (tộc danh)”. Tuy
nhiên, cũng có thể thấy rằng, với tư cách là điều kiện quan trọng
tham gia vào quá trình hình thành tộc người, tính toàn vẹn của
lãnh thổ tộc người không phải là nhân tố nhất thiết phải có để tái
sản xuất mọi mặt của nó; ngôn ngữ cũng không trùng với tộc
người, còn những đặc điểm văn hóa đóng vai trò tộc người chỉ
khi bản thân nó tự nhận thức được. Chỉ có ý thức tự giác tộc
người và tên tự gọi tộc người có mỗi quan hệ vững chắc với
nhau được thừa nhận là những đấu hiệu tộc người tuyệt đối cần.
thiết. Các yếu tố khác như chúng tộc, quốc gia thì nhiều cộng
đồng người cùng chung chủng tộc và cùng sống trong một quốc
gia, nhưng lại tộc người và ngược lại một tộc người có thể cư trú
trên nhiều quốc gia khác nhau; nên không thể xem chủng tộc,
Vận dụng những thành tựu nghiên cứu về tộc người trên thế
giới và căn cứ vào đặc thù về lịch sử các tộc người, các nhà Dân
__ tộc học/Nhân học ở Việt Nam đã đưa ra định nghĩa về tộc người
. nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu dân tộc, nhân học nói
chung và xác mỉnh thành phần dân tộc nói riêng. Theo đó, ¿Ốc
người là một tập đoàn người Ôn định hoặc tương đỗi Ôn định
Viện thông tin khoa học xã hội (1995), Tốc người và xưng đội tộc người trên thể
101
được hình thành trong lịch sử, dựa trên những mỗi liên hệ
chung về ngôn ngữ, sinh hoạt văn hóa và ý thức tự giác dân
tộc thỄ hiện bằng một tộc danh chung”. Theo cách hiểu này,
khải niệm lộc người động nghĩa với nghĩa ạp của khái niệm
hiện đầu tiên ở phương Tây vào thế kỷ 19, khi chủ nghĩa thực
dân bành trướng sang các nước chậm phát triển để mở rộng
thuộc địa khiến cho một số dân tộc nhỏ ở nhiều nơi rơi vào tình
người lạc hậu, chậm tiến, có địa vị thấp, khác biệt về nòi giống,
ngôn ngữ, tôn giáo. Theo quan điểm này, vào năm 1945 Louis
nghĩa, tộc người thiểu số là nhóm người do có một số nét đặc thù
về ngoại hình, thể chất hay văn hóa, bị đối xử khác biệt, bất bình
đẳng so với các thành viên khác của xã hội và do đó tự coi mình
Trong bộ Bách khoa từ điển các dân tộc Mỹ xuất bản năm
1962, khái niệm tộc người thiểu số được định nghĩa là nhóm
TEưƯời có những đặc điểm riêng về nhân chúng, tôn giáo, xã hội
Theo các định nghĩa trên, nội hàm của khái niệm tộc người .
thiểu số được nhân mạnh đến yếu tố chủng tộc (race), và thường
mang tính kỳ thị chủng tộc vì so sánh sự khác biệt về hình thể
với tộc người được xem là đa số. Đề khắc phục sự kỳ thị của của
các định nghĩa về tộc người thiểu số nêu trên, trong những thập
niên gần đây xuất hiện những định nghĩa về khái niệm này theo
? Phan Hữu Dật (cb) (2001), My vấn đề lÿ luận và thục tiễn cấp bách liên quan
đến mỗi quan hệ dân tộc hiện nay (sách tham khảo). NXĐ Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr.11.
HƯỚN ,
Năm 1982, nhằm góp phần giải quyết vấn đề tộc người
đang có nguy cơ bùng nỗ trên thế giới, Tiểu ban đặc biệt về
chống nạn phân biệt chủng tộc và bảo vệ các dân tộc của Liên
Hiệp Quốc đã đưa ra định nghĩa về tộc người thiểu số. Theo
diện mạo văn hóa riêng; tôn tại và phát triển trên phân lãnh
thổ thường là cách biệt với các vùng trung tâm cho đến trước
khi bị xâm nhập bởi các xã hội từ bên ngoài. Họ tốn tại như
của sự phát triển [UNDP: 1999]. Ngân hàng phát triển châu Á
có đặc điểm xã hội, văn hóa khác biệt với các dân tộc ãa số
khác. Các đặc điểm này làm cho họ bất lợi trong quá trình
phát triển của mình [ADB: 1999]. Ngân hàng Thế giới (WB)
cũng đề cập tới khái niệm tộc người thiểu số /à các công đồng
người có những đặc điểm riêng biệt liên quan tới tính gắn bó
với đất đai của tổ tiên, với các thiết chế xã hội truyền thông,
sản xuất tự Cung tự cấp, có ngôn ngữ, nhân dạng, bản sắc xã
Từ các định nghĩa này cho thấy, nội hàm của khái niệm tộc
nhắn mạnh đến vấn đề kinh tế, địa vị xã hội trong quốc gia đa
dân tộc. Theo các định nghĩa này, các tộc người thiểu số thường
tốn thương bởi những thay đổi do các dự án phát triển gây ra.
Ở Việt Nam, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước hiện
nay, với chủ trương, đường lối của Đảng về vẫn đề dân tộc, cách
hiểu về dân tộc/tộc người thiểu số khác với nội hàm của các định
103
Năm 1988, Viện Ngôn ngữ xuất bản quyển 7Ð điển tiếng
Việt, trong đó đưa ra định nghĩa ngắn gọn về dân tộc/tộc người
thiểu số. Theo đó, dân tộc thiểu số là dân tộc chiếm số dân ít so
với dân tộc chiếm số dân đông nhất trong một nước nhiều dân
tộc. Theo cách hiểu này, ở Việt Nam trừ người Kinh (Việp là
dân tộc đa số, các dân tộc còn lại được hiểu là dân tộc thiểu số.
Nội hàm của khái niệm này rất khác so với các khái niệm trước
đó, vì chỉ đề cập đến dân số của từng tộc người; không đề cập
Sau đó, khái niệm tộc người thiểu số ở Việt Nam được trình
bày đầy đủ hơn trong bộ 7 điển Bách khoa Việt Nam được xuất
bản vào năm 1995. Theo bộ từ điển này, dân tộc thiểu số được
hiểu là dân tộc có dân số Ít, cư trú trong một quốc gia thống
nhất đa dân tộc, trong đó có một dân tộc chiếm dân số đồng”.
Trong quốc gia có nhiều thành phân dân lộc, mỗi dân tộc thành
dân tộc mình. Các dân tộc thiểu số có thể cư trú tập trung hoặc
rải rác, xen kế nhau, thường ở nhưng vùng ngoại vi, vàng hẻo
lánh, vùng điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn khó khăn, vì
vậy Nhà nước tiễn bộ thường thực biện chính sách bình đẳng
dân tộc nhằm xóa bỏ những chênh lệch trong sự phát triển kinh
tế - xố hội giữa các dân tộc đông người và các dân tộc thiểu số.
Bên cạnh các khái niệm trên, còn có một số khái riệm khác
liên quan đến tộc người như sắc tộc, tộc người bản địa, dân lộc
thiểu số Ít người...
Ở miền Nam, trước năm 1975 thuật ngữ sắc tộc dùng trong
các văn bản hành chánh nhà nước, với hàm nghĩa chỉ các tộc
Dân tộc chiếm số dân đông cũng được xem là dân lộc đa số. Tại Khoản 3, Điều 4
~ Nghị định số 05/2011/NÐ - CP của Chính phủ về công tác dân tộc, khái niệm
đân tộc đa số được giải thích là dân tộc có số dân chiếm trên 5094 tổng dân số
104
máy hành chính nhà nước có Nø phát triển sắc tộc và Hội đồng
sắc tộc để phụ trách những vấn đề liên quan đến các tộc người
thiểu số. Sau khi năm 1975, khái niệm này không được sử dụng
people) được đưa ra trong Điều I Công ước 169 của Tổ chức
Lao động Quốc tế (ILO). Khái niệm này có nội hàm là những
tộc người trong các quốc gia độc lập được đề cập như là những
người bản địa, trên cơ sở xem xét riguồn gốc của các cộng đồng
.đân cư ở quốc gia đó, hoặc trên cơ sở khu vực địa lí quốc gia đó
phụ thuộc vào mà ở thời điểm sự xâm chiếm, thuộc địa hóa hay
việc thiết lập đường biên giới hiện tại của quốc gia đó, họ là
những người cho dù có địa vị pháp lí như thế nào, đã duy trì
được một số hoặc tất cả các thể chế về chính trị, văn hóa, kinh tế
Khái niệm tộc người thiểu số rất ít người cũng được giải
Chính phủ về Công, tác đân tộc là dân tộc thiểu số rất ít người là
Căn cứ vào khái niệm /ôc người do các nhà Dân Tộc
học/Nhân học ở Việt Nam đưa ra, để xác định tộc người, cần có
biệt giữa tộc người này với tộc người khác. Ba tiêu chí đó là:
Ngôn ngữ được xem là đấu hiệu cơ bản để xem xét sự tồn
tại của một tộc người và đề phân biệt giữa tôc người này với tộc
người khác; và là phương tiện giao tiếp cơ bản của tộc người.
Vì thế, không phải ngẫu nhiên trong nhiều tài liệu khoa học,
trong khi xác định tiêu chí tộc người, ngôn ngữ được đặt ở vị trí
105
đầu tiên. Mỗi ngôn ngữ đều có vốn từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm
riêng: và trở thành một hệ thống được dùngtrong giao tiếp của
tộc người. Vì thế, trong lịch sử, những người không cùng tộc
người sẽ khó giao tiếp với nhau vì không cùng ngôn ngữ. Ngôn
ngữ còn đóng vai trò quan trọng trong việc cố kết nội bộ cộng
đồng tộc người, bởi. ngôn ngữ không những thể hiện thành phần
tộc người mnà còn thể hiện cá tình cảm tỘc người.
Ngôn ngữ còn là phương tiện để phát triển những hình thái
văn hóa tỉnh thần như: văn học, nghệ thuật, giáo đục. Tất cả
được phản ánh qua những lời thơ, tiếng hát, bài văn, những
đến những luật lệ. Ngôn ngữ còn được phản ánh vào những bài
thuốc dân tộc, những bí truyền nghề nghiệp, những luân lí, đạo
đức, triết học,... được truyền miệng hay ghỉ lại bằng văn tự,
Đối với các thành viên trong một tộc người, ngôn ngữ
(tiếng mẹ đẻ) không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn là vật
chuyển tải nền văn hóa độc đáo của tộc người, tình cảm và giá
trị của tộc người; và còn là thứ hành trang được truyền miệng
qua hàng bao thế kỷ và được gia tăng qua các thế hệ. Tiếng mẹ
. để chính do dân tộc đó sáng tạo ra được mọi người tiếp thu, sử
dụng từ thuở ấu thơ nên đễ dàng biểu hiện những nét tế nhị nhất
trong tâm hồn của con người. Tác dụng gợi cảm của tiếng mẹ đẻ
vô cùng nhạy bén, đôi khi người ta hiểu nhau chỉ bằng nửa lời.
là đặc trưng tộc người không thể thiếu được và là tiêu chuẩn để
' xác định tộc người,
Tuy nhiên, khi xem ngôn ngữ là đặc trưng tộc người và là
tiêu chí để xác định thành phần tộc người, thì vẫn còn những
ngoại lệ, như có những tộc người đã mất ngôn ngữ mẹ đẻ, sử
ngôn ngữ là tiếng Thái hoặc tiếng Khơ Mú. Hoặc, một bộ phận
106
Bên cạnh đó, một thực tế thường thấy là có nhiều tộc người
vốn là những tộc người độc lập cùng sử dụng chung một ngôn
nhiều tộc người khác như người Scotland, người Oxntơ ở Bắc
Ireland, người Mỹ, ... cũng sử dụng. Hoặc ngôn ngữ Tây Ban
Nha, ngoài người Tây Ban Nha còn có đại đa số các tộc người ở
ngôn ngữ Bồ Đào Nha, ngoài người Bồ Đào Nha còn có người
Rập được sử dụng rộng rãi trong các tộc người Arab cư trú ở
số tộc người mà các nhóm riêng biệt của nó lại nói những thứ
tiếng khác nhau. Chẳng hạn, hiện nay tuyệt đại đa số người
Scotland xem ngôn ngữ Anh là tiếng phổ thông, song ở vùng núi
Scotland vẫn còn những nhóm nhỏ cư dân tự cho mình là người
Scotland dùng ngôn ngữ riêng biệt của họ. Điều này phổ biến
trong các quốc gia đa tộc người. Hiện tượng song ngữ đa ngữ
xuất hiện trong một tộc người là do sự chi phối của quá trình tộc
người theo hướng giao lưu, hội nhập. Tình trạng này khá phổ
Ở Việt Nam có tộc người Cao Lan — Sán Chỉ, ngôn ngữ của
nhóm Cao Lan thuộc ngôn ngữ Tày — Thái, còn tiếng Sản Chỉ lại
thuộc ngôn ngữ Hán. Khu vực miền núi Thanh- Nghệ là vùng đa
dân tộc, trong đó người 'Thái là dân tộc đông nhất và có trình độ
phát triển kinh tế-xã hội cao hơn các dân tộc khác. Vì thế, tiếng
Thái dần dần trở thành ngôn ngữ giao tiếp chung của các dân tộc
trong vùng như người Khmú, Laha, Hmông, Kháng v.v... Ở Việt
Bắc, ngôn ngữ Tày-Nùng trở thành ngôn ngữ giao tiếp chung
của các dân tộc trong vùng bên cạnh tiếng nói riêng của họ. Ở
- Tây Nguyên, tiếng Êđê, Giarai được nhiều tộc người tại chỗ
107
Như vậy, rõ ràng có nhiều ngôn ngữ là tiếng nói chung
không phải chỉ một tộc người mà của nhiều tộc người sử dụng.
Ranh giới phân cư của nhiều tộc người riêng biệt và phân bố
ngôn ngữ không phải lúc nào cũng trùng nhau. Vì vậy, dù ngôn
ngữ là tiêu chí quan trọng để xác định tộc người, nhưng không
thể cho rằng nó là dấu hiệu đặc trưng duy nhất mà cần phải kết
Văn hóa được xem là tiêu chí quan trọng để xác định tộc
người. Trong nghiên cứu văn hóa cần phân biệt văn hóa của tộc
người và văn hóa tộc người. Văn hóa của tộc người là tông thể
những thành tựu văn hóa thuộc về tộc người nào đó, do tộc
người đó sáng tạo ra hay tiếp thu Vay mượn của các tộc người
khác trong quá trình lịch sử. Còn uăn hóa ộc người được hiểu là
bao gồm tổng thể những yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể
giúp cho. việc phân biệt tộc người này và tộc người khác. Văn
hóa tộc người là tổng thể những yếu tế văn hóa mang - tính đặc
trưng và đặc thù tộc người, nó thực hiện chức năng cố kết tộc
người làm cho tộc người này khác với tộc người khác. Tổng thể
những đặc điểm sinh hoạt tộc người làm thành cái mà chúng ta
thường gọi là “truyền thống tộc người”. Những truyền thống này
được hình thành lâu dài trong lịch sử gắn liền với hoàn cánh
kinh tế, xã hội và môi trường địa lí tự nhiên trong đời sống của
từng dân tộc, nhưng sau khi xuắt hiện chúng trở nên bền vững và
được duy trì lâu dài, thậm chí ngay sau khi hoàn cảnh sống của
tộc người đã thay đổi mạnh mẽ. Chính văn hóa tộc người là nền
định một cách rạch ròi văn hóa của tộc người và văn hóa tộc
nhập từ bên ngoài vào trong quá trình tiếp biến văn hóa, nó được
bản địa hóa và trở thành văn hóa tộc người, mang sắc thái tộc
108
người. Việc tìm ra những đặc điểm văn hóa mang sắc thái tộc
người là việc làm hết sức khó khăn và phức tạp. Bởi lẽ có nhiều
yếu tố văn hóa giống nhau ở các dân tộc. Ví dụ, canh tác lúa
nước, ở nhà sàn, ăn cơm gạo té, tổ chức lễ hội nông nghiệp,... là
những yếu tố văn hóa phổ biến của các tộc người ở khu vực
Đông Nam Á. Để tìm ra những đặc điểm văn hóa tộc người, cần
phải tiến hành so sánh đối chiếu xuyên văn hóa nhằm phát hiện
ra những nét trơng đồng và đị biệt trong văn hóa. Nếu so sánh
sắc thái văn hóa Việt và Hán cho thấy người Việt ăn cơm, người
Hán phương Bắc xưa kia ăn mì, mạch, kê, cao lương, những thứ
lương thực ruộng khô, người Việt chế biến thực phẩm bằng cách
nướng, luộc, kho, trong khi người Hán phổ biến cách chiên, xào
có nhiều đầu mỡ. Người Hán mặc áo cài khuy trái qua nách bên
phải trong khi người Việt cài khuy trước ngực. Phụ nữ Việt mặc
Trong quá trình phát triển của lịch sử, đo quy luật lịch đại và
đồng đại chỉ phối, mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa giữa
các tộc người càng được đẩy mạnh, giao lưu tiếp xúc văn hóa
giữa các tộc người diễn ra ngày càng lớn. Cho đến hiện nay,
không một tộc người nào trên thế giới còn sống riêng rẽ, biệt lập
mà luôn chịu tác động, chỉ phối của các tộc người khác; đặc biệt
ở các tộc người có số lượng cư dân ít, trình độ phát triển kinh tế,
xã hội thấp hơn. Hiện tượng này thường thấy ở các tộc người
sống kề cạnh nhau trên một lãnh thổ, những tộc người nhỏ '
thường bị đồng hóa về mặt ngôn ngữ chuyển sang tiếng nói của
tộc người khác, nhưng họ vẫn bảo lưu những yếu tế văn hóa đặc
thù của tộc người họ. Chẳng hạn, ở vùng Tây Bắc nước Nga, ở
chặt chế với người Nga, nói tiếng Nga nhưng vẫn bảo lưu một số
đặc điểm có tính đặc thù về văn hóa (nhà cửa, ăn uống, sáng tác
dân gian,...) của tộc người họ. Họ có ý thức là tộc người riêng,
không phải người Nga. Ở Trung Quốc, người Hán và người Hồi
109
sống xen kẽ ở các vũng khác nhau và người Hồi đã chuyển sang.
nói tiếng Hán, thế nhưng giữa họ có sự khác nhau về đặc điểm
Nếu tộc TIgười mất đi đặc điểm văn hóa của tộc người mình,
sẽ khó được xem là một tộc người riêng biệt. Quá trình bị đồng
hóa về mặt ngôn ngữ và văn hóa có khả năng dẫn tới các tộc
người sẽ mất đi và hòa vào một tộc người khác lớn hơn. Ví dụ,
người La Chí ở bản Déo với hơn 1.200 người đã quên tiếng mẹ
đẻ và sống theo phong tục, tập quán, mưu sinh như người Tày,
nên đôi khi họ bị gọi là La Chí Tày. Những trường hợp như vậy
Không gian văn hóa của một tộc người được xác định bởi
. tập hợp những hệ thống quan hệ đặt trưng cho một nhóm người
(ngôn ngữ, vùng tụ cư, chủng tộc, văn hóa tộc người, ý thức tự
văn hóa của những tộc người sống gần nhau nhưng khác nhau là
do nguyên nhân khách quan của lịch sử đã tạo nên những đặc
tính và cách thức phát triển khác nhau giữa những tộc người. Sự
khác biệt này còn mang đặc tính nhân tạo do quan điểm và cách
Như vậy, chính đặc thù văn-hóa tộc người cần được xem xét
như là dấu hiệu tồn tại cơ bản của bất kỳ một tộc người nào, nó
cho phép trong mỗi trường hợp phân biệt tộc người này với tộc
người khác. Thậm chí, ngay cả ngôn ngữ được coi là yếu tố chủ
yếu để phân định tộc người cũng phải liên kết chặt chẽ với nền
văn hóa tộc người nói ngôn ngữ đó. Do bởi, Người ta thường gọi
ngôn ngữ là hình thức tồn tại của văn hóa và xem ngôn ngữ là
Cùng với ngôn ngữ, văn hóa thì ý thức tự giác tộc người
cũng được xem là tiêu chí đê xác định tộc người. Một tộc người
110
hình thành và tổn tại trong lịch sử là một hiện tượng xã hội, do
vậy ý thức tộc người là một trong những yếu tổ vô cùng quan
trọng khi xác định một tộc người hay một nhóm người thuộc về
tộc người nhất định được thể hiện qua các loạt yếu tố: sử dụng
một tên gọi tộc người chung thống nhất, có ý niệm chung về
nguồn gốc lịch sử, huyền thọai về tổ tiên và vận mệnh lịch sử
của tộc người. Ý thức đó được thể hiện trong những đặc điểm
__ văn hóa, cùng nhau tuân thủ theo những phong tục, tập quán, lỗi
sống của tộc người. Nếu như ngôn ngữ và văn hóa của tộc người
dễ biến đổi đo tác động của quá trình giao lưu hội nhập văn hóa
thì ý thức tự giác tộc người đường như bền vững và ít thay đổi
hơn. Ý thức tự giác tộc người trước hết thể hiện ở tên gọi (tộc
danh). Một tộc người được hình thành có nhu cầu tự đặt cho
mình một tên gọi riêng. Tên gọi đó biểu thị sự thống nhất của
Tên gọi của tộc người có thể là tên tự gọi, do các thành viên
gọi mình với cái tên gọi này để chỉ mình là người làm ruộng lâu
đời (Tày biến âm từ chữ Thay nghĩa là cái cày dùng để cày
ruộng). Lòng tự hào về tộc người được thể hiện qua tên gọi, có
tác dụng củng cố thêm ý thức tộc người. Vì vậy họ không thể
chấp nhận những tên gọi miệt thị mà các tộc người khác đặt cho
họ: như Xá, Mán, Mọi, Tày Hãy (người rách rưới) dành cho
người Tày; hoặc người Chăm không chấp nhận tên gọi Chàm, vì
do tộc người khác đặt cho với hàm ý miệt thị.
_ Cùng với tên gọi, các thành viên trong cùng tộc người đều
có ý thức về nguồn gốc lịch sử của tộc người mình và của cá bản
thân mình. Chính vì thế; dù cư trú biệt lập và sống cách xa nhau,
họ vẫn nhớ về lai lịch gốc của họ. Người Mỹ hiện nay bao gồm
11
nhiều nhóm người có nguồn gốc khác nhau, mặc dù đi cư đến
Mỹ hàng trăm năm nhưng trong số họ vẫn nhớ về tộc gốc. Trong
cuộc sống hàng ngày, họ vẫn bảo lưu ngôn ngữ và tập quán sinh
hoạt của dân tộc. Vì thế hiện nay có khoáng 1/5 cư dân Mỹ có ý
thức tự giác tộc người nhị nguyên (hai mặt). Trong khi tự coi
mình là người Mỹ thì đồng thời họ vẫn nhớ về tộc gốc. Vì thế ở
Mỹ phổ biến cách gọi người Mỹ gốc Anh, gốc Do Thái, gắc Ý,
Ý thức tự giác tộc người còn thể hiện ở cộng đồng tỉnh thần
tộc người, cộng đồng ký ức về nguồn gốc và lịch sử của dân tộc
qua huyền thoại và lịch sử, cộng đồng các giá trị và biểu tượng
Người Tày ở Cao Bằng nhớ về nguồn gốc dân tộc qua
truyền thuyết Pú Luông — Già Cải, Câu chủa cheng vùa, truyện
Nùng Trí Cao. Tộc người Dao có truyền thuyết về Bàn Hồ. Tộc
coi hai thị tộc Cau và Dừa là tổ tiên của họ.:Người Việt có
truyện dã sử, truyện lịch sử được ghi nhớ trao truyền cho nhau
qua các thế hệ hoặc được ghi chép lại, nhờ vậy ý thức tộc người
Tuy nhiên hiện nay, khi mà 1⁄2 dân số thế giới là con lai và
việc đi cư giữa các quốc gia có nhiều thuận lợi hơn trước thì
trường hợp một người xa đất nước vẫn tự giác nhận thuộc về nơi
“cha sinh mẹ để”, nhưng lại nhận quốc tịch theo đất nước cư trú
là phổ biến. Đến đời con, đời cháu của họ, khi mối quan hệ với
đất nước tố tiên phai mờ, họ có thể nhận mình thuộc hẳn về tộc
người, nơi cư trú, tất nhiên vẫn có những trường hợp ngoại lệ.
k Đặng Nghiêm Vạn (2009), Cộng động quốc gia dân tộc Việt Nam Đa tộc người,
112
Có những người bôn ba xa quê, trong dòng máu họ chỉ còn 1/4,
1/8 máu của ông bà, cụ kị, tiếng nói và phong cách sống cũng
không còn nhưng họ vẫn có ý thức là đứa con của “đất mẹ” vẫn
Như vậy, trong số các tiêu chí tộc người như ngôn ngữ, văn
hóa thì ý thức tự giác dân tộc có sức sống bền vững nhất. Vì
vậy, nó được xem là tiêu chí hàng đầu để xác định thành phần
- tộc người và cũng để phân biệt giữa tộc người này với tộc
người khác.
_ Lãnh thổ tộc người là khu vực phân bố của tộc người, là
.. biểu tượng quy định ranh giới giữa tộc người này với tộc người
khác. Thông thường một tộc người cư trú trên một phạm vi lãnh
thể nhất định. Lãnh thổ tộc người, trước hết như là điều kiện
___ hình thành tộc người và cùng với nó là điều kiện cho việc tái sản
nã xuất tộc người đâm bảo cho mối liên hệ ngôn ngữ, kinh tế, văn
hóa giữa các bộ phận của chúng. Điều kiện tự nhiên của lãnh thô
- tộc người còn ảnh hưởng đến đời sống con người ghi đấu ấn
... trong hoạt động kinh tế, văn hóa và tâm lí.
__ Có thể nói, lãnh thổ tộc người là cái nôi đầu tiên hình thành
nên tộc người, là điều kiện bắt buộc của sự xuất hiện bất kỳ tộc
người nào. Dĩ nhiên, lãnh thổ tộc người là phạm trù lịch sử, nó
.› eó thể mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí biến mất hoặc có thể
Số Có những tộc người mở rộng lãnh thổ của mình trong quá
trình tồn tại. Chẳng hạn người Nga vào đầu thế kỷ XH đã tách
khỏi tộc người Nga cỗ phân bố tộng rãi ở miền Tây và miễn
Đăng Nghiêm Vạn (2009), Công đồng quốc gia dân tộc Việt Nam Đa tộc người,
_ sđđ, tr.73. l `
113
Nam Đông Âu. Người Nga không ngừng mở rộng lãnh thể tới
phía lây. Ở phương Nam họ vươn tới vùng Caucasus. Đặc biệt,
người Nga đã vươn mạnh mẽ về phía Đông, vượt dãy núi Uran
đến vùng Siberi. Hoặc, người Hán cư trú ở trung tâm địa bàn
lãnh thổ lên phía Bắc, phía Tây, đi cư ồ ạt xuống phía Nam sông
Dương Tử tới sát Việt Nam hiện nay. Hay, cái nôi của người
Việt là trung du và đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Mã,
mất đi do hậu quả của các cuộc chiến tranh hủy điệt. Như
trong thời kỳ cận đại, hàng loạt các tộc người ở châu Phi, châu
Úc, châu Á,... bị các đế quốc thực dân xâm chiếm, có những
tộc người bị mất đi lãnh thổ của họ. Ví dụ, cư dân trên đảo
Taxmani ở phía Nam nước Úc bị thực đân Anh tiêu điệt hoàn
toàn. Các bộ phận khác của thổ dân Úc cũng bị xua đuổi, bị
tiêu điệt chạy lên phía Bắc là vùng xa xôi hẻo lánh, khí hậu
tương tự từ đầu thế kỷ XVI, khi lãnh thổ tộc người của họ bị
Có trường hợp một số tộc người đã hình thành trên một lãnh
thổ nhất định, sau đó phải rời bỏ hoàn toàn hoặc một phần lãnh
thổ để di cư đến các nơi khác nhau. Điển hình là người Do Thái. :
Từ cuối thế ký thứ II đến thế kỷ thứ I trước CN, vùng Palestine
hiện nay là cái nôi tộc người Do Thái. Do hậu quả của các cuộc
chiến tranh xâm lược của người Ai Cập, bộ phận lớn người Do
Thái đã rời bỏ lãnh thổ, cư trú rải rác trong đế chế La Mã.
Những thế kỷ sau này, người Do Thái sống thành từng nhóm
nhỏ rải rác ở châu Âu, Bắc Phi,... Vào cuối thế kỷ XIX, trong
giai cấp tư sản Israel ở các nước châu Âu xuất hiện khuynh
hướng dân tộc chủ nghĩa, tuyên bố mục đích muốn chuyên cư tất
114
cả những người Do Thái trên thế giới về lại Palestine. Theo
quyết định của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 29/11/1947,
sẽ thành lập trên lãnh thổ Palestine hai nhà nước độc lập: quốc
gia của người Do Thái và quốc gia của người Á Rập. Ngày
14/7/1948 nhà nước Israel của người Do Thái ra đời, còn nhà
nước của người Ả Rập là Palestine vẫn đang trong giai đoạn
thiết lập. Trong các cuộc chiến tranh sau này, quốc gia Israel đã
chiếm lại phần lãnh thổ của cho nhà nước Palestine. Đó cũng là
nguyên nhân dẫn đến tình hình căng thắng ở khu vực này kéo
Ở Việt Nam phần đông các tộc người thiểu số ở phía Bắc là
bộ phận của các tộc người ở phía Nam Trung Quốc di cư sang.
Tại đây họ đã cư trủ xen cài, phân tán với các tộc người tại chỗ
trong một xã, một bản. Tình trạng cư trú đan xen nhau trên một
vùng là hiện tượng phổ biến ở Việt Nam. Ở Tây Nguyên hiện
nay có hiện tượng cư trú đan xen giữa các dân tộc tại chỗ với
người Kinh và các dân tộc thà. số phía Bắc đi cư vào từ năm
sau 1975. Ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện tượng cư trú đan
Chính do sự sống xen kẻ giữa các tộc người trong quá trình
biến đổi lãnh thộ tộc người đã dẫn đến những biến đổi về văn
hóa, ngôn ngữ của tộc người. Điều đó, tác động lâu dẫn sẽ dẫn
đến thay đổi tộc người; nhưng những tộc người đã bị mất ngôn
ngữ mẹ đẻ, hoặc văn hóa tộc người biến đổi do quá trình giao
lưu tiếp biến văn hóa giữa các tộc người trong cùng khu vực.
Như vậy, lãnh thổ tộc người là yếu tố đóng vai trò quan
trọng trong buổi đầu hình thành tộc người. Nhưng sự biến đổi
lãnh thổ tộc người sẽ có tác động làm thay đổi yếu tố tộc người.
Cơ sở kinh tế đóng vai trò quan trọng đối với sự hình thành
và phát triển của các tộc người. Tuy nhiên nó không phải là yêu
115
tố bất buộc để xác định tộc người, mà chỉ là nhân tố tác động
Một điều hiển nhiên là khi một tộc người dù lớn hoặc nhỏ
được hình thành, điều cần thiết phải sống lâu dài trên một lãnh
thổ và phải tiễn hành hoạt động kinh tế để duy trì cuộc sống của
cộng đồng. Các thành viên trong cộng đồng đều có liên hệ với
nhau về kinh tế. Những hoạt động kinh tế đầu tiên của con người -
có thể là săn bắt — hái lượm, đánh bắt cá,... nhằm để duy trì sự
tồn tại của tộc người. Các tộc người luôn có những lãnh thổ
riêng để hoạt động kinh tế, dưới phương thức chiếm đoạt tự
nhiên là chủ yếu ở giai đoạn đầu. Sau đó, có sự phát triển lên.
trong quá trình giao lưu tộc người như trao đổi hiện vật giữa các
tập thể cũng như cá nhân. Điều đó chứng tỏ, phát triển các mối
quan trong kinh tế là điều kiện sống còn của tộc người và cũng
Sinh hoạt kinh tế của từng tộc người phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế-xã hội và điều kiện địa lí tự nhiên, nhất là trong
các xã hội tiền tư bản. Phần lớn các xã hội tiền tư bản đã bước
sang kinh tế sản xuất nông nghiệp bằng sử dụng sức kéo động
Trong các xã hội công nghiệp do tác động của kinh tế thị
trường, mối liên hệ kinh tế được đây mạnh không chỉ trong
phạm vi của một tộc người mà các tộc người còn chịu sự chỉ
phối của nền kinh tế cả nước, kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, mối liên hệ kinh tế tộc người là vấn đề hết sức phức
tạp. Đối với tộc người vẫn duy trì được lãnh thổ của mình, hơn
nữa lại mở rộng được lãnh thổ, các nhóm trong tộc người này dễ
dàng liên hệ kinh tế với nhau tạo nên SỰ thống nhất tộc người
bền chặt. Những bộ phận tộc người sống xen kẽ bên cạnh những
người khác thì mối liên hệ kinh tế với tộc người bên cạnh nhiều
hơn là đối với những bộ phận tộc người gốc của mình cư trú xa
cách. Những bộ phận sống ngoài lãnh thổ của mình ở địa
116
phương xa trong một nước hoặc nước ngoài hầu như không còn
một trong những điều kiện cần phải có đối với sự xuất hiện của
một dân tộc, nhưng ngày nay nó không thể được xem là đặc
trưng của bất kỳ một tộc người nào. Nó chỉ có thể được xem là
_ Tính ổn định của tộc người gắn liền với hàng loạt các yếu
tố, trong đó nội hôn được hiểu như là việc kết hôn bên trong
nội bộ của tộc người đó có vai trò quan trọng trong việc bảo
dân tộc cho thấy những tộc người mà mật độ cư trú đậm đặc,
không gian cư trú kề cạnh nhau, sự khác biệt về tôn giáo, ngôn
ngữ và văn hóa không đáng kể, thì nội hôn trong phạm vi tộc
người chiếm tỉ lệ cao. Nội hôn tộc người đồng thời tạo nên
những gia đình đồng tộc đã đóng vai trò quan trọng trong sự cố
- kết, ôn định và bền vững của tộc người, vì nó đảm bảo việc thừa
kế giữa các thế hệ bằng việc chuyển giao thông tn văn hóa
truyền thống tộc người, góp phần tái sản xuất những nhân tố tộc
người. Ở Việt Nam, người Việt, người Tày, người Thái sống tập
trung, mật độ dân số cao, ít bị chia cách về mặt địa lí và lãnh thổ
nên nội hôn tộc người chiếm tỉ lệ cao hơn. Ngược lại các dân tộc
cư trú phân tán như người Dao, Nùng, các dân tộc thuộc nhóm
ngôn ngữ Môn — Khmer ở miền núi phía Bắc do sống xen kế với
_các dân tộc khác, hôn nhân hỗn hợp giữa các dân tộc đã diễn ra
dẫn tới quá trình đồng hoá tộc người cả về ngôn ngữ và văn hóa
Vì thế, nội hôn tộc người được xem là nhân tố quan trọng
giữ vững giá trị tộc người, làm cho tộc người ít bị biến đổi. Đây
117
không phải là tiêu chí để xác định tộc người, nhưng nó là yếu tố
quan trọng góp phân tái sản xuât tộc người tạo nên tính ổn định
Trong phân loại các cấp độ của tộc người có thể chia
thành hai cấp: cộng đồng tộc người thân thuộc (họ hàng) và
Cộng đồng tộc người thân thuộc còn được sử đụng bởi
những thuật ngữ khác nhau: cộng đông tộc người cùng nguồn
gốc hay cộng đồng ngôn ngữ - văn hóa. Bởi lẽ, cộng đồng tộc
người thân thuộc xét về mặt nguồn gốc lịch sử chúng có mối
quan hệ nguồn gốc với nhau và cho đến hiện nay các tộc người
này còn duy trì sự gần gỗi về ngôn ngữ và văn hóa.
Cộng đồng tộc người thân thuộc này có thể kế đến ba dân
nhau về mặt ngôn ngữ đến mức họ có thể nói chuyện trực tiếp
với nhau mà không cần người phiên dịch. Văn hóa của ba dân
tộc này có những nét tương đồng nhau. Bởi lẽ, ba đân tộc này có
cùng nguồn gốc từ cộng đồng người Nga cổ, sau đó phân chía
Ở Việt Nam, cộng đồng tộc người thân thuộc có thể thấy ở
các tộc người như Tày và Nùng vì họ là những tộc người có mỗi
quan hệ nguồn gốc với người Choang Đồng ở Nam Trung Quốc.
Trong quá trình tách khỏi cộng đồng gốc, tộc người Tày, Nùng
vẫn còn giữ những đặc điểm gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa,
nên thường gọi là tiếng Tày —- Nùng và văn hóa Tày — Nùng.
Dân tộc Thái ở Thái Lan, dân tộc Lào ở Lào, dân tộc Thái ở Việt
Nam, Trung Quốc vốn được tách ra từ cộng đồng Thái gốc ở
Nam Trung Quốc di cư đến các nước Đông Nam Á trong những
118
hoàn cảnh lịch sử khác nhau, nhưng nhìn chung vẫn giữ lại
những đặc điểm ngôn ngữ và văn hóa của cộng đồng gốc.
Khác với cộng đồng tộc người di cư, cộng đồng tộc người
thân thuộc của các đân tộc tại chỗ mang sắc thái riêng. Như,
cộng đồng tộc người thân thuộc của cư đân Môn - Khmer Bắc
Trường Sơn gồm các tộc người Bru — Vân Kiều, Tà Ôi, Catu cư
trú gần gũi nhau, sự khác biệt ngôn ngữ giữa họ không lớn, họ
vẫn thường xuyên nói chuyện đễ dàng với nhau và còn bảo lưu
những nét văn hóa chung thể hiện qua nhà ở, y phục, ăn uống,
Cũng vậy, các dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Đảo ở Trung Tây
Nguyên như Êđê, Gia rai, Raglai vốn là những tộc người thân
thuộc mà văn hóa của họ còn giữ lại những đặc điểm của chế độ
mẫu hệ trong hôn nhân, gia đình, dòng họ và những đặc trưng
Trong nghiên cứu và xác định thành phần dân tộc, việc phân
loại các tộc người trong cùng một cộng đồng tộc người thân
thuộc có ý nghĩa khoa học và thực tiễn rất lớn, do bởi có thể xác
định nguồn gốc tộc người và giải thích sự tương đồng về mặt
định, còn có những mối quan hệ về lịch sử, ngôn ngữ, văn
hóa và ý thức tự giác của mình về tộc người đó. Nhưng đồng
thời họ lại thấy sự cần thiết phải cố kết với nhau thành một
nhóm với những đặc điểm ngôn ngữ, văn hóa và có tên gọi
Ở các dân tộc Trường Sơn — Tây Nguyên, sự tồn tại của các
nhóm địa phương là kết quả của quá trình phát triển kinh tế - xã
hội đang ở thời kì tan rã của chế độ công xã nguyên thủy bước
sang xã hội có giai cấp và nhà nước trong những thời kỳ lịch sử
119
trước đây. Mặt khác, do quá trình đi cư nội bộ hoặc giao lưu tiếp
xúc với các dân tộc kể cạnh gần gũi về ngôn ngữ và văn hóa đã
hình thành các nhóm địa phương mà nhà nghiên cứu phải cố
gắng tìm ra lịch sử tộc người của họ qua truyền thuyết, huyền
ôi, Pacô, Pahi tỉ lệ từ vựng trong ngôn ngữ giống nhau đến 90 —
95%. Nhưng giữa các nhóm có sự khác biệt đôi chút về y phục,
phong tục tập quản. Nhóm Pacô phụ nữ mặc váy ngăn đến đầu
gối, trong lúc đó các nhóm khác phụ nữ mặc váy dài tới gót
chân; nhóm Pacô ở trên núi cao hơn và hình thức đại gia đình
Dân tộc Gia rai ở hai tỉnh Gia Lai v và Kon Tum có 5 nhóm
địa phương. Nhóm Gia rai Chor là nhóm gốc ở trung tâm và bảo
lưu nhiều đặc.điểm văn hoá điển hình của dân tộc. Nhóm Gia rai
Hđrung cư trú quanh ngọn núi Hđrung bảo lưu đặc điểm kiến
trúc nhà ở truyền thống của Gia rai. Nhóm Gia rai Aráp là nhóm
giáp ranh với dân tộc Ba Na nên chịu ảnh hưởng của văn hoá Ba
Na. Nhóm Gia rai Mthur sống kể cạnh người Ê đê một dân tộc
gần gũi về ngôn ngữ và văn hoá nên khó có thể phân biệt đâu là
đê, ở Gia Lai họ tự nhận là Gia rai. Còn nhóm Gia rai Thuăn cư
trú ở vùng biên giới Việt Nam ~ Campuchia trong ngôn ngữ của
họ có pha trộn tiếng Môn -Khmer và phong tục tập quán có một
phương là do kết quả của quá trình di cư, chuyển cư, sự tiếp xúc
kinh tế, văn hóa với các tộc người khác hay bị đồng hóa bởi
người khác tộc nảy sinh sự khác biệt trong nội bộ tộc người.
địa phương: Thái đen, Thái trắng, Tày Thanh, Hàng Tổng, Thổ
120
Đà Bắc. Các nhóm này lại phân chia thành từng nhóm nhỏ hơn.
Nhóm Thái Đen chia thành nhóm Tày Lò, Tày Muỗi; nhóm Thái
Trắng lại chia ra thành các nhóm Tày Mường Lay, Tày Quỳnh
Nói chung, nhóm địa phương là nhóm thuộc một tộc người
nhất định nào đó. Họ có cùng ngôn ngữ, văn hóa và tộc danh MỜI
một tộc người nhất định. Như có khác nhau đôi chút về tên gọi,
như các nhóm địa phương của người Thái là Thái trắng, Thái
đen,... nhưng bản chất vẫn mang tộc danh của tộc người chính.
của tỘc người hoặc cũng có thể do sự có kết của nhiều nhóm nhỏ
Quá trình tộc người là thuật ngữ mang hàm nghĩa về tiến
trình lịch sử của tộc người. Trong thực tiễn, quá trình tộc người
ghỉ nhận chủ yếu những sự thay đổi về tộc người; đặc biệt là đề
cập đến nguyên nhân hình thành nên các cộng đồng tộc người
thân thuộc hoặc các nhóm địa phương của tộc người. Có ba loại
hình cơ bản của quá trình tộc người: gu #ình tiến hóa tộc
người, quả trình phân ly lộc người và quá trình qui tụ lộc người.
Quá trình tiến hóa tộc người là sự phát triển các yếu tố về
kinh tế, văn hóa, xã hội, dân số,... của tộc người đó, làm cho tộc
người lớn hơn về qui mô, cao hơn trình độ kỹ thuật, trình độ học
Quá trình tiến hóa tộc người giúp làm phong phú thêm văn
hóa của các tộc người sống gần gũi nhau. Trước tiên, vai trò tích
cực thuộc về mối liên hệ đồng đại được thực hiện bởi sự đưa cái
mới vào bên trong tộc người và mang tính đại chúng nhất,
Nhưng suy cho cùng vai trò quyết định là mối quan hệ lịch đại vì
121
chỉ có sự chuyển giao cái mới giữa các thê hệ mới tạo nên tính
đỗi với thành tố bất kì nào của chức năng tộc người.
Quá trình phân ly tộc người được chia làm hai loại hình cơ
bản: guá trình chia nhỏ và quả trình chia tách. Quá trình chỉa
nhỏ đề cập đến một tộc người thống nhất được chia làm nhiều
bộ phận khác nhau, những bộ phận này trở thành những tộc
người mới trong quá trình phân chia. Quá trình chia tách đề cập
đến từ một bộ phận nhỏ của tộc người gốc nào đó được chia tách
Quá trình phân li tộc người là đặc điểm vốn có của xã hội
nguyên thủy. Dạng cơ bản của quá trình phân l¡ này là sự phân
chia của tộc người lạc do sự đông lên của các thành viên và sự
cạn kiệt của nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chính quá trình
khác nhau trên trái đất. Trong các xã hội có giai cấp, quá trình
sở cho sự xuất hiện của các tộc người khác nhau. Với sự xuất
hiện các quốc gia, biên giới chính trị đóng vai trò là nhân tố
phân li tộc người. Ví dụ, trong quá trình chia nhỏ tộc người
của người Nga cỗ đã hình thành ba tộc người thân thuộc: Nga,
Đông Nam Á, quá trình chia tách tộc người diễn ra khá phổ
Chứt; người Thái ở Vân Nam, Quí Châu Trung Quốc, các bộ
phận của họ trong quá trình di cư đến Lào, Thái Lan, Việt Nam
hình thành các tộc người Thái (ở Thái Lan), Lào (ở Lào) và Thái
(ở Việt Nam). Ngoài ra, cũng có những tộc người do quá trình di
cư đến Việt Nam đã tách ra hình thành những nhóm địa phương
nhưng vẫn coi mình thuộc về tộc gốc, như trường hợp các nhóm
122
Trong thời kì tr bản chủ nghĩa, sự phân chia từ tộc người
gốc dẫn đến sự hình thành các tộc người khác do quá trình đi cư
đến các vùng đất thuộc địa, người Anh-Úc, người Anh ở Mỹ,...
Hiện nay trên thế giới do sự phát triển của chủ nghĩa dân
tộc, sự khác biệt tôn giáo vẫn thấy tỉnh trạng có những dân tộc
tuy cùng chung một nguồn gốc lịch sử nhưng lại muốn tách ra
Xu hướng quy tụ, hợp nhất tộc người chiếm ưu thế trong các
' thời ki lịch sử. Quá trình này phản ánh quy luật lịch sử nói chưng
để dẫn đến sự củng cố các tộc người. Xu hướng hợp nhất tộc
người được chia làm ba loại: guá ứừnh cố kết hay kết hợp
Quá trình cố kết tộc người được chia ra làm hai loại: 1) cố
kết trong nội bộ từng tộc người và 2) cố kết giữa các tộc người
gần gũi nhau về mặt ngôn ngữ, văn hóa đề dẫn đến hình thành
chặt chẽ một tộc người bằng cách gạt bỏ đần sự khác biệt về
ngôn ngữ và văn hóa của các nhóm địa phương, củng cố ý thức
Ở Việt Nam, nhất là ở các tỉnh miền núi phía Bắc, các tộc
người thiểu số cư trú phân tán, xen kế lẫn nhau. Chính sách dân
tộc chia để trị của thực đân Pháp đã ngăn cần quá trình cố kết
nội bộ tộc người giữa các nhóm địa phương. Sau ngày miễn Bắc
được giải phóng (năm 1954), đời sống kinh tế, văn hóa-xã hội
của các tộc người này ngày càng được cải thiện, các nhóm địa
như trường hợp người Dao, Nùng, Thái và các đân tộc khác.
123
Cũng vậy, các dân tộc tại chỗ ở Trường Sơn và Tây Nguyên sau
ngày giải phóng 1975, sự giao lưu tiếp xúc về kinh tế văn hóa
càng được tăng cường, ý thức thống nhất tộc người được củng
cố và phát triển.
- = Quá trình cố kết giữa các tộc người là quá trình cỗ kết giữa
các tộc người vốn có chung nguồn gốc từ cộng đồng ngôn ngữ
văn hóa trong quá khứ. Sự phát triển của quá trình cố kết giữa
các tộc người trong nhiều trường hợp là sự phủ định biện chứng
vùng núi Việt Bắc. Tày, Nùng được xem là hai tộc người có
cùng nguồn gốc gần gũi nhau về mặt ngôn ngữ và văn hóa.
Ngày nay, khuynh hướng xích lại gần nhau,:hòa vào nhau giữa
hai dân tộc biểu hiện tương đối rõ nét. Ở vùng Thạch An, Hòa
An, Quảng Hòa (Cao Bằng), Tràng Định, Văn Lãng, Bình Gia,
Lộc Bình (Lạng Sơn), ranh giới giữa các nhóm Tày, Nùng đã rất
mờ nhạt, mờ nhạt hơn so với ranh giới giữa các nhóm trong tộc
người Nùng ở các nơi khác. Quá trình cố kết giữa các tộc người
càng đẩy mạnh những khác biệt địa phương dần dần bị xóa bỏ
để dẫn đến hình thành một tộc người thống nhất trong tương lai.
Đồng hóa tộc người là quá trình hòa tan (mất đi) của một
tộc người hoặc một bộ phận của tộc người vào môi trường của
một tộc người khác. Nói cách khác, đồng hóa là quá trình làm
mất đi hoàn toàn hay gần hết thuộc tính của tộc người (nhóm)
xuất phát vào một tộc người khác. Khác với quá trình cố kết,
quá trình đồng hóa tộc người thường diễn ra ở các tộc người
khác nhau về nguồn gốc, ngôn ngữ và văn hóa. Quá trình
đồng hóa thường điễn ra từng phần. Lúc đầu tiếp thu một số
yếu tế ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc khác, sau là đồng hóa
văn hóa. Về mặt ngôn ngữ, lúc đầu duy trì tình trạng song ngữ
124
sau chuyển sang ngôn ngữ của tộc người khác. Về mặt ý thức tự
giác, tộc danh cũng dần mất đi để chuyền sang tên gọi mới của
Trong quá trình đồng hóa tộc người có hai đạng: 1) đồng
- Đông hóa tự nhiên là quá trình giao lưu tiếp xúc thường
xuyên của một bộ phận hay của cả tộc người với tộc người bên
đân đông hơn. Quá trình giao lưu tiếp xúc lâu đài về mặt ngôn
ngữ và văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác cũng như những
cuộc hôn nhân hỗn hợp giữa các tộc người đóng vai trò quan
trọng trong quá trình này. Họ có nguyện vọng được trở thành
thành viên của tộc người lớn hơn mà họ chịu ảnh hưởng.
Ở Việt Nam, nhất là ở miền rừng núi và trung du, nơi cư trú
xen ghép của nhiều tộc người có sự khác biệt về ngôn ngữ, văn
hóa, trình độ phát triển kinh tế, xã hội và số lượng cư dân,... nên
thường diễn ra quá trình đồng hóa tự nhiên. Ở Tây Bắc, các tộc
người thuộc nhóm Môn — Khmer như Khơ Mú, Kháng, Mảng,
Xinh Mun chung sống lâu đời với người Thái đã tiếp thu nhiều
yếu tố văn hóa Thái như canh tác lúa nước, nhà ở, trang phục và
ngôn ngữ. Xét nguồn gốc tộc người của nhiều nhóm địa phương
của người Thái, ta thấy tuy hiện nay họ khai là Thái, nhưng gốc
được người Thái công nhận. Ở Việt Bắc, các dân tộc nhỏ đã chịu
ảnh hưởng ngôn ngữ, văn hóa của các tộc người lớn bên cạnh
sử sách ghi chép từ lâu và có số dân khá đông nay không vượt
quá 300 người. Người Bố Y cũng nằm trong trường hợp ấy. Đầu
thế kỉ XX dân số của họ hơn 2000 người nay chỉ còn 245 người.
Điều này chứng tỏ họ đã hòa vào các tộc người láng giềng và
hiện nay số người còn lại đang hòa vào người Nùng.v.v..
125
- Đông hoá cưỡng bức là quá trình mà chính sách của
nhà nước đa tộc người đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Bằng
những biện pháp chính trị, kinh tế-xã hội, văn hóa, khi công
khai, khi tỉnh vi nhằm thúc đây quá trình đồng hóa bằng cách
ngăn cản sự duy trì, phát triển ngôn ngữ, chữ viết, văn hóa,
phong tục tập quán của các tộc người thiểu số.
Trong quá trình đồng hóa tộc người, trước đây còn dùng
thuật ngữ diệt chủng để nói về sự biến mất của một tộc người
nào đó; còn sự tiêu diệt văn hóa của một tộc người, thuật ngữ
điệt tộc (ethnocide) được đế cập đến. Chính sách đồng hoá
thường được thực hiện bởi Chủ nghĩa thực dân, ví dụ các thổ
dân châu Úc, châu Đại Dương và châu Mỹ bị Chủ nghĩa thực
dân gây nên những nạn diệt chủng, những cuộc thảm sát đẫm
Quá trình hội nhập giữa tộc người thường diễn ra ở các dân
tộc khác nhau về ngôn ngữ văn hóa, nhưng đo kết quả của quá
trình giao lưu tiếp xúc văn hóa lâu dài trong lịch sử đã xuất hiện
những yếu tố văn hóa chung bên cạnh đó vẫn giữ lại những đặc
trưng văn hóa của tộc người. Quá trình này thường diễn ra Ở các
khu vực lịch sử-văn hóa hay trong phạm vi của một quốc gia đa
đân tộc. Đây cũng là biểu hiện của quá trình xích lại và hợp nhất
Ở Việt Nam quá trình hội nhập giữa các tộc người điển ra
theo hai khuynh hướng: 1) Sự hội nhập giữa các tộc người diễn
ra trong phạm vi của một vùng lịch sử-văn hóa; 2) Sự hội nhập
Sự hội nhập giữa các tộc người thường diễn ra trong các
vùng lịch sử-văn hóa. Nguyên nhân là do cùng chung sống lâu
đài trong một vùng địa lí, giữa các tộc người đã diễn ra quá trình
giao lưu tiếp xúc văn hóa dẫn tới hình thành những đặc điểm văn
126
hóa chung của cả vùng bên cạnh những đặc trưng văn hóa của
đừng tộc người. Những đặc điểm văn hóa đó thể hiện qua
phương thức mưu sinh, văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và ý
thức cộng đồng khu vực. Quá trình hội nhập giữa các tộc người
có thể nhận thấy ở các vùng như: miền núi Việt Bắc và Đông
Bên cạnh đó, còn có xw Jướng hội nhập giữa các lộc người
trong một quốc gia thống nhất đa dân tộc. Như ở Việt Nam, sự
tham gia vào quá trình dựng nước và giữ nước của các tộc người
là cơ sở nền tảng cho sự hội nhập giữa các tộc người tạo nên tính
thống nhất của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Các tỘc người ở
Việt Nam mặc đù có sự khác biệt về nguồn gốc lịch sử, ngôn
ngữ và văn hóa, nhưng do quá trình chung sống lâu dài, giữa họ
đã diễn ra quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa, tạo nên một nền
văn hóa Việt Nam thống nhất và đa dạng. Tiếng Việt trở thành
tiếng phổ thông được dùng làm công cụ để giao lưu tiếp xúc
giữa các tộc người, là ngôn ngữ được sử dụng trong hệ thống
giáo dục quốc dân, hành chính, luật pháp, trong sáng tác văn
học, nghệ thuật và được sử dụng rộng rãi trong các phương tiện
thông tin đại chúng. Nhờ có ngôn ngữ chung đó đã tạo nên tính
thống nhất, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các tộc người. Văn hóa
Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng bao gồm tất
cả tính hoa văn hóa của các tộc người kết hợp lại để xây dựng
một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Hiện nay, những tỉnh hoa văn hóa của các tộc người đã trở thành
tài sản chung của văn hóa Việt Nam. Một mái nhà rông, một
ngôi chùa, đình làng, trang phục các dân tộc, các món ăn cho
đến lễ hội, các loại hình nghệ thuật được trình diễn hay được ghỉ
chép trên sách vở là của người Việt Nam, bản sắc văn hóa riêng
của các tộc người không những không bị mắt đi mà vẫn được
gìn giữ bảo tồn phát triển tạo nên sự muôn sắc, ngàn hương.
127
3. MỘT SỐ VẤN ĐÈ TỌC NGƯỜI TRONG QUỐC GIÁ
ĐA TỘC NGƯỜI
3.1. Sự phát triển không đồng đều và bất bình đẳng giữa
phát triển trong xã hội giữa các tộc người. Sự chênh lệch đó
được biểu hiện qua địa vị xã hội, trình độ phát triển kính tế, khoa
học kỹ thuật, y tế, giáo dục, hưởng thụ văn hóa,... Sự chênh lệch
trong phát triển này được biểu hiện ơ hai mức độ: bình ưường
và cao.
triển kinh tế-xã hội, mức thu nhập, kết câu hạ tầng, những phúc
lợi xã hội được hưởng có sự chệnh lệch giữa các tộc người.
Nguyên nhân có thể xuất phát từ lịch sử tộc người và đang được
khắc phục. thể hiện ở sự chênh lệch này đôi khi còn đóng vai trò
động lực, thúc đây sự phát triển của các tộc người. .
sách với một số tỘc người nhất định (thường dành cho các tộc
người chủ chốt, đa số); các tộc người còn lại bị xem nhẹ, đôi khi
còn bị cô lập hoặc bị phân biệt đối xử, như các tộc người bản địa
ở Úc hoặc Mỹ đã từng gặp phải. Điều đó làm cho các tộc người
thiểu số trong những quốc gia đó trở nên thua kém về nhiều mặt
đối với các tộc người được ưu tiên. Chính điều này dẫn đến sự
chênh lệch ở mức rất cao giữa các tộc người về địa vị, khả năng,
cơ hội tham gia vào các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,...
trong một quốc gia. Những đấu hiệu để nhận biết sự bất bình
đẳng trong quan hệ tộc người là hiện tượng một tộc người tự cho
mình cái quyền “đi nô dịch các tộc người khác” và thường che
giấu dưới các chiêu bài “khai hóa văn minh”, “bảo hộ”.
128
Các tác nhân chủ yếu tạo nên sự bất bình đẳng tộc người
thường là những tác nhân liên quan đến chính trị- -xã hội, trong
đó quan hệ giữa nhà nước với các tộc người thiểu số không được
xây dựng trên cơ sở hợp tác bình đẳng và những giải pháp ú ứng
xử không phù hợp của nhà nước khi giải quyết các vấn để nảy
3.2. Sự căng thẳng xã hội và xung đột giữa các tộc người
Căng thẳng xã hội 1ữa các tộc người là tình trạng phản ánh
những bất bình đẳng ở mức độ cao kéo đài, ngày càng trầm
trọng giữa các tộc người và đang trong một giai đoạn quá độ để
đi tới một hướng giải quyết. Nguyên nhân sâu xa là do hậu quả
của bất bình đẳng xã hội từ trước đó và bộc lộ thành những mâu
thuẫn về kinh tế, xã hội, quyển lực chính trị, lợi ích,... giữa các
tộc người. Còn nguyễn nhân trực tiếp là do xuất hiện những tồn
thương. thực sự về lợi ích, nhu cầu và giá trị; do nhận thức không
đúng về những thay đổi xảy ra trực tiếp trong xã hội; do bị thông
tin sai hoặc nhận được thông tin bị cố tình bóp méo về một Sự
kiện nào đó,.. . Những tác động của các thế lực thù địch đối với
lợi ích quốc gia cũng là tác nhân có thể trực tiếp gây 1a căng
thẳng xã hội.
Xung đột tộc là một biến thể độc lập của xung đột xã hội và
là một trong những hình thức biểu hiện sự mâu thuẫn. Nguyên
nhân của sự xung đột tộc người cũng bắt nguồn từ những bất
bình \ đẳng kéo đài và tạo nên Sự căng thẳng trong quá trình giải
quyết các vấn đề lợi ích kinh tế-xã hội của mỗi tộc người.
Ngày nay, xung đột tộc người phụ thuộc vào quan điểm
chính trị của nhà nước đang điều tiết các quan hệ tộc người
thông qua các quan. niệm và cách ứng xử như không chấp nhận
hay thừa nhận quyền bình đẳng giữa các tộc người, phủ nhận
hay duy trì tình trạng một tộc người đi bóc lột tộc người khác
hoặc được ưu tiên hơn tộc người khác,... ngoài ra còn phụ thuộc
vào khả năng sớm nhận biết nguy cơ và xử lí phù hợp của nhà
129
3.3. Sự thù hăn và li khai dân tộc
Tình trạng thù hằng giữa các tộc người là cấp độ xấu nhất
trong quan hệ tộc người. Nó phản ¿nh nhu cầu của một hoặc một
vài tộc người tách ra khỏi cộng đồng cũ và hình thành một cộng
đồng mới với tư cách là một quốc gia độc lập. Biểu hiện tiêu cực
của nó trong thế giới hiện đại là phong trào li khai tộc người
đang xuất hiện khá mạnh mẽ từ những năm 90 của thế ký XX.
Hình thức của tình trạng này khá đa dạng: xung đột tộc người,
xung đột chủng tộc, xung đột tôn giáo, xung đột văn hóa,...
Nguyên nhân là do sự đối kháng giữa các tộc người. Hiện nay,
sự đối kháng giữa các tộc người thường xuất phát từ nguyên
nhân lấy chủ nghĩa tộc người cực đoan làm cơ sở lí luận. Đồng
thời bối cảnh chính trị bất ôn cũng là cơ hội để những nhóm theo
chú nghĩa tộc người cực đoan lợi dụng, gây thù hẳn nhằm li khai
tộc người.
Theo danh mục các thành phần dân tộc ở Việt Nam được
Tổng cục Thống kê ban hành ngày 9/6/2011, ở Việt Nam "hiện
73.504.341 người; 53 tộc người còn lại được xem là tộc người
người), Thái-Ka đai (12 tộc người), Nam Đảo (5 tộc người), Hán
— Tạng (9 tộc người) và nhóm ngôn ngữ Hmông-Dao (3 tộc
người). Các tộc người ở Việt Nam phân bố cả 3 miền: núi, trung
du và đồng bằng. Trong đó, các tộc người cư trú đông nhất tập
- Miền núi phía Bắc (Đông Bắc, Việt Bắc, Tây Bắc, vùng
núi Bắc Trung Bộ) có các tộc người cư trú đông là: Mường,
130
Thổ, Khơmú, Kháng, Xinh Mun, Tày, Thái, Nùng, Sán Chay,
Pu péo, La Ha, Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Cống, Lô Lô, Si La, Sán
núi Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Tây Nguyên, miền núi
phía tây các tỉnh duyên hải miền Trung đến các tỉnh Nam Bộ) có
-Glai, Chu Ru, Ở Ðu, Hrê, Giẻ — Triêng, Co, Bru- Vân Kiều, Cơ
Tu, Tà Ôi.
Hoa, Khmer
người như:
+ Nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (21 dân tộc): Bana, Brâu,
Bru-vân kiêu, Choro, Co, K°?Ho, Cơtu, Gié Triêng, H”rê, Kháng,
.ngôn ngữ:
La Chí, La Ha
Raglai, Êđê
131
- Ngữ hệ Hán — Tạng (9 tộc người), gồm 2 nhóm ngôn ngữ: '
+ Nhóm ngôn ngữ Hán (3 tộc người): Hán, Sán Dìu, Ngái
người không đồng đều, trong đó người Kinh (Việt) chiếm 86%
dân dân số, 53 tộc người còn lại chiếm khoảng 14%... Có 18 tộc
dân số từ 10 ngàn người đến gần l1 triệu người. Còn lại l6 tộc
người có số lượng dưới 10 ngàn người thậm chí có tộc người chỉ
Các tộc người ở Việt Nam cư trú phân tán và xen cài, đặc
biệt ở miền núi phía Bắc, sự xen cư các tộc người trong cả một
bản, xã, huyện, tỉnh rất cao. Ở các tỉnh Tây Nguyên việc cư trú
xen cài giữa người Kinh và các tộc người thiểu số tại chỗ Việt -
dân tộc thiểu số tại chỗ diễn ra ngày một nhiều và gần đây là sự
có mặt các tộc người thiểu số ở miền núi phía Bắc đi cư vào cư.
ngày một đông. Đồng bằng sông Cửu Long là nơi cư trú xen kẻ
Sinh hoạt kinh tế của các tộc người ở Việt Nam thể hiện tính
đa dạng. Tùy theo hoàn cảnh địa lí và phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế - xã hội nội tại của từng tộc người có thể dựa
vào sự khác biệt trong hoạt động kinh tế để chia các tộc người
thành ba bộ phận. :
132
- Những cư đân ở đồng bằng ven biển và đồng bằng châu
thổ như Việt, Hoa, Khmer, Chăm canh tác nông nghiệp lúa nước
kết hợp với chăn nuôi, thủ công nghiệp, thương nghiệp. Kỹ thuật
canh tác của các dân tộc này đạt tới trình độ cao, dùng sức kéo
trâu bò cày ruộng, thâm canh, xen canh, xây đựng các hệ thống
- Các cư dân sinh ¡h sống bằng nông nghiệp lúa nước kết
hợp với làm nương, thủ công nghiệp và thương nghiệp ở vùng
thung lũng miễn núi như Tày, Thái, Mường,... Cư đân ở đây đã
_ biết khai thác nguồn nước, làm thủy lợi để canh tác lúa nước
theo kiểu ruộng bậc thang. Họ có nhiều kinh nghiệm trong việc
thâm canh, tăng vụ, chọn giống, am hiểu thời tiết khí hậu.
- Những cư dân sinh sống bằng nương rẫy ở vùng núi cao và
Cao nguyên, một. số những dân tộc đã khai phá những thửa ruộng
bậc thang trồng lương thực đựa vào nguồn nước mưa tự nhiên.
Tuy diện tích canh tác theo phương thức này không đáng kế mà -
chủ yếu là canh tác nương rẫy theo lối du canh, du cư hoặc luân
canh, định cư. Do năng suất nương rẫy thấp, không ôn định nên
các cư dân làm nương rẫy thường nghèo nàn và lạc hậu hơn các
Hầu hết các tộc người thiểu số ở Việt Nam có đặc điểm về
.kinh tế như chăn nuôi kém phát triển, chưa tách khỏi trồng trọt;
thủ công nghiệp cũng chưa tách khỏi nông nghiệp đề trở thành
ngành sản xuất chính. Ở các tộc người thiểu số ở miền núi vẫn
còn các hình thái kinh tế như hái lượm, săn bắn, nhưng ở vị trí
thứ yếu.
Đặc điểm nỗi bật về kinh tế truyền thống của các tộc người
thiểu số là dựa vào thiên nhiên, mang tính tự cung tự cấp, phân
công lao động theo giới tính, tuổi tác; kĩ thuật canh tác lạc hậu,
động một cách sâu sắc đến sự phát triển của các tộc người, do
133
quy luật lịch đại và đồng đại chỉ phối xã hội, nên các vẫn đề xã
hội của các tộc người ở Việt Nam phất triển không đồng đều,
Các tộc người ở Trường Sơn — Tây Nguyên cho đến cuối thế
kỉ XIX, xã hội của họ đang trong giai đoạn cuối của xã hội
nguyên. thủy tan rã bước sang xã hội có giai cấp. Tổ chức xã hội
duy nhất là làng (buôn, plây). Ruộng tư đã xuất hiện nhưng chế
độ sở hữu công cộng về đất đai của buôn làng còn giữa vai trò
chủ đạo. Xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo nhưng chưa sâu
sắc. Các tộc người nói ngôn ngữ Nam Đảo còn bảo lưu chế độ
mẫu hệ, còn các dân tộc nói ngôn ngữ Môn — Khmer phần lớn là
Trước Cách mạng tháng Tám, các tộc người ở miền núi phía
Bắc đã có sự phân hóa giai cấp, đẳng cấp. Ở một số vùng tồn tại
chế độ lang đạo, phìa tạo, thổ tỉ mà ở đó chúa đất được coi là
tượng trưng cho quyền lực của bản mường. Trong lòng xã hội
tồn tại tầng lớp quý tộc và nông dân. Giai cấp phong kiến bao
gồm chúa đất và các chức dịch. Họ là tầng lớp ăn bám, không
trực tiếp lao động. Nông dân là tầng lớp đông đảo trong xã hội bị
bóc lột nặng nề nhất. Nông dân được chia làm ba nhóm: nông
dân tự do, lệ nông và gia nô phục vụ cho gia đình quý tộc.
Ở vùng đồng bằng cư trú các dân tộc: Kinh, Hoa, Khmer,
Chăm chế độ sở hữu ruộng đất tư tồn tại phổ biến, Xã hội từ lâu
đã trải qua chế độ phong kiến, phân hóa giai cấp khá sâu sắc. Ở
các thành thị lớn đã xuất hiện giai cấp tư sản dân tộc và tư sản
mại bản, giai cấp công nhân đã hình thành và phát triển.
* Đặc điểm văn hóa
Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa thống nhất trong đa
dạng. Các tộc người thiểu số đù là cư dân bản địa hay cư dân đi
cư từ các nước láng giêng khác tới đều có chung một nên văn
hóa mà cơ tâng là văn hóa Nam À thê hiện trong lĩnh vực văn
134
hóa vật chất, tổ chức xã hội và văn hóa tỉnh thần. Đó là văn hóa
của cư dân trồng trọt lúa nước và lúa khô ở vùng nhiệt đới, gió
mùa. Tính thống nhất trong văn hóa của các dân tộc thể hiện từ
sản xuất, nhà cửa, trang phục, đồ ăn thức uống, phương tiện vận
chuyển và đi lại đến tổ chức xã hội, tín ngưỡng, lễ hội, văn học
và nghệ thuật. Bên cạnh tính thống nhất văn hóa, văn hóa của
các dân tộc vẫn mang sắc thái của văn hóa tộc người riêng.
Các tộc người ở vùng cao nguyên, vùng xa xôi hẻo lánh, cư
trú tương đối biệt lập, còn bảo lưu khá đậm nét văn hóa bản địa
. truyền thống ít chịu ảnh hưởng văn hóa của các tộc người khác.
Ngược lại, các tộc người miền núi phía Bắc, đặc biệt là
người Việt chịu ảnh hưởng đậm nét văn hóa Trung Hoa qua giao
lưu tiếp xúc văn hóa lâu đài. Các tộc người Chăm, Khmer ở
vùng duyên hải Trung Bộ và Tây Nam Bộ do kết quả giao lưu
và hội nhập diễn ra lâu dài trong lịch sử họ đã tiếp nhận những
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước đặc biệt là sau ngày
miễn Nam hoàn toàn giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng với
_ đường lối và chính sách dân tộc đúng đắn, đời sống kinh tế, văn
hóa xã hội của các tộc người ngày một phát triển. Do hậu quả
của quá trình phát triển lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã
hội ở các tộc người ở Việt Nam hiện nay còn có sự chênh lệch.
Đặc biệt các tộc người miền núi, vùng sâu, vùng xa, thu nhập và
đời sống nhân dân còn thấp, nghèo đói vẫn còn là sự thách đồ
1. Thuật ngữ dân tộc trong tiếng Việt được sử dụng với hai
nghĩa: (1) là quốc gia dân tộc (nation), (2) khi nói đến từng tộc
người cụ thê (Kinh, Tày, Ba Na) tương đương với khái niệm tộc
TRƯỜI (etimic)..
135
Khái niệm tộc người: “Tộc người là một tập đoàn người ổn
định hoặc tương đối ổn định được hình thành trong lịch sử, dưa
trên những mỗi liên hệ chung về ngôn ngữ, sinh hoạt văn hóa và
ý thức dân tộc được thể hiện bằng một tộc danh chung”.
niệm tộc người thiểu số được hiểu và sử dụng không giống nhau
Ở các quốc gia trên thế giới. Ö Việt Nam, dân tộc thiểu số được
Hiện nay, có ba tiêu chí được dùng để xác định tộc người,
-đó là: ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác tộc TIgười.
Ngôn ngữ tộc người (tiếng mẹ đẻ) được coi là dấu hiệu cơ
bản để phân biệt các tộc người khác nhau. Tuy nhiên trong thực
tế, có nhiều tộc người cùng sử dụng một ngôn ngữ, cũng có một
tộc người sử dụng hai, ba ngôn ngữ khác nhau, thậm chí chuyển
sang nói ngôn ngữ của dân tộc khác. Theo đó ngôn ngữ được coi
__ Văn hóa là yếu tố quan trọng giúp phân biệt tộc người này,
với tộc người khác. Tuy nhiên do quá trình giao lưu tiếp xúc văn
hóa, nhiều yếu tố văn hóa mang đặc trưng tộc người bị mắt đi do
nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, nên văn hóa cũng
Ý thức tự giác tộc người thể hiện qua việc sử dụng miột tên
gọi chung thống nhất, ý niệm chung về nguồn gốc lịch sử, huyền
thoại về tô tiên, truyền thống, các biểu tượng văn hóa dân tộc và
ý thức về vận mệnh lịch sử của tộc người. Ý thức tự giác tộc
người cho đến nay được xem là yếu tố bền vững nhất, ít thay
Ngoài ra còn có cá yếu tốc tác động đến tộc người như lãnh
thể tộc người, kinh tế tộc người, nội hôn tộc người.
136
2. Quá trình tộc người là một hệ thống động, có sự thay đổi
các thành tế tộc người dẫn đến sự chuyển hoá tộc người trong
mỗi liên hệ đồng đại và lịch đại. Quá trình tộc người được chia
_ làm ba loại hình cơ bản: quá trình tiến hóa tộc người, quá trình
ngữ, vùng tụ cư, chủng tộc, văn hóa tộc người, ý thức tự giác tộc
giống nhau. Mâu thuẫn giữa các yếu tố như kinh tế, văn hóa,
quyền lực chính trị,....đã tạo nên những căng thẳng, xung đột
giữa các tộc người, nghiêm trọng hơn còn có thể dẫn đến tỉnh
trạng thù hẳn giữa các tộc người và li khai dân tộc.
cạnh người Kinh (Việt) là tộc người đa số, các tộc người còn lại
được xem là thiểu số. Các tộc người ở Việt Nam có trình độ phát
triển kinh tế - xã hội không đồng đều, có một nền văn hóa thống
nhất trong đa dạng và có truyền thống đoàn kết trong quá trình
137
Chương 4
KINH TẾ
Khi đề cập đến chủ đề kinh tế, các giáo trình Nhân học văn
1994, Kottak 2002) thường nói đến hoạt động sản xuất vật chất
của con người với các phương thức mưu sinh như săn, bắt,
lượm, chăn nuôi, nông nghiệp quảng canh và nông nghiệp thâm
canh hay hệ thống sản xuất của các xã hội bao gồm sản xuất,
phân phối và tiêu dùng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của
ngành Nhân học, từ cuộc đối thoại với ngành Kinh tế học,
chuyên ngành Nhân học kinh tế đã ra đời vào nHững năm 60 của
thế kỷ XX đi xa hơn trong việc tập trung phân tích sâu hơn nội
dung của khái niệm kinh tế theo nghĩa kinh tế học. Theo đó,
hành vi kinh tế cửa con người không chỉ đơn thuần là hoạt động
sản xuất vật chất như sự thích nghỉ của con người trong quá trình
sinh tồn mà còn là sự tính toán lựa chọn liên quan đến việc phân
bổ nguồn tài nguyên cho các mục đích cạnh tranh nhau. Tuy
nhiên, trong chương kinh tế này chúng tôi tập trung trình bày nội
dung bản chất của khái niệm kinh tế. Nội dung #ừ›k /búc sẽ
được trình bày chuyên sâu trong chuyên đề Nhân học kinh tế.!
! Chúng tôi dựa trên cách hiểu khái niệm kinh tế của Karl Polanyi (1957) 7he
liconom as Instiiuted Process để tiếp cận hành vị kinh tẾ của con người theo
hướng tiếp cận nhân học. Theo đó, kinh tế có hai nghĩa bản chất (the sustantive)
và hình thức (the formal). Nghĩa bản chất xuất phát từ sự phụ thuộc của con
người vào tự nhiên và xã hội, một sự trao đổi giữa môi ¡ trường tự nhiên và xã hội,
bao gầm những giao địch hằng ngày của việc sản xuất, trao đôi, cất trữ, và tiêu
thụ mà hình thành các tồn tại của con người. Nghĩa hình thức xuất phát từ một
loại lô-gíc, mối quan hệ giữa phương tiện - mục đích, cách con người lựa chọn.
Nghĩa bản chất hữu ích để so sánh các nền kinh tế trong khi nghĩa hình thức chỉ
có thể áp dụng cho kinh tế của một loại hình cụ thể đó là hệ thống thị trường.
135
Với đặc điểm tiếp cận toàn điện (holism) và tính xen cài
ngành nghiên cứu nền tảng văn hoá xã hội của hành vi và
KINH TẾ
Chuyên ngành Nhân học kinh tế là kết quả của mối quan hệ
mật thiết và sự xích lại gần nhau giữa hai ngành khoa học: Nhân
học và Kinh tế học. Ở giai đoạn đầu của lịch sử phát triển ngành
Nhân học, họat động kinh tế của con người thường được xem
xét chung trong bối cảnh văn hóa xã hội của các tộc người. Chủ
đề này được đề cập đến chủ yếu như một dạng thức hoạt động
sinh tồn của con người. Dần dần, do có sự thay đổi từ cả ngành
Nhân học và Kinh tế học nên hoạt động kinh tế của con người
hay của các tộc người đã được tập trung nghiên cứu như một chủ
đề riêng biệt trong ngành Nhân học theo hướng có sự giao thoa
Nếu xét khái niệm kinh tế ở phương điện tổ chức sản xuất
phương tiện (means) khan hiếm cho các mục đích (ends) cạnh
tranh nhau”. Theo đó, các nhà kinh tế học cho là đo con người
sống trong một môi trường có nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu
hạn nên họ có khuynh hướng tiết kiệm nguồn tài nguyên. VÌ
vậy, con người luôn cố găng tìm ra những phương cách sử dụng
? Embededness được: hiểu theo nghĩa hoạt động kinh tế thường được giải thích
trong mỗi tương quan với các kiềm chế về xã hội và chính trị của hệ thống xã hội.
Các nhà nhân học diễn giải kinh tế như được đan cài trong xã hội. (Plattner 1989,
tr3-4).
139
nguồn tài nguyên đó một cách có lợi nhất với chỉ phí thấp nhất. -
Đây cũng chính là đối tượng nghiên cứu của kinh tế học cổ điển.
Thế nhưng, theo các nhà nhân học, kinh tế học được phát triển ở
và trên nền tảng của kinh tế thị trường của phương Tây, do đó
các khái niệm của ngành được hình thành dựa trên các giá trị của
các xã hội có thị trường chẳng hạn như việc tối đa hóa lợi nhuận,
giảm thiểu chỉ phí, đầu tư, cạnh tranh và lợi nhuận. Do vậy, khi
áp dụng các khái niệm của kinh tế học trong bối cảnh xuyên văn
hóa, đặc biệt ở các cộng đồng phi thị trường và nơi mà các yếu
tố văn hóa cộng đồng đóng một vai trò quan trọng trong đời
sống của con người thì sẽ không phù hợp. Để chứng tỏ các khái
niệm kinh tế vốn xuất phát từ quan điểm vị chủng tộc của các
nhà kinh tế học phương Tây, các nhà nhân học đã bắt tay vào
cuộc với việc nhân mạnh đến sự tương tác giữa yếu tố văn hóa
và hành vi kinh tế của con người. Khác với các nhà kinh tế, các
nhà nhân học kinh tế cho là để biểu được hành vi kinh tế của các
xã hội không phải là phương Tây thì không thể chỉ dựa vào các
khải niệm của các nhà kinh lỄ, mà phải dựa vào chính nên văn
hóa của họ với các hệ giá trị cụ thể chỉ phối hành vi vò suy nghĩ
1.2. Các trường phái nghiên cứu trong nhân học kinh.
Khi nghiên cứu hệ thống kinh tế trong bối cảnh xuyên văn
hóa, các nhà nhân học đã hình thành hai trường phái đối lập
(substantivism)”.
