You are on page 1of 42

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.

HCM

XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN THÔNG ĐẠI


CHÚNG

TS TRẦN HỮU QUANG


Biên soạn 
 
 

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM

TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

Môn học:

XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN


THÔNG ĐẠI CHÚNG

TS. Trần Hữu Quang biên soạn

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2
BÀI GIỚI THIỆU

Chào mừng các bạn đến với chương trình đào tạo từ xa của Đại học
Mở Bán Công Tp.HCM

Đây là môn học nghiên cứu về hoạt động truyền thông đại chúng
dưới quan điểm xã hội học.

Nhiều trường phái cũng như nhiều luận điểm lý thuyết khác
nhau, nhiều lúc đối lập nhau, cũng như nhiều kết quả điều tra thực
nghiệm sẽ được trình bày và lược thuật một cách cô đọng nhằm giúp
sinh viên có được những kiến thức tổng quan về tình hình nghiên cứu
xã hội học về truyền thông đại chúng trên thế giới. Nhưng ngoài phần
kiến thức, điều còn quan trọng hơn nữa đối với sinh viên trong môn
học này, đó là: thông qua việc tìm hiểu những lối đặt vấn đề và những
lối phân tích khác nhau và đa dạng của các nhà nghiên cứu, sinh viên
làm sao rèn luyện được khả năng tư duy và biện luận của mình, làm
quen được với phương pháp tư duy xã hội học. Và điều trọng yếu nhất
là cuối cùng làm sao sinh viên xác lập được khả năng suy nghĩ độc lập
và nuôi dưỡng được óc phê phán khoa học khi thử bắt tay vào việc
khảo sát, phân tích và giải thích những vấn đề nào đó liên quan tới
lĩnh vực truyền thông đại chúng ở Việt Nam.

Tập sách này bao gồm những nội dung chính như sau:
- Tìm hiểu các khái niệm “truyền thông” và “truyền thông đại
chúng” (bài 1).
- Lịch sử ra đời của các phương tiện truyền thông đại chúng và

3
của định chế truyền thông đại chúng (bài 2).
- Các lý thuyết chính về truyền thông đại chúng (bài 3).
- Nghiên cứu về công chúng (bài 4).
- Nghiên cứu về các nhà truyền thông và tổ chức truyền thông
(bài 5).
- Nghiên cứu nội dung truyền thông (bài 6).
- Những tác động xã hội của truyền thông đại chúng (bài 7).

Về thời gian học tập: đây là tập giáo trình dành cho chương trình
cử nhân, tương đương với 30 tiết học trên lớp. Tuy nhiên, ngoài thời
gian đọc giáo trình, sinh viên còn phải dành ra một thời lượng tương
đương với khoảng 30- 45 tiết để đọc thêm tài liệu sách báo và tạp chí
có liên quan tới nội dung môn học. Đó là chưa tính thời gian dành để
trả lời các câu hỏi ôn tập (nên tập trả lời bằng cách viết ra trên giấy mà
không xem lại giáo trình [vì đáp án loại câu hỏi này đều nằm trong
giáo trình], mỗi câu chừng nửa trang hoặc tối đa là một trang) và
những câu hỏi gợi ý để thảo luận (những câu hỏi này đều nằm ở cuối
mỗi chương).

Đối với những câu hỏi thảo luận (đây thường là những câu mở
rộng để vận dụng suy nghĩ cá nhân vào những vấn đề của truyền thông
đại chúng trong bối cảnh xã hội Việt Nam), sinh viên có thể đưa ra để
thảo luận nhóm. Nếu học môn này theo nhóm là hay nhất; còn nếu
không, sinh viên nên tìm những người mà mình có thể trao đổi để bàn
luận về những vấn đề nêu ra. Nên tranh cãi một cách thoải mái trên
tinh thần tự do tư tưởng – vì có cọ xát và tranh luận thì mới có điều
kiện để vượt qua được những định kiến chủ quan của từng cá nhân, và
đồng thời mới có nhiều cơ may tìm ra được những ý tưởng mới.

4
Ở cuối tập sách này, chúng tôi cũng có nêu ra một số đề tài gợi ý
để sinh viên có thể chọn để làm một bài tiểu luận kết thúc môn học
(giới hạn chừng 5-10 trang). Đây là dịp để sinh viên có cơ hội vận
dụng những vốn liếng kiến thức đã tiếp thu qua tập giáo trình vào
những suy nghĩ và phân tích của chính mình về một vấn đề thực tiễn
nào đó trong lĩnh vực truyền thông đại chúng. Bài tiểu luận cuối môn
học không phải là chuyện bắt buộc, nhưng chúng tôi khuyến khích
sinh viên nên chọn bắt tay vào làm một đề tài, vì điều này sẽ rất có lợi
cho việc rèn luyện khả năng viết lách, khả năng tư duy, và khả năng
độc lập suy nghĩ.

Về phương pháp học tập, sinh viên nên đọc kỹ từng chương (đọc
kỹ để nắm được nội dung, chứ hoàn toàn không phải để “học thuộc
lòng”!). Nhưng ngoài tập giáo trình này, sinh viên nhất thiết phải cố
gắng đọc thêm sách báo có liên quan tới môn học này (ngoài những
cuốn sách và bài tạp chí mà chúng tôi đã nêu trong phần tài liệu tham
khảo). Đọc càng nhiều càng tốt. Kể từ khi bắt đầu học môn này, hàng
ngày sinh viên nên tập đọc báo hoặc coi ti-vi với một cặp mắt mới,
không phải như một độc giả hay một khán giả bình thường, mà là đọc
với cặp mắt của một người phân tích và có óc phê phán.

Vì đối tượng của môn học này chính là sinh hoạt báo chí, phát
thanh và truyền hình mà hầu như ai cũng theo dõi hàng ngày, nên đây
cũng là một điều hết sức thuận lợi cho sinh viên có ngay nhiều cơ hội
để quan sát và hỏi han những người xung quanh để tìm hiểu tập quán
và nhu cầu của các loại độc giả và khán giả khác nhau, xem xét coi họ
phản ứng thế nào đối với trang mục này hay chương trình nọ, và thử

5
tìm xem vai trò và ý nghĩa của các phương tiện truyền thông trong đời
sống xã hội của họ...
Nội dung tập giáo trình này nêu ra khá nhiều lý thuyết khác nhau
về truyền thông đại chúng. Thoạt nhìn thì có thể có cảm giác hơi khô
khan, nặng nề, nhưng nếu đọc kỹ và suy nghĩ kỹ thì sẽ thấy đấy không
phải là những “lý thuyết suông”, mà phần lớn chúng đều có liên quan
ít nhiều mật thiết tới những khía cạnh khác nhau trong đời sống truyền
thông diễn ra hàng ngày xung quanh chúng ta.

Mong rằng môn học này sẽ giúp sinh viên hiểu sâu hơn về thế
giới truyền thông, và nhất là có được những cái nhìn mới mang tính
chất phân tích và sáng tạo.

6
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử báo chí Việt Nam, TPHCM, Khoa
báo chí Đại học Mở-bán công TPHCM, 1994.
2. Ngô Hà, “Lược sử báo chí thành phố (1865-1945)”, trong Trần
Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (chủ biên), Địa chí
văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II, Nxb TPHCM, 1988, tr. 319-
385.
3. Tầm Nguyên, “Báo chí Sài Gòn trong 30 năm kháng chiến
(1944-1975)”, trong Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công
Bình (chủ biên), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II, Nxb
TPHCM, 1988, tr. 387-410.
4. Hồng Chương, Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, Hà Nội,
Nxb Sách giáo khoa Mác Lê-Nin, 1987.
5. Lê Minh Quốc, Hỏi đáp báo chí Việt Nam, TPHCM, Nxb Trẻ,
2001.
6. Đỗ Quang Hưng, “Buổi đầu tiên của báo chí Việt Nam”, tạp
chí Xưa và Nay, số 64B, 6-1999, tr. 5.
7. Nguyễn Hữu Viêm, “Hoàng Tích Chu, người đầu tiên cách tân
báo chí Việt Nam”, tạp chí Xưa và Nay, số 61, 3-1999.
8. Văn Giá, “Nhà báo-nhà văn, viết văn-viết báo”, tạp chí Nghề
báo, số 14, 6-2003, tr. 16.
9. Daniel Hémery, “Sài Gòn thập niên 30 : 'La Lutte' (1933-
1937) tờ báo chiến đấu” (Nguyễn Ngọc Giao dịch), trong Cao Huy
Thuần, Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, Vĩnh Sính (chủ biên), Từ Đông
sang Tây, Đà Nẵng, Nxb Đà Nẵng, 2005, tr. 86-113.
10. Loic Hervouet, Viết cho độc giả (Lê Hồng Quang dịch), Hà
Nội, Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản, 1999.

