Professional Documents
Culture Documents
Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn, có nền văn minh lâu đời và phát
triển được xếp vào bậc nhất thế giới với nhiều thành tựu đặc biệt đáng ngưỡng
mộ. Trong lịch sử, phương Đông nói chung mà đặc biệt Trung Quốc trong
mắt người Phương Tây là một xứ sở giàu có mà người ta ao ước được đặt chân
đến. Nhờ hoạt động từ “Con đường tơ lụa”, các cuộc thám hiểm người
Phương Tây đã sớm có những tiếp xúc và tìm hiểu ban đầu về quốc gia này.
Từ khi quốc gia này giành lại được độc lập đến nay, quốc gia của họ đã có
những biến đổi, động thái rất lớn về chính trị, văn hóa, thể chế, kinh
tế,...Những biến đổi, động thái này không chỉ có tác động với bản thân sự phát
triển của Trung Quốc mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình thế giới và
khu vực. Điều này đặt ra nhưng thách thức mới trong nghiên cứu về quốc gia
này.
Đứng trước những yêu cầu mới và rất lớn liên quan đến vấn đề nghiên
cứu về Trung Quốc, một ngành khoa học mới đã ra đời làm đáp án bước đầu
cho việc giải quyết những vấn đề này. Ngành khoa học đó là Trung Quốc học
(tiếng Trung là: 中 国 学)
Trung Quốc Học ( chinese studies) và Hán Học (sinology) là hai ngành học có liên quan mật
thiết đến nhau về mặt nguồn gốc lịch sử và đối tượng nghiên cứu, cho đến nay ranh giới
giữa hai ngành này vẫn chưa thật rõ ràng, còn nhiều ý kiến bất đồng trong việc định danh,
thậm chí hai tên gọi này đôi khi vẫn được dùng lẫn cho nhau nhất là ở tại Trung Quốc. Từ
thập kỉ 80 của thế kỷ XX trở lại đây, tại quốc gia vốn đã có nền Hán học lâu đời này hình
thành một trào lưu "tái nghiên cứu" đối với Hán học và Trung Quốc học. Xung quanh vấn
đề phân biệt giữa Hán Học và Trung Quốc Học giới học thuật Trung Quốc đã đăng tả nhiều
bài quan trọng.
(Theo Một Số Xu Hướng Nghiên Cứu Hán Học Trung Quốc Học Thế Giới của TS
Nghiêm Thúy Hằng)
Trước hết, xét về khái niệm của Trung Quốc học chúng ta có hai khái
niệm. Một, Trung Quốc học theo nghĩa rộng là gì? Và Trung Quốc học theo
nghĩa hẹp là gì? Liên quan đến vấn đề của Trung Quốc học theo nghĩa rộng
ngoài Trung Quốc học theo nghĩa hẹp còn có Hán học. Do đó để làm rõ vấn đề
của Trung Quốc học theo nghĩa rộng thì trước hết chúng ta phải làm sáng tỏ
vấn đề của Trung Quốc học theo nghĩa hẹp và Hán học.
Trung Quốc học theo nghĩa hẹp hay còn gọi là Trung Quốc học đương
đại hoặc Chinese Studies, nằm trong ngành khu vực học hay nói cách khác
nghiên cứu Chinese Studies là nghiên cứu về khu vực học nó khác với nghiên
cứu Nhật Bản học, Việt Nam học,... là nghiên cứu Đất nước học. Đây là ngành
khoa học còn mới, “non trẻ”. Nó ra đời từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai với
điểm xuất phát đầu tiên tại Mỹ và người được coi là “ông tổ”, người sáng lập
là Jonh King Fairbank, giáo sư lịch sử, học giả nổi tiếng người Mỹ về lịch sử
Trung Quốc. Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, ở Mỹ đã bắt đầu có khu vực
học, các nghiên cứu về khu vực học của Mỹ lúc này tập trung vào giải quyết
những câu hỏi lớn của Mỹ để đảm bảo lợi ích quốc gia và thực hiện những
chiến lược toàn cầu của quốc gia này.