Thuật ngữ hình thức luận (formalism) bản chất luận (Eubslandvisn). do Max
Weber đề xướng. Max Weber là một trong những nhà khoa học xã hội tiền bối có
ảnh hưởng lớn đối với nhân học và xã hội học (Lãttle, Daniel, 1991: 158).
Thuật ngữ Substantivism có gốc từ nghĩa subsistence khi Karl Polanyi đề cập đến
các ý nghĩa của khái niệm kinh tế. Theo đó, nghĩa này đề cập đến hoạt động vật
chất của con người như những hành vi kinh tế. Khi dịch thuật ngữ. này, Phan
140 ¬
“Hình thức luận” cho là môi trường lựa chọn không tác
động đến sự lựa chọn của con người vì nguyên tắc sự lựa chọn
duy lí là phổ quát. Dù ở bất kỳ xã hội nào, sự lựa chọn của con
người đều bị chỉ phối bởi giá trị tư lợi. Dựa trên giá trị này,
con người. Trong khi đó, “bản chất luận” cho là để có sự giải
thích đúng đắn về hành vi kinh tế của con người thì cần phải có
kiến thức cụ thể (bản chất) về phong tục và giá trị, hay nói cách
khác là về văn hóa của người tham gia lựa chọn. Cụ thể là các
nhà nhân học theo trường phái bản chất luận cho là không thể áp
truyền thống hay tiền thị trường. Trường phái này cho là bản
chất các xã hội nông nghiệp hay bộ lạc khác với bản chất nền
kinh tế thị trường ở các xã hội công nghiệp. Trong khi ở các xã
hội phương Tây sự lựa chọn sản xuất và tiêu dùng được dựa trên
nên tảng tôi đa hóa lợi nhuận thì ở các xã hội phi công nghiệp
các lựa chọn này thường đựa trên các nguyên tắc khác, chẳng
hạn như sự tương hỗ hay sự tái phân phối. Nguyên tắc tương hỗ
nhấn mạnh đến sự trao đổi công bằng của các giá trị tương
đương và trái với với nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận. Tương tự,
nguyên tắc tái phân phối ỏ ở các nền kinh tế tự cung tự cấp không
khuyến khích tự tích lũy của cải của cá nhân do theo nguyên tắc
này hàng hóa được phân phối lại từ những người có sang những
người không có. Nguyên tắc tương hỗ và tái phân phối nhấn
mạnh đến sự cộng tác và tính hào phóng của con người.
Ngược lại, các nhà nhân học theo trường phái hình thức luận
cho là các khái niệm của kinh tế phương Tây phù hợp để nghiên
Ngọc Chiến trong quyễn Nhân học một quan điển về tình trạng nhân ginh đã dựa
trên quan điểm của trường phát Tây để đặt tên là Bản thể luận (Emily A, 2001,
423). Trong khi đó, Cao Xuân Phố dựa trên nghĩa từ gốc, trong tác phẩm Đức
khẩm Văn hóa Châu Á: Tiấn cận Nhân học, đã địch thuật ngữ này sang tiếng Việt
là Thực tế luận (xem trang 197). Tuy tên gọi có khác nhau nhưng nội dung của
chúng như nhau. Trong chương này, để tránh trùng với quan điểm bản thê luận
(ontology) trong triết học, tôi dùng thuật ngữ bản chất.
_ 141
cứu bất cứ hệ thống kinh tế nào. Trong khi vẫn thừa nhận lí
thuyết kinh tế phương Tây có nghĩa hẹp nhưng những nhà hình
thức luận cho là nên mở rộng các lí thuyết kinh tế này để có thể
áp dụng được chúng ở các nền kinh tế không phải phương Tây.
Chẳng hạn như, mặc đù nhiều xã hội phi thị trường có thể không
hoạt động dựa trên nên tảng “các động lực lợi nhuận” theo nghĩa
tiền tệ nhưng không nên cho là khái niệm tối đa hóa hoàn toàn
không có ý nghĩa gì trong trường hợp này. Các nhà hình thức
luận cho là những người hoạt động trong các nền kinh tế quy mô
nhỏ có thê bị khuyến khích bởi khát vọng tối đa hóa vị trí của họ
trong cộng đồng của họ, sự an toàn, hay sự mở rộng mạng lưới _
xã hội hơn là việc tối đa hóa sự giàu có vật chất. Khái niệm tối
gồm tất cả các nền kinh tế. Các nhà hình thức cho là các nhà bản
chất luận đã quá lãng mạn hóa bản chất của nền kinh tế phi công
nghiệp, phi thị trường cho nên đã làm mắt đi tằm quan trọng của
các hoạt động kinh tế. Cụ thể là trong khi thừa nhận những
người chăn nuôi có thể dùng bò vào một số các nguyên nhân phi
kinh tế (chẳng hạn như hợp thức hóa hôn nhân, hình thành hệ
thống thứ bậc xã hội và làm vật tế lễ tôn giáo), các nhà hình thức
cho là những chú bò như thế có các lợi ích kinh tế nhất định
cũng như lợi ích xã hội chứ không phải đơn thuần nuôi bò chỉ để
trường phái bản chất là James Scott, Karl Polay1, George Dalton,
kinh tế. Do vậy, môi quan hệ giữa con người và mội trường
cần được tìm hiểu vì trong quá trình tồn tại và phát triển, con
người cũng giống, như các loài động vật khác phải thích nghĩ
với môi trường sống của mình. Tuy nhiên sự thích nghi của
con người không giông với các loài động vật khác. Trong khi
142
các loài động vật khác chỉ đơn thuần đựa vào sự thích nghỉ về
mặt sinh học với các thay đối về đặc điểm hình thể, con người
lại chủ yếu dựa vào sự thích nghi về mặt văn hớa, chẳng hạn
như việc sử dụng lửa, quần áo, nhà cửa, sản xuất lương thực
thực phẩm,... Hay nói cách khác, cơn người thích nghỉ với
môi trường một cách chủ động qua hoạt động sản xuất và sáng
Hoạt động kinh tế chính là sự thích nghỉ của con người với
môi trường sống để đám bảo cho sự sinh tồn của mình. Do vậy,
môi trường đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh tế.
Tuy nhiên, đã có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của môi
Các nhà quyết định luận địa lí cho hành vị của con người là
kết quả của yếu tô địa lí . Hay cụ thể hơn, họ cho là để hiểu được
văn hóa của một dân tộc thì phải nhìn vào môi trường sống của
họ. Môi trường quyết định bản chất của các nền văn hóa trong
lãnh thổ sinh sống. Chẳng hạn như, các nhà quyết định luận địa
lí cho là nền văn minh của phương Tây chính là kết quả của quá
trình đương đầu với những thách thức của môi trường sống của
khu vực này. Tuy nhiên, trường phái này đã không nhận thấy
rằng có rất nhiều dân tộc tuy cùng sinh sống trong một vùng khí
hậu và địa lí tự nhiên nhưng lại có các đặc điểm văn hóa khác
nhau. Chẳng hạn như ở khu vực tây nam của nước Mỹ có người
Hopi và người Navajo cùng sinh sống. Thế nhưng người Hopi
lại là những nông dân định cư sống thành làng mạc, rất coi trọng
đời sống cộng đồng trong khi người Navajo lại sống theo
phương thức du mục với nghề chăn cừu, coi trọng đời sống cá
nhân. Hiện nay, ở khu vực này lại có thêm hai nên văn hóa nữa.
Đó là văn hóa của người Mỹ gốc Tây Ban Nha và người Mỹ gốc
Anh. Cả bến nền văn hóa có một số đặc điểm giống nhau nhưng
đa số các đặc điểm này là kết quả của sự vay mượn hay sự
143
truyền bá văn hóa. Chỉ có một số ít đặc điểm là do cùng sống
trong một môi trường giống nhau. Ngoài ra, có nhiều xã hội có
tổ chức gia đình, quan niệm về sự đúng sai và các yếu tố kĩ thuật
(công cụ lao động) rất giống nhau; thế nhưng chúng lại ở các
vùng lãnh thổ sinh thái hoàn toàn khác nhau. Các hiện tượng này
Morgan (16§18-1881).
Như vậy, môi trường vật lí hoàn toàn không quyết định bản
chất của nền văn hóa. Tuy vậy, môi trường cũng đặt ra một số
giới hạn và cung cấp những khả năng cho các nền văn hóa. Ví
dụ như các dân tộc ở Đông Nam Á không thể săn hải cầu và gấu
Đắc cực và những người Eskimo sống ở Bắc cực không thể sống
bằng việc trồng trọt lúa nước mà tương ứng với với mỗi phương
thức sinh sống này sẽ có các tổ chức xã hội, các thiết chế văn
hóa khác nhau. Như vậy, tài nguyên thiên nhiên và môi trường
có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người và bản chất
nền văn hóa nhưng việc sử dụng nguồn tài nguyên này như thế
nào lại phụ thuộc vào văn hóa. Do vậy, để hiểu về văn hóa của
một dân tộc, cụ thể trong chương này là cách.sử dụng nguồn tài
nguyên, sự thích nghi môi trường của con người thì việc tìm
Sinh thái: Thuật ngữ “sinh thái học” do Emst Haeckel đưa
ra từ gốc chữ Hy Lạp øi#os, có nghĩa là nhà cửa. Sinh thái học
nghiên cứu mối quan hệ mang tính hệ thống của các yếu tố của
Trong nhân học, cách tiếp cận sinh thái cho là Sự tương tác
giữa con người với nhau, với các loài thực vật, động vật và với
môi trường tất cả sẽ tạo ra các đáp ứng văn hóa. Chẳng hạn như
144
hành vi săn bắn của người Eskimo phụ thuộc vào khả năng phát
triển các phương tiện săn bắt các loài động vật hữu nhũ như gấu
và hải câu để kiếm thức ăn. Sự tồn tại của người Eskưno cũng
phụ thuộc vào khả năng thích ứng của họ với điều kiện băng
tuyết, không khí cực lạnh và đặc tính khí hậu của vùng môi
trường cực Bắc vốn không có sự sống của các loài thực vật. Sự
đáp ứng văn hóa của họ đối với môi trường bao gồm các căn lều
thú, cây lao móc và các xe tuyết. Sự tiêu thụ nhiều mỡ động vật
chẳng hạn như hải mã, cá voi, cá hồi về mặt thể chất cho phép
Hệ sinh thái: Thuật ngữ hệ sinh thái do nhà sinh thái học
người Anh Arthur Tansley đưa ra vào năm 1935 khi ông định
cơ mà còn toàn bộ phức hệ của các yếu tố vật lí. tạo thành cái
mà chúng ta gọi là môi trường”. Nói cách khác, một hệ sinh thái
hiện hữu trong một nơi chốn cụ thể. Khi nói đến hệ thống nghĩa
là nó phải bao gồm hai hay nhiều thành phần có sự tương tác với
nhau và chúng cùng nằm trong cùng một môi trường. Trong môi
trường này các thành phần có thể có hoặc không không tương
Trên thế giới, con người sinh sống ở rất nhiều môi trường
sinh thái khác nhau. Để hiểu được mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên hay môi trường, ta phải hiểu được các hệ sinh thái
trong mối quan hệ ảnh hướng đến phương thức sinh tồn của con
người, có nhiều cách chia vùng sỉnh thái sinh sống của con
145
người”. Tùy theo các khác biệt quan trọng về khí hậu, thảm thực
vật và động vật, khí hậu, vĩ độ và sự gần kể với các đại dương và
các dãy núi, có thể chia trái đất thành các vùng sinh thái chính
sau: vùng rừng ôn đới, vùng rừng nhiệt đới, vùng đồng cỏ, vùng
đồi núi, vùng khô cằn hoặc hoang mạc và vùng băng giá. Mỗi
loại hình môi trường có vai trò quyết định về nguồn tải nguyên
và các vấn đề mà con người gặp phải trong quá trình sinh tổn.
Theo Serena (1980), vùng đồng cỏ, còn gọi là thảo nguyên
hay đồng cỏ Savan chiếm 26% diện tích bề mặt trái đất nơi có
khoảng 10% dân số sinh sống và họ thực hành các phương thức
săn bắt, hái lượm, và chăn nuôi. Vùng hoang mạc và khô cằn
thường sống ở những vùng cận hoang mạc hay các ốc đảo và thực
hành nông nghiệp, chăn nuôi và săn bắt hái lượm. Vùng băng giá
hay vùng địa cực chiếm.16% diện tích nhưng chỉ có khoảng 1%
dân số sinh sống chủ yếu bằng săn bắt và chăn môi. Vùng đồi núi
có nhiều loại khí hậu khác nhau tùy theo độ cao, chiếm khoảng
12% diện tích mặt đất và có khoảng 7% dân số. Gần ba phần tư
dân số thế giới sống ở hai vùng môi trường chính: vùng rừng
nhiệt đới và vùng rừng ôn đới hay vùng rừng cây gỗ. Vùng rừng
nhiệt đới với lượng mưa nhiều và thảm động thực vật phong phú,
chiếm khoảng 10% diện tích mặt đất nhưng môi sống đến 28%
dân số. Phương thức sinh tồn chủ yếu ở khu vực này là nông
nghiệp thâm canh hay canh tác nương rẫy. Vùng rừng ôn đới có.
đến 43% dân số. Ở vùng này trình độ công nghệ phát triển cao đã
giúp cho con người tận dụng triệt để nguồn tài nguyên của môi
James đã chia thế giới thành tám loại hình môi trường tự nhiên chính (Richley H.
Crapo, 1993:58): vùng rừng pha tạp, vùng rừng cây bụi, vùng rừng nhiệt đới,
vùng đổi núi, vùng đồng cỏ, vùng khô cần, vùng rừng phương Bắc, và vùng địa
cực. Theo Serena Nanda (1980) tỉủ trái đất có sáu vùng môi trường chính: vùng
rừng cây gỗ, vùng rừng nhiệt đới, vùng đồng cỏ, vùng đồi núi, vùng hoang mạc
146
Việt Nam chúng ta thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa.
Khí hậu nóng âm quanh năm, lượng mưa nhiều, thảm thực vật
và động vật phong phú. Nước ta có nhiều loại địa hình khác
nhau như vùng núi, vùng trung du, vùng đồng bằng, vùng đuyên
hải. Sự phong phú về địa hình địa lí hay môi trường sinh sống
này đã góp phần tạo ra sự đa đạng trong các phương thức sinh
tồn nói riêng và các đặc điểm văn hóa Việt Nam nói chung.
2.3. Cách tiếp cận sinh thái văn hóa trong nhân học
kinh tế
Việc nghiên cứu sinh thái trong nhân học hình thành khi một
số học giả tìm cách giải thích sự giống nhau của các nền văn hóa
vẫn được đặc trưng bởi các vùng địa H nào đó. Một cách giải
thích nổi bật cho là các nhóm người sống gần nhau sẽ chia sẻ
nhiều yếu tế văn hóa thông qua sự “phát tán” hay sự truyền bá
các phong tục, kiến thức, nghệ thuật từ xã hội này đến xã hội
khác. Một cách giải thích khau vuắng hạn như lí thuyết “Loại
hình kinh tế — văn hóa” của các nhà dân tộc học Xô Viết cho là
các thực hành sinh kế giống nhau tạo ra Các đặc điểm văn hóa xã
Trong các công trình nghiên cứu của các nhà nhân học tiền
văn hóa có biên giới chồng lên nhau. Theo Alfred Kroeber, các
vùng văn hóa của người Bắc Mỹ bản địa có biên giới trùng với
các vùng môi trường tự nhiên khác nhau. LÍ thuyết quan trọng
nhất về lĩnh vực này là sinh thái văn hóa của Julian Steward.
Các tiếp cận sinh thái văn hóa của Iulian Sieward nhân
mạnh đến sự thích nghị của các nền văn hóa với các điều kiện
của môi trường cụ thể. Thuyết sinh thái văn hóa cho là có một
mối quan hệ sáng tạo và năng động giữa văn hóa và môi trường.
thuyết này cho là các dạng thức lao động — cách mà một xã hội
147
tổ chức và điều chỉnh công việc theo các chu kỳ thời vụ, phân
công nhiệm vụ và sắp xếp các nỗ lực cùng nhau - phần lớn phụ
thuộc vào công nghệ sẵn có và bản chất của nguồn tài Tiguyên sẽ
khai thác. Những dạng thức lao động đến lượt lại có ảnh hưởng
lớn đến các thiết chế xã hội khác, bao gồm các nguyên tắc cư
các xã hội săn bắt và hái lượm phụ thuộc vào môi trường về lĩnh
vực tô chức xã hội và quy mô dân cư. Ở các xã hội này, dân cư
sống thành những nhóm nhỏ. Xã hội mang tính bình quân do
kiểm thức ăn. Gia đình hạt nhân là chủ yếu. Ở các xã hội có
công nghệ phát triển cao, môi trường không còn là một yếu tố có
ảnh hưởng mạnh do vậy lí thuyết sinh thái văn hóa không còn
phù hợp đề nghiên cứu những xã hội này. Thế nhưng, ở những
xã hội này con người không phải hoàn toàn đã tự do. Lúc này
Sfteward cho là văn hóa không đi theo một tiến trình phát
triển phố biến duy nhất. Ông cho là các nền văn hóa có thể tiến
hóa theo con đường riêng của nó tuỳ theo hoàn cảnh môi trường
cụ thể của từng nền văn hóa. Các nền văn hóa ở các vùng môi
một trình tự phát triển và hình hành các đáp ứng văn hóa giống
nhau đối với các thách thức của môi trường. Ông đặt tên cho các
đặc tính văn hóa có mối quan hệ gần gũi với việc sinh tồn là hạt
nhân văn hóa. Các nền văn hóa mà có các đặc tính hạt nhân
giống nhau thuộc về củng một loại hình văn hóa. Khi đã xác
định được các loại hình văn hóa, Steward so sánh và phân loại
chúng theo hệ thống cấp bậc dựa trên tính phức tạp của chúng.
Để tiếp cận với một nền văn hóa mới, Steward cho là không thể
biết trước được hạt nhân văn hóa là cái øì nhưng bằng việc sử
148
dụng phương pháp sinh thái văn hóa người ta có thể xác định
được nó. Phương pháp sinh thái văn hóa của Steward không
phải dựa trên một quan điểm quyết định luận kinh tế cứng nhắc.
Ông đã xem nó như một cách để phân tích xã hội, một cách để
hiểu các đữ liệu văn hóa. Lí thuyết này cho là các nền văn hóa
được định hình bởi nhiều yếu tố khác nhau chứ không phải chỉ
quan trọng của các yếu tố này là việc làm hết sức cần thiết.
Nghiên cứu văn hóa theo hướng tiếp cận sinh thái đã có
nhiều hướng nghiên cứu mới trong thế kỷ qua. Một số các nhà
nhân học đã nghiên cứu các mối liên hệ nhân quả trực tiếp giữa
môi trường và văn hóa mà không chú ý đến việc tổ chức sản
xuất. Cách làm thông thường của họ là giải thích một đặc tính
của văn hóa như là kết quả của một đặc tính sinh thái cụ thể nào
đó. Chẳng hạn như Michael Harner cho là việc người Aztec cổ
xưa thực hành việc hiến sinh con người ở quy mô lớn, theo đó là
tập tục ăn thịt kẻ thù, được giải thích là để làm giảm sự thiếu hụt
chất đạm khi mà dân số phát triển vượt quá nguồn cung cấp thực
phẩm. Cũng theo cách như vậy, Marvin Harris cho là đường như
lí do tôn giáo không hợp lí để giải thích sự tồn tại các chú bò
thiêng ở Ấn Độ. Muốn hiểu được điều này, chúng ta phải xem
xét nó dưới góc độ sinh thái. Harris cho là các chú bò được cho
phép ăn cỏ khắp nơi, thậm chí trong các thành phố lớn bởi vì
không có đất nông nghiệp đành cho việc nuôi gia súc. Harris cho
là chức năng cung cấp sức kéo và phương tiện chuyên chở,
nguồn cung cấp chất đốt và phân bón vốn rất quan trợng trong
nông nghiệp quan trọng hơn là chức năng cung cấp chất đạm khi
cách sinh kế không phải là một sự phân định rạch ròi vì không
thể nào chia trái đất ra thành các vùng sinh thái có ranh giới rõ
ràng được. Những môi trường như đã phân chia ở trên có những
149
điểm thuận lợi trong việc tìm hiểu các quá trình tìm kiếm thức
ăn của con _TưỜi. Các nhà nhân học thường cho là môi trường
không quyết định đến cách thức tìm kiếm thức ăn mà chúng chỉ
đặt ra những giới hạn cho những phương cách đó. Chẳng hạn
như việc trồng trọt ở vùng cực Bắc là không thể nhưng săn bắt là
một trong những phương cách khác có thể. Chính công nghệ,
một phần của văn hóa đã giúp con người thích nghỉ với môi
trường sinh sống của họ. Con người có nhiều cách thích nghi do
họ đã phát triển được các kĩ thuật để thích nghi với môi trường.
Những nên văn hóa có công. nghệ cao thì sẽ kiểm soát môi
trường hiệu quả hơn những nên văn hóa có công nghệ thô sơ.
Tuy nhiên, khi nói tính hiệu quả trong sự thích nghỉ không có
nghĩa cho là các xã hội có công nghệ thô sơ thì kém thông minh
hơn hay không thể thích nghỉ với môi trường của họ. Nhiều xã
hội với công nghệ thô sơ thích nghỉ rất tài tình với môi người
dạng như vậy, con người đã có những cách thích nghỉ cũng rất
đa dạng.
đầu nghiên cứu một cách có hệ thống vào thế kỷ thứ 19 với
những công trình nghiên cứu kinh tế của Ađam Snth, Ricardo
và Mathus. Các nhà nhân học cũng bắt tay vào cuộc với ý kiến
cho là các xã hội thích nghỉ với sức ép của hệ sinh thái bằng
cách tạo ra Sự kiểm soát phương thức sản xuất và áp dụng cách
quản lí nguồn tải nguyên một cách thích hợp. Ở phương diện
này, họ nghiên cứu mối quan hệ giữa kĩ thuật sản xuất, tỷ lệ tăng
dân số và dạng thức định cư và đi cư. Như vậy, các nhà nhân
học quan tâm đến sự giải thích sự giống nhau và khác nhau về
mặt văn hóa xã hội dưới dạng các cách mà xã hội con người `
thích nghỉ với điều kiện vật chất của sự tồn tại theo thời gian.
150
Con người quan hệ với thiên nhiên để đáp ứng các nhu cầu
. cơ bản của mình chẳng hạn như ăn, ở, ngủ, nghỉ. Cách thức con
người quan hệ với môi trường bị văn hóa chỉ phối rất mạnh thể
hiện qua các lĩnh vực như thực phẩm, nhà cửa và trang phục.
- Thực phẩm: trong việc chọn lựa nguồn thực phẩm, con
người sử dụng hầu hết các loại thực vật và động vật có thể ăn
được. Nhưng trong các nền văn hóa cụ thể, một số thực phẩm bị
thịt bò, người Hồi giáo không ăn thịt lợn, người Mỹ không ăn
thực phẩm cũng rất khác nhau ở các nền văn hóa. Ở một số đân
tộc, lúa gạo là thực phẩm chính. Nhưng ở các dân tộc khác thì
ngũ cốc lại là nguồn thực phẩm chính. Có một số dân tộc ăn thịt
gia cầm là chủ yếu nhưng ở một số dân tộc thì lại ăn cá hay rau
phẩm chính. Ngoài giá trị cung cấp cái ăn cho con người, thực
phẩm còn có giá trị biểu trưng. Một số thực phẩm được dành
cho những ngày lễ lạt và số khác dành để cúng tế. Việc tiêu thụ,
trình bày và phân phối thực phẩm cũng thể hiện vị trí của các cá
nhân trong một xã hội. Ví dụ như trong gia đình Việt Nam, thức
ăn ngon thường dành cho người già và trẻ em, phụ nữ có thai,
- Trang phục: chức năng chủ yếu của trang phục là để bảo
vệ con người trong môi trường sinh sống khỏi cái lạnh, cái nắng
nóng nhưng ở mỗi nền văn hóa khác nhau, trang phục còn thể
-hiện vị trí của cá nhân trong xã hội, phân biệt giới, tuổi tác, nghề
nhưng ở mỗi vùng, mỗi nền văn hóa nhà thê hiện rất đa dạng
từ vật liệu, đến kiến trúc, đến vị trí làm nhà,... Chức năng của
151
nhà cũng đa dạng hơn vượt xa mục đích ban đầu là bảo vệ và
là nơi ở của con người. Nhà còn thể hiện giai cấp xã hội, tính
thiêng liêng,...
Sự thích nghi văn hóa của con người đã cho phép con Tgười
có rất nhiều cách thích nighi với những giới hạn do môi trường
đặt ra. Các nhà nhân học văn hóa rất quan tâm đến cách thức mà
loài người có thể điều chỉnh môi trường đa dạng của họ bằng
việc thay đổi thói quen phong tục và văn hóa của họ. Các thay
đổi về văn hóa trong hành vi khiến con người có thể điều chỉnh
Trong sự thích nghi đa dạng của con người trong quá trình
tồn tại và phát triển, sinh tồn là một dạng thích nghĩ quan trọng
của con người với môi trường về nhiều mặt. Sinh tồn là tất cả
các cách THà qua đó con người có được những gì cần thiết cho
cuộc sống — thực phẩm, thức uống, quần áo, nơi ở. Trong đó đặc
biệt quan trọng là thực phẩm vì đây là nguồn cung câp năng
Có hai phương cách sinh tồn chính liên quan đến thực
phẩm: con người \ CÓ thể thu nhặt các vật có sẵn trong tự nhiên
hay họ có thể sản xuất các thứ họ cần. sinh tồn dựa hoàn toàn
vào tự nhiên hiện nay rất hiếm nhưng vốn đã có từ rất xa xưa từ
khi con người xuất hiện trên trái đất này. Sinh tồn dựa vào sản
xuất thực phẩm và các vật cần thiết khác thì xuất hiện trễ hơn.
Sau hàng thế hệ con người hái lượm và săn bắt, họ bắt đầu làm
cho môi trường tự nhiên trở nên Tăng suất hơn. Cây cối và động
vật bắt đầu được thuần dưỡng để tạo nguồn cung cấp thực phẩm
ổn định, đảm bảo cho sự phát triển dân số. Khi bắt đầu sống
trong các đô thị, cách thức con người thích nghĩ với môi trường
cũng trở nên phức tạp hơn. Lúc này, con người không nhất thiết
phải sản xuất các thứ cần thiết cho việc sinh tồn như bằng trồng
trọt và chăn nuôi. Thay vào đó họ có thể sản. xuất ra các hàng
hóa và dịch vụ để trao đổi những thứ khác cần cho cuộc sông
152
Nghiên cứu sinh tồn là nghiên cứu làm thế nào con người có
được những nhu cầu vật chất thiết yếu của cuộc sống, đặc biệt là
thực phẩm từ môi trường sống của họ. Qua việc tìm kiếm thực
phẩm hay việc sinh kế của con người chúng ta sẽ thấy rõ các
giúp con người có một sự thích nghi đa dạng với môi trường như
thế nào. Phương cách sinh kế là nền tảng hoạt động kinh tế của
con người.
Để phân loại các phương cách sinh kế, người ta thường hay
dựa vào công nghệ. Phương thức sinh kế bị ảnh hưởng bởi sự
tương tác giữa môi trường của con người và công nghệ của dân
tộc đó. Theo đó, cách phân loại phổ biến hiện Tay là sự phân biệt
giữa hình thức kinh tế tự nhiên và hình thức kinh tế sản xuất.
Trong đó, hình thức kinh tế tự nhiên gồm loại hình kinh tế săn
bắt. hái lượm và đánh cá. Hình thức kinh tế sản xuất gồm loại
hình kinh tế nông nghiệp dùng cuốc, loại hình kinh tế nông
nghiệp dùng cày, loại hình kinh tế chăn nuôi, loại hình kinh tế
ỶỲ
Hình thức kinh tế Hình thức kinh tế
: Ỷ ‡ ‡_
Săn bắt, hãi lượm và Chăn Xông nghiệp Nông nghiệp Nông nghiệp
loại hình kinh tế này chủ yếu dựa trên kĩ thuật tìm kiếm thức ăn
153
của con người chứ không dựa trên trình tự tiến hóa. Tuy nhiên,
cũng cần phải nhắn mạnh là tuy có sự phân biệt rạch ròi giữa các
loại hình kinh tế nhưng điều này không có nghĩa là mỗi dân tộc
chỉ gắn liền với một loại hình kinh tế nhất định. Trong hoạt động
kinh tế của một dân tộc, các loại hình kinh tế này pha trộn với
nhau, trong đó sẽ có một loại hình kinh tế đóng vai trò chủ đạo.
Hình thức kinh tế tự nhiên là việc khai thác các loại thực vật
và động vật hoang dại có sẵn trong tự nhiên. Hình thức này
chiếm thời gian khá dài trong lịch sử tồn tại của loài người. Con
người bắt đầu sản xuất lương thực với việc thuần đưỡng cây
trồng và động vật chỉ cách đây khoảng 10.000 năm khi có cuộc.
cách mạng Đá mới. Hiện nay, mặc đù đa số các xã hội đều sản
xuất (hực phẩm nhưng vẫn có nhiều xã hội trên thế giới vẫn còn
tồn tại hình thức kinh tế tự nhiên này nhưng khá hiếm. Các xã
hội này rất đa dạng về mặt địa lí từ vùng bán sa mạc như ở châu
Phi, vùng rừng nhiệt đới ở Đông Nam Á và cả vùng cực Bắc ở
vùng bờ biển Thái Bình Dương của Canada. Hình thức tự nhiên
của họ chủ yếu là săn bắt động vật, hái lượm các loại cây TẾ củ
mọc hoang và đánh bắt cá ở các biển và sông hồ. Do vậy, hình
thức này thường được gọi với tên chung là Săn bốt,hái lượm và
đánh cá. Những người sống bằng loại hình kinh tế này không
trồng trọt và chăn nuôi một cách có hệ thống mà sống bằng cách
- thu nhặt những sản phẩm của tự nhiên, đánh cá và săn bắt thú
rừng lớn nhỏ. Hay nói cách khác, họ sống dựa hoàn toàn vào
những sản phẩm thiên nhiên có sẵn. Trong quá khứ, loại hình
kinh tế này hiện điện nhiều ở các vùng môi trường khác nhau
hơn ngày nay. Ngày nay, theo Grant Evan (2001) chỉ còn
khoảng 30.000 người trên thế giới sống bằng loại hình kinh tế
này. Đa số những người săn bắt và hái lượm sống ở những vùng
154
Các nhà nhân học đặc biệt quan tâm đến những Người sẵn
bắt và hái lượm này bởi vì đây là phần quan trọng của lịch sử
loài người sơ khai. Sự phân công lao động theo giới trong đó
nam săn bắt, nữ hái lượm, việc chia sẻ thức ăn trong nhóm và sự
phát triển ngôn ngữ tắt cả được hình thành như là các yếu tố
tương liên của cách sống săn bắt và hái lượm. Mặc dù các nhà
khoa học thường mong đợi là những người săn bắt và hái lượm
hiện nay sẽ cung cấp cho chúng ta những dấu vết quan trọng về
đời sống của con người sơ khai nhưng trên thực tế những nhóm
người này hiện nay lại không đại điện cho một cách sống bất
biến từ trong quá khứ bởi vì loại hình kinh tế là một phạm trù
- găn bắt và hái lượm XOay XỞ khá tốt để tồn tại nhờ. vào các kĩ
năng bằm sinh và am hiểu sâu sắc về môi trường sống của họ.
Kĩ thuật săn bắt của họ tuy đơn giản nhưng không thô sơ. Họ có
nhiều phương pháp khéo léo để săn các loại thú lớn nhỏ khác
nhau. Vì săn bắn là một hoạt động chiếm ưu thế cho nên trước
đây người ta thường tập trung nghiên cứu hoạt động này và chỉ
mới gần đây người ta mới chú ý nhiều đến hái lượm. Nguyên
nhân là do trên thực tế, đối với nhiều nhóm hái lượm, phần thực
phẩm có nguồn gốc thực vật chiếm phân đáng kể trong khẩu
phần ăn (khoảng 80%) do vậy săn bắt đối với họ không quan
trọng bằng hái lượm. Nếu tính về lượng thời gian cần phải có để
kiếm đủ nguồn thực phẩm thì săn bắt và hái lượm thực ra không
phải là một lối sống khó khăn và không hiệu quả. James
Woodburn trong nghiên cứu của mình về người Harda ở
Tanzania đã ước tính là dân tộc này tuy mất ít thời gian và niãng
lượng nhưng đỉnh dưỡng của họ dường như tốt hơn những bộ
lạc làm nông nghiệp ở các vùng lân cận (Woodburn 1968)”.
Publishing, tr.133.
155
Có một số đặc trưng về mặt xã hội điển hình trong loại hình
chuyển của họ phụ thuộc vào các loại thú và các loại thực phẩm
thực vật có sẵn. Hình thức tổ chức xã hội điển hình của những
người săn bắt là cư trú ở những khu trại nhỏ gồm có những
người có huyết thống với nhau. Những nghiên cứu gần đây đã
chứng minh là tư cách thành viên trong những nhóm người săn
bắt điển hình có tính linh động nhiều hơn người ta nghĩ. Ở
những người săn bò rừng Blackfeet ở vùng đồng bằng Bắc Mỹ,
những người không có huyết thống có thể cùng cư trú trong các
phân công lao động theo tuổi tác và theo giới trong đó phụ nữ thì
thu nhặt thực phẩm và đàn ông thì đi săn. Phụ nữ trong các xã
hội này còn may quần áo và đóng góp vào kinh tế của nhóm
theo nhiều cách khác nhau chắng hạn như tham gia mang vác và
Ferraro (1997) đưa ra một số điểm đặc trưng của các xã hội
là sản lượng thu nhặt thực phẩm không đủ nuôi một số lượng lớn
dân cư. Ngoài ra, nếu kĩ thuật thu lượm này phát triển theo
hướng này càng hiệu quả thì sẽ nhanh chóng làm cạn kiệt nguồn
thức tập hợp các gia đình. Tổ chức xã hội điển hình trong các xã
hội này là các nhóm nhỏ thân tộc kết hợp với nhau vào một
khoảng thời gian nào đó trong năm. Trong các nhóm thị tộc này,
156
tư cách thành viên nhóm rất linh hoạt. Theo đó, các thành viên
của các gia đình khác nhau tách và nhập nhóm thường xuyên.
Kiểm soát xã hội gói gọn trong các thiết chế gia đình.
- Các dân tộc sống bằng hình thức khai thác tự nhiên hiện
nay thường cư trú ở các vùng xa xôi hẻo lánh. Sỡ dĩ sống xa các
trung tâm đô thị như vậy là do các dân tộc này có công nghệ
thấp nên bị các dân tộc có công nghệ cao đẩy lùi ra những vùng
ngoại biên như thế. Và những vùng đất này có nguồn tài nguyên
thích hợp với trình độ tìm kiếm thực phẩm của họ. Các dân tộc
- sống bằng loại hình này hiện nay sống ở các vùng hẻo lánh trên
thế giới chẳng hạn như vùng lãnh nguyên Alaska, sa mạc
Nam Phi.
Giống như nông nghiệp quảng canh hay trồng trọt, hình thức,
chăn nuôi xuất hiện vào thời đồ Đá mới. Nhiều nghiên cứu cho
là chăn nuôi xuất hiện cùng thời với trồng trọt. Đến một giai
đoạn phát triển, từ cư dân trồng trọt và chăn nuôi tách ra một bộ
phận cư dân chăn nuôi ở những nơi có đồng cỏ lớn, hình thành
loại hình chăn nuôi du mục. Hình thức sản xuất này chủ yếu là
chăn nuôi các loại động vật ăn cỏ đã được thuần dưỡng. Đây là
một sự thích nghi đặc biệt với môi trường chủ yếu có khí hậu
khô, đất đai cần cỗi như các vùng cực và cận cực Bắc, vùng sa
mạc, vùng núi và đồng cỏ, vốn không có khả năng sản xuất ra
lượng lương thực đủ cho một số lượng lớn dân cư như hình thức
nông nghiệp. Người ta không thể trồng trọt các loại cây lương
thực ở những vùng địa hình này. Ở đây chỉ có các loài thực vật
thích nghỉ với từng loại địa hình sinh sống. Những loại thực vật
này là nguồn thức ăn chủ yếu cho các loại động vật chăn thả.
Các loại động vật chủ yếu được nuôi là: cừu, dê, bò Tây Tạng và
157
lạc đà. Chúng cung cấp thịt và sữa cho con người. Hình thức
chăn nuôi này chủ yếu phổ biến ở các vùng Đông Phi (gia súc),
Bắc Phi (lạc đà), Tây Nam Á (cừu và để) và vùng cận Bắc cực
Hat hình thức chủ yếu của loại hình kinh tế này là đi
hình thức này, các đàn gia súc đều đi chuyển đến các bãi cỏ
khác nhau theo mùa. Với hình thức di chuyển đàn gia súc, một
phần của nhóm chăn nuôi di chuyển cùng với đàn gia súc, đa
số thành viên còn lại sống định cư tại làng. Các thú ăn có
những vùng đất ở các vĩ độ hay những vùng khí hậu khác
nhau. Thông thường, đàn ông dẫn gia súc đến các đồng cỏ
trong khi phụ nữ, trẻ em và một số đàn ông ở lại làng. Những
hạn như ở dân tộc Turkana ở Uganda, đàn ông và thanh niên
đi theo các đàn gia súc đến các cánh đồng cỏ xa xôi trong khi
đa số các thành viên khác của làng ở lại và làm công việc
trồng trọt. Các ngôi làng của các nhóm người này có khuynh
hướng ở tại các vùng có nguồn nước để đảm bảo cho nơi đây
.có đủ cỏ cho gia súc ăn lâu nhất trong năm. Ở hình thức du cư
đàn gia súc. Quanh năm cả cộng đồng gồm có đàn ô ông, phụ
định ở một nơi nào cả. Các nhóm người này cư trú ở vùng
truyền thống đi chuyển trên đoạn đường dài hơn 480 km. Mỗi
năm họ bắt đầu gần vùng bờ biển và đi chuyển các đàn gia súc đi
đến các vùng đồng cỏ cao 5.400 m so với mực nước biển.
Loại hình kinh tế chăn nuôi bản thân nó không thể nuôi sống
được một cộng đồng người vÌ con người cần phải có thêm các
loại ngũ cốc trong khẩu phần ăn của mình. Vì thế, loại hình kinh
158
tế chăn nuôi thường được kết hợp với trồng trọt hay kết hợp với
việc buôn bán với các cư dân nông nghiệp khác. Do loại hình
kinh tễ chăn môi này luôn kết hợp với trồng trọt hay buôn bán
nên trong bản thân loại hình này cũng tồn tại các dạng khác
nhau. Hiện nay, những người chăn nuôi cũng tham gia vào kinh
tế thị trường với việc bán gia súc ra thị trường. Đây cũng là một
dạng thích nghi quan trọng của những người chăn nuôi hiện nay.
các kĩ thuật đơn giản, không có sự tham gia của cơ khí trong sản
xuất nông nghiệp. Đây là loại hình canh tác đơn giản sử dụng
các công cụ bằng tay chẳng hạn như cuốc hay que đào. Đất đai
thường được phát quang bằng tay, trong canh tác không sử dụng
hệ thống tưới tiêu hay phân bón. Kĩ thuật chủ yếu là phát và đốt
(slash-burn), đôi lúc còn được gọi là trồng trọt luân khoảnh
cultivation). Hình thức này thường thấy ở các vùng rừng nhiệt
đới và thảo nguyên nơi mà việc phát quang đất canh tác là một
_ công việc cần nhiều sức lực. Người ta dọn đất bằng việc hạ đốn
cây, đốt chúng và sau đó trồng trọt trên vùng-đất vừa được phát
quang này. Tro bụi đóng vai trò như phân bón. Sau khoảng hai
năm canh tác, đất đai hết độ màu mỡ, người ta bỏ hoang đất cho
các loại cây dại mọc lên để đất lấy lại độ phì nhiêu. Dạng canh
tác này có thể làm xói mòn và cần cỗi đất đai nếu thời gian bỏ
hoang đất không đủ lâu-để đất khôi phục lại độ màu mỡ. Các
nghiên cứu nhân học gần đây cho thấy trồng trọt theo phương
cách này không phải là một phương thức lạc hậu và bất cần. Các
canh) trong giáo trình của Serena Nanda (1980) và một số giáo trình của các tác
giả khác tương ứng với cách phân loại của GS Ngô Văn Lệ (1998) với cách gọi
Nông nghiệp dùng cuốc và Nông nghiệp dùng cày và sức kéo của động vật theo
thứ tự.
159
- cư dân trồng trọt theo lối nương rẫy có các kĩ thuật phát quang,
đốt, chăm sóc đất và luân vụ rất phát triển. Người Kofwar ở thảo
nguyên Jos, châu Phi có hệ thống ruộng bậc thang rất ấn tượng,
Một đặc điểm quan trọng của nông nghiệp quảng canh là
các cánh đồng trồng trọt không được sử dụng vĩnh viễn từ năm
này sang năm khác mà chúng sẽ bị bỏ hoang một số năm sau khi
đã canh tác. Đặc điểm này tương phản với hình thức nông
nghiệp thâm canh. Những người làm nông nghiệp quảng canh
trồng trọt và thu hoạch bằng các công cụ đơn giản chẳng hạn
như cuốc, các loại công cụ đào đất thô sơ, không sử dụng sức
kéo của động vật, kĩ thuật tưới tiều, bón phần hay cày xới. Loại
hình này kém năng suất và sử dụng ít lạo động hơn các dạng
trồng trọt khác. Do nông nghiệp quảng canh có năng suất thấp
thống thị trường. Loại hình này chỉ sản xuất ra đú thực phẩm để
muôi sống cộng đồng của mình, không sản xuất đư để trao đổi
mua bán với các cộng đồng cư đân phi nông nghiệp khác. Dân
Mặc dù nông nghiệp quảng canh có thể được tiến hành ở các
vùng đất khô chẳng hạn như những người đa đỏ Hopi sống ở
Tây Nam Arizona trồng bắp, đậu và bầu bí nhưng hình thức này
lại là sự thích nghí điển hình của con người với vùng rừng rậm
nhiệt đới. Loại hình này thường thấy ở Đông Nam Á, vùng cận
sa mạc Sahara châu Phi, một số đảo ở Thái Bình Dương và vùng
Nguyên của Việt Nam rất phổ biến hình thức canh tác này trước
_ Mặc đù một số người trồng trọt theo lỗi nương rẫy phụ
thuộc chủ yếu vào một vụ mùa nhưng cũng có một số người
trông nhiều mùa vụ. Tuy nhiên, vì cây trồng theo lỗi nương rẫy
160
không cung cấp đủ chất đạm cần thiết cho sức khoẻ con người,
những người trồng trọt này có thể cũng phải săn bắt và đánh cá,
hay nuôi một số động vật thuần dưỡng. Ví dụ như ở Tân Ghinê,
ngoài việc trồng trọt theo hình thức nông nghiệp quảng canh,
người ta còn nuôi lợn để bỗ sung chất đạm; người Hopi nuôi cừu
Do cách canh tác theo lối nương rẫy cần phải luôn thay đổi
khu vực trồng trọt nên người ta thường nghĩ là các cư dân nầy
cũng phải thường xuyên thay đổi chỗ ở. Thật ra thì không nhất
. thiết phải như vậy. Một số cộng đồng trồng trọt theo lối này
cũng hình thành làng vĩnh viễn và cư trú lâu đài. Ở các cộng
đồng trồng trọt quảng canh có sự phân công lao động theo giới
điển hình. Đàn ông làm các công việc như phát quang, đốt rừng,
trồng trọt, làm cỏ, và làm hàng rào bảo vệ; phụ nữ thu hoạch,
vận chuyển thức ăn về làng và chế biến thức ăn. Ở những cộng
đồng có kết hợp với săn bắt thì săn bắt là nhiệm vụ của đàn ông,
đánh bắt cá thì cả đàn ông và phụ nữ đều có thể tham gia. Phụ
đông ở loại hình kinh tế trồng trọt quảng canh hơn các loại hình
xã hội khác. Điều này có thể do vai trò quan trọng của phụ nữ
trong việc trồng trọt và các hoạt động chăn nuôi kết hợp.
kéo động vật và các kĩ thuật tưới tiêu và chăm sóc đất đai với
việc sử dụng phân bón hữu cơ và các phát minh công nghệ khác _
hiệu quả hơn nhóm cư dân nông nghiệp quảng canh. Ở loại hình
kinh tế này, người ta canh tác trên một cánh đồng lâu dài và
không cần phải bỏ hoang nó một thời gian để lấy lại độ màu mỡ
cho đât.
161
Trong việc làm tơi đất, cày xới có hiệu quả hơn là \ việc dùng
cuốc và chọc lỗ. Bằng việc xới đất, Các dưỡng chất trong đất
được chuyển lên bề mặt cung cấp cho cây trồng. Tuy cày xới cần
phải dùng đến kĩ thuật phát quang đất kĩ hơn nhưng nó lại cho
phép có thể sử dụng đất liên tục từ năm này sang năm khác.
Tưới tiêu là một kĩ thuật quan trọng khác trong nông nghiệp
thâm canh. Mặc dù một số cư dân vẫn đùng các kĩ thuật đơn
giản trong việc giữ nước và điều tiết nước nhưng nông nghiệp
thâm canh ở các vùng đất khô chỉ có thể được thực hiện với các
kĩ thuật tưới tiêu phức tạp. Ở những vùng địa hình đổi núi, nông
nghiệp thâm canh cần một số loại hình ruộng bậc thang để ngăn
chặn nước và độ màu của đất chảy xuống phía đưới đôi.
bón phân tự nhiên, chọn lọc giống cây trồng vật nuôi, sự luân
phiên mùa màng để tăng năng suất. Để có thể nuôi mnột cộng
đồng dân cư đông đúc, những người trồng trọt quảng canh phải '
gia tăng diện tích đất trồng trọt còn những người trằng trọt thâm
canh lại sử dụng cách kĩ thuật thâm canh trên cùng một mảnh
đất. Trường hợp của Indonesia mỉnh hoạ rõ nét cho sự khác biệt
về năng suất của hai loại hình kinh tế nông nghiệp quảng canh.
và thâm canh. Trong khi đảo Java chỉ chiếm 9% điện tích đất
của Indonesa nhưng lại cung cấp lương thực cho 2/3 dân số của
Indonesia. Các hòn đảo khác đù chiếm tới 90% điện tích đất của
cả nước nhưng chỉ cung cấp thực phẩm cho 1⁄3 dần cư với hình
thức nông nghiệp quảng canh. Ở Java, việc trồng lúa nước thâm
canh sử đụng các ruộng bậc thang có hệ thống tưới tiêu rất phức
tạp. Ở Việt Nam, vùng Đồng bằng sông Cửu Long được xem là
vựa lúa quan trọng của cả nước. Tuy chỉ chiếm 12% diện tích tự
nhiên của cả nước nhưng vùng đồng bằng này cung cấp 50%
lượng gạo của cả nước và 90% lượng gạo xuất khẩu của cả
162
Năng suất cao của nông nghiệp thâm canh không chỉ là đo
việc áp dụng các kĩ thuật phức tạp và tinh vị hơn mà còn từ việc
sử đụng nhiều lao động. Nông nghiệp thâm canh đòi hỏi con
người làm việc lâu hơn và cực nhọc hơn để có được năng suất
cao. Ví dụ như ở các ruộng bậc thang, người ta phải đào mương,
tu sửa kênh, làm bằng phẳng các ruộng bậc thang và làm bờ kè
cho chúng. Nông nghiệp thâm canh còn đòi hỏi phải có sự đầu
quảng canh, công cụ lao động thô sơ và đơn giản với cuốc hay
dụng cụ đào đất. Nhưng ở loại hình thâm canh, ngoài sức lao
động còn cần phải có cày và động vật kéo. Tuy loại hình nông
nghiệp thâm canh có thể kiểm soát nguồn thực phẩm nhưng
năng suất của nó cũng phụ thuộc vào môi trường rất nhiều.
Nông nghiệp thâm canh thường đi kèm với cuộc sống làng
mạc ổn định và các đạng tô chức xã hội phức tạp khác. Sự phát
triển của nông nghiệp thâm canh và sự gia tăng dân số cũng dẫn
đến sự gia tăng tính chuyên biệt nghề nghiệp, phân tầng xã hội
do sự khác nhau khá lớn về của cải, sự tập trung quyền lực chính
trị và sự phát triển của nhà nước. Những người trồng trọt mà là
một phần của tổ chức nhà nước phức tạp được gọi là nông dân.
Mặc dù nông dân chủ yếu sản xuất tự cung tự cấp cho gia
đình của họ nhưng khác với các cư dân trồng trọt khác, họ tham
gia vào các thiết chế chính trị và xã hội lớn hơn chẳng hạn như
nhà nước. Trong khi người trồng trọt quảng canh sản xuất thực
phẩm cho nhóm địa phương và sở hữu đất trồng trọt thì nông
dân lại có rất ít sự kiểm soát đối với đất đai của họ và thực phẩm
họ sản xuất ra phục vụ cho các cộng đồng đân cư phi nông
nghiệp khác. Đặc điểm của kinh tế nông dân là một phần sản
lượng nông nghiệp của họ bị trưng đụng bởi một tầng lớp ph
sản xuất có ưu thế hơn về chính trị. Người nông luôn ở tầng lớp
thấp của xã hội. Người nông dân phải chỉ trả cho việc sử dụng
đất đai bằng tiền mặt, phần trăm vụ mùa, làm công cho chủ đất,
163
* Nông nghiệp công nghiệp hóa
Lịch sử phát triển của loài người đi theo hướng phát triển
việc khai thác môi trường ngày càng hiệu quả để có thể nuôi
sống cộng đồng dân cư ngày càng gia tăng về số lượng, và cần
có các hệ thống xã hội phức tạp. Cuộc cách mạng thứ ba trong
việc sản xuất thực phẩm của con người là nông nghiệp công
nghiệp hóa xuất hiện cách đây khoảng vài trăm năm với sự ra
đời của cuộc cách mạng công nghiệp. Loại hình sản xuất thực
phẩm công nghiệp phụ thuộc vào nguồn năng lượng công nghệ
hơn là vào năng lượng con người và động vật. Sức gió và nước
(dưới dạng cối xay gió và bánh xe nước) được sử dụng trong các
bước đầu của giai đoạn công nghiệp, nhưng hiện nay nông
hạn như máy cày và máy gặt đập. Khoa học hóa chất được áp
dụng trong nông nghiệp công nghiỆp ‹ để sản xuất ra phân bón,
thuốc trừ sâu, trừ cỏ. Tất cả những yếu tố này đã làm gia tăng
Cùng với bước nhảy vọt về năng suất nông nghiệp trong hai
trăm năm qua, công nghệ đã được sử dụng rộng rãi trong các
lĩnh vực sản xuất thực phẩm khác ngoài nông nghiệp. Chẳng hạn
như các đoàn tàu đánh cá xa bờ với các trang thiết bị hiện đại
như máy tầm ngư, ra đa,... có thể đánh bắt số lượng rất lớn cá
nigoài biển khơi. Các đột phá khoa học về gen trong lĩnh vực
chăn nuôi đã cung cấp số lượng lớn thịt, sữa cho nhu cầu của
con người. Tuy nhiên, nông nghiệp công nghiệp hóa vẫn là lĩnh
vực có những biến đổi và hệ quả quan trọng đến đời sống của
COn người.
Việc tìm kiếm và sản xuất thực phẩm, đặc biệt là loại hình
thay đổi rất đáng kể kể từ cuối thế kỷ XVIH. Trước cuộc cách
' mạng công nghiệp, nông nghiệp chủ yếu là tự cung tự cấp; nông
dân sản xuất mùa màng để phục vụ cho tiêu đùng của chính họ
chứ không để bán. Tuy nhiên, ngày nay nông nghiệp mang tính
164
thương mại với việc đa số các loại thực phẩm được sản xuất ra
được bán để lấy tiền. Ngoài ra, nông nghiệp công nghiệp hóa
còn có các hệ thống trao đổi thị trường phức tạp do bản chất
chuyên biệt hóa của nó. Trong vài thập niên vừa qua trên thế
giới, đặc biệt là ở phương Tây, khuynh hướng thương mại hóa
nông nghiệp ngày càng gia tăng với sự xuất hiện các tổ chức sản
xuất nông nghiệp với quy mô lớn sử dụng các công nghệ tiên
tiễn nhất và thuê mướn nhiều nhân công đã dẫn đến việc suy
giảm số dân tham gia vào việc sản xuất lương thực. Sử đụng
máy móc nhiều hơn là sức người hay sức động vật đã dẫn đến sự
'gia tăng đáng kể về năng suất và hiệu quả ở loại hình kinh tế
này. Từ một hệ thống nông nghiệp tiền tư bản điển hình mà theo
đó có khoảng 80 đến 100% dân số tham gia vào việc sản xuất
thực phẩm, thế giới đã chuyển Sang các quốc gia công nghiệp
hóa mà trong đó dưới 10% dân số có thể sản xuất thực phẩm cho
Nhưng công nghiệp hóa, cũng như các hệ thống thích nghỉ
khác cũng phát sinh những vẫn để cần giải quyết. Nó có tiềm
năng gia tăng năng suất nhưng cũng tiềm ấn những hiểm họa
không lường. Các hiểm họa thiên nhiên con người đang phải
Tóm lại, hai loại hình kinh tế nông nghiệp quảng canh và
thâm canh là loại hình kinh tế nông nghiệp phi công nghiệp hay
còn gọi là nông nghiệp truyền thống. Ở các loại hình này, các
công cụ chú yếu là các dụng cụ cầm tay chẳng hạn như cuốc,
xéng và sức kéo gia súc. Mùa màng được trồng để phục vụ tiêu
thụ của địa phương. Nhưng với việc dùng cày, bón phân gia súc
và hệ thống tưới tiêu trong nông nghiệp thâm canh có thể dẫn
đến năng suất cao để có đủ lương thực bán ra thị trường. Loại
hình nông nghiệp công nghiệp hoá là hình thức sản xuất thực
phẩm chủ yếu đựa vào các phương tiện công nghệ để khai thác
năng lượng chẳng hạn như xăng dầu hay thủy lực thay vì sức
người và sức động vật. Hiện nay các công cụ máy móc sử dụng
165
trong nông nghiệp có thể kế đến là máy cày, bừa, và máy gặt,
máy tuốt lúa, máy thu hoạch. Các loại phân hóa học được sử
dụng để làm tăng năng suất của đất đai, các loại thuốc trừ sân,
trừ cỏ. Nông nghiệp công nghiệp hóa tạo ra nguồn sản lượng cao
với chỉ phí sức lao động con người thấp. Các kĩ thuật sử dụng
trong nông nghiệp công nghiệp hóa không hiệu quả khi so về tỷ
lượng calory tạo ra. Vì thế, ông nghiệp công nghiệp hóa có
năng suất cao với việc chỉ cần một số lượng nhỏ người có thể
sản xuất ra đủ lượng thực phẩm cho một số lượng lớn dân
chúng. Tính năng suất này, ví đụ như ở Mỹ, chỉ có dưới 3% dân
số tham \ gia vào công việc sản xuất thực phẩm nhưng có thể nuôi
được số dân không lỗ như vậy. Tuy nhiên, loại hình này lại
không hiệu quả so với các hệ thống sản xuất dựa vào sức người
và sức động vật khi nó cần phải có nhiều năng lượng để sản xuất
ra một đơn vị calory. Ngoài việc sử dụng sức lao động của con
người trên đồng ruộng, nông nghiệp công nghiệp hóa còn cần
đến công việc của các chuyên gia vốn là những người sản xuất
và bảo dưỡng các thiết bị nông nghiệp, sản phẩm dầu hóa chẳng
hạn như xăng và dầu để chạy các thiết bị, phân bón hóa học,
thuốc trừ sâu và thuốc trừ cỏ để gia tăng năng suất. Ngoài Ta còn
có các phí tổn trong việc chuyên chở nông sản đến nhà máy,
đóng gói thực phẩm, phân phối thực phẩm đến các chợ và thị
trường và cả trong việc tiếp thị sản phẩm. Nông nghiệp công
nghiệp hóa cũng có những cái giá phải trả về lâu về dài với
những tác động đến môi trường, chẳng hạn như thuốc trừ sâu có
thể ảnh hưởng đến nguồn nước ngầm mà rất dễ đàng ảnh hưởng
đến con người và các động vật khác. Các thiết bị máy móc công
nghiệp được sử đụng trên đồng ruộng có thể làm mất đi lớp đất
mặt nhanh hơn so với cách làm nông thời tiền công nghiệp. Việc
sản xuất nông nghiệp với quy mô lớn ở khắp nơi trên thế giới đã
làm giảm lượng nước, làm thay đổi hệ sinh thái gần các nguồn
nước mặt.
166
Hiện nay, ở một số xã hội trên thế giới, khi nền kinh tế của
họ đã phát triển cao, việc sản xuất không còn đóng vai trò quan
trọng nữa, các xã hội này chuyên về loại hình kinh tế dịch vụ
vốn sẽ tạo ra nhiều lợi tức hơn. Dịch vụ đó là những công việc
phục vụ cho các nhu cầu của nền kinh tế, chẳng hạn như địch vụ
thương mại, vận tải (cảng, hàng hải, hàng không), bưu chính
Việt Nam với 54 thành phần dân tộc cư trú ở các vùng địa lí
tự nhiên khác nhau bao gồm miền núi, miền trung du và miền
đồng bằng là một bức tranh minh họa cho các loại hình kinh tế
vừa kế ở trên. Các loại hình kinh tế này pha trộn nhau tạo thành
một bức tranh đầy màu sắc về tính đa đạng của từng vùng sinh
thái tự nhiên. Miền núi và miền trung du là địa bàn cư trú chủ
yếu của các dân tột ít người ở Việt Nam. Trong số 53 đân tộc it
đồng bằng và thành thị. Đồng bằng là địa bàn cư trú chủ yếu của
người Việt, dân tộc chủ thể. Tùy theo điều kiện địa lí và trình độ
phát triển xã hội của từng dân tộc, các dân tộc ít người ở Việt'
Nam có hai hình thái kinh tế chính: nông nghiệp lúa nữớc ở
vùng thấp và canh tác lúa cạn ở nương tây (nông nghiệp quảng
Ở nước ta, các dân tộc thuộc nhóm Việt - Mường, Tày -
Thái, Chăm, Khmer sống bằng nông nghiệp lúa nước (nông
nghiệp thâm canh). Các cư dân này canh tác các thung lũng ven
sông, suối (người Mường, người Tày, người Thái ở phía Bắc),
những cánh đồng thuộc vùng duyên hải miền Trung (người
Chăm) hay đồng bằng sông Hồng (người Việt), sông Cửu Long
(Việt, Hoa, Khmer). Vì làm lúa nước nên ở các dân tộc này, kĩ
* . Đặng Nghiêm Vạn (cb) (1998), Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Dần tộc học đại
l7 _.
thuật thủy lợi phát triển. Hiện nay, tuy nông nghiệp công nghiệp
đã xuất hiện nhưng loại hình hình này chỉ được sử dụng kết hợp
với loại hình nông nghiệp thâm canh. Cụ thể như trong nông
nghiệp ngoài việc sử dụng sức kéo động vật, các máy móc cơ
giới đã được sử dụng rộng rãi như máy cày, máy suốt, máy bơm
THƯỚC; SỬ đụng phân bón hữu cơ kết hợp với vô cơ. Nguyên nhân
của sự kết hợp này là do quy mô canh tác nông nghiệp Của các
dân tộc còn nhỏ, điều kiện kinh tế, và một phần do yếu tố văn
hóa quy định. Những yếu tố này chưa cho phép các cư dân này
Những cư dân sinh sống ở vùng rẻo cao và rẻo giữa khai
phá những thửa ruộng bậc thang, canh tác dựa vào nguồn nước
tự nhiên. Thế nhưng, diện tích canh tác theo phương thức này
không lớn. Họ chủ yếu theo phương thức canh tác nương rẫy
hay nông nghiệp quãng. canh. Như người Mường tuy canh tác
lúa nứơc ở một số nơi, nhưng những người cư trú dọc theo hai
bờ sông Đà và một số triển núi vẫn duy trì hình thức canh tác
phát nương làm rẫy. Người Thổ, cư trú ở các triền dốc thoai
gần sông ngòi, đất đai màu mỡ phù hợp, họ lại không làm nông
nghiệp tưới nước mà bằng hình thức ruộng cạn chờ mưa. Kinh tế
chính của họ dựa vào nông nghiệp phát nương làm rẫy. Người
vùng cao sử dụng cuốc để sản xuất nông nghiệp. Phương pháp
canh tác phát nương chặt và đốt đóng vai trò chủ yêu trong canh
tác của họ. Canh tác lúa nương, họ làm các Tuộng nương ở các
triển đồi hay chân núi. Những vùng đất trống thoai thoải này Ít
tốn công hơn những vùng đất bằng phẳng khi canh tác. Dụng cụ
trồng trọt chủ yếu là rìu để đốn cây, dao để phát cỏ, cuốc để xới
. đất, gậy bịt sắt để chọc lỗ, cái liềm đề cắt lúa. Trâu được sử dụng
không phải để kéo mà để giẫm đất ở các đồng ruộng ngập TƯỚC
trước khi trồng lúa. Ở các ruộng nương, lúa được trồng luân
.168
Kinh tế chăn nuôi ở nước ta vẫn chưa tách khỏi nông nghiệp
đo không có các cánh đồng có lớn. Gia súc thường được nuôi để
lấy sức kéo, làm phương tiện chuyên chở và cung cấp thịt.
Ở hầu hết các đân tộc ít người ở Việt Nam, do sống gần các
cánh rừng, bờ sông, suối, bên cạnh nông nghiệp, hình thức kinh
tế khai thác tự nhiên vẫn còn phổ biến nhưng đóng vai trò thứ
yếu. Săn bắt phổ biến ở một số dân tộc Trường Sơn -Tây
Nguyên. Ở những vùng ven sông, suối có nghề đánh cá. Theo
Đặng Nghiêm Vạn (2001), người Chứt sống ở tỉnh Quảng Bình,
có các nhóm địa phương như Sách, Rục, Arem. Trước năm
Arem sống chủ yếu bằng việc săn bắt và thu lượm lâm sản.
Người Chứt sống chủ yếu bằng canh tác nương rẫy. Ngoài ra, họ
còn săn các loại động vật nhỏ bằng bẫy và cung tên. Hái lượm
trái cây, rau và nấm, đào các loại rễ cây ăn được bằng dao và
que nhọn. Bắt cá bằng tay, sử dụng cần câu không móc câu hoặc
các loại cây độc, tát suối. Lưới chỉ mới được sử dụng. Ở người
Thái, tuy nông nghiệp phát triển, hái lượm và săn bắt vẫn đóng
vai trò quan trọng trong đời sống của họ. Rừng cung cấp một
lượng thực phẩm quan trọng. Hình thức trao, đổi chính là hàng
đổi hàng thông qua thương lái người Kinh hay người dân tộc
giữa dân tộc này với dân tộc khác. Người Xtiêng sống ở tỉnh
Bình Phước, một nhóm nhỏ sinh sống ở Lâm Đồng. Phương
pháp canh tác của người Xtiêng giống với của người Mạ, Mnông
và Cơ ho với hình thức canh tác nương rẫy. Họ đi săn bắt và hái
lượm để bổ sung cho nguồn thực phẩm khi sản lượng lúa thu
hoạch không nhiều. Người Xtiêng rất giỏi về đánh cá và săn bắt.
Đánh bắt cá chủ yếu vào mùa mưa, dụng cụ đánh cá là bằng đao,
que nhọn hay tên tắm chất độc. Người Xtiêng còn bắt cá bằng
việc ngăn đòng nước, sử dụng lưới hay bẫy. Hái lượm hoa quả là
169
__ Tóm lại, hiện nay tuy nông nghiệp đã được cơ giới hóa
nhưng việc sử dụng chúng vẫn còn hạn chế. Đa số các dân tộc ở
Việt Nam sử dụng kết hợp các loại hình kinh tế với nhau tùy
theo môi trường địa lí họ sinh sống. Có nơi, kết hợp giữa nông
nghiệp thâm canh/ quảng canh với nông nghiệp công nghiệp
cộng thêm với loại hình săn bắt hái lượm và đánh cá trong đó
nông nghiệp thường đóng vai trò chủ đạo. Chính sự kết hợp đa
dạng này là một minh họa sống động cho sự thích nghi đa dạng
một cách chủ động và sáng tạo của con người đối với môi
trường sống. Cùng với xu hướng phát triển ngày càng gia tăng
về tốc độ cả cường độ, các kĩ thuật sử dụng trong việc tìm kiếm
và sản xuất thực phẩm đã được cải tiến. Như vậy, phương thức
mưu sinh của con người, cụ thê là của các dân tộc ở Việt Nam
cho thấy sự thích nghi đa dạng của con người với môi trường.
Sự thích nghỉ đó chính là việc cải tạo môi trường theo hướng
4. HỆ THÔNG KINH TẾ
dùng tài nguyên. Nghiên cứu hệ thống này là nhiệm vụ của kinh
tế học. Cũng cùng mục đích nghiên cứu hệ thống kinh tế này với
các nhà kinh tế học nhưng cách tiếp cận của các nhà nhân học lại
theo hướng hoàn toàn khác. Trong khi các nhà kinh tế học
thường tập trung vào các quốc gia hiện đại và phát triển và các
hệ thống tư bản chủ nghĩa thì các nhà nhân học đã mở rộng hơn
cách hiểu về các nguyên tắc kinh tế bằng việc nghiên cứu hệ
thống này ở các nền kinh tế phi công nghiệp. Hay nói cách khác,
các nhà nhân học kinh tế nghiên cứu kinh tế trong bối cảnh so
sánh đối chiếu. Do vậy, khái niệm hệ thống kinh tế trong Nhân
học được mở rộng hơn. Theo nhà nhân học Richley Crapo :
(1993), một hệ thống kinh tế sẽ bao gồm các phong tục sinh tồn
đặc biệt liên quan đến việc sản xuất các hàng hóa cần thiết (sản
170
xuất), cũng như các quy luật chỉ phối những việc sẽ làm với
những hàng hóa đó (phân phối) và việc chúng được sử dụng như
thế nào (tiêu dùng). Hay nói cách khác, tìm hiểu hệ thống kinh tế
chính là tìm hiểu mối quan hệ giữa con người với nhau trong
việc tổ chức bản thân họ như thế nào để tiến hành sản xuất, trao
Để nghiên cứu hệ thống kinh tế, các nhà nhân học tập trung
vào các hành vi kinh tế của con người mà gắn liền với chúng là
các yếu tố văn hóa xã hội của con người hay tập thể người đó. -
xuất hiện khi thành viên của một xã hội khai thác và biến đổi tài
nguyên thiên nhiên thành những thứ con người muốn và cần. Dù
sản phẩm có là gì đi nữa thì sản xuất diễn ra trong một bối cảnh
thống của con người. Nói cách khác, hành vi kinh tế này liên
quan chặt chế với các yếu tố văn hóa của con người trong xã hội
cụ thể đó. Do vậy, sản xuất không chỉ đơn thuần là một hành VI
Thật vậy, do sản xuất là một đặc tính quan trọng của văn _
hóa nên nhà triết học xã hội Karl Marx đã xem nó là nền tảng
của mọi xã hội — một quan điểm có ảnh hưởng lớn đến nhiều
nhà nhân học. Khi nghiên cứu hành vi kinh tế sản xuất, các nhà
nhân học quan tâm đến các khía cạnh văn hóa của sản xuất đó là
khả năng, ý tưởng và truyền thống của con người trong quá trình
sản xuất hơn là quan tâm đến bản thân các sản phẩm.
Tất cả con người đều phải đáp ứng các nhu cầu vật chất cơ
bản cần thiết (chẳng hạn như thức ăn, nước uống và chỗ ở),
nhưng những nhu cầu này được thỏa mãn như thế nào thì sẽ thay -
đổi khác nhau từ xã hội này sang xã hội khác. Ví dụ như người
171
-_ Siriono vùng Đông Bolivia đáp ứng nhu cầu này bằng việc săn
bắt và hái lượm; người Masal và Samburu của vùng Đông Phi
sống dựa trên các sản phẩm của chăn muôi gia súc. Những dân
tộc ở Mỹ hay Tây Âu đáp ứng khá tốt nhu cầu cơ bản của họ
thông qua một hệ thống công nghệ và công nghiệp hóa phức tạp.
Để trả lời cho sự khác nhau này có thể dựa vào kinh tế học. Ví
dụ như để trả lời cho câu hỏi tại sao một xã hội lại sản xuất
những sản phẩm như thế, các nhà kinh tế học cho là điều này
được quyết định bởi các yếu tế kinh tế chắng hạn như nguồn tài
nguyên sẵn có, công nghệ sẵn có để sản xuất nguồn tài nguyên
đó. Thế nhưng, theo các nhà nhân học đây chỉ là một phần câu
trả lời bởi vì trên thực tế các giá trị văn hóa cũng đóng vai trò
quan trọng trong việc quyết định việc sản xuất. Chẳng hạn như
người Hadza ở Tanzania biết đến phương thức canh tác trồng
trọt của các cư dân láng giềng nhưng họ lại không chọn loại hình
canh tác này vì lÍ do đơn giản là theo quan niệm của họ hình
thức này tốn quá nhiều thời gian để tạo ra sản phẩm. Người
thịt bò do ảnh hưởng của niềm tin tôn giáo. Người Inuit đù
thường xuyên lâm vào tình trạng thiểu thực phẩm nhưng họ có
những điều cắm ky liên quan đến việc ăn một số loại thực phẩm.
Hay người Mỹ không bao giờ nghĩ là mình có thể ăn thịt chó,
mèo hay chuột mặc dù các động vật này rất giàu đạm.
Khi nghiên cứu hành vị sản xuất của bất cứ dân tộc nào,
chúng ta cần phải chú ý đến cách thức tổ chức sản xuất của họ
hay được gọi là Phương thúc sản xuất vì qua cách thức sản xuất
này các yếu tỗ văn hóa xã hội liên quan chặt chẽ đến hành vi sản
hội mà qua đó con người sử dụng lao động để “lây năng lượng
172
từ thiên nhiên bằng các phương tiện công cụ, kĩ năng, tô chức và
kiến thức”!?, Phương thức sản xuất bao gồm hai nhân tố cấu
thành nên đó là tư liệu sản xuất và quan hệ sản xuất. Tư liệu sản
xuất bao gồm công cụ, kĩ năng, và kiến thức; quan hệ sản xuất là
những mối quan hệ sản xuất liên kết những người sử dụng tư
liệu sản xuất nào đó trong một phương thức sản xuất nhất định.
Những học giả sử dụng khái niệm phương thức sản xuất thường
áp dụng khái niệm sản xuất cho những hoạt động sinh tồn như
săn bắt - hái lượm, chăn nuôi, trồng trọt và sản xuất công nghiệp.
Trong việc phân loại phương thức sản xuất, nhiều nhà nhân
học dựa trên nghiên cứu của Karl Marx về phương thức sản
xuất. Theo đó, có các phương thức sản xuất tương ứng với các
hình thái kinh tế-xã hội. Lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội
loài người theo các phương thức diễn ra theo trình tự phương
thức sản xuất công xã nguyên thủy, phương thức sản xuất nô lệ,
phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản .
chủ nghĩa và phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Đặc
điểm các phương thức sản xuất này đã được trình bày khá kĩ ở
một số sách và giáo trình. Do vậy, ở đây chúng tôi xin trình bày
một cách phân loại khác vốn được nhiều nhà Nhân học quan
tâm. Cách phân loại này dựa trên các cách thức thích nghi với
môi trường sống của họ. Sự khác nhau về phương thức sản xuất
và truyền thống văn hóa. Ví dụ như phương thức sản xuất hái
lượm sẽ dựa trên những người đi săn riêng lẻ hay những nhóm
thợ sẵn phụ thuộc vào việc con mỗi đơn lẻ hay bầy đàn. Nhà
nhân học Eric Wolf, người chịu ảnh hưởng của Karl Marx đã bổ
thức sản xuất khác nhau phân biệt với nhau bởi sự khác nhau về
173
các mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất. Eric Wolf
cho là có ba phương thức sản xuất đặc biệt quan trọng trong lịch
sử loài người bên cạnh sự tồn tại của một số phương thức khác.
- Phương thức sản xuất dựa trên thân tộc: Ö phương thức
này, lao động được tổ chức dựa trên thân tộc. Phương thức này
thường thấy ở những xã hội có công nghệ đơn giản như ở một số
không có sự thống trị của một nhóm người thiểu số đối với đa số
thành viên khác trong xã hội. Ở các xã hội này, lao động được tổ
chức dựa trên thân tộc và hôn nhân. Chẳng hạn như các thành
_ viên trong hộ gia đình ở một xã hội nông nghiệp phi cơ giới có
thể hợp tác với nhau để thực hiện những việc mà từng cá nhân
không thể thực hiện được ví dụ như công tác thủy lợi, đê điều.
- Phương thức sản xuất công nạp: Người sản xuất trực tiếp
được giao quyền sử đụng tư liệu sản xuất và phải nộp một phần.
. của cải làm ra cho những người có quyền về chính trị hay quân
này tồn tại trong xã hội có giai cấp thống trị và bị trị.
- Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: Tư liệu sản xuất
là tài sản của nhà tư bản; công nhân không có quyền sở hữu tư
liệu sản xuất và phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm
sống và các nhà tư bản dùng sức lao động của công nhân để tạo
ra thăng dư. Những sản phẩm thặng dư được đem tái đầu tư để
hội sắp xếp các thành viên của nó thành một số loại hình đơn vị
hiện. Ở các xã hội công nghiệp, đơn vị sân xuất là các công ty tư
nhân tồn tại với mục đích sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch
174
vụ. Những công fy này có quy mô từ các công ty nhỏ sở hữu cá
nhân đến các công ty lớn đa quốc gia. Dù lớn hay nhỏ các công
ty tư nhân này bao gồm các nhân viên thực hiện các vai trò cụ
thể khác nhau để sản xuất ra hàng hóa và địch vụ để bán kiếm
lời. Người công nhân không tiêu thụ sản phẩm của hãng mà thay
vào đó họ được nhận lương để mua các loại hàng hóa và địch vụ
mà họ cần.
Sản xuất hộ gia đình: Ö hầu hết các xã hội phi công nghiệp,
đơn vị sản xuất nền tảng là hộ gia đình. Ở các xã hội nhỏ này
hàng hóa và địch vụ được sản xuất bởi các thành viên trong gia
đình. Hộ gia đình có thể gồm một gia đình hạt nhân (vợ, chồng
và con cái) hay một cấu trúc gia đình phức tạp hơn gồm có nhiều
thế hệ cùng sinh sống. Trong một xã hội trồng trọt điển hình, các
thành viên gia đình sản xuất ra đa số những øì họ tiêu thụ, công
việc của họ là trồng trọt, trông nom mùa màng và thu hoạch; xây
nhà, kiếm củi và chất đốt, tự chế tạo công cụ, chăn nuôi 81a súc,
gia cầm. Khi có một nhiệm vụ quá phức tạp và đòi hỏi nhiều sức
lao động thì các nhóm gia đình hay lắng giềng hợp sức với nhau
rất rõ nét.
- Trong khi công ty kinh doanh chỉ là một đơn vị sản xuất
thì hộ gia đình cùng lúc thực hiện nhiều chức năng chồng
thực hiện việc tái sản xuất ra con người, là nơi thực hiện các
nghi lễ tôn giáo,...
cung tự cấp hơn. Trong nhiều trường hợp, thành viên của một hộ
gia đình trong các xã hội nhỏ có thể thỏa mãn nhu cầu vật chất
thực phẩm, quần áo cho các thành viên của họ. Ngược lại, những
175
người làm trong các công ty phụ thuộc vào nhiều đơn vị sản xuất
trong xã hội để thoả mãn nhu cầu vật chất của họ chẳng hạn như
chủ yếu vào chức năng kinh tế và do vậy nó có năng suất cao
hơn hộ gia đình tính về mặt kinh tế. Do gia đình ngoài việc là
một đơn vị sản xuất còn liên quan đến các nhu cầu tỉnh thần, tâm
lÍ xã hội, tình cảm của các thành viên nên nó có thể sử dụng của
cải của họ theo những cách không năng suất ví dụ như cúng tế,
cho biếu.
Một khía cạnh quan trọng của quá trình sân xuất là việc
phân chia nhiệm vụ cho những người tham gia. Đó là việc quyết
về công việc phủ hợp giữa nam và nữ, giữa người lớn và trẻ em.
Dù cho có việc phân chia lao động có phức tạp đến đâu đi nữa
thì các xã hội chủ yếu phân chia lao động dựa trên giới tính và
tuôi tác.
Phân chia lao động theo giới: Có nhiều công việc cả nam
lẫn nữ đều có thể làm, nhưng cũng có nhiều công việc được cho
là chỉ dành cho nam hay nữ. Ví dụ, ở các xã hội truyền thống,
phụ nữ thường làm các công việc cần ít sức lực như thu lượm
thực phẩm, trồng trọt, chăn nuôi, chăm sóc nhà cửa và con cái,
chuẩn bị bữa ă ăn, lau nhà, lấy nước,... Nam giới thường làm các
công nhiều cần nhiều sức lực hơn như đi săn, xây nhà, phát
quang đất đai, chăn nuôi đàn gia súc lớn, bắt cá và động vật...
Thế nhưng trong các xã hội hiện đại ngày nay, sự phân chia lao
động theo giới theo cách truyền thống không còn rạch ròi như
trước. Hiện nay, do công việc ở các nông thôn BẶP khó khăn,
nhiều nam giới đi cư đến ở các thành phố lớn để kiếm sống để
176
Theo Ferraro, có một số lí thuyết được dựng lên để giải.
thích cho sự phân công lao động theo giới phổ biến này. Có lí
thuyết cho là đo nam giới có thể trạng khỏe hơn nên họ đủ sức
để làm các công việc cần nhiều sức lực như săn bắn, phát
quang đất đai, xây nhà. Lí thuyết thứ hai cho là phụ nữ làm
các công việc họ thường làm vì chúng phù hợp với công việc
chăm sóc con cái. Cụ thể là, không giống như công việc của
đàn ông ví dụ như săn bắt và đi lính, các công việc của phụ nữ
như chăn nuôi, đệt vải, trồng trọt được thực hiện không quá xa
chăm sóc con cái của họ. Cách giải thích thứ ba dựa trên việc
tái sản xuất, do nữ có khả năng sinh sản hạn chế (và do vậy -
trở nên có giá trị) họ ít khi buộc phải tham gia vào các công
này phần nào giải thích được sự phân công lao động theo giới
này. Sự phân chia này có lúc rất chặt chẽ nhưng cũng có lúc
Sự phân công lao động theo tuổi tác: Do thiếu kiến thức và
sức khỏe, có một số việc trẻ em thường không phải tham gia.