7
11. Hữu Thọ, Nghĩ về nghề báo, Hà Nội, Nxb Giáo dục, 1997.
12. Hội Ngôn ngữ học TPHCM, Viện Ngôn ngữ học Việt Nam,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, Tiếng Việt
trên các phương tiện truyền thông đại chúng, TPHCM, 1999.
13. Trung tâm Ngôn ngữ học (Viện Khoa học Xã hội vùng Nam
bộ), Quảng cáo và ngôn ngữ quảng cáo, TPHCM, 2004.
14. Trần Hữu Quang, Chân dung công chúng truyền thông (qua
khảo sát xã hội học tại TPHCM), TPHCM, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Trung tâm Kinh tế châu Á-Thái
Bình Dương, 2001.
15. Trần Hữu Quang, “Những chức năng xã hội của báo chí trong
lịch sử Sài Gòn thời Pháp thuộc”, tạp chí Xã hội học, số 3&4, 1999, tr.
32-38.
16. Trần Hữu Quang, Xã hội học nhập môn (giáo trình), Đại học
Tổng hợp TPHCM, 1993.
17. Trần Hữu Quang, Xã hội học báo chí (sắp xuất bản).
18. Philippe Breton, Serge Proulx, Bùng nổ truyền thông (Vũ
Đình Phòng dịch), Hà Nội, Nxb Văn hóa-thông tin, 1996.
19. Michael Schudson, Sức mạnh của tin tức truyền thông (bản
dịch cuốn The Power of News, Harvard, Harvard University Press,
1995, người dịch: Thế Hùng, Trà My), Hà Nội, Nxb Chính trị quốc
gia, 2003.
20. Pierre Albert, Lịch sử báo chí (Dương Linh dịch), Hà Nội,
Nxb Thế giới, 2003.
21. Nghề báo, tạp chí của Hội Nhà báo TPHCM.
22. Người làm báo, tạp chí của Hội Nhà báo Việt Nam.
23. Nhà báo và Công luận, tạp chí của Hội Nhà báo Việt
Nam.

8
Bài 1
TÌM HIỂU KHÁI NIỆM TRUYỀN THÔNG

Giới thiệu khái quát: Nội dung chương 1 trình bày những
khái niệm căn bản cần nắm rõ như “truyền thông”, “truyền thông
đại chúng”, “các phương tiện truyền thông đại chúng”, những đặc
điểm của quá trình truyền thông, và mối quan hệ giữa truyền
thông đại chúng với truyền thông liên cá nhân.

Mục tiêu của chương này: Phân biệt được những khái niệm
then chốt nêu trên, và hiểu được những đặc trưng của một quá
trình truyền thông.

9
TRUYỀN THÔNG

Truyền thông là gì? Có thể nói một cách ngắn gọn rằng truyền
thông là một quá trình truyền đạt thông tin. Truyền thông
(communication) là một dạng hoạt động căn bản của bất cứ một tổ
chức nào mang tính chất xã hội.
Ngay trong một bầy ong hay một bầy kiến cũng có truyền thông:
đám ong thợ thường truyền đạt cho nhau những thông tin về loại hoa
mà chúng tìm được cũng như về khoảng cách và phương hướng mà
chúng phải rủ nhau bay tới để hút nhụy và đưa mật hoa về tổ.
Trong xã hội loài người, truyền thông lại càng là một điều kiện
tiên quyết để có thể hình thành nên một “xã hội” hoặc “cộng đồng”.
Sở dĩ người ta có thể sống được với nhau, giao tiếp và tương tác được
với nhau trước hết là nhờ vào hành vi truyền thông. Người ta gọi đây
là truyền thông liên cá nhân (interpersonal communication), nghĩa là
truyền đạt thông tin giữa người này với người khác. Sự truyền thông
này trước hết được thể hiện thông qua lời nói hoặc chữ viết, tức là
thông qua ngôn ngữ, nhưng cũng có thể thông qua cử chỉ, điệu bộ, hay
hành vi để biểu tỏ thái độ hoặc cảm xúc. Vì thế, có thể có hai cách
thức truyền thông : truyền thông bằng lời nói (verbal), và truyền thông
không bằng lời nói (non-verbal).
Người ta thường phân biệt ba loại truyền thông như sau :
- Truyền thông liên cá nhân (giữa người này với người khác),
- Truyền thông tập thể (tức là truyền thông trong nội bộ một cơ
quan, một công ty, một tổ chức đoàn thể, hay một nhóm xã hội nào
đó).
- Và truyền thông đại chúng.

10
TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

Vậy thế nào là truyền thông đại chúng? Truyền thông đại chúng
(mass communication) là quá trình truyền đạt thông tin một cách rộng
rãi đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền
thông đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình. (Trong định
nghĩa này, cần chú ý đến cái vế thứ hai: một quá trình truyền thông chỉ
được gọi là quá trình truyền thông đại chúng nếu nó được phát ra
“thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng”).
Các phương tiện truyền thông đại chúng (hay cũng còn gọi là
“các phương tiện thông tin đại chúng”) (mass media) là những công
cụ kỹ thuật hay những kênh mà phải nhờ vào đó người ta mới có thể
thực hiện quá trình truyền thông đại chúng, nghĩa là tiến hành việc
phổ biến, loan truyền thông tin ra mọi người dân trong xã hội.
Ở đây, chúng ta cần phân biệt rõ ràng giữa hai thuật ngữ “truyền
thông đại chúng” và “phương tiện truyền thông đại chúng” mà người
ta thường sử dụng lẫn lộn một cách không chính xác. Nói tới các
“phương tiện truyền thông đại chúng” (mass media) như báo chí, phát
thanh, truyền hình... là nói tới những công cụ kỹ thuật (hay những cái
kênh) để nhờ đó người ta có thể thực hiện quá trình truyền thông đại
chúng. Còn khi nói tới “truyền thông đại chúng” (mass
communication) là chúng ta muốn nói tới một quá trình xã hội: quá
trình truyền tải thông tin ra công chúng thông qua các phương tiện ấy.
Chúng ta mở ti-vi xem cô phát thanh viên đọc một bản tin hoặc
coi một trận đá banh: đó là một hành vi được gọi là nằm trong quá
trình truyền thông đại chúng. Thế nhưng nếu chúng ta cũng mở màn
hình ti-vi, nhưng lại để coi một cuốn băng viđêô quay cảnh đám cưới
của cô em gái trong gia đình, thì hành động này lại không thể được coi

11
là nằm trong quá trình truyền thông đại chúng, bởi một lẽ đơn giản là
cuốn băng này chỉ được quay và phát trong khuôn khổ sinh hoạt gia
đình mà thôi. Nhưng nếu chúng ta xem một cuốn băng viđêô đám cưới
của gia đình một diễn viên điện ảnh chẳng hạn được phát trên truyền
hình, thì đấy lại là một hành vi nằm trong quá trình truyền thông đại
chúng.
Nói cách khác, điều mấu chốt trong việc xác định xem một hành
vi có nằm trong quá trình truyền thông đại chúng hay không không
phải là cái màn hình ti-vi hay cái đầu máy viđêô, mà là cần xem xét
coi hành vi ấy có nằm trong quá trình truyền tải thông tin ra rộng rãi
công chúng thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng hay
không.
Người ta thường liệt kê các hoạt động sau đây nằm trong lĩnh vực
truyền thông đại chúng: báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh,
xuất bản, sản xuất băng đĩa (âm nhạc chẳng hạn)... Gần đây, chúng ta
có thể kể thêm cả Internet. [Tuy nhiên, cần lưu ý rằng phương tiện
Internet có đặc điểm là có thể được sử dụng cho cả ba loại truyền
thông: truyền thông liên cá nhân (chẳng hạn gởi thư điện tử hay e-
mail); truyền thông tập thể (chẳng hạn những trang website mà chỉ có
những người trong nội bộ một cơ quan hay một công ty mới có thể
truy cập được); và truyền thông đại chúng (chẳng hạn những trang
website của tờ Tuổi trẻ hay tờ Sài Gòn Giải phóng)].
Truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội đặc thù bao gồm
ba thành tố sau đây:
- Hoạt động truyền thông (chẳng hạn như đi săn tin, quay phim,
chụp hình... rồi viết bài, biên tập, cuối cùng là xuất bản, hoặc phát
sóng),
- Các nhà truyền thông (bao gồm các tổ chức truyền thông như

12
báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình... và những người làm công tác
truyền thông như nhà báo, phóng viên, biên tập viên, phát thanh
viên...),
- Và đại chúng (các tầng lớp công chúng rộng rãi).

ĐẠI CHÚNG

Chữ “đại chúng” trong thuật ngữ “truyền thông đại chúng”
được dùng để chỉ đối tượng công chúng độc giả hay khán thính giả
của các phương tiện truyền thông đại chúng.
Thực ra, “đại chúng” (mass) là một khái niệm khá mơ hồ và khó mà có
một định nghĩa thật chính xác. Kể cả về mặt số lượng lẫn về mặt tính chất.
Chẳng hạn, người ta không thể xác định được là phải đông đến số lượng bao
nhiêu thì mới gọi là đại chúng. Một tờ báo chuyên ngành khoa học chẳng hạn
có thể chỉ có vài trăm độc giả, nhưng đây vẫn là một “phương tiện truyền
thông đại chúng” vì nó được bán công khai ra công chúng. Còn tờ nội san của
một đại công ty chẳng hạn có thể có số ấn bản lên tới vài chục ngàn tờ, nhưng
nó vẫn không phải là một “phương tiện truyền thông đại chúng” vì nó chỉ lưu
hành trong nội bộ công ty và không được bán rộng rãi ra thị trường.
Herbert Blumer đã phân biệt bốn đặc điểm sau đây để nhận dạng khái
niệm đại chúng:
- Đại chúng bao gồm những người thuộc mọi thành phần xã hội,
bất kể nghề nghiệp, trình độ học vấn hay tầng lớp xã hội nào (nghĩa là
có những đặc trưng rất dị biệt nhau).
- Nói đến đại chúng là nói đến những cá nhân nặc danh, nghĩa là:
vì nhắm đến một công chúng đông đảo, nên nhà truyền thông không
thể biết ai là ai, và khi truyền thông thì họ cũng ý thức rằng thông tin
của họ có thể đến với bất cứ ai, chứ không chỉ riêng một ai hay một
nhóm người nào mà thôi.