Đối tượng nghiên cứu của Trung Quốc học đương đại là nghiên cứu
Trung Quốc trong mối tương quan với chính nó và Trung Quốc trong mối
tương quan với các quốc gia, khu vực khác. Điều này đòi hỏi người làm
nghiên cứu không thể coi Trung Quốc như một chỉnh thể thống nhất trong các
nghiên cứu trước mà phải phân chia đối tượng Trung Quốc một cách thích hợp
tùy theo đề tài, mục đích nghiên cứu. Như vậy chúng ta mới làm sáng tỏ được
Trung Quốc trong tương quan với chính nó và với các quốc gia, khu vực khác.
Vì Trung Quốc rất rộng lớn cho nên không phải khu vực nào của Trung Quốc
cũng giống nhau, không phải bộ phận, tầng lớp nhân dân, dân tộc,...nào cũng
đều như nhau. Những đặc điểm riêng của chúng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kết
quả nghiên cứu. Do đó để tránh gây tranh cãi trong và sau khi nghiên cứu
chúng ta phải xác định rõ ràng vấn đề này. Ngoài ra nghiên cứu Trung Quốc
học còn làm sáng tỏ những mối liên hệ tác động từ bên ngoài đến nội tại
Trung Quốc và những biến đổi từ nội tại của Trung Quốc cùng những vấn đề
liên quan đến nó.
Về cách tiếp cận của Chinese Studies, mặc dù có rất ít các quốc gia trên thế
giới được công nhận là có Trung Quốc học đương đại: Mỹ, Ấn Độ, Việt Nam
nhưng mỗi quốc gia, mỗi nhà nghiên cứu lại có góc nhìn, cách tiếp cận khác
nhau do đó các kết quả nghiên cứu đưa ra cũng khác nhau. Đặc trưng của
Trung Quốc học đương đại là cách tiếp cận của liên ngành, khi tiếp cận từng
vấn đề thì kết quả cho ra sẽ khác nhau. Người nghiên cứu Trung Quốc học
không thể đứng nhìn từ một góc độ, dùng một phương pháp nghiên cứu là đã
tìm ra được đáp án phù hợp nhất để giải quyết vấn đề nghiên cứu. Họ phải
đứng từ nhiều góc độ, sử dụng phương pháp phù hợp để lấy được kết quả
chuẩn xác nhất như vậy mới tìm ra, lý giải, phân tích, giải quyết được “mối
tương quan”.
Xuất phát từ cách tiếp cận của liên ngành vì vậy phương pháp liên ngành
là phương pháp nghiên cứu chính, bắt buộc phải sử dụng trong nghiên cứu
Trung Quốc học đương đại. Và câu hỏi mà chúng ta phải trả lời ở đây là “
Làm thế nào để liên ngành?”. Tuy là liên ngành chúng ta không thể hiểu nó là
vận dụng đồng thời nhiều phương pháp vào trong nghiên cứu, mỗi thứ lấy một
ít mà phải tùy theo đặc trưng của vấn đề, mục đích nghiên cứu mà lựa chọn
các phương pháp phù hợp. Các phương pháp thường được sử dụng liên ngành
trong nghiên cứu Trung Quốc học đương đại là: lịch sử, nhân học, xã hội
học,...Do đó việc nghiên cứu không phải là công việc của một người mà cần
phải có một nhóm nghiên cứu.Mỗi người là một chuyên gia trên một lĩnh vực.
Chỉ có như vậy mới đảm bảo được góc nhìn đa chiều, chân thực, khách quan
nhất vấn đề nghiên cứu.