Chẳng hạn như trong xã hội của chúng ta hiện nay, trẻ em có
nhiệm vụ chính là học hành, ít tham gia vào công việc sản xuất.
Nhưng ở các xã hội kém phát triển, trẻ em tham gia vào các hoạt
động công việc tương đối sớm. Người già, do sức khỏe suy giảm
cũng không phải tham gia vào một số công việc. Tuy nhiên, nhờ
vào vốn kiến thức sống tích luỹ được, những người lớn tuổi
thường đóng vai trò dạy đỗ con cháu trong gia đình hay ngoài xã
Hành vi sản xuất thứ hai của con người trong hệ thống kinh
tế đó là phân phối. Phân phối là các cách mà con người đưa hàng
hóa và dịch vụ họ sản xuất đến tay người sử dụng. Theo nhà
177
kinh tế học Karl Polanyi thì có ba cách phân phối: tương hỗ, tái
* Tương hỗ
chuyển từ một cá nhân hay một nhóm đến một cá nhân hay một
Không giống như việc mua và bán, tương hỗ không có việc trả
giá đối với cái được đưa lại. Những người tham gia ngầm hiểu
lạc và thị tộc. Ở những xã hội này, một số ít người ở mỗi cộng :
đồng địa phương thực hiện việc tặng quà như là một thủ tục
đủ để đáp ứng nhu cầu kinh tế của mọi người. Việc chia sẻ
thặng dư dưới dạng tặng quà trong cộng đồng làm ngang bằng
của cải và đảm bảo nhu cầu thực phẩm của mỗi cá nhân khi
mất mùa. Tính hào phóng, đặc trưng của xã hội thị tộc là một
công cụ hiệu quả đảm bảo cho sự tỒn tại của cả cộng đồng.
Khi một người đi săn chia sẻ thịt đi săn được với mọi người
khác trong cộng đồng thì đây cũng chính là sự đảm bảo cho
- tương lai của anh ta. Khi không săn được, người thợ săn sẽ
sống nhờ vào sự chia sẻ của những người khác trong cộng
đồng như người trồng trọt hay chăn nuôi. Hệ thống tương hỗ
duy trì sự cân bằng xã hội trong việc phân phối hàng hóa.
- Tương hỗ hào phóng: là loại trao đỗi không trông chờ một
sự đáp trả lại ngay. Những người tham gia được khuyến khích
bằng cảm giác hướng đến sự thịnh vượng của những người
khác. Tương hỗ hào phóng trong xã hội hiện đại có thể nhận
thấy qua việc cha mẹ nuôi con, chăm sóc người lớn tuổi hay
178
những người tàn tật, những người không có khả năng đáp trả lại
sự chăm sóc đó bằng hàng hóa hay dịch vụ với giá trị cân bằng.
Cảm giác không trông chờ vào sự đáp trả lại ngay có thể dựa
trên cảm giác cùng cộng đồng hay trên các mối ràng buộc thân
tộc. Mặc dù tương hỗ hào phóng cũng hiện diện ở các xã hội
hiện đại nhưng nó không phải là hình thức trao đổi chính như
khi nó ở trong các xã hội quy mô nhỏ hơn nơi mà đơn vị của
cũng là nơi mà nguồn tài nguyên con người có thể khai thác
người không có họ hàng đều được phân phối, đảm bảo cho sự
sống còn của các thành viên. Ở đâu có tương hỗ hào phóng thì
ở đó tính hào phóng được xem như là một tính cách được
mong đợi của mọi hành vi Ở ^ác xã hội này, tương hỗ hào
phóng là hình thức trao đối phố biến ở các nhóm người nhỏ
như người Kung ở hoang mạc Kalahari, châu Phi, việc chia sẻ
thực phẩm đồng đều cho các thành viên của nhóm theo nguyên
tắc phân phối tương hỗ hào phóng là nguyên tắc văn hóa. Những
người nào tỏ ra keo kiệt sẽ bị trêu chọc, chỉ trích hoặc bị những
hàng nhau trong xã hội và có mối quan hệ không quá thân thiết
với nhau. Hình thức tương hỗ cân bằng thường diễn ra giữa các
thành viên của các cộng đồng kề cận nhau mà mỗi cộng đồng
chuyên sản xuất các loại hàng hóa khác nhau hay kiểm soát tài
nguyên khác nhau. Trong hình thức tương hỗ này cả hai phía
cho và nhận đều mong rằng món quà trao đổi phải ngang giá trị,
người đưa vẫn tiếp tục đưa khi người nhận không thể đáp trả lại
179
sau một thời gian dài. Ở hình thức trao đổi cân bằng này người
đưa sẽ từ chối trao đồ vật cho người nhận nếu người này không
tương hỗ đáp trả lại sau một thời gian thích hợp. Tương hỗ cân
bằng có thể bao gồm sự trao đổi hàng hóa lẫn dịch vụ. Ví dụ
trong một xã hội phúc tạp đó là ở Ấn Độ. Trong mỗi cộng đồng
địa phương, các cá nhân được tô chức thành một hệ thống các
nghề nghiệp được cho là phù hợp với các thành viên của các
đẳng cấp khác nhau. Hệ thống này đáp ứng các nhu cầu kinh tế
cho tất cả các thành viên của cộng đồng vì mỗi người có nghĩa
vụ cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho những người khác. Người
Semang ở bán đảo Mã Lai và các dân tộc ở lây Bắc Việt Nam
trước đây có hình thức trao đổi câm, nhờ đó họ cố tình tránh tiếp
xúc trực tiếp với bạn hàng trao đổi. Họ để sản phẩm thu nhặt
được từ rừng vào chỗ.quy định gần làng của người được trao
đổi. Một thời gian sau họ quay lại lấy món hàng được đổi
thường là muối, công cụ, chuỗi hạt. Do không gặp mặt trực tiếp,
phải những khó xử trong | khi trao đối chẳng hạn như việc mặc
cả. Một ví dụ điển hình về sự trao đổi cân bằng trong nhân học
đó là vòng trao đổi Kuia (the Kula ring) của cư đân quần đảo
Trobriand ở vùng biển New Guinea trong công trình nghiên cứu
của Maliknowski. Con đường này gồm có sự trao đổi Tang tính
nghi lễ cao và phức tạp về các vòng đeo tay và đeo cỗ bằng VỎ
ngược chiều kim đồng hồ. Ý nghĩa chính của chúng là các biểu
tượng cho mối quan hệ tương hỗ giữa các bạn hàng trao đỗi.
Mối quan hệ này thường tồn tại rất lâu. Các cư dân quân đảo
Trobriand và các láng giềng của họ có các hệ thống sản xuất khá
đa dạng với sự chuyên biệt hóa lao động tương đối cao. Họ trồng
khoai lang và khoai sọ, đánh bắt cá, đóng thuyên đi biển, nuôi
lợn, sản xuất các sản phẩm thủ công như chén bát, bình lọ, rỗ rá
180
và nữ trang. Khi bạn hàng trao đối cần, họ trao đổi vòng đeo cổ
bằng vỏ sò để lấy vòng đeo tay bằng vỏ sò. Sau đó một vài ngày,
họ cũng trao đổi các sản phẩm hàng ngày của họ như khoai,
thuyền, lợn, cá và hàng thủ công với bạn hàng trao đổi của mình.
Tuy vòng đeo cổ và đeo tay không có giá trị tiền tệ cụ thể nào
nhưng không thể thiếu được vì chúng tượng trưng cho lòng
trung thành và ý muốn hợp tác lâu đài trong việc trao đổi của
mỗi bên tham gia. Các cá nhân tham gia vào quá trình trao đổi
cảm thấy có nghĩa vụ bắt buộc là phải chuyển các vòng bằng vỏ
sò họ nhận được sang cho các bạn hàng khác trong chuỗi trao
đổi. Sau một vài năm, những vòng vỏ sò này cuối cùng sẽ trở về
với hòn đảo xuất xứ của chúng và từ đây chúng lại tiếp tục cuộc
hành trình trao đổi. Vì thế, sự trao đổi liên tục các vòng đeo †ay
và đeo cổ bằng vỏ sò nối kết một số hòn đảo lại với nhau. Một
vỏ sò luôn đi kèm với sự trao đổi các hàng hóa thực tẾ, con
đường Kula có chức năng như là một hệ thống trao đổi hàng hóa
nhân hay một nhóm trong hệ thống trao đối tương hỗ cố gắng
đạt được nhiều hơn cái mà họ đưa. Hình thức trao đổi này
thường diễn ra giữa những người xa lạ với nhau trong cùng một
cộng đồng hay giữa những thành viên của các cộng đồng khác
nhau. Tương hỗ tiêu cực có thể ở đạng mặc cả, lừa đảo hay trộm
cắp. Hình thức tương hỗ này giống với trao đổi thị trường nhưng
phương tiện trung gian. Trong xã hội sử đụng tiền để mua hàng
hóa và địch vụ, trao đổi thị trường thay thế cho tương hỗ tiêu
cực. Ở những xã hội tiền công nghiệp, hình thức này ở dạng
hàng đổi hàng. Do tương hỗ tiêu cực không đi cùng với các mỗi
quan hệ thân mật, nó thường được thực hiện đối với người xa lạ
hay kẻ thù. Ví dụ điển hình cho hình thức tương hỗ này là mối
181
quan hệ giữa người làn Mbuti sống bằng hái lượm ở vùng Trung.
_ Phi và các cư dân trồng trọt láng giềng của họ. Họ duy trì mối
quan hệ cộng sinh hơi gượng ép với các láng giềng của họ,
những người họ thường trao đổi thịt và sức lao động để lấy
ngũ cốc và kim loại. Mỗi người lùn gắn bó với một ngôi làng
lân cận nào đó chỉ trong một thời gian ngắn. Trong thời gian
này, họ đem các món quà nhỏ từ rừng và làm một số công
việc khi ăn ở tại ngôi làng này. Thế nhưng đây là một liên
thuẫn giữa những người dân làng và các người lùn này. Trong
khi dân làng thường đùng mọi cách để bắt họ làm việc thì
những người làn này thường dùng mọi mánh khóe để trốn làm
việc. Khi dân làng không còn cho họ cái gì nữa thì các chú lùn
phương thức cổ xưa nhất nhưng hiện nó vẫn tồn tại rất phổ biến
trong các xã hội hiện đại. Nó xuất hiện như là một cầu nối trong
việc thiết lập nên các mối quan hệ giao tế, quan hệ xã hội. Ngoài
ra, nó giúp định hình nên tập quán văn hóa ứng xử trong xã hội.
Hệ thống kinh tế quan trọng thứ hai cho việc phân phối hàng
hóa và dịch vụ là tái phân phối nơi mà hàng hóa được các thành
viên của một nhóm xã hội đóng góp thành của chung và sau đó
chúng được phân phối tới tay người sử đụng. Trong khi tương
hỗ là việc trao đổi giữa hai phía cho và nhận, tái phân phối cần
có vai trò của trung gian, người thứ ba vốn sẽ điều phối lưu
lượng hàng hóa và dịch vụ. Điểm khác biệt chính giữa trơng hỗ
hình thức đầu, hàng hóa đi chuyển qua lại giữa hai người tham
gia, ở hình thức thứ hai, hàng hóa và dịch vụ được tập trung lại
và sau đó phân phối lại với vai trò của người trung gian. Ở quy
182
mô gia đình, người trung gian là cha mẹ, ở quy mô quốc gia đó
là nhà nước, ở các bộ lạc là các tù trưởng. Mặc dù tái phân phối
tìm thấy ở tất cả các xã hội, nhưng nó phổ biến nhất ở những xã
hội có hệ thống cấp bậc chính trị. Tái phân phối có nhiều dạng.
Ở dạng đơn giản nhất, chúng ta có thê thấy tái phân phối hoạt
động ở những gia đình lớn. Người chủ gia đình sẽ gom góp thu
nhập của những thành viên có thu nhập trong gia đình và sẽ
phân phối lại cho tất cả các thành viên cho dù có những thành
viên không tham gia vào hoạt động sản xuất. Ở những xã hội
phức tạp có hệ thống chính quyền nhà nước, hình thức của các
hệ thống tái phân phối kinh tế là thuế, an ninh xã hội, bảo hiểm.
Chính phủ thu thuế thu nhập của người lao động và sau đó phân
phối thu nhập này cho các thành viên khác trong xã hội đưới
những hình thức như việc trả phúc lợi xã hội, hay dưới dạng các
loại hàng hóa hay dịch vụ. Ở các bộ lạc, các cư đân cống nạp
sẽ phân phối lại cho các cư dân qua hình thức các buổi tiệc, trả
công,... Hình thức cống nạp này rất phổ biến ở đảo Polynesia và
dân số sẽ bị chia thành hai tầng lớp: quý tộc và thường dân.
Tầng lớp quý tộc ít làm những công việc chân tay. Họ quản lí hệ
thống chính trị và các nghỉ lễ tôn giáo. Thường dân sản xuất
hàng hóa và các vật phẩm cống nạp khác cho tầng lớp quý tộc và
thông qua việc sử dụng một loại tiền tệ chuẩn. Trong hệ thống
trao đổi thị trường, giá trị của hàng hóa được quyết định bởi
Hệ thống trao đổi qua thị trường thường thấy ở các xã hội
183
phân chia lao động phức tạp. Các xã hội có công nghệ thô sơ,
chẳng hạn như những người hái lượm thực phẩm thường không
có thặng dư hay lượng thặng đư quá nhỏ đến nỗi mà chúng chỉ
được sử đụng đơn giản ở hình thức tương hỗ và tái phân phối. Ở
các xã hội lớn nơi mà những người lạ có thể gặp gỡ nhau thì trao
đổi qua thị trường giống như hình thức tương hỗ tiêu cực có thể
không đặt nặng nghĩa vụ đối với nhau vì mỗi bên chịu trách
nhiệm về sự thịnh vượng của riêng họ trong quá trình giao địch.
Vì thế, tính tư lợi thay vì tính hào phóng trở thành nguyên tắc
chỉ đạo. Các hình thức trao đổi qua thị trường có hình thức hàng
trường, sự trao đổi chủ yếu là việc kinh doanh một mặt hàng
hay dịch vụ để lấy mặt hàng hay dịch vụ khác. Hình thức này
gọi là hàng đổi hàng. Chẳng hạn như một người sản xuất gốm
sứ có thể đổi một lu đựng nước để lấy một (Úi gạo của người
nông dân. Hoặc những người làm thuê có thể làm việc như
chẻ củi, quét nhà, gánh nước cho chủ nhà để đổi lấy cơm ăn
và nơi trú thân. Hình thức hàng đổi hàng trong trao đổi thị
trường khác với tương hỗ cân bằng ở đặc điểm sự trao đổi tại
chỗ và giá trị món hàng được quyết định bằng quy luật cung
- Tiền tệ: Khi mà hàng hóa con người cần có ngay tại chỗ thì
hình thức hàng đổi hàng có thể được sử dụng nhưng một khi
hàng hóa và dịch vụ được sản xuất bởi nhiều người, nhiều nơi
thì việc dùng đông tiền là điều cần thiết. Về cơ bản, đồng tiền
chỉ là biểu tượng của giá trị. Để chuyển đổi bất cứ thứ gì thành
tiền thì các bên liên quan chỉ cần có một thỏa thuận lẫn nhau là
một vật cụ thể nào đó sẽ là tiêu chuẩn giá trị. Phương tiện trao
đổi chung thường là những vật hiếm và gọn nhẹ. Ngoài ra, một
số vật bản thân nó có giá trị cũng được sử dụng như tiền tệ.
Chẳng hạn như ở nhiều nơi trên thế giới, muối và gia vị. Tiền tệ
184
có thể có hai dạng: đồng tiền có mục đích đặc biệt và đồng tiền
sử dụng rộng rãi. Đồng tiền sử dụng đặc biệt là phương tiện trao
đổi chỉ giới hạn trong việc mua và bán một loại hàng hóa hay
nhiều lắm cũng chỉ vài loại hàng hóa. Ví dụ như các đồng tiền
ˆ xu hay token sử dụng trong việc chơi bạc, chơi video game, tem
thư và coupon. Đồng tiền sử dụng rộng rãi là phương tiện trao
đổi phố biến. Nó không giới hạn giá trị sử dụng chỉ cho một số
gì. Loại tiền này rất hữu ích khi mà cư dân địa phương đó quá
lớn đến nỗi mà khi người ta cần gì cho cuộc sống hàng này thì
Tiêu dùng là khái niệm đề cập đến tất cả các cách mà trong
đó hàng hóa, dịch vụ và các phi vật thể được làm ra trong một xã
hầu hết những. gì họ sản xuất ra. Đây là hình thức kinh tế ở các
xã hội hái lượm và ở các bộ lạc sản xuất thực phẩm có kĩ thuật
đỗi. Khoảng cách giàu nghèo ít xảy ra. Ở các xã hội phức tạp,
vượt xa nhu cầu cơ bản là thỏa mãn, hành vi tiêu dùng ở các xã
hội có nhiều mục đích, một trong những mục đích quan trọng
tập trung sự chú ý của các nhà nhân học nhất đó là tiêu dùng
tượng trưng cho uy tín xã hội, tiêu chí để phân biệt giàu nghèo,
Các nhà nhân học kinh tế rất quan tâm đến mối liên hệ giữa
sản xuất và tiêu dùng. Ở các xã hội săn bất và hái lượm, mối liên
hệ này là trực tiếp. Vì mỗi gia đình tích lũy thức ăn và các thứ
cần thiết khác cho gia đình, họ không cần một hệ thống tái phân
phối mà theo đó hàng hóa bị thu gom bởi một người hay một tô
chức và sau đó phân phối lại cho những người cần. Các năm gần
185
đây, các nhà nhân học đã trở nên quan trọng trong công nghệ
nghiên cứu thị trường về việc tiêu thụ. Nghiên cứu thị trường
nhắm đến việc tìm hiểu tại sao và người ta sử dụng một số sản
Từ cuối những năm 1980, toàn cầu hóa đã trở thành một chủ
đề khoa học quan trọng. Các ngành khoa học xã hội khác khi
nghiên cứu về toàn cầu hóa có khuynh hướng nhân mạnh đến
quy mô vĩ mô của hiện tượng này. Nhân học quan tâm chủ yếu
đến sự tiếp xúc, tương tác giữa tính toàn cầu (globa]) và tính địa
phương (the local). Cụ thể đó là các quá trình toàn cầu hóa tồn
tại như thế nào và phải thoả thuận với hoàn cảnh thực tại của các
xã hội cụ thể, với văn hóa và lối sống của các xã hội này vốn đã
được tích lũy qua một quá trình lịch sử lâu dài. Nhân học không
chỉ quan tâm đến việc định hình đáng của các đòng chảy về tư
bản, con người, hàng hóa, hình ảnh và các tư tưởng dọc ngang
trên thế giới mà còn với kinh nghiệm . của những con người sống
trong các xã hội cụ thể khi mà cuộc sống hàng ngày của họ ngày
.càng trở nên phụ thuộc vào các quá trình xã hội rộng mở. Điều
tà nhân học nghiên cứu mà các ngành khác không quan tâm đó
chính là tiếng nói con người (human agency) với sinh hoạt của
cuộc sống hàng ngày. Nói tóm lại, đó là với việc các chủ thể đáp
- Toàn câu hóa đề cập đến sự gia tăng tính liên kết toàn cầu,
cho là thế giới đầy rẫy sự vận động và pha tạp, tiếp xúc và liên
kết và sự tương tác và trao đổi văn hóa thường xuyên. Hay nói
cách khác, tính lưu động và quan hệ nối liền với nhau là đặc
trưng của thế giới ngày nay. Thế giới ngày nay là một thế giới
nơi mà biên giới và ranh giới đã trở nên “xốp”, cho phép ngày
càng nhiều các dân tộc và văn hóa tiếp xúc trực tiếp và thường
xuyên với nhau. Cụ thể là toàn cầu hóa nhắn mạnh đến tính lưu
động đặc biệt hay dòng chảy văn hóa của tư bản, con người,
186
hàng hóa, hình ảnh và tư tưởng mà qua đó các nơi của trái đất
- Tư bản: Công nghệ thông tin và phương tiện vận tải tiên
tiến làm cho tính lưu động của tư bản ngày càng cao. Việc tìm
cách giảm thiểu chi phí sản xuất đã khiến cho các tập đoàn lớn
trên thế giới ngày càng nở Tộng lãnh thổ sản xuất. Điều TàY ( đã
dẫn đến sự thay đổi tính chất sản xuất trên bình diện toàn cầu.
Các ngành sản xuất công nghiệp cần nhiều SỨC lao động và các
công việc dịch vụ đã chuyên từ các cường quốc kinh tế như Mỹ,
Nhật và các nước Tây Âu sang các quốc gia khác có giá nhân
công rẻ chẳng hạn như vùng Đông Á, Nam Á và châu Phi. Dần
dần đã hình thành nên một mạng lưới sản xuất toàn cầu trong đó
các nơi tham gia là một mắt xích trong chuỗi sản xuất này.
- Con người: Sự gia tăng tính lưu động và liên kết với nhau
đã biến một số nơi chẳng hạn như các nước Pháp, Mỹ thành nơi
hội tụ của các nền văn hóa mà ở đây chúng pha trộn, tương tác
với nhau. Con người không chỉ sống bó buộc trong những
- Hàng hóa: Tính lưu động của hàng hóa hiện nay là một
minh chứng rõ nét nhất cho sự toàn cầu hóa hiện nay. Hàng hóa
của các nước lớn hiện điện hầu hết ở mọi ngóc ngách của các
quốc gia trên thế giới. Thế nhưng sự hiện diện của chúng cũng
tiềm ấn những thách thức cho các nước chủ nhà. Ngoài những
lợi ích do toàn cầu hóa đem lại, người dân của. Các nước yếu thế
hơn về kinh tế phải đương đầu với những mối nguy hiểm của
hàng hóa phương Tây (chủ yêu là của Bắc Mỹ và Tây Âu) về
nhiều phương diện. Từ quần áo, thực phẩm, âm nhạc cho đến
kiến trúc, phim ảnh và truyền hình, các phong cách và các nhãn
Microsoft, Levis, Nike hiện nay đã chiếm lĩnh thị trường toàn
cầu. Khi dòng chảy hàng hóa này tiếp tục nhanh chóng phổ biến
187
trên toàn thế giới thì các mối liên kết văn hóa trên thế giới ngày
càng trở nên chặt chẽ hơn và sự tiêu thụ hàng hóa với số lượng
nhiều sẽ trở thành yếu tố trung gian trong cuộc gặp gỡ giữa các
dân tộc và các nền văn hóa trên hành tỉnh này.
làm tăng tầm quan trọng của phương tiện truyền thông trong
nhận thức của người dân về các nền văn hóa khác và ảnh hưởng
đến lối sống và suy nghĩ của họ. Phim ảnh cho họ một thế giới
khác, khác với của bản thân họ. Với thế giới này, người dân có
cái nhìn mới về thời trang, cái đẹp, tình yêu,. .. Trường hợp của
Việt Nam hiện nay là phim Hàn Quốc. Ảnh hưởng của phim ảnh
thể hiện khắp nơi từ trang phục, cách trang điểm, lỗi ứng xử,
quan niệm vê tình yêu, hôn nhân của mọi tầng lớp nhân dân
trong xã hội.
- các nước vai trò phụ nữ bị xem nhẹ thì toàn cầu hóa còn thể hiện
trong sự thay đổi ý thức hệ. Do ảnh hưởng của các nước phương
Tây, vai trò của phụ nữ ở các nước này đã có Ít nhiều chuyển
biến hướng đến sự bình đẳng nam nữ. Các tư tưởng của thời
khai sáng như tự do, thịnh vượng, quyền, dân.chủ, và chủ quyền
của phương Tây cùng với sự toàn cầu hóa cũng ảnh hưởng đến
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là trong. khi thế giới có xu hướng
liên kết với nhau trong quá trình toàn cầu hòa thì cũng có một số
đông người và nơi chốn nằm ngoài những chuyển động và mối
liên kết này. Nói tóm lại, không phải tất cả mọi người và tất cả
mọi nơi đều tham gia đồng đều vào thế giới của toàn cầu hóa.
Do vậy, các phong trào chống toàn cầu hóa cũng cùng sơng song
tồn tại.
Tóm lại, nghiên cứu toàn cầu hóa trong nhân học là nghiên
cứu các quá trình quy mô lớn mà qua đó thế giới trở nên ngày -
- cảng gắn kết và việc các chủ thể đáp ứng với các quá trình này
như thế nào trong các cách cụ thể mang tính văn hóa.
188
6. TÓM TẮT CHƯƠNG
phương Tây thì chúng ta không thể dựa vào các khái niệm của
các nhà kinh tế, mà phải dựa vào chính nền văn hóa của họ, yếu
tố chỉ phối hành vi và suy nghĩ của con người trong xã hội đó.
2. Bất cứ hành vi nào hướng đến việc đáp Ứng mong muốn
3. Môi trường cho phép sự xuất hiện và tồn tại của một số
hành vi cơn người nhưng nó không quyết định được dạng thức
sáng fạo và năng động giữa văn hóa và môi trường. Đó là mối
quan hệ giữa công nghệ, tài nguyên và lao động. Steward cho
là các nền văn hóa ở các vùng môi trường sinh thái giống
và hình hành các đáp ứng văn hóa giống nhau đối với các
phẩm: khai thác tự nhiên và sản xuất thực phẩm với tổng cộng
có năm loại hình kinh tế cơ bản: săn bổi- bái lượm, chăn nuôi,
nông nghiệp quảng canh (nông nghiệp dùng cuỐc), nông nghiệp
thâm canh (nông nghiệp dùng cày và sức kéo) và nông nghiệp
công nghiệp.
6. Kinh tế là một hệ thống sằm có sản xuất, phân phối và
“Hình thức luận” cho là sự giải thích các hành vi kinh tế của
COI HgƯỜI có thể dựa trên nền tảng một sự miêu tả trừu tượng
(hình thức) về môi trường sự chọn lựa của người tham gia.
hành vi kinh tế của con người thì cần phải có kiến thức cụ thể
(bản chất) về phong tục và giá trị hay nói cách khác là về văn
189
8. Sản xuất xuất hiện khi thành viên của một xã hội biến đổi
tài nguyên thiên nhiên thành những thứ con người muốn và cần.
hội mà qua đó con người sử dụng lao động để “lấy năng lượng
từ thiên nhiên bằng các phương tiện công cụ, kĩ năng, tổ chức và
kiến thức”..
10. Phân phối là các cách mà con người đưa hàng hóa và
địch vụ họ sản xuất đến tay người sử đụng. Theo nhà kinh tế
vụ được chuyển từ một cá nhân hay một nhóm đến một các
nhân hay một nhóm khác như là những món quà mà không có
sự trả tiền c.
12. Tương hỗ hào phóng: là loại trao đổi không trông chờ
một sự đáp trả lại ngay. Những người tham gia được khuyến
khích bằng cảm giác hướng đến sự thịnh vượng của những
người khác
ngang hàng nhau trong xã hội và có mối quan hệ không quá thân
nhân hay một nhóm trong hệ thống trao đổi tương hỗ cố gắng
15. Tái phân phối là khi hàng hóa được các thành viên của
một nhóm xã hội đóng góp thành của chung và sau đó chúng
190
16. Trao đổi thị trường: hàng hóa và dịch vụ thường được
mua và bán thông qua việc sử dụng một loại tiền tệ chuẩn.
17. Tiêu đùng ở các xã hội có nhiều mục đích, một trong
những mục đích quan trọng tập trung sự chú ý của các nhà nhân
học nhất đó là tiêu đùng tượng trưng cho uy tín xã hội, tiêu chí
18. Nhân học quan tâm chú yếu đến sự tiếp xúc, tương tác
giữa tính toàn cầu (global) và tính địa phương (the local). Cụ thể
đó là các quá trình toàn cầu hóa tồn tại như thế nào và phải thoả
thuận với hoàn cảnh thực tại của các xã hội cụ thể, với văn hóa
và lối sống của các xã hội này vốn đã được tích lũy qua một quá
191
Chương 5
VĂN HÓA
Văn hóa là chủ đề được nghiên cứu bắt đầu từ cuối thế kỷ
XIX. Từ đó đến nay, có nhiều trường phái nghiên cứu văn hóa
khác nhau đã đưa ra nhiều cách tiếp cận, quan niệm lí thuyết
khác nhau. Với cách tiếp cận Nhân học văn hóa, ngoài những
vấn đề chung, chương này sẽ giới thiệu 6 phần: (1) Thuật ngữ,
khái niệm và định nghĩa văn hóa; (2) Phân loại văn hóa; (3) Bản
chất, chức năng và đặc điểm văn hóa; (4) Những chủ đề nghiên
cứu văn hóa; (5) Câu hỏi thảo luận, (6) Tóm tắt chương, Ớ Tài
mặt thuật ngữ khoa học, văn hóa được bắt nguôn từ chữ Latin
chữ Hán, "văn hóa" ({E) hay "văn trị" (Ć8) đều có nghĩa
chung xem "văn hóa như đáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa
thiên hạ. -
cuốc, "làm đất" hay "trồng trọt" đều muốn chỉ sự tác động của
con người làm thay đổi tự nhiên để thích ứng với môi trường
sinh sống. Chính trong khái niệm này chứa đựng sự đối lập của
tiễn trình phát triển tự nhiên và phát triển nhân tạo trong quá
? Belik A.A. (2000), Văn hóa học, Những H thuyết Nhân học văn hóa, 7£p chí
Đặng Nghiêm Vạn (2010), Văn hóa Việt Nam đa tộc người, NXB Văn học, tr.17.
192
2
trình sáng tạo văn hóa. Văn hóa là sản phẩm do con người sáng
tạo”. Chính vì thế văn hóa trở thành một trong những đối tượng
phổ biến nhưng để đi đến một định nghĩa hay cách giải thích
thống nhất cho khái niệm văn hóa lại là một điều không dễ đàng.
Mặc dù trên thế giới có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống
nhưng cách hiểu về văn hóa ở mỗi dân tộc ít nhiều gần nhau.
Do tất cả các nền văn hóa đều có xuất phát điểm chung là, văn :
hóa chính là sản phẩm do con người sáng tạo ra và phản ánh qua
chính nếp sống của họ. Do vậy, tùy theo vấn đề nghiên cứu, các
nhà khoa học đưa ra định nghĩa, cách hiểu nào mà họ cho là
Đối với nhân học, một ngành nghiên cứu về con người, xem
văn hóa là một chủ đề quan trọng. Các nhà nhân học sử dụng
khái niệm văn hóa theo một nghĩa rộng bao gồm tất cả trải
nghiệm, phương thức sống của con người. Theo đó, Edward
Burnett Tylor, nhà nhân học theo trường phái Tiến hóa luận đầu
- tiên đưa ra định nghĩa về văn hóa vào năm 1871 như “ăn hóa
hay văn minh là một phức hệ bao gồm kiến thức, niềm tin, nghệ
thuật, luật pháp, đạo đức, phong tục, và bắt cứ các khả năng và
thói quen nào khác mà con người có được như là một thành viên
trích dẫn để tham khảo hơn một thế kỷ qua. Tuy nhiên, định.
nghĩa này chỉ chú trọng đến khía cạnh văn hóa tỉnh thần và văn
3 Belilk A.A. (2000), Văn hóa học, Những lý thuyết Nhân học văn hóa,sđỏ, tr9.
* Œ.B. Tylor (1871), Prừmiiue Cuire, Volume 1.2,John Muưay, London.pp. 43.
193
hóa xã hội, thiếu bóng đáng của văn hóa vật chất. Định nghĩa
này còn xem văn hóa tương đương với văn mỉnh. Vì thế, sau
_E.B. Tylor khái niệm văn hóa vẫn tiếp tục được bổ sưng và
định nghĩa.
xuất bản năm 1952 và tái bản 1963 của A. Kroeber và CL,
Kluckhohn đã tập hợp được hơn 200 định nghĩa khác nhau về
văn hóa. Tác giả đưa Ta định nghĩa mới như “Văn hóa bao gồm
những chuẩn mực, nằm ở bên trong lần biểu lộ ra bên ngoài,
xác định hành vi ứng xử được tập nhiễm nhờ các biểu tƯỢNG;
văn hóa xuất hiện nhờ hoạt động của con người trong khi đưa
sự biểu hiện của nó vào các phương tiện (ật chốt). Hạt nhân cơ
bản của văn hóa gồm các tư tưởng truyền thông (được hình
thành trong lịch sử), đẫu tiên là những tư tưởng có giá trị đặc
biệt. Hệ thông văn hóa có thể được xem xét, một mặt như là kết
quả của hoạt động người, mặt khác như lò những sự điều chỉnh
Một định nghĩa khác của Franz Boas - theo trường phái đặc
thù luận mà ngành nhân học cần chú ý: “Văn hóa là tổng thể
các phản ứng tỉnh thần và vật chất và những hoạt động định
hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người
vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với
môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với
những thành viễn irong nhóm và của chỉnh các thành viên này
với nhau 6
Nhiều nhà sử học, văn hóa học Việt Nam cũng đưa ra nhiều
định nghĩa khác nhau, tiêu biểu có định nghĩa của nhóm tác giả
Ÿ BeHikAA. (2000), Văn hóa học, Những lÿ thuyết Nhân học văn hóa, sđd, tr, 14.
Ê- Eranz Boas (1940), Race, Language and Culure, A Free Press Papeback, The
194
cố GS Trần Quốc Vượng cũng tiếp cận và sử dụng định nghĩa
văn hóa của E-B. Tylor trong công trình nghiên cứu của họ”.
Đối với các nhà Dân tộc học/Nhân học ở Việt Nam, họ chưa
đưa ra định nghĩa văn hóa riêng biệt mà luôn định nghĩa văn hóa
gắn với tộc người. Tiêu biểu cho trường phái này có tác giả
Đặng Nghiêm Vạn, Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp có định
nghĩa về văn hóa tộc người như "Văn hóa tộc người được hiểu
là bao gồm tổng thể các yếu tô về văn hóa vật chất, văn hỏa tỉnh
thân, giúp cho việc phân biệt tộc người này với tộc người khác.
` Chính văn hóa tộc người là nên tảng nảy sinh và phát triển ý
"Văn hóa nên ñược đề cập đến như là một tập hợp của những
đặc trưng về ¿âm bồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã
hội hay một nhóm người trong xã hội và nỗ chứa đựng, ngoài
văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống,
định nghĩa văn hóa của E-B. Tylor và định nghĩa văn hóa
của ƯNESCO được các nhà khoa học sử dụng phố biến nhất
hiện nay.
Phân loại văn hóa một dân tộc, một tộc người thành những
thành phân khác nhau là cần thiệt cho việc nghiên cứu. Tuy.
nhiên, bất cứ cách phân loại nào cũng chỉ có tính tương đối, vì
7 _ Trần Quốc Vượng (cb) (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, tr. 18.
Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên), Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp (2000), Dán tộc
195
_ giữa các thành phần văn hóa có mối tương quan chặt chẽ, không
tách rời. Cách phân chia văn hóa bao gồm hai lĩnh vực: văn hóa
vật chất và văn hóa tỉnh thần là rất phố biến. Tuy nhiên, cũng có
một số tác giả phân chia văn hóa làm ba lĩnh vực: văn hóa vật
chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần. Giáo trình niầy sẽ giới
thiệu 4 cách phân loại văn hóa của 4 nhóm tác giả như sau:
2.1. Các phân loại văn hóa của nhà Nhân học
Trong những công trình nghiên cứu, E.B Tylor tuy chưa
phân loại văn hóa rõ ràng nhưng ông có để cập văn hóa có hai
phần: văn hóa vật chất và văn hóa tỉnh thần. Văn hóa vật chất
bao gồm những công cụ lao động, ngọn giáo, cung tên, vải và
văn hóa tỉnh thần bao gồm huyền thoại, lễ hiến tế, các nghỉ thức,
...Ông xem những thành phần vừa liệt kê trên là những phạm
2.2. Các phân loại văn hóa của các nhà Dân tộc học
Đối với nhà Dân tộc học, tiêu biểu nhóm tác giả Đặng
Nghiêm Vạn, Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp'”, phân chia văn
hóa thành hai lĩnh vực: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất: là những sản phẩm vật chất đo con người
sáng tạo ra trong quá trình lao động bao gồm: công cụ lao động,
vũ khí, phương tiện. đi lại, phương tiện vận chuyển, nhà cửa,
Văn hóa tỉnh thân: là những sản phẩm lao động trí óc của
người được sáng tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử nhân
loại bao gồm những thói quen trong lao động sản xuất, những trì
thức khoa học, phong tục tập quản, dân luật, văn hóa nghệ thuật,
19 Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên), Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp (2000), Dân rộc
196
Ngoài cách phân chia trên, Đặng Nghiêm Vạn” còn phân
chia văn hóa ra làm ba bộ phận: văn hóa vật chất, văn hóa xã hội
"Văn hóa vật chất bao gồm các hình thức sản xuất hay hình
thức kinh tế, cung cách ăn, mặc, ở, đi lại, trao đổi; Văn hóa xã
hội bao gồm các lĩnh vực hôn nhân, gia đình, tổ chức xã hội
trong đó lưu ý đến vấn đề sở hữu, quan hệ sản xuất. Văn hóa
tỉnh thần bao gồm các lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng, tri thức
cộng đồng, văn học nghệ thuật, vui chơi giải trí trí",
Cách phân loại này có những điều hợp lý và chỉ hợp với xã
hội nông nghiệp cổ truyền. Ngược lại bị hạn chế nếu áp đụng đề
nghiên cứu xã hội công nghiệp, hiện đại. Ở xã hội hiện đại, có
khi những quan điểm, tử tưởng có thê bị trái ngược với xã hội
Với mối quan tâm về di sản văn hóa, UNESCO chia văn hóa
thành hai lĩnh vực: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Văn:
hóa vật thể (tangible culture) là những yếu tố vật chất trong văn
hóa như đình, chùa, miếu, nhà cửa, trang phục, âm thực,... Văn
hóa phi vật thể (intangible culture) là các biểu hiện tượng trưng
của văn hóa, là những yếu tố tinh thần trong văn hóa như: âm
nhạc, múa, ngôn ngũ, huyền thoại, nghỉ lễ, bí quyết của nghệ
nhân trong chế tác nghề thủ công (Ủy ban Quốc gia về thập niên
lưu truyền và biến đổi qua thời gian, qua quá trình tái tạo, cách
._ tân của cộng đồng, luôn gắn bó hữu cơ với nhau chứ không tách
_ biệt. Các nhà Dân tộc học, Nhân học văn hóa nghiên cứu văn
!!ˆ Đăng Nghiêm Vạn (2010), Zăn hóa Việt Nam đa tộc người, NXB Văn học.
2ˆ Đăng Nghiêm Vạn (2010), Văn hóa Việt Nam đa tộc người, NXB Văn bọc, tr. 42.
197
hóa vật thể và văn hóa phi vật thể nhằm tìm ra đặc trưng văn hóa
tộc người trong tổng thể văn hóa tộc người. Như vậy dưới góc
độ di sản văn hóa, vai trò của văn hóa vật thể và văn hóa phi vật
thể rất quan trọng vì hai lĩnh vực này góp phần quyết định sự tồn
tại hay không tồn tại của nền văn hóa một dân tộc.
Ngoài ba cách phân loại trên, hai cách phân loại sau đây
E.S. Markarian (1983), nhà Dân tộc học người Nga phân
chia văn hóa thành hai bộ phận, bộ phận thứ nhất gồm văn hóa
sản xuất ban đầu và văn hóa bảo đảm đời sống và bộ phận thứ
hai gồm văn hóa định chuẩn xã hội và văn hóa nhân văn. Giữa
quan hệ hỗ tương tác động qua lại lẫn nhau, không thể phân chia
Tạch rÒi. :
Richley Crapo, nhà Nhân học văn hóa.Mỹ chia văn hóa
thành các ứiểu hệ thống văn hóa (cultural subsystems), bao gồm
công nghệ gồm các tiểu phân hệ: nơi cư trú (shelter), sinh tồn
(subsistence), phòng thủ (defense). Phân hệ zổ chức xã hội gồm
các tiểu phân hệ: nhóm (groups), địa vị (statuses), mối quan hệ
xã hội đều có mối quan hệ hỗ tương, tác động bổ sung lẫn nhau.
Cùng theo thao tác phân loại văn hóa theo các (hành phần
như trên, các nhà Nhân học/Dân tộc học tùy theo mối quan tâm
198
nghiên cứu của mình sẽ có những cách chọn lựa phân loại văn
hóa cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, cách phân loại phổ biến và căn
bản nhất hiện nay là phân văn hóa ra làm hai lĩnh vực: văn hóa
Từ những khái niệm, định nghĩa về văn hóa nêu trên, xét
thấy bản chất của văn hóa chính là sản phẩm do con người sáng
- tạo nhằm thích ứng với môi trường sống của con người bao gồm
Nhân học văn hóa tìm hiểu con người thông qua việc khảo
sát cụ thể năng lực thích ứng (adaptfation) của con người và sản
phẩm của năng lực ấy. Văn hóa là kết quả của sự phát triển hình
thành nên một thiết chế thích ứng với môi trường thiên nhiên
của con người. Ví đụ, để có chỗ che nắng, che mưa, ăn no, mặc
ấm, con ì người nghĩ ra cách làm nhà cửa, trang phục, công ‹ cụ sản
xuất, trồng trọt, chăn nuôi,... Có lẽ đây là điểm mẫu chốt nhất
của Nhân học thuộc trường phái. chức năng của Malinowskl,
trong ‹ đó văn hóa được coi là thiết chế nhằm thỏa mãn những
nhu cầu thiết yêu về mặt sinh vật của con người ”
con người nhưng văn hóa chỉ được sáng tạo ra nhờ “sức mạnh
của tổ chức, của tập thể" và tổ chức tập thể xã hội này là thiết
chế bảo trợ con người. Ví dụ, để được sinh tồn, sinh con. đẻ cái,
chống chợi với thú đữ, giặc ngoại xâm con người xích gần, liên
kết với nhau hình thành tổ chức gia đỉnh, bộ tộc, làng, xã, nhà
13 Vũ Minh Chí (2004), Nhân học văn hóa - Con người với thiên nhiên, xã hội và
thể giới siêu nhiên, NXB Chính trị, Quốc gia, Hà Nội, tr. 347-340.
199
nước. Đây là điểm liên quan mật thiết với khái niệm văn hóa
trong Nhân học theo thuyết cơ cầu chức năng của Radcliffe-
Brown. Từ khái niệm này dẫn đến, một số nhà Nhân học coi vấn
đề quan trọng nhất của Nhân học là nghiên cứu tổ chức xã hội
Văn hóa có 4 chức năng cơ bản: chức năng nhận thức thế
giới; chức năng động lực xã hội; chức năng dự báo phát triển và.
Chúc năng nhận thực thể giới: Văn hóa là kết tỉnh e của quá x
trình nhận thức và biến đổi thế BIỚI của con Tgười. Chức năng ˆ
này tồn tại trong mọi hoạt động văn hóa, thúc đây con người tìm
tòi, khám phá để thích ứng, cải tạo môi trường: tự nhiên - xã hội
Chức năng động lực xã hội: Nhờ chức năng, nhận thức đã
thúc đây con người có nhu cầu hiểu biết, Cải tạo thế giới, tổ chức
"Văn hóa là động lực, là mục tiêu để phát triển kinh tế - xã hội".
Chức năng dự báo phát triển: Cùng với chức năng nhận
thức, văn hóa chính là năng lực trí tuệ giúp con người nhận biết,
khám phá thế giới, từ đó đưa ra dự báo để làm căn cứ hoạch định
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Chức năng gio dục: Chức năng này đóng vai trò quyết
định để hình thành nhân cách các thành viên trong xã hội, hướng
con người đến chân - thiện - mỹ. Mục tiêu cao cả của văn hóa là
hướng đến con người và vì con người, bảo đảm sự kế tục của
1 Vũ Minh Chỉ (2004), Nhân học văn hóa - Con người với thiên nhiên, xã hội và
200
3.3. Đặc điểm của văn hóa
Kroeber - Nhà nhân học văn hóa nhắn mạnh đặc điểm văn
hóa là sự được học hỏi. Khác với động vật vốn dựa vào bản
năng để có được các khả năng, con người lĩnh hội văn hóa như
các khả năng và thói quen có được khi là thành viên của một xã
hội qua cơ chế học hỏi hay còn gọi là quá trình nhập thân văn
hóa (enculturation). Nhập thân văn hóa là quá trình tương tác xã
_hội, nối kết cá nhân lại với nhau, qua đó con người học hỏi và
tiếp nhận văn hóa từ cộng đồng của chính họ: Đây là quá trình
diễn ra trong suốt cuộc đời của con người. Nhờ quá trình này,
thành quả văn hóa của thế hệ trước được truyền cho thế hệ sau.
Con người có nhiều cách học hỏi khác nhau, trong giáo trình
này sẽ giới thiệu ba cách học hỏi cơ bản nhất của con người theo
hình thức học hỏi có ý thức và học hỏi vô thức như sau:
Học hỏi theo tình huống (situational learning) hay học theo
phương pháp thử sai là cách học đễ tự điều chỉnh hành vi của
Học hỏi xã hội (social learning) xuất hiện khi con người
quan sát người khác và bắt chước theo hành vi đó. Ví dụ, cha
đi nhà thờ vào mỗi buổi sáng Chủ Nhật, thì con lớn lên cũng
làm theo.
Học hỏi biểu tượng (symbolic learning) là việc học này dựa
trên khả năng ngôn ngữ, khả năng sử dụng và hiểu các biểu
sách lấy kiến thức cũng là một dạng học hỏi về biểu tượng. Việc
học hỏi. biểu tượng có các khả năng nhất định trong việc thâm
201
3.3.2. Văn hóa là sự chia sẽ
Đặc điểm của văn hóa là sự chia sẻ. Trong các xã hội, văn
hóa được chia sẻ với nhau bằng nhiều hình thức, trong gia đình
(cha mẹ, con cái) và trong xã hội (nam, nữ, già, trẻ,...) cùng nói
chuyện chia sẻ nhiều thông tin trong quá trình giao tiếp, trơng
tác với nhau. Từ đó, con người dần dần học hỏi lẫn nhau, tiếp
nhận nhiều kiến thức, thông tin khác nhau, hình thành nên nếp
sống văn hóa của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên, không phải
tất cả mọi người trong một xã hội đều cùng chung cách chia sẻ
văn hóa như nhau mà phụ thuộc vào mỗi nền văn hóa hay cá
nhân, giới tính, tuổi tác, giai cấp mà có cách chia sẻ khác nhau.
Chắng hạn, nhắc đến văn hóa phương Tây, người ta thường cho
là thanh niên khi trưởng thành sẽ chuyển ra sống riêng, tuy nhiên
không phải ai cũng làm như vậy. Trong xã hội cũng có một số cá
nhân không theo chuẩn mực hay tiếp nhận sự chia sẻ của văn
hóa cộng đồng, mà tạo ra yếu tố văn hóa mới. Yếu tế văn hóa
mới này ban đầu xem như là biến thể văn hóa của cá nhân. Đây
được xem là khởi nguồn cho sự xuất hiện yếu tố văn hóa mới.
Tuy nhiên, yếu tế văn hóa mới này có được chia sẻ, tồn tại trong
cộng đồng hay không là phụ thuộc vào nền văn hóa đó!
Mỗi dân tộc, quốc gia có một nền văn hóa khác nhau. Thậm chí
một dân tộc, một quốc gia cũng không thể có một nền văn hóa
đồng nhất, vì mỗi vùng có đặc thù văn hóa riêng. Từ đó tạo nên
người khác nhau (Kinh, Tày, Thái, Chăm, Eđê, Jorai, Khmer,...)
hợp thành. Văn hóa người Kinh cũng không đồng nhất có những
đặc điểm chung và riêng giữa văn hóa người Kinh ở vùng Bắc
202
Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Văn hóa tộc người Chăm cũng có
điểm chung và riêng giữa văn hóa người Chăm Ahiér (Chăm
Văn hóa là sự đa dạng nội dung cốt lõi được đề cập trong
thuyết tương đối luận văn hóa nhưng lại mâu thuẫn đối nghịch
Văn hóa là quá trình biến đổi vì văn hóa là phạm trù vật thể,
ý tưởng và các đạng thức hành vi được truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác qua quá trình học hỏi và chia sẻ. Vì thế quan điểm
Văn hóa luôn thể hiện ở trạng thái động chứ không phải
ngưng động,bất biến. Động thái văn hóa tộc người là một quá
trình trong đó có các yếu tố văn hóa truyền thống bền vững,
có yếu tố mất đi, có yếu tổ được tái tạo, có yếu tố biến đổi,
cách tân,... Nhà nhân học văn hóa cần phân tích, lý giải động
thái văn hóa, từ đó mới có cái nhìn tông quan về văn hóa đề -
thấy những yếu tố truyền thống và hiện đại qua các thời kỳ.
Nếu xem nhẹ nghiên cứu văn hóa hiện đại, chỉ quan tâm đến
những yếu tố văn hóa truyền thống sẽ dẫn đến việc không
nắm được cái mới đang được hình thành và sẽ càng phiến diện
hơn nữa nếu chỉ quan tâm đến cái cũ, cái cỗ xưa, cái cổ truyền
đang tồn tại trong thực tế mà không nhìn thấy những yếu tố
Sự biến đối văn hóa tộc người còn chịu sự tác động bởi
nhiều yếu tố như "khuyếch tán hay truyền bá văn hóa" (cultural`
điffusion), giao lưu văn hóa (cultural exchange), tiếp biến văn
203
- Khuyếch tán hay truyền bá văn hóa (cultural diffusion)
"sự lan tỏa, sự loang ra, sự thâm thấu". Trong nghiên cứu văn
hóa, khái niệm này xuất hiện vào cuối thế kỉ19, có nghĩa là sự
truyền bá các văn hóa thông qua những cuộc tiếp xúc giữa các
dân tộc bằng con đường buôn bán, truyền giáo, xâm lược, di
dân,... Quá trình khuyếch tán, truyền bá của một sự vật, một ý
tưởng, hay một dạng thức hành vi từ một nền văn hóa này sang
một nên văn hóa khác có vai trò quan trọng cho sự biến đổi văn
hóa. Các đại biểu của xu hướng này cho rằng: Truyền bá, tiếp
xúc, đụng chạm, thiên di, hấp thụ văn hóa là nội đung chủ yếu
của quá trình lịch sử. Họ cho rằng, sự xuất hiện hiện tượng văn
hóa chỉ một lần, sau đó truyền bá rộng ra từ trung tâm phát sinh
của nó đến các khu vực khác, làm cho nền văn hóa đó bị ảnh
hưởng có sự biến đổi. Theo đó, họ phân tích đặc điểm không
gian và thời gian nhằm cụ thể hóa đối tượng nghiên cứu khi đối
chiếu với tiến hóa luận cho rằng văn hóa tiến triển theo bậc
thang tiến hóa từ thấp đến cao và đối lập với quyết định luận địa
lý cho rằng các dân tộc sống ở vùng địa lý, sinh thái giống nhau
thì có nền văn hóa giống nhan. Cuối cùng nhóm khuyếch tán và
truyền bá luận vẫn giữ quan điểm nghiên cứu văn hóa của họ
Theo các nhà Nhân học Mỹ, giao lưu văn hóa (cultral
- exchange) là quá trình tiếp xúc, trao đổi, ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau giữa hai nền văn hóa. Trong đó một nền văn hóa có thể
thích nghỉ, ảnh hưởng một nền văn hóa khác bằng cách vay
mượn nhiều nét đặc trưng của nền văn hóa ấy. Bản chất của quá
trình này có tính chọn lọc. Khi hai nền văn hóa tiếp xúc với nhau
? Beiik A.A. (2000), Văn hóa học, Những lý thuyết Nhân học văn hóa,sđỏ, tr. 50.
204
không nhất thiết sẽ trao đổi tất cả văn hóa với nhau, mà chỉ có
một số ít các yếu tố văn hóa được trao đối. Giao lưu văn hóa còn
là một quá trình hai chiều chứ không phải xã hội nào đơn giản
thì sẽ tiếp nhận các yếu tố văn hóa từ các xã hội hiện đại có trình
độ khoa học - kĩ thuật phát triển cao hơn. Chẳng hạn, sự tiếp xúc
Người Châu Âu tiếp thu các loại thuốc chữa bệnh (thuốc ký
sinh, thuốc gây tê, thuốc nhuận tràng) và thực phẩm (bấp, đậu,
khoai tây,...). Trong quá trình tiếp thu, một khi yếu tố văn hóa
đã được chấp nhận vào một nền văn hóa mới, các yếu tố văn hóa
này có thể sẽ thay đổi về dạng thức và chức năng, chẳng hạn về
Giao lưu văn hóa (cultural exchange) và tiếp biến văn hóa
thực chất có chung một nội hàm (nội dung) và có quan hệ biện
chứng với nhau. Thuật ngữ tiếp biến văn hóa do Ph. Ratxen
(1844-1904) - nhà nghiên cứu người Đức đưa ra trong tác phẩm
Địa lý học nhân loại. Tiếp biến văn hóa (acculturation) là kết quả
của sự giao lưu, tiếp xúc thường xuyên giữa hai nền văn hóa.
Nếu khuyếch tán chỉ đề cập đến hiện tượng truyền bá, ảnh
hưởng văn hóa riêng lẻ thì tiếp biến văn hóa thường đề cập đến
việc sắp xếp lại tổ hợp văn hóa trong một thời gian ngắn thông
qua kết quả giao lưu giữa hai nền văn hóa. Cả hai nền văn hóa
phụ thuộc và nỗi trội đều có thể biến đổi nhưng nền văn hóa phụ
thuộc biến đổi mạnh mẽ hơn. Giao lưu, tiếp biến văn hóa có thể
có nhiều hệ quả. Nền văn hóa phụ thuộc có thể biến mất, hội
nhập nhữ một tiểu văn hóa đặc trưng của nhóm nồi trội hay có
thể bị đồng hóa vào nhóm nổi trội. Một số nhà Nhân học văn
hóa (M. Mead 1956) cho rằng, các tình huống giảo lưu tiếp biến
văn hóa có thể xảy ra hai hình thức: các nên văn hóa phụ thuộc
tự đo lựa chọn hoặc bị sức ép đồng hóa xảy ra trong quá trình
205
_ tiếp biến, Ví dụ: văn hóa Việt Nam tiếp nhận văn hóa
Trung Hoa qua quá trình chiến tranh, ép buộc, đồng hóa.
Ngược lại, văn hóa Chăm tiếp nhận văn hóa Án Độ qua quá
trình tự nguyện, hòa bình thông qua con đường buôn bán và
truyền giáo,.
Cộng sinh văn hóa trong lý thuyết Nhân học được hiểu là sự
cùng tồn tại nhiều nền văn hóa khác nhau trong một nền văn
hóa, có cả yếu tố nội sinh (văn hóa bản địa) và ngoại sinh (văn
hóa bên ngoài). Trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa
thường diễn ra hiện tượng cộng sinh văn hóa rất phổ biến, tồn tại
khách quan trong tự nhiên và trong lĩnh vực văn hóa — xã hội. Sự
cộng sinh văn hóa phổ biến nhất là cộng sinh giữa hai yếu tổ văn
hóa nội sinh và văn hóa ngoại sinh. Những yếu tố văn hóa ngoại
sinh thâm nhập vào văn hóa bản địa nếu không có sự chọn lọc,
không có bản lĩnh của phía tiếp nhận thì có khi văn hóa bản địa
sẽ bị đồng hóa. Còn nếu nội lực của văn hóa bản địa vững vàng
thì sẽ tránh được tình trạng bị động, phụ thuộc, đồng hóa khi các
yếu tố văn hóa ngoại sinh xâm nhập. Trong quá trình phát triển
văn hóa tộc người, yếu tố nội sinh bao giờ cũng đóng vai trò chủ
đạo, làm nền tảng củng cố bản sắc văn hóa dân tộc đó. Trên nền
tảng văn hóa nội sinh, nếu có yếu tố văn hóa ngoại sinh du nhập
vào sẽ làm phong phú, đa dạng nền văn hóa bản địa. Vì vậy yếu
tố văn hóa ngoại sinh cần được sàng lọc, lựa chọn sao cho hài
ứng với môi trường sông mới, từ đó làm biên đôi văn hóa. Cách
tân văn hóa có quan hệ đên phát minh dân đến sự thay đôi nội
206
sinh trong một nền văn hóa. Chúng ta biết bất cứ điều gì, tư -
tưởng hay dạng thức hành vi nào đó xuất hiện trong một xã hội
những học giá nỗi tiếng nghiên cứu về thay đổi văn hóa của thế
động lớn hơn đến sự thay đổi văn hóa hơn là phát minh có chủ
đích. Tuy nhiên, các nhà phát mình có chủ đích thường nhận
được sự công nhận của xã hội. Chẳng hạn như Jonas Salk phát
hiện ra vắc xin bại liệt đã xóa bỏ căn bệnh này và đã được xã hội
công nhận trong khi người sáng tạo các món ăn phổ biến nào đó
tuy có tầm ảnh hưởng rộng nhưng xã hội lại không biết đến cá
nhân đó. Cần phải lưu ý là cách tân (innovation) và phát minh
(invenfion) không đồng nhất với nhau. Tuy nhiên nếu có nhiều
phát minh mới trong một dân tộc thì sẽ thúc đây nền văn hóa dân
Nói chung trong quá trình biến đổi, văn hóa tích tụ nhiều
yếu tố khác nhau, có cả tính truyền thống, đổi mới (cánh tân),
hiện đại và chịu tác động bởi nhiều nhân tố khác như như
khuyếch tán truyền bá, giao Ìưu, tiếp biển và cộng sinh văn hóa.
Tuy nhiên tính truyền thống và hiện đại trong văn hóa luôn được
chú ý đến. Văn hóa truyền thống mang tính ổn định tương đối
được tích lũy, lưu truyền, tái tạo trong cộng đồng. Thế nhưng,
không có văn hóa truyền thống nào tồn tại trong trạng thái bất
biển mà luôn trải qua những biến đổi. Đặc biệt, trong xã hội hiện
đại, khi mà các dân tộc không còn sống riêng biệt, quan hệ sản
xuất hàng hóa, lối sống đô thị không ngừng tác động mạnh vào
cộng đồng thì văn hóa truyền thống của dân tộc ít nhiều phải
biến đối. Cần chú ý là tính truyền thống và tính hiện đại trong
văn hóa không phải là hai khái niệm đối lập nhau mà có quan hệ
những gì tốt đẹp của văn hóa tộc người được đúc kết, là bản sắc
văn hóa dân tộc, là yếu tố lịch đại của văn: hóa. Còn yếu tố hiện
đại trong văn hóa là lát cắt đồng đại. Hai yếu tố trên tác động, bổ
207
sung lẫn nhau làm cho nền văn hóa mỗi dân tộc luôn luôn vận
động, phát triển, thích nghỉ và phù hợp với mọi thời đại.
3.3.5. Văn hóa mang tính phổ quá/ và tính đặc thù
Nhân học văn hóa quan tâm đến tính phổ quát và tính đặc
thù của văn hóa. Tính phổ quát của văn hóa để chỉ về nền văn
hóa chung của nhân loại, còn tính đặc thù của văn hóa thuộc về
phạm trù văn hóa riêng biệt của từng tộc người.
Tính phổ quát của văn hóa con TEƯời biểu hiện rõ nhất trong
các lĩnh vực: ăn, mặc, ở,... Đó là những nhu cầu tâm sinh lý cơ
bản của con người, TẤt cả các xã hội còn có các nhu cầu phổ
quát khác. Chẳng hạn như nhu cầu cần có hôn phối và nuôi con
đã dẫn đến hệ thống hôn nhân và gia đình. Các xã hội có nhu
cầu phát triển hệ thống để chuyên tải văn hóa của họ từ thế hệ
này Sang thế hệ khác nên dẫn đến việc hình Thành hệ thống giáo
đục ở tất cả các xã hội. Điều kiện tiên quyết cho sự trường tôn
của bất kỳ xã hội nào đó là việc duy trì trật tự xã hội. Nhu cầu
này dẫn đến sự hình thành các cơ chế é ép buộc mọi người tuân
theo các quy chuẩn xã hội mà chúng ta gọi là một hệ /hống kiểm
soát xã hội (luật tục, luật pháp). Ngoài ra, con Tigười ở các xã hội
đối mặt với các biến cố nhưng những biến cố đó khó có thể giải
_ thích thì con người tìm đến niềm tin siêu nhiên chẳng hạn như
tôn giáo, phù thủy, ma thuật. Vì thế, tất cả các xã hội đã phát
triển hệ thông tôn giáo. Trong xã hội con người còn có nhu cầu
trao đối thông tin nên hệ thống giao tiếp ngôn ngữ. và phi ngôn
ngữ xuất hiện. Vì thế, cho dù các nền văn hóa rất khác nhau
nhưng đo tất cả các nền văn hóa phải đáp ứng các nhu cầu cơ
bản của con người nên chúng có một số các đặc điểm chung
208
- Tỉnh đặc thù của văn hóa (the spcctũc of culture)
Ngoài những tính phổ quát, mỗi nền văn hóa còn có tính đặc
thù riêng. Tính đặc thù này là những yếu tố nỗi trội trong bản sắc
văn hóa đân tộc. Chẳng hạn văn hóa Việt Nam ngoài tính phố
quát như trình bày trên còn có tính đặc thù. Đó là Việt Nam có
áo dài tứ thân, khăn mỏ quạ, nón quai thao; có chả lụa, chả giò,
chả quế, nem chua; có đàn bầu, đàn đáy,... được lưu truyền từ
đời này sang đời khác mang bản sắc riêng của Việt Nam và chỉ
Văn hóa Mỹ cũng vậy, ngoài những tính phổ quát còn mang
tính đặc thù. Nền văn hóa đặc thù của người Mỹ là giá trị của
văn hóa Mỹ đặt trên quan niệm của cá nhân. Người Mỹ thích nói
rằng mọi con người đều độc đáo. Hoặc người Mỹ không thích
đứng sát gần nhau khi trò chuyện mà cần một khoảng cách nhất
định giữa hai người khi đứng nói chuyện hay khiêu vũ hoặc đi
bộ. Họ không thích người khác đụng vào người họ. Điều này
không giống với văn hóa của đân tộc khác, ví đụ văn hóa của
người Brasil. Khi trò chuyện với một người Mỹ, người Brasil
tiễn tới một cách rất đặc trưng, trong khi người Mỹ lùi lại một
cách rất bản năng. Trong hoạt động này, cả người Brasil cũng
như người Mỹ đều không cố trở nên thân thiện hay lạnh nhạt
_ một cách đặc biệt mà mỗi bên đơn thuần chỉ đang tuân thủ một
thói quen của bản thân được thâm thấu qua những năm tháng
sống trong một truyền thống văn hóa đặc thù của họ”?.
Tính phổ quát và đặc thù văn hóa là đối trợng nghiên cứu
của ngành nhân học từ đầu thế kỷ 19. Kết quả, ngành nhân học
thành công ở chỗ, khi nghiên cứu văn hóa con người đã thấy
được sự khác biệt (tính đặc thù) và sự tương đồng (tính phổ
quát) giữa các nền văn hóa. Khuynh hướng này trái với khuynh
hướng khái quát hóa về “bản chất con người” vốn phổ biến ở
đầu thập kỹ 19. Sự thu thập và ghi nhận nhiều về sự khác biệt
209
văn hóa là rất quan trọng giúp chúng ta hiểu rõ về bản sắc văn
hóa riêng của mỗi dân tộc bên cạnh tính phổ quát. Từ đó sẽ giúp
chúng †a có những giải pháp tốt cho hàng loạt các vấn đề trong
Các nghiên cứu nhân học cho thấy là mỗi xã hội đều có
hình mẫu tiêu biểu về cá tính nam và nữ. Magaret Mead (1950)
nghiên cứu các cộng đồng cư đân ở New Guinea cho là ÿ thức
hệ về vai trò giới rất khác nhau và vai trò giới này là do văn hóa
số hình mẫu văn hóa chỉ được những người thuộc một bộ phận,
một địa vị hay một xã hội nhất định chia sẻ. Trong hầu hết các
chuyên biệt này không chỉ bắt nguồn từ sự phân biệt giới trong
lão động mà còn từ sự cắm đoán không cho phụ nữ tham gia vào
những loại hoạt động nhất định. VÍ dụ, ở cộng đồng người
cúng Tembaran vì đây là người bảo trợ của các đàn ông trưởng
nhà rông.
Ngoài Ta, hướng tiếp cận giới và văn hóa còn nghiên cứu về
các vấn đề bình đẳng giới, nữ quyền, bạo lực gia đình,... là các
vẫn đề bị chỉ phối bởi khuôn mẫu văn hóa trong từng xã hội”?,
?' Eerraro, Gary (2002), Cuitural Amtihiropology: an applied Persoectives, sảđ, tr. 31.
” Richley H.Crapo/ Reka Ferecz Mosteller (1993), Teaching and Testing with
p.362.
210
4.2. Văn hóa đại chúng (popular culture)
Văn hóa đại chúng là nguồn lưu trữ được tích tụ của các sản
phẩm văn hóa như âm nhạc, văn học, nghệ thuật, thời trang,
múa, phim ảnh, tivi, radio,... Nó thu hút sự chú ý của các nhà xã
Quan điểm thứ nhất cho rằng văn bóz đại chúng được tầng
kiểm soát truyền thông và các phương tiện khác) nhằm đặt
chúng dưới sự kiểm soát của họ, cũng như phản ánh lợi ích của
họ. Ví dụ sự tầm thường hóa và dung tục hóa đời sống tình dục
trích. Họ cho rằng như thế nhằm để phục vụ cho một cách nhìn
của nam giới và thể hiện sự thống trị của nam giới.
Quan điểm thứ hai, ngược lại, đặc biệt ở Anh, cho rằng
trong các nghiên cứu về văn hóa thì văn hóa đại chúng thường là
một phương tiện cho sự nổi loan chống lại văn hóa của các
nhóm thống trị. Từ viễn tượng này, văn hóa đại Chứng không
phải là một “thực đơn ” đều đặn và nhạt nhẽo được kiểm soát bởi
tầng lớp trên để nhằm làm đần độn và vỗ an các nhóm phụ
thuộc, phản ánh và để cao các lợi ích của tầng lớp thượng lưu,
trong nội dung của văn hóa. Nhờ vậy, nó có thể điều chỉnh đời
sống xã hội. Điều này có nghĩa là, các tầng lớp thấp, những
người niên thiếu, người da màu, phụ nữ và các ° nhóm phụ thuộc
khác không phải hấp thụ một cách thụ động vốïi hóa đại Chúng,
mà họ còn góp phần xây dựng và tải tạo một tầm nhìn về cuộc
sống của họ, bao gồm một số ý thức về vị thế bất lợi của họ.
Cuộc đấu tranh này được phần ánh qua các sản phẩm văn hóa đa
dạng, từ nhạc rap và nữ quyền đến những biểu điễn hài kịch, đến
nhạc rock mà những giai điệu của nó đã hấp dẫn giới trể.
New York.
HIẾN
John Fiske (1989) xem việc sử dụng văn hóa đợi chúng như -_
sách, báo, âm nhạc, tivi, phim ảnh,... của mỗi cá nhân như là một
Ngoài ra, hình thức và nội dụng của văn hóa đại chúng còn
thể hiện sự bất bình hay chống đối của các nhóm xã hội bị áp
cập tới khái niệm chủ nghĩa đề quốc văn hóa (ưmperialism) và
phê phán nó vì nó xem các cộng đồng như những nạn nhân hơn
là những tác nhân sáng tạo trong quá trình biến đổi chính họ,..
Chẳng hạn Micheals (1986) nhận thấy Rambo là một phim nổi
tiếng trong cộng đồng người bản địa ở sa mạc trung Australia,
những cư dân nói trên đã tạo ra những ý nghĩa riêng của mình từ
bộ phim này”.
4.3. Văn hóa trong nhân học biểu tượng (culture in symbol
anthropoloøy)
Văn hóa của bất cứ tộc người nào cũng đều bao hàm những
loại hình nghệ thuật. Những loại hình này thể hiện một hệ thống
biểu tượng phản ánh khá rõ nét tâm lý, sắc thái văn hóa cội
nguồn, truyền thống của tộc người đó. Nghệ thuật không chỉ đáp
ứng những nhu cầu thiết thực của đời sống vật chất và tỉnh thần
_của xã hội của tộc người mà còn thường được tô điểm, trang trí
theo quan niệm, theo tâm thức cội rễ sâu xa của tộc người đó. Có
thể nói sự biểu đạt thẩm mỹ trong nghệ thuật là một trong những
đề nghệ thuật. Kể từ sau cuộc khảo sát tổng quát về nghệ thuật
thời nguyên thủy do Franz Boas thực hiện, kho hiện vật phong
phú ở các viện bảo tàng là những dữ liệu nghiên cứu phong phú
cho các nhà nhân học. Sau thế chiến lần thứ hai, việc nghiên cứu
212 ì
nghệ thuật trong nhân học đã đạt đến đỉnh cao rực Tỡ. Những
cuộc nghiên cứu thực địa về nghệ thuật các nước đã gia tăng.
Nhân học biểu tượng là trào lưu lý luận coi văn hóa là hệ
thống ý nghĩa truyền đạt, nghiên cứu văn hóa đặt trọng tâm vào
sức tưởng tượng của văn hóa. Trào lưu này có mầm mống từ
những năm 1920 ở Anh, nhưng đến những năm 1960 mới định
hình rõ nét với công trình của các tác giả tiêu biểu như
Khi nghiên cứu theo chủ đề biểu tượng, các tác giả đã xem
hay văn hóa là dạng ý nghĩa được biểu hiện bằng biểu tượng,
được truyền lại theo thời gian; trong đó biểu tượng là phương
tiện trung gian biểu thị ý nghĩa nội dung về vật thể, hành vi, sự
được biểu hiện ở dạng ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ. Mối quan hệ
giữa vật thể và cái nó biểu tượng là do xã hội quy định. Nhân
học biểu tượng là những nghiên cứu về văn hóa như là một thực
thể tương đối độc lập, một hệ thống ý nghĩa mà nhà nhân học cố
gắng làm sáng tỏ thông qua việc giải mã những biểu tượng và
học hàng đầu nghiên cứu về biểu tượng theo lối diễn giải
(interpretive). Nguyên tắc chính của điễn giải đó là chúng ta chỉ
có thể hiểu được ý nghĩa của một hành động bằng cách liên hệ
nó với thế giới quan hay diễn ngôn nơi nó xuất phát chứ không
có một cái chung cho tất cả xã hội loài người. Theo quan điểm
3 Vũ Minh Chỉ (2004), Nhân học văn hỗa - Con người với thiên nhiên, xã hội và —
213
này, người ta nhìn các sự kiện xã hội như là một văn bản cần
phải giải mã, thông qua việc dựng lại ý nghĩa của các yếu tố
khác nhau, là cái mà người thực hiện hành động hoặc tham gia
vào các sự kiện xã hội gân cho nó. Việc muốn hiểu thấu đáo
cũng như diễn giải ý nghĩa của các loại hình nghệ thuật, biểu
tượng trong nền văn hóa của dân tộc nào đó phải tiếp cận từ
Thuật ngữ "cross - cultural" (xuyên văn hóa) đầu tiên được.
khởi xướng bởi các nhà nhân học ở thế kỷ 19 như Edward
nền tảng các kiến thức, ý tưởng, kĩ năng, công cụ đi chuyển qua
các nền văn hóa. Từ đó kích thích nhà nghiên cứu tạo ra khái
Thuật ngữ "cross - culture" (xuyên văn hóa) dần đần trở
thành phổ biến trong nghiên cứu của Nhân học văn hóa vào cuối
những năm 1980 và 1920. Thuật ngữ này được hiểu là quá trình
tương tác của các nên văn hóa, sự chuyển dịch văn hóa xuyên
qua các quốc gia và toàn cầu hóa. Xuyên văn hóa có sự khác biệt
với đa văn hóa. Đa văn hóa có khi được hiểu sự đa đạng văn
hóa trong một quốc gia hay một nhóm xã hội đặc thù, nhưng
xuyên văn hóa có phạm vi so sánh rộng hơn, vượt ra ngoài biên
giới quốc gia hay nhóm văn hóa. Xuyên văn hóa không phù hợp
cho việc tìm hiểu về một truyền thống văn hóa duy nhất”.
Xuyên văn hóa là hình thức thứ ba trong nghiên cứu so sánh
giữa các nền văn hóa. Đâu tiên là so sánh các nghiên cứu trường
DP. 242-262,
214
hợp, thứ hai là kiểm soát so sánh giữa các biến thể của một sự
trong một mẫu các trường hợp. Không giống như các nghiên
cứu so sánh bình thường khác chỉ xem xét các đặc điểm tương tự
của một vài xã hội, còn nghiên cứu xuyên văn hóa sử dụng một
mẫu đủ lớn để phân tích thống kê, có thể cho thấy vấn đề thừa
hoặc thiếu trong các mốt quan hệ giữa các nền văn hóa hoặc
trong câu hỏi nghiên cứu đặt ra trong quá trình thực hiện. Những
nghiên cứu này chủ yếu dựa vào đữ liệu khảo sát đân tộc học”
xuyên văn hóa có thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn về đặc trưng
văn hóa tộc người, quá trình giao lưu, tiếp biến cũng như quá
Thuật ngữ "Toàn cầu hóa" (globalization) liên quan với các
khái niệm "toàn thế giới", "toàn hành tĩnh", "xuyên quốc gia",
"xuyên văn hóa". Toàn cầu hóa và xuyên văn hóa có quan hệ với
nhau, được đề cập đến như một tiến trình nối kết giữa con người
và các quốc gia trên hành tỉnh với nhau trên các phương diện.
Đây là vấn để khá phức tạp, mang tính đồng quy trên phương
điện văn hóa đang là thách thức của vẫn đề toàn hóa hiện Tiay.
Trong nhân học hiểu: "7oàn cẩu hóa là quá trình dịch
chuyến vốn, lao động, lữ thuật, hàng hóa, tư tưởng, và con người
giữa những vùng đất, những xã hội, những nên văn hóa và kinh
tiêu cực và tích cực. Mặt tích cực trong quá trình toàn cầu hóa
thúc đầy các quốc gia, các dân tộc liên kết, hợp tác với với nhau,
°° Nhiều tác giả (2014), Toàn cẩu hóa văn hóa địa phương và phát triển — Cách
tiếp cận nhân học, NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, tr.1.
215
làm một số quốc gia phát triển, giàu có, có cơ hội để bổ Sung
làm phong phú bản sắc văn hóa của họ. Mặt khác, trong tiến
trình toàn cầu hóa, những quốc gia, xã hội, nền kinh tế và văn
hóa khác nhau không ở một vị trí bình đẳng. Sự bất bình đẳng
này đã đưa đến quan ngại cho nhiều nước đang phát triển VỆ sự
thua thiệt về kinh tế và chính tị cũng như khả năng mất bản sắc
Trong quá trình toàn cầu hóa, các biên giới địa lý một thời
đã giúp cho việc xác định bản sắc văn hóa thì nay bị sụp đổ.
Trong quá trình toàn cầu hóa này, một nền văn hóa đồng đều
được tạo ra, được củng cố nhờ vào một “siêu văn hóa” dựa trên
việc tiêu thụ, nhất là những hàng xuất khẩu từ nước Mỹ như
quần áo (ví dụ áo phông, quần jean, giày da), thực phẩm (ví đụ
như hãng Mc Donald, nước giải khát Coca cola) và giải trí (phim
ảnh, ca nhạc). Đặc biệt hiện nay công nghệ thông tin qua mạng
Internet đã nỗi kết thông tin toàn cầu, tạo nên những “làn sóng”
thực sự của nền văn minh công nghiệp lớn ảnh hưởng Tộng rãi
đến các nước chậm tiến và các nước đang phát triển trong nhiều
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,... Song một nền văn hóa toàn
cầu hóa như thế vẫn không được một số nền văn hóa bản địa
chấp nhận. Đó đây một số nền văn hóa bản địa có những cuộc
đấu tranh liên tục với các nền văn hóa toàn cầu. Họ đòi tự quản
đất đai, kinh tế, chính trị và bảo tồn văn hóa truyền thống của
chính họ. Để chống lại ảnh hưởng của văn hóa toàn cầu, các nền
văn hóa bản địa đã nghĩ ra nhiều chiến lược để kháng cự, lật đổ
hay thỏa hiệp. Tuy nhiên, do sự thu hút mạnh mẽ của nền văn
hóa toàn cầu, đặc biệt đối với giới trẻ bản địa, họ muốn hội nhập
và phát triển, liên kết với thế giới bên ngoài để cùng phát triển
theo kịp nền văn minh thế giới”?
#“ Nhiều tác giả (2014), Toàn câu hóa văn hỏa địa phương và phát triển —
?* Đỗ Minh Hợp - Nguyễn Kim Lai (2006), Những vấn để toàn cầu trong thời đại
216
Hiện nay toàn cầu hóa đang diễn ra sâu rộng trên nhiều
bình điện kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị,... trong đó văn
hóa được xem là nền tảng, là bệ phóng căn bản cho các quốc
gia, dân tộc hoạch định chiến lược hội nhập, liên kết và phát
triển phù hợp với bản sắc dân tộc và theo kịp trào lưu phát
Tóm lại, văn hóa là sản phẩm đo con người sáng tạo ra
trong quá trình sinh sống để thích ứng với môi trường tự nhiên
và xã hội. Thông qua quá trình nhập thân văn hóa con người
tiếp thu, chọn lọc, học hỏi và chia sẻ với nhau để lưu giữ và
phát huy bản sắc văn hóa của chính họ. Văn hóa được truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ nơi này sang nơi khác bằng
nhiều cách thức khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, _
điều kiện địa lý, môi sinh, tâm lý và tập quán của mỗi đân tộc.