13
- Các thành viên của đại chúng thường là độc lập nhau, không ai
biết ai, không có những sự tương tác hay những mối quan hệ gì gắn
bó với nhau (khác với những khái niệm như “cộng đồng” hay “hiệp
hội” chẳng hạn).
- Đặc điểm thứ tư của đại chúng là hầu như không có hình thức
tổ chức gì, hoặc nếu có thì cũng rất lỏng lẻo. [Dẫn lại theo Alphons
Silbermann, Communication de masse, Paris, Nxb Hachette, 1981, tr.
15]
QUÁ TRÌNH TRUYỀN THÔNG

Mỗi khi đề cập tới truyền thông, người ta thường nhắc tới công
thức “5W” nổi tiếng của Harold Lasswell: “Ai nói cái gì, bằng kênh
nào, nói cho ai, và có hiệu quả gì?” (“Who says what in which channel
to whom with what effect?”) [Harold Lasswell, “The structure and
function of communication in society”, trong Lyman Bryson (Ed.),
The Communication of Ideas, New York, 1948, tr. 37]. Đây là một
công thức rút gọn gợi ý giúp chúng ta liệt kê ra những yếu tố chính
phải có trong nội dung một bản tin. Tuy nhiên, giới hạn của công thức
này là chỉ hình dung quá trình truyền thông như một đường thẳng
(tuyến tính) giữa một đầu là người phát tin (transmitter), và đầu kia là
người nhận tin (receiver). Do đó, với công thức này, người ta dễ rơi
vào khuynh hướng chỉ quan niệm về người nhận tin như một người
nhận tin một cách thụ động (xem sơ đồ 1).

Người phát tin Người nhận tin

Kênh truyền tin

Sơ đồ 1. Mô hình truyền thông tuyến tính

14
Về sau, các nhà nghiên cứu thường không còn quan niệm quá
trình truyền thông một cách tuyến tính như trên nữa, mà quan niệm
quá trình truyền thông như một chu kỳ, với dạng đường vòng khép
kín, trong đó bao gồm bốn giai đoạn chính như sau: phát tin, truyền
tin, nhận tin, và phản hồi. Đây là quan niệm đã được nhà ngôn ngữ
học Roman Jakobson phác thảo một cách khá hoàn chỉnh (xem sơ đồ
2).

Sơ đồ 2. Mô hình truyền thông chu kỳ theo Jakobson

Ngöôøi Ngöôøi phaùt tin


Phaûn hoài
phaùt tin Ngöôøi nhaän tin

Giaûi thích
Phaùc thaûo PHAÙT TIN NHAÄN TIN thoâng ñieäp
thoâng ñieäp
trong ñaàu TRUYEÀN TIN
Boä loïc

Giaûi maõ
Boä loïc Tieáng ñoäng
Boä loïc

Maõ hoùa Keânh


Thu nhaän tin
truyeàn tin

Boä loïc

Nguồn: Michel de Coster, Introduction à la sociologie, 3è édition,


Bruxelles, Nxb De Boeck, 1992, trang 98.

Xuất phát từ ý tưởng của ngành điều khiển học, mô hình truyền
thông theo chu kỳ này quan niệm rằng: một thông điệp, sau khi được
phát ra, luôn luôn gây ra một phản ứng nào đó về phía người nhận tin,

15
và do đó, người nhận tin sẽ có một thông điệp phản hồi (feedback) gởi
về lại cho người phát tin ban đầu. Lúc này, người nhận tin cũng trở
thành một người phát tin. Như vậy, quá trình truyền thông thực chất
phải được hiểu như là một quá trình trao đổi thông tin giữa người này
với người khác trong cuộc sống xã hội. Chúng ta hãy khảo sát kỹ hơn
từng giai đoạn trong mô hình này của Jakobson.
Giai đoạn phát tin (emission)
Truyền thông là bộc lộ một ý tưởng của mình bằng một hệ thống
tín hiệu (signs), dưới dạng ngôn ngữ hoặc cử chỉ, nghĩa là bằng một
thứ mã (code) mà người phát tin có thể hiểu được – thao tác này gọi là
mã hóa (coding). Có thể nói mỗi ngôn ngữ là một hệ thống mã: tiếng
nói không là gì khác hơn là một chuỗi những âm thanh, còn chữ viết là
một chuỗi những ký tự, và những âm thanh hay ký tự này được sắp
xếp và phối hợp với nhau theo một số qui tắc ngữ pháp nhất định để
có thể mang những ý nghĩa nào đó.
Giữa giai đoạn “phác thảo thông điệp trong đầu” và giai đoạn
“mã hóa”, thường xảy ra một thứ hiện tượng giống như “bị nhiễu”: nội
dung một thông điệp (message) sau khi được mã hóa (nghĩa là sau khi
được nói ra thành lời, hay được viết ra trên giấy) đôi khi không hoàn
toàn phản ánh chính xác ý tưởng định nói trong đầu. Hiện tượng này
được Jakobson gọi là “filtering”, chúng tôi tạm dịch là hiện tượng
thông qua “bộ lọc” (có thể hình dung tương tự như việc lọc cà-phê qua
cái phin). Sở dĩ có hiện tượng này, một mặt có thể do người phát tin
chưa làm chủ được ngôn ngữ mà mình sử dụng, nhưng cũng có thể do
ngay bản thân ngôn ngữ thường không cho phép diễn đạt được hết
những ý tứ hoặc những sắc thái tế nhị hoặc phức tạp mà người phát tin
muốn bày tỏ.

16
Giai đoạn truyền tin (transmission)
Giai đoạn truyền đạt thông tin có thể diễn ra bằng hình thức tiếp
xúc trực tiếp (đối diện) giữa người phát và người nhận tin, nhưng cũng
có thể thông qua một phương tiện kỹ thuật trung gian hay một kênh
truyền thông nào đó (medium) như điện thoại, máy fax, telex, máy
nhắn tin, thư từ (viết trên giấy), thư điện tử (e-mail)... Cũng có khi
“kênh truyền thông” ở đây lại là một người thứ ba, đóng vai trò trung
gian, mà người phát tin nhờ nhắn lại cho người nhận tin. Khi thông
điệp được chuyển qua một kênh trung gian nào đó thì rất có khả năng
là sẽ bị nhiễu bởi những loại tiếng ồn (noise) khác nhau (máy bị rè,
tiếng động ồn ào xung quanh...), và do đó nội dung thông điệp có thể
bị sai lạc hoặc bị mất đi một phần nào đó. Còn trong trường hợp
truyền tin thông qua một người thứ ba (nhờ nhắn lại), thì rất có thể
“bộ lọc” chủ quan của người này cũng làm biến dạng đi ít nhiều nội
dung của thông điệp.
Giai đoạn nhận tin (reception)
Chúng ta cần phân biệt mấy thao tác khác nhau để có thể hiểu
được đặc trưng của giai đoạn này (mặc dù thực ra những thao tác này
trong thực tế xảy ra gần như cùng một lúc).
Trước hết là thao tác “thu nhận tin” (tức là ghi lại thông điệp -
“message recording"). Ở đây, việc ghi nhận tin có thể không được đầy
đủ, một phần do tác động của các loại “tiếng ồn”, nhưng cũng có thể
một phần do người nhận tin không nắm bắt được trọn vẹn thông điệp.
Người nghe thường không nghe được đầy đủ trọn vẹn thông điệp được
phát ra: anh ta nghe không rõ hoặc nghe không kịp, nhất là khi mà
thông điệp được phát ra quá dài dòng. Lúc đó, người nhận tin chỉ ghi
nhớ được một phần của thông điệp mà thôi: vì không thể ghi nhớ toàn
văn nội dung thông điệp giống như một cái máy ghi âm, nên anh ta
buộc phải chọn lọc một số thông tin mà anh ta có thể nhớ được, một