Trung Quốc học đương đại là một ngành khoa học có giá trị ứng dụng
cao. Ở Mỹ nghiên cứu Trung Quốc học phát triển mạnh để giải quyết những
bài toán đặt ra cho nước này trong việc giải quyết mối quan hệ với Trung
Quốc, làm thế nào để tận dụng Trung Quốc làm ra lợi ích cho Mỹ, để Mỹ giữ
vững được vị trí số 1 thế giới,.. Ở Ấn Độ nghiên cứu Trung Quốc học cũng
chủ yếu mang tính ứng dụng trong giải quyết vấn đề của quốc gia với quốc
gia, lợi ích quốc gia. Trung Quốc học của Việt Nam cũng mang nhiệm vụ để
giải quyết vấn đề lợi ích quốc gia liên quan đến Trung Quốc và từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Tóm lại, nghiên cứu Trung Quốc
học là phục vụ lợi ích quốc gia, vì quốc gia.
Hán học
Bên cạnh Trung Quốc học, chúng ta còn một môn khoa học khác nghiên cứu
về quốc gia này, đó là Hán học. Nó thuộc về nghiên cứu Đất nước học. Về
Hán học, chúng ta chia thành Hán học phương Tây và Hán học Phương Đông.
Về Hán học phương Tây, Hán học phương Tây ra đời từ thế kỷ XIX. Đối
tượng nghiên cứu chủ yếu của nó là Trung Quốc về địa lý, văn hóa, lịch sử,
chính trị, xã hội,ngôn ngữ,...chủ yếu là nghiên cứu văn tự, giải thích các sách
cổ. Do đó, nghiên cứu Hán học chủ yếu thông qua cách tiếp cận từ các văn tự,
chữ viết, sách kinh cổ của Trung Quốc. Vì đây là những tài liệu phản ánh
khách quan nhất về Trung Quốc. Người nghiên cứu Hán học phải sử dụng
phương pháp nghiên cứu liên ngành. Nhưng khác với liên ngành của Trung
Quốc học đương đại là liên ngành có lựa chọn tùy theo đặc điểm của đối
tượng nghiên cứu, liên ngành của Hán học là nghiên ngành của “ văn-sử-
triết”. Phương pháp liên ngành này được sử dụng chủ yếu trong các nghiên
cứu Hán học.
Trong khi phương Tây đến thế kỷ XIX mới chính thức có Hán học thì ở
phương Đông Hán học đã ra đời từ rất sớm. Sự ra đời của Hán học phương
Đông chủ yếu là do những ảnh hưởng và mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc
và văn minh Trung Hoa. Cũng giống như Hán học phương Tây, Hán học
phương Đông cũng nghiên cứu về văn tự,đi sâu hơn vào Nho học và một số tư
tưởng có giá trị phát sinh từ Trung Quốc. Các nước ở phương Đông có nền
Hán học phát triển mạnh: Việt Nam, Triều Tiên (cũ), Nhật Bản. Đây đều là
những nước nằm trong “vành đai văn hóa Hán”, chịu ảnh hưởng, tác động
mạnh mẽ, sâu sắc của văn hóa, văn minh Trung Hoa. Do đó cách tiếp cận các
vấn đề Hán học của các quốc gia này cũng mang màu sắc riêng của “vành đai
văn hóa Hán”, nó khác với cách tiếp cận nhìn từ bên ngoài vào của phương
Tây.
Hán học phương Đông cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành
như Hán học phương Tây, chủ yếu là liên ngành của “văn-sử-triết”. Đây đều
là những thành tựu tiêu biểu của văn minh Trung Hoa. “Sử” cho ta biết quá
trình hình thành và phát triển của Trung Quốc. “Văn” nói lên cách cảm, cách
nghĩ, một phần tính cách của người Trung Quốc đôi khi còn phản ánh về bộ
mặt xã hội Trung Quốc. Còn “triết” là cái nhìn, tư duy của con người với thế
giới xung quanh, là cách người ta lý giải thế giới quanh mình. Triết học càng
phát triển chứng tỏ sự nhận biết và phân tích, lý giải của con người về thế giới
và các hiện tượng càng phong phú, đầy đủ đồng thời cũng nói lên một phần
văn hóa của một dân tộc, một cộng đồng người.