Vì vậy, văn hóa con người tồn tại trên thế giới không đồng nhất
mà văn hóa là sự đa dạng. Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa đang
diễn ra mạnh mẽ, không có một quốc gia, dân tộc nào có thể
đứng ngoài dòng chảy này, quan trọng làm sao mà các quốc gia,
dân tộc hội nhập, phát triển nhưng vẫn bảo tồn được bản sắc văn
Văn hóa là chủ đề được nghiên cứu bắt đầu từ cuối thế kỷ
19. Từ đó đến nay, có nhiều trường phái nghiên cứu văn hóa
khác nhau đã đưa ra nhiều cách tiếp cận, quan niệm lí thuyết
khác nhau. Với cách tiếp cận Nhân học, văn hóa được đề cập
trong chương nảy Có mấy vấn đề chính cần ghi nhớ như sau:
mặt thuật ngữ khoa học, văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latin
217
Văn hóa hiện nay có đến 200 định nghĩa khác nhau, nhưng
định nghĩa của Edward Burnett Tylor được sử dụng phổ biến
nhất như sau: “Văn hóa hay văn mình là một phúc hệ bao gồm
kiến thức, niềm tin, nghệ thuật, luật pháp, ãạo đức, phong tục và
bất cử các khả năng và thói quen nào khác mà con người có
Hiện nay có nhiều cách phân loại văn hóa khác nhau. Những
nhà nhân học và UNESCO chia văn hóa ra làm hai lĩnh vực: văn
hóa vật thể (văn hóa vật chất) và văn hóa phi vật thể (văn hóa
tinh thần). Đây là cách phân loại được sử dụng phổ biến nhất
hiện nay. Nội dung cụ thể như sau: Văn bóø vật thể (tangible
cultnre) là những yếu tố vật chất trong văn hóa như đình, chùa,
miếu, nhà cửa, trang phục, âm thực,..Văn hóa phi vật thể
(intangible culture) là các biểu hiện tượng trưng của văn hóa, là
những yếu tố tinh thần trong văn hóa như: âm nhạc, múa, ngôn
ngữ, huyền thoại, nghỉ lễ, bí quyết của nghệ nhân trong chế tác
nghề thủ công (Ủy ban Quốc gia về thập niên thế giới phát triển
Từ những khái niệm, định nghĩa về văn hóa nêu trên, xét
thấy bản chất của văn hóa chính là sản phẩm do con người sáng
tạo nhằm thích ứng với môi trường sống của con người bao gồm
. Văn hóa có 4 chức năng cơ bản: Chức năng nhận thức thế
BiỚI; chức năng động lực xã hội; chức năng dự báo phát triển và
chức năng giáo dục. Từ 4 chức năng trên nhận thây "văn hóa là
động lực, là mục tiêu để phát triển kinh tế - xã hội". Có thể nói
218
-Đặc điểm của văn hóa
Văn hóa có 4 đặc điểm cơ bản: Văn hóa là sự học hỏi, văn
đổi. Trong 4 đặc điểm này, đặc điểm thứ tư là đáng chú ý
nhất, bởi vì theo cách nhìn của nhân học "văn hóa là động
thái". Có 5 nhân tổ quan trọng tác động đến sự biến đổi văn
diffusion), giao lưu văn hóa (cutural exchange), tiếp biến văn
cách tân (cultural innovation). Ngoài những đặc điểm trên hai
đặc điểm khác cũng cần lưu ý: văn hóa mang tính phổ quát và
đặc thù. Tính phổ quát mang tính chung của nhân loại dân tộc
nào cũng có, còn tính đặc thù là những đặc điểm Tiêng, mang
-Gợi ý một số chủ đề nghiên cứu trong nhân học văn hóa
Trong quá trình hội nhập hiện nay, ngoài những chủ đề
nghiên cứu văn hóa truyền thống như nhà cửa, trang phục, lễ
hội, tôn giáo... thì những vấn đề khác như giới và văn hóa, văn
hóa đại chúng, nhân học biểu tượng, xuyên văn hóa, toàn cầu
hóa,... đang được các nhà Nhân học quan tâm nghiên cứu nhằm
Tóm lại, văn hóa là sản phẩm do con người sáng †ạo ra trong
quá trình sinh sống. Phụ thuộc vào điều kiện địa lý, sinh thái,
nhân văn, hoàn cảnh lịch sử mỗi dân tộc đều có cách sáng tạo ra
một bản sắc văn hóa riêng. Vì vậy, văn hóa là không đồng nhất
mà văn hóa là đa dạng. Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa đang
diễn ra mạnh mẽ, không có một quốc gia, dân tộc nào có thể
đứng ngoài đòng chảy này, quan trọng làm sao mà các quốc gia,
dân tộc hội nhập, phát triển nhưng vẫn bảo tồn được bản sắc văn
219
Chương 6
NGÔN NGỮ
Trong chương sách này, chúng tôi sẽ đề cập đến một số nội
dung khác nhau nhằm giới thiệu quá trình nghiên cứu ngôn ngữ
theo quan điểm nhân học, tức là nghiên cứu vai trò của ngôn ngữ
đối với xã hội loài người, đặc biệt là mối quan hệ giữa ngôn ngữ,
văn hoá và xã hội cũng như sự sử dụng ngôn ngữ của con người
trong bối cảnh văn hoá - xã hội vi những mục đích khác nhau.
Xin được lưu ý rằng, việc chia tách một tổng thể thành những
nội dung khác nhau là đã đơn giản hoá vấn đề nên việc lựa chọn
những nội đung để giới thiệu cũng như thứ tự xuất hiện của
chúng trong chương sách này chỉ có tính chất tương đổi và vì
những mục đích nhất định mà chương sách muốn hướng tới.
CON NGƯỜI
Ngôn ngữ được xem là điểm đặc biệt của loài người so với
các loài sinh vật khác trên trái đất mặc dù chúng ta vẫn thường
gặp những kiểu diễn đạt như "ngôn ngữ múa của loài ong" hay
"ngôn ngữ của cá heo",... Bởi vì, các cách diễn đạt đó chỉ là
những cách dùng từ ngữ theo kiểu ví von mà thôi. So với các hệ
thống tín hiệu khác thì ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu có tổ chức
chặt chẽ nhất và có khả năng diễn đạt một số lượng vô hạn
những nội dung với một số lượng hữu hạn các yếu tố ngôn ngữ.
Đó là kết luận của đa số các công trình và các thử nghiệm khoa
học nhằm tìm hiểu các hệ thống tín hiệu (bằng âm thanh hoặc
không bằng âm thanh) mà các loài sinh vật khác phát ra trong
cuộc sống hàng ngày của chúng. Đó cũng là kết luận của các thử
nghiệm khoa học nhằm dạy cho những con vật đặc biệt thông
minh khả năng hiểu và sử đụng ngôn ngữ =ủa con người.
220
Bởi vậy, nghiên cứu ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng
trong việc kiến giải mối quan tâm số một của nhiều nhà nhân
học: Cái gì là đặc trưng của con người? Những thông tin về bản
chất và nguồn gốc của ngôn ngữ, đặc biệt là những thông tỉn về
vai trò của ngôn ngữ trong đời sống văn hóa xã hội thường là
những thông tin mà các nhà nhân học làm việc ở các tiểu chuyên
ngành khác mong muốn các nhà nhân học ngôn ngữ cung cấp
cho họ,
Dành nhiều năm cho việc nghiên cứu các ngôn ngữ của loài
thống tín hiệu khác dùng để trao đổi thông tin của loài vật, các
nhà khoa học quan tâm đến đề tài này đã đưa ra những ý kiến
khác nhau về đặc điểm của ngôn ngữ loài người'. Tuy nhiên, họ
các phát ngôn có hình thức mới để diễn đạt những nội dung đã
biết lẫn các phát ngôn dùng những hình thức đã biết để nói về
Ngôn ngữ cho phép con người điễn đạt ý tưởng, sự việc và hiện .
trực tiếp với bối cảnh: con người có thể đễ đàng trao đổi với
vật, hiện tượng trong quá khứ, trong tương lai và/hoặc ở một nơi
!_ Có thể tham khảo bài Bức khám ngôn ngữ học của tắc giả Amara Prasiathrathsint
- tong Bức khảm văn hoá châu á do Grant Evans chủ biên (Nxb Văn hoá Dân tộc,
2001, tr. 89 - 118) về những đặc trưng ngôn ngữ loài người theo quan điểm của
Charles điocketf. si
221
nảo đó vượt ra khỏi giới hạn không gian mà họ có thể cảm nhận
Chó sủa khi có người lạ, mèo kêu khi đói, v.v... là những
tiếng kêu mang tính bản năng. Hệ thống tín hiệu giao tiếp tương .
đối phức tạp thông qua các động tác bay lượn của loài ong được
coi là một hệ thống tín hiệu có cái được phản ánh (reference) -
tức là phương, tiện để trao đổi với nhau về một hiện tượng trong
giới tự nhiên.” Tuy vậy, mỗi điệu bay lượn của con ong nhằm
thông báo cho những con ong khác biết nơi lây mật chỉ là một _
hình thức tiểu họa của con đường từ tổ của chúng đến chỗ có
hoa, chứ không phải là một thông báo mang tính biểu tượng như
trường hợp của ngôn ngữ loài người. Thêm nữa, mặc dù giao
tiếp của loài ong có cầu trúc và ý nghĩa, mối quan hệ giữa hai đại
lượng đó chỉ là mối quan hệ một đối một. Một điệu múa nhất
định của loài ong chỉ có thể là một thông báo về một địa điểm có
hoa. Trái lại, với một âm thanh như "ôi", một người nói tiếng
Việt có thể diễn tả một niềm vui sướng, một sự ngạc nhiên, một
cảm giác ghê sợ, một thái độ bực bội, v.v.. ấy là chưa kế đến rất
nhiều ý nghĩa khác mà âm "ôi" có thể điễn tả trong các ngôn ngữ
của các cộng đồng khác. Con người cũng có thể dùng ngôn ngữ
nhiên như trong những trường hợp nói dối hoặc kế chuyện viễn
Nhiều nghiên cứu về "ngôn ngữ" của một số loài sinh vật
khác ví dụ như của cá voi hoặc của cá heo cũng cho thấy, chứng
là những hệ thống tín hiệu giao tiếp tương đối phức tạp. Tuy
nhiên, những "ngôn ngữ" đó không mang đẩy đủ các đặc điểm
như ngôn ngữ của con người. Điều đáng chú ý là: "ngôn ngữ"
của các sinh vật khác đều gắn chặt với bối cảnh hiện tại và đều
? KarlVonFrisch (1886 - 1982) đã được trao Giải Nobel trong lĩnh vực sinh lÿ học
hoặc y học năm 1973 (The Nobel Pnze m Phisiology or Medicine 1973) dựa trên
các thành quả nghiên cứu của ông về “ngôn ngữ” múa của loài ong.
222
Người ta cũng đã thử dạy cho một số con vật thông minh
cách sử dụng ngôn ngữ của con người, ví dụ đạy vẹt hoặc dạy
tỉnh tỉnh. Kết quả cũng rất đáng kinh ngạc. Ví dụ: một chú vẹt
xám châu Phi có tên là Alex có khả năng trả lời đúng đến 80%
những câu hỏi về hình dáng, màu sắc của những sự vật mà nó đã
được dạy để nhận biết; một cô tỉnh tỉnh tên là Washoe đã học
được hơn 130 kí hiệu trong hệ thống ngôn ngữ dành cho người
câm điếc và có thể kết hợp các kí hiệu đó với nhau để tạo thành
một số lời cầu khiến hoặc để diễn tá một số sự vật, hiện tượng
nhất định. Đặc biệt, Washoe có khả năng sử dụng những kí hiệu
trên một cách sáng tạo. Ví dụ, lần đầu tiên nhìn thấy cơn vịt,
vịt. Nếu quan tâm về vấn đề này, bạn có thể tìm thấy một số ví
dụ khác về tỉnh tỉnh học tiếng nói của loài người trong bài Bức
Tuy nhiên, những thử nghiệm tỉ mỉ, công phu của các nhà
khoa học chưa đủ sức thuyết.phục là liệu Washoe cũng như một
số con tỉnh tỉnh đặc biệt thông minh khác có khả năng kết hợp
các kí hiệu ngôn ngữ theo các mô hình ngữ pháp hay không?
Bởi chỉ có khả năng này mới cho phép diễn tả một số lượng vô
hạn những nội dung dựa trên một số lượng hữu hạn các quy tắc
ngữ pháp,” tức là làm cho ngôn ngữ mang tính tạo sinh cao. Đa
số các nhà khoa học nhấn mạnh việc con người tạo ra và dạy
ngôn ngữ cho những con vật đó. Có thể nói, các nhà khoa học
thiên về quan điểm cho rằng ngôn ngữ là đặc điểm quan trọng
phân biệt con người và các loài động vật khác. Quan điểm này
dẫn tới sự quan tâm đến nguồn gốc và lịch sử phát triển của
ngôn ngữ cũng như vai trò của ngôn hgữ trong quá trình hình
- thành và phát triển của loài người.
3 Vị dụ, chỉ đựa trên một quy tắc ngữ pháp Chủ - V† của tiếng Việt, ta có thể tạo ra
vô vàn các câu đơn tiếng Việt như: Tôi ngủ. Bạn ngủ. Em bé ngủ. Con mèo
ngủ,V.V.
223
1.2. Nguồn øốc, lịch sử phát triển ngôn ngữ và vai trò của.
phát triển của ngôn ngữ và vai trò của nó đối với sự phát triển
của xã hội loài người. Các vẫn đề như: “Ngôn ngữ đã đến với
chủng loài của chúng ta như thế nào?”, “Ngôn ngữ có vai trò gì
khiến loài người khác hẳn với các loài động vật khác?” hoặc
“Ngôn ngữ đã lưu giữ được những gì về lịch sử phát triển của xã
hội loài người?” đã thu hút sự quan tâm của nhiều thế hệ các nhà
khoa học thuộc nhiều chuyên ngành khoa học xã hội và nhân
văn khác nhau như triết học, ngôn ngữ học, tâm lý học, nhân
học, v.v... Cách tiếp cận và trả lời những câu hỏi trên phản ánh
quan điểm lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của các trường
Có quan điểm cho rằng, con người cũng như ngôn ngữ của
họ là sản phẩm của các thế lực siêu nhiên. Ví dụ, Chúa đã tạo ra
con người và ban tặng cho họ ngôn ngữ để họ giao tiếp với
nhau. Quan điểm này đã làm cho câu hỏi về nguồn gốc ngôn
ngữ không còn là một vấn đề đáng để khoa học quan tâm nữa.
Quan điểm khác đi tìm câu trả lời về nguồn gốc của ngôn ngữ
trong chính bản thân con người và trong xã hội loài người. Xin
Vào nửa cuối của thế kỉ XVIII, vấn đề nguồn gốc ngôn ngữ
và mối liên hệ giữa ngôn ngữ và đặc trưng loài người được Viện
_ hàn lâm Đức đặc biệt quan tâm. Họ thường thảo luận sôi nỗi về
các đề tài này trong các phiên họp của Viện. Đồng thời, họ cũng
thường xuyên tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về nguồn gốc ngôn
ngữ và mối liên hệ giữa ngôn ngữ và đặc trưng loài người. Đề tài
của cuộc thị năm 1770 là: "Phải chăng con người có thể tự tạo ra
ngôn ngữ của mình?" và "Con đường nào đã dẫn con người đến
với ngôn ngữ?". Bài viết nổi.tiếng Luận bàn về nguôn gốc ngôn
224
ngữ của Johann Gottfied Herder (1744 - 1803) đã mang lại cho
ông Giải đặc biệt của cuộc thị nói trên. Mục đích chính của bài
viết là tìm cách chứng minh rằng con người tạo ra ngôn ngữ bởi
đó là khả năng đặc biệt, vốn có của loài người - cái mà các loài
động vật khác không có. Ông viết: "Con người, với những đặc
điểm riêng biệt của loài mình, đã tạo ra (erũnden) ngôn ngữ (...).
Khả năng này mang tính đặc thù của mỗi con người và là bản
chất của loài người, cũng giống như ngôn ngữ và việc tìm ra
'ngôn ngữ vậy. Đối với con người thì việc tạo ra ngôn ngữ cũng
Theo Herder thì quá trình ngôn ngữ đến với con người cũng
giống như quá trình thai nhỉ đến độ chín muỗi đòi hỏi được thoát
ra khỏi cơ thể mẹ. Herder cho rằng, ngôn ngữ được nảy sinh chủ
yếu ở từng cá thể, từng con người riêng rẽ. Sau khi ngôn ngữ đã
được hình thành thì nó có thể sẽ chịu ảnh hưởng của tính tồn tại
xã hội - đặc tính làm cho nó trở thành công cụ giao tiếp chung
của cộng đồng. Như vậy, Herder đã tách riêng yếu tố cá thể và
yếu tổ xã hội trong quá trình hình thành ngôn ngữ. Đồng thời
ông nhấn mạnh vai trò của cá thể trong giai đoạn hình thành
ngôn ngữ.
Trong những thập kỉ tiếp theo, các nhà tư tưởng Đức tiếp tục
nghiên cứu-và đóng góp những thành quả quý báu vào việc tìm
hiểu nguồn gốc của ngôn ngữ cũng như mối liên hệ giữa ngôn
- 1835) đề cập đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ, tư duy và "linh
hồn dân tộc" - khái niệm diễn tả đặc trưng văn hoá của một cộng
đồng dân tộc. Những ý tưởng của Humboldt đã được lấy làm
tiền đề cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu của nhân học ngôn ngữ
hiện đại mà chúng tôi còn có dịp giới thiệu ở những phần sau
-225-
_
Còn Jacob Grimm (1785 - 1863) - cái tên thân thuộc đối với
tuổi thơ của nhiều thế hệ con người trên thế giới thông qua
những câu chuyện cỗ tích đầy tính nhân văn - đã giới thiệu cho
ngôn ngữ học nói riêng và cho khoa học xã hội và nhân văn nói
chung một phương pháp nghiên cứu hữu hiệu cho đến tận ngày
- nay: phương pháp so sánh lịch sử. Grimm tin rằng, sự phát triển
ngôn ngữ của loài người có thể được chứng minh bằng cách so
sánh các ngôn ngữ với nhau nhằm tìm ra những điểm chung
giữa chúng hoặc tìm cách lý giải cho những điểm khác biệt giữa
các ngôn ngữ được coi là có cùng nguồn gốc nhưng phát triển
theo những hướng khác nhau do chịu ảnh hưởng của các yếu tố
ngoại cảnh khác nhau. Với phường pháp so sánh lịch sử, người
ta có thể tái tạo những ngôn ngữ cỗ điển, mô tả quan hệ giữa các
ngôn ngữ theo kiểu các quan hệ đòng họ của con người, tìm
ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, câu hỏi “từ gốc xuất hiện như
thế nào?” lại vẫn là một thách đố đối với các nhà khoa học cùng
thời với Grimm. Như vậy, mặc dù phương pháp so sánh lịch sử
không tiến xa hơn những quan điểm của các tác giả đi trước
trong việc lý giải nguồn gốc của ngôn ngữ, nó giúp chúng ta
phần nào hiểu được mối liên hệ giữa các ngôn ngữ với nhau và
qua đó phần nào hiểu được mối liên hệ giữa các cộng đồng xã
phục khi giải thích về nguồn gốc của ngôn ngữ và dường như
chưa thảo luận cụ thể về vai trò của ngôn ngữ trong quá trình
hình thành và phát triển của con người. Đây chính là phần đóng
góp của học thuyết về xã hội của Marx - Engels - Lenin. Học
giữa con người, xã hội và ngôn ngữ: ngôn ngữ là một sản phẩm
của xã hội nảy sinh từ nhu cầu giao tiếp giữa con người với
nhau; đồng thời, ngôn ngữ cũng là một động lực phát triển của
226
con người nguyên thủy, góp phần làm cho con người có thể suy
nghĩ nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội, làm cho con người khác
hắn với các động vật khác trong giới tự nhiên. Quan điểm này
được Marx, Engels và Lenm trình bày khá tường minh khi phân
tích vai trò của ngôn ngữ trong quá trình hình thành con người
cũng như vai trò của ngôn ngữ trong xã hội loài người, trong
Về vai trò của ngôn ngữ trong quá trình hình thành con
người từ thế giới động vật, Marx và Engels viết trong tác phẩm
“Biện chứng của tự nhiên: tác dụng của lao động trong sự
chuyên biến từ vượn thành người" như sau: “Tóm lại, những con
người đang hình thành ấy đã phát triển đến mức là họ thấy cần
thiết phải nói với nhau một cái gì đấy. Nhu cầu đó đã tự nó tạo ra
cho nó một khí quản: cái cuống họng chưa phát triển của loài
vượn, nhờ uốn giọng mà biến đổi dần dần nhưng chắc chắn, để
có thể thích ứng với một lỗi phát âm ngày càng phát triển thêm
mãi và các khí quản của mồm cũng dần dần luyện tập được cách
Còn Lenin thì cho rằng: “Trước hết là lao động, sau lao
động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ. Đó là hai động lực
chủ yếu trong sự phát triển của loài người nguyên thuỷ. Cùng
với sự phát triển của tư duy, của ý thức, ngôn ngữ đã góp phần
một hướng nghiên cứu mới, chú trọng nhiều hơn đến vai trò của
con người và xuất phát từ nhu cầu thực tế của xã hội. Đây có lẽ
là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho chủ nghĩa
Mác có ảnh hưởng tương đối sâu rộng trong nhân học ngôn ngữ
Mắc - Ẩng-ghen toàn tập, tập 20, N%XB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 645.
Š. 1ê¬nin, V,L.. Bút lý triết học, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
227
Cần phải nói thêm rằng, câu chuyện về nguồn gốc của loài
người và cùng với nó là nguồn gốc, vai trò của ngôn ngữ đối với
sự phát triển của xã hội loài người như vừa trình bày ở trên vẫn
đang là đề tài gây nhiều tranh cãi và thường vẫn chỉ được coi là
những giả thuyết mà thôi. Tư liệu của ngành khảo cổ học mới
chỉ cho chúng ta thấy những bằng chứng về sự khác nhau mang
tính sinh học hình thức giữa con người cỗ đại và loài vượn, ví đụ
như sự khác nhau về độ lớn của não, về cấu tạo của bộ Tnáy phát
âm, về tỉ lệ giữa độ đài của chân với tay, về đáng đứng và cách
thức vận động, v.v... Chưa có bằng chứng nào cho thấy cơ cầu
hoạt động bên trong não bộ của người tiền sử - điều kiện cần
thiết khiến họ có khả năng tư đuy và sử đụng ngôn ngữ, còn các
động vật khác thì không có khả năng đó.. Cũng chưa có bằng
thành người. Song, cũng chưa thể khẳng định giả thuyết trên về
nguồn gốc loài người và về nguồn gốc ngôn ngữ là sai. Vấn đề
còn bỏ ngỏ đó vẫn là niềm say mê nghiên cứu của biết bao nhà
khoa học đang làm việc miệt mài, làm giàu cho trị thức của con
Trong phần này chúng tôi sẽ giới thiệu hai vẫn đề chính.
Một là, những nét chung nhất của tiến trình nhận thức về mối
quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hoá và xã hội trong các nghiên cứu
mang tính nhân học ngôn ngữ. Hai là, việc nghiên cứu hai trong
số những nội đung quan trọng của nhân học ngôn ngữ. Đó là (1)
mối quan hệ giữa ngôn ngữ, đân tộc và quốc gia - một vấn đề
mang tính vĩ mô và truyền thống: (2) mối quan hệ giữa ngôn
ngữ và giới - một vẫn để mang tính vi mô và tương đối mới của
228
2.1. Tiến trình nhận thức về mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn
hoá và xã hội
Như đã đề cập ở trên, mối quan tâm chủ yếu của nhân học
ngôn ngữ là tìm hiểu cách sử dụng ngôn ngữ của con người
trong bối cảnh văn hoá - xã hội rộng lớn hơn cũng như vai trò
của ngôn ngữ trong việc duy trì và chuyển hóa các hoạt động
văn hoá - xã hội. Do đó, mối quan hệ giữa ngôn ngũ, văn hoá và
xã hội có thể được coi là một nội dung truyền thống và trung
tâm của nhân học ngôn ngữ. Tuy nhiên, bản thân các phạm trù
- như ngôn ngữ, văn hoá, xã hội cũng như mối quan hệ giữa
chúng không phải luôn được hiểu như nhau ở mọi nơi, mọợi lúc.
Trong thế kỉ XX, thông qua việc nghiên cứu mối quan hệ
giữa ngôn ngữ, văn hoá và xã hội, các nhà nhân học ngôn ngữ
không những đã làm giàu thêm cho nhận thức chung của chúng
ta về mỗi quan hệ trên mà còn giúp ta hiểu sâu sắc hơn về nội
hàm của những khái niệm đó. Xin được lấy cách hiểu thế nào là
ngôn ngữ làm ví dụ. Ban đầu, ngôn ngữ thường chỉ được coi là
một hệ thống tín hiệu để phân loại sự vật, hiện tượng và quá
trình của thực tại khách quan, là một công cụ phục vụ cho quá
trình giao tiếp và quá trình tư duy. Ngày nay, ngôn ngữ được coi
là một loại vật thể, một kiên công-cụ, một nguồn kí hiệu, một
phần tri thức của loài người trong giới tự nhiên. Điều này có
nghĩa là, ngôn ngữ không phải là một bản sao (hoàn hảo hoặc
không hoàn hảo) của giới tự nhiên, mà là một phần của thế giới
đó. Ví dụ, ngoài từ “chết”, tiếng Việt còn có rất nhiều đơn vị từ
ngữ khác để diễn tả hiện tượng “không còn biểu hiện của sự
sống” của con người. Các đơn vị từ vựng đó tồn tại trong thế
giới tự nhiên như một “nguồn tài nguyên” để chúng ta khai thác
khi thực hiện các hoạt động giao tiếp. Nếu yêu quý và tiếc
ngữ như “mất, “ra đi”, “quy tiên”, “vĩnh biệt thế giới
này”,v.v...; còn nếu căm ghét người đó, người ta thường sử dụng
229
các đơn vị như “bị tiêu diệt, “toi”, “trời đánh”, “ăn đất”, “ngủ
với giun”,v.v..Có thể nói, ngôn ngữ xâm nhập vào mọi bình
diện của văn hóa và xã hội. Qua việc liên kết cơn người với quá
khứ, với hiện tại và với tương lai của họ, ngôn ngữ trở thành
chính quá khú; biện tại và tương lai của con người. VÍ dụ, các tử
như “bút nghiên”, “kính trắng”, “laptop” hoặc “máy tính xách
tay” thường được sử đụng để nói về những người làm việc nhiều
với chữ nghĩa trong các giai đoạn lịch sử khác nhau của Việt
Nam. Tiến trình nhận thức về mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn
hoá và xã hội chính là nội dung mà chúng tôi muốn truyền tải '
Bởi văn hoá cũng như ngôn ngữ luôn đồng hành với lịch sử
loài người, chúng cũng đã tồn tại từ lâu đời như con người.
Nhưng, trong kho tàng tri thức đã được loài người ghi lại thì
những gốc rễ đầu tiên của việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa
văn hoá và ngôn ngữ dường như mới chỉ được bắt đầu từ cuối
thế kỉ XVII, đầu thế ki XIX trở lại đây”. Đó là những ý tưởng
trong tác phẩm của các nhà tư tưởng thuộc trào lưu triết học
tưởng người Đức. Ví dụ: các công trình của Johann Goitfied
der Menscbheit (Suy nghĩ về triết học của lịch sử loài người)
hoặc các tác phẩm của của Wilhelm Freiherr von Humboldt
Chịu ảnh hưởng mạnh bởi các quan điểm của nhà triết học
vĩ đại người Đức Immanuel Kant (1724 - I8§04), Herder cho
rằng, mỗi một ngôn ngữ và mỗi một nền văn hoá phản ảnh thế
giới theo những cách khác nhau. Humboldt tiếp tục phát triển
7 Bilount Ben G. (chủ biên) 1995. 7anguage, Cuitue, and Soclefy: A Book of
230
quan điểm của Herder và làm cho mối quan hệ giữa văn hoá,
ngôn ngữ, tr duy và đân tộc trở thành một vấn đề trung tâm
._ trong các tác phẩm của ông. Humboldt cho rằng, phẩm chất tỉnh
thần của một dân tộc, của một nền văn hoá quyết định kiểu ngôn
ngữ của dân tộc đó; và do đó ngôn ngữ quyết định cách thức con
người thuộc dân tộc đó suy nghĩ và cảm nhận thực tại khách
quan. Đây chính là cơ sở để sau này các nhà nhân học Mỹ phát
triển thành một nguyên lí nổi tiếng về mối quan hệ giữa ngôn
ngữ, văn hoá và tư duy: Nguyên lí tương đối ngôn ngữ học
Có thể nhận thấy, quan điểm của Humboldt cũng như của
Herder mới chỉ dừng lại ở những ý tưởng, luận bàn, triết lí chứ
chưa mang hơi thở của cuộc sống thực tế. Phải đến đầu thế kỉ
XX, công việc này mới bắt đầu được thực hiện do công của một
Relativify)
Một số nhà nhân học ngôn ngữ dường như có lí khi cho
rằng, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa chỉ
thực sự bắt đầu với các công trình của Franz Boas (1858 - 1942)
- một trong những người sáng lập ra ngành nhân học Mỹ.
Được sinh ra, lớn lên và đào tạo ở Đức rồi mới đến Mỹ,
FEranz Boas đã mang theo mình những tư tưởng của các bậc tiền
bối như Herder và Humboldt sang lục địa mới. Ở đó, ông đã trở
thành một nhân vật trung tâm của nhân học ngôn ngữ nói riêng
và nhân học Mỹ nói chung. Từng được đào tạo tiến sĩ về tâm lí,
học vật lí (psychophysics), Boas rất coi trọng vai trò của nghiên
cứu thực nghiệm cũng như phương pháp nghiên cứu thông qua
các thử nghiệm của khoa học tự nhiên. Phương pháp này đã
được ông áp dụng vào nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá của các
tộc người thổ đân sinh sống ở Bắc Mỹ. Nhờ những cống hiến to
231
lớn của ông, Boas được coi là người đặt nền móng cho ngành
nhân học đựa trên cơ sở nghiên cứu thực địa: Boas coi nghiên
cứu thực địa là điền kiện. quan trọng nhất của nhân học cũng như
của ngôn ngữ học. Có thể nói, Boas là nhà nhân học đầu tiên
hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá trong thực tẾ cuộc sống. Đóng góp
của Boas đánh dấu một sự chuyên hướng lớn trong việc nghiên
cứu những vấn đề về dân tộc; ngôn ngữ, văn hoá: đó là một cách
làm khoa học gắn liền với thực tế sinh động của cuộc sống chứ
không chỉ giới hạn trong không gian chật hẹp của các tháp ngà.
Kinh nghiệm thu được khi nghiên cứu các ngôn ngữ của
phong phú thêm cho nhận thức của Boas về vai trò của ngôn
ngữ trong nghiên cứu các dân tộc, các nền văn hoá khác nhau.
Boas nhận thấy, con người nói các ngôn ngữ khác nhau đã mô
khác nhau; đo đó muốn hiểu một dân tộc, một nền văn hoá
nào đó một cách đúng đăn thì cần phải nghiên cứu ngôn ngữ
của dân tộc đó. Ông cũng cảm nhận sâu sắc vai trò quan trọng
dân tộc học. Ông viết: “Trong tất cả mọi vấn đề được để cập
tới từ trước đến nay, một sự hiểu biết về ngôn ngữ của người
đúng về phong tục tập quán và tạo được sự niềm tin của những
người mà ta đang nghiên cứu. (...) Nếu dân tộc học được hiểu là
một khoa học nghiên cứu phương diện tỉnh thần của cuộc sống
các tộc người trên thế giới thì ngôn ngữ của con người - một
trong những biểu hiện quan trọng nhất của đời sống tỉnh thần - ắt
cũng phải là đối trợng nghiên cứu của dân tộc học”Š.
°- Boas, Eranz 1911. Introducton. Trong Franz Boas (chủ biên). #Jzndbook oƒ
232
Niềm say mê của Boas đối với ngôn ngữ cùng với những
quan điểm mới mẻ của ông về vai trò của ngôn ngữ đối với văn
hoá đã truyền cảm hứng cho các học trò của ông, trong đó có
nhà nhân học ngôn ngữ nỗi tiếng của thế kỉ XX - Edward Sapir
(1884 - 1939). Một trong những đóng gớp quan trọng của Sapir
cho khoa học là tìm hiểu mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hoá và
xã hội. Sapir coi ngôn ngữ như điều kiện tiên quyết để phát triển
văn hoá. Cũng như Boas, ông lên án mọi ý tưởng cho rằng có
và để giao tiếp của các dân tộc. Xét về mọi phương điện của văn
hoá, có lẽ ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên có một hình thức phát
triển cao và bản chất hoàn hảo của nó là điều kiện tiên quyết đ để
xem là hai đồng tác giả của Nguyên lý tương đối ngôn ngữ học
Whorf vến là một kĩ sư hoá học. Ông đến với ngôn ngữ học
vì sở thích và để giải trí. Định mệnh đã cho ông gặp Sapir vào
năm 1928 và từ đó ông chịu nhiều ảnh hưởng của Sapir, đặc biệt
là trong những năm học tập tại Đại học Yale (Mỹ). Kĩ năng của
một nhà khoa học tự nhiên và tình yêu cuỗng nhiệt đối với ngôn
ngữ đã khiến ông nghiên cứu ngôn ngữ theo một cách riêng.
Bằng nghiên cứu thực nghiệm so sánh ý nghĩa của các phương
tiện ngữ pháp trong các ngôn ngữ khác nhau (cụ thể là tiếng
của ngôn ngữ đối với các cách nhìn nhận thế giới của những
người nói các thứ ngôn ngữ khác nhau đó. Ông nhận định:
“Những người sử dụng các ngữ pháp khác nhau một cách đáng
tr. 155.
233
- kể được các ngữ pháp đó dẫn dắt tới những cách quan sát và
đánh giá khác nhau về những hành động có biểu hiện bên ngoài
Cách diễn đạt tính tương đối ngôn ngữ của Whorf đã làm
cho ông bị chỉ trích mạnh mẽ, tuy rằng nhiều người đã đánh giá
rất cao công trình nghiên cứu cụ thể, tỉ mỉ của Whorf. Ví dụ, nhà.
nhân học ngồn ngữ người Australia - William Foley - nhận xét:
“Whorf có vai trò đặc biệt quan trọng không phải vì quan
điểm tương đối ngôn ngữ học của ông (Sapir có thể sáng suốt
hơn) mà bởi công trình nghiên cứu thực tế mang tính nền tảng
của ông (...) Thực ra, mãi cho đến gần đây, chưa có ai tiến xa
Nguyên lý tương đối ngôn ngữ học của Saprr và Whorf gây
nhiều tranh luận trong giới khoa học cùng thời với hai ô ông và cả
sau này: nhiều người bênh vực, ca ngợi; nhiều người khác công
kích, phản đối. Một số nhà nhân học ngôn ngữ thuộc các thế hệ
sau này cho rằng phần lớn những người chỉ trích quan điểm của -
Whorf đã hiểu lầm ông, đã gán cho ông quan điểm quyết định
luận ngôn ngữ học, tức là ngôn ngữ quyết định văn hoá và tư
duy. Người bào chữa đắc lực nhất cho Whorf là nhà khoa học
John Lucy.
nhận thức đối với những người nói các ngôn ngữ khác nhau, cụ
thể là người nói tiếng Anh và người nói tiếng Yucatec Maya -
một ngôn ngữ ở Mexico. Kết quả của các trắc nghiệm đó là các
bằng chứng hậu thuẫn cho Giả thuyết Sapir — Whorf. Nhằm
234
thanh minh cho Whorf, Lucy cũng đã tập trung phân tích một số
vấn đề thường dẫn đến hiểu lầm trong tác phẩm của Whorf.
Theo Lucy, Whorf không cho là ngôn ngữ quyết định nhận thức
và văn hóa, Whorf chỉ cho là: cách nghĩ và cách nhìn nhận thế
giới theo thói quen của người nói một ngôn ngữ nhất định nào
đó dẫn họ đến cách phân loại các sự việc, hiện tượng trên thế
giới theo những kiểu nhất định. Do đó, người nghiên cứu cần
học các cách nhận thức cơ bản về thế giới khách quan của một
dân tộc nếu muốn hiểu đúng về dân tộc đó. Ví dụ, trong khi
những người học tiếng Việt thường phàn nàn về sự phức tạp của
hệ thống các từ xưng gọi trong tiếng Việt thì người Việt lại
thường tự hào về khả năng điễn đạt phong phú của lớp từ vựng
này. Bởi vì, người Việt được sinh ra, lớn lên, “học ăn, học nói”
cùng với các giá trị văn hóa như “trọng tôn ti”, “trọng tuổi tác”,
các công trình lẻ tẻ tiếp tục theo đuổi khuynh hướng tương đối
ngôn ngữ học, nhưng kết quả của các nghiên cứu đó không đủ
sức đáp lại những sự chỉ trích, thách đố của trường phái
nghiên cứu ngôn ngữ, văn hoá và xã hội theo hướng phổ niệm
trong nhân học ngôn ngữ dưới ảnh hưởng của những nhà khoa
học tên tuổi như Noam Chomsky, Brent Berlin và Paul Kay.
Nặng nè nhất là sự phê phán của các nhà khoa học nghiên cứu
về các từ chỉ màu sắc trong các ngôn ngữ khác nhau. Khảo sát
các từ chỉ màu sắc trong 20'ngôn ngữ và tham khảo tư liệu về
vấn đề này của 78 ngôn ngữ khác nhau, Berlin và Kay (1969)
nhận thấy rằng các ngôn ngữ hoàn toàn không có liên quan gì
với nhau đều mã hoá, sắp xếp các màu cơ bản cũng như bổ
sung các từ chỉ màu sắc mới theo những nguyên tắc tương tự
như nhau. Điều này có nghĩa là, các ngôn ngữ khác nhau của
loài người không làm ảnh hưởng đến cách nhìn nhận thế giới
của những người nói các thứ tiếng khác nhau đó. Đây là bằng
chứng phản bác Nguyên lý tương đối ngôn ngữ học của Sapir và
235
Whorf. Nhưng đồng thời, nó cũng là bằng chứng làm Xói mòn
quan điểm nỗi tiếng của trường phái ngồn ngữ học cầu trúc do
Cuối những năm 60, đầu 70 của thế kỉ XX, giới triết học và
khoa học xã hội và nhân văn ở phương Tây thể hiện Sự quan tâm
đặc biệt của họ đến vai trò của ngôn ngữ trong đời sống xã hội,
Quá trình này thường được gọi là cuộc “Cách mạng ngôn ngữ
học nửa sau thế kÏXX”. Trong xu hướng chung đó, các nhà nhân
học ngôn ngữ cũng tiến hành hàng loạt các công trình nghiên
cứu và các cuộc thảo luận về mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn
hóa và xã hội. Qua đó, chúng ta hiểu thêm về những đặc điểm
mang tính phổ niệm của ngôn ngữ, những đặc điểm mang đặc
thù văn hoá của các ngôn ngữ khác nhau cũng như hiểu được
phần nào mối quan hệ giữa, chúng. Nhiều khuynh hướng lĩnh
vực nghiên cứu mới ra đời.'” Sau một thời gian thoái trào, luận
thuyết về mối quan hệ chặt chẽ giữa ngôn ngữ, văn hoá và xã hội
lại tiếp tục “đơm hoa kết trái”, xứng đáng là nội dung quan trọng
của nhân học ngôn ngữ với một thế hệ đông đảo các nhà khoa
học mới, các đề tài mới, các mô hình lí thuyết mới. Thêm Tữa,
nhận thức về các phạm trù như ngôn ngữ, văn hoá, cũng như về
mối quan hệ giữa chúng cũng có những thay đổi đáng kẻ.
tộc học về ngôn từ) của Dell Hymes ( 1974) đánh đấu một bước
tiễn quan trọng trong nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ,
? Những trường phái lý thuyết đó được giới thiệu một cách khái quát trong bài
Ngôn từ, giới và nhóm xã hội: Dẫn nhập những vấn đề cơ bản và những trưởng
phái lý thuyết chỉnh của tác giả Hy V. Luong (Lương Văn Hy) in trong cuốn
Ngôn từ, giới và nhóm xã hội từ thực tiễn tiếng Việt do NXEB Khoa học Xã hội
236
văn hoá và xã hội. Mô hình này đã gắn kết ngôn ngữ, văn hoá và
xã hội lại với nhau, trong khi các mô hình trước đó thường chỉ
đề cập đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá hoặc ngôn
ngữ và xã hội!”. Hymes dùng phương pháp khảo tả dân tộc học
để tìm câu trả lời cho hai câu hỏi lớn: một là, các thành viên của
một cộng đồng văn hoá - xã hội có khả năng tiếp cận được
dụng những nguồn đó như thế nào để đạt được mục đích của
dụng ngôn từ, mô hình của Hymes đưa ra nhiều yếu tế liên quan
đến giao tiếp như đặc điểm của người nói, người nhận, cảnh
huống, mục đích, hình thức ngôn từ, kênh truyền tin, thể loại,
v.v.. khi phân tích các sự kiện r nói năng trong hoàn cảnh văn hóa
xã hội cụ thê.
Phương pháp khảo tá dân tộc học đã tạo điều kiện cho
chúng ta hiểu rõ hơn sự tương tác giữa ngôn ngữ, văn hoá và xã
hội. Trong hoạt động giao tiếp, con người không chí cần đến khá
năng ngôn ngữ như phát âm đúng, dùng từ đúng, sử dụng ngữ
pháp đúng, v.v.. mà còn cần có sự hiểu biết về những quy ước
mang tính văn hoá, xã hội của cộng đồng ngôn từ. Ví dụ, sẽ
không thích hợp nếu ai đó hỏi một cụ già Việt Nam là: “Cụ lên
mấy tuổi rồi?? mặc dù câu hỏi trên là một câu hỏi đúng ngữ
pháp. Nhưng nếu người được hỏi là một cháu bé thì câu hỏi:
“Cháu lên mấy tuổi rồi?” là một câu hỏi được mọi người chấp
nhận. Điều này có nghĩa là kiến thức văn hoá và xã hội là những
hiểu biết cần thiết để cho giao tiếp ngôn ngữ đạt hiệu quả. Và,
con người có thể dùng ngôn ngữ đề thể hiện bản sắc văn hoá của
mình hoặc tạo ra những mối quan hệ xã hội nhất định. Ví dụ,
nếu hai người nói tiếng Việt dùng cặp từ chị - em để xưng gọi
tức là họ muốn diễn tả mỗi quan hệ tôn tỉ về vị thế giữa họ; còn
!. Bilount Ben G. (hủ biên) 1995, 1anguoge, Cuiture, and Sociegy: A Book ko/
237
nếu họ dùng cặp từ mày - tao tức là họ muốn diễn tả mối quan
hệ bình đẳng giữa họ. Có thể nói, trong mô hình mô tả dân tộc
học về ngôn từ, mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hoá và xã hội
Mối quan hệ giữa những người tham gia giao o tiếp với nhau
cũng như mối quan hệ giữa họ với các thành tố khác của hoạt
động giao tiếp ngôn ngữ cũng chính là mối quan tâm của nhiều
nhà khoa học. Ví dụ: nhà xã hội học Brving Goffman với các
con người trong tương tác xã hội hoặc nhà nhân học ngôn ngữ
John Gumperz với các công trình về sự lựa chọn ngôn từ để diễn.
tả những thông tin mang tính xã hội như quan hệ vị thế hoặc
mức độ thân thiện giữa những người tham gia giao tiếp với nhau
trong môi trường đa ngữ. Nghiên cứu về thể diện của Goffiman
giao tiếp ngôn ngữ ở các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau. Tiếp
đề xướng, một số nhà nhân học ngôn ngữ đã nghiên cứu các
cách ứng xử ngôn từ mang tính chủ động, sáng tạo của con
người ở các cộng đồng đơn ngữ, song ngữ và đa ngữ khác nhau
trên thế giới, ví dụ Jane HiII (1998) nghiên cứu ở một cộng đồng
Song ngữ thuộc Mexico, Susan Gal (1978) nghiên cứu ở một
cộng đồng song ngữ thuộc Áo hoặc Nguyễn Thị Thanh Bình.
(003) nghiên cứu ở một cộng đa ngữ ở Việt Nam. Các công
này đều mô tả ứng xử ngôn từ như các hoạt động văn hóa xã hội
khác của con người, tức là có mục đích và đa đạng để phù hợp
hoá của một cộng đồng xã hội là những thực thể tương đối thuần
nhất được các thành viên trong cộng đồng chia sẻ thì các nhà
nhân học ngôn ngữ thế hệ “cách mạng ngôn ngữ học” lại quan
235
tâm nhiều hơn đến sự đa dạng của các thành tỐ của sự kiện ngôn
từ trong các bối cảnh giao tiếp cụ thể, tức là ứng xử ngôn. từ của
những con người mang các đặc tính văn hóa xã hội nhất định
trong các hoàn cảnh nói năng cụ thể. Như vậy, ở đây đã có sự
đổi mới trong quan niệm về ngôn ngữ cũng như về văn hoá:
chúng đa dạng chứ không thuần nhất. Trải qua hơn một thế kí,
loài người đã tiến những bước đáng kế trong việc tìm hiểu mối
quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hoá và xã hội. Chúng fa đã phần nào
hiểu được những mối quan hệ phức tạp giữa cấu trúc ngồn ngữ,
thực tế ứng xử ngôn từ trong xã hội và các quan niệm khác nhau
Kết quả nghiên cứu ngôn ngữ, văn hoá và xã hội trong hơn
một thế kỉ qua đã khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa ngôn
ngữ, văn hoá và xã hội. Khó có thể tượng tưởng được một hệ
thống hành chính nào đó, một tổ chức xã hội nào đó, một cuộc
sống của con người theo đúng nghĩa của nó, tức là chung sống
có văn hoá với những người xung quanh, mà lại không cần đến
bất cứ một hình thức nào của ngôn ngữ. Mối quan hệ giữa ngôn
ngữ, văn hoá và xã hội được thể hiện trên nhiều phương điện,
dưới nhiều hình thức khác nhau. Sau đây, chúng tôi sẽ giới thiệu
hai trong số rất nhiều nội dung mà nhân học ngôn ngữ nghiên
cứu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hoá và xã hội. Đó là (1)
mối quan hệ giữa ngôn ngữ, đân tộc và quốc gia; (2) mối quan
hệ giữa ngôn ngữ và giới. Chúng tôi chọn hai nội dung này với
hy vọng chương sách sẽ có ích hơn cho các sinh viên Việt Nam
yêu thích ngôn ngữ, văn hoá và xã hội trong giai đoạn hiện nay
* Ngôn ngữ, dân tộc, quốc gia: vẫn đề ngôn ngữ quốc gia
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ, đân tộc và quốc gia là một
mảng đề tài lớn, mang tính truyền thống của nhân học ngôn ngữ.
239
Bởi nó bắt rễ tròng những lí thuyết về xã hội ở châu Âu từ thế kỉ
XVII với quan niệm về một sự đồng nhất giữa Tigôn ngữ, dân
tộc và quốc gia và bởi nó được phát triển từ nhụ cầu thực tế phải
giải quyết vấn đề ngôn ngữ của tất cả mọi quốc 81a trên thế giới,
nhất là của các nước đa dân tộc, đa ngôn ngữ hoặc các nước mới
Cứ liệu về thực trạng ngôn ngữ ở mọi nơi trên thế giới cho
thấy, không có cộng đồng ngôn ngữ nào là hoàn toàn thuần nhất.
Đa số các quốc gia hiện nay trên thế giới là những quốc gia đa
dân tộc, đa ngôn ngữ. Ngay cả ở những quốc gia vẫn thường
được lấy làm ví dụ điển hình cho sự thuần nhất về ngôn ngữ như
Pháp hoặc Nhật thì đời sống ngôn ngữ cũng rất phức tạp bởi sự
tồn tại và cạnh tranh của các phương ngữ địa lý và xã hội khác
nhau. Trong hoàn cảnh đó, vấn đề ngôn ngữ có thể được nghiên
cứu từ nhiều khía cạnh khác nhau. Ví dụ: Nhà nước phải làm thế
nào để vừa có một (hoặc một số)'? ngôn ngữ làm công cụ giao
tiếp chung trong toàn quốc gia vừa bảo đảm tính bình đẳng, dân
chủ, tôn trọng lẫn nhau giữa mọi ngôn ngữ của mọi cộng đồng
dân cư sinh sống trên lãnh thổ của quốc gia đó? Những người
thuộc các cộng đồng ngôn ngữ không được chọn làm ngôn ngữ
chính thức của quốc gia sẽ ứng xử ngôn ngữ như thế nào để vừa
thể hiện được bản sắc dân tộc của họ vừa hòa nhập với các dân
tộc khác trong một xã hội đa ngữ? Các đề tài trên có thể được
nghiên cứu dựa trên các mô hình lí thuyết khác nhau, ở những
quốc gia có những hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá
khác nhau. Phạm vi nghiên cứu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ,
dân tộc và quốc gia rất phong phú nên sau đây, xin được lẫy việc
Canada có hai ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh và tiếng Pháp; Bỉ có ba ngôn
ngữ chính thức là tiếng Hà Lan, tiếng Pháp và tiếng Đức; Thụy Sĩ có bốn ngôn
ngữ chính thức là tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Italia và tiếng Romansch.
240
Những người theo chủ nghĩa dân tộc thường coi ngôn ngữ là
một trong các biểu tượng quan trọng nhất của tính dân tộc và
ngôn ngữ quốc gia là một trong các biểu trưng quan trọng nhất
của quốc gia. Nhiều nhà ngôn ngữ học Việt Nam cũng thống
nhất về tính phổ biến của ngôn ngữ quốc gia cũng như về tầm
“Vấn để xác lập ngôn ngữ quốc gia là vấn đề phổ biến, có
tính bắt buộc đối với mọi nhà nước, mọi quốc gia trên thế giới.
Ngôn ngữ quốc gia như là ngôn ngữ được chính thức thừa nhận
làm vai trò, vị thế nhà nước trong đời sống quốc gia. Nó có tính
hiến định và pháp lệnh. Về mặt nghỉ thức, nó được xác định như
một trong ba chỉ tố quốc thể: quốc kì, quốc huy, ngôn ngữ quốc
gia. Và có thể nói về mặt hiệu lực hiện thực và thiết thực, ngôn
ngữ quốc gia được xác định là vị trí số một trong ba chỉ tế đó 3,
Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn có hgôn ngữ quốc gia chỉ giữ
chức năng tượng trưng cho lony sự hào dân tộc là chính mà
như ngôn ngữ quốc gia ở Kenya, ngôn ngữ quốc gia ở Ireland,
v.v..Vẫn có ngôn ngữ mang tính quốc gia nhưng khó có thể
được coi là biểu trưng của độc lập, thống nhất của quốc gia bởi
đó là ngôn ngữ của kể xâm lược vừa chà đạp lên quê cha đất tổ
của người dân sinh sống trong quốc gia đó, vì đụ như tiếng Anh
khác ở các quốc gia "hậu thực đân". Vẫn có ngôn ngữ quốc gia
không thể được coi là chất keo dính tạo nên sự gắn kết về tỉnh
thần, tình cảm của các dân tộc trong quốc gia đó mà là nguyên
cớ cho sự xung đột giữa các dân tộc để tranh giành quyền lợi, là
nguyên cớ để các phong trào li khai phát triển mạnh mế, ví dụ
như những xung đột ngôn ngữ ở Canada, ở Moldova hoặc ở một
'5 Tê Quang Thiêm 2000, Về vấn để ngôn ngữ quốc gia. T/c Ngôn ngữ, số 1, tr. 30.
241
Lịch sử và thực tiễn đã chứng mỉnh rằng, cũng như mọi sự
vật hiện tượng khác của giới tự nhiên, hiện tượng ngôn ngữ quốc
gia có vai trò lịch sử nhất định của nó trong khơa học cũng như
trong đời sống xã hội. Như vậy, ý nghĩa của khái niệm ngôn ngữ
quốc gia và vai trò của nó đối với cuộc sống của con người chỉ
có thể hiểu được khi ta đặt nó vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
nó, tức là trong một không gian và một thời gian nhất định.
Ngôn ngữ quốc gia là một hiện tượng gắn liền với sự phát
triển của nhà nước đân tộc (nation-state). Cũng như nhà nước
dân tộc, mỗi một ngôn ngữ quốc gia là kết quả của quá trình đấu
tranh vì quyền lợi chính trị và kinh tế giữa các cộng đồng xã hội
khác nhau ở một đất nước nhất định và trong một thời kì nhất
định. Những nhận định trên đã được các nhà ngôn ngữ học xã
hội và nhân học ngôn ngữ đúc kết qua các nghiên cứu về mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và xã hội ở nhiều nơi trên thế giới trong
các quá trình phát triển khác nhau của lịch sử loài người.
Theo các nhà khoa học thì trước khi xuất hiện nhà nước đân
tộc, con người sống thành những cộng đồng (Gemeinschaft) gắn
sống trong phạm vi gia đình, trang trại, làng xóm - nơi mà hầu
hết các thành viên đều quen biết nhau. Cùng với cuộc cách Tạng
Pháp và cách mạng công nghiệp, xã hội loài người bước sang
một giai đoạn mới: giai đoạn của nhà nước dân tộc. Lúc này, con
người sống tập trung thành những xã hội (Gesellschaft) rộng lớn
mỗi ràng buộc gắn kết con người thành xã hội chủ yếu không
phải dựa trên cơ sở của đòng máu hoặc đất đai mà trên cơ sở của
1 Mécanique là thuật ngữ của nhà xã hội học nỗi tiếng người Pháp - Emile
Durkheim, còn prửnordiai là thuật ngữ của nhà nhân học kiệt xuất người Mỹ -
Cliford Geertz.
242
những bổn phận của họ đối với xã hội và sự hình dung của họ về
mối quan hệ gắn kết các thành viên với nhan thành một xã hội.
Benedict Anderson (1983) gọi các nhà nước dân tộc là những
vì: "Các thành viên của một quốc gia nhỏ bé nhất cũng không
thê biết hết các thành viên khác, gặp gỡ họ hoặc là nghe nói về
họ. Tuy vậy, trong tâm trí của mỗi người đều có một hình ảnh về
cộng đồng của họ,... Các cộng đồng được phân biệt với nhau
không phải bởi tính có thật hoặc không có thật mà bởi cái cách
Trong thực tế, con người có rất nhiều cách để hình dung ra
cộng đồng dân tộc của mình, ví dụ cùng chung một số nghĩa vụ
và quyền lợi, cùng chung những phong tục tập quán, cùng chung
cội nguồn, v.v... Nhưng, cùng chung một ngôn ngữ thường được
coi là biểu hiện đễ nhận thấy nhất, thông thường nhất, cần thiết
nhất cho cuộc sống cộng đồng và do đó là yếu tố đặc trưng nhát.
Vai trò của ngôn ngữ đối với việc hình thành và trau dồi ý thức
dân tộc mang một ý nghĩa đặc biệt nhờ hiệu quả của các ấn
phẩm và các công trình nghiên cứu của các nhà tư tưởng châu
Âu, nhất là những người đại diện cho chủ nghĩa dân tộc Đức như
coi ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc. Fichte thì coi ngôn ngữ là
một thành phần cơ bản nhất của tính quốc gia. Trong một bài
giảng của ông, có đoạn: "Ở nơi nào có một ngôn ngữ riêng biệt
thì nơi đó có một dân tộc riêng biệt có quyền tự quyết vận mệnh
'8_ Nunberg, Geoffrey 1992, The Ofical English Movement: Reimagining America.
Trong: James Crawíord (chủ biên) Language Loyaliies: A Source Book on the
243
Cái cách hình dung ra cộng đồng của mình thông qua một
ngôn ngữ chung, cái cách truyền bá tư tưởng về dân tộc thông
qua các ấn phẩm như báo chí, sách văn học và những tài liệu
tuyên truyền về tình hình thời sự chính trị của xã hội đã được
Anderson (1983) đánh giá là điều kiện thiết yếu đề hình thành ý
thức dân tộc - nền tảng tỉnh thần và biểu tượng của nhà nước dân
tộc. Khi nhà nước dân tộc được hình thành, tầng lớp thống trị xã
hội đứng trước yêu cầu là phải tìm ra những phương pháp mới,
có hiệu quá cao để điều khiển cộng đồng xã hội rộng lớn và
phức tạp hơn cộng đồng "cơ học", "nguyên thuỷ" trước đó.
Trong thực tế, họ đã đặt ra hàng loạt qui định có giá trị thống
nhất trên toàn lãnh thổ, ví dụ: tiến hành tiêu chuẩn hoá hệ thống
giáo đục nhằm đào tạo ra những công dân có các tri thức và kĩ
năng cần thiết cho các hoạt động khác nhau của xã hội, chuẩn
hoá hệ thống của các đơn vị đo lường, phát hành tiền tệ thống
nhất, v.v... Quá trình hiện thực hoá những biện pháp để quản lý
và điều hành xã hội nói trên được nhà xã hội học người Đức -
quá trình thuần nhất hoá ngộn ngữ, Max Weber đã đề cập đến
nhủ cầu của thuần nhất hoá ngôn ngữ để phục vụ cho điều hành
xã hội của tầng lớp nắm quyển chính trị và kinh tế trong xã
hội.”” Theo nhiều nhà nghiên cứu xã hội thì thuần nhất hoá ngôn
ngữ là một việc làm không thể thiếu trong quá trình xây dựng
quốc gia.
Ngày nay, chúng ta đều biết rằng quá trình thuần nhất hoá
ngôn ngữ chính là cái nôi để ngôn ngữ quốc gia ra đời và phát
triển. Trong quá trình đó, một ngôn ngữ hay một biến thể của
'Weber, Max 1968, Economy and Society, Berkeley and Los Angeles: University
of California Press.
?9_ Sau đó, thuần nhất hoá ngôn ngữ đã trở thành một trong những nội dung chính
của ngành ngôn ngữ học xã hội với những tên tuổi như Einar Haugen, Heinz
244
ngôn ngữ được chuẩn mực hoá, qui thức hóa và quan trọng hơn
cả là được gắn cho một giá trị văn hoá - xã hội để trở thành ngôn
ngữ quốc gia chuẩn mực.” Như vậy, những biện pháp nhằm
thuần nhất hoá ngôn ngữ do tầng lớp nắm quyền trong mỗi một
nhà nước dân tộc đề ra đã làm cho một biến thể ngôn ngữ hoặc
một ngôn ngữ nhất định không chỉ còn là ngôn ngữ theo nghĩa
thông thường nữa mà đã trở thành biểu tượng của cả cộng đồng.
Theo cách phận tích như trên thì việc có một ngôn ngữ làm
công cụ giao tiếp trên phạm vi toàn quốc gia - ngôn ngữ quốc
gia - có nhiều cái lợi cho cả cộng đồng. Nhưng, trong thực tế,
mô hình “một quốc gia - một dân tộc - một ngôn ngữ" không
phải là mô hình phổ biến của các quốc gia trên thế giới hiện nay.
Trong hoàn cảnh đa dạng ngôn ngữ như vậy, việc chọn một
ngôn ngữ hay một biến thể của ngôn ngữ làm ngôn ngữ giao tiếp
chung không phải là một việc dễ dàng. Đa số các nhà nghiên cứu
nhận định răng: các yếu tỗ tác động đến sự hình thành và nuôi
dưỡng ngôn ngữ quốc gia phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của
Thế kỉ XX đánh dấu một thời kì mới trong lịch sử loài người
với sự xuất hiện của hàng loạt các quốc gia mới giành được độc
lập, thoát khỏi ách đô hộ của các cường quốc châu Âu, Mỹ và
Nhật. Hoàn cảnh ra đời của các quốc gia mới này thường không
giống với hoàn cảnh ra đời của các quốc gia dân tộc ở những thế
kỉ trước. Là hệ quả của những biến động khác nhau trong lịch
sử, đa số các quốc gia mới là các quốc gia đa dân tộc, đa ngôn
ngữ; được hình thành và phát triển trong xu hướng dân chủ hoá
mạnh mẽ hơn bao giờ hết trên phạm vi toàn thế giới. Mô hình
“một quốc. gia - một dân tộc - một ngôn ngữ” ” không phải là mô
hình có thể áp dụng được nữa. Chính phủ của các quốc gia non
trẻ đứng trước nhiều thách thức, trong đó có việc giải quyết vấn
!_ Quá trình này thường được đề cập đến bằng thuật ngữ 4usbaw của Heiz Kloss
(1952).
245
để ngôn ngữ sao cho vừa bảo đắm quyền bình đẳng giữa các dân
tộc lại vừa thể hiện được sự thống nhất của quốc gia nhằm tập
hợp sức mạnh của mọi tầng lớp, mọi dân tộc trong quốc gia để
Khác với việc lựa chọn quốc huy, s quốc ca, quốc kì, ... việc
luật định ngôn ngữ quốc gia như một biểu tượng chung của toàn
quốc gia là một vấn đề vô cùng phức tạp đòi hỏi các chính phủ
non trẻ phải linh hoạt, sáng tạo trong lĩnh vực kế hoạch hoá ngôn
ngữ. Sự linh hoạt đó được thể hiện trong chính sách mềm dẻo về
vấn đề ngôn ngữ quốc gia sao cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể
của đất nước họ. Sau đây, xin được nêu ra một số ví dụ gần gũi
Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành
lập vào năm 1949, chính phủ Trung Quốc đã đổi cách gọi ngôn
ngữ chính thức ở Trung Quốc từ guoyu (quốc ngữ, ngôn ngữ
quốc gia) thành putonghua (tiếng phô thông). Trong khi đó, ở
Đài Loan, ngôn ngữ đó vẫn tiếp tục được gọi là guoyu.
Sau khi giành được độc lập năm 1945, nhà nước Indonesia
non trẻ không chọn ngôn ngữ của đa số người dân Indonesia làm
ngôn ngữ quốc gia của rnình. Quyết định đó được coi là phù hợp
tộc, đa ngôn ngữ. Nơi đây có tới hàng trăm tộc người sinh sống.
Họ sử dụng hơn 700 ngôn ngữ, phương ngữ khác nhau. Trong
số các tộc người đó, có một tộc người chiếm ưu thế ở vùng đất
này. Đó là tộc người Java sinh sống ở trung tâm và phía Đông
của đảo Java. Về mặt số lượng, người Java chiếm tới hơn một
nửa số dân của Indonesia. Người Java có một nền văn hoá đặc
sắc, đặc biệt là những giai điệu âm nhạc làm xao động lòng
người. Tiếng Java là một ngôn ngữ tương đối phát triển với một
240"
tầng lớp có thể diễn tả những sắc thái khác nhau khi giao tiếp với
những người ở các địa vị khác nhau. Điều này đã làm cho tiếng
Java thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà ngôn ngữ học trên
thế giới. Với những đặc tính trên thì đáng ra tiếng Java sẽ phải là
ứng cử viên số một của ngôi vị ngôn ngữ quốc gia của Indonesia
bởi vì nó đấp ứng hầu hết các điều kiện thường được đưa ra làm
tiêu chí cho việc lựa chọn ngôn ngữ quốc gia.
Nhưng, trong thực tế, chính phú Indonesia lại chọn tiếng
Malay Riau - một biến thể của tiếng Malay và là ngôn ngữ của
Indonesia, ngôn ngữ quốc gia của Indonesia. Theo Foley (1997)
thì sự lựa chọn trên của chính phủ Indonesia là một lựa chọn phù
Thứ nhất, là khi giao tiếp bằng tiếng Java, con người luôn
phải đứng trong những vị thế xã hội được sắp xếp theo những
tôn tỉ trật tự nhất định. Điều đó không thích hợp cho việc truyền
bá tư tưởng bình đẳng giữa các thành viên trong một quốc gia
dân chủ.
Thứ hai, là tiếng Java gắn liền với một nền văn hoá phức
tạp, pha trộn bởi ảnh hưởng của cả ba tôn giáo: Ấn độ giáo, Phật
Điều này cũng không thích hợp với ý tưởng xây dựng một nền
cộng sự của ông. Nếu chọn tiếng Java là ngôn ngữ quốc gia của
Indonesia, fhì ưu thế của tộc người Java càng được tăng thêm
gấp bội. Điều này có thể dẫn. đến những xung đột ngôn ngữ và
xung đột chính trị - xã hội vốn luôn tiềm ấn ở một quốc gia đa -
247
Thứ tư, là tuy tiếng Malay không phải là tiếng của đa số dân
Indonesia từ lâu đời, thông qua các hoạt động thương mại. Thêm
nữa, thế hệ tiếp nối của tầng lớp thượng lưu nắm quyền lợi chính
trị, kinh tế của đất nước đã được học và sử dụng tiếng Malay
như là ngôn ngữ thứ hai. Họ là lực lượng hậu bị nắm giữ quyền
lực chính trị, kinh tế trong Tương lai. Như vậy, quyền lợi của
tầng lớp lãnh đạo đất nước vẫn được duy trì.
Giống như Indonesia sau khi giành được độc lập năm 1945,
Việt Nam cũng cần có một chính sách ngôn ngữ phù hợp với
Trong thời kì thuộc địa của thực dân Pháp, tiếng Việt - tiếng
nói của đa số dân cư sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam - không
được coi là ngôn ngữ giao tiếp chung trên bình diện xã hội,
không được đùng trong các hoạt động của bộ máy chính quyền
đương thời. Ngày 2-9-1945, Bản tuyên ngôn độc lập - Giấy khai
sinh của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - được vang lên trên
Quảng trường Ba Đình lịch sử bằng tiếng Việt. Đây là một trong
những tín hiệu đầu tiên cho thấy: tiếng Việt đã được nâng lên
một vị thế mới, thay thế cho vị trí của tiếng Pháp, làm phương
tiện _BiaO tiếp chung của một nước Việt Nam độc lập, có chủ
quyền. Việc lựa chọn tiếng Việt làm ngôn ngữ giao tiếp chung
trong cả nước đáp ứng đầy đủ các tiêu chí để xác định vị thế
ngôn ngữ quốc gia mà các nhà ngôn ngữ học xã hội đã đưa ra”?
Tiếng Việt là tiếng nói của đa số cư dân sinh sống ở Việt Nam.
"Tiếng Việt là một ngôn ngữ có chữ viết và.có một hình thức
ngôn ngữ văn học tương đối phát triển. Trong lịch sử, tiếng Việt
? Có thể xem Lê: Quang Thiêm (2000) và Nguyễn Văn Khang (2003) về những
tiêu chí để lựa chọn một ngôn ngữ hoặc một biến thể ngôn ngữ làm ngôn ngữ
quốc gia.
248
luôn hoàn thành tốt chức năng qui tụ tất cả các dân tộc ở Việt
Nam trong mọi cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm để bảo vệ
Nhà nước ta luôn khẳng định chức năng làm ngôn ngữ
chung, ngôn ngữ phổ thông trong phạm vi toàn quốc của tiếng
Việt.” Ví dụ: trong Quyết định 53/CP của Hội đồng Chính phủ,
ban hành ngày 22 tháng 2 năm 1980 có đoạn viết: “Tiếng nói và
chữ phổ thông là ngôn ngữ chưng của cộng đồng đân tộc: Việt
Nam. Nó là phương tiện giao lưu không.thể thiếu được giữa các
địa phương và các dân tộc trong cả nước, giúp cho các địa
phương và các dân tộc có thể phát triển đồng đều về các mặt
kinh tế văn hoá, khoa học kĩ thuật, tăng cường khối đoàn kết đân
tộc và thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Vì vậy, mọi
công dân Việt Nam đều có nghĩa vụ và quyền lợi học tập Và sử
Mặt khác, để đám bảo sự bình đẳng, đoàn kết giữa các dân
tộc và giữ gìn bản sắc văn hoá của các dân tộc sinh sống trên đất
nước Việt Nam, chính sách của Nhà nước ta cũng luôn khẳng
định quyền có ngôn ngữ riêng của tất cả các đân tộc. Hiến pháp
năm 1960 nêu rõ: “Các đân tộc có quyền duy trì hoặc sửa đổi
phong tục, tập quán, dùng tiếng nói, chữ viết để phát triển văn
hoá dân tộc mình”. Hiến pháp sửa đổi năm 1992 tiếp tục khẳng
định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa
các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc. Các
dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân
tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn
hoá tốt đẹp của mình”.
2 Một số người dùng cụm từ ngôn ngữ quốc gi đề chỉ tiếng Việt ở Việt Nam trong
giai đoạn từ 1945 đến nay. Tuy nhiên, cách đùng này chưa xuất hiện lần nào
249
Có thể nói, ngay từ khi mới thành lập, việc xác định tiếng
Việt làm phương tiện giao tiếp chung trong cả nước của Nhà
nước ta là một quyết định phù hợp với các điều kiện chính trị, xã
hội, văn hoá và lịch sử của đất nước ta. Từ đó đến nay, Chính
phủ luôn quán triệt quan điểm “thống nhất trong đa đạng” khi đề
Ta và thực hiện các chính sách về ngôn ngữ. Đây là một trong
những yếu tố quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước
Ngôn ngữ và giới là một trong những đề tài thường được coi
là mới nhất, nhưng phát triển mạnh nhất của nhân học ngôn ngữ
và ngôn ngữ học xã hội trong những năm gần đây. Ở hầu hết các
trường đại học tại Bắc Mỹ, châu Âu và một số nơi khác đều có
các khoá học về ngôn ngữ và giới nhằm đáp ứng nhu cầu của
đông đảo sinh viên theo học. Trong vòng 30 năm qua, rất nhiều
ấn phẩm về đề tài này đã ra mắt độc giả. Sau đây, xin phác thảo
giới và ngôn từ của nữ giới được tìm thấy từ rất lâu đời trong
lịch sử, nhưng nhà ngôn ngữ học Mỹ - Robin Lakoff — thường
được xem là người đặt nền móng cho mảng để tài khoa học quan
trọng này. Dựa trên sự phân tích cách ứng xử ngôn từ của bản
Lakoff đưa ra giả thuyết về sự khác nhau giữa ngôn từ của nam
Women°s Place” (Nhà xuất bản Harper and Row 1974). Trong
tác phẩm này, Lakoff trình bày một đanh sách gồm các đặc điểm
ngôn ngữ tạo thành cái gọi là “women's language” (ngôn ngữ
phụ nữ) trên nhiều phương diện của ứng xử ngôn từ. Ví dụ: về
phát âm thì phụ nữ hay lên giọng ở cuối câu và phát âm chuẩn
mực hơn nam giới; về cú pháp thì phụ nữ thích dùng những câu
250
hỏi đính kèm (tag questtion) và những cầu trúc cú pháp được coi
là rất lịch sự trong tiếng Anh; về từ vựng thì phụ nữ hay dùng
những từ ngữ nhấn mạnh một cách thái quá như so (cực kì) .
trong so intelligent (cực kì thông minh) hoặc giảm nhẹ một cách
không cần thiết, tạo cảm giác thiếu tự tin như kind of (kiểu như,
hơi hơi) trong kind of difficult (hơi hơi khó). Lakoff cho rằng đó
chính là những đặc điểm làm nên bản sắc của ngôn ngữ nữ giới.
Xét từ một góc độ nào đó, những đặc điểm này làm cho ngôn từ
của phụ nữ mang tính mềm móng, dịu dàng. Nhưng, xét từ một
góc độ khác, chúng làm cho ngôn từ của phụ nữ mang tính yếu
đuối, thiếu tự tin. Bà cho rằng, ngay từ khi còn là một bé gái,
phụ nữ đã được dạy cách ăn nói như vậy và cách ăn nói này làm
thiệt thòi trong giao tiếp xã hội. Như vậy, người phụ nữ đường
như luôn chịu thiệt thòi: nếu ăn nói một cách “nữ tính” thì có thể
_ bị đánh giá là thiếu khả năng, thiếu tự tin; còn ngược lại thì có
Nhận định của Lakoff về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và giới
đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận khoa học sôi nổi và nhiều
khác nhau trên thế giới. Nội dung chủ yếu của các hoạt động
khoa học đó thường xoay quanh các vấn đề.như: Giới là g”?
Giới có liên quan như thế nào đến ú ứng xử ngôn từ nói: riêng và
đến cuộc sống của con người nói chung? Tuỷ thuộc vào mô hình
Ở hầu hết mọi xã hội, người ta đều nhận thấy sự khác biệt
tương đối rõ rệt về mặt sinh học giữa bé trai và bé gái, giữa
người đàn ông và người đàn bà. Sự khác biệt mang tính sinh học
251
đó thường được gọi là sự khác biệt về giống (sex). Khi nghiên
cứu các vẫn đề văn hoá - xã hội, chúng ta nhận thấy có những
giá trị, những đặc điểm khác nhau được gán cho con người
thuộc các giếng khác nhau nói trên. Ví dụ, “yếu điệu thục nữ”;
“nam thực như hỗ, nữ thực như miêu”; “nam vô tửu như kỳ vô
phong”,v.v... Có thể nhận thấy rằng các đặc điểm được coi là
của phái nam hoặc của phái nữ không nhất thiết phải là bản chất
của phái đó, không đứt khoát chỉ thuộc về phái đó. Ví dụ, không
phải mọi phụ nữ đều yếu điệu, đều ăn ít và nhâm nhỉ như mèo;
hoặc mọi nam giới đều ăn nhiều như hỗ, đều uống rượu thì mới
phát huy được đặc tính của mình. Những đặc điểm, những giá trị
mang tính văn hoá - xã hội này được coi là giới (gender). Từ
đây, nhiều nhà khoa học cho rằng, giỗng là những đặc điểm sinh
học và do đó không thay đổi được; còn giới là những đặc điểm
thể thay đổi được.” Đến đây, có ít nhất một câu hỏi đặt ra là:
giống và giới có liên hệ với nhau như thế nào? Tuỳ thuộc vào
cách trả lời câu hỏi này mà các nhà khoa học tiếp cận vấn đề
Khuynh hướng nghiên cứu phân chia con người trong một
cộng đồng xã hội thành hai phái chính: phái nam và phái nữ để
khảo sát ngôn từ của họ thường được các nhà khoa học gọi là
hay còn được gọi là trường phái biến thể học (variafionist) trong
ngôn ngữ học xã hội. Nghiên cứu ứng xử ngôn từ của con người
ở nhiều cộng đồng khác nhau trên thế giới, đặc biệt là các cộng
?* Khái niệm sex còn được mnột số tác giả địch là giới tính. Trong chương sách Tây,
sex được dịch là giống, gender được dịch là giới, còn genderness được địch là
giới tính.
: Ngày nay, các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiễn trong việc giải phẫu thay
252
đồng ở Bắc Mỹ và châu Âu, các nhà biến thể học đã tìm thấy sự
khác biệt giữa ngôn từ của phái nam và ngôn từ của phái nữ
trong các cộng đồng ngôn từ mà họ nghiên cứu. Cụ thể là: “Nữ
giới ít sử dụng biến thể đặc thù địa phương (stigmatized) và lệch
cùng hoàn cảnh””. Sự khác biệt này được giải thích theo nhiều
giả thuyết khác nhan. Tuy nhiên, có thể nhận định rằng, các giả
thuyết của trường phái này đều liên quan đến vị thế xã hội khác
hội thấp hơn nam giới. Do đó, họ muốn dùng những biến thể
ngôn ngữ được đánh giá là có uy tín cao trong xã hội (những
biến thể được coi là chuẩn mực) để bù đấp lại những thiếu hụt
do vị thế thấp gây ra cho họ. Mặt khác, phái nam và phái nữ có
những quan niệm khác nhau về uy tín của những biến thể chuẩn
mực. Trong khi những người phụ nữ quan tâm nhiều đến thể
diện của mình bằng những cách điễn đạt chuẩn mực ””, thì những
người công nhân nam thuộc đẳng cấp thấp trong nghiên cứu của
không chuẩn mực hơn những biến thể chuẩn mực bởi họ muốn
thể hiện nam tính của mình: sự mạnh mẽ qua những cách ăn nói
Giả thuyết về việc phái nữ dùng các biến thể ngôn ngữ có uy
tín hơn đề bù đắp cho những thiếu hụt về vị thế xã hội của mình
đã bị những nhà khoa học theo khuynh hướng khác biệt
(difference) phán đối. Những người theo khuynh hướng này cho
® Chambers, J.K. 1995. Soeciolinguistic Theory: Linguistie Variation and lis Soclal
Speech. Trong: Cameron, Deborah & Tennifer Coates (chủ biên) W@nen in Their
Longman.
253
rằng, những khác biệt trong ứng xử ngôn từ của phái nam và
đơn giản chỉ là những sự khác biệt. Phụ nữ và nam giới khác
nhau về mặt sinh học và họ đảm đương các vai trò khác nhau
nhau. Ngôn từ của phụ nữ và ngôn từ của nam giới thể hiện
những hệ thống giá trị khác nhau giỗng như các tiểu văn hoá
rằng đặc trưng phong cách nói năng của nữ giới là sự mềm
mỏng, nhẹ nhàng, nặng về thể hiện tình cảm và sự hoà đồng; còn
Phụ nữ thích nói nhiều hơn, còn nam giới thì ghét “sự lắm lời”.
Cuốn sách được bình chọn là một cuốn sách bán chạy nhất
trong năm 1990 với tựa đề là You Just Don°t Understand (Bạn
không hiểu) của Deborah Tannen đã cung cấp rất nhiều câu
chuyện giao tiếp ngôn ngữ về những khác biệt mang tính văn
hoá giữa cách ứng xử ngôn từ của phái nam và phái nữ. Cách
.ứng xử của họ được coi là thuộc về các tiểu văn Hoá khác nhau
bởi từ nhỏ họ đã được giáo dục như thể. Tannen lí giải rằng,
những khác biệt này chính là những nguyên nhân gây hiểu lầm
giữa những người giao tiếp thuộc các giới khác nhau. Bà cho
rằng: muốn giải quyết những hiểu lầm đó một cách hữu hiệu, ta
niên đặt mỉnh vào vị trí của người đối thoại với mình với một cái
Tuy rằng các nghiên cứu trên cho chúng ta thấy những
đường nét mang tính cấu trúc của sự khác nhau trong ứng xử
ngôn ngữ của phái nữ và phái nam, chúng bị phê phán là đã đơn
giản hóa vai trò của yếu tố giới trong hoạt động của con TREƯỜI.
Kết quả nghiên cứu ở một SỐ cộng đồng thuộc các nền văn hoá
khác, bằng các phương pháp, dựa trên các mô hình lý thuyết
khác đã cho thấy mỗi quan hệ vô cùng phức tạp giữa giới và ứng
254
Đáng lưu ý là những nghiên cứu đặt trọng tâm vào mối quan
hệ giữa ngôn ngữ và giới trong những hoàn cảnh khác nhau. Ví
dụ, Bambi Schieffelin (1987) không tìm thấy khác biệt về giới
trong ngôn từ của phái nam và phái nữ ở Kaluli trong khi các vai
giới tính được thể hiện rất rõ trong các phương điện khác của đời
sống xã hội. Hoặc, trong khi những tiếp viên nam của một đội
tiếp viên hàng không đùng “ngôn ngữ của phụ nữ” để giao tiếp
với hành khách đi trên máy bay thì những người nữ cảnh sát lại
dùng “ngôn ngữ của nam giới” khi thực thi nhiệm vụ bảo vệ
pháp luật của mình”. Trước những kết quả nghiên cứu trên,
nhiều nhà khoa học đã cảm thấy sự lúng túng của quan niệm đối
ngẫu trong việc lí giải những kết quả không nhất quán của các
Đến những năm 80 của thế kỉ XX, cảm nhận đó được phát
triển thành một mô hình lý thuyết mới về mối quan hệ giữa giới
một trường phái tâm lý học Xô Viết - trường phái Vygotsky theo
cách gọi thông dụng của giới khoa học Âu - Mỹ, Goodwin &
ngôn từ của một nhóm trẻ em Mỹ gốc Phi khi các em TiầY g1ao
tiếp với bạn bè của chúng. Họ tìm thấy cả những nét giống nhau
lẫn những nét khác nhau khi so sánh phong cách tranh luận của
các bé gái và phong cách tranh luận của các bé trai. Một trong
những nhận định quan trọng được rút ra là, những đặc trưng giới
được thể hiện rất đậm nét khi các em giao tiếp với bạn cùng giới
và mờ nhạt khi các em giao tiếp với bạn khác giới. Từ đây các
tác giả cho rằng đặc trưng giới trong ngôn từ của các em biến
biên) 1995, Gender Ariiculated: Language and the Socially Constucted Sef tr.