17
cách có ý thức hay không có ý thức. Người nghe thường “chọn lọc”
theo những tiêu chuẩn như: những vấn đề mà anh ta đang quan tâm,
những nội dung phù hợp với suy nghĩ của anh ta, những điều mà anh
ta cho là quan trọng, hoặc hấp dẫn, v.v...
(Có thể tham khảo một thí dụ: trong trò chơi kể một câu chuyện
cho một dãy thành viên, trong đó người đứng trước kể lại câu chuyện
cho người đứng sau, nhưng chỉ nói nhỏ vào tai mà thôi, người ta
thường thấy kết quả đến người cuối cùng là câu chuyện thường đã
không còn như nguyên bản kể cho người đầu tiên. Có thể coi đây là
một thí dụ sinh động minh chứng cho hiện tượng tri giác có chọn lọc
của con người chúng ta [selective perception].)
Thao tác giải mã (decoding) : chúng ta biết là mỗi ngôn ngữ bao
gồm những từ, những thuật ngữ hoặc thành ngữ mang những biểu
tượng đặc thù. Vì thế, nếu người nhận tin không nắm được đầy đủ
chìa khóa của “hệ thống mã” này (nghĩa là không hiểu hết ý nghĩa của
các từ ngữ được sử dụng trong thông điệp) thì rất có thể sẽ tiếp thu
không đúng, “giải mã” không đúng nội dung thông điệp.
Sau khi giải mã thông điệp, người nhận tin còn phải giải thích
nội dung thông điệp để hiểu được ý nghĩa của nó. Việc giải thích này
được tiến hành phụ thuộc vào cái khung qui chiếu (frame of reference)
của người nhận tin. Cái khung này chủ yếu được qui định bởi nguồn
gốc xã hội, tuổi tác, quá trình giáo dục và trình độ học thức của người
nhận tin; nói cách khác, có thể gọi đây là hành trang văn hóa của
người nhận tin. Cái khung này có hai trục: trục nhận thức (cognitive
dimension), và trục cảm xúc (affective dimension). Vốn kiến thức
cũng như vốn sống sẽ cung cấp những yếu tố cần thiết để giải thích
thông điệp: đây chính là trục nhận thức. Mặt khác, hành trang tâm lý
(vốn cũng là hệ quả của môi trường xã hội và của quá trình giáo dục)
cũng như tâm trạng hay tính khí lúc nhận thông điệp cũng đều là

18
những yếu tố có thể ảnh hưởng tới cách giải thích nội dung thông
điệp: đây là trục cảm xúc.
Tóm lại, việc tiếp nhận các thông điệp thường mang tính chất cục
bộ (nghĩa là không ghi nhận đầy đủ trọn vẹn thông điệp), chọn lọc
(người nhận tin thường chọn lọc để tiếp nhận một số thông tin), và lý
giải (tức là thông điệp luôn luôn được người nhận tin giải thích theo
cái khung qui chiếu của mình, hiểu nó theo vốn liếng văn hóa riêng).
Cuối cùng, thông điệp do người phát tin chuyển đi thường gây ra
một kết quả là làm cho người nhận tin có một phản ứng nào đó trở lại
cho người phát tin. Như vậy, lúc này, người nhận tin cũng trở thành
một người phát tin, một nguồn thông tin.
Phản hồi (feedback)
Chính là bắt nguồn từ ngành điều khiển học (cybernetics) mà
ngành khoa học nghiên cứu về truyền thông đã nhấn mạnh tới khái
niệm “phản hồi” và tới những tác động của nó trong đời sống xã hội.
Ngành điều khiển học cho rằng bất cứ một tổ chức hay một cơ thể nào
đều chỉ có thể tồn tại được với hai điều kiện: đối với bên ngoài, bằng
cách tự điều chỉnh theo những biến thái của môi trường; và ở bên
trong, bằng cách tự mình thích ứng nhằm đáp ứng được với những
biến thái sâu xa hơn sẽ diễn ra ở môi trường bên ngoài.
Ý tưởng về sự phản hồi trong ngành điều khiển học trên đây
được đưa vào lĩnh vực truyền thông để thấy rằng không thể giải thích
quá trình truyền thông theo mô hình truyền thống của Lasswell, mà
cần phải hiểu rằng quá trình truyền thông là một quá trình trao đổi
thông tin giữa hai nguồn thông tin. Truyền thông không thể được quan
niệm như một quá trình tuyến tính, một chiều, xảy ra một lần là xong
(giữa người phát tin và người nhận tin), mà phải được xem xét như
một chu kỳ (cycle) trong đó có nhiều thông điệp được trao đổi qua lại

19
với nhau giữa các nguồn thông tin. Hay nói cách khác, chúng ta cần
hình dung quá trình truyền thông luôn luôn diễn ra trong bối cảnh của
các mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân.
Mô hình truyền thông theo chu kỳ mà Jakobson phác thảo tuy chỉ
đi sâu phân tích một chu kỳ truyền thông, nhưng nó đã nêu lên được
những tính chất cơ bản của bất cứ qui trình truyền thông nào, dù đó là
truyền thông liên cá nhân, tập thể hay đại chúng. Có hiểu được các giai
đoạn trong mô hình truyền thông này, chúng ta mới có thể hình dung
được một cách sâu xa tại sao phản xạ của người làm báo là luôn luôn tự
đặt mình vào vị trí người đọc (luôn luôn phải trả lời câu hỏi “viết cho
ai?"), và mới thấy hết được ý nghĩa biện chứng của mối quan hệ giữa
người làm báo và đối tượng công chúng của mình.

TRUYỀN THÔNG LIÊN CÁ NHÂN VÀ TRUYỀN THÔNG ĐẠI


CHÚNG

Mỗi người chúng ta luôn luôn sống trong môi trường có nhiều
mối quan hệ xã hội khác nhau (với gia đình, với bạn bè, với đồng
nghiệp...). Hành vi tiếp nhận truyền thông đại chúng chỉ là một trong
những hành vi diễn ra trong môi trường xã hội ấy. Vì thế, thông
thường nội dung của các phương tiện thông tin đại chúng tác động đến
chúng ta thông qua cái màng lưới quan hệ xã hội vốn có đó.
Đây là một khám phá xuất phát từ một công trình điều tra nổi
tiếng của Lazarsfeld, Berelson và Gaudet tiến hành vào năm 1940 ở
bang Ohio (Mỹ) [People's Choice, dẫn lại theo Judith Lazar,
Sociologie de la communication de masse, Paris, Armand Colin, 1991,
tr. 90-95]. Đây là công trình nghiên cứu về mức độ ảnh hưởng của
những chiến dịch vận động tranh cử tổng thống đối với dân chúng Mỹ,

20
để tìm hiểu coi người dân quyết định thế nào khi đi bầu, và tại sao họ
lại quyết định bầu cho một ứng cử viên nào đó.
Điều bất ngờ mà cuộc điều tra này đã khám phá ra, đó là : trái
ngược với điều mà người ta vẫn lầm tưởng, chiến dịch vận động tranh
cử (chủ yếu thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng) hầu
như không hề làm thay đổi ý định bầu cử vốn có của cử tri. Nói như
vậy không có nghĩa là cuộc vận động không có tác động nào hết. Thực
ra, tác động của chiến dịch vận động chỉ là : củng cố cho ý định bầu
cử đã có từ trước của cử tri, hoặc là chỉ làm xuất hiện những ý định
vốn đã tiềm tàng trong đầu của cử tri. Các tác giả trên lý giải như sau :
người ta luôn luôn có tri giác mang tính “chọn lọc", và khi tiếp nhận
các thông điệp từ truyền thông đại chúng, người ta thường có xu
hướng dễ tiếp nhận những nội dung gì phù hợp với quan niệm của
mình, và gạt bỏ ra ngoài tai những gì trái với hoặc xa lạ với suy nghĩ
của mình. Vì thế, những ai vốn đã ủng hộ Đảng Dân chủ chẳng hạn thì
thường chọn nghe những thông điệp của đảng này, hơn là đi nghe
những diễn văn của Đảng Cộng hòa. Nhìn chung, số người thay đổi ý
định bầu cử chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Nói cách khác, các chiến dịch
vận động tranh cử thực ra chỉ đem lại một hiệu quả rất yếu ớt trong
việc thuyết phục người dân thay đổi ý định bầu cử của mình.
Cuộc điều tra trên đây cũng khẳng định rằng quyết định chọn lựa
của người dân phụ thuộc vào việc họ là thành viên của những nhóm xã
hội nào (tôn giáo, gia đình, câu lạc bộ...). Những người sống trong
cùng những hoàn cảnh kinh tế và văn hóa-xã hội tương tự nhau, thì
thường có cùng những suy nghĩ và chọn lựa giống nhau. Qua điều tra,
người ta mới khám phá ra rằng chính những buổi trao đổi, trò chuyện,
tranh luận... với những người xung quanh trong những nhóm xã hội ấy
đã tác động lên suy nghĩ của người dân nhiều hơn so với những thông
điệp được phát ra từ các phương tiện truyền thông đại chúng. Các tác

21
giả nghiên cứu đã nhận diện ra vai trò quan trọng của những người
“hướng dẫn dư luận” (opinion leaders) trong các nhóm xã hội, và từ
đó phác họa ra giả thuyết về mô hình truyền thông hai giai đoạn (two-
step flow of communication), trong đó những người “hướng dẫn dư
luận” là những người đóng vai trò trung gian trong quá trình truyền
thông này.

Sơ đồ 3. Giả thuyết về quá trình truyền thông qua hai giai đoạn

TRUYỀN THÔNG
ĐẠI CHÚNG

ý tưởng ý tưởng
Người hướng
dẫn dư luận

ý tưởng ý tưởng ý tưởng


Người dân

Nguồn: Judith Lazar, sách đã dẫn, tr. 95.