Như vậy, nếu đem so sánh Hán học với Trung Quốc học đương đại ta
thấy Hán học là ngành khoa học có lịch sử lâu đời hơn. Đối tượng nghiên cứu
của hai ngành này tuy đều là hướng về Trung Quốc nhưng khi đi vào cụ thể
thì vẫn có sự khác biệt lớn. Vì vậy cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
của chúng cũng bị ảnh hưởng nhiều, Hán học tiếp cận vấn đề chủ yếu qua văn
tự, kinh, sách,thành tựu, ảnh hưởng từ văn minh Trung Hoa, còn Trung Quốc
học đương đại lại tiếp cận bằng góc nhìn của liên ngành. Do đó, cả Hán học và
Trung Quốc học đương đại đều vận dụng phương pháp liên ngành trong
nghiên cứu. Nhưng liên ngành của Hán học chủ yếu là “văn-sử-triết”, ít có
liên kết ngoài. Nó dường như là một cấu trúc bất di bất dịch trong nghiên cứu.
Trong khi đó, liên ngành của Trung Quốc học đương đại lại phải phụ thuộc
vào đặc trưng của vấn đề nghiên cứu. Tùy từng vấn đề nghiên cứu mà chọn
lựa các phương pháp phù hợp. Có thể thấy phương pháp nghiên cứu của Trung
Quốc học so với Hán học có phần phức tạp, phụ thuộc vào độ nhạy cảm, linh
động của người nghiên cứu.
Từ những tìm hiểu về Hán học và Trung Quốc học đương đại chúng ta đã
có thể định hình được Trung Quốc học theo nghĩa rộng. Trung Quốc học theo
nghĩa rộng bao gồm cả Hán học và Trung Quốc học theo nghĩa hẹp. Nó lấy
đối tượng là Trung Quốc nói chung. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
chính là cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của Hán học và Trung
Quốc học theo nghĩa hẹp.
Ngoài hai ngành học trên thì khi nhắc đến nghiên cứu Trung Quốc ta còn
phải nói đến một ngành khoa học quan trọng không kém. Đó là Quốc học.
Khái niệm về Quốc học cũng được chia thành Quốc học theo nghĩa rộng và
Quốc học theo nghĩa hẹp.
Quốc học theo nghĩa rộng chính là Hán học của người Trung Quốc đã
tồn tại từ sớm. Cùng với sự phát triển của văn minh Trung Hoa đặc biệt là sự
ra đời của văn tự, sự phát triển của các phái tư tưởng, sự ảnh hưởng của chúng
trong thười đại ngày nay nhất là về Nho học người Trung Quốc càng có nhu
cầu tìm hiểu, nghiên cứu về các vấn đề của Hán học. Cách tiếp cận của Quốc
học theo nghĩa rộng giống với cách tiếp cận của Hán học phương Đông.
Phương pháp nghiên cứu cũng không có nhiều sai biệt. Quốc học theo nghĩa
rộng đã trả lời cho câu hỏi: “Người Trung Quốc có Hán học hay không?”. Câu
trả lời là người Trung Quốc cũng có nền Hán học của riên họ, đó chính là
Quốc học theo nghĩa rộng.
Khác với Quốc học theo nghĩa rộng, Quốc học theo nghĩa hẹp được
những người Trung Quốc sau khi đã học tập tại phương Tây trở về hiểu là
những gì thuộc về quá khứ, thuộc về lịch sử, cái trước đó thì đều là Quốc học.
Tức là cái tự sinh ra ở Trung Quốc, được người Trung Quốc tiếp nhận và phát
triển trong đó còn bao gồm một số ảnh hưởng từ bên ngoài được người Trung
Quốc tiếp biến. Và chúng hầu như không còn liên hệ, tác động nào với hiện tại
trong góc nhìn của Quốc học theo nghĩa hẹp.