255
đổi theo hoàn cảnh giao tiếp. Không phải lúc nào bé gái cũng nói
năng dịu đàng và hòa đồng, còn bé trai thì mạnh mẽ và thiên về
cá nhân như đã được các nhà nghiên cứu mô tả trong bức tranh
đối ngẫu về giới. Trẻ em đã biết sử dụng ngôn ngữ như một
phương tiện hữu hiệu để tổ chức diễn ngôn vì những mục đích -
giao tiếp nhất định. Ví dụ, khi tranh cãi, nhất là tranh cãi với bạn
khác giới, bé gái cũng nói năng mạnh mẽ, "hung hăng" và áp đặt
chẳng kém gì bé trai, thậm chí còn hơn cả bé trai trong một số
Như vậy, theo mô hình lí thuyết mới này thì giới được hiểu
hữu. Tùy vào mục đích và hoàn cảnh giao tiếp cụ thể mà con
người lựa chọn phong cách ngôn từ thường được coi là đặc
trưng cho giới này hay giới khác, nhằm đạt được hiệu quả tối đa.
Với cách tiếp cận vấn đề như trên, các nhà khoa học ổi theo
của phái nữ và ứng xử ngôn từ của phái nam trong những hoàn
cảnh giao tiếp khác nhau. Trong khi những nhà khoa học làm
việc theo mô hình đối ngẫu, đặt trọng tâm vào sự khác biệt trong
ngôn từ cuả phái nữ và ngôn từ của phái nam thì mục đích của
các công trình theo. khuynh hướng mới là tìm hiểu xem con
người sử dụng những biến thể ngôn từ mang đặc trưng giới như
thế nào, trong hoàn cảnh nào và vì mục đích gì. Nói một cách
khác là tìm hiểu vai trò của giới trong mối liên hệ với các yếu tô
văn hoá-xã hội khác đối với hoạt động ngôn từ nói riêng và hoạt
tài chưa được các nhà Việt ngữ học quan tâm nghiên cứu một
cách đầy đủ. Nó là lĩnh vực quan trọng và đầy tiềm năng cần
256
3. TÓM TẮT CHƯƠNG
1. Nhân học ngôn ngữ nghiên cứu vai trò của ngôn ngữ đối
với xã hội loài người. Nhân học ngôn ngữ quan tâm một cách
đặc biệt đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hoá và xã hội cũng
như đến sự sử dụng ngôn ngữ của con người trong bối cảnh văn
2. Ngôn ngữ được coi là một trong những đặc trưng phân
biệt loài người với các loài sinh vật khác trên trái đất. So với các
hệ thống tín hiệu khác thì ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu phong
phú nhất, có tổ chức chặt chẽ nhất và có khả năng diễn đạt một
số lượng vô hạn những nội dung với một số lượng hữu hạn các
triển ngôn ngữ và vai trò của ngôn ngữ trong lịch sử phát triển
loài người của các bậc tiền bối như Herder, Humboldi,
sâu rộng trong nhân học ngôn ngữ nói riêng và nhân học hiện
4. Giả thuyết tương đối ngôn ngữ học khẳng định sự ảnh
hưởng của các ngôn ngữ khác nhau đối với cách nhìn nhận thế
giao tiếp. Do đó muốn hiểu một dân tộc, một nền văn hoá nào đó
một cách đúng đắn thì cần phải nghiên cứu ngôn ngữ của dân
tộc học về ngôn từ) đánh đấu một bước tiến quan trọng trong
nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hoá và xã hội. Mô
hình này gắn kết ngôn ngữ, văn hoá và xã hội lại với nhau, trong
khi các mô hình trước đó thường chỉ đề cập đến mối quan hệ
giữa ngôn ngữ và văn hoá hoặc ngôn ngữ và xã hội. Phương
pháp khảo tả dân tộc học tạo điều kiện cho chúng ta hiểu rõ hơn
257
sự tương tác giữa ngôn ngữ, văn hoá và xã hội. Trong hoạt động
giao tiếp, con người không chỉ cần đến khả năng ngôn ngữ như
còn cần có sự hiểu biết về những quy ước mang tính văn hoá, xã -
hội của cộng đồng ngôn từ,.... Kiến thức văn hoá và xã hội là
những hiểu biết cần thiết để cho giao tiếp ngôn ngữ đạt hiệu quả.
Và, con người có thể dùng ngôn ngữ để thể hiện bản sắc văn hoá
của mình hoặc tạo ra những mối quan hệ xã hội nhất định
6. Ý nghĩa của khái niệm “ngôn ngữ quốc gia” và Vai trò của
nó đối với cuộc sống của con người chỉ có thể hiểu được khi ta
đặt nó vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tức là trong một không gian
và một thời gian nhất định. Việc Nhà nước ta xác định “tiếng
Việt là phương tiện giao tiếp. chung trong cả nước” là một quyết
định phù hợp với các điều kiện chính trị, xã hội, văn hóa và lịch
sử của đất nước ta. Chính phủ ta luôn quán triệt quan điểm
“thống nhất trong đa dạng” khi đề ra và thực hiện các chính sách
về ngôn ngữ. Đây là một trong những yếu tố quan trọng đối với
sự nghiệp phát triển đất nước trong hơn nửa thể kỉ qua.
cứu được coi là mới nhất và phát triển mạnh nhất của nhân học
nigôn ngữ và ngôn ngữ học xã hội trong những năm gần đây. Ở
Việt Nam, mỗi quan hệ giữa ngôn ngữ và giới là một đề tài chưa
được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ.
Nó là lĩnh vực quan trọng và đầy tiềm năng cần được các nhà
TÔN GIÁO
Nhân học nghiên cứu về tôn giáo dưới cả hai chiều kích:
thời gian và không gian; trong đó, chú trọng đến vị #í, vai trò,
chức năng, ... của tôn giáo trong đời sống cá nhần cũng như xế
hội tộc người đương đại'. Và, nhân học nghiên cứu về tôn giáo,
thường đặt tôn giáo trong bỗi cảnh tương tác giữa kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội,... của một hay nhiều tộc người trong một
_ vùng hoặc rộng hơn là quốc gia, khu vực,... Do bởi, tôn giáo
được xem là thành tố của văn hóa; và tôn giáo mang tính cộng
đồng, tính xã hội, tính văn hoá,... gắn liền với đời sống của các
tộc người cụ thể. Sự biến đổi hoặc chuyển đổi tôn giáo của một
tộc người nào đó thường gắn liền với sự thay đổi các yếu tố liên
quan như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và cả những nhận
thức trong cộng đồng tộc người. Vì vậy, nhân học nghiên cứu về
tôn giáo là xem tôn giáo như những sự kiện mang zính văn hóa
và tính xã hội, chịu sự tắc động của văn hóa - xã hội tộc người;
không xem tôn giáo như những sự kiện Zøhẩn học, mặc dù các
yếu tố zhẩn học làm nên bản chất của tôn giáo.
có sự biến đối về nội hàm trong tiến trình lịch sử. Thuật ngữ tôn
? Nguyễn Thị Hiền (2008), “Nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam đương
đại”, trong sách Nhiễu tác giả, Sự biên đổi của tân giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam
259“
trước thế kỷ thứ IV, khi mà Kitô giáo phát triển ra toàn bộ châu
Âu và chỉ phối mạnh mẽ đến đời sống của người dân châu Âu,
thuật ngữ religion mang nghĩa “cộng đồng Kitô” (Church), bao
gồm cộng đồng các con chiên tin theo Đức Chúa và đề cập đến
tất cả vấn để liên quan đến đời sống của họ”. Từ thế kỷ thứ V
đến XV, nghĩa của từ religion bị thu hẹp lại, chỉ đề cập đến tín
đồ thực thụ và những, người tu hành trong các nhà thờ. Như vậy,
vào thời kỳ “trung cổ” ở châu Âu, thuật ngữ religion có nghĩa
hạn hẹp, dùng để chỉ những con chiêncủa Đức. Chúa, cùng có
một niềm tin và cùng có những hành vi tôn giáo như nghỉ lễ,
kiêng ky,... Khi Tin Lành xuất hiện vào thế kỉ VỊ, nội hàm của
khái niệm religion thay đổi. Không còn nói về một cộng đồng tín
hai nhóm người có hành vi tôn giáo khác nhau. Do bởi, tín đồ
Tin Lành thực hiện hành vi tôn giáo khác với tín đồ Công giáo.
Họ chú trọng vào việc liên hệ trực tiếp với Đức Chúa Trời, mang
tính cá nhân hơn. Không chủ trương hình tượng và bài trừ các bí
tích trong Thánh lễ; đặc biệt quan điểm của John Calvin là phản
đối việc thực hiện nghi thức Ban Thánh thể trong Thánh lễ với
hình thức bánh thánh và rượu nho. Từ đây, thuật ngữ religion
trở thành “số nhiều”, vì đùng để chỉ hai cộng đồng có hành vi
tôn giáo khác nhau, mặc dù thờ chung một Đức Chúa. Đến thời
tính hệ thống với yếu tố duy lí, và niềm tin vào các giáo điều,
giáo lí. Do đó, thuật ngữ religion được xác định như một hệ
thống giáo lí, giáo điều, hệ thống tổ chức (Giáo hội),... Điều
này, có lẽ ảnh hưởng bởi tri thức khoa học kĩ thuật bắt đầu phát
triển ở châu Âu, nên những hành vi tôn giáo liên quan đến bí
tích, nghỉ lễ huyền bịí,... bị xem là phản khoa học; hoặc các yếu
tố tín ngưỡng truyền thống của tộc người mang yếu tố ngoài
Kitô bị xem là “mê tín đị đoan”. Nội hàm của thuật ngữ tôn giáo
260
lúc này chỉ chú trọng đến hệ thống tô chức, giáo lí, giáo điều,....
vì chúng đã trở thành khuôn mẫu trong cộng đồng cư dân châu
Điều này gây nên nhiều tranh cãi của các nhà khoa học,
nhất là các nhà nhân học nghiên cứu về tôn giáo, khi cho rằng,
quan điểm này không thể áp dụng trên toàn thế giới, mà chỉ có
giá trị trong một nhóm người hoặc, cộng đồng người cụ thể
nào đó. Tuy nhiên, quan điểm này sau đó lại ảnh hưởng đến
nhiều nước trên thế giới, khi các nhà cải cách tôn giáo và các
nhà làm chính sách tôn giáo vận dụng nó để xem xét và điều
chỉnh lại tôn giáo trong nước của họ. Từ đó, ở một số quốc gia
xuất hiện các khái niệm tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị
_ Tuy nhiên, thuật ngữ tôn giáo được. hiểu theo nghĩa khuôn
mẫu như trên không thể áp dụng rộng rãi, vì tôn giáo của các
quốc gia ngoài châu Âu có nội hàm khác so với Kitô giáo
phương Tây. Chẳng hạn, Islam được xem là tôn giáo phát triển
mạnh ở khu vực Trung Đông từ sau thế kỷ thứ VII, nhưng nó ra
đời bằng sự mặc khải và tin vào sự vĩnh hằng của linh hồn, cũng
như là sự giải thoát. Điều nầy, không đồng nhất với quan điểm
của Kitô giáo phương Tây, nhưng vẫn được xem là tôn giáo.
Hoặc các tôn giáo ở phương Đông như Hindu, Ấn Độ giáo, Phật
giáo, Đạo giáo,... cũng không đồng nhất với Kitô giáo, vì có rất
nhiều hình thức như lễ nghỉ, bí pháp, hành xác, kiêng Ky,...
dùng để chỉ tôn giáo cỗ của quốc gia này, với hàm ý tổng hợp
những nghĩa vụ thiêng liêng của người Ấn, có thể áp dụng cho
bất cứ tôn giáo nào của Án Độ”. Thuật ngữ &amigoro ở Nhật Bản
Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lí luận về tôn giáo và tình: hình. tôn giáo ở Việt Nam,
__ 261.
_dùng để chỉ hành vi tôn giáo mang tính truyền thống, như thờ
:cúng; hoặc thuật ngữ #yoø tức là giảng dạy cũng được dùng để
chỉ tôn giáo”. Đến thế ki XVIII, thuật ngữ đông giáo (được dịch
từ thuật ngữ religion) xuất hiện ở Nhật Bản; sau đó được truyền
sang Trung Quốc và đến Việt Nam vào thế kỷ XIX. Tuy nhiên,
ở Việt Nam do ky húy (ky tên húy của vua Thiệu Trị), nên
chuyên thành iồn giáo. Thuật ngữ lông giảotôn giáo được dùng
để chỉ các tôn giáo khác nhau xuất hiện ở các quốc gia này, như
Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Công giáo, Tin Lành,... Tuy
nhiên, ở Trung Quốc, thuật ngữ tông giáo nhằm để chỉ riêng
Phật giáo, bởi Phật giáo lấy lời thuyết của đức Phật gọi là giáo,
lời của đệ tử gọi là /óng. Tổng là một nhánh của giáo, hợp thành
tông giáo”.
sớm. Từ ÖØ¿oø ngoài hàm nghĩa là tôn giáo, nó còn mang một
hàm nghĩa khác nữa là cách ứng xử làm người trong các mối
quan hệ xã hội, thuộc về phạm trù đạo đức. Tuy nhiên, hiện nay
Tây được dùng nhằm để chỉ hành vi của con người đối với các
đẳng quyền năng của họ. Nội hàm của thuật ngữ này tuy có thay
đỗi theo tiến tình thời gian, nhưng yếu tổ siêu nhiên và hành vi
của con người đối với tính siêu nhiên đó vẫn được xem là nội
hàm cốt lõi không thay đôi trong thuật ngữ tôn giáo. Nghĩa là
khi nói đến đồn giáo sẽ có yếu tố siêu nhiên trong đó. .
khác nhau ở phương Tây và Bắc Mỹ. Nêu E.B. Tylor cho tôn
Đặng Nghiêm Vạn (2003), 1⁄ luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam,
sảd, tr.27.
Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lí luận về tôn giáo và tỉnh hình tôn giáo ở Việt Nam,
sổd, tr.28-20.
262
giáo là “niềm tin vào các thực thê tỉnh thần”” thì E. Durkheim lại
có một định nghĩa rõ ràng hơn về tôn giáo, khí cho rằng “một hệ
thống có tính chất gắn bó của những niềm tin và những thực
hành liễn quan đến những điều thiêng liêng, nghĩa là được tách
biệt, cắm đoán, những niềm tin và thực hành sẵn bó tất cả
những ai gia nhập vào một cộng đẳng tình thân, được gọi là
giáo hộf””. Hai định nghĩa này có thể bỗ sung cho nhau vì Tylor
đã đơn giản hóa những đỗi tượng của niềm tin con người; còn E.
Durkheim thì diễn giải những niềm tin đó rõ hơn, đặc biệt là đề
cập đến vai trò Giáo hội (một tô chức) trong tôn giáo.
Dưới góc nhìn khác, Anthony E.C. Wallace cho răng “7ôn
giáo là tập hợp những nghỉ lễ đã được biện mình bằng thần
thoại, động viên sức mạnh siêu nhiên nhằm mục đích đem lại
biến đối hoặc đề phòng biến đổi cho con người và tình trạng tự
nhiên”?. Hay Max Webcr thì cho rằng, “Tôn giáo là một loại đặc
biệt tác động đến cộng đồng. Tôn giáo gắn kết những thể lực
siêu nhiên. Quy định các mỗi quan hệ giữa các thể lực của
chúng với những con người tạo thành lĩnh vực của những hoạt
Trong các định nghĩa về tôn giáo ở phương Tây và Bắc Mỹ,
định nghĩa của Cliford Geertz đã tạo ra cuộc tranh luận lớn từ
Talal Asad. Cliford Geertz cho rằng, nghiên cứu tôn giáo phải
đặt trong bối cảnh tư duy rộng lớn, tránh không đi theo mọi
hướng cùng lúc!!. Và, Clifford Geertz đưa ra định nghĩa tôn giáo
7 Đẫn theo Fiona Bowie, 7he Anthropology oƒ Religion, Blackwell, 2000, p. 22.
° Emile Durtkheim, “Định nghĩa hiện tượng tôn giáo về tôn giáo”, Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam, Những vấn đề Nhân học tôn giáo, Tạp chỉ Xưa & Nay, NOCB
Dẫn theo Đặng Nghiêm Vạn, Lí luận tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam,
!!_ CHiữord Geertz (2006), “Tôn giáo như một hệ thống văn hóa”, trong sách Những
263
với 4 thành tố tác động lẫn nhau: “76w giáo là một hệ thống các
1) biểu lượng, hoạt động nhằm 2) thiết lập tâm trạng và động cơ
mạnh mẽ, rộng khắp và bằn lâu WOHE COH người bằng cách đề
khoác cho những khái niệm này bằng một hào quan của sự thật
hiện thực đụy nhất”? Theo định nghĩa này, Geertz nhân mạnh
đến tính “biểu tượng”; mang giá trị “ý niệm” và ý niệm chính là
“ nghĩa” của biểu tượng!? ; tiếp đó “giết lập tâm trạng, và động
cơ,.... ” buộc con người phải tuân thủ theo những giá trị của
biểu tượng (ví dụ con bò nhai lại và người đàn ông hút thuốc là
những điều đã được gắn sẵn trong xã hội)!" “... khái niệm- này
bằng một hào quan của sự thật,...” bởi là một sản phẩm văn
hóa, nên nó được tạo khung dựa trên những biểu ng của sự
tâm trạng và động cơ đỏ dường như là hiện thực dờợ nhất” bởi
nghỉ lễ tôn giáo mang lại một hệ thống quan trọng nhất, từ quan
điểm con người, vượt qua ranh giới của chính nghỉ lễ, khi nghỉ
lễ đó phản ánh lại và tô điểm cho mỗi cá nhân về một thế giới đã
thiết lập hiện thực trần trụi'5. Đối với Clifford Geertz, tầm quan
trọng của tôn giáo nằm ở khả năng cung cấp, cho cá nhân hay
nhóm, zøộ¿ nguồn những ý niệm chung; vì vậy nghiên cứu tôn
giáo là một thao tác hai công đoạn: #ước nhất, phân tích hệ
thống ý nghĩa bao hàm trong những biểu tượng tạo lập nên tôn.
giáo toàn vẹn; và hai là liên hệ những hệ thống này tới quá trình..
3ˆ Cliford Geertz (2006), “Tôn giáo như một hệ thống văn hóa”, sđđ, tr.312.
'* CHiford Geertz (2006), “Tôn giáo như một hệ thống văn hóa”, sđd, tr217.
'” _ CHiford Geertz (2006), “Tôn giáo như một hệ thống văn hóa”, sđỏ, tr.336.
'* _ CHffbrd Geertz (2006), “Tôn giáo như một hệ thống văn hóa”, sđd, tr.346.
' _ Clữord Geertz (2006), “Tôn giáo như một hệ thống văn hóa”, sđd, tr.352-353,
264
Khi tiếp cận định nghĩa của Clifford nêu trên, Talal Asad đã
kịch liệt phản đối, khi cho rằng Geertz đã bỏ qua “điều trọng yếu
của quyền lực, làm ngơ trước điều kiện xã hội phong phú của sự
sản sinh ra trí thức”! Theo Asad, vẫn đề quan trọng của tôn
giáo cần phải quan tâm vì nó có mỗi quan hệ giữa quyên lực và
được phân bê rất khác nhau trong từng thời kỳ'”. Asad kêu gọi,
nghiên cứu tôn giáo cần có sự tham chiếu với những điều kiện
lịch sử cần thiết cho sự tỒn tại của những hành xử và ngôn
thuyết cụ thể”. Asad phê phán khái niệm tôn giáo của Geertz
- khi cho rằng, lập luận của Geertz (về biểu tượng) là sự lẫn lộn
giữa vấn đề nhận thức với vấn đề giao tiếp; bởi vì theo Geertz,
biểu tượng khi là khía cạnh của hiện thực, khi lại là biểu trưng”.
Theo Asad, biểu tượng tôn giáo không chỉ là sự thờ cúng, nếu
như vậy nó sẽ rất mơ hồ và khó xác định được trong bối cảnh xã
hội công nghiệp hiện đại (ví dụ liệu có thể xác định được một ai
đó là tín đồ của một tôn giáo-hay không khi mà chỉ dựa vào việc
thờ cúng?, mà phải dựa vào các thiết chế xã hội và bối cảnh kinh
tế); trong đó yếu tố quyền lực và thể chế chính trị (pháp luật)
cũng rất quan trọng khi nói đến vấn đề tôn giáo. Không thể chỉ là
không gian và thời gian khác nhau. Talal Ásad chú trọng đến
lịch sử sơ kỳ của Kito giáo phương Tây”, còn Geertz lại quan
!# Tạlai Asad (2006), “Các khái niệm nhân học về tôn giáo: những suy ngẫm về
'Geertz”, trong sách Những ván đề nhân học tôn giáo, NXB Đà Nẵng, tr. 356.
!? Talal Asad (2006), “Các khái niệm nhân học về tôn giáo: những suy ngẫm về
?“_Talal Asad (2006), “Các khái niệm nhân học về tôn giáo: những suy ngẫm về
Talal Asad (2006), “Các khái niệm nhân học về tôn giáo: những suy ngẫm về
?“ Talal Asad (2006), “Các khái niệm nhân học về tôn giáo: những suy ngẫm về
21
265
tâm đến các tôn giáo ở Án Độ, và ở các nhóm người khác ngoài
châu Âu. Như đã trình bày ở phần thuật ngữ, nội hàm. tôn giáo ở
phương Tây khác với ở phương Đồng. Khi tiếp cận vấn đề ở hai
không gian văn hóa và cách tiếp cận khác nhau sẽ không thể
đồng nhất quan điểm, nên dẫn đến tranh luận trong khoa học.
kiến rằng, khi đưa ra khái niệm tôn giáo phải dựa vào hoàn cảnh
thực tại của nó. Cliford Geertz theo quan điểm diễn giải, nên
xem tôn giáo như một biểu trưng, hay đúng hơn đó là một biểu
tượng trong đời sống xã hội. Muốn hiểu được nó phải quan sát
thật kĩ, miêu tả thật sâu để tìm ra ý nghĩa của nó và vai trò của
nó trong đời sống xã hội của con người. Còn Talal Asad theo
quan điểm Mac-xit, nên cho rằng tôn giáo là hiện tượng của xã
hội và có thể sẽ bị đấy lùi khi khoa học phát triển. Talal Asad
phê phán định nghĩa tôn giáo của Geertz không mang tính phổ
quát; cần phải có một yếu tố phố quất của một định nghĩa. Từ
đó, Charles Keyes cho rằng không thể có một định nghĩa về tôn
giáo để mang tính phổ quát mà phải dựa vào hoàn cảnh thực tại
của tôn giáo đó. Từ đó, Keyes đưa ra quan điểm của mình khi
nghiên cứu về tôn giáo là: 1) Nghiên cứu những hoàn cảnh cụ
“những mối quan tâm cơ bản” — cái chết; 2) Cần xem xét nguồn
quyền lực của thông điệp tôn giáo — charisma; 3) tập trung vào
Đó là một số định nghĩa của các nhà nhân học phương Tây
và Bắc Mỹ về tôn giáo và cuộc tranh luận về tính khoa học cũng
như sự phổ quát của chúng khi nghiên cứu về tôn giáo. Tuy
nhiên, không thể tìm ra tính phố quát của một định nghĩa tôn
giáo, do bởi nhận thức, quan điểm khoa học khác nhau ở từng
thời kỳ lịch sử, cũng như ở từng vùng, khu vực, quốc gia, hoặc
? Đọc thêm bài của Charles Keyes (2006), “Sự thăng trầm của nghiên cứu nhân
học về tôn giáo”, trong sách Miiững vấn đề nhân học tôn giáo, NXB Đà Nẵng.
266 ˆ
từng tộc người cụ thể,... Do đó ở Việt Nam, Đặng Nghiêm Vạn
cũng đưa ra định nghĩa về tôn giáo và đưa quan điểm về việc
đánh giá nội hàm tôn giáo sẽ có sự khác biệt ở từng hoành cảnh
lịch sử, địa lí,... khi cho rằng “7ôn giáo là niềm tin vào các lực
lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp
nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách siêu thực
(hay hư ảo) với con người, nhằm lí giải những vẫn đề trên trần
thể cũng như ở thể giới bên lủa. Niềm tin đó được biểu hiện rất
đa dạng, tùy thuộc vào từng thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa l_
văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được
vận hành bằng những nghỉ lỗ những hành vi tôn giáo khác nhau
Tóm lại, định nghĩa tôn giáo sẽ không có một nội hàm phổ
quát. Tùy theo quan điểm tiếp cận, người nghiên cứu sẽ kế thừa
khái niệm của một nhà khoa học nào đó; hoặc tự đưa ra một định
nhận rằng, định nghĩa đó sẽ bị phê phán hoặc bị phủ định bởi
HIỆN NAY
giáo là sản phẩm của con người. Con người sáng tạo ra tôn giáo
rôi bị tôn giáo chỉ phối lại trong cuộc sông. Tôn giáo được xây
dựng có thể bắt nguồn từ việc muốn lí giải những hiện tượng --
“kỳ lạ” xảy ra xung quanh cuộc sống con người. Ví dụ, khi đang
ngủ, con người mơ thấy mình làm việc gì đó. Sau khi tỉnh lại,
không thể giải thích được hiện tượng này nên đã cho rằng con
người được hợp thành bởi hai yếu tổ là linh hồn và thể xác.
: 267
Trong khi ngủ, thể xác sẽ nằm yên, bất động còn linh hồn thì có
thể di chuyển. E.B. Tylor tin rằng không chỉ con người mới có
linh hồn mà tất cả cây có, động vật đều có linh hồn nên đã đưa ra
Thuyết vật linh đề mô tả niềm tin cho rằng những vật thể sống,
chính là bản sao của thực thể, tồn tại trong cơ thể con người.
Linh hồn sẽ tồn tại bất diệt, còn thể xác thì không. Do đó, khi
linh hồn rời bỏ thân xác vĩnh viễn thì lúc đó cor† người sẽ chết,
nghĩa là thể xác sẽ tiêu tan. Chính việc cảm nhận có sự tồn tại
bất diệt của linh hồn mà con người đã có những biểu hiện tôn
trọng nó như chôn theo đồ tùy táng khi con người chết, rải hoa
đưới huyệt mộ, cúng tế, tưởng niệm,... Từ những hành động đó,
ý niệm một thế giới khác dành cho linh hồn sau khi chết đần
được hình thành trong cuộc sống của con. người và lâu dần thế
giới “bên kia” ấy trở thành “thiên đường”, “niết bàn”, hay “địa
Khi ý niệm về một thế giới bên kia ra đời cũng là lúc tôn
giáo được hình thành. Do vậy mà các nhà Nhân học khi định
nghĩa về tôn giáo đều đề cập đến “tính thiêng liêng”, một “niềm .
tin về tính siêu thực” về một thế giới vô hình và sau này là sự
“giải thoát”. Niềm tin siêu thực ấy chính là chỗ dựa tỉnh thần của
con người khi họ gặp khủng hoảng trong cuộc sống. Do bởi,
trong xã hội nguyên thủy, con người yếu đuối trước sức mạnh
thiên nhiên, cũng như bất lực trong quan hệ xã hội, thường phải
cầu viện vào những hình thái tôn giáo như tôtem giáo, ma thuật
(phép màu, bủa, yếm,...), vào đạo phù thủy hay shaman giáo,
để cầu cứu thần linh giúp họ tăng thêm sức mạnh, vượt qua
những khó khăn, cũng như chiến thắng những bệnh tật, thiên tai
và kẻ thù. Đến xã hội có giai cấp, mỗi một dân tộc, một tộc
người, một tổ chức xã hội, văn hóa, cộng đồng huyết thống...
mỗi cá nhân vẫn cầu viện đến thần linh, đến các siêu nhiên phù
268
trợ cho cộng đồng được phát triển, cho cá nhân được che chở,
chống lại thiên tai và những bất công, rủi may trong cuộc sống”5,
Như vậy, tôn giáo ra đời chính là chỗ dựa tỉnh thần của con
người khi con người gặp những khủng hoảng không thể giải
quyết được trong cuộc sống hàng ngày. Nhu cầu này không phải
ngẫu nhiên có, mà do điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội tạo
nên. Nhu cầu này sẽ thay đổi.cùng với sự tiến triển của xã hội và
nó cũng sẽ được biểu hiện khác nhau giữa các tộc người, các nền
Ở mỗi tộc người, mỗi nền văn hóa sẽ có một nhu cầu tôn
giáo khác biệt so với tộc người khác trong nên văn hóa khác. Ví
dụ một tôn giáo cũng sẽ có những biểu hiện niềm tin, hành vi
tôn giáo khác nhau khi nó được truyền sang những nền văn hóa
khác. Nguyên nhân là đo “sự thẩm thấu ” qua bức màn văn hóa
bản địa và bị chỉ phối bởi yếu tô bản địa trong văn hóa tộc
người. Trong lịch sử tôn giáo, mỗi tộc người sẽ có cách biểu
hiện niềm tin tôn giáo theo hành vi văn hóa của mình. Đạo Bàni
ở người Chăm miền Trung Việt Nam là một ví dụ. Khi đạo
_Tslam được truyền bá vào người Chăm miền Trung, một thời
gian sau nó bị chỉ phối bởi những yếu tố bản địa để trở thành
một đạo Bàn: khác xa so với đạo Islam chính thống: hoặc đạo
Phật xuất phát từ Ấn Độ khi truyền sang Trung Quốc, Nhật Bản
và các quốc gia Đông Nam Ắ: cũng bị biến đổi rất nhiều. Sự biến
đổi đó gọi là “bản địa hóa” mà một trong những nguyên nhân
chính là đo văn hóa bản địa của tộc người chỉ phối.
Bên cạnh yếu tố chỉ phối của văn hóa bản địa, ôn giáo còn
bị chỉ phối bởi yếu tỔ không gian và thời gian. Tôn giáo sẽ biến
đổi theo thời gian như trong khoa học Mác-xít người ta chia tôn
giáo thành hai giai đoạn cơ bản là các ôn giáo của chế độ tiên
giai cấp (công xã thị tộc) và các tôn giáo của những xã hội có
giai cấp. X.A. Tôcarev cho rằng, trong xã hội có giai cấp, tôn
269
giáo là công cụ tư tưởng của ách áp bức giai cấp, là sự biện hộ
cho bất bình đẳng xã hội; còn trong xã hội tiền giai cấp, tôn giáo
là sự phản ánh về một tư tưởng, trình độ phát triển nhất định của
nền sản xuất vật chất và thể hiện sự bất lực của Tgười nguyên .
thủy trước hoàn cánh tự nhiên và xã hội quanh họ”T, Còn Robert
Ñ. Beliah thì chia tôn giáo theo loại hình tiến hóa về thời gian,
như /ồn giáo nguyên thủy, tôn giáo tiền sử, tôn giáo lịch sử, tôn
- Tôn giáo nguyên thủy chỉ là những đặc trưng của “thế giới
thần thoại”. Hành động của tôn giáo nguyên thủy là sự tham gia
đồng nhất của cộng đồng cửng hóa thân thành các nhân vật thần
- Tôn giáo tiền sử là sự tiến hóa của tôn giáo nguyên thủy.
Những nhân vật thần thoại lúc này được đặc trưng hóa một cách
rạch ròi, được nhìn nhận là có vai trò trong việc cai quản thế giới
tự nhiên và xã hội của con người một cách chủ động. Hành động
của tôn giáo tiền sử là hình thái cúng tế dành cho các vị thần,
thánh, được nhân cách hóa từ những nhân vật thân thoại trong loại
__~ Tôn giáo lịch sử được biểu hiện rất khác nhau ở mỗi cộng
đồng tộc người. Trong triết lí của tôn giáo lịch sử có xuất hiện
một thế giới siêu nhiên cao hơn thế giới trần tục và nắm quyền cai
quản thế giới trần tục. Nơi đó có một “giáo chủ” vượt ra ngoài
vòng sinh tử và là người sáng tạo, cai quản vũ trụ. Hành động
trong tôn giáo lịch SỬ sẽ mang tính “cứu rỗi” con người, qua đó lại
xuất hiện những tổ chức tôn giáo tách biệt với các tô chức xã hội
thông thường. Tổ chức tôn giáo nhằm hướng con người đến với
phương thức cứu rỗi trong tôn giáo. Tùy thuộc vào từng tôn giáo
?” XA Tôcarev, các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phái triển của chúng, NXB
Robert N, Bellah, “Sự tiến hóa của trong giáo”, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam,
270
28
- Tôn giáo cận đại là sự phân hóa của tôn giáo lịch sử. Nội :
dung tập trung vào mỗi quan hệ trực tiếp giữa các cá nhân với
các thực thê siêu việt. Một số loại hình lễ nghỉ trong tôn giáo lịch
sử bị loại bỏ vì cho rằng “mê tín”, hoặc chuyển thể thành một
hình thức khác giống như lễ “tưởng niệm”. Sau tôn giáo cận đại
sẽ là đồn giáo hiện đại và Robert N. Bellah cho rằng zồn giáo
hiện đại vẫn còn đang nằm trong “bước chuyển” nên chưa thể
Một góc nhìn khác về sự chỉ phối đối với tôn giáo là không
Nghiêm Vạn lại chia tôn giáo thành hai loại là sôn giáo thế giới
và tồn giáo dân tộc. Theo đó, những tôn giáo nào có phạm vi
phát triển vượt ra ngoài quốc gia, nơi nó ra đời và được nhiều
cộng đồng tộc người chấp nhận thì được xem là tôn giáo thế
giới. Hiện nay, các tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Islam,
Tin Lành được xem là đồn giáo thế giới vì nó phát triển rộng
khắp trên thế giới và được nhiều tộc người khác nhau chấp nhận.
Còn các tôn giáo khác được hình thành trong điều kiện của một
xã hội có giai cấp, trong khuôn khổ của những quốc gia nhất
định và những cộng đồng nhất định, không vượt ra ngoài khuôn
khổ đó thì được xem (một cách qui ước) là /ôn giáo dân tộc. Các
tôn giáo đân tộc có thể kế đến như Đạo giáo, Nho giáo (ở Trung
Thái),...””. Bên cạnh đó cũng còn thêm cách phân loại khác như
tôn giáo khu vực, tôn giáo bản địa, tôn giáo mới,... Trong đó,
tôn giáo khu vực là các tôn giáo không gắn chặt với một quốc
gia cụ thể, cũng như với các vị thần cụ thể, các nghỉ thức cụ thể
của cộng đồng tộc người, dân tộc hay địa phương nhất định nảo.
Tôn giáo bản địa là tôn giáo mang sắc thái địa phương, xuất
hiện trong một bối cảnh môi trường thiên nhiên và môi trường
xã hội tại chỗ, trong một thời điểm lịch sử nhất định, của một
271
dân tộc cụ thể và mang đấu ấn kinh tế-văn hóa-xã hội của dân
tộc đó. Tôn giáo bản địa chỉ của Tiêng một bộ phận cư dân trong
dân tộc, tại một vùng đất cụ thể, không lan rộng trên quy mô
toàn lãnh thổ. 7ôn giáo mới gọi chung là “đạo lạ”, “đạo mớT”,
“tạp giáo”,... là các tôn giáo xuất hiện từ thập kỷ 60 của thế kỷ
XX trở lại đây, trong đó có nhiều tôn giáo bị ghi vào “danh sách
đen” của chính quyền nhiều nước vì bị coi là thủ phạm của các
Từ những phân tích trên cho thấy, quan điểm của các nhà
khoa học về tôn giáo là xem tôn giáo như một thành tố của văn
hóa; nên tôn giáo mang tính cộng đồng, tính xã hội, tính văn
hóa”. Tôn giáo sẽ bị chỉ phối bởi bối cảnh, từ bối cảnh văn hóa,
tộc người, xã hội đến bối cảnh không gian, thời gian,... và tôn
giáo sẽ khác nhau ở mỗi giai đoạn. lịch sử, ở mỗi vùng, mỗi đân
tộc, mỗi quốc gia,... kể cả tôn giáo có cùng nguồn gốc xuất phát.
yếu tố, từ yếu tổ văn hóa của cộng đồng-xã hội đến yếu tố tự
Do đó, nghiên cứu tôn giáo, nhất là nghiên cứu tôn giáo
đưới góc độ văn hóa, thì vấn đề bối cảnh luôn được người
người, giữa các nền văn hóa sẽ tạo nên sự khác nhau về niềm
tín và hành lễ tôn giáo, kể cả tôn giáo có cùng một nguồn gốc
phát sinh.
các nhà khoa học thường quan tâm như đân tộc hóa, ốa dạng
hóa, hiện đại hóa, thế tục bóa, tôn giáo mới,...
?® Đặng Nghiêm Vạn, 1í luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, NXB
272
* Dân tộc hóa tôn giáo: Là sự vận dụng tôn giáo theo lăng
kính văn hóa và tâm lí riêng của dân tộc mình, làm cho tôn giáo
ấy ngày càng mang sắc thái dân tộc hóa. Xu hướng này thường
diễn ra đối với các tôn giáo thế giới như Phật giáo, Công giáo,
Islam,... vì nhiều đân tộc tuy cùng theo một tôn giáo, nhưng khi
đón nhận tôn giáo ấy, mỗi dân tộc đều có đời sống văn hóa và
iâm lí riêng, vì vậy khi tôn giáo “thấm” qua “tắm màng lọc” của
văn hóa và tâm lí dân tộc đó, tôn giáo sẽ mang dấu ấn của văn
hóa dân tộc đó và tạo ra sự khác biệt, như Phật giáo của người
Việt khác so với Phật giáo của người Hoa, hoặc Phật giáo của
người Khmer,...
* Đa dựng hóa tôn giáo: Là trong một tộc người, một quốc
có nhiều tôn giáo và xuất hiện sự chuyển đổi tôn giáo, chuyển
_ đổi niềm tin tôn giáo của nhóm người hoặc một tộc người. Một
chuyển đổi tôn giáo là đo sự tác động của yếu tố toàn cầu hoá,
bởi không gian xã hội được mở rộng, sự tiếp xúc văn hoá giữa
các tộc người ngày càng gia tăng. Điều đó làm cho nhiều tôn
giáo xuất hiện trong một tộc người hay một quốc gia. Sự đa
dạng này có thể dẫn đến sự chuyển đổi tôn giáo, khi tôn giáo nào
đó không còn phù hợp với nhu cầu hiện tại của người dân sẽ bị :
* Hiện đại hóa tôn giáo: Hiện đại hoá là một quả trình lịch
sử khởi nguồn từ châu Âu, được bắt đầu với cuộc cách mạng
công nghiệp, sau đó lan rộng ra các khu vực khác và trở thành
trào lưu chung của thế giới. Để thích ứng với quá trình hiện
đại hoá, các tôn giáo đã có sự thay đổi. Đặc điểm và lịch sử
phát triển của các tôn giáo không giống nhau nên phương,
thức, nội dung của tính hiện đại hoá cũng khác nhau, song
nhìn chung đều thê hiện tính cơ bản là thay đổi hoặc giảm bớt
hay hạn chế những điều bị xem mê tín, hủ tục, những kiêng cử
phiền toái, những giáo luật phiển hà,... Những thay đổi đó
273.
{
được biểu hiện cụ thể qua sự thay đổi qua các mối quan hệ `
bên trong (như về nội dung giáo lí và việc giải thích giáo lí, về
các quy định của giáo luật, về hình thức lễ nghi và việc thực
hành nghỉ lễ, về cơ cầu tô chức và sinh hoạt của tôn giá) cũng
như các mỗi quan hệ bên ngoài (như thái độ của tôn giáo với
các vấn đề xã hội, về quan hệ với các tôn giáo khác và những
* THỂ tục hóa tôn giáo: Đây được xem là những hành vi
nhập thế của mợi tôn giáo bằng cách tham gia vào những hoạt
động xã hội như giáo dục, y: tế, từ thiện, chống bất công xã hội,
hướng thế tục hóa trong tôn giáo như công tác từ thiện, hoặc các
rỉ sư, nữ tu tự nguyện tham gia chăm sóc bệnh nhân nhiễm HTV/
AIDS, bệnh nhân phong, lao phổi... .. Các tôn giáo còn mở tình
thương, nhà mở để chăm sóc trẻ mỗi côi, TBười già neo đơn,...
Xu thế thế tục hóa còn biểu hiện qua các hoạt động tổ
chức lễ cầu siêu, cầu an, cầu nguyện cho chúng sanh hoặc vì
sự hòa bình của thế giới, nhân loại. Những buổi lễ này không
hắn được qui định trong theo giáo lí hay giáo luật; chủ yếu
xuất phát từ những bắt an, bất trắc trong cuộc sống mà nhân loại
* Xuất hiện các tôn giáo mới: Theo phân định” „ các tôn
giáo hoặc các hiện tượng tôn giáo xuất hiện từ cuối thập kỷ 60
của thế kỷ XX trở lại đây được xem là tôn giáo mới. Nguyên
nhân Tả đời của tôn giáo mới là do những biến động của xã hội,
như vấn đề khủng hoảng kinh tế, chính trị, đới kém, mắt mùa,
thiên tai dịch bệnh,... Thông thường, tôn giáo mới ra đời đều
3?! Đã Quang Hưng (2001), “Hiện tượng tôn giáo mới: mấy vấn đề huận và thực
274
dựa trên nền tảng có sẵn của các tôn giáo trước đó, bồi đắp thêm
các yêu mang tính thời đại để tăng thêm sự mới mẽ nhằm thu
hút sự chú của mọi người. Các tôn giáo mới thường bị xem là
“tà giáo”, vì tính “chính thống” chưa được đông đảo cộng đồng
dân cư cũng như chính quyền công nhận. Các tôn giáo này đôi
khi có những phương hướng hoặc giáo lí trái với xu hướng phát
triển của nhân loại, như việc sử dụng khí độc để hại người của
Như vậy, tôn giáo hiện nay diễn ra theo nhiều xu hướng.
Phụ thuộc vào vấn đề của người nghiên cứu để có thể tiếp cận
theo các xu hướng khác nhau nhằm biểu thị tính đa chiều của
xã hội.
NHÂN HỌC
giáo, điểm chung là các lí thuyết đều nhấn mạnh phải nghiên
cứu tôn giáo như là một phần của tổng thể xã hội, văn hóa, kinh
tế, chính trị. Nghiên cứu tôn giáo, một bộ phận đặc thù của văn
hóa, cần đặt trong mỗi tương quan với các vấn đề văn hóa, đồng
thời cũng cần xét đến ¿ính riêng biệt trong từng khu vực, từng
tộc người. Khi nghiên cứu về tôn giáo, các nhà nhân học thường
Có thê nói, tôn giáo ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của cá
nhân hoặc cộng đồng xã hội loài người. Do đó, nghiên cứu tôn
giáo dưới góc độ chức năng, cần phải tìm hiểu tôn giáo đã đem
đến chức năng gì cho con người và xã hội. Trong lí thuyết chức
năng có hai quan điểm là cước năng tâm lí và chức năng xã hội.
Tùy theo mỗi quan điểm, người nghiên cứu sẽ tìm hiểu, phân
tích tôn giáo dưới chức năng mà nó sẽ đóng góp. Trong đó:
275
- Chức năng tâm lí của tôn giáo: Tất cả các tôn giáo đều cố
gắng làm thỏa mãn, đáp ứng được nhu cầu tâm lí của tín đồ. Đó
là chỗ dựa tỉnh thần khi con người gặp khủng hoảng trong cuộc
sống mà không thể giải quyết được bằng khoa học và công nghệ.
Chức năng tâm lí của tôn giáo là làm giảm sự lo lắng bất an cho
con người, giữ cho họ có được niềm tin để có thể đối mặt với
thực tại. Ngoài ra, tôn giáo cũng lãnh nhiệm vụ giải thích về cái
chết cũng như về cuộc sống sau khi chết, nhằm trấn an, hướng
- = Chức năng xã hội của tôn giáo: đó là sự đóng góp vào vai
trò củng cố các quy tắc, tiêu chuẩn của cộng đồng, đưa ra những
chuẩn mực luân lí đạo đức đối với cách cư xử của cá nhân trong
cộng đồng, đồng thời cũng trang bị nền tảng về các giá trị và
mục đích chung để cho cộng đồng xã hội được cân bằng và ôn
định. Về chức năng xã hội của tôn giáo, Durkheim nhắn mạnh
sự tương tác xã hội phải được hiểu một cách có hệ thống, không
phải bằng những tập tục riêng lẻ tách ra khỏi bối cảnh chung.
Hành vi xã hội là hành vi được học hỏi và được quyết định bởi
những tập tục truyền thừa bên trong truyền thống xã hội.
Durkheim chấp nhận những tín điều và cách thực hành của tôn
giáo, xem sự hiện hữu của những tín điều và khuôn mẫu hành vi
bắt buộc đó trước khi một tín đồ được sinh ra và tồn tại độc lập .
với cá nhân, bất kể ý muốn riêng. Như vậy khi con người tuân
theo những đòi hỏi của xã hội, những cưỡng bức của nó có thể
luân lí sẽ được thi hành bởi sự chế giễu của công luận và luật
pháp sẽ được thực thi bằng sự trừng phạt chính thức, hoặc trấn
cần phải tìm hiểu sâu về giáo lí, giáo điều, quan điểm và cách
thực hành tôn giáo của tín đồ; trong đó chú trọng đến các nghi
thức cũng như hành vi tôn giáo của tín đồn như cầu nguyện, hát
276
lễ, vũ đạo, lời thỉnh cầu, hiến tế,... Do bởi, thông qua các nghỉ
thức cũng như hành vi tôn giáo, con người cố gắng chỉ phối, tác
động vào các thế lực siêu nhiên để cầu mong sự giúp đỡ; hoặc
tìm ra các qui ước được vận dụng trong xã hội tộc người. Đó
Thiết chế tôn giáo có nơi, có lúc đã được xem là một thế lực
lớn mạnh, khuôn đúc thái độ và giá trị của con người. Hệ tư
tưởng của tôn giáo bao gồm truyền thuyết về sự sáng tạo sử
dụng những biểu trưng về giới và những nguyên tắc tôn giáo
có khuynh hướng tách biệt vai trò của phụ nữ và nam giới
trong xã hội. Sự phân chia lao động theo giới trong cấu trúc xã
hội cũng tác động đến sự phân biện giới trong tôn giáo.
Nghiên cứu vấn để này, các nhà nhân học thường quan tâm
đã chứng minh cách thức biểu tượng giới của một nền văn hóa,
trọng đó thể hiện vai trò của nam và nữ; như trong xã hội mẫu hệ
và trong xã hội mà địa vị phụ nữ thấp hơn nam giới, yếu tố nam
thần trong tôn giáo được nhấn mạnh và đề cao. Trong xã hội mà
vai trò của nam và nữ bình đẳng trong đời sống hàng ngày, yếu
tố nữ thần trở nên nỗi trội; điều này được thể hiện qua các câu
lĩnh về sinh sản, sáng tạo và tiễn hóa,... Còn trong những xã hội
do nam giới thống trị, những øì liên quan đến phụ nữ gần như
không xuất hiện trong yếu tế thần linh, hoặc nếu có thì bị xem là
Tuy nhiên, những điều nhận định trên cũng không thật chính
xác và cũng không thể mang tính phổ quát khi nghiên cứu về tôn
giáo. Do đó, người nghiên ¿cứu cần đặt vấn đề trong từng bối
cảnh văn hóa, từ tộc người, từng khu vực, cũng như từng thời kỳ
277
- Giới trong thiết chế tôn giáo. Trong các tôn giáo, thường
phụ nữ bị loại ra khỏi những vai trò quan trọng trong thiết chế,
hay bị hạn chế thực hiện các nghỉ lễ trong tôn giáo. Nếu để phụ
quan trọng hơn so với những nghỉ lễ tôn giáo đành cho nam giới
đảm trách. Vì thế, để biểu thị việc đề cao vai trò chính trị, kinh tế
của nam giới trong xã hội, ở khu vực Nam Mỹ, cao nguyên New
Guinea hoặc ở thổ dân châu Úc có những nghỉ. lễ chỉ dành cho
nam giới. Phụ nữ bị cắm tham gia, thậm chí bị cấm quan sắt nam
giới thực hiện các nghỉ lễ tôn giáo. Tuy nhiên, vẫn có nghỉ lễ
riêng dành cho phụ nữ. Điều này, thể hiện sự thống lĩnh của nam
giới trong xã hội. Ở người Việt cũng vậy, nghỉ thức cúng kiếng
linh thần ở đình chỉ dành cho nam giới; phụ nữ chỉ được quan
sát, hoặc chỉ thực hiện nghỉ thức phụng cúng ở miếu nữ thần.
Hay trong xã hội của Islam, phụ nữ không có vị trí đặc biệt nào
trong tổ chức tôn giáo, thậm chí họ còn không được bước vào
trung tâm của Thánh đường để cầu nguyện mà phải cầu nguyện
của người phụ nữ có thể thực hiện những nghỉ lễ tộn giáo, như
trong shaman giáo, phụ nữ có thể đảm nhận vai trò quan trọng
tôn giáo liên quan đến vấn đề giới. Tuy nhiên, những gợi ý này
cũng không phải là phổ quất mmà chỉ mang yếu ví dụ điển hình.
Người nghiên cứu cần phải đặc vấn đề trong mối liên hệ với lịch
SỬ, văn hóa — xã hội của từng { tộc người, từng khu vực cụ thể. Từ
đó, vẫn đề mới được giải quyết một cách thuyết phục hơn.
trong tôn giáo, có nhiệm vụ nhất định được qui trong tôn giáo
đó. Những qui định này không giống nhau trong các tôn giáo; và
những thực thể siêu linh ấy cũng có giới tính khác nhau (nam,
nữ) như trong xã hội của con người. Nam thần, nữ thần có vai
278
trò và vị trí cao thấp trong thế giới siêu linh đều phụ thuộc vào
xã hội tộc người mà tôn giáo đó đang tồn tại. Như, trong xã hội
mà phụ nữ phụ thuộc vào nam giới, thần linh trong tôn giáo
thường nghiêng vẻ giới tính nam nhiều hơn. Ngược lại, các nữ
thần có khuynh hướng nỗi trội hơn, khi trong xã hội tộc người
mà phụ nữ là lực lượng lao động chính của nền kinh tế. Những
xã hội như vậy cũng phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, phần lớn
hoặc là tất cả công việc đều do phụ nữ đảm nhiệm. Lúc đó, nữ
thần thường có vai trò trung tâm trong các nghỉ lễ tôn giáo; và
chú trọng đến các ý niệm về ánh sáng, tình yêu, sự màu mỡ và
dụ tiêu biểu về vai trò của nữ thần được đề cao trong lễ hội tôn
giáo. Bà được xem là chìa khóa của sự thành công về các hoạt
động kinh tế cũng như là sự phù trợ cho đường sanh nở, nuôi
Như vậy, nghiên cứu về tôn giáo với chủ đề giới, người
nghiên cứu có thể xem xét đến nhiều khía cạnh trong việc biểu
hiện của tôn giáo như giới trong thiết chế, trong vai trò thần linh
và cả trong biểu tượng của tôn giáo. Điều quan trọng là đặt vấn
đến đó trong từng bối cảnh văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị của
từng tộc người cụ thể; vì những điều này chính yếu tố hiện thực
được phản ánh trong tôn giáo của các tộc người.
cơn người nhằm biểu hiện một cách trực quan, sinh động nhất về
quan điểm, giáo lí của tôn giáo đó. Vì vậy, nghiên cứu nghỉ lễ
tôn giáo, sẽ giúp làm sáng tỏ quan điểm giáo lí tôn BIÁO..
Nghi lễ tôn giáo được thực hiện với tư cách cá nhân, nhưng
cũng có thể thực hiện dưới hình thức cộng đồng. Nghỉ lễ tôn
giáo khi được thực hành thường găn liền với một thực thể siêu
linh hay một thế giới vô hình nào đó liên quan đến niềm tin tôn
giáo hoặc do tôn giáo qui định. Nghí lễ tôn giáo có thể là những
279
nghỉ lễ liên quan đến đời người, như nghỉ lễ chuyển đổi (rites of
pASSag©), cúng tế; hoặc những nghỉ lễ liên quan đến cộng đồng
như cầu an, cầu siêu... hay những nghỉ lễ tuân thủ theo chu kỳ
thời gian như lễ chuyển mủa, tết, các ngày vía,... Nghĩ lễ có tác
dụng dân con người đến với đối tượng họ thờ cúng, đến với tôn
giáo và ngược lại dẫn thế giới siêu linh trong tôn giáo đến với
con người? .
Nghiên cứu về nghỉ lễ tôn giáo, các nhà nhân học thường
cá nhân — là đối tượng thụ hưởng của nghỉ lễ. Với chủ đề này,
người nghiên cứu sẽ quan tâm đến các nghỉ lễ được diễn tra
trong suốt cuộc đời của con người, kế từ lúc còn năm trong bụng
mẹ đến khi sinh ra và mất đi. Khi nghiên cứu mỗi nghi lễ trong
vòng đời người, cần phải phân tích và tìm hiểu vai trò của nghỉ
lễ đối với cá nhân thụ hưởng nghỉ lễ đó là gì? Và tại sao phải
nghi lễ liên quan đến đời người. Nghiên cứu nghỉ lễ chuyển đổi
khác với nghiên cứu nghỉ lễ vòng đời người; đo bởi nghỉ lễ vòng
đời người mang tính cá nhân và xác định vai trò của nghỉ lễ đối
với cá nhân đó; còn nghỉ lễ chuyển đối không chỉ mang tính cá
nhân mà còn mang tính cả cộng đồng và xét đến sự chuyển đôi
vị thế xã hội của cá nhân cũng như cộng đồng trong xã hội đó.
Ví dụ, hôn lễ được diễn ra nhằm đánh dẫu sự chuyển đổi vị thế
xã hội của đôi nam — nữ từ độc thân sang thành những người có
gia đình, từ đó vai trò và địa vị của họ trong xã hội sẽ khác so
với trước khi kết hôn. Không chỉ địa vị của hai người này thay
đổi, mà địa vị của cha/mẹ của người này cũng thay đổi; đó là
bước vào vị trí mới — vị trí có sui trong xã hội; rồi dòng họ của
280
Tườn
Nghiên cứu nghỉ lễ chuyển cần phải quan tâm đến quan
yếu tố này sẽ là vấn đề quan trọng để phân tích các nghỉ thức
diễn ra trong chuỗi nghỉ lễ chuyển đổi, như khi nào được xem là
định sự thay đổi trong vị thế xã hội của cá nhân và cộng đồng
dành cho cá nhân và cộng đồng. Nghỉ lễ này được thực hiện
trong thời kỳ khủng hoảng hay biến cố lớn nào xây ra đối với cá
nhân hoặc cộng đồng: hoặc cũng có thể được tổ chức theo chu
kỳ thời, chu kỳ đời người,... Mục đích của việc thực hiện nghi lễ
này là giúp cho các nhân hoặc các thành viên trong cộng đồng
được tăng thêm sức mạnh để vượt qua những khó khăn mà họ
đang gặp phải; có được tỉnh thần lạc quan hơn sau nghỉ lễ,
Điều này có thể nhận thấy qua /ễ hội Pơilii (lễ bỏ mả) của
một số tộc người ở khu vực Trường Sơn — Tây Nguyên. Sự kiện
cộng cảm sẽ làm tăng sự đoàn kết cộng đồng, Cùng cũng cố
niềm tin vào lực lượng siêu nhiên; do cùng chia sẻ một tâm thức
tôn giáo, nên thể hiện được tính cộng cảm của cộng đồng. Đây
được xem là “chất keo” kết gắn, đoàn kết cộng đồng và làm tăng
sức mạnh cộng đồng. Thông qua các nghi thức trong nghỉ lễ giúp
cộng đồng có an tâm đễ vượt qua trong những trường hợp căng
chủ yếu dựa vào các điều kiện của tự nhiên và thường gặp
những rủi ro như hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,... con người càng
tin vào sự bảo trợ của thần thánh; từ đó làm cho bản thân của
281
con người trở nên yếu kém so với thế lực siêu nhiên, nên càng
phải cầu viện đến thần thánh để tăng thêm sức mạnh. Do đó,
nghiên cứu dưới khía cạnh này, cần phải chú trọng đến các mối
tương tác trong bối cảnh kinh tế - xã hội cụ thể để tìm ra ý nghĩa
của nghỉ lễ. Sự tăng cường sức mạnh trong nghi lễ không chỉ
được phân tích qua các nghỉ thức, bí tích của nghi lễ mà còn chú
trọng đến hình thức tham gia của cộng đồng, sự qui tụ của cộng
* Các nghỉ lễ liên quan đến các đẳng thiêng lông rong
tôn giáo: Thông thường, bất cứ tôn giáo nào cũng gắn liền với
một hay nhiều đẳng thiêng liêng. Các đẳng thiêng liêng này có
sứ mệnh sáng lập nên tôn giáo đó, hoặc được tôn giáo đó lựa
chọn để trở thành “thần chủ” trong tôn giáo. Như vậy, tín đề của
tôn giáo có nhiệm vụ phải tôn kính, sùng bái và thực hiện những
nghỉ lễ liên quan đến các đắng thiêng liêng này. Chúng ta rất dễ
để nhận thấy các nghỉ lễ trong tôn giáo liên quan đến các đẳng
thiêng liêng này, như Phật đản, Giáng sinh, vía Ngọc Hoàng
Thượng Đế, ví ông Bổn, vía Bà Chúa xứ,... Nghiên cứu loại
hình nghỉ lễ này sẽ thấy được vị trí, vai trò, cũng như sự chỉ phối
cửa các đắng thiêng liêng đó đối với cộng đồng tín đề.
Tóm lại, chủ đề nghiên về tôn giáo trong nhân học rất đa
dạng: và mục tiêu nghiên cứu của các chủ đề này đều hướng đến
con người và xã hội tộc người. Nghĩa là tôn giáo có vai trò, vị
trí, chức năng gì đối với con người và xã hội loại người ở hiện
Trong những công việc lao động thời nguyên thủy, con
người hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên, do vậy cuộc sống rất
282
bắp bênh và con người ở giai đoạn này cần phải chờ đợi sự giúp
đỡ của thần linh. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên dẫn
tới mối quan hệ giữa con người với thần linh, và được biểu hiện
qua hành vi tế tự, cúng bái,. Ở xã hội nguyên sơ, con người
không thể không có cái nhìn vô thần. Đối với họ, mọi thức trong
tự nhiên đều có linh hồn và có khả năng chỉ phỗi đến đời sống
của con người. Đó chính là quan điểm về vạn vật hữu linh.
Chính vì thế, con người có hình thức thờ cúng và quan tâm đến.
(thần giữ đất) dưới dạng hòn đá trong ngôi miễu nhỏ. Có thể đầy
là đạng tín ngưỡng bắt nguồn tục thờ đá cổ xưa của cư đân Đông
Nam Á. Hiện nay, được lồng ghép với tín ngưỡng thờ Thổ địa
của người Việt, nên hòn đá có thêm hình tượng thân giữ đất (ông
Tà). Hàng năm người Khmer tiến hành nghỉ lễ cúng Ông Tà
(qua hình tượng hòn đá) rất trọng thể tại miễu thờ, nhằm cầu cho
mưa thuận, gió hòa, thời tiết thuận lợi cho hoạt động nông
* Thờ vật tỗ
_ Thờ vật tổ hay còn gọi là 1ôtem giáo, là dạng thờ cúng của
cộng đồng, vì đối tượng được thờ cúng liên quan đến nguồn gốc
của một tộc người hoặc một dòng họ nào đó của tộc người. Do
bởi mỗi nhóm đều tin vào mối quan hệ họ hàng thần bí của mình
với một loại đối tượng vật chất nào đó, thường là động vật hoặc
thực vật. Nên, mỗi tộc người, hoặc mỗi dòng họ có zổ/em riêng
nghỉ thức thờ vật tổ. Đó là vật thể đá mang tên churinga, được .
cho là vật thể hữu hình của linh hồn mỗi con người. Người
đi tìm nguồn sống trong những ngày đầu khởi nguyên vũ trụ.
Hay một số tộc người thiểu ở thờ vật tổ, như Bàn Vương của
người Dao, chim Nọc táng lò của người Thái, hoặc cá sâu của
người Chơ-ro,...
283
Mối liên hệ con người với tồem thường được thể hiện ở sự
cắm giết #6em hoặc cắm dùng zđ/em làm thức ăn, nhưng cũng
cho cá nhân hoặc cộng đồng. Nghỉ lễ dành cho tôtem thường
mang yếu tố “cung phụng” và gắn liền với ma thuật; và hun đúc
- * Shaman giáo
Thuật ngữ szzman dùng để chỉ một “nhân vật đặc biệt? có
khả năng nhập thần để tiếp kiến thần linh hỏi cách chữa bệnh,
cầu sự sinh sôi nảy nở, cầu xin được bảo vệ trong chiến tranh,
cầu hướng dẫn linh hồn người chết,... Søzzaw: có thể cộng sinh
với một tôn giáo cụ thể nào đó để thực hiện hành vi tôn giáo của
mình; hoặc cũng có thể xem là một dạng tôn giáo độc mà
shaman là nhân vật trung gian để thần linh “nhập” vào thực hiện
các hành vi tôn giáo đối với tín đồ. Các hành vi thường thấy của
shaman là trừ tà, chữa bệnh, ban phúc,... Đi kèm với shaman là
ma thuật. Đây là một dạng hành vị “mượn” sức mạnh của siêu
nhiên để đạt được mục đích nhất định. Người có thể thực hiện
“căn duyên”, và “được chọn”, trong đạo Mẫu ở Việt Nam gọi là
“cơ đày”. Cuốc sống của họ thường phải qua những điều bất
kinh tế, sức khỏe không bình thường,... Sau những biến cố đó,
họ trở thành “như con người khá”, sống tâm linh hơn và trở
thành shaman.
Shaman giáo thường mang đâu ấn của văn hóa tộc người,
thể hiện sắc thái văn hóa truyền thống thần bí cỗ xưa của mỗi tộc
người; và có thể xem đó nhự là bản sắc đặc trưng của văn hóa
†ỘC người.
Niềm tin về sự tồn tại của linh hồn sau cái chết xuất hiện từ
xa xưa. Cùng với việc thờ cúng tôtem, việc tin và thờ cúng linh
284
hồn sau khi chết được hình thành; đặc biệt là thờ cúng linh hồn
của tổ tiên trong gia đình, đòng họ. Niềm tin vào sự tồn tại của
linh hồn tổ tiên được nhiều tộc người trên thế giới thể hiện. Các
tộc người ở châu Phi, linh hồn tổ tiên được cư xử như người
sống: có thể cảm thầy nóng, lạnh, đau khổ,.. . và có thể bị chết
lần thứ hai nếu thi thế bị hỏa táng hay bị đìm xuống nước. Hoặc
các dân tộc ở Trường Sơn — Tây Nguyên, linh hồn của người
còn được chăm sóc như người sông, được chia tài sản, được cho
Việt ở Việt Nam thờ cúng linh hồn tổ tiên rất chu đáo. Họ sắp.
đặt bàn thờ rất trang nghiêm đề thờ, cúng. Người Việt còn xây
Khi tin có sự tồn tại của linh hồn, người fa cũng xây dựng
nên thế giới để các lĩnh hồn đó trú ngụ. Các tộc người ở Trường
Sơn — Tây Nguyên cho rằng, linh hồn của tổ tiên sông ở trong
rừng, gọi là rừng ma. Người dân không được động đến rừng đó
vì động đến sự yên nghỉ của linh hồn fỔ tiên. Người Việt liên
tưởng đến Suối vàng hoặc chín suối (cửu tuyển) là nơi linh hồn
của ông bà, tổ tiên ngự trị. Bàn thờ cũng như ngôi thờ tự ở trần
thế là nơi ông bà, tô tiên đi về thăm viêng con cháu, phù hộ cho
con cháu.
Chính niềm tin đó đã dẫn đến việc thờ cúng tổ tiên ở nhiều
tộc người với nhiều hình thức khác nhau, tùy theo từng quan
Tôn giáo bản địa ở Việt Nam có thể kể đến là những tôn
giáo do người Việt sáng lập nên tại vùng đất Nam Bộ từ thế ki
Đây được xem là tôn giáo bản địa có ảnh hưởng lớn đến lịch
sử chính trị, tôn giáo tại khu vực Nam Bộ vào giữa thế ký XIX.
285
Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời vào năm 1849 do Đoàn Minh Huyền,
người đân tôn xưng là Đức Phật Thây Tây An, khởi xướng.
Khi tôn giáo này ra đời, tình hình chính trị-xã hội ở vùng
Tây Nam Bộ đã được thiết lập theo kiểu nhà nước nhưng vẫn
chưa vững chắc, vì đây vẫn còn là vùng đất hoang hóa, cầẦn được
khai phá. Cư dân từ miền Trung và các tỉnh vùng Đông Nam Bộ
vẫn đang tiếp tục Nam tiến để xây làng, lập ấp. Tuy nhiên, quá
trình khai hoang của lưu đân không gặp thuận lợi vì phải đối mặt
với địch bệnh, mắt mùa, đói rét, thú đữ,... đã làm cho nhân tâm
bị xáo trộn.
thật là Đoàn Văn Huyên, người làng Tòng Sơn, Cái Tàu thượng,
học trò của Thiền sư Hải Tịnh,” đã trổ tài trị bệnh giúp dân. Từ
chỗ trị bệnh có kết quả, ông đã khuyên được nhiều bệnh nhân và
người thân của họ sửa cải tánh tình, biết điều nhân nghĩa, ngay
thảo với mẹ cha, kính thờ Trời Phật,... Người dần tin và theo
_ông ngày một đông. Đến năm 1849, ông sáng lập ra đạo Bửu
gia nhập Bửu Sơn Kỳ Hương được phát cho một /òng phái” đề
Kế từ khi lập đạo cho đến ngày mắt, ông đã dẫn tín đồ của
_ mình đến vùng Thất Sơn và Láng Linh để dựng chùa, khẩn
hoang, lập trại và truyền bá tôn giáo. Trong quá trình đi rao
giảng tôn giáo của mình và rị bệnh cho dân bằng những hình
33 Theo Địa chí An Giang, tập 2, UBND tỉnh ấn hành, 2007, tr, 220.
3 Theo Địa chí An Giang, tập 2, UBND tỉnh ấn hành, 2007, tr. 229,
3 Tòng phải là một miếng giấy vàng, có khi giấy bạch, trên đó có in bốn chữ Bửu
Sơn Kỳ Hương bằng son tàu. Người nhận lãnh in tưởng là nhờ Lòng phái sẽ
được mạnh khoẻ, tránh được tà ma, tai nạn; nên họ giữ gìn cần thận và luôn mang
-286
thức kỳ lạ như cho bệnh nhân uống nước lã, uống nước tro giấy
vàng bạc, ăn bông hoa cúng Phật,... nên bị nhà cầm quyền nghỉ
ngờ là hoạt động chính trị hoặc là tà đạo. Do đó, ông bị bắt giam,
tại chùa Tây An. Đến năm 1856, ông mất tại đây.
Sau khi ông mắt, đệ tử của ông là Trần Văn Thành (1820-
1873), là Chưởng Quản cơ trong quân đội, tiếp tục công việc
quản lí tín đỗ trong tôn giáo của ông. Nhưng vào thời gian này,
quân Pháp đã chiếm 6 tỉnh Nam kỳ, phong trào kháng Pháp lan
truyền khắp nơi, trong đó có phong trào Cần Vương đang thu
hút được sự chú ý của nhân sĩ yêu nước. Ông Trần Văn Thành
đã hưởng ứng lời kêu gọi của phong trào Cần Vương, nên đã
vận đồng đồng bào, tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương cùng binh lính
của mình đến khu vực Láng Linh —- Bảy Thưa (An Giang) để
xây dựng căn cứ, phất cờ khởi nghĩa kháng Pháp. Phong trào lấy
hiệu là 8a» Gia Nghị, nhưng không được bao lâu thì thất bại.
Sau cuộc khởi nghĩa của Trần Văn Thành, tín đồ Bửu Sơn
Kỳ Hương bị Pháp truy nã khắp nơi, nên tôn giáo này đã không
thể tiếp tục phát triển được nữa. Danh Từ Bứu Sơn Kỳ Hương
cũng không được đề cập ở giai đoạn sau này, vì muốn tránh sự
_ truy lùng của quân đội Pháp, Hiện nay, tín đồ của Bửu Sơn Kỳ
sáng lập vào năm 1867 tại Ba Chúc, huyện Tri Tôn, An Giang.
Ngô Lợi tên thật là Ngô Viện, sinh năm 1831 mất năm
1890. Ông được người trong đạo tôn xưng là Đức Bổn Sư hay
ông Năm Thiếp. Ông sinh ra trong một gia đỉnh nông đân tại Mỏ
Cày, Bến Tre. Tương truyền, từ nhỏ cho đến lúc trưởng thành,
287
ông chỉ là một người bình thường, không có biểu hiện gì đặc biệt
cho đến năm 20 tuổi. Sau đó, tự dưng ông viết quyền Bà La Ni
Kinh vào năm 1851. Ngày 5 tháng 5 năm Đỉnh Mão (năm 1867),
bổng nhiên ông bất tỉnh và 7 ngày 7 đêm sau đó ông tỉnh lại, trở
thành người "giải thoát tây trần tâm, giáo nhơn tùng thiện đạo"
(rõ sạch lòng trần, dạy người theo đạo lành)". Tù đó về sau,
ông thường hay có những đợt bất tỉnh như vậy, người dân gọi là
đi Thiếp, niên ông có biệt danh là Năm Thiếp. Tương truyền, sau
mỗi lần đi Thiếp, ông thường tỉnh lại nói những việc quá khứ và
đoán định việc tương lai, đo đó mà có nhiều người tin theo ông.
Ông cùng với tín đồ của mình đến xã An Lộc, tổng An Lương,
tưởng truyền đạo của ông theo thuyết học Phật tu nhân, báo đáp
tứ ân, hành xứ theo thập nhị giáo điều". Ông cũng chủ trương
khai đàn qui tụ hơn 200 người để nghe giảng thuyết về “Hội
Long Hoa” và tuyên bố “Đời Minh Hoàng được thành lập”, nếu
-ai không theo sẽ bị thú đữ trong rừng ăn thịt.” Sau đó đến ngày
- 30 tháng 4 năm 1878, ông lại tổ chức cuộc lễ trai đàn lần hai,
Các cuộc trai đàn được diễn ra nhằm mục đích khơi dậy lòng
yêu nước của nhân dân và xây dựng lực lượng để tiến hành
kháng Pháp. Do đó, trong đợt khai đàn lần hai, ông đã phong
cho ông Võ Văn Khả làm Chánh tướng và Lê Văn Ong là Phó
tướng để cùng ông lãnh đạo công cuộc kháng Pháp. Tuy nhiên,
phong trào kháng Pháp của ông đã bị thất bại, kết quả là ông
bắt và xử chém trong cuộc nổi đậy vào ngày 2 tháng 5 năm
1878. Sau đó, ông Ngô Lợi cùng với nghĩa quân của mình ẩn về
3? Đạo Tứ Ân Hiểu Nghĩa với phong trào không Pháp, Nam Bộ xưa và nay, NXB
288
căn cứ của đạo tại làng An Định °Š và tiếp tục sự nghiệp kháng
Ngô Lợi mất vì bệnh tại thôn An Hòa, gần Núi Tượng, thọ 59
tuổi. Sau khi ông mất, phong trào kháng Pháp do ông khởi
xướng cũng tan rã theo. Tín đồ của ông quay trở lại con đường
hành đạo theo tôn giáo của Tứ Ân Hiếu Nghĩa, không còn quan
- Nghĩa chú trọng phát triển Phật giáo theo hình thức cw s?, nghĩa
là tín đồ không cần “ly gia cắt ái” hay “đầu tròn áo vuông”, tín
đồ mặc áo vạt hò, quần lá nem, bới tóc hoặc để xõa tự nhiên và
tu đâu cũng được,.. -Ít quan tâm đến giáo lí mà chủ yếu lẫy Học
Tôn chỉ của Tứ Ân Hiếu Nghĩa gồm 7; nhân (thể hiện qua
Ngoài việc kính thờ trên, tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa CÒn Xem
trọng chữ Hiếu (hiếu thảo với ông bà tổ tiên), việc Nghĩa (nghĩa
vụ với đất nước, đồng bào và nhân loại) và lo học Phật (học
những điều Phật dạy chủng sanh nhằm để được giảm “tội,
Đạo Cao Đài tên đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, là một
tôn giáo có tính dung hợp được thành lập vào năm 1926 tại
Tây Ninh. Khác với các tôn giáo bản địa khác tại Nam Bộ,
đạo Cao Đài do một nhóm người sáng lập và được xem là đệ
?® Ngô Lợi cùng với tín đồ của mình đã khai hoang là lập được bốn làng, gồm An
Định (1876), An Hỏa (1882), An Thành (1883), An Lập (1887). Các làng này
nay thuộc thuộc thị trấn Ba Chúc, huyện Trï Tôn, An Giang.
289
tử trực tiếp của Ngọc Hoàng Thượng Đề. Những đệ tử này
gồm Ngô Văn Chiêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao
Đạo Cao Đài xây dựng niềm tin về „guôn gốc vũ trụ và con
người rât dễ hiểu. Giải thích về nguồn gốc vũ trụ, đạo Cao Đài
dựa trên nền tảng triết học phương Đông để đưa ra quan điểm về
vũ trụ. Theo đó, vũ trụ khởi thủy từ một khối hỗn mang, gọi là
Thái cực, từ Thái cực sinh Luỡng nghị, rồi sinh Tứ tượng, hình
thành nên Bát quái và từ đó sinh ra vạn vật trong trời đất. Cao
Đài luôn hướng đến yếu tố qui tam giáo, hiệp ngũ chỉ đề giải
thích cho sự tạo tác vũ trụ và hình thành tư tưởng đại đồng tôn
giáo. Giải thích về sự ra đời của con người, đạo Cao Đài cho
rằng con người không phải do tạo tác của các đẳng siêu lnh
hoặc từ cát bụi mà do quá trình tu luyện từ thảo mộc, cầm thú
mà nên. Sau khi trở thành người, để tiếp trục trở thành các bậc
đại trí, đại giác trong thế giới siêu sinh, con người phải tiếp tục
Ngoài ra, tín đồ Cao Đài còn tin vào thời mạt kiếp. Đạo Cao
Đài đề cập đến thời kỳ mạt kiếp bằng sự phân cha các thời kỳ
trong việc cứu rồi nhân loại. Theo đạo Cao Đài, từ khi xuất hiện -
loài người cho đến nay đã trải qua hai lần cứu rỗi nhân loại, đó là
Thượng để ban cho nên sống hòa hiệp, tương thân với nhau.
Nhưng càng về sau, con người mắt đần tính lương thiện, trở nên
u mê, xấu xa, độc ác, nên khi chết bị đày khổ sở ở địa ngục. Vì
vậy, Thượng đề mở lòng hiếu sinh, khai đạo để phổ hóa chúng
sanh, lập ra các tôn giáo như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Do
Thái giáo,...
290
- Nhị kỳ phô độ: là thời k) trung ngươn. Trong quá trình
phổ độ ở thời kỳ thứ nhất, các tôn giáo đần bị thất lạc chơn
truyền và không thể tiếp tục cứu rỗi nhân loại được nữa. Nên
Thượng đế một lần nữa mở lòng từ bi, để các đắng Phật, Tiên,
Thánh, Thần như 7Jích Ca, Lão Tử, Không Tử, Giêsu,... giáng
trần nhằm chấn hưng các đạo đã mở để đem nhơn loại trở về con
kiếp, vì con người quá tham, sân, si, không thể cứu rỗi bằng các
tôn giáo trước, nên Thượng để đích thân mở đạo. Người không
giáng trần như các đẳng thiêng liêng trước mà đùng huyền điệu
tôn giáo trước đó thành một đạo duy nhất nhằm cứu nhân loại
Bên cạnh đó, tín đồ Cao Đài còn tin vào Sự giải thoát và sự
đọa đày. Trong đó, tín đồ Cao Đài cũng xem Thiên đường là nơi
giải thoát, Thiên đường của đạo Cao Đài là nơi ngự trị của
Thượng Đế, là cõi Thiêng liêng hồng sống. Nơi đó chỉ toàn là an
vui, hạnh phúc, tốt lành. Người tu hành đắc đạo sẽ được lên
Thiên đường. Còn nơi đọa đày là Địa ngục. Giáo lí đạo Cào Đài
cho rằng Địa ngục là nơi tối tăm, trái ngược với Thiên đường,
nơi dùng để xử phạt những kẻ bất lương, tàn ác. Địa ngục là nơi
ô trược, đau khổ nhất trong thế giới quan của đạo Cao Đài.
Về nghỉ lễ, đạo Cao Đài có hai phần: Ngii lễ Thiên đạo và
nghỉ lễ Thể đạo. Trong đó, nghỉ lễ Thiên đạo được thực hiện.
nhằm biểu thị niềm tin của tín đồ đối với các đắng thiêng Hêng
được thờ tự cũng như biểu hiện sự thăng cấp trong hàng giáo
phẩm của tín đồ; còn nghỉ lễ Thế đạo được thực hiện đành cho
_ những con người tại thế, nhằm hướng. họ đến sự hoàn thiện
291
- * Phật giáo Hòa Hảo
Phật giáo Hòa Hảo ra đời tại làng Hòa Hảo, huyện Phú Tân,
tỉnh An Giang, gắn liền với tên tuổi Huỳnh Phú Số. Huỳnh Phú
Số sinh ngày 15 tháng 11 năm 1920. Ông học hết bậc sơ Pháp-
lên núi Cấm tìm thầy chữa bệnh và đã tu theo Bửu Sơn Kỳ
Hương của Đoàn Minh Huyên. Sau đó, ông xuống núi và tự
nhận mình là bậc "sinh như tri", biết được quá khứ nhìn thấu
tương lai, được thọ mệnh từ đức Phật, lãnh nhiệm vụ truyền bá
cho dân chúng tư trởng Bửu Sơn Kỳ Hương để "Chấn hưng đạo
Phật, cứu độ chúng sinh khỏi sông mê, biển khổ”. Ông cũng
chữa bệnh cho dân bằng các bài thuốc đã học và rao giảng về Tứ
ân Hiếu Nghĩa qua những bài sấm do ông soạn thảo. Số người
tin theo ông khá đông và ông trở nên nỗi tiếng khắp vùng. Đến
ngày 18 tháng 5 năm 1939, ông làm lễ khai đạo tại nhà riêng của
mình ở làng Hòa Hảo, khi chưa tròn 20 tuổi, và đặt tên cho tôn
giáo của mình là đạo Hòa Hảo hay Phật giáo Hèa Hảo. Ông
được tín đồ suy tôn làm giáo chủ Hòa Hảo. Hiện nay, số tín đồ
Đạo Hòa Hảo ước tính khoảng 2 triệu người, tập trung chủ yếu ở
Nam Bộ.