Những người mà các nhà nghiên cứu gọi là “hướng dẫn dư luận”
ở đây thực ra chỉ là những người là có uy tín trong các nhóm xã hội
(nhóm gia đình, nhóm bạn bè, nhóm đồng nghiệp...), có nhiều kiến
thức và hiểu biết do thường xuyên đọc báo hay nghe rađiô, và thường
được những người khác trong nhóm hỏi han ý kiến. Bản thân họ, chưa
chắc họ đã ý thức mình là người “hướng dẫn dư luận”. Trong một

22
nhóm, có khi người này là người “hướng dẫn dư luận” trong lĩnh vực
văn hóa, người khác thì trong lĩnh vực mua sắm, và một người khác
nữa trong lĩnh vực chính trị, v.v... Trong quá trình điều tra, xác định
được một người là người “hướng dẫn dư luận” không phải là chuyện
dễ dàng, nhất là khi chúng ta tiến hành điều tra nơi một số lượng dân
cư đông đảo. Người ta thường đặt ra hai loại câu hỏi sau để tìm kiếm
nhân vật này: (1) Trong thời gian gần đây, ông/bà có bao giờ tìm cách
thuyết phục người khác về một chuyện gì đó hay không? (2) Trong
thời gian gần đây, có ai đến hỏi ý kiến ông/bà về một chuyện gì đó
hay không ?
Công trình nghiên cứu trên đây đã mở đầu cho nhiều cuộc điều
tra về sau nghiên cứu về vai trò của truyền thông liên cá nhân đối với
truyền thông đại chúng. Qua đó, người ta nhấn mạnh rằng quá trình
truyền thông không phải lúc nào cũng đi theo con đường “từ trên
xuống dưới", mà thông thường là đi theo qui luật “ngang hàng”: người
dân thường trò chuyện, tranh luận, hay tìm hiểu về một chuyện gì đó
với những người thuộc cùng giới, cùng tầng lớp, cùng môi trường xã
hội, chứ ít khi hỏi han hoặc trò chuyện với những người có vị thế xã
hội xã hội cao hơn. (Một thí dụ rất dễ thấy: một bà nội trợ hiếm có khi
nào đi mua sắm ngay lập tức một món đồ ngay sau lúc xem quảng cáo
trên báo chí hay trên ti-vi, nhất là nếu đây là một món tương đối đắt
tiền; bà ta thường đi hỏi thêm ý kiến một vài người bạn ở cùng xóm
hoặc làm cùng cơ quan trước khi đi đến quyết định cuối cùng.)
Các cuộc điều tra đã chứng minh rằng người dân thường không
chịu ảnh hưởng từ truyền thông đại chúng một cách trực tiếp, như một
“mũi kim chích", mà thường là gián tiếp thông qua việc trao đổi, hỏi
han với những người có uy tín trong các nhóm xã hội của họ, và lối
suy nghĩ cũng như chính kiến của họ thường được xác lập thông qua
những cuộc trò chuyện, giao tiếp mang tính chất liên cá nhân đó. Nói

23
cách khác, hiệu quả tác động của truyền thông đại chúng thường chỉ
diễn ra một cách trọn vẹn khi được tiếp nối bởi các quá trình truyền
thông liên cá nhân, nghĩa là thông qua các mối quan hệ trong các
nhóm xã hội và trong từng môi trường xã hội cụ thể.

Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 1:

- “Truyền thông” là một dạng hoạt động căn bản của bất cứ tổ
chức xã hội nào.
- Cần phân biệt ba loại hình truyền thông liên cá nhân, truyền
thông tập thể, và truyền thông đại chúng. Nhận thức rõ sự khác biệt
giữa “truyền thông đại chúng” (với tư cách là một quá trình xã hội) và
“các phương tiện truyền thông đại chúng” (vốn là những kênh hay
những công cụ kỹ thuật được dùng để thực hiện quá trình truyền thông
đại chúng).
- Tìm hiểu kỹ lưỡng sơ đồ truyền thông theo chu kỳ (của
Jakobson), và những đặc điểm của từng giai đoạn trong chu kỳ truyền
thông này.
- Mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng và truyền thông liên
cá nhân trong xã hội.

Câu hỏi ôn tập:

1. Hãy định nghĩa thế nào là “truyền thông liên cá nhân", thế nào
là “truyền thông tập thể", và thế nào là “truyền thông đại chúng".
2. Liệt kê các loại phương tiện truyền thông đại chúng.
3. Hãy cho biết những đặc điểm chính của công chúng của các
phương tiện truyền thông đại chúng.

24
4. So sánh hai mô hình truyền thông theo Lasswell và theo
Jakobson. Hãy trình bày đặc điểm của từng giai đoạn trong mô hình
truyền thông của Jakobson.
5. Thế nào là mô hình truyền thông tuyến tính, và mô hình truyền
thông hai giai đoạn (two-step flow of communication)?

Câu hỏi thảo luận nhóm:


(hoặc tự mình trả lời bằng suy nghĩ cá nhân)

1. Thử diễn giải ý nghĩa của mô hình truyền thông của Jakobson
đối với những người làm công tác truyền thông. Cho một vài thí dụ cụ
thể.
2. Trong thực tế xã hội, truyền thông đại chúng có liên quan thế
nào với truyền thông liên cá nhân ? Hãy tìm thí dụ và giải thích mối
quan hệ giữa hai quá trình truyền thông này.

25
Bài 2

LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA CÁC PHƯƠNG TIỆN


TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG. MỘT ĐỊNH
CHẾ XÃ HỘI MỚI

Giới thiệu khái quát: Chương này giới thiệu lịch sử ra đời
của các phương tiện truyền thông đại chúng trên thế giới, từ báo
chí cho tới phát thanh và truyền hình, cũng như đặc điểm của quá
trình hình thành định chế truyền thông đại chúng. Phần cuối
chương này nói về những đối tượng nghiên cứu của bộ môn xã hội
học về truyền thông đại chúng.

Mục tiêu của chương này: Hình dung một cách khái quát lịch
sử hình thành các phương tiện truyền thông đại chúng trên thế
giới. Hiểu rõ các khái niệm “định chế xã hội”, và “định chế truyền
thông đại chúng” – xét với tư cách là một định chế xã hội. Vị trí của
định chế truyền thông đại chúng trong xã hội hiện đại. Nắm được
những lĩnh vực nghiên cứu của bộ môn xã hội học truyền thông đại
chúng.

Các phương tiện truyền thông đại chúng theo nghĩa mà chúng ta
hiểu ngày nay, trong đó trước tiên là báo chí, chỉ thực sự bắt đầu xuất
hiện tại châu Âu từ thế kỷ XIX cho đến nay. Có thể nói các phương
tiện truyền thông đại chúng chỉ ra đời cùng với sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản.

26
NHỮNG PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG
CỔ TRUYỀN

Trong lịch sử thế giới, trước khi có các phương tiện truyền thông
đại chúng, mỗi dân tộc đều đã sáng tạo ra những phương tiện truyền
thông riêng của mình để đáp ứng nhu cầu thông tin trong sinh hoạt xã
hội.
Trong xã hội Việt Nam thời xa xưa, cũng đã từng có loại phương
tiện thông tin bằng sự truyền khẩu, và phương tiện thông tin bằng chữ
viết. Các phương tiện truyền thông bằng truyền khẩu bao gồm:
- Những câu ca dao và những bài hát hoặc bài thơ dân gian,
- Nhân vật “thằng mõ” trong làng xã thời xưa,
- Và các thể loại ca kịch cổ truyền.
Và bên cạnh đó là các phương tiện thông tin bằng chữ viết như:
các sớ tấu mà hệ thống quan lại ở các địa phương phải gởi về triều
đình; và các biên niên sử [Xem Huỳnh Văn Tòng, Lịch sử báo chí
Việt Nam từ khởi thủy đến năm 1930, Sài Gòn, Nxb Trí Đăng, 1973,
tr. 21-27].
Thế nhưng, tất cả các phương thức truyền thông xa xưa đó đều
chưa phải là những “phương tiện truyền thông đại chúng” đúng nghĩa
mà chúng ta hiểu bây giờ.