Quốc học có cách tiếp cận khá giống với cách tiếp cận của Hán học
phương Đông, tiếp cận chủ yếu qua văn tự, kinh sách, Nho học, tiếp cận bằng
con mắt của chính người Trung Quốc nhìn về họ. Cách tiếp cận này có lẽ là
cách tốt nhất để có thể lý giải, để hiểu hay dự đoán được diễn biến, kết quả
của vấn đề nghiên cứu vì chỉ có người Trung Quốc mới hiểu rõ nhất văn hóa,
lối sống, cảm quan của họ. Nó là cách nhìn xuất phát từ bên trong khác hẳn
với góc nhìn từ bên ngoài của hầu hết các ngành khoa học khác. Tuy nhiên
góc nhìn này cũng khiến nghiên cứu Hán học, Quốc học của người Trung
Quốc và những nước, khu vực nằm trong “vành đai văn hóa Hán” gặp khó
khăn trong nhận diện vấn đề, vì góc nhìn của họ bị hạn chế bởi nền văn hóa
của họ cho nên đôi khi họ không thể nhận ra được vấn đề của chính mình. Đổi
lại là cái nhìn khách quan từ bên ngoài vào của nghiên cứu từ Phương Tây,
góc nhìn của phương Tây khách quan hơn và không bị ảnh hưởng bởi văn hóa
Hán do đó họ nhạy cảm, sâu sắc hơn về vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên trong
thời kỳ ở những thế kỷ trước người Phương Tây cũng mắc không ít sai lầm về
cách tiếp cận. Phương Tây khi đó luôn đặt mình vào vị trí của khu vực có nền
văn minh cao nhất của nhân loại, họ lấy chính mình làm bản vị để so sánh
đánh giá các khu vực khác. Vì thế, lúc đó có nhiều vấn đề họ không thể lý giải
được, kết quả nghiên cứu cho ra cũng khác nhau nên nổ ra nhiều cuộc tranh
cãi. Điều này khẳng định rằng góc nhìn vấn đề của Phương Tây cũng bị hạn
chế bởi chính nền văn hóa của họ. Sau này, các nhà nghiên cứu cũng đã phát
hiện ra được vấn đề của chính họ rằng họ đã quá đề cao phương vị của chính
họ, rằng mỗi nền văn hóa đều có sự khác biệt do đó mọi sự so sánh đều là
khập khiễng. Giáo sư Jonh King Fairbank có ba tác phẩm lớn ảnh hưởng đến
cái nhìn của dư luận với Trung Quốc. Ba tác phẩm ấy là: “Hoa Kỳ và Trung
Quốc”, “Lịch sử Trung Quốc của Đại học Cambridge” và “Quan sát Trung
Quốc”.
Phương pháp nghiên cứu của Quốc học cũng chủ yếu là sử dụng
phương pháp liên ngành. Nhưng liên ngành của Quốc học cũng mang đặc
trưng của “văn-sử-địa”như phương pháp nghiên cứu của Hán học. Do Quốc
học còn bao gồm cả Hán học. Hay chúng ta có thể nói Quốc học chính là Hán
học của người Trung Quốc.
2. Đối tượng
Chính sách giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn Trung
Quốc trong mối tương quan với các lĩnh vực, bộ phận khác của
Trung Quốc.
So sánh điểm tương đồng và khác biệt về vấn đề này giữa Trung
Quốc với Việt Nam và rút ra bài học cho Việt Nam.
3. Phạm vi
Chính sách giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn của Trung Quốc:
nội dung, bổ sung (hoặc sửa đổi nếu có), hiệu quả và tác động.
4. Mục đích
Phân tích, đánh giá những chính sách giải quyết vấn đề việc
làm cho lao động nông thôn ở Trung Quốc (chủ yếu ở nội dung và
tính hiệu quả).
Rút ra bài học cho Việt Nam.
5. Câu hỏi.
Lao động ở nông thôn Trung Quốc đang gặp phải khó khăn gì về vấn
đề việc làm?
Trung Quốc đã có những chủ trương, chính sách gì để giải quyết vấn
đề việc làm cho lao động ở nông thôn?
Những chủ trương, chính sách này được áp dụng như thế nào? Hiệu
quả đến đâu?