Có thể nói, Phật giáo Hòa Hảo là tiếp nối của Bửu Sơn Kỳ
Ngô Lợi khởi xướng. Tiếp nối nguyên tắc hành đạo của hai tôn
giáo trước, Huỳnh Phú Số đã phát triển tôn giáo này lên với tên
là Phật giáo Hòa Hảo và đưa nó trở thành một tôn giáo lớn mạnh
ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long vào nửa đầu thế kỷ XX.
Tôn chỉ của Phật giáo Hòa Hảo vẫn là "Học Phật Tu Nhân",
noi theo giáo lí Đức Phật mà tu sửa con người, tích cực thực
hành thuyết "Tứ ân (ơn)": cha mẹ, đất nước, tam bảo (Phật-
Cách thức tu hành của Phật giáo Hòa Hảo rất đơn giản là "tu
hành tại gia". Người "cư sĩ tại gia" cúng lạy vào hai buổi sớm
292
mai và chiều tối với 16 lạy như một bài thể dục toàn thân ở "bàn
thờ trần đà với ý nghĩa hòa hợp; không chấp nhận mê tín đị đoan
(không đốt vàng mã, không cúng tà thần,...); thực hành tiết kiệm
triệt để như không dâng cúng thực phẩm cho Phật chỉ cúng hoa
nước sạch, không ăn thịt trâu, bò, chó; không hình thức, không
Giáo lí Hòa Hảo được thể hiện trong những bài sắm kệ do
Huỳnh Phú Số biên soạn, bao gồm 6 tập, gồm: Sấm khuyên
kệ, Khuyến thiện và Những điều sơ học cần thiết của kẻ tu hiển.
"Tu nhân ẹ
- Học Phật chủ yêu dựa vào giáo lí của Phật, khuyên tín đồ
ăn ngay ở hiển.
mẹ, Ân đất nước, Ân đồng bào nhân loại, Ân tam bảo (Phật,
Pháp, Tăng).
Phật giáo Hoà Hảo chủ trương tu tại gia, giúp đỡ người
uông, hội hè. Tang ma, cưới hỏi không cầu kỳ..
đạo và cả việc đời. Không có nơi thờ công cộng, trung tâm của
Tóm lại: Các tôn giáo bản địa nêu trên hiện nay phát
triển mạnh ở khu vực Nam Bộ, trong đó các tỉnh vùng Tây
Văn hóa của các tôn giáo này Tnang đậm sắc thái văn hóa
Nam Bộ. Đây chính là yếu tố cốt lõi để xem các tôn giáo í trên
283
4.3. Tôn giáo thế giới
ˆ Các tôn giáo thế giới ở Việt Nam hiện . Hãy gồm có Phật
* Phật giáo.
Đây là tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm. Phật giáo
du nhập vào Việt Nam từ Ấn Độ, Trung Quốc, nhưng Phật giáo
Việt Nam lại mang những đặc điểm khác biệt so với Phật giáo ở
những nơi khác trên thế giới; đặc biệt là Phật giáo ở Nam Bộ.
Phật giáo của người Việt ở Nam Bộ vẫn theo mô hình Phật giáo
chung của cả nước, nhưng cũng có sự biển đổi hơn cho phù hợp
Khi truyền vào Nam Bộ, để phù hợp với hoàn cảnh khẩn
hoang nên Phật giáo đã có nhiều thay đối. Các nhà sư Phật giáo
vào Nam Bộ cùng với những người khẩn hoang đã tạo dựng các
ngôi chùa thành các trưng tâm Phật học để truyền đạt tư tưởng
giáo lí Phật giáo uyên thâm. Nhưng bên cạnh đó, yếu tố tín
ngưỡng dân gian vẫn được lồng vào trong tư tưởng Phật giáo
Nam Bộ. Tại Nam Bộ vẫn có không ít nhà sư không chỉ đảm
nhận vai trỏ của một vị sư tôn giáo, phổ độ chúng sanh mà còn
kiêm cả việc đuổi tà, trị quỷ bằng việc luyện bùa phép, roi thần
để cứu chúng, sanh,... hoặc việc sự xuất hiện một bộ phận “nhà
sư miệt vườn”, học thuộc vài cuốn kinh để đi tụng cầu siêu trong
các đám tang cũng là một yếu tố mới lạ trong tôn giáo này ở
Nam Bộ. Cũng chính tại Nam Bộ, Phật giáo đã khởi phát ra hệ
phái Khất sĩ của người Việt và sự tồn tại của hệ phái Nam tông,
trong khi đó ở miền Trung rất hiếm và ở miền Bắc không có hai
hệ phái này.
nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Hệ phái do Thiền sư
Minh Đăng Quang sáng lập từ năm 1944 với chí nguyện: "Nối
294
Thiền sư Đăng Minh Quang sinh trưởng tại làng Phú Hậu,
Tổng Bình Phú, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1944,
ông rời gia đình đi hành đạo, tu tập tại vùng Vĩnh Long, Châu
Đốc, Thất Sơn, Hà Tiên,... Sau đó vẻ tịnh tụ tại chùa Linh Bửu
tông Phật giáo qua gương hạnh Sa Môn Khát Sĩ, hành Cụ Túc
Giới, Tứ Y Pháp.
Hệ phái này tương đối phát triển tại Nam Bộ. Kể từ khi
. thành lập vào năm 1944, Thiền sư Đăng Minh Quang đã trực
tiếp thu nhận Tăng Ni xuất gia, hướng dẫn hành đạo cho đến khi
ông mắt. San đó, Nhị tổ là Giác Chánh tiếp tục con đường hành
đạo của Thiền sư Đăng Quang. Các tịnh xá được hình thành tại
các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Bộ như Bà Rịa - Vũng
Tàu, Đồng Nai. Bình Dương, Tây Ninh, Cần Thơ, Sóc Trăng,
Chánh, Hóc Môn và Bình Thạnh,... Tịnh xá Trung tâm toạ lạc
Bình Thạnh, TPHằ Chí Minh. Tịnh xá Trung Tâm cũng là một
trong những đạo tràng tiêu biểu của hệ phái và Giáo hội Phật
Tăng hệ Phái Khắt Sĩ. Đồng thời cũng là nơi trụ xứ của tăng sinh
theo học tại các trường, lớp trung cấp Phật học, cao đẳng Phật
học, Học Viện Phật giáo Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh và hai
lớp đào tạo Trung - Cao cấp giảng sư. Đồng thời cũng là nơi tu
tập Bát Quan Trai và Thuyết giảng kinh Pháp hàng tuần cho
Hệ phải Nam tông: xuất hiện trong cộng đồng người Việt ở
Nam Bộ chỉ khoảng đầu thế kỷ XX. cùng với Phật giáo Đắc tông,
Phật giáo Nam tông cũng trở thành một trong những chỗ dựa tin
thần không thể thiếu trong cộng đồng người Việt Nam Bộ..
295
_ Khi được truyền vào Nam Bộ, Phật giáo Nam tông đã mang
tông người Khmer cũng như người Việt chỉ tập trung vào việc fu
tập thiền quán, biên soạn kinh sách, thuyết giảng Phật pháp, -
hướng dẫn cho Phật tử tu học và thực hành giáo lí chính truyền
nguyên thủy của Đức Phật. Giúp cho các Phật tử loại bỏ dần
những tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan không phủ hợp với tín
ngưỡng chính pháp của đạo Phật. Phật giáo Nam tông đơn giản
- Về học thuật: Phật giáo Nam tông giữ nguyên truyền thống
Phật giáo. Chủ trương gắn bó đời sống của mình với đời sống
thực tiễn xã hội, cũng như trong thiền môn, nên đời sống tôn
giáo của tín đỗ chú trọng đến việc tu tập thiền quán, soạn dịch
kinh điển, hướng dẫn Phật tử đi thẳng vào nội dung lời dạy của
-_ Về sinh hoạt: Phái Nam tông của người Việt không câu
nệ vào giới tướng, hình thức như Phật giáo Nam tông ở các
nước khác.
trong ngôi nhà chung giữa Phật giáo Nam và Bắc tông là
không đáng kể. Mối quan hệ giữa chư tăng, cư sĩ cả hai phái
thể hiện tỉnh thần hoà đồng một cách nhuần nhuyễn. Cả hai
phái luôn có sự nhất trí và đễ dàng hưởng ứng lời kêu gọi
thống nhất Phật giáo Việt Nam ngay từ ngày đầu thành lập giáo
Bên cạnh Phật giáo Nam tông của người Việt, còn có Phội
giáo Nam tông của người Khmer. Đây hệ phái của Phật giáo
liệu gọi Phật giáo của người Khmer là Theravada, vốn từ gốc từ
Hynayana (Tiểu thừa) để phân biệt với Phật giáo Bắc tông, gọi
là Mahayana (Đại thừa). Đây là hai hệ phải lớn của Phật giáo từ
296
Ở khu vực Nam Bộ, Phật giáo Nam tông của người Khmer
là hệ phái lớn phổ biến rộng rãi trong dân chúng và có nguồn
vốn đo một vị sãi ở Campuchia sáng lập vào cuối thế kỷ XIX và
Nam Bộ vẫn tin và theo Phật giáo Nam tông thuộc phái
Mohanikay. Về sau này trong nội bộ Phật giáo Nam tông Khmer
Nam Bộ lại phân chia thêm phái “cũ” (Boran) và phải ° “mới”
(Thmei). Thực tế các hệ phái này không khác nhau nhiều về đạo
pháp, chỉ khác nhau ở một vài chỉ tiết trong các nghi thức như
cách bưng bình bát khắt thực, các viền áo dày hoặc mỏng, cách
Như vậy, nếu xét trên bình điện chung của cả nước, Phật
giáo của người Việt tại Nam Bộ chịu sự quản lí Giáo hội Phật
giáo Việt Nam và theo những nguyên tắc chung. Tuy nhiên, xét
về bình diện vùng, miền thì Phật giáo của người Việt, người
dạng của nhiều hệ phái như Bắc tông, Nam tông, Khắt sĩ.
* Công giáo
Công giáo là tôn giáo do Giêsu khởi xướng trên nền tảng
của Do Thái giáo. Giáo lí được chú trọng đến những điều Giêsu
rao giảng, gọi là Phúc âm. Theo nội dung của Phúc âm là Thiên
Chúa sáng tạo vũ trụ vạn vật và con người, nhưng con người bị
cám dỗ rồi sa ngã trong tội lỗi, phải đau khổ và chết. Thiên Chúa
xuống trần làm Đắng Cứu Thế, cứu giúp con người thoát khỏi
tội lỗi để trở về với Thiên Chúa. Ngoài rả, Giêsu còn thiết lập
nên Giáo hội, để sau khi hoàn thành nhiệm vụ của Người, Giáo
hội sẽ nối tiếp công việc của Người ở thế gian, nhằm qui tụ con
' 207.
Công giáo phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới và được
truyền bá vào Việt Nam khoảng thế kỉ XVII. Trong đó, Công
giáo ở Nam Bộ phát triển khá mạnh. Vào thế kỷ XVIII, đã xuất
hiện nhiều khu vực có đông tín đồ cư trú với nhiều nhà thờ được
xây dựng, như ở Sài Gòn có các nhà thờ Kính Thánh Giuse ở
Chợ Quán, nhà thờ Kính Đức Mẹ Miân Côi ở Chợ Lớn, nhà thờ
Kính Thánh Giá ở Bến Nghé và một nhà nguyện ở Rạch Cát,
khu vực ở Lái Thiêu vào năm 1739 đã họ đạo, nhà thờ và gần
400 giáo dân sinh sống: khu vực các tỉnh miền Tây có nhiều họ
đạo như như, Rạch Dừa, Rạch Núi, Rạch Nhà Rầm, Cần Đước,
Khúc Răng ở Nhà Bè, Rạch Chanh ở Cần Đước và một họ đạo ở
Đến nửa cuối thế kỷ XX, Công giáo được thực dân Pháp
cho phép công khai hoạt động tại Nam Bộ cũng như các vùng
khác, nên tín đồ tăng Tất đông và cơ sở vật chất như: toà giám
mục, nhà thờ, nhà xứ, trường học, dưỡng lão viện, cô nhi viện
được xây dựng khắp nơi tại Nam Bộ.” Thêm vào đó, sau Hiệp
Nam với số lượng lớn, gần 900 ngàn người (tính đến tháng
.9/1956°, được bố trí định cư tại hầu khắp các tỉnh Nam Bộ,
trong đó đông nhất là Đồng Nai, Sài Gòn, Kiên Giang, Cần Thơ,
đông và có tác động Tất lớn trong việc định hình văn hóa Nam
* Tin Lành
Tin Lành là tôn giáo bắt nguồn từ phong trào cải cách Công
giáo ở thế ki XVI đo tu sĩ dòng Augustine là Martin Luther khởi
® Giáo hội Công giáo Việt Nam - Niên giám 2001. Bàn đự thảo, tr. 221.
'® Báo Missi, số 319, tháng 4/1968 đã đưa ra con số 875.085 người. Theo William
J.Tater, trong 7,and ï tenure in Viet Nam, tháng 10/1967, thì có 888.503 người đi
cư. Theo Miền giám Việt Nam Công giáo 1964 thì đã có 553.680 người Công
giáo miễn Bắc di cư vào Nam (dẫn lại của Trần Hữu Hợp).
208
xướng. Nền tảng thần học của Tin Lành là tin tuyệt đối vào kinh
thánh và không giải nghĩa kinh thánh; không công nhận thâm
quyền của Giáo hoàng, cũng như không tổ chức Giáo hội như
Công giáo. Đạo Tin Lành cũng phát triển mạnh mẽ trên thế giới.
Ở Việt Nam, đạo Tin Lành xuất hiện vào khoảng năm 1884
bởi sự hiện diện của các tín hữu Tin Lành châu Âu sống ở vùng
đất cảng Hải Phòng và có một Hội thánh TinLành của Pháp. Tuy
nhiên, sự có mặt của Hội thánh Tin Lành Pháp tại Việt Nam chỉ
giữ nhiệm vụ chăm lo cho tín đồ của Hội thánh, chủ yếu là
người châu Âu, không quan tâm đến việc truyền bá Tin Lành
Đến năm 1902, Mục sư Bonnet, người của Thánh Thơ Công
Hội, đến Đà Nẵng thực hiện việc truyền bá tôn giáo bằng cách
phân phát các sách đạo. Năm 1911, giáo sĩ Paul M. Hosler và
Bonnet để cùng truyền bá Tin Lành tại đây. Dưới sự giúp đỡ của
ông Bonnet, giáo sĩ Paul M Hosler bắt đầu học tiếng Việt và cỗ
gắng phân phát Kinh thánh Tân Ước, các sách lẻ cũng như các
sách chứng đạo khác. Từ năm 1911 đến 1914, ở Việt Nam đã có
một số Giáo sở Tin Lành như Giáo sở Hội An, Giáo sở Hải
Lành tại Việt Nam gặp khó khăn khi Chiến tranh Thế giới thứ
Đông Dương ban hành lệnh cắm uyên đạo cho người bản xử,
nên các giáo sĩ Tin Lành bị buộc rời khỏi Việt Nam. Nhưng
trong những năm đầu truyền đạo, Tin Lành cũng đã xây dựng
cho mình Hội thánh đầu tiên tại Đà Nẵng và có thể xem Đà
Nẵng là cái nôi đầu tiên của đạo Tin Lành ở Việt Nam.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, đạo Tin Lành ở Việt Nam
bắt đầu được định hình và phát triển bằng sự ra đời của các Hội
thánh như /Øfội thánh Hà Nội, Hội thánh Hoa Kiều, Hội thánh
người Việt Nam ở Sài Gòn và đặc biệt là sự ra đời Tổng Hội
thánh Tìn Lành Việt Nam (năm 1927). Đầy được xem là Hội
209
thánh trung ương của đạo Tin Lành tại Việt Nam. Các Hội thánh
được thành lập trước đây hoặc sau này đều nằm đưới sự quản lí
của hội thánh trung ương này. Tính đến năm 1927, Tổng Hội
thánh Tin Lành Việt Nam đã quản lí được 11 Hội thánh chánh
và 2 Hội thánh nhánh trên khắp nước Việt Nam. Hội thánh Tin
—— Năm 1928 Hội thánh Tin Lành Việt Nam chia thành 2 hạt
gồm: Địa hạt Bắc Trung Bộ (Từ tỉnh Ninh Thuận trở ra miền
Bắc); Địa hạt Nam Bộ (Tù tỉnh Bình Thuận trở vào miền
Nam). Sau năm 1954, đất nước bị chia cất, đạo Tin Lành ở hai
miền Nam - Bắc có sự khác nhau..Ở miền Bắc, năm 1955 các
tín đồ, Mục sư lập nên Giáo hội riêng, có tên là 7ổng Hội
thánh Tín Lành Việt Nam, gọi tắt là Hội thánh Tin Lành Miền
Bắc. Hội thánh này vẫn còn tồn tại đến ngày nay với khoảng
10.000 tín đồ. Tại miền Nam, dưới thời Mỹ — Ngụy, Tổng Hội
Tin Lành Việt Nam nằm trong sự chỉ đạo của các thế lực nước
ngoài, nhất là Mỹ. Trong thời gian chiến tranh 1954-1975, đạo
.Tin Lành đã phát triển mạnh và đặc biệt là ở địa bàn Trường
Từ sau năm 1975, do các giáo sĩ nước ngoài rút về nước nên
hoạt động của đạo Tin Lành ở miền Nam bị giảm sút. Một số
giáo phái nhỏ hầu như không hoạt động. Trong những năm gần
đây, cùng với sự đổi mới của đất nước và đặc biệt là vấn đề tự
đo tín ngưỡng tôn giáo được xem trọng, nên Tổng Liên hội Tin
Lành đã hoạt động trở lại. Việc truyền đạo cũng được các hệ
phái Tin Lành thực hiện, đặc biệt là chú trọng đến việc truyền
đạo cho các cư dân thiểu số đang sinh sống tại các khu vực miền
núi phía Đắc và vùng Trường Sơn, Tây Nguyên. Ngoài việc
truyền đạo trực tiếp, các Giáo hội Tin Lành cũng kết hợp truyền
đạo thông qua các hoạt động khoa học, văn hóa - xã hội, giáo
200
* Jslam (Hồi giáo)
Đạo Islam ở Việt Nam chủ yếu xuất hiện trong cộng đồng
người Chăm ở Nam Bộ. Tôn giáo này ra đời vào thế ký VII tại
bán đảo Ả Rập, đo Muhammad khở xướng. Ông cho rằng mình
được mặc khải từ Thượng đế. Đây là tôn giáo tôn thờ Allah
(Thượng để) và xem Allah là Đắng Tối Cao và xem trọng các vị
phục Thượng đế". Tín đồ của Islam được gọi là Muslim. Giáo Hí
của Islam được thể hiện rõ trong kinh Qur'an. Đây được xem là
Tín đồ Islam phải tuân thủ theo 10 điều được ghi trong kinh
Qur'an như: 1) Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (tiếng Ả Rập là
Allah); 2) Vinh danh và kính trọng cha mẹ; 3) Tôn trọng quyền
của người khác; 4) Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo; 5) Cấm
giết người, ngoại trừ trường hợp đặc biệt (trong trường hợp đặc
biệt có thể được giết mà trong bị phạm tội như chống lại những
-kẻ lùng giết người cùng đạo Islam nhằm cưỡng bức họ bỏ đạo;
giết những kẻ sát nhân để trừ hại cho dân); 6) Cắm ngoại tình; 7)
Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi; 8) Hãy cư xử công bằng với
mọi người; 9) Hãy trong sạch trong tình cảm và tỉnh thần; 10)
Lllah (có nghĩa Tôi công nhận Allah là thượng để duy nhất,
sứ giả cuối cùng của Ngài); 2) Cầu nguyện năm lần trong một
ngày vào các buổi: bình minh, trưa, xế trưa, hoàng hôn và tối; 3)
301
Trong đời sống tôn giáo, người Chăm Islam luôn tuân thủ
theo năm điều này. Trước các buổi lễ, người Chăm Islam phải
tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo chỉnh tằ. Nếu là buổi lễ .Vào trưa
thứ Sáu, ngày thánh lễ hàng tuần, họ phải cùng nhau cầu nguyện
Trong ứng xử của cộng đồng tín đồ, người Chăm luôn theo
các nguyên tắc của đạo, đó là mọi hành vi cá nhân đều được quy
vào việc thực hiện đức tin và được quy định khá chặt chẽ bởi
kinh Qur'an. Theo đó thì mọi hành vi của cá nhân được phân
thành năm loại mà cả cộng đồng đều lấy đó làm tiêu chuẩn để
- Harăm: những điều tuyệt đối phải tránh, như kiêng ăn thịt
heo, không uống rượu, không cờ bạc, công dâm ô, không nói
- Wzjib: những điều bắt buộc phải làm, không làm thì có
tội và làm thì được phước như thực hiện đầy đủ năm điều căn
- Šunnaf: những điều nên làm mặc dù không làm thì vẫn
không có tội như nhịn ă ăn thêm ngoài thời gian quy định trong
tháng Ramadan, cầu nguyện lâu hơn thời gian quy định cho mỗi
không có tội nhưng thiếu phước đức cho người làm như ăn thức
Tóm lại, các tôn giáo thế giới đều xuất hiện ở Việt Nam
nói chung và khu vực Nam Bộ nói riêng trong các tộc người,
Sự xuất hiện của các tôn giáo này đã góp phần làm đa đạng
tôn giáo ở Việt Nam và tạo nên những đặc trưng văn hóa của
302
6. TÓM TẮT CHƯƠNG
1. Nhân học nghiên cứu về tôn giáo thường đặt trong bối
cảnh tương tác giữa các chiều kích kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội,... của một hay nhiều tộc người trong một vùng, quốc gia,
khu vực,... Bởi, tôn giáo là thành tố của văn hóa và mang tính
cộng đồng, văn hóa - xã hội của các tộc người cụ thể.
có sự biến đổi về nội hàm trong tiến trình lịch sử. Lúc đầu, chỉ
của con người; nhưng đến trước thế kỷ thứ IV lại mang nội hàm
“cộng đồng Kitô? (Church); từ thế kỷ thứ V đến XV, lại chỉ đề
cập đến những tín đồ thực thụ và những người tu hành trong các
nhà thờ. Khi Tin Lành (thế kỷ XVT, nội hàm của khái niệm
religion được đùng để nói đến hai nhóm người có hành vi tôn
giáo khác nhau, mặc dù có cùng đức tin vào Thiên Chúa. Bước
vào thời kỳ Khai sáng (hế kỷ XVIID, thuật ngữ religion được
xác định nhìr một hệ thống giáo lí, giáo điều, hệ thống tổ chức
(Giáo hội),... Tuy nhiên, thuật ngữ được hiểu theo nghĩa vừa
nêu trên không thê áp dụng rộng rãi, vì tôn giáo ngoài châu Âu
được hiểu theo nội hàm khác so với Kitô giáo phương Tây. Như
tôn giáo, nhưng mang hàm ý tổng hợp những nghĩa vụ thiêng
liêng của người Ấn; hoặc thuật ngữ kamigoto ở Nhật Bản dùng
để chỉ hành vi tôn giáo mang tính truyền thống, như thờ cúng...
hay từ đạo ở Việt Nam và Trung Quốc cũng mang nội hàm gắn
đến cái thiêng. Như vậy, thuật ngữ tôn giáo cả ở phương Đông
và phương Tây được dùng nhằm để chỉ hành vi của con TBƯỜI
3. Định nghĩa tôn giáo cũng rất rất khác giữa Tylor,
những cuộc tranh luận liên quan đến vấn đề này, đặc biệt là cuộc
303
tranh luận của Talal Asad về định nghĩa của Clifford Geertz. Từ
đó, Charles Keyes đưa ra quan điểm trung hòa hơn khi cho rằng,
nghiên cứu về tôn giáo là: 1) Nghiên cứu những hoàn cảnh cụ
“những mối quan tầm cơ bản” — cái chết, 2) Cần xem xét nguồn
quyền lực của thông điệp tôn giáo — charisma; 3) Tập trung vào
các phương pháp có tính nguyên tắc — nghỉ lễ. Ở Việt Nam,
Đặng Nghiêm Vạn cũng đưa ra quan điểm là đánh giá nội hàm
tôn giáo sẽ có sự khác biệt ở từng hoàn cảnh lịch sử, địa lí,...
4. Tôn giáo là sản phẩm của con người và được xây dựng tử
việc muốn lí giải những hiện tượng “kỷ lạ” xây ra xung quanh
cuộc sống con người; trong đó có sự tồn tại của linh hồn. Chính
việc cảm nhận có sự tồn tại bất diệt của linh hồn nên có những
biểu hiện như chôn đồ tùy táng khi con người chết, rải hoa đưới
huyệt mộ, cúng tế, tưởng niệm,... Từ đó, ý niệm một thế giới
khác dành cho linh hồn sau khi chết dần được hình thành. Khi ý ý
niệm về một thế giới bên kia ra đời cũng là lúc tôn giáo được
hình thành. Tuy nhiên, tôn giáo luôn có sự chuyển đổi khác nhau
qua từng thời kỳ lịch sử, cũng như khác nhau ở từng tộc Thgười,
từng khu vực, từng quốc gia và vùng lãnh thổ,... và còn bị bị
chỉ phối bởi yếu tố không gian và thời gian. Do đó, tôn giáo
được phân loại như tôn giáo của chế độ tiền giai cấp (công xã thị
tộc) và tôn giáo của những xã hội có giai cấp ŒX.A. Tôcarev); thì
chia tôn giáo theo loại hình tiễn hóa về thời gian, tôn giáo
nguyên thủy, tôn giáo tiền sử, tôn giáo lịch sử, tôn giáo cận đại,
tôn giáo hiện đại (Robert N. Bellah); hay tôn giáo thế giới, tôn
giáo dân tộc, tôn giáo khu vực, tôn giáo bản địa, tôn giáo mới...
5. Hiện nay, tôn giáo đang có những xu hướng mà các nhà
khoa học thường quan tâm là dân tộc hóa, đa dạng hóa, hiện đại
hóa, thế tục hóa,... của tôn giáo. Nghiên cứu tôn giáo cần đặt
trong mối trơng quan với các vấn đề văn hóa, đồng thời cũng
cần xét đến tính riêng biệt trong từng khu vực, từng tộc người.
304
Các chủ để nghiên cứu về tôn giáo mà các nhà nhân học chú tâm
là chức năng của tôn giáo, giới trong tôn giáo, nghỉ lễ tôn giáo
6. Tôn giáo ở Việt Nam hiện nay có thể tìm hiểu ở một số
loại hình như các tôn giáo sơ khai (vạn vật hữu linh, thờ vật tổ,
shaman, thờ cúng tổ tiên), các tôn giáo bản địa (Bủu Sơn Kỳ
Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo), các
tôn giáo thế giới (Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Islam).
305
Chương 8
VÀ GIA ĐÌNH
Con người l một động vật xã hội, con người có tính xã hội
và có nhu cầu chung sống với người khác. Một đứa trẻ sinh ra,
chúng chỉ có thể tồn tại bằng bản năng, nhưng để sống được
chúng ta dựa vào người khác để sống và lớn lên. Những tổ chức
đầu tiên con người sáng tạo ra là thân tộc và dòng họ, hôn nhân
và gia đình. Đây là những thiết chế xã hội đầu tiên của mỗi tộc
dạng và sáng tạo của từng nhóm người. Chính vì vậy, các thiết
chế này chứa đựng và cấu trúc hoá nhiều giá trị, chuẩn Trực văn
1. THÂN TỘC
của các thành viên được xác lập thông qua hệ thống huyết tộc
bao gồm mối quan hệ dòng tộc, hôn nhân và gia đình. Đây là
mỗi quan hệ nỗi trội nhất trong tất cả các mối quan hệ của xã hội
con người và có tác động ảnh hưởng tất lớn đối với các mối
quan hệ khác như chính trị, kinh tế, văn hóa, tộc người. v.v..
Hay nói cách khác, thân tộc có thể được xem như là “hạt nhân”
của một cơ cầu tổ chức xã hội loài người từ xưa đến nay. Trong
mỗi mối dây ràng buộc xã hội bằng huyết thống và hôn nhân sẽ
tạo nên cơ SỞ cho việc xây dựng tính cố kết cộng đồng làm cho
những mối quan hệ xã hội gắn bó mật thiết hơn. Vì vậy, việc
nghiên cứu hệ thống thân tộc là một trong những lĩnh Vực
306 ốc
Ý nghĩa của việc nghiên cứu hệ thống thân tộc còn giúp cho
chúng ta có thể dựng lại mối quan hệ xã hội trong quá khứ mà
ngày nay không còn tồn tại nữa. Bởi vì, mặc đù mối quan hệ xã
hội ngày nay đã thay đổi nhưng các mỗi quan hệ xã hội xa xưa
biểu hiện qua mối quan hệ các thuật ngữ thân tộc vẫn còn bảo
Thuật ngữ thân tộc là thuật ngữ dùng để gọi những người có
cùng quan hệ huyết tộc với ta. Ví dụ: Trong hệ thống thân tộc
của người Việt, tôi gọi người sinh ra tôi thuộc giới tính nam là
cha. Tôi gọi người sinh ra tôi thuộc giới tính nữ là mẹ. Tôi gọi
anh của cha tôi là bác, em gái của mẹ tôi là đì, em gái của cha tôi
Nói cách khác, các thuật ngữ thân tộc là một nhóm hoàn
chỉnh các thuật ngữ để nhận biết những người cùng họ hàng, là
cách để một nền văn hóa đệ! ~¬ trật tự trong xã hội của những
người có quan hệ họ hàng thân thích. Khi trẻ em bắt đầu nhập
thân văn hóa, chúng học hỏi được rằng những thuật ngữ thân tộc
khác nhau có gắn liền với những loại đối xử khác nhau mà
chúng đối xử với những người họ hàng này nữa khi chúng lớn
đến việc ghép thành các nhóm của những người có mỗi quan hệ
thân thuộc với nhau. Còn khi nói đến tính miêu thuật là nói đến
cấu trúc các thuật ngữ thân tộc dưới dạng hình thái học. Vì vậy,
trước khi xác lập một hệ thống thân tộc cần phải phân loại các
loại hình thuật ngữ thân tộc đặc biệt là phân loại theo kết cầu
thuật ngữ của nó. Căn cứ theo kết cầu thuật ngữ, chúng ta có thể
phân thuật ngữ thân tộc làm ba loại: thuật ngữ cơ bản, thuật ngữ
307
* Thuật ngữ cơ bẩn
không thể tách ra thành nhiều nghĩa riêng biệt. Ví dụ như : cha,
mẹ, VỢ, chồng, anh, chị, em, con, ... trong tiếng Việt; father,
tiếng Anh; pÈrc, mère, femme, mari, frère, soeur, fils, đile,..
trong tiếng Pháp. Đây là những thuật ngữ trong hệ thống thân
tộc của bất kỳ dân tộc nào cũng đều có. Bên cạnh thuật ngữ cơ
bản, phần lớn các hệ thống thân tộc ở trên thế giới còn có các
thuật ngữ thuộc loại từ ghép hoặc thuộc loại từ miêu thuật.
Thuật ngữ ghép là loại hình thuật ngữ phức hợp được cấu
tạo bởi một thuật ngĩữ cơ bản ghép. với một hay nhiều thuật ngữ
khác mang tính định ngữ dùng để bổ nghĩa cho thuật ngữ cơ
bản. Vị dụ như : ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, chị dâu,
anh rễ, cháu nội, cháu ngoại,... trong tiếng Việt; ong Jâng, muk
Jâng, sa-ai thang, ađei thang, kamuon phik... trong tiếng Chăm;
tiếng Pháp.
Thuật ngữ miêu thuật là loại hình thuật ngữ được cấu tạo bởi
hai hoặc nhiều thuật ngữ cơ bản ghép lại với nhau. Ví dụ như :
cha của cha, cha của mẹ, mẹ của cha, mẹ của mẹ, anh em trai
của cha, anh em trai của mẹ, chị em gái của cha, chị em gái của
mẹ, con của con trai, con của con gái,... trong tiếng Việt;
308
Anh; père du père, pẻre de la mère, mèẻre du père, mẻre de la
Nếu so sánh giữa thuật miêu thuật với thuật ngữ ghép thì
chúng ta dễ đàng nhận thấy, trong các thuật ngữ miêu thuật thì
thuật ngữ phép các thành tố mang tính định ngữ có thể bị rụng
đi. Ví dụ : Thuật ngữ ghép “slepsow” (con trai riêng) trong tiếng
Anh có thể bị rụng thành tố “slep” chỉ còn lại “son” (con); thuật
ngữ “ông nội” trong tiếng Việt có thể bị rụng thành tố “nội” chỉ
Khi dùng thuật ngữ miêu thuật cần nên lưu ý trường hợp
thuật ngữ miêu thuật là thuật ngữ duy nhất để chỉ một người bà
con nào đó. Ví dụ, trong hệ thông thân tộc của Ả Rập, “ibn akhi”
(con trai của anh em trai) là một loại hình thuật ngữ thân tộc biểu
hiện rất rõ nét thuật ngữ miêu thuật. Riêng đối với “ammi” (anh
em trai của cha) thì lại hình thành theo cấu trúc kết hợp giữa
thuật ngữ cơ bản và thuật ngữ ghép. Do đó, thuật ngữ cơ bản và
thuật ngữ ghép có thể thay bằng những thuật ngữ miêu thuật,
- nếu cần phải chỉ ra rõ hơn mối quan hệ phả hệ của một người bà
con nào đó với người đang nói hoặc với một người khác.
1.4. Phương pháp ghi chép hệ thống thân tộc bằng dấu hiệu
Để thể hiện các mối quan hệ trong thân tộc như mối quan
mối quan hệ dòng tộc, mỗi quan hệ hôn nhân, mỗi quan hệ
trực hệ, mối quan hệ bàng hệ.. v.v... những nhà nghiên cứu
kết với nhau nhằm biểu thị các mối quan hệ thân tộc. Các mối
309
quan hệ hôn nhân, mối quan hệ họ hàng, mối quan hệ trực hệ,
mỗi quan hệ bàng hệ.. v.v... đều được qui ước biểu thị qua các
dấu hiệu. Những thành viên thuộc giới tính nữ được qui ước
bằng dấu hiệu hình tròn (©), những thành viên thuộc giới tính
nam được qui ước bằng dấu hiệu hình tam giác (A). Mối quan
hệ sinh thành (mối quan hệ cha con hay mối quan hệ mẹ con)
được qui ước bởi dấu những đoạn thẳng đứng kết nối giữa các
hình tam giác, hình tròn với nhau. Mối quan hệ anh chị em ruột
qui ước bằng những đoạn thẳng nằm ngang kết nối ở trên các
hình tam giác, hình tròn. Mối quan hệ vợ chồng qui ước bằng
những đoạn thắng nằm ngang kết nối ở đưới các hình tam giác
và hình tròn hoặc đâu bằng nằm ngang ở giữa hình tam giác và
hình tròn.
Các dấu hiệu dùng để biểu thị các mối quan hệ thân tộc vừa
A Nam giới
œ Nữ giới:
= A=O
Quan hệ anh chị em ruột À Ò
A=O
| 6L]
310
1.5. Loại hình hệ thống thân tộc tiêu biểu trên thế giới
nhưng nếu xét trên bình diện thuật ngữ xưng hô trong từng hệ
thống thân tộc thì chúng ta có thể tìm ra những mối tương đồng
tập đoàn gọi là hợp xưng và thuật ngữ riêng mang tính đơn lẻ
phân đôi thường có số lượng thuật ngữ biệt xưng mang tính đơn
hòa vào thường số lượng thuật ngữ biệt xưng mang tính đơn lẻ
chiếm tỉ lệ ít hơn.
Những năm gần đây, nhiều nhà nhân học có khuynh hướng
quan tâm đến sáu loại hình thuật ngữ thân tộc mang tính điển
hình cho các hệ thống thân tộc trên thế giới. Trong số đó có hệ
lroquois và Sudan.
Ngày nay, dựa trên quan điểm về cấu trúc hình thái học và
nội đung phản ánh mối quan hệ của các thuật ngữ thân tộc (đó
là sự tách ra hay hòa vào nhau của quan hệ trực hệ và bàng hệ,
sự tách ra hay hòa vào của thân thuộc bên cha và thân thuộc
bên mẹ) được dùng trong các hệ thống thân tộc, các nhà nhân
học đã nêu lên 6 loại hình hệ thống thân tộc tiêu biểu: #Jawaii,
Esiimo, Omaha, Crow, Iroquois, Sudan, được đặt tên theo các
xã hội mà mô hình mẫu. của mỗi loại xuất hiện. Trong đó loại
hình #awaii, Esiimo gắn với quan hệ đòng họ theo song hệ;
bốn loại hình Ómaba, Crow, roqguois, Sudan gắn với quan hệ
thân tộc có những thuật ngữ thân tộc đơn giản nhất, vì vậy, sô
lượng thuật ngữ trong hệ thông thân tộc này hâu như rất ít so
311
với các hệ thống thân tộc khác. Trong mỗi thế hệ tối đa chỉ có
"hai thuật ngữ thân tộc: một thuật ngữ thân tộc dùng để gọi cho
tất cả những người đàn ông và một thuật ngữ thân tộc dùng để
gọi tất cả người đàn bà. Hay nói cách khác, tất cả những thành
viên thuộc thế hệ thử nhất trên ego có khuynh hướng hòa vào
nhau theo cùng nhóm giới tính. Những người đàn ông thuộc về
phía cha và những người đàn ông thuộc về phía mẹ đều cùng
chung một thuật ngữ thân tộc; đồng thời cũng như vậy, những
phía mẹ cũng cùng chung một thuật ngữ thân tộc. Ngoài ra,
những thành viên cùng thế hệ với ego cũng có khuynh hướng
hòa vào nhau theo cùng nhóm giới tính. Ở đây, phân ra hai
nhóm rõ rệt. Một thuật ngữ thân tộc dùng để gợi chung cho tẤt cả
anh em họ cùng với các anh em trai và một thuật ngữ thân tộc
dùng để gọi chung cho các cHị em họ với các chị em gái.
Tà nà
“GA
Mỗi thế hệ chỉ gồm có hai thuật ngữ thân tộc. Mỗi thuật ngữ
thân tộc dùng để gọi chung cho tất cả những người có cùng giới
+ Thế hệ thứ nhất trên ego (tôi) gồm có hai thuật ngữ thân
tộc: tất cả người đàn ông gọi chung một thuật ngữ thân tộc và tất
+ Thế hệ ego gồm có hai thuật ngữ thân tộc: tất cả người
đàn ông gọi chung một thuật ngữ thân tộc và tất cả người đàn bà
312
+ Thế hệ thứ nhất dưới ego gồm có hai thuật ngữ thân tộc:
tât cả người đàn ông gọi chung một thuật ngữ thân tộc và tât cả
Trong hệ thống thân tộc của người Eskimo, ego chỉ được
Xem xét cùng với thành viên gia đình hạt nhân như cha, mnẹ, anh
em trai, chị em gái. Những thuật ngữ dùng đẻ chỉ những thành
viên ở ngoài đơn vị gia đình hạt nhân đều không có liên quan
với ego. Vì vậy, thuật ngữ thân tộc dùng để chỉ cha mẹ khác với
thuật ngữ dùng để chỉ anh em trai của cha, anh em trai của mẹ,
chị em gái của cha, chị em gái của mẹ. Tương tự như vậy, thuật
ngữ đùng để chỉ anh chị em ruột cũng khác với những thuật ngữ
dùng để chỉ anh chị em họ và đồng thời thuật ngữ chỉ các đứa
con cũng khác với thuật ngữ đùng để chỉ con gái của anh chị em,
._ ©0n trai của anh chị em. Hay nói cách khác, sự biệt lập giữa
những thành viên của gia đình hạt nhân với những thành viên ở
ngoài gia đình hạt nhân là đặc trưng cơ bản của hệ thống thân
tộc Eskimo.
mối quan hệ thân thuộc theo phụ hệ, đo đó, chúng ta có thể
tìm thấy loại hình này ở trong các tộc người theo chế độ đòng
họ phụ hệ. Những thành viên thuộc dòng phụ hệ với mẹ ego
những đứa con trai thuộc nhiều thế hệ khác nhau tính theo .
trực hệ với người anh em trai của mẹ được gọi chung một
thuật ngữ thân tộc; song song với nó là chị em gái của mẹ và
những đứa con gái thuộc nhiều thế hệ khác nhau tính theo trực
hệ với người chị em gái của mẹ cũng được gọi chung một
thuật ngữ thân tộc; còn những đứa con của người đàn bà có.
quan hệ thân thuộc với ego theo phụ hệ thì lại đùng thuật ngữ.
thân tộc khác: một thuật ngữ thân tộc dùng để gọi cho các
- thành viên thuộc giới tính nam và một thuật ngữ thân tộc dùng
Tại sao lại có một xã hội phát triển loại hệ thống thuật ngữ
như thế này? Có thể là do cư trú bên chẳng, những người có mối
quan hệ huyết thống với mẹ bạn có thể không sống gần với bạn,
do đó sẽ có rất ít nhu cầu thực tế cần phân biệt rõ các thành viên
của những thế hệ khác nhau trong nhóm phụ hệ không phải là
AÀ0ÊÀÁVÖ AM
314
- Hệ thống thân tộc Crow
thân tộc có thể tìm thấy ¿ ở cộng đồng tộc người theo chế độ phụ
hệ thì ngược lại có thể đễ đàng tìm thấy hệ thống thân tộc Crow
ở trong cộng đồng tộc người theo chế độ mẫu hệ. Đây là loại
hình hệ thống thân tộc phân đôi hai dòng mẫu hệ có quan hệ
thân tộc › quan trọng đỗi với ©g0: dòng mẫu hệ của chính ego và
dòng mẫu hệ của cha ego. Giống như hệ thống thân tộc lroquos,
giới tính trong mối quan hệ thân tộc rất quan trọng, đo đó, cha
mẹ và các anh chị em ruột của cha mẹ trong hệ thống thân tộc
của Crow luôn luôn có khuynh hướng qui thành nhóm cùng giới
tính với nhau. Có nghĩa là cha và anh em trai của cha cùng một
như vậy, những người anh chị em họ song song với ego cũng qui
thành nhóm cùng giới tính với anh chị em ruột ego. Hay nói
cách khác, chị em gái họ song song ghép cùng nhóm với chị em
gái ruột ego và anh em trai họ song song ghép cùng nhóm với
A0AÀ ạ
mẫu hình của sự phân đôi nhưng lại hòa vào. Hệ thống thuật ngữ
này có thể xuất - hiện trong những xã hội hoặc là dòng phụ hệ
hoặc là dòng mẫu hệ. Mẹ của ego ghép chung cùng nhóm với
những chị em gái của mẹ ego và cha của ego ghép chung cùng
315
nhóm với những anh em trai của cha ego. Đây là sự phân đôi
thành hai phía (phía cha và phía mẹ) nhưng cùng một phía thì lại
hòa vào. Giới tính đối với những mối quan hệ thân tộc trong hệ
thống này rất quan trọng. Trong khi các anh chị em ruột song
song được kết thành nhóm cùng với cha mẹ, thì các anh chị em
+ độ $ ¿
[241b4b54oCa
Nhóm hệ thống thân tộc không ghép nhóm này cho đến nay
rất hiếm. Nó có thể tìm thấy ở trong cộng đồng xã hội phụ hệ,
đặc biệt là ở Bắc châu Phi. Cụ thể điển hình cho thân tộc này là
Đối với loại hình hệ thống thân tộc của Sudan, mỗi thành
—_
Á @ Á Ò À HỘ ÁÀ @ Á @
2. DÒNG HỌ
Dòng họ là một phần quan trọng trong thân tộc và gia đình.
Dòng họ là một đơn vị xã hội trường tôn mà các thành viên của
316
nó tự cho là xuất thân từ một tổ tiên xác định căn cứ vào quan hệ
phả hệ tổ tiên và con cháu được nhận biết rõ ràng. Nó đóng vai
trò liên kết các cá nhân có cùng mối quan hệ huyết thông chung
với nhau. Đồng thời nó cũng chỉ phối khá mạnh mẽ đối với mối
Tính chất của dòng họ là sự qui định nguyên tắc liên kết các
mối quan hệ họ hàng lại với nhau thành một nhóm xã hội. Các
thành viên trong cùng một dòng họ có trách nhiệm quan tâm và
giúp đỡ lẫn nhau về mọi phương diện, đồng thời chịu sự rằng
buộc theo một quy tắc nhất định. Trong đó, thể hiện rõ nét nhất
là nguyên tắc sở hữu tài sản và nguyên tắc hôn nhân theo dòng
họ. Ví dụ như nguyên tắc sở hữu tài sản và khai thác đất đai theo
qui định của dòng họ hay nguyên tắc ngoại hôn (nghiêm cấm
hôn nhân với các thành viên trong cùng một dòng họ và xác lập
được thiết chế theo đơn hệ (Dnilineal rules) trong đó mỗi một
thành viên chỉ được thiết lập mỗi quan hệ với tộc họ thông qua
một phía giới tính mà thôi, hoặc theo phía giới tính nữ hoặc theo
phía giới tính nam. Thiết chế dòng họ theo loại hình đơn hệ này
thiết lập mỗi quan hệ giữa thành viên với nhau theo tuyến mở
rộng mối quan hệ đòng tộc đi ngược thời gian và hướng tới
tương lai. Tùy theo tập tục của mỗi nơi mà mối thiết lập quan hệ
dòng họ mở rộng theo phía nam hay phía nữ bị hạn chế hay phát
không thuộc về nhóm dòng tộc phụ hệ của mình, nhưng cha và
cha của cha mình (kể cả chị em của cha của cha ninh) thì lại
hàng trong cùng thế hệ của mình thì lại được mở rộng. Riêng
ở 317 -.
những người thuộc thế hệ con cái của mình kê cả cháu trai và
Tuy nhiên, Thặc dù những thiết chế đòng họ đơn hệ bao gồm
nhiều mối quan hệ từ những thành viên thân thuộc trong nhóm
tộc họ, nhưng trên thực tế qui mô liên kết hệ thống thân tộc
trong xã hội bị hạn chế rất nhiều cho nên ít thấy trường hợp mở
rộng sự liên kết thân tộc, thậm chí bị bỏ quên. Ví dụ trong một
cộng đồng xã hội phụ hệ có một người chết, một số thành viên
của đòng họ phụ hệ của mẹ có thê được phép tham gia một số lễ
chế dòng họ đơn hệ đơn tuyến có thể hình thành một cách rõ
Những nhóm tộc họ này hoạt động theo hệ thống đơn tuyến
(không những áp dụng đối với những thành viên đang sống mà
thậm chí kế cả những thành viên sau khi đã mất). Thông thường
đòng họ đơn tuyến gồm có hai thiết chế cơ bản: thiết chế đồng
Hầu hết loại hình đòng họ phụ hệ thường được xác định bởi
mỗi quan hệ huyết thống chỉ tính theo dòng cha. Trong các hệ
thống thuộc về dòng họ phía cha, những đứa con trong mỗi thể
hệ được xếp cùng nhóm quan hệ thân tộc của cha. Mặc dù,
những đứa con trai và con gái của người đàn ông là tất cả những
thành viên thuộc cùng chung nhóm huyết thống, nhưng chỉ được
xác định nhóm đó theo đứa con trai và những đứa con của họ.
trong cùng một dòng họ là những đứa con của những người đàn
ông ở trong các thế hệ có mối quan hệ huyết thống với cha ego.
Ngày nay, thiết chế xã hội theo đòng họ phụ hệ có thể tìm
thầy ở nhiều dân tộc đang sinh sống tại Việt Nam, trong đó có
318
_ dân tộc Kinh, Thái, Tày, Nùng,v. v... Tuy nhiên, một số đân tộc
vẫn còn mang nhiều dấu vết thiết chế dòng họ mẫu hệ, thậm chí
ở đôi nơi khó có thể xác định một cách rạch ròi giữa dòng họ
2Ÿ
Ơ ©® A
QÀ 2® A20
(bÁ(bGÁXbÁö
hệ chỉ được xác định huyết thống tính theo đòng mẹ. Trong các
hệ thống thuộc về dòng họ phía mẹ, những đứa con trong mỗi
thế hệ được xếp cùng nhóm quan hệ thân tộc của mẹ. Mặc dù,
những đứa con trai và con gái của người đàn bà là tất cả những
thành viên thuộc cùng chung nhóm huyết thống, nhưng chỉ được
xác định nhóm đó theo đứa con gái và những đứa con của họ.
Đối với các hệ thống thuộc về dòng họ này, những thành viên
trong cùng một dòng họ là những đứa con của những người đàn
319
Cho đến nay, thiết chế dòng họ mẫu hệ không còn phổ biến
nhiều ở trên thế giới, tuy nhiên chúng ta có thể tìm thấy ¿ ở một số
các dân tộc tại Việt Nam vẫn còn lưu giữ thiết chế xã hội theo
dòng họ mẫu hệ này như dân tộc Chăm, Raglai, Churu, Giarai,
-Ẻ2X0DÁö lẻ
Dòng họ thuộc nhóm đa tuyến gồm có hai loại đòng họ: đơn
. hệ và song hệ.
thuộc vào quy tắc liên “kết dòng họ Theo giới tính thay đổi liên
tục kế tiếp nhau của mỗi thế hệ. Vì vậy, tất cả những thành viên
không hoàn toàn thuộc về phía cha hay phía mẹ. Ví đụ như thế
hệ đầu thuộc phía cha, thế hệ thứ hai thuộc phía mẹ, thế hệ thứ
ba lại thuộc phía cha, thế hệ thứ tư trở lại thuộc về phía mẹ,v.v..
Cho đến nay, việc nghiên cứu đòng họ của các dân tộc ở Việt
Nam theo hướng tiếp cận của ngành nhân học chưa được nhiều
nên chưa có nhiều công trình nghiên cứu khoa học thuộc về lãnh
vực này. Tuy nhiên, một số kết quả nghiên cửu gần đây cho thấy
320
Sơ đồ 12. Dòng họ đơn hệ đa tryến
không lệ thuộc vào quy tắc liên kết dòng họ theo phụ hệ hay
mẫu hệ. Trong các hệ thống thuộc về dòng họ song hệ, những
đứa con trong mỗi thế hệ có thể được xếp cùng nhóm quan hệ
thân tộc phía mẹ hoặc cùng nhóm quan hệ thân tộc phía cha. Vì
Vậy, tất cả những thành viên không phân biệt đứa con trai hay
đứa con gái, narh hay nữ đều có mối liên hệ theo cả phía cha và
phía mẹ.
Các loại hình thiết ềhế đa tuyến thường tồn tại một rcách độc
lập và ít có mối quan hệ với nhau. Hầu như, những đặc trưng của
xã hội thường được biểu hiện thông qua thiết chế của dòng họ.
Nhưng đôi khi, tùy theo mục đích khác nhau mà người ta sử
dụng một vài nguyên tắc ngoại lệ để xác định những thành viên
có cùng mối liên hệ với tộc họ mình hay không. Tuy nhiên,
cũng có một vài loại hình xã hội mang những đặc điểm có tính
riêng biệt trong việc xác lập các thành viên trong cùng một tộc
họ được gọi là dòng họ kép (double đescent) hay còn gọi là dòng
thành viên có thể theo cả hai dòng họ (thuộc cả hai phía cha và
phía mẹ) hoặc thuộc về phía mẹ hay thuộc về phía cha, tùy theo
321
SỐ ị
Ví dụ, nếu có một hệ thống phụ hệ và một hệ thống mẫu hệ
thì các thành viên sẽ theo cả hai nhóm mà mình được sinh ra. Đó
cha. Các thành viên thuộc nhóm rnẫu hệ thì theo phía mẹ (ký
hiệu đường sọc) và các thành viên thuộc nhóm phụ hệ (ký hiệu
màu đen) thì theo phía cha. Xét về mặt nguyên tắc, các tên gọi
của mỗi cá nhân không liên quan gì đến đòng họ của mình. Nếu
có thì chỉ lẫy tên đòng họ của mình đặt kèm theo tên gọi chính
thức của mình. Theo luật tục của xã hội Bắc Mỹ, những đứa con
thường lấy tên dòng họ (last name) đặt sau tên chính (ñrst name)
của mình, đó là, tên phía sau của cha mình. Tất cả những người
có cùng một tên cuối [last narne - họ] không nhận tên của dòng
hoặc tên cha hoặc tên đặt kèm theo tên của mình. Ví dụ, trong
nhóm cộng đồng tộc người Kenya, những đứa trẻ được đặt theo
truyền thống bằng cách căn cứ vào bối cảnh và thời điểm đứa bé
sinh ra (“sanh vào buổi sáng”); tên của đứa bé không bao gồm
'tên của cha hay tên tộc họ của mình. Chỉ sau khi thực dân Anh
thiết lập nền đô hộ ở Kenya thì những đứa trẻ mới lắy thêm tên
gọi của cha đặt bên cạnh tên của mình và được trở thành thông
dụng cho đến nay như là một tên có kèm theo họ (family name).
49 | ẠO
KbÁo ÁbÁ2 kã] Áo kà
322
3. HÔN NHÂN
Hôn nhân là sự kết hợp giữa nam và nữ được hợp thức hóa
bởi các tập quán và luật pháp của xã hội, nhằm chung sống khác
giới tính với nhau để tái sản xuất ra con TgƯỜi, từ đó sản sinh
Lại có người nêu ra định nghĩa khác: Hôn nhân là một liên
minh tỉnh dục và kinh tế được xã hội thừa nhận, liên quan đến
việc gắn bó lâu đài giữa hai người trở lên. Những người này có
nghĩa vụ làm cha làm mẹ đối với một đứa trẻ được sinh ra từ
Để xây dựng một định nghĩa về hôn nhân bao quát hết tất cả
sự khác biệt giữa các nền văn hóa là việc làm hết sức khó khăn
vì luôn có ở đâu đó một nền văn hóa khác không phù hợp với
định nghĩa mà chúng ta lập ra. Tuy nhiên, các nhà nhân học có
thể đồng ý với nhau rằng, một hôn nhân thường liên quan đến:
- Một nền văn hóa được xác định mỗi quan hệ giữa một
người đàn ông và một người đàn bà từ các gia đình khác nhau,
nó quy định thông qua quan hệ tính giao và duy trì nòi giống.
- Một tập hợp các quyền lợi của vợ chồng và gia đình của
họ đối với nhau, bao gồm quyền chăm sóc đối với con cái của họ.
- Quy định các trách nhiệm tuân thủ truyền thống văn hóa
của các cặp vợ chồng hoặc của họ đối với bà con thân thuộc và
khái niệm này nhấn mạnh chức năng của hôn nhân phải
Hôn nhân là một thể chế nhằm thoả mãn nhiều loại chức
năng khác nhau. Những chức năng này bao gồm chuyền hành vi
323
tính dục thành những mối quan hệ xã hội ổn định, thoả mãn
những nhu cầu kinh tế của ñhững người kết hôn với nhau, kéo
đài các nhóm thân tộc của xã hội, cung cấp một thiết chế để
chăm nom con trẻ cho đến khi chúng trưởng thành.
_ Trong các mối quan hệ hôn nhân, quan hệ tình đục là một
thành phần quan trọng. Sự ham muốn tình đục là một động cơ
mạnh mẽ thúc đây tới hôn nhân. Trong nhiều xã hội, hôn nhân là
điều kiện tiên quyết và chính thức để có thể bắt đầu hoạt động
tình dục,.. Tuy nhiên có các mối quan hệ tình đục có thể tồn tại
mà không cần đến sự chung thủy hoặc là cam kết gắn bó với
nhau lâu đài. Trong nhiều xã hội, người ta thừa nhận các mỗi
liệu về sự đa dạng văn hóa đã chỉ ra rằng, chỉ có 27% trong 146
xã hội được thống kê thể hiện tầm quan trọng của trinh tiết phụ
nữ kết hôn. Nguồn dữ liệu này còn cho biết chỉ có 44% trong
toàn bộ mẫu 109 xã hội ngăn cắm tình dục ngoài hôn nhân đối
tính hợp pháp của các quan hệ tình đục bất chính giữa một người
phụ nữ có chồng với những người đàn ông nhất định, ví dụ như
các thầy tu, nhưng được người chồng chấp nhận. Trong xã hội
được sùng kính và thường được thể hiện như là một phần trong
nghi lễ thần thánh tại nơi trang nghiêm như là đền thờ được chấp
nhận. Mặc dù các liên minh tình dục được xã hội: chấp nhận,
chúng thiếu cam kết công khai về một mối quan hệ lâu dài và sự
thuỷ chung về tình dục, những điều vốn là những đặc điểm dễ
nhận biết của hôn.nhân. Sự ràng buộc của hôn nhân sẽ làm giảm
đi sự xung đột tiềm tàng quan hệ tình dục đối với nhiều cá nhân
324
* Thiết lập các gia đình hạt nhân mới và xác định quyền
Việc kết hôn sẽ tạo ra một gia đình rmới vì lợi ích củả các
ra. Nhóm mới này thường đáp ứng những nhu cầu cơ bản của
mỗi thành viên về ăn, ở, mặc; con cái được nuôi dạy và nhập
thân văn hóa từ lúc sinh ra cho tới lúc trưởng thành và cuối cùng
Tập quán hôn nhân vốn rất đa dạng ở các cư dân và các dân
tộc, nhưng trong từng xã hội hôn nhân đã thể chế hóa những
quyền lợi và nghĩa vụ cụ thể cho những thành viên trong gia
đình. Hôn nhân sẽ hình thành các ràng buộc xã hội được thể chế
hoá một cách hợp pháp mối quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha
mẹ với con cái. Trong quan hệ tình dục, người chồng và người
vợ mỗi người đều có quyền quan hệ tình dục đối với người kia
một chồng, trong trường hợp này một người chồng/ vợ sẽ chia sẻ
quyền về tình đục đối với nhiều vợ/ chồng). Người chồng hay vợ
có toàn quyền hay một phần quyền đối với thành quả lao động
và tài sản của người khác và khối tài sản chung cần được thiết
lập vì lợi ích của con cái trong cuộc hôn nhân.
Trong các xã hội không thuộc phương Tây, hôn nhân tạo ra
các liên minh giữa những họ hàng của hai vợ chồng. Chúng ta
có thể cảm thấy rằng, những người có mối quan hệ huyết thống
của một đôi vợ chồng không nên hay nên ít dính líu đến cuộc
hôn nhân của hai người đó, nhưng thực tế có sự liên quan sâu
sắc và kéo dài của những người họ hàng được xem như là
mỗi quan hệ rộng hơn giữa những người họ hàng của một đôi vợ
chồng, các nhà nhân học dùng thuật ngữ quan hệ thích tộc
325
(affinity). Nếu như hôn nhân nhằm chỉ các mối quan hệ giữa
một đôi kết hôn với nhau thì quan hệ thích tộc nói đến quan hệ
này cộng với những mối quan hệ giữa bai vợ chồng đó với
quan hệ với nhau qua hôn nhân là những: người họ hàng thân
thích. Thông qua hôn nhân tạo nên các mối dây ràng buộc này
gọi là liên minh thích tộc nhăm thể hiện các chức năng sinh tổn,
chính trị, luật pháp, kinh tế và xã hội vì lợi ích của những người,
liên quan.
thân thích là mang đến cho họ những thứ cần thiết cho Cuộc -
sống như tặng thức ăn, quà cáp, tiền bạc vào địp cưới hỏi, sinh
con, tang ma hay các dịp khác. Tập quán này đóng vai trò hữu
Ích để giúp đỡ chia sẻ với nhau nhất là những lúc khó khăn.
Một nghĩa vụ khá phổ biến là những người họ hàng thân thích có
trách nhiệm bảo vệ lẫn nhau khi có chiến tranh hay các tranh
mặt xã hội, kinh tế, chính trị mà còn chỉ phối phong tục lễ nghỉ
qua việc chuyển giao hàng hóa, dịch vụ giữa một người chồng,
người vợ và các thành viên trong gia đình. Nó được phân phối
vào lúc cưới hay như là một phần kéo đài liên tục trong suốt
cuộc hôn nhân. Các nhà nhân học dùng các thuật ngữ như sính
. lễ, ở rễ và của hồi môn để phân biệt các loại hàng hoá và dịch vụ -
Sính lễ: là tài sản được chuyển từ gia đình chú rể đến gia
đình cô dâu vào đám cưới. Có đến 3/4 các xã hội trên thế giới
Hãy CÔ thỏa thuận hôn nhân gắn liền với việc quyết định xem gia
đình chú rễ tương lai sẽ phải đền bù cho gia đình cô dâu tương
lai bao nhiêu. Giá trị của sính lễ này phụ thuộc vào giá trị của cô
dâu ( được đo bằng năng lực lao động và sinh con). Sính lễ có
thể là động vật, tiền bạc, nhà cửa, trang sức hay quần áo được
326
coi là những thứ có giá trị cao trong xã hội. Số lượng và chất
lượng của sính lễ tùy thuộc vào sự giàu có hay danh tiếng của
gia đình chú rễ trong tương quan với gia đình cô dâu và tầm
quan trọng về mặt xã hội của cuộc hôn nhân ấy. Nhìn chung thì
gia đình chú rễ càng có nhiều quyền thì sính lễ càng lớn. Điều đó
đặc biệt đúng trong xã hội phụ hệ với quyền quan trọng nhất mà
gia đình chú rễ có được là quyền tuyên bố bất kỳ đứa con nào do
người vợ sinh ra đều là thành viên của nhóm ấy. Mặc dù sính lễ
phổ biến trong xã hội phụ hệ, nhưng nó vẫn xảy ra trong xã hội
mẫu hệ. Trong xã hội mẫu hệ, con cái sinh ra đều thuộc tông tộc
của người vợ, vì vậy cuộc hôn nhân mang lại lợi ích cho bên
Tục ở rễ: Ở rễ là một hình thức đền bù khác cho gia đình
cô đâu dưới hình thức lao động của chú rể. Tư liệu của các nhà
Nhân học cho biết có 24% các xã hội mà các nhà Nhân học
nghiên cứu có tục ở rễ. Nó đặc biệt phổ biến trong xã hội của
người du mục là cư dân không có sự tích luỹ tài sản cần thiết cho
việc chỉ trả quà sinh lễ. Ở Yanomamo, con rễ thường phải sống
với cha mẹ vợ, giúp đỡ cha mẹ vợ sẵn bắn, làm vườn cho đến
khi cha mẹ vợ cho phép được quyền quyết định đối với con gái
của họ. Thời gian ở rễ có thể có đến khi cô vợ có con đầu lòng,
đôi khi kéo dài cho đến khi người cha vợ qua đời.
Của hồi môn: Trong của hồi môn lợi ích chây ngược chiều
với quà sính lễ hay việc làm rễ. Theo phong tục văn hoá thì của
hồi môn là phần của cải cha mẹ bên vợ cho con gái của mình đi
lấy chồng hoặc gia đình nhà chồng cho con đâu. Của hồi môn
thường là hàng hóa, nữ trang, đồ vàng bạc, đồ vật gia dụng hay
gia súc,... Của hồi môn thường được thực hiện rộng rãi ở cả
châu Á và châu Âu. Tập quán này có thê bắt nguồn từ những nơi
mà đất đai được thừa kế bởi con trai, vì vậy đây là một cách mà
cha mẹ có thể tính cả cho con gái như là người thừa hưởng tài
sản của họ. Giống như quà sính lễ và việc ở rễ, của hồi môn
phân ánh địa vị của người phụ nữ trong cuộc hôn nhân. Quà sính
327
4#
__ lễ và ở rễ thường khi địa vị của người phụ nữ là cao; còn của hồi
môn lại có khả năng xảy ra khi địa vị của người phụ nữ là thấp.
Của hồi môn tồn tại phổ biến trong xã hội nông nghiệp hoặc là
chăn nuôi mà trong đó hàng hoá được sản xuất ra đề trao đổi trên
thị trường và có sự phân biệt sự giàu có giữa các gia đình. Của
hồi môn được xem như một loại thừa kế tài sản gia đình của
người phụ nữ, nó giữ gìn của cải của gia đình bởi việc làm lợi
Hôn nhân là một thiết chế xã hội, luôn là đối tượng kiểm
soát của xã hội. Từ khi hình thành xã hội loài người, hôn nhân
chịu sự kiểm soát của xã hội bằng phong tục tập quán, và sau đó
cùng với tập quán là pháp luật. Mỗi một nền văn hóa đều có
những quy tắc khác nhau tác động đến việc lựa chọn đối tượng
kết hôn. Có một số quy định hạn chế sự lựa chọn bằng cách loại
ra một số người không thể làm đối tượng kết hôn. Những quy
tắc khác thì lại ràng buộc hôn nhân trong một vài tiêu chí xã hội
nhất định.
Chế độ ngoại hôn liên quan đến sự nghiêm cấm loạn luân.
Khái niệm loạn luân chỉ VIỆC quan hệ tính giao như vợ chồng với
người bà con gần gũi về mặt huyết thống như cha mẹ và con cái,
anh em trai và chị em gái và thường là những người họ hàng.
khác nữa. Nền văn hoá nào cũng có những cắm kị đối với điều
này. Mặc dù sự cắm kị loạn luân mang tính phổ quất, song các
cộng đồng cư dân trong các xã hội khác nhau xác định quan hệ
khác nhau, như vậy cũng có nghĩa là quan hệ loạn luân theo
những cách khác nhau. Thí đụ người Việt cắm quan hệ hôn nhân
giữa anh chị em cùng cha khác mẹ, hoặc anh chị em cùng mẹ
khác cha. Các dân tộc Tây Nguyên trước đây phạt vạ rất nặng
đối với những trường hợp loạn luân buộc họ phải cởi truồng và
ăn vào máng lợn, phải nộp trâu trắng để cúng giàng (yang).
328
Có nhiều lí thuyết được đưa ra để giải thích cho sự tồn tại
của điều cắm ky loạn luân trong các xã hội khác nhau.
Lí thuyết sinh học giải thích về mặt đi truyền cho rằng một
em bị khuyết tật. Cách giải thích này cho đến hiện nay chưa
được chứng minh một cách thuyết phục về mặt khoa học.
Lí thuyết phân tâm học của Sigmund Ereud nhà phân tâm
học đã mượn truyền thuyết trong thần thoại Hy Lạp, ông đặt tên
là mặc cảm Oedipus: một đặc điểm tâm lý ở trẻ nhỏ từ ba đến
năm tuổi, đứa trẻ thể hiện sự quý mến người sinh thành ra mình,
thuộc giới tính khác mình nhưng lại đố ky và căm ghét bậc phụ
huynh cùng giới tính với mình. Một cách tiếp cận phân tâm học
khác vân được ủng hộ dựa trên ý trởng “quen quá hoá thường”
của Westermark rằng, trẻ con được. nuôi nắng củng nhau đơn
giản là không có vẻ gì bị cuốn hút về mặt tình dục đối với nhau
đo một loại nhân tố nhàm chán. Nhiều người nghiên cứu đề xuất
rằng, thanh niên có xu hướng thích người lạ. Tuy nhiên, những
cách giải thích phân tâm học không giải thích được một thực tế
Lí thuyết giải thích về mặt xã hội đựa trên nền tảng xã hội
nhà nhân học khác cho rằng, nếu như loạn luân được cho phép
trong gia đình hạt nhân thì sự cạnh tranh tình dục giữa các thành
viên trong gia đình sẽ gây ra nhiều sự đối đầu với nhau dẫn đến
gia đình ấy tắt phải diệt vong. Sự cắm ky loạn luân sinh ra là để
Thuyết giải thích dựa vào sự hợp tác của Tylor và sau đó là
Levi Strauss cho rằng, để sống sót trong môi trường đầy khó
khăn của người tiền sử, các gia đình hạt nhân buộc phải hợp tác
với nhau. Nhằm thúc đây sự hợp tác, những người tiền sử quyết
định gia đình hạt nhân phải thực hiện ngoại hôn, buộc người
thành niên phải tìm kiếm người phối ngẫu ở những gia đình
khác. Kết quả là sự gắn kết giữa các gia đình được thiết lập
329
thông qua hôn nhân, đã quyện chặt các gia đình riêng lẻ thành xã
hội. Lí thuyết này chỉ. giải thích được tại sao họ bị cắm kết hôn
với nhau mà thôi, chứ không giải thích được tại sao thành viên
của một gia đình hạt nhân bị cắm quan hệ tình dục với nhau.
rằng, việc ngăn cấm loạn luân là một phương thức gián tiếp buộc
mỗi thế hệ mới phải cưới người ngoài gia đình ruột của mình.
Nếu tình dục không thể có giữa cha mẹ và con cái hoặc giữa anh
chị em ruột thì hôn nhân giữa những người này không thể có.
Bạn tình phải ở ngoài gia đình ruột và những quan hệ này khi
được hợp thức hoá thành các cuộc hôn nhân thì sẽ trở thành nền
tảng cho sự liên mỉnh về kinh tế và chính trị giữa các gia đình
thông qua những người có thể yêu cầu hỗ trợ trong lúc cần kíp
về mặt kinh tế hoặc là xung đột chính trị. Những gia đình cho
trong cuộc cạnh tranh với các gia đình mạnh hơn do có đồng
mỉnh tham gia. Tiếp cận này xem xét cắm ky loạn luân như một
quy luật có tính văn hóa, có giá trị thích ứng và nó được hỗ trợ
bởi các nghiên cứu mới đây cho rằng loạn luân phổ biến hơn
Một khi hôn nhân có tầm quan trọng trong thực tiễn đối với
gia đình thì nền văn hóa đó thường có những hướng dẫn chính
thức về việc ai là người nên hay không nên kết hôn. Các quy tắc
như thế làm tăng khả năng rằng sự an lành trên thực tế của một
nhóm dòng họ được thúc đẩy. Ví dụ phổ biến nhất của những
hướng dẫn kết hôn là các quy tắc ngoại hôn (exogamy rule) bắt
buộc kết hôn với bên ngoài một nhóm nhất định chẳng hạn như
Quy tắc ngoại hôn không chỉ đơn thuần là việc mở rộng của
điều cắm ky loạn luân. Cắm ky loạn luân kiểm soát một cách cụ
thể hành vi tính đục, trong khi quy tắc ngoại hôn còn làm hơn cả
thế; chúng kiểm soát quyền kết hôn. Khi một người-tính đến
330
chuyện kết hôn, quy tắc ngoại hôn có thể loại bỏ nhiều người là
Vì vậy, quy tắc ngoại hôn có thể đòi hỏi một người có thể kết
hôn ngoài đơn vị cư trú cũng như ngoài gia đình ruột của mình.
Trong một vài xã hội, một địa phương được phân chia thành hai
nhóm, nói một cách khác là hai nửa, mỗi nhóm là nhóm ngoại
hôn đề thành viên của mỗi nửa luôn kết hôn với người ở nửa kia
và mỗi nửa có trách nhiệm và quyên lợi. tương hỗ đối với nhau.
Chẳng hạn, thành viên của một nửa này có thể trở thành chủ
Ngược với ngoại hôn, quy tắc nội hôn (endogamy rule) đòi
'hỏi rằng hai người kết hôn phải là thành viên của một nhóm thân
tộc, một nhóm xã hội hoặc là một nhóm địa phương nào đó.
Mục đích của nội hôn nhằm duy trì Tào cản xã hội giữa những
nhà Trần, chỉ cho phép kết hôn trong nội bộ đòng họ Trần để
tránh sự khuynh loát của dòng họ khác thông qua hôn nhân để
tranh dành quyền lực chính trị. Có những địa phương quy tắc nội
hôn bắt buộc người ta phải lầy người cùng làng, cùng sinh hoạt
trong nhà thờ, hay là thuộc vê một giải cấp xã hội. Trong chế độ
đẳng cấp truyền thống ở Ấn Độ, đối tượng kết hôn của một
người bị giới hạn nghiêm ngặt trong vòng đẳng cấp của người
đó nhằm tránh làm vẫn đục nghỉ lễ: tôn giáo Hindu ngăn cản
việc tiếp xúc thể xác giữa các thành viên của đẳng cấp thấp với
tầng lớp thượng lưu trong xã hội.
như có ba khả năng kết hôn: một người nam và một người nữ
kết hôn với nhau, một người nam có thể kết hôn với hai hay
_ nhiều phụ nữ cùng một lúc; một người phụ nữ có thể kết hôn với
hai hay nhiều người nam cùng một lúc. Vì tất cả chúng ta đã biết
331
trước về sự đa dạng của hành vi con người nên chúng ta cũng
không khỏi ngạc nhiên khi biết rằng các loại hình hôn nhân này.
cùng tồn tại. Tuy nhiên, chúng ta cũng sẽ ngạc nhiên khi biết
được rằng, trong vài xã hội, hôn nhân không phải chỉ có với một
hay nhiều người nam người nữ cụ thể mà hôn nhân còn | Hãng ý
Trong nhân học, có sự phân biệt hai loại hình hôn nhân
chính: đơn hôn (monogamy) là hôn nhân cho phép lẫy một vợ
hoặc một chồng; phức hôn (polygamy) là hôn nhân cho phép có
Là hình thức hôn nhân chỉ cho phép lấy một vợ hoặc một
chồng, là hình thức hôn nhân hợp pháp đuy nhất được tìm thấy
trong các xã hội hiện đại. Ngày nay, một số quan sát viên cho
nhưng không chỉ với một người trong cả đời người mà có thể
cưới nhiều người khác nhau nhưng không cùng vào một lúc.
Là loại hình hôn nhân mà trong đó các con của anh em trai
được phép thiết lập mối quan hệ hôn nhân với các con của chị
em gái ruột mà theo hệ thống thân tộc của người Việt thường
gọi là hôn nhân con cô — con cậu (các con của ông cậu và các
'con của bà cô có thế lấy nhau). Loại hình hôn nhân này thường -
phổ biến trong các dân tộc theo chế độ mẫu hệ như dân tộc
Chăm, Raglai, Churu, Jarai, Êđê, K'Ho,....
Sơ đồ 14. Loại hình hôn thận anh chị em họ chéo hai chiều
TỶ vế nh
332
Trong một số trường hợp, hôn nhân anh chị em họ chéo
không phải lúc nào cũng được thực hiện mang tính tự nguyện.
Tùy theo mục đích và lợi ích khác nhau, hôn nhân anh chị em họ
chéo bắt buộc phải thực hiện theo sự chỉ định của gia đình hay
đòng họ.
Cho đến nay, loại hình hôn nhân anh chị em họ chéo vẫn
còn thực hiện theo hai trường hợp: trường hợp hôn nhân anh chị
em họ chéo quan hệ hai chiều và trường hợp hôn nhân anh chị
Hiện nay, trong cộng đồng người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận
vẫn còn thực hiện hôn nhân anh chị em họ chéo theo hai chiều.
Nhưng ngược lại, cộng đồng người Chi ở tỉnh Lâm Đồng chỉ
thực hiện hôn nhân anh chị em họ chéo một chiều, đó là chiều
quan hệ hôn nhân với con gái của anh em trai của mẹ.
mưrriage)
Là loại hình hôn nhân mà trong đó con của anh em trai của
cha Ego (tức là con chú, con bác) và con của chị em gái của mẹ
Ego (tức là cơn đì) có thể lây nhau và được khuyến khích. Do
đó, người ta thường hay gọi là hôn nhân con chú con bác — con
- đi con đà.
333
Sơ đồ 16. Loại hình hôn nhân anh chị em họ song song
và Sororate)
Là loại hình hôn nhân được thực hiện khi vợ hay chồng đã
mất. Nếu chồng mắt có thể lấy anh hoặc em trai của chồng, nếu
vợ mất có thể lấy chị hoặc em gái của vợ. Loại hình hôn nhân
hôn nhân phổ biến ở trong các xã hội mẫu hệ truyền thống của
Điền hình như tục cuê nuê ở người Êđê. Theo loại hình hôn nhân
này, những người đàn ông cùng đòng họ trong một thế hệ,
những người là anh em ruột, anh em họ với nhau có thể kết hôn
với những người đàn bà cùng thế hệ, những người là chị em
ruột, chị em họ của nhau ở một dòng họ khác bất kì. Trong
trường hợp tục nối nòi cuê nuê, tập quán pháp của người Êđê qui
định rõ ràng và chặt chẽ mà ngày nay đã trở thành những thành
334
Sơ đồ 17. Hôn nhân anh em chồng -
sh
- Đa thê (Polygvny)
Là hình thức hôn nhân cho phép một người đàn ông có thể
cưới nhiều vợ và sống với những người vợ này trong cùng một
lúc. Chế độ này thay đổi tùy theo từng xã hội, nhưng với điều
kiện là người đàn ông này phải có khả nâng cấp dưỡng cho các
bà vợ cũng như con cái của các bà một cách đồng đều. Do vậy
chế độ đa thê rất tốn kém. Trường hợp này có thể tìm thấy trong
cộng đồng của. người Hồi giáo như cộng đồng người Chăm Hồi
giáo ở Việt Nam và trên thế giới. Hoặc khi người vợ bị mất sức
lao động hoặc không có khả năng sinh con thì cho phép người
335,
đàn ông được quyền lấy thêm vợ thứ hai, nhưng với điều kiện
người quyết định lựa chọn người vợ thứ hai là người vợ thứ nhất
chứ không phải là người chồng. Đây là trường. hợp phổ biến ở
một số dân tộc trên thế giới, trong đó có cộng đồng người Chăm
- Đa phu (Pobandry)
Là hình thức hôn nhân cho phép một người phụ nữ sống
chung với nhiều ông chồng, nhưng chế độ đa phu đáng được
nhìn một cách thận trọng hơn, nó có ý nghĩa khác với các chế độ
một vợ một chồng hay chế độ đa thê. Chế độ đa phu ít phổ biến
và thường chỉ diễn ra rong điều kiện hết sức đặc thù. Phần lớn
các cộng đồng. có chế độ đa phu trên thế giới tập trung ở các
chung một phụ nữ. Trong đó người. anh lớn tuổi nhất đóng vai
trò chú rẻ, tất cả các anh em này đều bình đẳng trong quan hệ
giới tính với người vợ và tất cả đều là cha của các đứa con.