KỸ THUẬT ẤN LOÁT

Tìm hiểu về lịch sử của truyền thông đại chúng, chúng ta không
thể không chú ý tới các bước phát triển của các kỹ thuật truyền thông,
xét với tư cách là những công cụ chứa đựng và truyền tải thông tin.
Bởi một lẽ đơn giản là chỉ với một trình độ phát triển kỹ thuật công

27
nghiệp thì các phương tiện truyền thông mới có thể trở thành những
phương tiện truyền thông mang tính chất đại chúng. Trước kia, khi
chưa nghĩ ra các kỹ thuật in ấn, người ta chỉ có thể nhân bản các cuốn
sách bằng cách chép tay.
Trên các sách báo ở phương Tây, người ta thường nhắc tới
Johannes Gutenberg (người Đức) như là người đầu tiên phát minh ra kỹ
thuật ấn loát vào năm 1440. Nhưng thực ra, kỹ thuật này đã bắt đầu
xuất hiện ở Trung Hoa từ thế kỷ thứ X.
Vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên, vua Tần Thủy Hoàng đã
từng cho khắc trên những tấm vỏ tre những tác phẩm thời cổ xưa;
phương pháp khắc trên gỗ này sau đó được dần dần phổ biến dưới thời
nhà Đường, nhà Tần… Nhưng kỹ thuật ấn loát chỉ thực sự được khám
phá vào triều nhà Tống ở thế kỷ thứ X, khi người ta áp dụng kỹ thuật
khắc các nét chữ lên trên một phiến gỗ, sau đó mặt gỗ được trét một
thứ bột nhão để in lên giấy. Phương pháp này được hoàn thiện khi Pi
Ching lần đầu tiên chế tạo ra kỹ thuật đúc chữ rời bằng thạch cao vào
khoảng năm 1041-1048. Người ta xếp những chữ rời này lên trên một
tấm kim loại, rồi sau đó trét bột nhão (làm bằng thân cây nghiền nát)
để in lên giấy.
Mặt khác, chính Trung Hoa cũng là cái nôi sáng chế ra cách làm
giấy rất sớm, từ năm 105 sau Công nguyên, sau đó người Ả Rập mới
học lại kỹ thuật này vào thế kỷ thứ VIII rồi truyền dần lại cho các
nước châu Âu từ thế kỷ thứ X trở đi.
Ở Việt Nam, nghề in xuất hiện vào thế kỷ XV, do công lao của
tiến sĩ Lương Như Hộc (1420-1501) vốn học được kỹ thuật in sách
sau hai lần đi sứ ở Trung Hoa và về truyền dạy lại cho người dân ở
làng Liễu Tràng, huyện Gia Lộc (Hải Hưng). Kỹ thuật in thời đó là
khắc chữ lên trên một tấm gỗ, sau đó quét mực để in lên giấy. Liễu
Tràng về sau trở thành nơi có những thợ in rất khéo tay và gần như là

28
nơi duy nhất in sách vở trong nước [xem Huỳnh Văn Tòng, sách đã
dẫn, tr. 27-29]. Cho đến nay, Lương Như Hộc vẫn thường được coi là
ông tổ của nghề in ở Việt Nam, mặc dù cũng có tài liệu cho rằng
nước ta đã biết làm giấy và biết nghề in bằng bản khắc gỗ, kể cả kỹ
thuật in bằng chữ rời khắc gỗ, từ thời nhà Lý và nhà Trần, tức khoảng
thế kỷ XII-XIII [xem Trần Đức Cường, “Sự cần thiết viết lịch sử báo
chí Việt Nam”, Người làm báo, 8-1997, tr. 30]
Ở châu Âu, mặc dù kỹ thuật ấn loát ra đời sau Trung Hoa, nhưng
những cải tiến tiếp sau phát minh đầu tiên của Gutenberg đã khiến cho
ngành này phát triển và công suất in nhanh chóng gia tăng, từ chỗ sử
dụng gỗ chuyển sang việc sử dụng sắt và đồng, rồi từ chỗ in bằng máy
thủ công chuyển sang in bằng máy sử dụng động lực máy hơi nước...
vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
Chúng ta có thể điểm lại một số sáng chế quan trọng trong ngành
in trên thế giới như sau:
- Thế kỷ X: kỹ thuật in bằng cách khắc các nét chữ lên trên phiến
gỗ ở Trung Hoa.
- 1041-1048: Pi Ching (Trung Hoa) lần đầu tiên chế tạo ra kỹ
thuật chế tạo chữ rời bằng thạch cao.
- 1440: Johannes Gutenberg (Đức) phát minh ra kỹ thuật in ty-pô
với chiếc máy ép bằng vít, chế tạo ra chữ rời, lúc đầu bằng gỗ, về sau
bằng kim loại.
- 1780: Francois Didot (Pháp) phát minh ra kỹ thuật in bằng chữ
sắt (bằng cách sắp chữ đúc rời), nhờ đó công suất in tăng gấp đôi.
- 1803: chiếc máy in cơ khí đầu tiên của Friedrich Koenig (Đức),
năm 1811 in được 300 tờ (một mặt) một giờ.
- 1814: Friedrich Koenig hoàn chỉnh chiếc máy in đầu tiên chạy
hoàn toàn bằng động lực máy hơi nước cho tờ báo Times ở Luân Đôn,

29
in được 1.100 tờ (một mặt) một giờ. Năm 1818, Koenig và Bauer làm
ra chiếc máy in được hai mặt.
- 1876: Charles Gillot (Pháp) phát minh ra kỹ thuật làm cliché
(bản kẽm), nhờ đó người ta bắt đầu có thể đưa hình ảnh lên mặt báo.
- 1884: Mergenthaler (Mỹ) sáng chế kỹ thuật linotype (sắp chữ
bằng máy, thay vì sắp từng chữ rời bằng tay, và đổ chữ chì đúc liền
từng dòng). Sáng chế này là một bước ngoặt căn bản trong quá trình
cơ khí hóa ngành ấn loát.
- 1904: bắt đầu có kỹ thuật in ốp-xét (offset).
[có thể xem thêm Pierre Albert, Lịch sử báo chí (Dương Linh
dịch), Hà Nội, Nxb Thế giới, 2003, tr. 38-39]
Nhờ các tiến bộ kỹ thuật mà công suất in không ngừng tăng lên,
và điều này ngay từ đầu đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện
của báo chí. Một cái máy cổ xưa lúc ban đầu chỉ in được vài trăm tờ
giấy mỗi ngày, rồi dần dà lên tới khoảng 3.000 tờ một ngày vào đầu
thế kỷ XIX, và đạt mức 50.000 tờ giấy báo (khổ A1) trong một giờ
vào cuối thế kỷ XX. Ngoài ra, lẽ tất nhiên, sở dĩ báo chí phát triển
được là còn nhờ vào các tiến bộ kỹ thuật khác nữa trong thế kỷ XIX
và đầu thế kỷ XX như sản xuất giấy và mực in, giao thông vận tải
(nhất là khi ra đời xe lửa), bưu điện, điện tín (hay còn gọi là điện báo,
telegraph) (1837), telex (1930)...

NHỮNG TỜ BÁO ĐẦU TIÊN

Trong lịch sử, đôi khi người ta nhắc tới những tờ “báo” cổ nhất
(ở dạng sơ khai) như tờ Acta diurna (có nghĩa là “sự kiện hàng ngày”)
xuất hiện tại La Mã từ năm 59 trước Công nguyên dưới thời hoàng đế
Julius Caesar. Đây là một dạng tờ báo viết tay lên trên các phiến gỗ,

30
hàng ngày được trưng nơi công cộng để dân chúng biết các quyết định
quan trọng của nghị viện, biết lịch tranh tài ở đấu trường, ngày xét xử
các vụ án, đám cưới, đám ma... Hay tờ Kinh báo (Tching Pao, có
nghĩa là “tờ báo của kinh đô”), tờ báo của triều đình Bắc Kinh (Trung
Hoa), xuất hiện khoảng năm 400 sau Công nguyên và tồn tại suốt cho
đến đầu thế kỷ XX, chuyên thông tin về các biến cố lớn và các quyết
định của triều đình [xem Pierre Albert, sách đã dẫn, tr. 6-14].
Tuy nhiên, nếu hiểu theo đúng nghĩa của một “tờ báo”, những tờ
báo sau đây thường được coi là xuất hiện sớm nhất trong lịch sử báo
chí thế giới:
- Đức 1605: tờ Relation, tờ báo đầu tiên ra đời tại Strasbourg
(nay thuộc nước Pháp, nhưng hồi ấy còn thuộc nước Đức).
- Bỉ 1605: tờ báo định kỳ Die Niewe Tidjingler (Tin tức Anvers),
nửa tháng ra một số.
- Đức 1609: tờ báo định kỳ Relation aller fuernemmen in Gedenk
wuedigen Historien. 1660: tờ nhật báo đầu tiên Leipziger Zeitung
(Nhật báo Leipzig).
- Thụy Sĩ 1610: Ordinari Wochenzeitung.
- Anh 1621: tuần báo Weekly News. 1702: tờ nhật báo đầu tiên
của Anh là tờ Daily Courant. 1785: nhật báo Daily Universal Register,
đến năm 1788 đổi tên thành nhật báo Times, vẫn còn tồn tại cho đến
ngày nay, là một trong những tờ báo sống lâu nhất thế giới.
- Thụy Điển 1624: Hermes Gothicus.
- Pháp 1631: La Gazette, tờ báo định kỳ đầu tiên do Renaudot
sáng lập (ra hàng tuần, số ấn bản trung bình là 1.200 ở thế kỷ XVII, và
lên tới 12.000 trong thế kỷ XVIII). 1777: tờ nhật báo đầu tiên của
Pháp là tờ Le Journal de Paris (Nhật báo Paris).
- Ý 1640: Gazzetta Pubblica.