Vấn đề này ở Trung Quốc có điểm tương đồng và khác biệt nào với
Việt Nam? Từ thực tiễn thực hiện những chính sách này của Trung
Quốc, Việt Nam có thể học hỏi được những gì?
6. Giả thuyết
Lao động nông thôn Trung Quốc đang đối mặt với việc thiếu việc
làm trầm trọng, người lao động ở nông thôn thì tìm cách ra thành phố làm
thuê nhưng vẫn không đảm bảo được cuộc sống.
Chính quyền Trung Quốc đã đưa ra các biện pháp để phát triển kinh
tế, phát triển công nghiệp hóa, tạo môi trường việc làm cho lao động ở
nông thôn nhưng vẫn thắt chặt kiểm soát, ngăn cản di cư từ nông thôn ra
thành thị. Những chính sách của chính quyền đã giải quyết được một phần
vấn đề nhưng hiệu quả không cao.
Tình trạng mà Trung Quốc đang phải đối mặt như hiện nay chính là
vấn đề Việt Nam sắp phải đối mặt trong thời gian tới. Ở nhiều địa phương
đã xuất hiện tình trạng này. Trong tương lai gần Việt Nam sẽ phải có biện
pháp giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên Việt Nam không thắt chặt kiểm soát
nguồn lao động từ nông thôn di cư ra thành thị như Trung Quốc. Việt Nam
đã có nhiều chính sách phát triển kinh tế, công nghiệp hóa tại chính các
tỉnh thành, khu vực để thu hút, phân bổ nguồn lao động.
Từ hiệu quả thực tiễn trong thực hiện những chính sách giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn ở Trung Quốc, Việt Nam có thể áp dụng
được nhiều mô hình, chính sách và rút kinh nghiệm đề điều chỉnh cho phù
hợp.
Danh mục, các chương
Chương 1. Cơ sở lý luận của chính sách lao động nông nghiệp nông thôn
1.1Khái niệm “Chính sách”.
1.2 Khái niệm Chính sách nông thôn, Chính sách nông nghiệp, Chính
sách lao động của Trung Quốc.
1.3 Các đặc trưng của nông thôn, nông nghiệp và lao động nông thôn
Trung Quốc.
1.4 Sự hình thành và những bổ sung, chỉnh sửa trong chính sách về
nông nghiệp nông thôn và lao động nông thôn Trung Quốc.
Chương 2. Phân tích thực trạng vấn đề về nông nghiệp, nông thôn
và việc làm cho lao động nông thôn ở Trung Quốc.
2.1. Thực trạng vấn đề việc làm của lao động nông thôn Trung
Quốc
qua các chính sách về phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn.
2.2. Thực trạng vấn đề việc làm cho lao động nông thôn Trung
Quốc
qua thực hiện các chính sách ngăn chặn di dân trái phép từ nông
thôn ra
thành phố.
Chương 3. Tác động của những Chính sách nông nghiệp, nông
thôn đến việc giải quyết việc làm cho lao động nông thôn Trung Quốc.
III.1. Hiệu quả của những chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn
Trung Quốc trong giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động nông
thôn.
III.2. Hạn chế trong Chính sách và thực hiện chính sách về nông
nghiệp, nông thôn Trung Quốc trong giải quyết vấn đề việc làm cho
người lao động.
Chương 4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
4.1 Những vấn đề về nông nghiệp, nông thôn và lao động ở
Việt Nam
4.2 Chính sách của Việt Nam về phát triển nông nghiệp, nông
thôn và giải quyết
Vấn đề việc làm.
4.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Nguồn tài liệu từ Trung tâm Fairbank center Chinese Studies
2019-2020 Fairbank Center Fellowships.
60 Years of the Fairbank Center for Chinese Studies| Introduction by
Director Michael Szonyi.
Politics and The Use of History Today| Fairbank center 60th Anniversary
Symposium..
China’s Economy| Fairbank center 60th Anniversary Symposium
China’s Society| Fairbank Center 60th Anniversary Symposium.
U.S.-China Relations| Fairbank Center 60th Anniversary Symposium.