Trường hợp người Tây Tạng du canh và chăn nuôi đu mục sơn
dương là điển hình cho chế độ này. Chế độ hôn nhân này có tính
hợp lí nhất định vì nó phù hợp với hoàn cảnh đàn ông phải chăn
tuÔi gia súc, vắng mặt lâu ngày, do đó phải có người thay phiên
nhau ở nhà chăm sóc gia đình. Nó liên quan sâu xa đến chế độ
: phụ hệ-con trưởng vì tránh sự chia nhỏ đất đai canh tác vến rất
Là loại hình hôn nhân, mà một người đàn ông được phép
cưới các chị em, về mặt hình thức nó cũng giống loại hình hôn
nhân trong chế độ đa phu huynh đệ. Nhưng trong hệ thống này,
336
3.5. Các hình thức cư trú sau hôn nhân
Khi cặp vợ chồng mới cưới sống với gia đình cha chồng
được gọi là cư trú bên chồng. Đây là hình thức cư trú thịnh
hành nhất trong thế giới ngày nay. Loại hình cư trú này tạo ra
một cách thức tập hợp đặc biệt những người đàn ông có quan
hệ họ hàng với nhau: một người đàn ông, anh em trai của họ,
con trai của họ cùng với các bà vợ, tất cả cùng sống và làm việc
-, với nhau. Ta
Khi cặp vợ chồng mới cưới sống với hay gần với gia đình
bên vợ, hình thức cư trú này được gọi là cư trú bên vợ, thường
thấy nhất trong các xã hội mẫu hệ. Ở đây, nồng cốt của xã hội
bao gồm một phụ nữ, các chị em gái của bà và các con gái của
mới cưới sống với cậu hay gần với anh hay em trai của mẹ
chồng. Cậu, tức anh hay em trai của mẹ, là người đàn ông quan
trọng nhất trong dòng họ bên mẹ. Anh ta sẽ là người thừa kế của
người cậu này, và vì vậy đã làm nổi bật mối quan hệ này. Loại
Là loại hình không giống với ba loại hình thức cư trú trên,
tức là khi cặp vợ chồng mới cưới sẽ không sống gần với gia đình
bên vợ hay bên chồng của họ, mà là tách ra ở riêng chỗ mới một
cách độc lập. Loại hình cư trú niày cũng được tìm thấy trong xã
337
4. GIÁ ĐÌNH
Tìm hiểu gia đình trước hết phải cắt nghĩa được gia đình là
8Ì, gia đình khác với các thiết chế xã hội khác như công xã, dòng
họ như thế nào? Sự khác biệt giữa gia đình và các hình thức tổ
chức xã hội nói trên là ở chỗ; gia đình được thiết lập trên cơ sở
gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân (vợ với chồng), quan hệ
cầu trúc riêng, là sự tổ chức các mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình về mặt xã hội-sinh học, kinh tế, pháp lí, đạo đức,
Con cái, giữa những người anh chị em cùng chung sống và từ đó -
Gia đình là một thiết chế xã hội mang tính lịch sử và hết sức
đa đạng trong các nên văn hóa, đặc biệt nó có sự biến đổi rất lớn
trong xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp. Để có thể bao quát
tất cả các hình thức khác nhau đó, có người đưa ra một định
xem mình có quan hệ với nhàu, phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và
cùng chia sẻ với nhau trách nhiệm nuôi dạy con cải trong gia
đình của mình. Định nghĩa này đủ rộng để có thể bao quát không
chỉ những cá nhân có quan hệ với nhau qua huyết thống hay là
này nhưng tự xem mình là có quan hệ (ví dụ như cặp đồng giới
sinh học, tất cả mọi đứa trẻ đều có bố và me, song cương vị làm
l cha, làm mẹ có tính xã hội và văn hóa chứ không đơn thuần là
về mặt sinh học. Trên thực tế có những trường hợp người bố, mẹ
- vỀ mặt sinh học khác với bố mẹ được xác định về Tnặt văn hóa.
338
Người bố sinh học được gọi là genitor (người đàn ông sản sinh)
và người cha được thừa nhận về mặt xã hội gọi là pater (cha,
tiếng Latin); người mẹ sinh học được gọi la gentrix (người đàn
mater (mẹ). Vai trò sinh học và xã hội thường tách ra trong
trường hợp con (bố, mne) nuôi. Trong các xã hội phụ hệ, chẳng
hạn người Karen thường có tình trạng người pater được xác
định là chồng của người phụ nữ, vì người ta biết rằng ông ta
Cho đến nay, có nhiều quan niệm khác nhau khi xác định
qui mô, cơ cấu tổ chức gia đình. Nhưng bản chất của gia đình là
loại hình chung sống của cặp nam nữ được liên kết lại nhờ hôn
nhân nhằm tái sản xuất và thực hiện những chức năng trong lĩnh
vực đời sống. Cho nên, qui mô cơ cấu gia đình thường được
quyết định chủ yếu bởi quan hệ hôn nhân và quan hệ kinh tế của
các cặp hôn nhân sinh sống trong một căn nhà hay trong một
Việc phân loại loại hình gia đình lâu nay có nhiều ý kiến
khác nhau. Có người lẫy tiêu chí là phân theo thế hệ, có người
lấy tiêu chí phân theo số lượng thành viên trong gia đình. Nhân
học thường dựa vào tiêu chí là số cặp kết hôn để phân loại các
loại hình gia đình. Nếu căn cứ vào tiêu chí này thì gia đình có
hai loại hình chủ yếu là gia đình hạt nhân và gia đình mở rộng.
* Gia đình hạt nhân (Nuclear fnunlp)
Gia đình hạt nhân là loại hình gia đình bao gồm hai thế hệ:
một cặp vợ chồng và những đứa con chưa lập gia đình và nó có
thể mở rộng thêm khi có thêm những người họ hàng độc thân.
Mỗi thành viên của gia đình hạt nhân đều có nhiều mối quan hệ
339
khác nhau như quan hệ giữa chồng với VỢ, giữa con cái với nhau
và giữa cha mẹ với con cái. Mối quan hệ này thường biểu hiện
rõ nét trong tiểu gia đình một vợ một chồng, cho nên thường hay
gọi gia đình cá thể hay gia đình đơn giản. Đây là loại hình gia
đình phô biến nhất hiện nay. Trong chu kì của gia đình, gia đình
hạt nhân còn có các dạng sau: gia đình hạt nhân trọn vẹn (bố mẹ
và con cái); gia đình nhỏ không trọn vẹn (vợ hoặc chồng và các
bao gồm tối thiểu từ hai cặp vợ chồng trở lên và những đứa con
của họ có khả năng tồn tại độc lập như một gia đình. Có nghĩa là
ngoài số lượng cặp vợ chồng, chúng ta phải xem xét các khía
cạnh khác như hình thức sở hữu của gia đình đối với ruộng đất,
tài sản, cung cách sản xuất và quan hệ chỉ tiêu trong gia đình.
Gia đình có sự mở rộng số lượng của các thành viên theo hai
thế hệ: thế hệ cha mẹ, thế hệ con cái đã có vợ chồng và thế hệ
cháu, ... cùng sống chung trong một gia đình. Trong trường hợp
gia đình mở rộng theo chiều ngang (bàng hệ) thì các anh em trai
sau khi lấy vợ hoặc các chị em gái sau khi lấy chồng vẫn cùng
sống chung với nhau trong một gia đình, cho nên thường hay gọi -
đại gia đình, gia đình nhiều hộ, gia đình liên kết hay gia đỉnh
phức hợp.
Trong gia đình mở rộng việc chăm sóc con cái không nhất
thiết là công việc của bố mẹ mà cả anh em, ông bà hợp tác chăm
SÓc con cái. Đặc trưng của đại gia đình là người ta nhận được sự
giúp đỡ và hỗ trợ từ nhiều phía trong tất cả các mặt sản xuất và
tiêu thụ, nhưng kiểu gia đình này không phù hợp với cuộc sống
có độ di động cao.
340
Tất cả các hình thái gia đình mở rộng (hay đại gia đình)
được gọi chung là gia đình phức hợp (cormposite family) để đối
lập với gia đình hạt nhân khi được gọi là gia đình cơ bản
(elemenftary family).
Đặc tính của cơ cầu gia đình thường dễ thay đổi theo thời
gian. Khi một cặp vợ chồng mới cưới và ra ở riêng, sau một thời
gian có một đứa con ra đời thì gia đình của họ trở thành một gia
đình hạt nhân (gồm hai thế hệ cha mẹ và đứa con). Nếu ông nội
và bà nội chuyển đến sống chưng với họ, gia đình này sẽ trở
thành một gia đình mở rộng. Nhưng một thời gian sau, ông nội
và bà nội mất, gia đình của họ lại trở thành gia đình hạt nhân. Và
khi đứa con lớn lên lập gia đình chưa ra ở riêng thì gia đình này
Bàn về chức năng của gia đình Ph. Ăng ghen viết: “Theo
quan điểm duy vật, nhân tố . quyết định trong lịch sử, quy cho
cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản
thân sự sản xuất đó có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu
thiết để sản xuất ra những thứ đó. Mặt khác là sự sản sinh ra
chính bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những thiết
chế xã hội trong đó con người của một thời đại lịch sử nhất định
và của một nước nhất định đang sống là đo hai loại sản xuất đó
quyết định, một mặt do trình độ phát triển của lao động và mặt
Gia đình có nhiều chức năng, nhưng nhìn chung có thể qui
Việc quan hệ tình dục để tái sản xuất ra con người là chức
năng cơ bản của gia đình. Gia đình là nơi đảm bảo trật tự môi
!-C. Mác, Ph. Ăng ghen. NXB Sự thật, 1984, tập 6, tr.28.
341
quan hệ giới tính trong xã hội loài người và đồng thời còn là nơi
bảo tồn nòi giống của một tộc người. Chức năng này được thực
hiện qua nhiều mối quan hệ hôn nhân, quan hệ thân tộc, quan hệ
đòng họ, quan hệ kinh tế, quan hệ lao động, quan hệ tài sản,
quan hệ xã hội,v.v... Nhiều đân tộc ở Việt Nam quan niệm gia
đình “có phúc” là gia đình “có nhiều con cháu, nhiều của cải”.
Đối với các dân tộc theo chế độ mẫu hệ, những của cải do gia
đình tạo ra sẽ ưu tiên cho các con gái được thừa hưởng khi lập
gia đình mới và được quyền sống chung cùng với gia đình cha
mẹ. Ngược lại, đối với các dân tộc theo chế độ phụ hệ, những
của cải do gia đình tạo ra sẽ ưu tiên cho các con trai được thừa
hưởng khi lập gia đình mới và được quyền sống chung cùng với
Cùng với các chức năng khác, gia đình thực hiện chức năng
kinh tế, nghĩa là tiến hành hoạt động kinh tế nhằm chăm lo cuộc
sống vật chất cho gia đình. Chức năng kinh tế gồm có hai tiểu
chức năng: chức năng sản xuất và chức năng tiêu dùng.
đình đóng vai trò quan trọng như là một đơn vị sản xuất. Việc
phân công lao động trong gia đình phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế và truyền thống văn hoá tộc người. Trong xã hội
nông nghiệp, phân công lao động chủ yếu theo giới tính và tuổi
tác. Nam giới thường làm những công việc nặng nhọc, sản xuất
ra của cải vật chất, nữ giới sản xuất hàng tiêu dùng, nội trợ và
chăm sóc con cái. Ở các dân tộc theo mẫu hệ như người Êđê,
Gia rai, phụ nữ là người chủ gia đình, đồng thời là người quản lí
tài sản và phân phối lương thực, đồ tiêu dùng cho các cá nhân.
môn hóa theo nghề nghiệp, gia đỉnh không còn là đơn vị sản
xuất mà là đơn vị tiêu đùng. Các thành viên trong gia đình đóng
góp tiền bạc vào việc tiêu đùng chung và mọi người lại có những
342
Chức năng tiêu dùng đóng một vai trò quan trọng trong sinh
hoạt kinh tế gia đình. Những "phương tiện vật chất để gia đình
tồn tại hình thành từ các nguồn, các dạng thu nhập khác nhau.
Đó là thành quả bằng hiện vật hay tiền bạc do các thành viên
-đem lại trở thành tài sản chung của gia đình. Đó là lương thực,
nhà cửa, quần áo, phương tiện đi lại, đồ đừng trong nhà phục vụ
Chức năng văn hoá giáo dục là một chức năng quan trọng
của gia đình. Không ai khác, gia đình là môi trường xã hội đầu
tiên để hình thành nhân cách. Tâm lí học cho biết tình cảm và
nhân cách của cá nhân thường được hình thành ngay từ tuổi ấu
thơ. Đứa trẻ mới sinh ra bỡ ngỡ bước vào đời, không khí yêu
thương của những người trong gia đình gây cho nó một cảm giác.
yên (âm với xung quanh- một bộ phận loài người sống bên cạnh
nó. Từ thuở trong nôi, gia đình đã nuôi đạy cho đứa trẻ, trao
truyền cho nó những di sản của văn hóa dân tộc: học ăn, học nói
bằng tiếng dân tộc, bắt chước bố Tnẹ, người thân từ lời nói, cử
chỉ, hành vi và mọi qui tắc trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
Qua giáo dục gia đình, trẻ em được xã hội hóa để hình thành
nhân cách. Chúng ta thấm thía biết bao nhiêu câu nói của ông
Cần nhấn mạnh rằng, gia đình là môi trường hình thành
nhân cách của mỗi con người vì nó thực hiện chức năng xã hội
hóa và chính gia đình truyền lại cho con cháu những đi sản văn
hóa, tạo ra những định hưởng giá trị. Chính gia đình giáo dục
cho con cháu những phẩm chất đạo đức, những giá trị văn hóa
dân tộc và để chúng tự ý thức, nhận biết về dân tộc mình. Những
truyền thống văn hóa của mỗi tộc người có những nét khác nhau
và những đứa trẻ đã mang theo mình những sắc thái văn hóa
343
5. TÓM TẮT CHƯƠNG
viên xác lập mối quan hệ thông qua hệ thống huyết tộc bao
gồm mối quan hệ dòng tộc, mối quan hệ hôn nhân và mối qua
hệ gia đình. Vì vậy; việc nghiên cứu hệ thống thân tộc là một
trong những lĩnh vực nghiên cứu quan trọng trong ngành dân
Thuật ngữ thân tộc là thuật ngữ dùng để gọi những người có
cùng quan hệ huyết tộc với ta. Thuật ngữ thân tộc có một ý
nghĩa rất lớn, nó có thể phản ánh mối quan hệ xã hội trơng đối
xa xưa. Vì vậy, ý nghĩa của việc nghiên cứu hệ thống thân tộc
còn giúp cho chúng ta có thể dựng lại mối quan hệ xã hội trong
Căn cứ theo kết cấu thuật ngữ, chúng ta có thể chia thuật
ngữ thân tộc làm ba loại: thuật ngữ cơ bản, thuật ngữ ghép và
Dòng họ là một phần quan trọng trong thân tộc và gia đình.
Dòng họ có vai trò liên kết các cá nhân có cùng mối quan hệ
huyết thống chung một tổ tiên; đồng thời nó cũng chỉ phối khá
hóa bởi các tập quán và luật pháp của xã hội, nhằm để chung
- sống giới tính với nhau để tái sản xuất ra con người, từ đó sản
sinh những quyền hạn và trách nhiệm của vợ chồng trong quan
hệ với nhau và với con châu của họ.
_ Tùy theo thiết chế xã hội của mỗi tộc người mà có loại hình
hôn nhân gia đình thích ứng với nó. Nhưng tựu trung, có các loại
hình hôn nhân và chế độ hôn nhân gia đình tiêu biểu như: loại
hình đơn hôn và phức hôn với các hình thức khác nhau.
Gia đình là một phạm trù lịch sử, một tế bào quan trọng
của xã hội, một lĩnh vực khá phức tạp bao gồm nhiều khía
344
cạnh và các quan hệ khác nhau như: xã hội —- sinh học, sản
xuất - kinh tế, đạo đức — thẩm mỹ, tâm lý — pháp lý. Gia
đình là nơi gìn giữ và lưu truyền cho các thế hệ con cháu
gia đình thành hai loại hình chủ yếu: gia đình hạt nhân và gia
đình mở rộng.
Chức năng gia đình: Gia đình có ba chức năng cơ Dân; tái
345
Chương 9
tộc và quan hệ dòng họ — một thực thể văn hóa — xã hội mang
tính phổ quát của xã hội loài người. Nó được hình thành dựa trên
quan hệ hôn nhân và huyết thống của một quần thể người nhất
định thể hiện qua ý niệm về đòng đối tổ tiên. Dòng họ xuất hiện
rất sớm trong xã hội loài người trở thành một nguyên lí cố kết
giữa các con người sớm nhất và biến đổi qua các thời đại. Dòng
họ đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình các mối
hội con người, ngoài mối quan hệ huyết thống, mỗi cá nhân vốn
có chung những lợi ích nhất định, họ đã liên kết lại với nhau
thành một tổ chức để chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác giúp đỡ, bảo
vệ lẫn nhau. Nguyên lí cùng lợi ích là một trong những nguyên lí
tổ chức đời sống xã hội con người hình thành những nhóm xã
Trong các loại hình xã hội khác nhau, nhất là trong xã hội có
phân tầng do vai trò và địa vị xã hội khác nhau giữa các cá nhân
và các nhóm trong việc tiếp cận các nguồn lực như của cải,
quyền lực và uy tín hình thành nên các nhóm người khác nhau `
ấn những mâu thuẫn và xung đột xã hội đáng được quan tâm.
Như vậy, nhân học không chỉ tiếp cận nghiên cứu quan hệ
thân tộc mà còn đặt nó trong mối quan hệ xã hội và tổ chức xã
hội rộng lớn hơn. Đó là các hiệp hội, sự bất bình đăng xã hội và
phân tầng xã hội trong các loại hình xã hội khác nhau trong diễn
346
1. HIỆP HỘI
Theo cách hiểu phổ thông nhất, hiệp hội là tổ chức quần
chúng gồm nhiều tổ chức nhỏ hơn, có tính chất như một hội!
Trong nghiên cứu xã hội, cũng như các tô chức xã hội khác, hiệp
"hội đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế và đời sống
chính trị - xã hội của những cư dân và đân tộc khác nhau. Ở đầy,
chúng ta sẽ khảo sát các loại hình hiệp hội được hình thành ở các
xã hội khác nhau và tìm hiểu xem các nhóm hiệp hội này hoạt
Hiệp hội là những nhóm hội không bị ràng buộc bởi quan
hệ họ hàng hay lãnh thổ. Mặc dù các hiệp hội rất khác nhau
chức tương đối chặt chẽ; 2. Hội viên có chọn lọc; 3. Các hội viên
Có lợi ích hay mục đích giống nhau; 4. Các hội viên có ý thức rõ
ràng về cảm giác và niềm tự hào khi là thành viên thuộc về hiệp
hội đó. Như vậy hiệp hội thể hiện mối tương liên của cá nhân
trong một tập thể là tổ chức. Thông qua các tổ chức, các cá nhân
hết các hiệp hội đều tuyển người dựa trên tỉnh thần tự nguyện;
nghĩa là mỗi người có quyền lựa chọn tham gia hoặc không
tham gia một hiệp hội nào đó. Nhưng trong các xã hội không có
Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 1995.
sự phân biệt giai cấp hay sự phân biệt không đáng kể, tư cách
các thành viên tham gia hiệp hội có khi không Tang tính tự
nguyện. Tất cả những người thuộc: về một nhóm nào đấy (ví dụ
cùng một nhóm tuổi hay cùng một giới) buộc phải trở thành
Khía cạnh thứ hai về sự khác nhau giữa các hiệp hội nằm ở
tiêu chuẩn lựa chọn thành viên. Do tính chất khác nhau giữa các
hiệp hội mà nó có thể tuyển chọn các loại hội viên khác nhau
dựa vào đặc điểm tự có hay đặc điểm quy gán. Đặc điểm tự có là
phẩm chất của một cá nhân mà nhờ năng lực và sự cố gắng của
bản thân mà họ thành đạt. Đó có thể là một giáo sư, nghệ sĩ, bác
. Còn đặc điểm quy gán là đặc điểm gán cho một người khi
mới ¡ sinh: ra như giới tính, dân tộc, tôn giáo, dòng đõi xuất
thân,... Có hiệp hội lựa chọn những người có năng lực nhất định -
để trở thành hội viên. Ví dụ các hiệp hội nghề nghiệp, các hiệp
hội mang tính chất chính trị, xã hội và văn hóa, v.v. Cũng có
những. hiệp hội lựa chọn hội viên mà chúng được gán cho những
đặc điểm nhất định như giới tính, dân tộc, tôn -Biáo,..
Hiệp hội thường bao gồm các hội viên tham gia có thể tự
nguyện hoặc không tự nguyện nhưng cùng có chung lợi ích hay
mục đích nhất định cụ thể nào đấy về mặt chính trị, xã hội, nghề
nghiệp, văn hóa, tôn giáo, dân tộc,... Các thành viên tham gia
hiệp hội nhằm chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác, giúp đỡ và bảo vệ
quyền lợi của nhau. Nguyên lí cùng lợi ích là nguyên tắc cơ bản
.nhất, quan trọng nhất của tô chức hiệp hội.
* Tính tỖ chức
hội, các thành viên phải chấp nhận những qui định và nguyên tắc
348
tổ chức của hội. Thường là các hiệp hội có qui mô tương đối lớn
Các hiệp hội có thể được chia ra làm 2 loại: Hiệp hội quan
phương và hiệp hội phi quan phương. Hiệp hội quan phương
được chính quyền thành lập. Tôn chỉ, mục đích và việc tuyển
chọn các thành viên của hiệp hội này được chính quyền thông :
qua. Hiệp hội này thường gắn với lợi ích của các thành viên
tham gia. Hiệp hội phi quan phương là các hiệp hội không có
mối quan hệ trực thuộc với các cơ quan chính quyền từ cấp địa
phương đến cấp trung ương. Nói cách khác, các cấp chính quyền
không can thiệp trực tiếp vào sinh hoạt của các tô chức hiệp hội.
Hiệp hội không phải là một hệ thống quyền lực cưỡng bức và
không Có sự ràng buộc chặt chẽ nên nó thường có khả năng thu
hút khá đông đảo hội viên tham gia vào các phong trào chính trị,
thành viên tham gia hiệp hội mà chúng ta có thể chia ra thành
hai loại hình hiệp hội: hiệp hội không tình nguyện và hiệp hội
tình nguyện.
Trong các xã hội phân tầng ít có các hiệp hội không tình
nguyện, song các tổ chức như vậy có khuynh hướng nhiều hơn
trong xã hội không có phân biệt giai cấp và theo chủ nghĩa bình
thấp các hiệp hội được hình thành chủ yếu đựa vào đặc điểm quy
gán phổ biến là những đặc điểm có thể tìm thấy ở tắt cả các loại
hình xã hội như tuổi và giới tính. Những hiệp hội như vậy
thường có hai hình thái: dựa trên nhóm tuổi hay chỉ dành cho
một giới.
349
* Các nhóm tuổi
Tắt cả các xã hội đều có những thuật ngữ khác nhau để chỉ
tuổi tác hay quan hệ thân tộc. Chẳng hạn như khi chúng ta làm
rõ sự khác nhau giữa anh em trai của chú bác với anh em họ;
:hoặc chúng ta phân biệt trẻ sơ sinh, trẻ vị thành niên, người lớn
và người già. Những thuật ngữ về tuổi hàm ý nói tới các nhóm
phân loại dựa trên tuổi tác hay còn gọi là đứa tuổi (age-grade).
Một lứa tuổi đơn giản là một nhóm người nằm trong một † khoảng
tuổi nhất định. Lứa tuổi là một phạm trù xã hội mà mỗi người
đều phải trải qua. Một lứa tuổi liên quan đến một địa vị; địa vị
này xác định vai trò một người phải thực hiện cho các thành viên
khác trong lứa tuổi của mình và cho các thành viên trong lứa
tuổi khác.
người sinh ra trong một khoảng thời gian nhất định (năm năm
chẳng hạn). Mỗi nhóm tuổi là “một đơn vị trong một chuỗi các
đơn vị tương tự” nối tiếp nhau về mặt thời gian khi các thành
viên của các nhóm tuổi trải qua tuổi niên thiếu, trưởng thành và
tuổi già.
liên kết xã hội. Trong một vài xã hội, giới tính là một yếu tố cơ
bản rất quan trọng mà dựa vào đó các mối quan hệ xã hội khác
được hình thành. Sự quan tâm lớn nhất của các nhà nhân học là
các mối quan hệ của nam giới, bởi lẽ ngày càng có nhiều xã hội
phát sinh những nhóm xã hội của nam giới hơn những nhóm nữ
giới. Trong các tổ chức của nam. giới, mục tiêu của hội là nhằm
tăng cường khái niệm nam quyên, đồng thời hội cũng là chỗ dựa
giúp họ lần tránh phụ nữ. Trong các xã hội kinh tế tự cung tự
cấp, các tổ chức nam giới tương tự như hệ thống các nhóm tuổi
ngoại trừ việc chỉ có hai nhóm hay hai giai đoạn — những người
350
trưởng thành — thành viên của tổ chức và những người chưa
các hệ thống nhóm tuổi, những xã hội với tổ chức của nam
giới thường hay tổ chức các buỗi lễ thụ giáo cầu kỳ và đầy ấn
tượng dành cho các nam thanh niên để kết nạp vào nhóm tuổi
“trưởng thành”.
Trong hầu hết xã hội bình quân và sự phân tầng thấp, phụ
bởi trong những xã hội đó nam giới giữ vị trí thống trị trong
các quan hệ thân tộc, sở hữu tài sản cũng như các lĩnh vực
hoạt động chính trị trong đời sống. Nhưng trong một số xã hội
có hoạt động thương mại như Tây Phi, các tổ chức của phụ nữ
Việt: Giáp
Cho tới trước Cách mạng tháng Tám, trong cơ cấu tô chức
Giáp trước hết là một hình thức tổ chức dành riêng cho
nam giới trong khung cảnh làng Việt cổ truyền. Giáp không
phải được hình thành theo đặc điểm tự có mà theo đặc điểm
quy gán (theo nam giới và lớp tuổi). Đặc điểm của nó là: (a)
chỉ có đàn ông tham gia vào giáp, và (b) mang tính chất “cha
truyền con nối”, cha ở giáp-nào thì con ở giáp ấy. Trong một
bộ giáp phân ba lứa tuổi chủ yếu: tỉ ấu, từ nhỏ đến 18 tuổi,
351
- Tập hợp người trong những tổ chức dựa trên lòng tự
Về nguyên tắc đứa bé trai mới lọt lòng được vào giáp ngay.
Trên thực tế bố phải chờ một phiên họp của giáp rồi biện một lễ
mọn trình giáp để xin cho đứa bé vào giáp và được ghỉ vào sổ
bộ. Nó thuộc lớp tuổi tỉ ấu. Mỗi khi hàng giáp hợp việc có cỗ
bàn, trẻ con được hưởng phần xôi thịt do cha chúng mang về.
Tới 18 tuổi trở thành thanh niên, anh ta phải trình làng một
lần để được “lên đỉnh”, lên tráng. Đinh tráng là thành viên chính
thức của giáp, đồng thời cũng là thành viên chính thức của đân
làng, vừa có nghĩa vụ, vừa có quyền lợi. Nghĩa vụ cả với làng
với nước: nghĩa vụ với làng là phục vụ trong các địp lễ lạt, đình -
chất và tỉnh thần: quyền lợi tỉnh thần là chỗ ngồi trên một chiếu
nhất định trong các kỳ họp hành, ăn uống (ban đầu là chiếu dưới,
sau chuyển dần lên chiếu trên); quyền lợi vật chất là được nhận
một phần ruộng đất công của làng xã để cày cấy, khi thu hoạch,
ngoài một phần hoa màu phải nộp cho giáp, phần còn giữ lại là
thường tuổi lên lão là 60, nhiều làng có lệ riêng quy định tuổi 55
hoặc 50; thậm chí có làng cỏn hạ tuổi lão xuống còn 49 thường
là tuổi hạn, tổ chức lên lão sớm cho chắc chắn. Lên lão là ngồi
chiếu trên, lão là lớp tuổi được cả giáp, cả làng trọng vọng.
Khác với già làng của các dân tộc Tây Nguyên là những
người tham gia điều hành và giải quyết những công việc trong
nội bộ của cộng đồng, lão quyền ghỉ đấu ấn đậm nét, còn ở
352
người Việt, lên lão họ không có tiếng nói quyết định, có chăng là
để tham khảo, không có tác đụng gì lắm trong một nông thôn đã
“quân chủ hoá” mà đặc quyền đặc lợi đã nằm trong tay bọn hào
lí địa phương. Điều đó thể hiện ở phương ngôn “xuất lão vô sự”
Với truyền thống “trọng” lão như người ta vẫn nói “kính lão
đắc thọ”, “kính già già đề tuổi cho”, khi làng có việc, các cụ già
tùy theo tuổi tác được ngôi ngang hàng với các vị chức sắc, quy
định phổ biến là các cụ 60 tuổi ngôi ngang hàng với tú tài, 70
tuổi ngang hàng với cử nhân, 80 tuổi ngồi ngang hàng với tiễn
sĩ. Có nơi tôn xưng gọi các cụ là quan lão. Vị trí do tuổi tác
mang lại gọi là xỉ tước (xỉ = răng = tuổi tác - người già gãy
răng) hoặc thiên tước (tước trời cho), triều đình trọng tước,
Lên lão, các vị được nghỉ ngơi, được miễn sưu thuế,
miễn đi phu đi lính cũng như miễn luôn quyền nhận ruộng
Tóm lại, từ tuổi sơ sinh đến khi mới trình làng rồi khi lên
đỉnh (thành viên chính thức của giáp) rồi tiếp lên lão cho đến khi
nhắm mắt, nam giới nông dân người Việt sống và trưởng thành
trong khuôn khổ của một giáp và cũng thông qua đó để quan hệ
với dân làng. Và nếu các bậc nối tiếp nhau mà từng cuộc đời
phải trải qua trong lòng giáp quả là dấu tích mờ nhạt của thiết
chế các lớp tuổi còn sót lại từ thời trước đây thì hai lần trình làng -
cùng với lễ khao vọng là hồi âm xa xưa của nghi lễ chuyên tiếp
nhằm tuần tự nâng con người từ lớp tuổi thấp lên lớp tuổi cao
hơn. Trong giáp có cả những người cùng một lớp tuổi là đối
_ tượng “đồng niên” cùng sinh một năm, cùng trình làng một dịp,
từ đó nấy sinh tình thân ái đặc biệt nối liền thân phận họ với -
nhau trong “ hội đồng niên”. Khác với những người thuộc các
_ lớp tuổi khác nhau (theo chiều đọc) có sự phân biệt theo tôn tỉ
trật tự thì những người cùng một lớp tuổi mang tính bình đồng
353...
1.4. Các hiệp hội tình nguyện
Các hiệp hội tình nguyện ít có trong một số xã hội có kết cấu
đơn giản. Chúng có khuynh hướng phô biến hơn trong xã hội có
kết cầu phức hợp và phân tầng. Cũng với quá trình đô thị hoá,
hàng loạt các nhóm tổ chức xã hội tình nguyện khác nhau đã Ta
đời. Các tổ chức này tự nguyện thích ứng trong việc giúp đỡ mọi
người cách thức tổ chức để đạt được mục tiêu trong xã hội phức
hợp và đang thay đổi, đặc biệt là giúp đỡ những người di cư thực
hiện việc chuyên đi từ xã hội truyền thống dựa trên yếu tố nông
Các hội đồng hương có những câu lạc bộ tập hợp những
người nhập cư có cùng quê hương lại với nhau. Do vậy các tổ
chức này thường có trụ sở ở trung tâm thành phó, những nơi hấp
dẫn người đi cư đến từ các vùng nông thôn. Chẳng hạn ở Hoa _
trở thành những lực lượng phát ngôn chính trị trong chính quyền
thành phố. Các hội đồng hương được thành lập ngay cả khi
những người di cư đến từ nơi rất xa. Chẳng hạn như ở phố người
Hoa (Chinatown) của Mỹ, Canada, Việt Nam cũng như nhiều
nước khác trên thế giới, người Hoa tập hợp sinh sống tại một địa
điểm và xây dựng nên nét văn hóa đặc sắc Tiêng của mình.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, những hội nhóm kiểu như hội
đồng hương cũng được hình thành để giúp đỡ nhau trong cuộc
sống. Chẳng hạn người Quảng Ngãi, Quảng Nam cư trú nhiều ở
khu vực chợ Bà Hoa, phường 11, quận Tân Bình. Đầu những năm
2000, một nhóm người dân huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi đi
cư vào Thành phố Hồ Chí Minh để kiếm sống bằng nghề buôn
bán dạo tập trung ở khu vực phường 10, quận 3. Những nhóm
354
Ở Việt Nam trong quá trình đô thị hóa, số người đi cư từ
nông thôn đến thành thị ngày một đông, các hội đồng hương
xuất hiện ngày một nhiều nhằm giúp đỡ những người cùng quê
hương trong quá trình hội nhập với cuộc sống đô thị như tìm
kiếm công ăn việc làm, nơi cư trú và thăm viếng giúp đỡ lẫn.
nhau. Hội đồng hương có các qui mô lớn nhỏ khác nhau: hội
Có nhiều loại hiệp hội tộc người và chúng được tìm ¡ thấy ¿ ở
nhiều thành phố khác nhau trên thế giới. Thành viên trong các
hiệp hội này dựa vào tộc người. Những hiệp hội tộc người rộng
khắp các trung tâm đô thị Tây Mỹ. Ở đó, sự thay đổi văn hóa
xây ra sớm, ảnh hưởng đến sự biến đổi kinh tế, đến sự tiến bộ
công nghệ và trong điều kiện sống đô thị mới đã làm yếu đi mỗi
quan hệ thân tộc mà chính những mối quan hệ thân tộc này là
- khó nói để một hiệp hội cụ thể nào đó về căn nguyên là thuộc
và Ghana. Những hiệp hội này bao gồm những thành viên đã rời
bộ lạc của mình và có thể chế, điều lệ thông thường và chúng
được hình thành để đáp ứng nhu cầu phát sinh trong điều kiện
của cuộc sống đô thị. Một nhu cầu như vậy sẽ tập hợp các thành
viên bảo tồn văn hóa truyền thông của họ. Chẳng hạn, liên đoàn
bang Ibo ngoài sự cung cấp, hỗ trợ và ủng hộ về tài chính trong
những trường hợp như thất nghiệp, bệnh tật hay chết chóc, họ
còn được thực hiện dịch vụ để nuôi dưỡng, giữ gìn và phát huy
văn hóa đân tộc truyền thống trong âm nhạc, ngôn ngữ, lịch sử
và đạo đức. Chính nhờ đó đã duy trì được sự liên kết với quê gốc
của anh ta. Họ còn quan tâm đến việc giáo dục, xuất bản các bản
tin phổ biến trong hiệp hội để báo cáo những hoạt động của
thành viên. Hầu hết các hiệp hội có những thành viên trẻ vận '
355
dụng, ảnh hưởng quyền lực trong các hội đồng bộ lạc và những
Những câu lạc bộ nghề nghiệp Tây Phi cũng xếp vào phần
loại những hiệp hội theo tộc người. Họ là phiên bản của tập
đoàn thương mại châu Phi được tổ chức theo bộ lạc cũng như
nghề thủ công. Quan tâm chính của họ là địa vị và mức trả thù
lao cho người thợ chính là các thành viên của họ. Tập đoàn tài
xế Motor Keta ở Ghana được hình thành để tài trợ bảo hiểm
và chỉ phí pháp luật, để đóng góp chăm sóc sức khoẻ nếu có
tai nạn và đau ốm và để giúp đỡ chỉ trả những chi phí tang ma.
Cuối cùng, câu lạc bộ tập trung vào vấn đề giải trí tiêu " khiển rất
Khi di cư sang Việt Nam vào thế kỷ 17, 18 và sau đó, các
nhóm người Hoa đã thành lập các bang, hội để thích nghi với
môi trường sống mới. Các thành viên của bang hội gắn bó với
nhau theo quan hệ địa phương hay nghề nghiệp. Đó là các cộng
đồng địa phương như người Hoa Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng
Đông, Hải Nam, Hẹ hay các hội nghề nghiệp kinh doanh các
nghề khác nhau. Các bang hội được thành lập nhằm tập hợp
thành viên trong cộng đồng liên kết với nhau phát triển sản xuất,
kinh doanh, giữ nghề nghiệp truyền thống, cưu mang giúp đỡ lẫn
nhau trong cuộc sống hàng ngày về mặt giáo dục, y tế, văn hoá _
như xây chùa, miễu, trường học, bệnh viện, hội quán, khu nghĩa
tôn giáo ở các đền thờ của người Hoa xây dựng, chữa bệnh tại
các bệnh viện của cộng đồng. Khi chết họ được chôn cất tại khu
nghĩa địa của từng bang. Bang hội của người Hoa là hiệp hội
cộng đồng và nghề nghiệp nhằm cố kết và phát triển cộng đồng,
356
1.5. Các nhóm có chung lợi ích khác
Ngoài những hiệp hội nêu trên, trong xã hội tiền công
xuất hiện các nhóm có chung lợi ích khác nhau. Khác với hiệp
hội có tính chính thức, tổ chức chặt chẽ, qui mô tương đối lớn
với số hội viên tham gia đông có sự chọn lọc; các nhóm có
người tham gia không đông nhưng với tính thần tình nguyện,
bình đẳng, cùng có lợi. Xuất phát từ lợi ích và mục đích giống
_nhau đã hình thành các nhóm lợi ích chung như: nhóm nghề
nghiệp (cùng làm một nghề và cư trú gần nhau), nhóm chính trị
(các nhóm tham gia hoạt động chính trị), nhóm thể thao giải trí
(các loại thể thao, trò chơi), nhóm hoạt động trong lĩnh vực nghệ
thuật (âm nhạc, múa, kịch), nhóm hoạt động xã hội (làm từ thiện
và các công tác xã hội khác,...). Các nhóm cùng chung lợi ích
thường sinh hoạt ở các câu lạc bộ để cùng chia sẻ kinh nghiệm,
Các nhóm có chung lợi ích trong xã hội nông thôn truyền
Bên cạnh thiết chế giáp được vận hành theo lớp tuổi của
nam giới, ở các làng nông thôn cỗ truyền còn có tổ chức dựa trên
Phe cũng giống với giáp đều là những tổ chức phi chính
thức, những tổ chức không phụ thuộc vào tổ chức hành chính
làng xã, mặc dù cả hai đều tác động trong chừng mực khác nhau
Mỗi làng đều có nhiều phe nhưng đứng trên hết là “phe tư
văn” mà thành viên trên danh nghĩa đều là những người có học
thức. Phe vốn là tổ chức mang tính tự nguyện nhưng vào phe là
niềm vinh dự trước dân làng, cho nên hiếm có trường hợp người
đủ điều kiện mà không chịu vào. Vốn là nơi quy tụ những người.
357
/
có học vấn nhất trong làng, phe được cộng đồng giao cho nhiệm
vụ thảo “văn tế” trong các lễ cúng thần “thành hoàng” của làng,
đồng thời họ tham gia vào ban cúng tế — là một thứ “câu lạc bộ”
lẫy tiệc tùng làm hoạt động chính, cho nên các thành viên phải
có khoản đóng góp khá nặng nề. Vì vậy, không mấy nông dân
nghèo dám vào phe mà thường chỉ những người khá giả mới
tham gia. Trong các địp chè chén, trong phe thường điễn ra
những cuộc trao đổi sôi nổi mà đề tài tập trung vào việc làng
việc nước, tạo ra một đỏng dư luận phản đối hay đồng tình của
Ngoài phe, trong làng còn có hội với các loại khác nhau theo
đuổi một mục đích riêng và có cung cách vận hành riêng.
Phổ biến là “hội tư cấp” hay còn gọi là “hợ” (đồng â âm với từ
. chí tông tộc). Nội dung và mục đích của tổ chức này là giúp đỡ
lẫn nhau trong phạm vi từng nhóm, từng người tự nguyện cùng
nhau chơi một bát họ. Họ có người “cầm lái” hay “cầm cái”
mang danh “họ mua bán” của những phụ nữ tham gia. Lại có
nguyện những người cùng sở thích như vui chơi, giải trí, luyện
tập võ nghệ. Đó là các hội võ, hội chèo, hội bô lão, hội chư bà,
yếu sống băng nghề nông, những người làm nghề khác tự
nguyện tập trung lại trong một phường như: phường mộc,
phường nễ, phường sơn, phường dệt, phường gốm, phường đúc
đồng.v.v... Chính các phường nghề này ở nông thôn về sau được
358
Phe, Hội, Phường là những tổ chức xã hội theo giới tính hay
nên mạng lưới xã hội chăng chịt ở nông thôn đê người nông dân
nương dựa vào đó để mưu sinh và cộng cảm với nhau trong cuộc
Hiện nay, đất THƯỚC đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hóa, cơ cấu kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi, quá
trình đô thị hoá ngày càng phát triển làm cho mạng lưới quan hệ
xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp. Trong bối cảnh đó, các
nhóm cùng lợi ích lại tiếp tục hồi sinh và phát triển mang màu
Ở nông thôn, một số hội truyền thống được phục hồi như
Hội chọi gà, Hội cờ tướng, Hội vay vốn và xuất hiện các hội mới
như Hội làm vườn, Hội người nghèo, Hội cây kiểng,...
Trong phân này, khi gộp chung hai vẫn đến các hiệp hội và
phân tầng xã hội là dựa trên một giả thuyết cho rằng những
người ở chung một hiệp hội thì chia sẻ lợi ích với nhau. Bản chất
của hiệp hội là bình đẳng, tự nguyện nên việc những cá nhân có
chung một đặc điểm nào đó về xã hội tập hợp lại với nhau để tạo
nên hiệp hội. Thành ngữ tiếng Việt có câu: Ngưu tầm ngưu, mã
tầm mã là để nói đến việc gặp gỡ, hội họp của những cá nhân có
nhau) về các cơ hội hoặc các lợi ích đôi với các cá nhân khác
nhau trong một nhóm hoặc nhiêu nhóm trong xã hội. Như vậy,
-_ bất bình đẳng ở đây không chỉ đề cập đến nguồn lực kinh tế của .
các cá nhân và các nhóm sở hữu mà còn đề cập đến sự khác biệt
về vị thế xã hội cũng như vị thế chính trị của từng cá nhân.
359
Khoa học xã hội đã khám phá ra nguồn gốc của bất bình
đẳng trong văn hoá và trong cơ cầu của bản thân các xã hội. Mặc '
hoặc sự khác biệt trong quá trình phát triển cá nhân tạo nên bất
bình đẳng, Song người ta tỉn rằng văn hoá và cơ cấu xã hội là
nhiều nhóm có sự không công bằng trong việc tiếp cận những .
điều kiện thuận lợi quan trọng như các nguồn lực kinh tế, quyền
lực và uy tín. Bắt bình đẳng có ý nghĩa quyết định đối với Sự
phân tầng trong tổ chức xã hội. Bởi vậy, các nhà khoa học xã hội
quan tâm tới cách mà các nhóm xã hội khác nhau có mối quan
Phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của
xã hội loài người khi bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước,
Trong phân tầng xã hội có các “tầng” (stratum), mỗi tầng là một
tập hợp người (cá nhân) giống nhau về địa vị / vị thế, bao gồm
địa vị kinh tế (tài sản, thu nhập), địa vị chính trị (quyền lực) hay
tiễn, sự phong thưởng và những thứ bậc nhất định trong xã hội.
Sự phân tầng xã hội được mô tả đưới dạng các tháp phân tầng
_ với những hình đáng khác nhau tùy thuộc vào đặc trưng của các
loại xã hội. .
Có nhiều cách tiếp cận về phân tầng xã hội khác nhau nhưng
không thể không nhắc đến quan điểm của K. Marx. Ông cho
rằng phương thức sản xuất gồm hai thành phần chính là cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ cở hạ tầng bao gồm quan hệ
sản xuất, trong đó có điều kiện làm việc của giới chủ và người
lao động: phân chia lao động, phân chia tài sản, Trong xã hội có
ít nhất hai giai cấp. Giai cấp thứ nhất làm chủ phương tiện sản
xuất còn gọi là giai cấp thống trị. Giai cấp thứ hai là những
Tgười bán sức lao động cho giới chủ hay còn gọi là giai cấp bị
360
trị. Theo Marx thì phân tầng xã hội là chính yếu tố tạo ra mâu
điểm của Marx nhưng ông không đồng ý với Marx về khả
năng thành công của chủ nghĩa cộng sản. Ông nhắn mạnh đến
sự khác biệt giữa các giai cấp, địa vị và quyền lực. ông cho
rằng, phân tầng xã hội là một hệ thống xếp hạng cấp bậc các
nhóm người vào những vị trí xác định liên quan đến của cải,
tài sản, quyền lực chính trị và uy tín xã hội. Hệ thống xếp
hạng cấp bậc này là một cơ câu bất bình đẳng ổn định tương
đối qua các thế hệ. Theo đó, phân tầng xã hội là sự bất bình
đẳng mang tính cơ cầu xã hội, trong đó các thành viên khác nhan
có khả năng thăng tiến (đi động) bởi địa vị không giống nhau
_ Như vậy, cách tiếp cận kinh điển đã sắp xếp các thành viên
cạnh này có mỗi quan hệ độc lập với nhau. Sau này, xã hội càng
phát triển, các nhà nghiên cứu cho rằng phải sắp xếp các thành
viên trong xã hội theo nhiều chiều cạnh mới, khác nhau hơn và
Nhiều nhà xã hội học cho rằng các xã hội đều bị phân tầng,
nhưng những nhà nhân học thì phản đối. Nhưng sự bất đồng này
thực sự chỉ ở định nghĩa. Bởi vì các nhà xã hội học và nhân học
thường hiểu thuật ngữ phân tầng khác nhau. Khi Các nhà xã hội
học nói về “tính toàn cầu của phân tầng”, họ muốn ám chỉ rằng
. tất các xã hội đều biểu lộ một vài cái bất bình đẳng giữa các cá
nhân,... Định nghĩa xã hội học về sự bất bình đẳng được rút ra
qua những quan sát từ những xã hội đơn giản nhất đều có những
sự khác biệt về những điều kiện dựa trên tuổi tác, khả năng và
giới tính, người lớn có địa vị cao hơn trẻ em, người có kỹ năng
_ nghề nghiệp cao hơn người không có kỹ năng, nam giới cao hơn
361
nữ giới,... Những nhà nhân học nói rằng, phân tầng không mang
tính toàn cầu và có những xã hội mang tính bình quân tồn tại,
Thực ra các nhà xã hội học và nhân học đều đúng. Đối với
nhà nhân học, sự bất bình đẳng của con người có thể mang tính
Các nhà nhân học phân biệt một cách có qui ước, có ba loại
nhau có bất bình đẳng trong việc tiếp cận các điều kiện thuận
lợi: nguồn lực kinh tế, quyền lực và uy tín. Đó là những xã hội
Những xã hội bình quân không có các nhóm xã hội tiếp cận
dễ hơn hay khó hơn các nguồn lực kinh tế, quyền lực cũng như
uy tín. Những xã hội có thứ bậc không có sự bất bình đẳng trong
việc tiếp cận các nguồn. lực kinh tế hay quyền lực nhưng lại có
những nhóm xã hội tạo ra sự bắt bình đẳng về uy tín. Do đó, các
xã hội thứ bậc bị phân tầng bộ phận. Những xã hội có giai cấp
đều có sự bắt bình đẳng trong việc tiếp cận cả ba điều kiện thuận
-_ hay nhóm nào tiếp cận đến các nguồn lực kinh tế, quyền lực và
xã hội này tất cả các thành viên có uy tín ngang như nhau. Hơn
nữa sự khác biệt về tuôi tác và giới, khác biệt cá nhân về kĩ năng
ở các công việc khác nhau luôn luôn được thừa nhận. Một vài cá
nhân là những thợ săn giỏi, những người khác được đánh giá có
sự khéo léo về các nghề thủ công, một số khác có khả năng chữa
bệnh. Tuy nhiên, trong xã hội theo chủ nghĩa bình quân, không
một cá nhân nào, bắt kể trong nhóm mức độ được kính trọng cao
hay thấp, bị từ chối quyền kiếm sống hay là đối tượng bị người
362
khác khống chế hay khai thác. Thêm vào đó, bất cứ uy thế mà
một cá nhân có được trên cơ sở năng lực thì không thể chuyển
định về các vị trí sẽ được phân cấp cho nên các cá nhân phải
cạnh tranh. Uy tín gắn liền với việc trở thành một người thợ săn
giỏi chẳng hạn sẽ dẫn đến việc ngày càng có nhiều thợ săn giỏi
trong nhóm.
Các xã hội của cư dân săn bắt và hái lượm thuộc loại hình
kinh tế chiếm đoạt đặc trưng cho xã hội mang chủ nghĩa bình
quân. Các nhân tổ ngăn cản sự phân phối tài sản thường xuyên
có định và bất bình đẳng là việc không có quyền sở hữu đất đai,
trình độ kỹ thuật thấp sẽ hạn chế việc dự trữ một số lượng lớn
lương thực, thực phẩm, nhu cầu đi chuyển trong quá trình kiếm
sống đã kiềm chế sự tích luỹ của cải và nghĩa vụ chia sẻ lẫn
nhau. Các hoạt động săn bắn không đòi hỏi phải có người lãnh
đạo thường xuyên, cố định và các hoạt động tìm kiếm thức ăn
thường được thực hiện theo cá nhân hay những nhóm mà các cá
nhân được tổ chức như là những thành viên bình đẳng, hợp tác.
Ngay cả xã hội sẵn bắn có một người đứng đầu, nhưng vị trí này
không mang lại quyền lực thực sự hay lợi ích kinh tế và không
Mọi sự khác biệt về uy tín trong xã hội tồn tại mà không phụ
thuộc vào sự khác biệt về kinh tê. Những nhóm bình quân chủ
yếu đựa vào sự chia sẻ, cái mà nó đảm bảo cho sự tiếp cận bình
- đẳng các nguồn lực kinh tế mặc cho có sự khác biệt về uy tín đòi
hỏi. Một người. thợ săn giỏi bắn được con thú, nhưng thịt con thú
lại được chia đều cho các thành viên trong nhóm, trong đó có thê
Ở các dân tộc miền núi Trường Sơn và Tây Nguyên cho tới
trước Cách mạng tháng Tám, trình độ phát triển xã hội nội tại
363:
tầng, đã có sự phân hoá giàu Tighèo nhưng chưa hình thành các
giai cấp. Trong xã hội đã xuất hiện một số gia đình giàu có hơn,.
thậm chí có những người vượt trội hơn hẳn lên về mặt của cải,
lực, biết buôn bán hoặc do có kinh nghiệm làm ăn, có sức lao
động. Sự giàu có của họ không phải dựa vào tư hữu đất đai,
tiền bạc mà chú yếu dựa vào. động sản và bất động sản nhự
nhiều voi, trâu, chiêng, ché, nồi đồng, ngà voi,v.v... nhằm phô
trương sự giàu có. Họ vẫn quan niệm lí tưởng của giàu sang là
“ché quý, công lào, voi đực” hay làm giàu để có địp khao làng:
lấy hư danh và chưa biết đến việc dùng của cải để bóc lột người
Trong mỗi làng Tây Nguyên có một số thành viên được coi
là “tầng lớp trên”, phân biệt với đại bộ phận quần chúng còn lại.
Mặc dù xã hội có sự phân hóa giàu nghèo nhưng dấu vết của
xã hội bình quân vẫn còn tồn tại. Đất đai theo luật tục thuộc
quyền sở hữu chung của làng, hàng năm định kỳ chia cho các hộ
gia đình phát nương, làm rẫy. Tỉnh thần cộng đồng và tập thể cỗ
truyền là nét nỗi bật trong ý thức của người Tây Nguyên. Vào
mùa vụ sản xuất, họ thường đổi công cho nhau theo nguyên tắc
bình quân không tính thiệt hơn. Tỉnh thần gắn bó tương trợ lẫn
nhau thể hiện khi làm nhà mới, cưới xin, ma chay. Khi mỗi gia
đình có việc riêng thì những người trong làng góp công, góp sức
mang gạo, rượu đến giúp cùng làm và vui chung. Người Tây
Nguyên san sẻ lương thực, thực phẩm cho nhau một cách tự
nhiên. Trong làng có người thiếu ăn có thể lấy thóc của người
khác mà không cần trả lại. Ở đây rất khó có thể xác định cho vay
cộng đồng, tính bình quân và tinh thần làm chủ tập thể là một nét
đáng chú ý. Một gia đình mổ lợn hoặc trâu tế thần hay săn được
thú rừng, họ chia đều cho tất cả các thành viên trong làng cùng
364
ăn. Mỗi khi có dịp tế lễ, cúng bái chung của làng theo phong tục
các khoản chỉ phí được phân bổ đều cho từng hộ gia đình hay
theo đầu người. Cách thức tính công lao động không phân biệt
Những người giàu thường là chủ làng hay thành viên nào đó
. của hội đồng già làng. Nhờ có uy tín, am hiểu địa bàn cư trú
cũng như phong tục và là người có nhiều đóng góp trong việc tổ
chức và điều hành công việc chung trong sinh hoạt cộng đồng,
vì vậy họ được đân làng quý trọng. Là người quản lí buôn làng
- nhưng họ vẫn trực tiếp lao động sản xuất sống chan hoà với các
Thứ bậc được mô tả qua sự bất bình đẳng về uy tín hay địa vị
giữa các nhóm xã hội nhưng không quan trọng về bất bình đẳng
trong việc tiếp cận các nguồn lực kinh tế hay quyền lực. Sự bất
bình đẳng về uy tín thường được phản ánh qua vị trí của người
đứng đầu, thứ bậc mà chỉ một vài thành viên của nhóm xã hội _
được cha truyền con nối. Chẳng hạn tiêu chuẩn ở vị trí cao trong
thường người con cả thường được thừa hưởng vị trí đứng đầuvà
trong các nhóm thân tộc khác nhau thì vị trí thứ bậc khác nhau
đựa theo quan hệ xa gần của phả hệ đối với dòng trưởng tộc.
Theo Carol, trong xã hội thứ bậc, những người đứng đầu
được đối xử khác với những người ở bậc thấp hơn. Ví dụ những
thấp luôn luôn phải giữ đầu của họ thấp hơn những người ở địa
vị cao hơn. Do đó, các vị tù trưởng đứng thì người dân phải
365
khom lưng. Nếu vị tà trưởng ngồi ở một vị trí cố định thì những
người khác phải bò. Đôi khi những người được nhìn nhận thực
nhiều quà và có kho lẫm lớn hơn. Trong nhiều trường hợp người
thủ lĩnh được coi là ““chúa” của vùng đất của ông ta, nhưng
trưởng có thể có kho lẫm lớn hơn nhưng kho lẫm của ông ta có
thể chỉ là sự tích luỹ tạm thời cho các lễ hội hay là sự phân chia
lại khác. Mức sống cơ bản của anh ta cũng không khác mức
sống của các thành viên bình thường trong xã hội. Xã hội thứ
bậc không chỉ thủ lĩnh với vị trí, uy tín cao mà cả sự phân cấp về
thân tộc.
Xã hội thứ bậc chủ yếu tìm thấy trong các xã hội trồng trọt
trong các xã hội India ở Tây Bắc châu Mỹ. Những xã hội này
gồm một chuỗi các vị trí cá nhân, tất cả được phân cấp theo thứ
bậc, không có hai cá nhận nào bằng nhau một cách chính xác.
Quyền quản lí các quyền lực kinh tế được truyền qua dòng con
trưởng. Dỏng của người con nhỏ hơn quyền này sẽ thấp hơn
quyền của người con trưởng. Ngay cả trang phục cũng thể hiện
sự khác biệt về mặt thứ bậc xã hội. Thí dụ, chỉ có thủ lĩnh là
được phép đeo trang sức vỏ ốc bào ngư và bộ lông rái cá biển
trên áo choàng. Là người quản lí, thủ lĩnh của các nhóm thân tộc -
nhận các nguồn lực nằm trong cấp của anh ta được thừa nhận
một cách chính thức. Mẻ cá hồi đầu tiên bắt được, phần tốt nhất
của động vật biển có vú bị giết, bộ da lông thú được người thú
lĩnh sử dụng.
Các xã hội thứ bậc được tổ chức bởi thân tộc. Cấp bậc được
căn cứ vào vị trí (thứ tự sinh ra và phả hệ gần với người thủ lĩnh
nhất) trong hệ thống thân tộc, còn các thành viên trong nhóm
thân tộc khác được quyền tiếp cận các nguồn lực cơ bản.
366
2.3. Xã hội phân tầng (xã hội có giai cấp)
định bởi tuổi tác và giới tính) bị từ chối các nguồn lực cơ bản
và cần thiết cho sự tồn tại và cuộc sống tốt. Xã hội phân tầng
huy tiềm năng của con người đó trong xã hội. Ba chiều kích
chính của sự phân chia giai cấp xã hội thường được phân tích về
mặt quyền lực, của cải và uy tín. Các nhà nhân học thì quan tâm
tới việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các chiều kích trong xã hội
và trong sự so sánh giữa các hệ thống phân tầng trong những nền
phân tầng xã hội là liệu chúng dựa trên sự gán cho hay sự đạt
trọng thì địa vị hay vị trí của cá nhân trong hệ thống được quyết
định bởi sự ra đời. Địa vị được gắn cho là những vị trí xã hội mà
một cá nhân được sinh ra. Giới tính, chủng tộc và nhóm dân tộc
là những ví dụ của địa vị gán cho ở Hoa Kỳ. Nhóm thân tộc và
các thành viên có đặc quyền là những ví dụ khác của địa vị được
gán cho. Trong một hệ thống phân hoá dựa trên sự đạt được, vị
trí của một cá nhân phần lớn được quyết định bởi sự nỗ lực của
bản thân người đó. Địa vị đạt được là do cá nhân tự lựa chọn và
Trong các xã hội còn chưa phát triển cao thì hầu hết các địa vị là
được gán cho, dù trong số đó thành tựu cá nhân đóng vai trò
quan trọng, có những cơ hội để di chuyển lên địa vị cao hơn
trong xã hội thông qua sự kết hợp giữa kĩ năng và à tỉnh thần làm
chủ yếu đựa vào sự gán cho (hệ thống đóng) hay đạt được (hệ
367
thống mở), hầu hết các xã hội có cả hai. Các nhà nhân học rất
hứng thú với nhiều loại địa vị, cả gán cho và đạt được, và trong
cách thức Tà qua đó cá nhân được chọn và giữ các vị trí xã hội.
Quyền lực là khả nẵng tạo 7a những tác động có chủ ý vào
một người nảo đó, vào những người khác và ở các hoàn cảnh
khác. Nói một cách khác, quyền lực như là một sự kiểm soát
việc tiếp. cận các nguồn : lực, nghĩa là bất cứ một cái gì một người.
muốn, cần hoặc nghĩ rằng người đó cần. Quyền lực đó là khả
năng ra và thực hiện các quyết định ảnh hưởng đến cuộc đời của
chính mình, kiểm soát hành VÌ của người khác và biến đổi mục
tiêu, đối tượng hay nguồn lực. Quyền lực được sử dụng với sự
tán đồng của các thành viên trong xã hội được gọi là thâm quyền
và hợp pháp, chính thống. Quyền lực cũng có thể là không hợp
hội. Cá nhân hay nhóm có quyền lực trong xã hội thì có nhiều
khả năng nhất trong hành động theo nhận thức vì quyền lợi của
chính họ. Trong các xã hội có sự phân tầng, điều này có nghĩa là
được đánh đổi bằng các mục tiêu của các cá nhân và nhóm khác,
nói cách khác là các cá nhân và nhóm khác không thể đạt được `
những gì họ muốn. Từ quan điểm nhân học, mối. quan tâm của
qua sử dụng đường kênh nào và nguồn gốc của chúng là 8ì. Ví.
vào tài năng được đào tạo: nhà bác học, các ngôi sao điện
ảnh,v. v... từ phương diện xuyên văn hóa, chúng ta có thể so sánh
tổng thống, một người lãnh đạo đảng phái chính trị.
Của cải như là một khía cạnh của sự phân tầng xã hội, sự
tích lũy các nguồn lực vật chất hay tiếp cận các phương tiện sản
368
xuất những nguồn lực này. Nhiều nhà khoa học xã hội nghĩ rằng
của cải là khía cạnh quan trọng nhất trong sự phân tầng xã hội, là
nền tảng, là các chiều kích khác, chẳng hạn như quyền lực và uy
tín dựa vào. Đối với Karl Marx và những người theo tư tưởng
các nguồn lực được sản xuất và phân phối cho sự thỏa mãn các
nhu cầu cơ bản của con người. Marx phân biệt hai giai tầng
phương tiện sản xuất và công nhân — những người làm thuê.
_ Theo Marx, chính mối quan hệ về phương tiện sản xuất này là
quan trọng trong việc không chỉ quyết định quyền lực và uy tín
một người có, mà còn là cơ hội cho sự tồn tại của người đó. Một
điều đễ chấp nhận hiển nhiên, của cải có thể chuyển hoá thành
quyền lực. Người giàu thì có khả năng chạy theo một chức vụ
chính trị và thắng người khác và những nhà tư sản giàu có có thể
chỉ phối chính phủ theo những cách có lợi cho bản thân họ. -
phân chia giai cấp xã hội. Các xã hội phức hợp, chuyên môn hoá
theo nghề nghiệp chứa đựng nhiều vị trí khác nhau được phân
chia địa vị cao hay thấp trong mối quan hệ với người khác. Có
sự phân chia đẳng cấp về nghề nghiệp trong các xã hội khác
nhau. Chúng (a sẽ thấy khi nhìn vào hệ thống đẳng cấp Hindu,
một tiêu chí để phân chia đẳng cấp nghề nghiệp ở Án Độ có liên
quan đến sự thuần khiết hay ô uế nghỉ lễ. Mặc dù khái niệm này
“một công việc dơ bân” được xếp thấp hơn những công việc
không dơ. Nói chung nghề lao động trí óc thì có nhiều uy tín hơn
nghề lao động chân tay. Tư tưởng Nho giáo ở Trung Hoa và.
Việt Nam một thời gian đài có sự phân biệt giữa lao động trí óc
và lao động chân tay “quân tử lao tâm, tiểu nhân lao lực”. Uy tín
xã hội cũng được thể hiện qua sự phân loại thứ bậc “sĩ, nông,
công, thương”.
369
Ủy tín đành cho những nghề khác nhau có liên quan đến
quyền lực gắn chặt với nghề nghiệp này, thu nhập có được và
tầm quan trọng của chúng đối với xã hội giữa các nhân tố khác.
Mặc dù thu nhập là một cơ sở uy tín xã hội và cách thức tạo thu
nhập và tích lũy của cải cũng được chú trọng. Nhìn chung, người
tạo ra thu nhập một cách bất hợp pháp thì uy tín trong cộng đồng
ít hơn là người có thu nhập chính đáng, hợp pháp. Một nhà bác
học, một bác sĩ phẫu thuật có thu nhập thấp hơn nhiều lần người
cầm đầu tổ chức cờ bạc bắt hợp pháp, nhưng uy tín của họ là cao
hơn. Tuy nhiên, suy cho cùng, đồng tiền có thể mua vị trí xã hội
cao. Nhiều tiền có thể gửi con học ở những trường tốt nhất, tham
gia các câu lạc bộ cao cấp,... mang đến nhiều cơ hội có tương tác
xã hội với những người có vị trí xã hội cao hơn. Tất cả những cơ
Các nhà khoa học xã hội đã tranh luận rất lâu về câu hỏi liệu
uy tín hay giai cấp là cơ sở để bảo vệ quyền lợi thì cái nào quan
trọng hơn. Marx và Max Weber đã có hai quan điểm đối lập
nhau. Trong khi Marx thấy con người có ý thức về bản thân họ
như là một nhóm chủ yếu có quyền lợi kinh tế tương tự nhau thì
Weber cho rằng con người có thể đánh giá uy tín và các khía
cạnh biểu tượng của địa vị vượt trên cả tiền bạc, 'Weber lập luận
thêm rằng, hành động chính trị có thể được thúc đây bởi ước
muốn của nhóm cũng để bảo vệ vị trí của nhóm nữa, hay thậm
chí chống lại quyền lợi kinh tế. Ví dụ, người da trắng nghèo ở
Nam Mỹ không tham gia hoạt động với người đa đen nghèo để -
cải thiện vị trí kinh tế chưng của họ, bởi vì họ chú trọng hơn việc
duy trì các địa vị khác nhau căn cứ theo màu đa.
* Giai cắp xã hội
Hai hình thức cơ bản của phân tầng xã hội là giai cấp và
đẳng cấp. Trong một hệ thống giai cấp, các giai tầng khác nhau
không phân biệt với nhau một cách rõ ràng mà hình thành một
thể liên tục. Di động xã hội chuyến từ giai cấp này sang giai cấp
370
khác thông qua những phương tiện khác nhau (giáo dục, hôn
nhân, vận may rủi, chuyên cần làm việc). Di động xã hội cũng
có thể chuyên xuống và thậm chí hầu hết di động xã hội xây ra
Hoa Kỳ có một hệ thống giai cấp mở. Vị trí của một người
phụ nữ phụ thuộc nhiều vào địa vị đạt được như nghề nghiệp,
giáo đục, lối sống và có một cơ hội tốt để đi động theo chiều đi
lên. Hệ thống giai cấp mở của xã hội Hoa Kỳ là một phần huyền
thoại và được dựa trên các nguyên tắc dân chủ, công bằng Và Cơ
hội tốt cho mọi người. Nhiều người ở Mỹ thấy khó chấp nhận
bằng chứng rằng sự bình đẳng này vẫn chưa được thừa nhận
hoàn toàn và thực tế, giai cấp xã hội vẫn là một khía cạnh quan
trọng trong tổ chức xã hội hiện nAy. Nhiều nghiên cứu cho thấy
rằng toàn thể các thành viên giai cấp xã hội tương quan với các
nhân tố thái độ, hành vị, lối sống khác nhau thể hiện ở các giai
cấp xã hội.
Các nghiên cứu nhân học quan tâm nhân tố giai cấp xã hội
hơn là hiện tượng kinh tế. Mỗi giai cấp xã hội đồng thời là một
tiểu văn hóa, các thành viên chia sẻ. những kinh nghiệm sống
tương tự nhau, vai trò nghề nghiệp, giá trị, nền tảng học vấn, mối
liên kết, hoạt động giải trí và quan điểm chính trị.
Ngoài những đặc điểm chung đó, các thành viên cùng một
giai cấp có xu hướng liên kết với nhau hơn là với các giai cấp
khác. Nghiên cứu sự phân tầng xã hội ở những xã hội khác nhau
cho thấy những tương tác xã hội không chính thức, chẳng hạn
như việc thăm viếng thường xuyên nhất là những người cùng
giai cấp. Vì vậy, lối sống và các chiều kích tương tác của giai
cấp xã hội củng cố lẫn nhau. `'Ví dụ, qua sự tương tác có cơ sở từ
nơi cư trú và trường học chung, các cá nhân học được lỗi sống
giai cấp xã hội của họ. Ví dụ lỗi sống là một phần quan trọng
371
Một số nhà khoa học xã hội còn lập luận rằng, cách tiếp cận
về sự phân tầng xã hội nhấn mạnh đến lối sống, hình thái văn
lực quan trọng ở xã hội, đặc biệt ở xã hội Mỹ. Một cách khác để
nhìn giai cấp mang những yếu tổ kinh tế và quyền lực có sự tập
trung rõ nét hơn là xem xét sự khác biệt về cơ hội cuộc sống
giữa các giai cấp. Cơ hội cuộc sống liên quan đến cơ hội mà cá
nhân có thê phát huy hay không thể phát huy được tiềm năng
của mình trong xã hội. Các cơ hội cuộc sống của một cá nhân
bao gồm cơ hội được tồn tại, cơ hội nhận được một nền giáo dục
có thể giúp phát triển tối đa tư duy và tiểm năng sáng tạo, cơ hội
để tham gia vào các đoàn thể và đời sống văn hóa và cơ hội để
Các cơ hội cuộc sống của một cá nhân thì quan hệ mật
thiết với vị trí của người đó trong hệ thống phân chia giai cấp.
cũng trở thành tổng thống”, nhưng mối quan hệ giữa cơ hội
cuộc sống và đi động xã hội lại không làm nền tảng cho ý
tưởng này. Di động xã hội đồng thời cũng là một cơ hội cuộc
sống phụ thuộc vào vị trí nào mà một người đang ở. Các cá
nhân sinh ra trong những vị trí giàu có, địa vị cao và quyền
lực cố gắng duy trì những vị trí này, bởi vì giai cấp cao của họ
cấp trung lưu có cơ hội tốt hơn để cải thiện đời sống của họ
hơn là người sinh ra từ giai cấp nghèo. Những người rất nghèo
trong nền văn hóa hiện thời khó có cơ hội tốt để nâng cao cuộc
sống. Vị trí xã hội thấp có xu hướng phủ nhận không chỉ cơ hội
cuộc sống của người đó mà còn con cái của họ. Cái nghèo có xu
hướng kéo dài chính nó qua các thế hệ đang được đặt thành vấn
372
Cũng vậy, dù là mơ hồ nhưng ranh giới giai cấp nhiều khi
được thiết lập qua những phong tục và truyền thống, đôi khi
ranh giới này được củng cố bằng những định chế luật pháp.
Nhiều luật lệ thường hướng tới việc bảo vệ tài sản của tầng lớp
_CaO: thượng lưu và trung lưu trong xã hội. Ngược lại, những
người nghèo là những người luôn chịu thiệt hại trong hệ thống
luật pháp. Người nghèo phạm tội gặp khó khăn vì không có tiền
để bảo vệ hữu hiệu trước pháp luật nhằm bênh vực cho quyền
Trong xã hội phong kiến Trung Quốc, chịu ảnh hưởng của
tư trởng Nho giáo người Trung Hoa có một “mô hình có ý thức”
về cơ cầu xã hội của mình khi phân biệt ra thành bốn giai tầng
trong xã hội: sĩ, nông, công, thương trong đó sĩ (quí tộc, quan
lại) và người làm nghề nông (bao gồm chủ đất và nông dân)
được xếp trên thương và công. Tuy nhiên, trên thực tế thương
nhân thường có nhiều quyền lực và uy tín hơn nông đân và đôi
khi còn hơn cả chúa đất. Trên lí thuyết, nền giáo dục Trung Hoa
truyền thống cho phép những người học hành đỗ đạt có bằng cấp
cử nhân, tiến sĩ có thể tham gia vào tầng lớp quan lại, quí tộc bất
luận nguồn gốc xuất thân của người đó, nhưng trên thực tế việc:
con em người nghèo đỗ đạt để trở thành quan lại là rất hiếm.
Phân tầng xã hội của xã hội có giai cấp ở Trung Hoa còn thể
hiện ở tính tôn ti thứ bậc trong các tầng lớp xã hội qua sự phân
tầng về văn hoá. Luật định của nhà nước qui định sự khác biệt
trong các tầng lớp xã hội về quần áo, nhà ở, gia nhân, thuyền bè,
và Tống màu tía, màu lục, màu đỏ tươi và màu xanh được đùng
cho các quan chức có cấp bậc.
Như vậy, sự phân tầng trong xã hội có giai cấp ở Trung Hoa
Cả sự phân tầng về È mặt văn hoá, hình thành các tiểu văn hoá của
373
* Đăng cấp
Khác với hệ thống giai cấp chủ yếu dựa vào địa vị đạt được,
hệ thống đẳng cấp dựa vào sự sinh ra. Một cá nhân thuộc vào
cấp này Sang đẳng cấp khác. Trong hệ thống giai cấp, các cá
nhân ở các giai cấp có thể kết hôn (vì hôn nhân là một cách để đi
chuyền vị trí xã hội). Trong một hệ thống đẳng cấp, một người
có thể kết hôn với những người ở cùng đẳng cấp. Đẳng cấp nói
cách khác là đi truyền và nội giao. Các đẳng cấp, cho dù có bao
nhiêu, được phân chia cấp bậc với nhau và thường liên quan đến
nghề nghiệp riêng biệt. Một hệ thống đẳng cấp, do đó bao gồm
nhiều nhóm nội giao phụ thuộc lẫn nhau có sự phân chia cấp bậc
cấp, giữa các đẳng cấp có ranh giới rõ ràng. Nhiều quy tắc xã hội
trong một hệ thống đẳng cấp nhắm đến việc duy trì khoảng cách
Ở Án Độ, hệ thống đẳng. -cấp bị cột chặt một cách vững chắc
với đạo Hindu. Quan niệm khác về đẳng cấp như là một hệ
thống của sự phân hoá được tìm thấy bên ngoài Ấn Độ, ví dụ
Nhật Bản và một số vùng châu Phi. Một định nghĩa xuyên văn
hóa về đẳng cấp cũng được vận dụng vào môi quan hệ giữa
người đa trắng và da đen tại Mỹ, đặc biệt ở miền Nam. Những
khía cạnh tương tự đẳng cấp (castelike) của hệ thống xã hội này
gồm toàn thể thành viên dựa vào sự ra đời (người được sinh ra là
đa trắng hay da đen và được duy trì trong loại đó cả đời), hôn
nhân bên trong đẳng cấp, những khác biệt văn hóa giữa hai
da trắng được đặt cao hơn. Nhiều quy định ở miền Nam Mỹ tìm
cách “giữ người da đen ở chỗ của họ” và cản trở sự pha lẫn trắng
hoặc đen, ngoại trừ trong một số trường hợp nhất định: Giống
như hệ thống đẳng cấp ở bất cứ nơi đâu, hệ thống này có một
374
thần thoại gắn liền với nó một nỗ lực để “giải thích” và chứng
minh vị trí thấp kém hơn của đẳng cấp dưới. Sau cùng hệ thống
này, giống như các hệ thống đẳng cấp khác, được duy trì bằng
vũ lực, sẽ đi đến chỗ thực hiện công khai mỗi khi hiện trạng bị
đe doa.
phức tạp nhất. Nó quan hệ với niềm tin và nghỉ lễ của đạo Hindu
chỉnh niềm tin Hindu giáo về sự phân chia xã hội có bốn loại
đẳng cấp gọi là Varna. Varna được chia theo sự thuần khiết về
nghỉ lễ của họ mà đến lượt nó lại căn cứ vào nghề nghiệp của họ.
Kshatryas hay đẳng cấp chiến binh được xếp thứ hai, Vaishyas
hay thương gia được xếp thứ ba, Shudras hay đầy tớ và thợ thủ
công xếp thứ tư. Dưới bốn đẳng cấp này là một nhóm thứ năm
gọi là tiện dân (người mà những người thuộc tầng lớp trên nếu
chạm đến họ coi như bị làm ô uế). Đẳng cấp “đừng chạm đến”
gồm những người làm những việc dơ bân như đọn nhà xí, làm
nghề thuộc da thì được xem là không tỉnh khiết về mặt nghỉ lễ
mà chỉ cần một đụng chạm nhỏ cũng làm nhơ bn sự thanh khiết
. của các đẳng cấp cao hơn. Một người được sinh ra ở một trong
những đẳng cấp này được xem như là một phần thưởng hay sự
trừng phạt cho những phẩm chất, hành động trong kiếp trước
để duy trì ranh giới giữa các đẳng cấp. Người thuộc các đẳng ˆ
cấp khác nhau thì không ăn cùng với nhau và người ở đẳng cấp
cao hơn sẽ không nhận thức ăn hay thức uống ở người ở đẳng
cấp thấp hơn. Đẳng cấp “đừng chạm đến” bị cô lập trong vùng
Tiêng của họ trong làng và không được phép uống nước lấy từ
một giếng với người đẳng cấp cao hơn. Trước khi các đạo luật
gần đây lập ra sự bình đẳng pháp luật, hôn nhân và quan hệ giới
375
tính giữa các đẳng cấp bị ngăn cấm, Mỗi đẳng cấp có những đặc
điểm văn hóa riêng. Điều này gồm cả việc ăn chạy, kiêng ky
thiệt thòi trong quá khứ cho những đẳng cấp thấp hơn tạo cơ hội
cho sự di động xã hội để họ có thể › Tâng Cao vị trí của mình. Tuy
nhiên, những cố gắng. này còn vấp phải những trở lực từ phía
đẳng cập cao vì lợi ích vật chất và địa vị của họ. Vì vậy, cho đến
hiện nay, chế độ đẳng cấp còn đóng vai trò quan trọng trong việc
Sự phân tầng về giới liên quan đến một khía cạnh của mối
_ quan hệ giữa hai giới, bình đẳng hay bất bình đẳng. Bởi vì, trong
khuynh hướng giả thiết rằng nam giới là tất cả và chúng ta có thể
nghĩ rằng vốn có sự khác biệt cả vẻ sinh học và vai trò. B1ữa nam
và nữ. Vì vậy, nhìn vào các niền văn hóa khác nhau mà khía cạnh _
trọng đối với chúng ta để thấy được văn hóa chí phối bản chất
của sự phân hoá giới như thế nào và các điều kiện làm nảy sinh
hội bình quân hơn và phát hiện ra nhiều điều kiện cho sự tỒn tại
của chủ nghĩa bình quân này. :
thế. Trong xã hội này, cả hệ tư tưởng và thực tiễn Của con người,
hay hành vi đều liên quan đến sự phân tầng về giới. Nam giới
hầu hết kiểm soát tất cả các nguồn lực quan trọng trong xã hội
376
nữ. Một số xã hội được xem là nam giới chiếm ưu thế một cách
rõ rệt là Ân Độ, các xã. hội Hồi giáo Trung Đông, một số xã hội
Bất bình đẳng nam, nữ thể hiện trong xã hội Hồi giáo truyền
thống, phụ nữ ít được tham gia công tác xã hội, ra đường phải
mang mạng che mặt, không được lấy chồng ngoài tôn giáo;
trong khi đó nam giới được quyền đa thê và nắm giữ những vị trí
mà chế độ phụ quyền được đề cao, thêm nữa được củng cố bởi
Nho giáo với quan niệm “nam tôn, nữ tỉ”, phụ nữ phải thực hiện
_ “tam tòng và tứ đức”, bị đầy xuống hàng thứ yếu. Trong khi đó,
nanfg1ới đóng vai trò quan trọng và quyết định trong gia đình và
Tuy nhiên, ngay cả xã hội nam giới có ảnh hưởng mạnh mẽ,
phụ nữ không chỉ đơn thuần dễ đàng thích nghỉ với địa vị thứ
giành được một phạm vi tự trị nhất định. Nơi nào mà sự chỉ phối
của nam giới là cứng nhắc, nạm và nữ có những lĩnh vực hoạt
động riêng biệt có nghĩa là phụ nữ chỉ phối những loại hình hoạt
động kinh tế: nhất định trong hộ gia đình, nơi đó phụ nữ tìm thấy
sự thỏa mãn về kinh tế và xã hội. Điều này là có thật đối với phụ
nữ thuộc đẳng cấp cao ở các làng. Mặc đù họ có thể là đối tượng -
kiểm soát của nam giới, họ có sử dụng một số quyền lực quan
Trong loại xã hội thứ hai mà sự lấn át của nam giới có phần
đè đặt và dịu bớt, phụ nữ có vai trò chính trị quan trọng hay tiếp
cận một số nguồn lực riêng của họ. Họ có thể sử đụng chúng để
làm tăng vị trí ở nhà và vị trí của thân tộc và mở rộng, phát triển
mạng lưới xã hội riêng của họ. Loại xã hội này tiêu biển cho
nhiều nền văn hóa ở Tây Phi, nơi mà phụ nữ 'không chỉ sản xuất
mà còn mua bán ở chợ và khống chế các nguồn lực từ các vụ thu
377
hoạch nhất định. Phụ nữ Tây Phi rất chủ động về chính trị thông
Trong loại xã hội bình quân tư tưởng nam giới thống trị là
không có hay rất yếu. Phụ nữ có phương tiện được tiếp cận các
nguồn lực kinh tế quan trọng và chiếm vai trò và vị trí quyết
định. Chủ nghĩa bình quân giữa nam và nữ dựa trên sự bù trừ về
vai trò. Ví dụ trong xã hội đàn ông săn bắn và phụ nữ hái lượm
hệ với việc ai sẽ là người chăm sóc con cái và mối quan tâm của
xã hội về vấn để này. Không có xã hội nào đàn ông đảm trách
chính việc chăm sóc con cải ngay cả phần quan trọng của công
việc đó. Ở đâu, chính phủ xây các nơi trông coi và chăm sóc trẻ
cộng đồng, phụ nữ có khả năng tham gia một cách có hiệu quả.
vào nền kinh tế đã nâng địa vị họ lên, nơi nào việc chăm sóc trẻ
Phân tầng xã hội trong xã hội truyền thống và hiện đại ở các
- dân tộc Việt Nam. Trong xã hội truyền thống của các dân tộc
miền núi phía Bắc cho tới trước Cách mạng tháng Tám tiêu biểu
là các dân tộc Tày, Mường, Thái, Nùng, Hmông, v.v... đã bước ,
sang xã hội phong kiến sơ kỳ và phong kiến phát triển tùy từng
-_ vùng. Xã hội đã phân hoá thành các giai cấp, đẳng cấp rõ nét.