31
- Tây Ban Nha 1641: Gaceta Semanal.
Ở Việt Nam, tờ báo in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên là tờ Gia Định
báo, ra số một vào ngày 15-4-1865. Tờ Gia Định báo được phát hành
vào ngày 15 mỗi tháng, có bốn trang, khổ 32x25cm. Lúc đầu, nhà
cầm quyền Pháp giao cho Ernest Potteaux quản lý, đến năm 1869
giao cho Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của. Nội dung tờ báo chủ
yếu đăng công văn, chỉ thị của nhà cầm quyền, nhưng cũng thêm có
một phần đăng tin tức trong nước [theo Huỳnh Văn Tòng, sách đã
dẫn, tr. 52]

CÁC KỸ THUẬT TRUYỀN THÔNG VÀ CÁC PHƯƠNG TIỆN


TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

Sau báo chí, lần lượt ra đời điện ảnh, đài phát thanh và đài truyền
hình trong nửa đầu thế kỷ XX, dựa trên nhiều phát minh kỹ thuật khác
nhau. Nhà xã hội học truyền thông Francis Balle nhận định rằng, trong
lịch sử các phương tiện truyền thông đại chúng, nói chung tốc độ ứng
dụng diễn ra ngày càng nhanh kể từ khi phát minh ra một kỹ thuật cho
tới khi một phương tiện truyền thông mới ra đời và được thương mại
hóa, tức là được đưa ra thị trường một cách rộng rãi (xem bảng 1).
Nếu máy in được Gutenberg sáng chế vào năm 1440, thì phải đợi
đến năm 1863, tức bốn thế kỷ sau, báo chí mới thực sự trở thành một
phương tiện phổ biến trong xã hội. (Francis Balle coi năm 1863, năm
ra đời tờ nhật báo Le Petit Journal ở Pháp, có số ấn bản lên tới
400.000 tờ/ngày và bán với giá rất rẻ, mới là cái mốc thực sự của báo
chí với tư cách là một phương tiện truyền thông đại chúng.)
Còn kỹ thuật điện ảnh chỉ cần khoảng 70 năm, kể từ khi Joseph
Plateau (người Bỉ) khám phá ra ảo giác về cử động vào năm 1829 (nếu

32
chúng ta xem 10 bức ảnh trở lên liên tiếp trong một giây, thì con mắt
của chúng ta có ảo giác là đang nhìn thấy sự cử động), và nhờ đó
người ta sáng chế ra những chiếc máy quay ảnh thô sơ đầu tiên vào
khoảng năm 1830, cho tới khi anh em Lumière (người Pháp) chế tạo
ra được chiếc máy quay phim đầu tiên năm 1895 ở Paris, và bắt đầu
được thương mại hóa kể từ khoảng năm 1900.
Nhưng kỹ thuật truyền sóng phát thanh thì còn nhanh hơn, từ lần
thử nghiệm đầu tiên truyền sóng rađiô phát qua biển Manche từ Pháp
sang Anh vào năm 1899 cho tới khi bắt đầu được thương mại hóa kể
từ năm 1921 ở Pháp, chỉ còn mất hơn 20 năm. Còn kỹ thuật truyền
hình thì chỉ mất hơn 10 năm, từ những lần phát sóng truyền hình thử
nghiệm đầu tiên ở Anh, Mỹ và Đức vào khoảng năm 1928-1929 cho
tới lúc bắt đầu được thương mại hóa và được phát sóng đều đặn từ
năm 1936 ở Anh và năm 1941 ở Mỹ.

Bảng 1. Các phương tiện truyền thông đại chúng : từ khi phát minh ra
kỹ thuật cho tới khi bắt đầu được thương mại hóa
Phát minh Thương mại Khoảng cách
kỹ thuật hóa thời gian
Báo chí 1440 1863 hơn 4 thế kỷ
Điện ảnh 1830 1900 70 năm
Phát thanh 1899 1921 hơn 20 năm
Truyền hình 1929 1941 hơn 10 năm
Nguồn: Francis Balle, Institution et public des moyens d'information,
Paris, 1973, tr. 76.

Ngày nay, báo chí, phát thanh và truyền hình đã trở thành một
phần sinh hoạt thông dụng trong đời sống hàng ngày của phần đông

33
dân chúng trên khắp hành tinh. Bảng 2 cho thấy tình hình tổng quan
về tình hình trang bị ba phương tiện truyền thông đại chúng chính ở
một số nước châu Á và phương Tây.

Bảng 2. Số rađiô, ti-vi, và số ấn bản nhật báo tính bình quân trên
1.000 dân tại một số quốc gia, năm 1996-1997
Số máy rađiô/ Số máy ti-vi/ Số ấn bản nhật
1.000 dân 1.000 dân báo/ 1.000 dân
Đông Nam Á:

Brunei 302 250 69


Indonesia 155 68 23
Kampuchia 128 9 2
Lào 145 10 4
Malaysia 434 172 158
Myanmar 96 6 9
Philippines 161 52 82
Singapore 744 388 298
Thái Lan 234 254 64
Việt Nam 107 47 4
Một số nước ở châu Á và châu Úc :
Nhật 956 686 578
Hàn Quốc 1.039 348 393
Trung Quốc 335 321 42
Ấn Độ 120 65 48
Úc 1.391 554 293
Một số nước công nghiệp ở Bắc Mỹ và châu Âu :
Mỹ 2.116 806 212

34
Canada 1.067 710 159
Anh 1.443 521 329
Pháp 946 595 201
Đức 948 567 305
Hà Lan 980 519 306
Ý 880 528 104
Liên bang Nga 417 410 105
Nguồn: United Nations, 2001 Statistical Yearbook, 45th issue,
New York; và số liệu về ấn bản nhật báo: World Bank, 2002
World Development Indicators, New York.

Ghi chú: - Rađiô và ti-vi: số liệu năm 1997.


- Ấn bản nhật báo: số liệu năm 1996; riêng Trung Quốc là số liệu
năm 1990.

ĐỊNH CHẾ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG

Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu xem thế nào là “định chế xã
hội”. Định chế xã hội (hay cũng còn gọi là “thiết chế xã hội” [social
institution]), hiểu theo nghĩa xã hội học, không phải là một nhóm
người cụ thể, cũng không phải là một tổ chức hay một hiệp hội, mà là
một thành tố (hay một tiểu hệ thống) của hệ thống xã hội. Mỗi định
chế bao gồm những vai trò, những giá trị và chuẩn mực mà mọi thành
viên đều thừa nhận. Nhà trường, chẳng hạn, là một định chế xã hội,
trong đó có vai trò nhà giáo, vai trò học sinh, vai trò hiệu trưởng... và
mỗi vai trò đều có một khuôn mẫu ứng xử nhất định. Khi nói tới một
trường trung học X nào đó, chúng ta coi “nhà trường” đó như một tổ

35
chức xã hội cụ thể ; nhưng khi nói tới “định chế nhà trường”, thì
chúng ta đề cập tới một tổng thể mẫu hình nhà trường (xét một cách
trừu tượng) trong một xã hội nhất định nào đó.
Định chế là một sản phẩm của đời sống xã hội. Mỗi định chế đáp
ứng những nhu cầu nhất định của xã hội. Nó được định hình theo thời
gian, khi mà một số ứng xử nào đó của con người được lập đi lập lại,
rồi dần dần biến thành nề nếp, tập quán, và cuối cùng trở thành những
chuẩn mực mà mọi người đều thừa nhận và tuân thủ. Như vậy, định
chế xã hội là một hệ thống các quan hệ xã hội đã được xác lập ổn định
trong đời sống xã hội.
Người ta thường phân biệt mấy loại định chế xã hội chính như
sau: các định chế kinh tế (liên quan tới các quá trình sản xuất và phân
phối các của cải và dịch vụ), các định chế chính trị (liên quan tới việc
phân bố và sử dụng quyền lực trong xã hội), các định chế thân tộc
(như hôn nhân, gia đình), và các định chế văn hóa (như giáo dục, tôn
giáo, phong tục, văn chương, nghệ thuật...).
Với sự ra đời và phát triển của báo chí, phát thanh và truyền hình
kể từ một hai thế kỷ trở lại đây, người ta thấy xuất hiện một định chế
xã hội mới, chưa hề có trong các xã hội cổ truyền, đó là định chế
truyền thông đại chúng. Xét về tính chất, định chế này nằm trong hệ
thống các định chế văn hóa.
Judith Lazar liệt kê ra một số đặc trưng tổng quát của định chế
truyền thông đại chúng như sau [xem Judith Lazar, sách đã dẫn, tr.
45]
Các phương tiện truyền thông đại chúng, xét về bản chất, chỉ hoạt
động trong lĩnh vực công cộng: xét về nguyên tắc, đây là định chế mở
rộng cửa cho tất cả mọi người, và nó chỉ quan tâm đề cập tới những
vấn đề hoặc những sự kiện có liên quan ít nhiều tới mọi thành viên

36
trong xã hội. Hiểu theo nghĩa này, một tờ báo khoa học chuyên sâu về
vật lý chẳng hạn có thể chỉ có tổng cộng chừng vài trăm độc giả trên
toàn thế giới, nhưng nó vẫn được coi là một tổ chức nằm trong định
chế truyền thông đại chúng, vì bất cứ ai cũng có thể đăng ký mua nó
được. Còn tờ nội san của một công ty đa quốc gia chẳng hạn có thể có
số lượng ấn bản lên tới vài chục ngàn, nhưng vì nó không được phát
hành ra công chúng một cách rộng rãi nên không thể coi nó như một
tổ chức nằm trong định chế truyền thông đại chúng, mà chỉ là một
phương tiện mang tính chất truyền thông tập thể.
Định chế truyền thông đại chúng hoàn toàn không mang tính chất
cưỡng bách đối với cá nhân, cá nhân có quyền tham gia hay không
tham gia vào đây. Người dân có quyền mua hay không mua một tờ
báo, xem hay không xem một bài báo hay một chương trình truyền
hình. Đồng thời, một đặc điểm nữa của truyền thông đại chúng mà
người ta có thể nói tới ở đây, đó là nó thường gắn liền với thời gian
rảnh rỗi và nhu cầu giải trí của người dân.
Truyền thông đại chúng là một ngành công nghiệp thực sự trong
xã hội: nó đã trở thành một nghề sử dụng nhiều lao động chuyên
nghiệp có những trình độ chuyên môn nhất định, có bộ máy tổ chức
chặt chẽ và hoạt động theo hướng chuyên môn hóa, cần nhiều vốn
liếng đầu tư về tiền của cũng như về kỹ thuật, và sản xuất ra cho xã
hội nhiều loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau.
Cuối cùng, vì đã được định chế hóa về mặt xã hội, nên hoạt động
của các phương tiện truyền thông đại chúng luôn luôn chịu sự chi phối
và ràng buộc bởi một số chuẩn mực và qui tắc nhất định ít nhiều chặt
chẽ hay lỏng lẻo tùy theo từng quốc gia, bao gồm những qui tắc thuộc
về hệ thống pháp luật nhà nước lẫn những qui tắc thuộc về nghề
nghiệp và đạo đức nghề nghiệp.
Những đặc trưng tổng quát nói trên của truyền thông đại chúng tất

37
nhiên sẽ có những điểm dị biệt tùy theo từng quốc gia, phụ thuộc vào
những môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội ở từng nước.
Nếu trong các xã hội cổ truyền, các định chế như gia đình hay nhà
trường là những định chế có chức năng xã hội hóa (nghĩa là giúp cho
các cá nhân hội nhập được vào xã hội) trong một giai đoạn nhất định
trong cuộc đời của mỗi cá nhân, thì trong xã hội hiện đại, định chế
truyền thông đại chúng làm chức năng xã hội hóa trong suốt cả cuộc
đời của các cá nhân.
Thông thường, người ta coi định chế truyền thông đại chúng có
chức năng đáp ứng hai nhu cầu chính của người dân là nhu cầu thông
tin và nhu cầu giải trí.
Nhưng xét về mặt xã hội học, điều còn có ý nghĩa sâu xa và quan
trọng hơn là định chế này tạo ra một không gian công cộng trong xã
hội dân sự, trong đó mỗi công dân, về nguyên tắc, được xác lập quyền
thông tin và quyền được thông tin về bất cứ chuyện gì xảy ra trong xã
hội có liên quan đến quyền lợi và vận mệnh của mình. Như vậy, theo
ý nghĩa này, định chế truyền thông đại chúng là một định chế độc đáo
của một xã hội dân chủ đặt cơ sở trên một nhà nước pháp quyền, vốn
là những đặc trưng chỉ có trong các xã hội hiện đại. Chúng ta không
thể hình dung ra được một chế độ dân chủ nếu thiếu các phương tiện
truyền thông đại chúng. Nói cách khác, có thể xem đây là một định
chế tuy tự bản thân nó chỉ mang tính chất truyền thông và văn hóa,
nhưng lại có những hệ lụy và những mối quan hệ tương tác hết sức
quan trọng đối với các định chế chính trị lẫn các định chế kinh tế và
xã hội khác.

XÃ HỘI HỌC VỀ TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG


Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu phong phú về

38
truyền thông đại chúng, từ những công trình nghiên cứu về báo chí từ
góc độ sử học, những công trình điều tra nghiên cứu về các giới công
chúng độc giả và khán thính giả dưới góc độ tâm lý học xã hội, cho tới
những công trình phân tích nội dung về các thông điệp của truyền
thông đại chúng theo cách tiếp cận của ngôn ngữ học, của ngôn ngữ
học xã hội…

Sơ đồ 4. Những lĩnh vực nghiên cứu của bộ môn xã hội học truyền
thông đại chúng

Nghiên cứu xã hội học về truyền thông đại chúng

Công Các nhà Nội dung Ảnh hưởng


chúng truyền thông truyền thông xã hội

Nghiên cứu Nghiên cứu về Phân tích nội Nghiên cứu


về công đặc điểm và dung truyền về ảnh
chúng của hoạt động của thông (thực hưởng xã hội
các phương các nhà truyền nghiệm, và tín của truyền
tiện truyền thông hiệu học) thông đại
thông đại chúng
chúng

Nguồn: Chúng tôi lấy lại sơ đồ của Judith Lazar (Sociologie de la


communication de masse, Paris, Armand Colin, 1991, tr. 76), nhưng
có bổ sung thêm phần nghiên cứu về “các nhà truyền thông”.

Riêng trong lĩnh vực xã hội học, truyền thông đại chúng được
nghiên cứu như một quá trình xã hội, và các phương tiện truyền thông
đại chúng được khảo sát và phân tích dưới góc độ định chế xã hội.

39
Hay nói ngắn gọn như Alphons Silbermann, một trong những nhiệm
vụ quan trọng nhất của ngành xã hội học trong lĩnh vực này là tìm
cách làm sáng tỏ mối liên hệ giữa truyền thông đại chúng và xã hội.
Silbermann cho rằng xã hội học về truyền thông đại chúng là bộ môn
chuyên phân tích về hiện tượng truyền thông đại chúng và ý nghĩa của
truyền thông đại chúng đối với cuộc sống của xã hội [Alphons
Silbermann, sách đã dẫn, tr. 9].
Trong bộ môn xã hội học về truyền thông đại chúng, người ta
thường phân biệt mấy lĩnh vực nghiên cứu chính như sau: nghiên cứu
về công chúng của các phương tiện truyền thông đại chúng (khảo sát
về các đặc điểm và ứng xử của các giới độc giả và khán thính giả của
báo chí, phát thanh, truyền hình); nghiên cứu về các tổ chức truyền
thông và hoạt động của các nhà truyền thông; phân tích nội dung các
thông điệp truyền thông (bao gồm hai phương pháp chính là phương
pháp phân tích thực nghiệm, và phương pháp phân tích tín hiệu học);
nghiên cứu về ảnh hưởng hay tác động xã hội của các phương tiện
truyền thông đại chúng (xem sơ đồ 4).
Trong số các lĩnh vực nghiên cứu đó, thì những công trình nghiên
cứu về ảnh hưởng xã hội của truyền thông đại chúng thường được chú
ý và gây ra nhiều tranh luận hơn hết. Trong lĩnh vực này, người ta
thường đặt những câu hỏi như: các phương tiện truyền thông ảnh
hưởng thế nào đối với hành vi và ứng xử của các thành viên xã hội ?
Vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng trong việc rèn
luyện và giáo dục các lứa tuổi thanh thiếu niên; quan hệ giữa truyền
thông đại chúng và quá trình xã hội hóa, vai trò của truyền thông đại
chúng trong quá trình hình thành ý thức xã hội ? Các phương tiện
truyền thông đại chúng có phải là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo
lực ngày càng gia tăng trong xã hội hay không?...

40
Một số điểm cần lưu ý và ghi nhớ trong Chương 2:
- Lịch sử ra đời các phát minh kỹ thuật và quá trình hình thành
các phương tiện truyền thông đại chúng.
- Các khái niệm “định chế xã hội”, và “định chế truyền thông đại
chúng”.
- Những đặc trưng của định chế truyền thông đại chúng.
- Đối tượng của bộ môn xã hội học về truyền thông đại chúng.
Câu hỏi ôn tập:
1. Hãy cho biết một cách khái quát lịch sử ra đời của báo in trên
thế giới.
2. Những phát minh kỹ thuật có ảnh hưởng thế nào đối với sự hình
thành của các phương tiện truyền thông đại chúng?
3. Thế nào là “định chế truyền thông đại chúng”?
4. Hãy trình bày vắn tắt những đặc trưng tổng quát của định chế
truyền thông đại chúng trong xã hội hiện đại.
5. Đâu là những lĩnh vực nghiên cứu chính của bộ môn xã hội
học về truyền thông đại chúng?

Câu hỏi thảo luận nhóm:


(hoặc tự mình trả lời bằng cách tìm đọc thêm tài liệu)

1. Các phương tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò thế nào
đối với một quốc gia đang phát triển?
2. Hãy thử nêu một số chức năng xã hội của báo chí trong lịch sử
Việt Nam (tham khảo thêm bài của Trần Hữu Quang, “Những chức
năng xã hội của báo chí trong lịch sử Sài Gòn thời Pháp thuộc”, tạp

41
chí Xã hội học, số 3&4, 1999, tr. 32-38.)

42

You might also like