Ở vùng tồn tại chế độ thô ti, lang đạo, phìa tạo, các chúa đất
được cơi là tượng trưng cho quyền lực của toàn thể bản mường,
nên tất cả đất đai, ruộng nương, rừng núi, sông ngòi và kể cả con
người đều thuộc về bản mường tức là thuộc về chúa đất. Giai
cấp thống trị, quý tộc vừa là đại diện cho triều đình phong kiến
cai quản các cư đân vùng núi vừa là người nắm quyền chỉ phối
ruộng đất. Họ chiếm nhiều ruộng đất của công xã phần lớn để
làm lương bồng trả công cho bản thân, gia đình và chức dịch với
378
danh nghĩa là ruộng chúa, ruộng chức. Số ruộng còn lại chia cố
định cho người dân trong bản và chỉ điều chỉnh khi cần thiết
Người dân nhận ruộng phải gánh vác việc mường, nghĩa là
phải đóng góp một thứ thuế thể hiện bằng, địa tô, trả bằng hiện
vật tức là một phần sản phẩm thu hoạch, bằng tiền hay bằng lao
dịch dưới hình thức đi phu, đi làm việc công ích nhà nước.
Tính chất giai cấp, đẳng cấp còn thể hiện trong mối quan hệ
huyết thống, đòng họ. Ở các dân tộc này lại có dòng họ quý tộc
vừa có dòng họ dân vì vậy thường dẫn tới sự xung đột mâu
Ở đây giai cấp phong kiến quý tộc bao gồm gia đỉnh chúa
đất và các chức dịch thượng đẳng chủ yếu sống ăn bám không
lao động. Nông dân được chia ra làm hai đẳng cấp: tầng lớp
tầng lớp và lực lượng đông đảo nhất trong xã hội; tầng lớp lệ
nông sống thành từng bản riêng hay lẫn với những người tự do,
họ hoàn toàn phục dịch chủ được coi là người trong I nhà của quý
tộc, họ làm tất cả các công việc tạp dịch và sản xuất trên ruộng
của chủ; còn tầng lớp gia nô bị coi là nô lệ gia trưởng, có địa vị
Ở những vùng thấp, giáp miền xuôi, sự phân hoá giai cấp xã
hội giống với người Việt, Trước cải cách ruộng đất xã hội của họ
được chia ra thành các giai cấp: địa chủ phong kiến, phú nông,
đất tương đối rõ rệt, hình thức bóc lột tô thuế là chủ yếu.
đạt tới trình độ phát triển cao, phân hoá giai cấp khá sâu sắc
giống như người Việt. Do ảnh hưởng các tôn giáo: Phật giáo ở
động không ít đến sinh hoạt xã hội của họ. Tầng lớp sư sãi
379”
Theo giáo sư Tương Lai”, xã hội người Việt từ xã hội phong
_kiến bước sang xã hội thực đân nửa phong kiến vẫn là một xã
hội tiểu nông tự cung tự cấp với lao động cơ bắp của con người
là chính cùng với sức kéo của động vật như trâu, bò. Mặc đù cho
đến cải cách ruộng đất, xã hội Việt Nam đã phân hoá thành các
giai cắp: địa chủ, phú nông, trung nông, bần nông, nhưng trong
xã hội ấy, nét nổi bật phổ quát là một chủ nghĩa bình quân chia
sự nghèo khổ một cách đồng đều, ít có sự khác biệt trong đại bộ
phận cư dân. Ngoại trừ một số nhóm giàu lên đo chiếm được vị
trí quyền lực và sở hữu ruộng đất, tài sản tạo ra, hoặc ngược lại,
số tầng lớp cư đân cùng chia sẻ một số bộ phận không mấy khác
Người ta hy vọng có dịp ngoi lên khỏi vị thế hiện tại vì có một
sự thật là tầng lớp có đặc quyền đặc lợi không duy trì lâu bền vị
thế của ông cha: sự vượt trội lên của những gia đình, những
nhóm giàu có và quyền thế thường không lâu bền, sự tái tạo về
văn hóa để ổn định một lối sống thường không vững chắc.
phân tầng về tuôi tác, tiếp đó là nghề nghiệp và quyển lực trong
xã hội. Nếu “triều đình trọng tước thì làng nước trọng sĩ”. Tiến
thân theo tuổi tác gắn liền với truyền thống trọng lão của xã hội -
nông nghiệp truyền thống. Cùng với sự phân tẦng về tuổi tác,
còn có sự phân tầng về nghề nghiệp theo thứ bậc khá rạch ròi
chức nghiệp và học vấn nhiều hơn là theo của cải. Một xã hội
truyền thống mang tính đẳng cấp theo hệ thống mở mà ranh giới
giữa các đẳng cấp lại không thật nghiêm ngặt cho lắm.
Tương Lai, Khảo sát Xã hôi học về phân tầng xã hội - Cơ sở lí luận và
380
Trong lịch sử Việt Nam, chế độ sở hữu ruộng công của làng
xã từ thế kỷ thứ X đến thế ký XVII bị giải thể để thay thế vào
đó sở hữu nhỏ của những người tiểu nông, còn sở hữu ruộng đất
Sự không phát triển của sở hữu tư nhân và địa chủ, một mặt
không tạo điều kiện cho quá trình tích tụ tư bản để đây tới nền
kinh tế hàng hoá lớn, nhưng mặt khác lại củng cố tính cộng đồng
của làng và nước. Vì thế trong nền văn hóa Việt Nam có Sự ưu
trội của tính cộng đồng. Người nông dân. Việt Nam sống trong
các làng xã được phân biệt theo phận vị từ cao đến thấp.
Hạng “ “chức sắc” gồm những người đã đậu đạt ở chốn khoa
Hạng “chức dịch” gồm những người đã từng hay đạng giữ
“mua nhiêu, mua xã” tức là mua những phẩm hàm không phải
chưa đỗ đạt ở chốn khoa trường, tuy nhiên “cũng đã trúng nhất
trường, nhị trường” tức là đã lọt các bài thi đầu tiên trong khuôn
Hạng “lão” gồm. những người đã lên lão trong làng 6 trong
như ta đã biết.
Trong sinh hoạt làng xã chỉ có hạng “chức sắc” hay “chức
dịch” đóng vai trò quan trọng. giữa chốn đình trưng được gộp lại
với một tên gọi chung là “quan viên” hay “ quan viên làng xẩ”.
Họ là những người vừa có điển sản vừa có phẩm hàm, chức vụ,
bằng cấp, tạo cho họ đủ uy thế “có quyển ăn quyền nói”; còn lão:
381
hạng thuộc loại xuất lã vô sự, “mũ nỉ che tai”; còn dân đỉnh chỉ
biết lắng nghe, có hỏi đến cũng phải lễ phép trả lời.
- Như vậy trong xã hội truyền thống, phân tầng xã hội Việt
Nam không tạo ra sự quá cách biệt, đi động xã hội không cao,
quan hệ đẳng cấp kết bện với quan hệ giai cấp không mấy rạch
ròi trong một xã hội đa số là nông dân với một chủ nghĩa bình
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp 1954 miền
Bắc được giải phóng, tiến hành cải tạo và xây dựng CNXH. Đây
là một cuộc cải biến mới về chất về mặt xã hội so với thời kỳ
trước đó;- song trên thực tế, lịch sử lại ghi nhận một chủ nghĩa
bình quân mới rà gốc rễ của nó thì vẫn nằm sâu vào cơ tầng xã
hội tiểu nông cũ. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp
không làm chuyển đổi được nền kinh tế nước ta với 80% cư dân
nông nghiệp. Cơ cầu kinh tế vẫn lạc hậu, những bước thăng trầm
của quá trình hợp tác hoá rốt cục vẫn không làm chuyến biến
được nền kinh tế tiểu nông. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung và
bao cấp tiếp tục thúc đây một chủ nghĩa bình quân chia đều sự
nghèo khổ cho tuyệt đại đa số nhân dân song lại dung dưỡng cho
một chế độ đặc quyền, đặc lợi cho những ai có cơ may leo vào
hệ thống quyền lực. Chủ nghĩa bình quân chia đều sự nghèo khổ,
một mặt lặp lại sự thu nhập khá đồng đều trong tuyệt đại đa số
cư dân về kinh tế, nhưng mặt khác lại tiềm ân sự bất bình đẳng
về mặt xã hội do chế độ bao cấp và đặc quyền, đặc lợi gây nên.
có, nhưng sự phân tầng theo thứ bậc hành chính và kéo theo nó
là những lợi thế về mặt đời sống bao gồm cả thu nhập, sở hữu và
nhiều lợi thế khác nữa như những ưu tiên cho sự thăng tiến xã
_ hội của con cái, họ hàng, những đặc quyền, đặc lợi về mặt văn
xã hội nhưng thực tế nó vẫn diễn ra. Một chủ nghĩa bình quân
382
chia đều sự nghèo khổ không che lấp được thực trạng phân tầng
xã hội được cơ chế quan liêu bao cấp đung dưỡng cho đặc
quyền, đặc lợi đã làm triệt tiêu động lực phát triển là một trong
những nguyên nhân gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng CNXH, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng một xã hội đân chủ, công bằng, văn minh. Nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường đã
tạo nên tính năng động xã hội rất lớn. Cùng với nó, tính cơ động
xã hội cốt lối tạo nên sự di chuyển từ địa vị này sang địa vị khác,
sự năng nỗ của từng cá nhân tạo nên nhịp sống động của toàn xã
hội. Mặt tích cực của cơ chế thị trường là nó đặt con người vào
trong những điều kiện có thể bộc lộ hết mnặt mạnh cũng như mặt
yếu trong cuộc cạnh tranh để có thể có được lợi ích cao nhất cho
mình, nó đòi hỏi tính năng động và bản lĩnh của các cá nhân, của
Kinh tế thị trường tạo nên sự phân tầng xã hội ngày càng sâu
sắc, hỗ ngăn ‹ cách giữa người giàu và người nghẻo càng lớn, sự
chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng
bằng và miền núi ngày càng gia tăng, mặc dù mức sống ngày
Theo tài liệu điều tra của Tổng cục Thống kê năm 1998, tỷ
Chênh lệch thu nhập giữa 20% nhóm hộ có thu nhập ‹ cao
nhất và 20% nhóm hộ có thu nhập tấp nhất biểu hiện cao nhất ở
vùng Tây Nguyên năm 1996 là 12,8 lần; Đông Nam Bộ 7,9 lần;
vùng ven biển miền Trung có sự chênh lệch thấp nhất là 5,7 lần.
383
Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động -Thương binh và
Xã hội vào năm 1999 còn có khoảng 2 triệu hộ nghèo đói, chiếm
hướng dãn ra nhanh. Ở vùng đô thị nơi có 20% dân sinh sống _
chiếm khoảng 60% GDP được phát triển với tốc độ nhanh (10 -
12% năm). Trong khi đó vùng nông thôn nơi có 80% nông dân .
sinh sống chỉ chiếm khoảng 40% GDP lại đang phát triển chậm
Theo Thời báo Kinh tế Việt Nam năm 1999, trên phạm vi
là 44 ;92:.
Như vậy, khi bước sang nền kinh tế thị trường, phân tằng
xã hội gắn liền với phân hoá giàu nghèo ngày một gia tăng và
vấn đề tăng trưởng kinh tế với việc đảm bảo công bằng xã hội
đặt ra cho chúng ta những khó khăn thách thức trên con đường
phát triển
Các nhà khoa học xã hội tiếp cận kiến thức về phân tầng xã -
chức năng.
quan niệm tiếp cận về hình thái kinh tế - xã hội và quan niệm
về giai cấp và đấu tranh giai cấp của Marx. Họ nhắn mạnh đến
vẫn đề quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Họ coi đây là đặc
trưng chủ yếu của sự phân tầng xã hội hay dấu hiệu chủ yếu để
nhận biết sự phân chia xã hội thành những giai cấp này hay giai
cấp khác. Họ cũng nhắn mạnh đến đấu tranh giai cấp, đến xung
đột xã hội, coi đó là nguồn gốc, động lực thúc đây sự phất triển
lịch sử. :
384
* LÍ thuyết chức năng
Những người theo lí thuyết chức năng nhắn mạnh đến trạng
thái cân bằng cơ cấu hơn là đến những biến đổi của cơ cầu ấy.
Theo họ, phân tầng là một hiện tượng khách quan và có tính
chức năng nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết của xã hội và
đặt ra vấn đề là làm sao phải có một xã hội đẳng cấp. Theo
Parsons - một đại biểu của trường phái chức năng, phân tầng xã
hội được coi là sự sắp xếp cá nhân trong một hệ thống xã hội
trên cơ sở những tiêu chuẩn của một hệ thống chung về giá trị,
phân tầng là kết quả trực tiếp cũng là phương tiện của hoạt động
tầng xã hội cũng đóng BÓP cho trật tự xã hội bằng cách hợp nhất
các nhóm có lợi ích kinh tế và chính trị chung khi thân tộc không
còn đóng vai trò quan trọng trong việc hợp nhất. Một hệ thống -
phân tầng xã hội được xem là hạn chế mâu thuẫn xã hội giữa các
cá nhân và các nhóm, sự bất bình đẳng là là cái giá cho sự ổn định
xã hội.
Các nhà phê phán trường phải chức năng cho rằng, một hệ
thống phân tầng cần trở những người thông minh: và tài năng ở
tiếp cận sự đào tạo và các cơ hội đẫn đến những nghề nghiệp và
vị trí được trọng dụng trong xã hội. Họ còn cho răng, Sự phân
chia cấp bậc một cách hệ thống các hạng người, nhất là việc tiếp
đã bị tổn hại về mặt tình cảm, luôn chịu sự đau khổ thiệt hại và
bất công gây nên cái đói, tỷ lệ tử vong cao, trình độ học vấn
-thấp, sự tham gia chính trị.
chức, tính chính thức rõ ràng; (b) có sự chọn lọc hội viên; (c) các
thành viên dựa vào lợi ích chia sẻ hay có mục đích chung và (d)
385
có ý thức và niềm tự hào lẫn nhau và được nhận biết rõ ràng.
Thành viên thay đổi tùy theo nó mang tính tự nguyện hay không.
Hệ thống theo nhóm tuổi, giới tính là những hiệp hội không
tự nguyện theo đặc điểm quy gán. Nó mang tính toàn cầu.
Chúng bao gồm những nhóm người có tuổi và giới tương tự, họ
là những người cùng bước vào đời. Gia nhập vào hệ thống thì
thường bằng một nghỉ lễ kết nạp và trong vòng đời người có các
nguyện, nó mang tính thay đổi. Các hiệp hội thường xuất hiện
những tổ chức tộc người và địa phương nhìn chung nhắn mạnh
(a) việc giúp đỡ các thành viên thích nghi với những điều kiện
mới; (b) duy trì mỗi quan hệ của thành viên với truyền thống quê
hương và (c) đây mạnh cải thiện điều kiện sống cho những thành
Những hiệp hội được gán cho đặc điểm hay thay đổi có
khuynh hướng bị thay thế trong những xã hội công nghiệp hoá
cao bởi những hiệp hội này hình thành dựa trên chất lượng tự có
chức truyền thống theo nam giới (giáp) và các tổ chức mang.
đa dạng của tổ chức xã hội. Các nhà nhân học xác định ba loại
hệ thống xã hội. Trong xã hội bình quân, các nhóm xã hội được
bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực kinh tế, quyền lực
cũng như uy tín. Trong xã hội thứ bậc, các nhóm xã hội không
có sự bất bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực kinh tế và
386
quyền lực nhưng lại bất bình đẳng uy tín. Đó là một xã hội bị
phân tầng bộ phận. Trong xã hội phân tầng (xã hội có giai cấp)
có sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực kinh tế,
Trong xã hội có giai cấp vị trí xã hội phần lớn là do đạt được, dù
nó cũng phần nào bởi giai cấp mà người đó được sinh ra. Con
người có sự đi động vị trí xã hội giữa các giai cấp. Các giai cấp
xã hội được xem là một tiểu văn hóa và được đặc trưng bởi một
lối sống riêng. Trong hệ thống đẳng cấp, vị trí xã hội được gán
cho dựa vào sự sinh ra. Ranh giới giữa các đẳng cấp được xác
định một cách nghiêm ngặt về vị trí xã hội, nghề nghiệp và sinh
Trong các xã hội có sự phân tầng về giới liên quan đến vấn
để bình đẳng hay bất bình đẳng về vai trò giữa nam và nữ. Nhìn
vào các nền văn hóa khác nhau thì mối quan hệ giữa nam và nữ
cũng rất khác nhau, cho chúng †a thấy được văn hóa chỉ phối bản
chất của sự phân hoá giới như thế nào và các điều kiện nảy sinh
Tiếp cận nghiên cứu phân tầng xã hội có lí thuyết chức năng
và lí thuyết xung đột để giải thích sự hiện diện của các giai cấp,
đẳng cấp và những quan hệ giữa chúng trong lịch sử tồn tại và
Kế từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, nhiều nhà nhân học
đã định hướng kết quả nghiên cứu của mình vào những ứng
dụng cụ thể, nên ngành nhân học xuất hiện thêm một phân
Nhân học ứng dụng là phân ngành mà các nhà nghiên cứu
áp dụng các dữ liệu, các khái niệm, lí thuyết và phương pháp của
nhân học vào việc giải quyết các vấn đề đa dạng khác nhau trong
- Khái niệm nhân học ứng dụng cũng được hiểu theo nhiều
cách khác nhau,một trong những định nghĩa được phổ biến rộng -
rãi là của George Foster trong cuốn sách của ông: Nhân học ứng
đụng (1969): “Nhân học ứng dụng là một cụm từ được sử đụng
phổ biến bởi các nhà nhân học dùng để mô tả các hoạt động
nghề nghiệp của họ trong các chương trình với mục tiêu cơ bản
là biến đổi hành vi của con người nhằm cải thiện những vấn đề.
xã hội, kinh tế và công nghệ, chứ không phải là nhằm phát triển
anthropolosy, 54)!. Cho đến nay định nghĩa này vẫn được còn
giữ nguyên giá trị ở chỗ Foster đã xác định được ý tưởng chủ
đạo của nhân học ứng đụng là “giải quyết vấn đề.”
trọng trong định nghĩa phân ngành này là khía cạnh phương _
pháp, rằng nhân học ứng dụng là một phức hệ bao gồm các
phương pháp công cụ có tương liên với nhau và tiến hành
nghiên cứu thực tế để từ đó tạo ra một tập hợp các đữ liệu, sáng
388
kiến hành động trực tiếp và/hoặc hình thành chính sách nhằm
hướng đến sự thay đổi hay là sự ốn định của một hệ thống văn
Trong mối quan hệ với bốn phân ngành truyền thống của
- nhân học, nhân học ứng dụng có mối liên hệ khăng khít và mật
thiết. Sự khác nhau cơ bản giữa nhân học ứng dụng và nhân học
thuần túy là ở tính ứng dụng. của nó. Trong khi nhân học thuần
túy với các phân ngành truyền thống thiên về tính lí thuyết thì
nhân học ứng dụng lại thiên về tính thực hành, tính ứng dụng
của các nghiên cứu vào việc giải quyết các vấn đề của xã hội.
Tỉnh ứng dụng này được phát triển mạnh mẽ kể từ Chiến tranh
Thế giới thứ hai khi mà việc tìm hiểu các vẫn đẻ về con người và
Xã hội con người trên thế giới trở nên hết sức cấp thiết Bây Ta
chủ yếu bởi áp. lực dân số, nghèo đói, bệnh tật và bất bình đẳng -
Trong quá trình hình thành và phát triển, nhân học ứng dụng
đã có rất nhiều tên. gọi khác nhau, chẳng hạn như: nhân học hành
biến nhất.
thường được phân ra thành ba giai đoạn chính: giai đoạn trước
và trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai; giai đoạn những,năm
50, 60 của thế kỉ XX; và giai đoạn từ những năm 70 đến nay”.
Phân ngành nhân học ứng đụng trong mỗi giai đoạn có những
389
đặc điểm lịch sử phát triển riêng biệt nhưng luôn gắn liền với
Kể từ thập niên 30 của thế ki XX, các nước thực dân như
Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, Mỹ,... đã tiến hành xâm lược
và biến các nước ở châu Phi, châu Mỹ Latinh, châu Á trở thành
các nước thuộc địa. Để tạo thuận lợi cho công cuộc khai thác
thuộc địa của mình, các nước thực dân — đế quốc đã sử dụng kết
quả nghiên cứu của các nhà nhân học về những lĩnh vực mà họ
đã nghiên cứu ở các cộng đồng cư dân thuộc địa như văn hóa, xã
hội, tâm lí,... để nhằm phục vụ tốt cho công cuộc “khai hóa” của
mình. Theo xu hướng đó, những số liệu và kết luận được nêu ra
trong các công trình nghiên cứu về cư bản địa đo các nhà nhân
Trong khi đó, tại các nước phương Tây, các nhà nhân học
ứng dụng có vai trò khác. Ví dụ như tại Mỹ, Đơn vị Nhân học
thành lập từ đầu những năm 1930, người đứng đầu là John
Collier vốn là một nhà nhân học. Nhiệm vụ của Ủy ban này là
nghiên cứu về tiến trình hành động của các tổ chức tự quản của
các tộc người bản địa Mỹ theo đạo luật Tổ chức người Da Đỏ
1934. Ví dụ khác là việc các nhà nhân học như Lloyd Warner,
Burleigh Gardner đã tham gia vào Hội đồng liên ngành nghiên
cứu về Quan hệ con người, thành lập tại trường Đại học Chicago
để tiễn hành nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực quản lí công
nghiệp, năng suất sản xuất và điều kiện làm việc.
Giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai đánh đấu sự quan tâm
đáng kể về tính ứng dụng của đân tộc học và nhân học đối với
nhiều vấn đề xã hội đương thời. “Cuộc khủng hoảng của chiến
390
tranh đã cung cấp những cơ hội chưa từng thấy trước đây cho
những nhà nhân học vận dụng kĩ năng và hiểu biết tham gia vào
những hoạt động khắc phục sự tàn phá của chiến tranh”. Các
nhà nhân học đã có những công trình nghiên cứu văn hóa, tâm
lý, văn hóa đân tộc trong thời chiến,... Những kết quả nghiên
cứu này được phân tích và phục vụ lại chính xã hội các nhà nhân
học. Tiêu biểu ở Mỹ trong thời gian này là việc ra đời của Hội
năm 1941 tại Trường Đại học Harvard và Tạp chí Nhân học ứng
đụng. Những đóng góp cho nước Mỹ của các nhà nhân học ứng
dụng được cụ thể hóa qua các việc tham gia các tổ chức sau:
(Committee for Nafional Morale), mục đích là xem xét ứng dụng
nhân học và tâm lí học như thế nào để có thể phát triển tỉnh thần
uống nhằm thiết lập chính sách về khẩu phần thức ăn thời chiến.
- Sau khi Hoa Kỳ chính thức tham gia Chiến tranh thế giới
thứ hai vào cuối năm 1941, các tài liệu nghiên cứu của các nhà
nhân học Geoffrey Gorer (ứng dụng phân tâm học vào nhân
học), Margaret Mead (nhân học văn hóa và tính cách), Ruth
Benedict (nhân học văn hóa và tính cách) đã giúp ích rất nhiều
cho chính phủ nước này khi đưa ra những quyết định quan trọng
trong mối quan hệ với các nước đồng minh cũng như với các
391
1.2. Giai đoạn những năm 50 và 60 của thế kỉ XX
Trong những thập kỉ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhân.
học ứng dụng tiếp tục phát triển, nhưng theo một xu hướng khác.
giáo dục ở những năm sau chiến tranh. Trong Chiến tranh thế
giới lần hai, do hầu hết nhà nhân học đều nghiêng về phần ú ứng
dụng, không quan tâm nhiều đến sự phát triển các vấn đề lí
thuyết nên sau chiến tranh, bộ phận này trở nên thiếu hụt trong -
khi giáo dục lại đang phát triển mạnh ở Mỹ. Chính vì thế, các
nhà nhân học trong giai đoạn này đã tập trung vào nghiên cứu
lĩnh vực hàn lâm. Họ tham gia vào những công việc giảng dạy
và nghiên cứu ở các khoa nhân học tại các trường đại học của
Mỹ. Tỉnh học thuật của nhân học trong giai đoạn này được quan
Tuy sự phát triển của bộ phận nhân học lí thuyết không đưa
đến sự chấm dứt tồn tại của nhân học ứng dụng nhưng cách thức
nghiên cứu của nhân học ứng dụng cững đã có ít nhiều thay đổi.
Sự thay đổi đầu tiên đó là hạn chế vai trò trong nghiên cứu và tư
vẫn của những nhà nhân học ứng đụng vốn đã từng hoạt động
rất sôi nỗi và mạnh mẽ trong suốt những năm 30 và 40. Thay đổi
thứ hai là về cách các nhà nhân học ứng dụng giải quyết những
giá trị riêng của họ đưa ra như Willigen đã nêu: “Những nhà
nhân học bắt đầu có trách nhiệm đối với những giải pháp của họ -
Vai trò mở rộng của các nhà nhân học ứng dụng trong giai
đoạn này được thể hiện qua hai dự án cụ thể: một liên quan đến
nhóm người Mỹ bản địa ở Iowa và một về những nông dân Peru.
Trong dự án đầu, đưới sự điều hành của Sol Tax, sáu sinh viên
tốt nghiệp tại Trường Đại học Chicago tham gia vào dự án Fox
392
(Fox Project), một chương trình vừa nghiên cứu và vừa can thiệp
vào văn hóa của những cư đân đa đỏ. Với việc cho là những vấn
đề mà cư dân đa đỏ đang phải đối mặt đều xuất phát từ mối quan
hệ của họ đối với cộng đồng lớn hơn, những người tham gia vào
giáo dục vị thành niên, những dự án về các ngành nghề thủ công,
giúp cho những người dân này có cuộc sống tốt đẹp hơn.
được tiến hành trong những năm 50 của thế kỷ XX, dưới sự
cộng tác của Viện các vẫn đề bản địa Peru (Peruvian Insfitute of
Indigenous Affairs) tập trung vào việc biến đổi những đồn điền
phụ thuộc và không năng suất thành nông trường tập thể
(hacienda) và có năng suất kinh tế. Dưới sự giám sát cần thận
của các nhà nhân học và các nhà kỹ thuật, một số cải cách đã
được đưa vào, bao gồm cả những kỹ thuật mới trong trồng trọt
(giống, phân bón, thuốc trừ sâu,...), những chương trình giáo
dục, chương trình ăn trưa nóng ở trường và những bài học may
vá cho phụ nữ. Người đân dần dần tin tưởng vào sự thành công
_ của dự án này và bắt đầu tìm kiếm những giải pháp mang tính.
cộng đồng khi họ gặp phải bất cứ vấn đề gì. Vào giai đoạn cuối
của dự án, mức thu nhập gia đình, tiêu chuẩn sức khỏe và giáo
đáng kế. Sau đó, đự án Vicos được xem như một dự án phát
triển kiểu mẫu về kế hoạch thay đổi kinh tế xã hội được diễn ra
dưới sự nỗ lực cộng tác giữa các nhà nhân học ứng dụng, các
nhà quản lí địa phương và người dân bản xứ.
Từ những năm 70 đến nay đã xuất hiện lĩnh vực nhân học
ứng dụng mới. Trong lĩnh vực này các nhà nhân học làm việc
393
†oàn thời gian cho các tổ chức công cộng, những tổ chức phi lợi
nhuận hoặc các trung tâm tư nhân. Khác với trước đây, các nhà
nhân học ứng dụng chủ yếu chỉ làm việc bán thời gian trong
những dự án ứng dụng ngắn hạn. Sự phát triển này là kết quả
của hai khuynh hướng quan trọng có sự tác động từ bên ngoài
đối với nhân học: một là nhu cầu trong lĩnh vực học thuật của
nhân học đã giảm thể hiện ở số lượng sụt giảm việc làm ở các cơ
sở đào tạo; hai là nhân học ứng dụng trở thành một bộ phận bức
thiết trong xã hội gắn với rất nhiều tổ chức nghiên cứu về chính
sách, phát triển xã hội. Điển hình tại Mỹ trong thời kỳ này đã có
các tô chức nhân học ứng dụng ở cấp độ quốc gia như Hội Nhân
hội quốc gia của những nhà nhân học thực hành WNational
LPOs), chẳng hạn như Hiệp hội những nhà nhân học chuyên
Ngày nay, nhân học ứng dụng vẫn tiếp tục phát triển theo
các lĩnh vực khác nhau, nhưng những vẫn đề họ quan tâm đã
được mở rộng trong một số lĩnh vực như đô thị, y học; du lịch và
giáo dục,... Những lĩnh vực này được nghiên cứu ở nhiều góc
độ khác nhau theo từng nhu cầu cụ thể nhằm góp phần phát triển:
Nhân học giáo dục đề cập đến nghiên cứu giáo dục và phát
triển nguồn nhân lực, nghiên cứu giáo dục trong các bối cảnh
văn hóa xã hội và tộc người nhất định. Nhân học giáo dục
394
nghiên cứu sự khác biệt văn hóa và tộc người cũng như các kỹ
năng giảng dạy trong môi trường có sự khác biệt văn hóa và tộc
người. Nghiên cứu giáo dục quan tâm đến đặc trưng các nhóm
người, tộc người khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, tập quán,
thói quen, kiểu tr duy, ứng xử, cách tiếp cận trong học tập của
cứu để từ đó đề ra những cách đạy học phù hợp với đặc trưng
văn hóa, tộc người, tìm kiếm những phương pháp dạy học phù
hợp trong mối quan hệ giữa thầy và trò để vượt qua những rào
cán về thói quen dạy và học truyền thống, Nhân học giáo dục
được tiễn hành trong lớp học, nhà ở và các vùng phụ cận.
Ngoài ra, nhân học giáo dục còn phối hợp với các nhà nhân
học ngôn ngữ nghiên cứu tình trạng song ngữ và đa ngữ trong
các lớp học, soạn từ điển song ngữ giúp con em người dân tộc
Một thí dụ là bản báo cáo mang tính kinh điển của Jules
Henry về các lớp tiểu học ở Mỹ (1955) cho thấy học sinh học -
cách thích ứng và cạnh tranh với bạn đồng môn của mình. Nhà
nhân học khi theo dõi các ứng xử của học sinh từ môi trường
trường học về đến môi trường gia đình và những khu vực phụ
cận đã xem trẻ em là những chủ thể văn hoá thực sự mà sự nhập
thân văn hóa (enculturation) và thái độ ứng xử đối với giáo dục
phụ thuộc vào bối cảnh cả về gia đình và bạn đồng môn.
Các nhà ngôn ngữ học xã hội và các nhà nhân học đã sát
cảnh bền nhau trong các cuộc nghiên cứu về giáo dục, chẳng hạn
cuộc nghiên cứu về học sinh lớp bảy gốc Puerto Rico ở khu thị
tứ miễn Trung Đông. Trong lớp học, ở các khu dân cư , ở nhà,
các nhà nhân học phát hiện ra một vài ngộ nhân của giáo viên.
Các giáo viên đã suy đoán một cách sai lầm rằng các bậc phụ
huynh gốc Puerto Rico coi nhẹ giáo dục con cái hơn các bậc phụ
phỏng vấn sâu đã phát hiện ra rằng, các cha mẹ gốc Puerto Rico
395
lại coi trọng giáo dục hơn. Các nhà nghiên cứu đã phát h hiện ra -.
gốc Mỹ Latinh có được một nền giáo dục thỏa đáng. Chẳng hạn,
hiệp hội các giáo viên và hội đồng sư phạm đồng ý đạy “tiếng
Anh như một ngoại ngữ”. Tuy nhiên họ lại không đủ giáo viên
song ngữ để đạy cho học sinh nói tiếng Tây Ban Nha. Nhà
trường bắt đầu quy kết quả yếu kém và hành vi ứng xứ không tốt
của học sinh cho các lớp học tiếng Anh như một ngoại ngữ.
nhất là giáo viên nên có sự nhạy cảm về những khác biệt ngôn
ngữ và văn hóa. Học sinh cần được bảo vệ để ngôn ngữ xuất
thân và khác biệt văn hóa tộc người và tôn giáo của chủng không
- gây trở ngại chơ chứng trong quá trình h nhập thân và thích nghỉ
văn hóa.
Đây là sự kết hợp giữa lĩnh vực nhân học sinh học và nhân
Nhân học y tế quan tâm đến các khái niệm cơ bản liên quan
đến tr thức dân gian, các học thuyết cơ bản của y học cổ truyền
có ảnh “hưởng đến tri thức dân gian trong chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng. Để tiến hành nghiên cứu, nhân học y tế đề cập đến
các cách tiếp cận nghiên cứu sinh học và tiếp cận sinh thái, tiếp
cận y tế tộc người và y tế phê phán: trong bối cảnh văn hóa.
* Các lĩnh vực nghiên cứu chủ yếu và các phương pháp
Các nhà nhân học y tế thường nghiên cứu những chủ đề như;
Các nhóm cư dân khác nhau bị tác động bởi các loại bệnh gì? Về
phương diện xã hội, bệnh tật được nhìn nhận như thế nào? Về mặt
văn hóa và tính hiệu quả, người ta có những cách trị bệnh như thế
nào? Lĩnh vực nghiên cứu đang phát triển này xem xét bối cảnh
396
Khái niệm bệnh (decease) là khái niệm khoa học dùng để
chỉ mối đe doa sức khỏe đo một loại vi khuẩn, vị rút, nắm, ký
sinh trùng hay mầm bệnh khác gây ra. Sự ốm đau (llness) là
tình trạng sức khỏe kém của một cá nhân, Các nghiên cứu
xuyên. văn hóa cho thấy việc nhận biết tình trạng sức khỏe tốt
hay xấu, các vấn đề và mối đc doạ về sức khoẻ đều do văn
hóa quy định. Các nhóm tộc người và văn hóa khác nhau nhìn
nhận sự ốm đau, các triệu chứng và nguyên nhân gây bệnh TẤt
khác nhau. Trên cơ sở những quan điểm khác nhau này, họ đã.
phát triển các hệ thống chăm sóc sức khoẻ và cách thức chữa
Các dân tộc và văn hóa khác nhau có các lọai bệnh và
_ nguyên nhân gây bệnh khác nhau. Đếi với những người hái .
Ít, đặc điểm hay đi chuyển và sống. khá cách biệt: 'Với những
nhóm khác nên những người này hầu như không có các loại
bệnh dịch truyền nhiễm vốn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các xã
_ hội đô thị và nông nghiệp. Những bệnh dịch như dịch tả, thương
- hàn và dịch hạch hầu như chỉ hoành hành ở các cộng đồng cư
dân đông đúc chẳng hạn như ở các cộng đồng cư dân nông thôn
và thành thị hiện nay. Nhiều nhà khoa học cho là sự phát triển
của bệnh sốt rét như hiện nay là hậu quả Của sự 81a tăng đân số
và nạn phá rừng để sản xuất thực phẩm của các xã hội hiện đại.
Một số bệnh khác lây lan được là do những yếu tô văn hoá
chẳng hạn như bệnh sán máng. Bệnh sán mắng (schistosomiasis)
hay còn gọi là bệnh sán lá gan có lẽ là bệnh lây nhiễm với tốc độ
nhanh và nguy hiểm nhất. Bệnh này do các loài ốc sống trong
các ao, hồ, kênh rạch của các công trình thủy lợi truyền sang cho
con người. Một cuộc nghiên cứu về căn bệnh này ở một ngôi
- làng vùng châu thổ sông Nile ở Ai Cập đã cho thấy vai trò của
văn hóa, cụ thể là nghỉ lễ của tôn giáo trong việc lan truyền căn
397
bệnh này. Ở đây, tốc độ lây lan bệnh ở cộng đồng người theo
đạo Isliam cao hơn so với cộng đồng người Thiên Chúa giáo.
Nguyên nhân là đo cộng đồng người đạo Islam thường thực hiện
nghỉ thức w, nghĩa là nghỉ thức tây rửa trước khi hành lễ
hàng ngày. Với cách thức tây rửa sử dụng chung nguồn nước
này, bệnh sán máng đã lan truyền đến các thành viên trong cộng
đồng rất nhanh. Ngoài ra, thói quen ăn thịt sống, tái ở một số dân
tộc cũng là nguyên nhân gây ra một số bệnh về đường tiêu hóa.
Một số bệnh khác gia tăng cùng với sự phát triển kinh tế
chẳng hạn như stress, cao huyết áp, đặc biệt là đại dịch AIDS. Ở
Đông Phi, đại dịch AIDS và các căn bệnh lây qua đường tình
dục đã lan truyền đọc theo các con đường cao tốc, thông qua sự
tiếp xúc giữa các tài xế xe tải và gái mại đâm trên các con đường
này. Các căn bệnh lây qua đường tình dục cũng lan truyền thông
qua nạn mại dâm khi những thanh niên từ các vùng nông thôn di
cư đến các thành phố để kiếm sống. Tại đây, nếu sống buông
thả, họ sẽ đễ dàng mắc phải căn bệnh của thế kỉ này và khi trở về
làng, họ sẽ lây nhiễm cho vợ con họ. Các thành phố phát triển ở
châu Âu, châu Á, Nam và Bắc Mỹ cũng là các điểm nóng của sự
Tất cả xã hội đều có các hệ thống chăm sóc sức khỏe. Các
hệ thống này bao gồm các tín ngưỡng, phong tục, những người
chuyên trị bệnh và các kỹ thuật để giữ gìn sức khỏe, phòng bệnh,
chân đoán và trị bệnh. Lí thuyết nguyên nhân gây bệnh của một
xã hội rất quan trọng đối với sự chữa trị. Do vậy, ở các xã hội
khác nhau có các lí thuyết về nguồn gốc bệnh khác nhau dẫn
đến cách chữa trị cũng khác nhau. Các nền văn hóa trên thế giới
đều có những người chuyên chăm sóc vấn đề sức khoẻ. Ở một
số dân tộc, họ là những vị pháp sư, thầy cúng trong khi ở những
dân tộc khác lại là các thầy thuốc dân tộc, thầy thuốc Tây. Đối
với một số đân tộc, khi ốm đau có nguyên nhân liên quan đến
398
con người fhì các pháp sư với các ma thuật của mình có thể là
những người chữa bệnh tốt. Những vị pháp sư này dựa trên các
-kỹ thuật của mình vốn mang cả màu sắc huyền bí và thực tế để
chữa trị cho người bệnh. Các kĩ thuật này bao gồm việc sử dụng
bùa chú kết hợp với các bài thuốc thảo được đân gian. Các pháp
sư có thể chữa bệnh mắt trí bằng việc kéo linh hồn trở về với
thân thể người bệnh. Các pháp sư có thể chữa ho bằng cách làm
mất tác dụng của một lời nguyễn hay loại bỏ một thứ chất gì đó
do một vị phù thủy nào đó đầu độc người bệnh. Ngoài ra, theo
Levi-Strauss, các pháp sư có thể làm giảm cơn đau đẻ bằng việc
cầu xin các thần linh hướng dẫn cho đứa trẻ đường đi ra ngoài.
Nhưng các xã hội với nền công nghiệp hóa cũng có các vấn
đề về sức khỏe. Chẳng hạn như các yếu tố gây stress gồm có
tiếng ồn, ô nhiễm không khí và nước, dinh dưỡng nghèo nàn,
máy móc nguy hiểm, các việc làm mang tính rập khuôn máy.
thuốc. Các vấn đề sức khỏe ở các quốc gia công nghiệp đa phần
là do các nhân tố kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa gây ra. VÍ
dụ, ở vùng Bắc Mỹ hiện đại, nghèo đói dẫn đến rất nhiều căn
bệnh chẳng hạn như thấp khớp, tim, đau lưng, khiếm thính và
khiếm thị. Nghèo đói cũng là một nhân tố trong việc lan truyền
Các nhà nhân học y tế do vậy đã đóng vai trò như những
nhà phiên địch văn hóa trong các vẫn đề về sức khỏe cộng đồng
hướng sự chú ý đến các quan niệm mang tính địa phương về bản
chất, nguyên nhân và cách chữa bệnh. Muốn can thiệp vào vẫn
đề sức khỏe một cách thành công không chỉ đơn thuần là việc áp
đặt lên các cộng đồng suy nghĩ và hành động của các nhà nhân
học. Những chương trình hành động tại cộng đồng phải phù hợp
với văn hóa địa phương và phải được người dân địa phương
chấp nhận. Khi y học phương Tây được phổ biến, người dân
chấp nhận những cái mới trong khi vẫn luôn giữ các cách thức
399
chữa bệnh truyền thống của họ. Những người chữa bệnh địa
phương có thể tiếp tục chữa trị một số căn bệnh nhất định trong
khi các bác sĩ y khoa chữa trị các loại bệnh khác. Nếu cả người
chữa bệnh hiện đại và truyền thống đều được tham khảo ý kiến
và bệnh nhân được chữa khỏi thì người chữa bệnh địa phương
Vào thập niên 50, thuật ngữ “cách mạng đô thị” (urban
tả về những vẫn đề phức tạp trong đời sống xã hội thị đân mới
nổi lên sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Lúc ấy, kinh tế công
đặc biệt là có sự khác biệt rõ rệt. giữa khu vực nông thôn và
thành thị. Từ đó, dẫn đến sự phân tầng về mặt xã hội và cũng
làm biến đổi những cấu trúc cơ bản trong hệ thống xã hội như
vấn đề thân tộc, hôn nhân — gia đình, đói nghèo, thất nghiệp,...
“Chính vì những yếu tố phức tạp đó, các nhà xã hội học ở thập
niên 50 đã quan tâm, nghiên cứu các vấn đề xã hội trong đô thị
và từ đó xuất hiện nên thuật ngữ “Xã hội học đô thị” (urban
sociology). Tuy nhiên, các nhà xã hội học đô thị chỉ chú tâm đến
các vẫn đề đương đại như sự phức tạp của các mạng lưới xã hội,
hiện trạng đói nghèo, vấn đề giới,... mà ít chú tâm đến các hiện
tượng biến đổi nhân cách, tâm lí của giới trong đô thị, hoặc
những biến đổi sâu xa từ trong hệ thống cấu trúc của gia đình,
đòng họ, hay vấn đề đa tộc người, giao lưu văn, xuyên văn
hóa,... nên khó giải thích triệt để những hiện tụng, biến đổi
: htip:/www.indiana.eđduwanthro[RBAN.-hm.
400
Cũng trong thời gian này (thập niên 50), nhân học ứng dụng
đã phát triển và trở thành một trong những phân ngành nghiên.
cứu quan trọng của nhân học. Các nhà nhân học ứng dụng đã bắt
tay vào nghiên cứu nhiều lĩnh vực nhằm phục vụ cho công cuộc
phát triển quốc gia, trong đó có các lĩnh vực quan trọng như kinh
tế, y học, giáo dục,... nhưng đều tập trung ở các vùng nông thôn
chậm phát triển, vẫn chưa có sự quan tâm nhiều đến các khu vực
đô thị. Đến đầu thập niên 60, cùng với sự quan tâm nghiên cứu
của các nhà xã hội học đô thị, các nhà nhân học ứng dụng đã bắt
đầu có sự chuyển hướng sang nghiên cứu ở một địa bàn mới. Đó
anthropology) đã bắt đầu được sử dụng vào nửa cuối thập niên
60. Trong những năm cuối của thập niên 60: và 70, nhân học đô
thị tập trung vào những vấn đề đặc trưng như di dân, hệ thống
thân tộc, đói nghèo. Năm 1979, Hội Nhân học đồ thị. (SUA)
được thành lập như một chi nhánh của Hội Nhân học Mỹ
(AAA), phần lớn (khoảng 70%) các nhà nhân học hoạt động
trong Hội này đều thuộc lĩnh vực Nhân học văn hóa xã hội và họ.
không tự nhận là nhà nhân học đô thị mặc đù các lĩnh vực mà họ
nghiên cứu liên quan đến đô thị. Họ thích được gọi theo chuyên
môn hoặc những khu vực mà họ đang quan tâm nghiên cứu.
Theo kết quả công bố của Layla Al-Zubaidi, các khu vực mà các
nhà nhân học tập trung nghiên cứu cho chuyên môn của mình là:
(12%), Bắc và Nam châu Mỹ (10%). Với hơn 50% nhà nhân .
học quan tâm nghiên cứu vẻ đô thị đã cho thấy, vào cuối thập
niên 70 nhân học đô thị đã phát triển khá mạnh. Trong thập niên
1980, các nhà nhân học đã mở rộng những mối quan tâm của họ `
đến nhiều khía cạnh của đời sống đô thị như không gian đô thị
và quá trình đô thị hóa, đi dân nông thôn — đô thị, sự điều chỉnh
và thích nghi của con người trong đô thị, sự đa dạng văn hóa, tội
phạm, nhà cửa, kiến trúc, nghề nghiệp, cơ sở hạ tầng, chức năng
401
của dòng họ, của hệ thống thân tộc,... Còn những vấn đề về
nông dân không còn là chủ đề lớn cho việc nghiên cứu của họ
như trước nữa và kết quả là nhân học đô thị đã phát triển thành
một phân ngành riêng biệt trong nhân học ứng dụng.
Ngày nay, nhân học đô thị đã phát triển mạnh ở các nước
Trung Quốc,... nhân học đô thị cũng đã trở một trong những
ngành nghiên cứu quan trọng trong phân ngành ‹ của khoa học
phát triển.
Nhân học đô thị có mục đích là tìm hiểu và phân tích những
động thái trong đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa, xã hội của
cộng đồng thị đân trong quá trình phát triển đô thị trong lịch sử
và trong hiện tại; ngoài ra cũng nghiên cứu những đặc điểm của
đô thị, lối sống và văn hóa của dân cư đô thị,... Do đó, các nhà
nhân học đô thị trước đây đã chú trọng nghiên cứu những lĩnh
vực như:
- Mạng lưới đô thị (mạng lưới xã hội, gia đình, dòng họ)
- Dân số đô thị
- Môi trường đô thị
_— Ngày nay, đô thị phát triển mạnh và trở thành một trong
những nhân tố quan trọng đánh giá sự phát triển của đất nước,
nên nhiều quốc gia trên thế giới đã đầu tư, phát triển đô thị.
Trong quá trình phát triển đó đã nảy sinh nhiều vẫn đề phức tạp
cần nghiên cứu, giải quyết nên các nhà nhân học đô thị ngày nay
402
Tóm lại: Nhân học đô thị là một trong những phân ngành
nhỏ và quan trọng của nhân học ứng dụng. Nó xuất hiện và phát
triển theo nhu cầu phát triển của xã hội. Đến nay, nhân học đô
thị đã góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu, giải quyết
những vấn đề về cuộc sống của con người trong đô thị và trở
thành một trong những ngành nghiên cứu không thể thiếu được
Sự đóng góp của các nhà dân tộc học, Nhân học văn hóa qua
các tác phẩm khoa học, khảo sát về các dân tộc, về các nền văn
hóa mới lạ, về các vùng đất xa xôi..v.v... đã là một trong những
đóng góp quan trọng trong phát triển ngành du lịch, nhất là du
lịch văn hóa tại những vùng đất nơi các nhà nhân học tiến hành
nghiên cứu thực địa. Đó chính là minh họa cho sự ứng dụng kết
quả nghiên cứu của ngành nhân hoc và ta có thể gọi là nhân học
Chính nhờ những nhà dân tộc học, nhân học văn hóa phương
Tây (cũng phải kể đến những nghệ sĩ, những nhà hoạt động nghệ
thuật về điện ảnh, kịch nghệ, v.v...) đến đây nghiên cứu và rồi
công bố những tài liệu khoa học về nền văn hóa này mà người †a
Việc ứng dụng nhân học vào du lịch có thể được xem xét
Du lịch bền vững, vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, môi
403
* Dũ lịch và hành trình tìm về bản sắc văn hóa của các
Xu hướng hiện nay trên thế giới là càng ngày người †a cảng
quan tâm, ưa thích những tour du lịch đến các vùng cư trú của
những dân tộc. có bản sắc văn hóa mới lạ. Người đi du lịch
không chỉ muốn trải thời gian của mình cho việc nghỉ TEƠI,
thưởng ngoạn cảnh đẹp mà còn muốn khám phá; muốn “nghiên
cứu nghiệp dư” những môi trường văn hóa lạ lẫm so với văn hóa
của họ. ,
_Các công trình nghiên cứu về nhân học ở nhiều lĩnh vực
khác nhau trên thế giới đã luôn được đông đảo độc giả đón
nhậnvì họ được cùng cấp. kiến thức về dân tộc học, về lịch sử
của vùng đất, về đời sống con người địa phương để họ có thể
quyết định tham gia các tour du lịch đến nHững vùng đất á Ấy, nơi
có các nền văn hóa xả lạ với văn của họ. Như vậy, kiến thức
nhân học đã được ứng dụng cho nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh
vực du lịch..
'Ở góc độ nghiên cứu nhân học ứng dụng trong du lịch, các
nhà nhân học phân tích từ góc độ những người địa phương đón
lưu. văn hóa với chủ nhà. Trong bối cảnh tương tác này có một
số vấn đề về bản sắc văn hóa và mội trường cần được nghiên
cứu để đưa ra giải pháp phù hợp sao cho phát triển du lịch nhưng
vẫn bảo tồn được cảnh quan môi trường, lỗi sống của người địa
phương và. bản sắc văn hóa tỘC người. .
Về kinh tế, du lịch l một ngành mang lại hiệu quả kinh tế
vô cùng to lớn.
đem đến sự thành công trong việc phát triển đất nước vì đu lịch
404
là xem ngành xuất khẩu tại chỗ trực tiếp thu được nhiều ngoại tỆ
như đường sá, khách sạn,... cần được xây đựng và do đó, những
người dân địa phương dù không liên quan trực tiếp đến công
nghiệp du lịch cũng được hưởng nhiều tiện ích từ ngành này.
Tuy nhiên, trong phạm vi nhân học ứng dụng về du lịch, quan
điểm của các nhà nghiên cứu là cần quan tâm việc đưa ra chiến
lược, giải pháp phát triển du lịch đồng bộ hướng đến cả lợi ích
về kinh tế và văn hóa. Ví dụ, hiện nay ngành thủ công nghiệp
của các tộc người thiểu số, cộng đồng địa phương tại các điểm
du lịch khá thịnh đạt nhờ thu hút được sức mua rất cao của
khách du lịch nhờ vậy một mặt thực hành văn hóa được duy trì
và bảo tồn nhưng cũng. đồng thời mang lại lợi ích kinh tế cho
văn hóa trong du lịch thì vai trò của các nhà nhân học là cần
-tham gia nghiên cứu để ứng dụng cho việc bảo tồn bản sắc văn
hóa dân tộc, đồng thời vẫn đảm bảo được sự hấp dẫn của sắc
thái văn hóa dân tộc ấy để sinh lợi về kinh tế trong phát triển du
lịch... Ví dụ công trình nghiên cứu chỉ tiết về trình diễn văn hóa
nghiên cứu các cuộc điễn xuất kịch nghệ ở đảo Bali bởi theo
những mối giao lưu qua lại giữa người dân Bali và khách du
lịch. Theo nhà nhân học MeKean, điểm khó khăn đối với người
Bali là trong các cuộc trình điễn kịch nghệ của họ, họ tin rằng
đều có cử tọa thần linh tham dự vào nên họ sẽ phạm tội báng bổ
đối với thần linh nếu trình diễn cho khách du lịch xem. Do đó,
sau khi nghiên. cứu, vấn đề được giải quyết bằng cách TIBƯỜI †a
405
phân biệt hai loại hình trình điễn: một dạng chỉ đành riêng cho
người địa phương với đầy đủ nghỉ thức có vai trò của thần linh
của họ, còn đạng kia dành cho khách du lịch thì thêm những
phần biểu diễn không chính thức, không xúc phạm thần linh.
Như vậy, khi đưa điệu múa của mình vào ứng dụng trong công
nghệ du lịch, ngườidân Bali vẫn đảm bảo được sự đồng bộ trong
môi trường văn hóa và bão vệ di sản văn hóa dân tộc `
Đối với vấn đề du lịch, phân ngành nhân học ứng dụng quan
tâm sâu sắc sự “thương tốn văn hóa” tại những vùng có bàn tay
kinh doanh du lịch “ăn xối ở thì” đụng đến. Con sóng du lịch
_ không có chiến lược, không kế hoạch sẽ cuốn trôi hết văn hóa
truyền thống và di sản văn hóa của các dân tộc, nó sẽ lấy đi
nhiều hơn những gì nó để lại. Ngoài ra, các nghiên cứu còn cho
thiếu chiến lược du lịch bền vững thì nơi đó cảnh quan thiên
nhiên, môi trường sinh thái sẽ bị hủy hoại trước tiên rồi sau đó là
sự tiêu hao, mắt mát văn hóa truyền thống của tộc người.
quan điểm là cần phát triển đồng bộ văn hóa và kinh tế; bảo vệ
văn hóa truyền thống và văn hóa sáng tạo truyền thống của
người dân địa phương để người đân địa phương tự kiểm soát
hoạt động du lịch thì mới bảo vệ được bản sắc văn hóa của họ.
Việc bảo vệ di sản văn hóa địa phương nói chung cần được xem
là quốc sách của mỗi quốc gia trong chiến lược kinh doanh hoạt
động du lịch, Hơn nữa, sự phát triển đó phải được đặt trong một
môi trường sinh thái trong sạch và tình trạng chính trị ôn định,
Trên cơ sở nền tảng các nguyên tắc chính của du lịch bền
vững như: :
406
Sử dụng tài nguyên thiên nhiên, xã hội và văn hóa một cách
bền vững; Duy trì tính đa dạng của tự nhiên, xã hội và văn
hóa,... để tạo sức bật cho ngành du lịch; Lồng ghép hoạt động
du lịch vào trong quy hoạch phát triển địa phương và quốc gia
và hỗ trợ kinh tế địa phương: Thu hút sự tham gia của cộng đồng
địa phương; Đào tạo cán bộ kinh doanh đu lịch và maketing một
Nghiên cứu Nhân học ứng dụng trong du lịch đóng vai trò
quan trọng vì giúp đưa tiếng nói và quan điểm của cộng đồng ra
bên ngoài, giúp các nhà quản lí nhà nước, nhà đầu tư phát triển
du lịch địa phương nhận thức được giá trị và bản sắc văn hóa và
cảnh quan môi trường địa phương, trên cơ sở đó góp phần định
hình nên chiến lược, chương trình phát triển du lịch bền vững
phù hợp bảo đâm lâu dài về môi trường và nguồn lực sinh thái,
tài nguyên thiên nhiên và tài sản văn hóa, đồng thời phải có hiệu
quả về khía cạnh kinh tế và công bằng về mặt xã hội và dân tộc
dụng của nhân học. Những người theo quan điểm tháp ngà cho
rằng nhân học nên tránh xa những vấn để thực tế và tập trưng
vào nghiên cứu, xuất bản và truyền dạy. Những người ủng hộ
quan điểm trung gian cho rằng các nhà nhân học nên tiếp tục
thực hiện chính sách, chứ không phải tạo ra hay chỉ trích nó.
Theo họ, nên tách rời “những đánh giá về các giá trị” mang tính
cá nhân khỏi các cuộc nghiên cứu khoa học. Quan điểm thứ ba
được đa số các nhà nhân học tán đồng, vì răng các nhà nhân học
hội nhờ họ nghiên cứu, thấu hiểu và tôn trọng các giá trị văn
hóa, vì thế để họ đề xuất ra những chính sách ảnh hưởng đến con
407
Nhà nhân học ứng dụng thường tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp trong các dự án phát triển, vì vậy họ đóng vai trò hết sức
- quan trọng đôi với Nhà nước và cả cộng đông người dân.
Các nhà nhân học ứng dụng đóng vat trò như là những nhà
nghiên cứu chính sách. Họ là những người cung cấp thông tin
với sự hiểu biết tường - tận cho các nhà lập kế họach khi đưa ra
Nhà nhân học ứng đụng còn là người tham gia đánh giá
chính sách khi sử dụng các kỹ năng nghiên cứu để xác định
chương trình hay chính sách thành công như thế nảo khi so sánh
với mục tiêu của nó. Để đánh giá chính sách nhà nhân học phải
đo. lường hay lượng giá các tác động của dự án, chương trình
hảy chính sách dành riêng cho người dân địa phương. Thí dụ,
các nhà nhân học đóng vai trò là nhà đánh giá các tác động có
thể xác định các kết quả cả mong đợi và không mong đợi khi
xây dựng đập thủy điện, đường giao thông liên tỉnh ảnh hưởng
đến cộng đồng người dân địa phương như thế nào.
Nhà nhân học còn là người hoạch định chính sách, tham gia
các địa phương. Nhà nhân học ứng dụng đồng thời là người
phân tích các nghiên cứu, phát hiện ra những vấn đề nảy sinh
- trong thực tế để các nhà hoạch định chính sách, các nhà lập kế
hoạch, các nhà quản lí có thể đưa ra các quyết định về những
với việc truyền đạy giúp cho một nhóm người nào đó hiểu biết
văn hóa của những nhóm khác trong bối cảnh xuyên văn hóa
như đào tạo những nhà doanh nghiệp nước ngoài làm việc ở Việt
Nam hiểu biết thêm về văn hóa Việt Nam. Đằng thời, họ còn là
người trung gian giữa một bên là nhà thiết kế chương trình và
bên kia là nhà quản lí hoặc là người trung gian giữa một bên là
nhà thiết kế chương trình vơi cộng đồng dân tộc địa phương.
408
Là những nhà nhân học ứng dụng họ phải tuân thủ những
những công việc mình đã làm. Trước hết nhà nhân học trong quá
trình nghiên cứu nên tránh gây tốn hại đến những đối tượng
được nghiên cứu và cả cộng đồng các nhà học thuật. Đạo đức và
Trách nhiệm đối với người được nghiên cứu: Trách nhiệm
cao hơn cả của các nhà nhân học là đối với những người mà họ
tiến hành nghiên cứu. Các nhà nhân học nên bảo vệ lợi ích của
người cung cấp, thông tin và tôn trọng phẩm giá cũng như đời
sống riêng tư của họ. Các nhà nghiên cứu phải nói rõ chủ đề
mong muốn tham gia trong nghiên cứu hay không. Sự tham gia
là tự nguyện và nên dựa trên nguyên tắc sau khi đã tìm hiểu về
mục đích của dự án mới ưng thuận. Họ nên đảm bảo cho những.
người cung cấp thông tin được ẩn đanh khi thu thập đữ liệu.
Trách nhiệm đối với công chúng: Các nhà nhân học có trách
nhiệm tôn trọng phẩm giá, sự chính trực và giá trị của cộng đồng
sẽ không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những phát hiện của các nhà
nghiên cứu. Các nhà nhân học phải có trách nhiệm phổ biến một
cách trung thực và công khai với công chúng các khám phá của
họ. Người dân cũng hy vọng rằng họ sẵn sàng đưa ra những phát _
hiện của mình đối với công chúng để khám phá của họ được sử
dụng làm thông tin cho việc hoạch định các chính sách. -
Trách nhiệm đối với khoa học: Các nhà nhân học phải có
trách nhiệm của mình để duy trì danh tiếng của ngành học và
cho các đồng sự của họ. Họ nên chính trực trong lĩnh vực này để
hành vi của họ không làm tổn hại đến các cuộc nghiên cứu của
Trách nhiệm đối với sinh viên: Các nhà nhân Học nên công
bằng, vô từ và tận tâm vì lợi ích và tiến bộ mang tính học thuật
của sinh viên. Họ nên giúp sinh viên hiểu biết những nguyên tắc
409
- Trách nhiệm đối với tổ chức tài trợ: Các nhà nhân học nên
trung thực về năng lực chuyền môn và những mục đích nghiên
cứu. Họ không nên đồng ý việc bị giới hạn hay những điều kiện
làm việc trái với đạo đức nghề nghiệp. Họ nên tự bảo vệ quyền
đừa ra các quyết định về những vấn đề đạo đức trong suốt quá
- Trách nhiệm đối với người khác và chính quyền sở tại, nơi
cuộc nghiên cứu được tiến hành: Các nhà nhân học niên trưng
chính quyền nơi họ tiến hành nghiên cứu. Họ nên yêu cầu được
đảm bảo rằng họ không bị bắt buộc gây tốn hại đến các tiêu
chuẩn nghề nghiệp hay chuẩn mực đạo đức. Đó là điều kiện tiên
quyết để tiến hành nghiên cứu. Họ không nên chỉ đạo nghiên
: cứu bí mật, viết những bản báo cáo bí mật hay tham gia vào các
có Nhiều sinh viên cảm thấy Tất thích thú khi học nhân học và
xem TỐ như một chuyên ngành ưa thích của mình. Tuy nhiên,
các bậc phụ huynh hay bè bạn có thể làm nhụt ý ý chí của họ bằng
câu hỏi “Học nhân học sau này ra trường thì sẽ làm nghề gì?”.
Để trả lời cho câu hỏi trên, việc đầu tiên cần phải xác định
ngành này giúp ích được gì cho bạn. Vì trên thực tế, câu hỏi này
không chị đành riêng cho chuyên ngành nhân học mà còn được
đặt cho các ngành học khác, đặc biệt là các ngành khoa học xã
hội ở bậc đại học. Khác với bậc trung học, các ngành đào tạo ở
bậc đại học gắn liền với nghề nghiệp tương lai của sinh viên. Do
vậy, nội dung giảng dạy của mỗi chuyên ngành sẽ trang bị
những kiến thức cần thiết cho sinh viên khi ra trường để đi làm.
Nhưng chúng ta cũng thấy, trên thế giới nói chung và ở Việt
Nam nói riêng, không phải ai ra trường cũng có thể làm đúng
410
với chuyên môn của mình được đào tạo, đặc biệt là đối với sinh
viên các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Nhưng TỐ ràng là
các ngành khoa học xã hội này đã cung cấp một nền tảng kiến
thức khoa học xã hội hữu ích cho các ngành khoa học khác mà
nếu nhìn bề ngoài thì chúng có ít mối liên hệ với nhau. Nhân học
cũng vậy, sự ra đời của ngành học này cung cấp các kiến thức và
cách nhìn nhận thế giới rất hữu dụng đối với nhiều loại nghề
nghiệp. Ví dụ, sự kết hợp giữa nhân học và ngành thương mại là
một sự chuẩn bị hoàn hảo khi sinh viên muốn làm việc trong
lĩnh vực thương mại quốc tế, một công việc vốn đòi hỏi phải có
kiến thức không chỉ về chuyên ngành thương mại mà còn liên
quan đến “các vấn đề khoa học xã hội và con người mang tính
Nhân học nghiên cứu con người về mặt sinh học, văn hóa,
xã hội và ngôn ngữ, về không gian và thời gian, ở các quốc gia
phát triển và kém phát triển, ở các môi trường đơn giản và phức
tạp. Do vậy, ở các nước khác trên thế giới, đặc biệt Ỡ Bắc Mỹ,
các trường đại học và cao đăng đều có các khóa học về nhân học
mà sẽ so sánh văn hóa và các khía cạnh khác, tập trung vào từng
khu vực chẳng hạn như Mỹ Latinh, châu Á, Bắc Mỹ bản địa và
châu Phi. Kiến thức khu vực địa lí trong các khóa học này tất
hữu ích đối với nhiều ngành nghề. Cách nhìn so sánh đối chiếu
nhân học, sự tập trung vào thế giới thứ ba và sự quan tâm chú ý
đến tính đa dạng về phong cách sống trên thế giới tất cả các kiến
thức ấy sẽ cung cấp một nền tảng vững chắc cho các công việc
mang ( tính xuyên quốc ga. Chẳng hạn như, ở Bắc Mỹ, tập trung
vào vấn đề văn hóa rất có giá trị. Hàng ngày chúng ta đều nghe
nói đến sự khác biệt văn hóa và các vấn đề xã hội mà cách giải
quyết chúng đòi hỏi cần phải có một quan điểm đa văn hóa
(multiculture). Đây là một khả năng nhìn nhận và hòa hợp các
khác biệt tộc người. Chính phủ, trường học và các công: ty tư
nhân thường xuyên phải gặp gỡ tiếp xúc với những người đến từ
các giai tầng xã hội, các nhóm tộc người, các bộ tộc khác nhau.
411
Các bác sĩ, luật sư, nhân viên công tác xã hội, cảnh sát, thẩm
phán, giáo viên và sinh viên có thể làm tốt công việc của mình
riểu họ hiểu các khác biệt xã hội ở một phần của thế giới mà là
Nếu bạn muốn tiễn xa hơn trên con đường học thuật thì sao?
Các nhà nhân học có bằng tiến sĩ truyền thông thường làm việc
trong các trường học, viện bảo tàng, viện nghiên cứu. Ngày Tây,
Hội Nhân học Mỹ đã ước tính là ít. nhất một nửa các tiến sĩ nhân
học tương lai sẽ không tìm việc trong môi trường học thuật. LÍ
do của sự chuyến đổi này là số lượng công việc trong các trường
học hạn chế trong khi con số các tiến sĩ ngày một gia tăng, một lí
do khác là với sự ứng dụng rộng rãi của nhân học trong các lĩnh
vực xã hội, các nhà nhân học có nhiều cơ hội làm việc ở các tổ .
chức khác nhau. Không chỉ làm việc ở các lĩnh vực trên ở các xã
hội phát triển, các nhà nhân học ứng dựng cũng làm việc để giúp
đỡ các cư dân địa phương ở khắp nơi trên thế giới. Ví dụ như khi
các đường cao tốc và hệ thống cung cấp điện đi qua lãnh địa của
các bộ tộc, điều này có nghĩa là thế giới hiện đại sẽ tiếp xúc và
xung đột với các truyền thống và quyền sử dụng đất đai của các
bộ tộc này. Các chương trình công cộng này phải nhờ đến
nghiên cứu của các nhà nhân học trước khi được phép tiền hành
các công trình để đạt được kết quả mong muốn, tránh gây tác hại
đến cộng đồng địa phương. Các công trình xây dựng, đập, hồ
chứa nước và các công trình công cộng khác một khi có thể đe
đọa đến các di tích khảo cổ, các vùng đất văn hóa cổ thì các tổ
chức chính phủ, các công ty kiến trúc và xây dựng cần đến
những nghiên cứu mang tính chất nhân học. Ở nước ta, các công
trình xây dựng thủy điện cần phải đi đời các cộng đồng đều phải
cần đến các nhà nhân học để nghiên cứu tìm hiểu văn hóa của
các đân tộc này. Trên cơ sở đó, các nhà hoạch định chính sách sẽ
có những chính sách phủ hợp làm cho cuộc sống của cộng đồng
bị đi đời ra khỏi khu quy hoạch xây đựng thủy điện không bị xáo
trộn về mọi mặt. Ngoài ra, các nhà nhân học cũng còn là những
412
nhà đánh giá hiêu quả của các dự án rất hiệu quả với cách tiếp
cận từ phía người dân, cơ sở nền tảng của mọi chính sách, chủ
Kiến thức về các phong tục truyền thống và tín ngưỡng của
nhiều nhóm xã hội trong một quốc gia hiện đại rất quan trọng
trong việc hoạch định và thực hiện các chương trình tác động
đến các nhóm này. Việc chú ý đến nền tảng xã hội và loại hình
văn hóa giún bảo đảm lợi ích của các nhóm bị ảnh hưởng này.
Một khi người dân địa phương, muốn có sự thay đổi và sự thay
đổi này phù hợp với truyền thống và cách sống của họ, thì các
dự án này sẽ thành công hơn, có ích hơn và sinh lợi nhiều hơn.
công việc của họ: trong những thập kỷ gần đây, nhiều tổ chức tư
nhân và nhà nước muốn tìm hiểu khía cạnh văn hóa về các
chương trình của họ nên họ đã không ngừng tham gia vào các
nghiên cứu nhân học ứng dụng để phục. vụ cho mục đích này.
Có thể kể đến một số các tổ chức quốc tế áp dụng các kiến thức
nhân học trong chương : trình hành động của mình chẳng hạn như
giới, Tổ chức sức khỏe thế giới (WHO), Quỹ Ford Foundation,
Mỹ như: Viện Sức khỏe quốc gia (NIH), Văn phòng các vấn đề
thổ dân Sở Nông nghiệp của Mỹ và các tổ chức địa phương, các
của nhân học vào việc giải quyết các vấn đề đa dạng khác nhau
trong các cộng đồng dân cư của thế giới đương đại.
ứng dụng ra thành ba giai đoạn chính: giai đoạn trong Chiến
413
. tranh thế giới lần thứ hai; giai đoạn những năm 50, 60 của thế kỷ
-XX; và giai đoạn từ những năm 1970 đến nay. Ngành nhân học
ứng dụng trong mỗi giai đoạn có những đặc điểm lịch sử phát
triển riêng biệt. Nhân học ứng dụng thường quan tâm nhiều đến
các lĩnh vực như: nhân học giáo dục, nhân học y tế, nhân học đô
3. Nhân học giáo dục đề cập đến nghiên cứu giáo dục và
phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu giáo dục trong các bối
cảnh văn hóa xã hội và tộc người nhất định. Nhân học giáo dục
. nghiên cứu sự khác biệt văn hóa và tộc người cũng như các kĩ
năng giảng dạy trong môi trường có sự khác biệt văn hóa và tộc
người. Nghiên cứu giáo dục quan tâm đến đặc trưng các nhóm
người, tộc người khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, tập quán,
thói quen, kiểu tr duy, ứng xử, cách tiếp cận trong học tập của
-4. Nhân học y tế là sự kết hợp giữa lĩnh vực nhân sinh học
Nhân học y tế quan tâm đến các khái niệm cơ bản liên quan
đến trị thức đân gian, cách tiếp cận nghiên cứu tri thức dân gian;
các học thuyết cơ bản của y học cỗ truyền có ảnh hưởng đến tr
thức dân gian trong chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Để tiến hành
nghiên cứu, Nhân học y tế đề cập đến các cách tiếp cận nghiên
cứu sinh học và tiếp cận sinh thái, tiếp cận y tế tộc người và y tế
như: các nhóm cư dân khác nhau bị tác động bởi các loại
bệnh gì? Về phương diện xã hội, bệnh tật được nhìn nhận
như thế nào? Về mặt văn hóa và tính hiệu quả, người ta có
những cách trị bệnh như thế nào? Lĩnh vực nghiên cứu đang
_ phát triển này xem xét bối cảnh văn hóa xã hội và những mặt
414
5. Nhân học đô thị nghiên cứu lịch sử di dân và sự hình
thành các nhóm tộc người, tôn giáo; lối sống và văn hóa đô thị;
ảnh hưởng của toàn cầu hóa kinh tế, các loại hình công ty và các
loại hình kinh tế phi chính thức; vấn đề môi trường, nghèo đói
6. Nhân học du lịch nghiên cứu các khía cạnh khác nhau
- trÊn con đường khai thác giá trị văn hóa của cộng đồng địa
phương để phát triển đu lịch như khía cạnh bản sắc văn hóa của
các cộng đồng tộc người tại điểm đến; giải pháp cân bằng piữa
kinh tế và văn hóa trong sự phát triển du lịch tại địa. phương;
khía cạnh môi trường và văn hóa trong định hướng phát. triển du
lịch bền vững hiện nay để đạt được cả sự toàn vẹn văn hóa và
7, Các nhà nhân học ứng dụng đóng. vai trộ lần người cung
cấp thông tin cho những nhà hoạch định chính sách, nghiên cứu
chính sách, đánh giá và thẩm định các chính, sách, là người biện
hộ cho cộng đồng người dân khi có tác động không tốt của các
chính sách và các đự án đối với cộng đồng, đồng thời là người
trung gian giữa những người lập chính sách, dự án với người
người có trách nhiệm với những người được nghiên cứu, với
công chúng, với ngành khoa học và cả các tổ chức tài trợ cũng
như với chính quyền đại phương nơi họ tiến hành nghiên cứu.
sinh học, văn hóa-xã hội ở các quốc gia. phát triển và kém phát
triển. Kiến thức của nhân. học giúp cho các bạn sinh viên sau khi
ra trường có thể làm việc trong các trường đại học, cơ quan
nghiên cứu, viện bảo tàng, trong các tổ chức địa phương nhằm
giúp đỡ và phát triển cộng đồng, làm việc trong các tổ chức quốc
tế- chính phủ và phi chính phủ, và rong các doanh nghiệp...
415
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2... VũữMinh Chỉ (004), Nhân học 1 văn hóa - Con người với thiên
nhiên, xố hội và thể giới siêu nhiên, NXB Chính trị Quốc gia,
- Hà Nội.
4. Phạm Hữu Dật (1973), Cơ sở Dân tộc bọc, NXB Đại học và
5. Phan Hữu Dật (cb): (2001), Mây vấn đề jý luận và thực diễn cấp
._ - bách liên quan đến mỗi quan hệ dân tộc hiện nay (sách tham
7... Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Đại học
8. Giáo hội 'Công giáo Việt Nam - Niên giảm 2001, Bản dự thảo
9. 'Lê Sĩ Giáo (2000), Dân tộc học Đại Cương, NXBE Giáo dục,
HàNội. `
10. Nguyễn Thị Hiền (2008), “Nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng
_ Việt Nam đương đại”, trong sách Nhiều tác giả, Sự biến đổi của
. tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay”, NXB Thế giới.
11... Phạm Thành Hỗ (1995), Nguồn gốc loài người, NXB Giáo đục.
12. Đỗ Minh Hợp - Nguyễn Kim Lai (2006), Những vấn đề toàn
13. Đỗ Quang Hưng (2001), “Hiện tượng tôn giáo-mới: mấy vấn đề
416
15.
16.
17.
18,
19,
20.
21.
22.
43.
24.
25.
26.
21..
Nguyễn Đình Khoa (2001), Nguồn gốc loài người trong tiến
Tương Lai (1995), “Khảo sát Xã hội học về phân tầng xã hội —
Mác - Ăng-ghen toàn tập, tập 20, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội -
Phan Ngọc (địch) (1996), A⁄6¿ vài vấn đề về xã hội học và nhân
Nhiều tác giả (2014), Toần cầu hóa văn hóa địa phương và phát
triển — Cách tiếp cận nhân học, NXB Đại học Quốc gia TP Hồ
Chí Minh.
Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
Tê Quang Thiêm (2000), “Và vấn để ngôn ngữ quốc gia”, Tạp
Đặng Nghiêm Vạn (2003), 7ý luận về tôn giáo và tình hình tôn
Đặng Nghiêm Vạn (200%), 7ý luận tôn giáo và tình bình tôn
Đặng Nghiêm Vạn (2009), Cộng đồng quốc gia dân lộc Việt
Đặng Nghiêm Vạn (2010), Văn hóa iệt Năm ẩn: tộc: _'gưòi,
417
28. Viện thông tin khoa học xã.hội (1995), Tốc người và xung đột
tộc người trên thế giới hiện nay, NXB KHXH, Hà Nội
29. Trần Quốc Vượng (cb) (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB
Giáo dục.
hftp:/www.indiana.edu/~wanthro/URBAN.htm
33. Asad, Talal (2006), “Các khái niệm nhân học về tôn giáo:
những suy ngẫm về Geertz”, trong sách Những vấn đề nhân học
Bacon.
Blackwell.
37. BelikA.A. (2000), Văn hóa học, Những lý thuyết Nhân học văn
38. Bellah, Robert N (2008), “Sự tiến hóa của trong giáo”, trong
sách Nhiều tác giả, Sự biến đổi của tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt
40. Boas, Franz (1911), Introduction: Trong Franz Boas (chủ biên).
418
42.
4.
45.
46.
47.
48.
49.
50.
51.
35.
33.
54.
Humanities/Social Sciences/Languapes
tốn giáo”, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Những vấn đề
Nhân học tôn giáo, Tạp chí Xưa &. Nay, NXB Đà Nẵng.
Evans, Grant (cb) ( 2001), Bức khảm văn hóa châu Á tiếp cận
văn hóa nguyên thủy, NXB Văn hóa thông tin, Tạp chí. Văn hóa
419
55.
56.
57.
38.
50.
60.
61.
62.
63.
64.
65.
66.
61.
- 420
Geertz, CHiford (2006), “Tôn giáo như một hệ thống văn hóa”
trong sách Những vẫn đề nhân học tôn giáo, NXB Đà Nẵng.
Hams, Marvin (1987), CuliuraÏ Anthropology (second editon),
thuyết chính của tác giả in trong cuốn Ngôn rừ, giới và nhóm
xã hội từ thực tiễn tiếng Việt do NXB Khoa học xã hội, xuất
Keyes, Charles (2006), “Sự thăng trầm của nghiên cứu nhân học
về tôn giáo”, trong sách Những vấn đề nhân học tôn giáo, NXB
Đà Nẵng .
House.
McGraw-HIII Educatio
Ngọc biên dịch), Bộ môn Nhân học, ĐHKHXH & NV, NXB
Lê-nin, V. I.. Bớ ký triết học. Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị
69.
70.
71.
?2.
73.
74.
75.
76.
71.
78.
79.
80.
Educational Publishing
Social Sciences
quan điểm về tình trạng nhân sinh, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội :
Murray, London
'Weber, Max, (1968), Economy and Socieiy. Berkeley and Los
MA: MHI'Press