You are on page 1of 108

TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC


CÁC NGUYÊN TẮC NGHIÊN CỨU TÂM LÝ NGƯỜI
1. Nguyên tắc quyết định luận
Bất kỳ một sự biểu hiện tâm lý nào của con người cũng có nguyên nhân tạo ra nó, có cái quyết
định nó. Nguyên nhân hay cái quyết định tâm lý người có thể hoặc từ chính chủ thể ấy hoặc từ môi trường
bên ngoài. Đây là nguyên tắc thể hiện rõ nhất quan điểm duy vật biện chứng về bản chất của hiện tượng
tâm lý người. Tâm lý người mặc dù có tiền đề vật chất từ não nhưng không đồng nghĩa bộ não quyết
định toàn bộ nội dung, tính chất các biểu hiện tâm lý người. Tâm lý người có nguồn gốc từ hiện thực
khách quan và chính kinh nghiệm lịch sử xã hội là chất liệu tạo nên nội dung của tâm lý người. Thế
nhưng cái quyết định sự hình thành và biểu hiện tâm lý người chính là hoạt động của chủ thể đó. Con
người không chỉ là một thực thể tự nhiên mà còn là thực thể xã hội, văn hóa, do đó sự phát triển của các
hiện tượng tâm lý được quy định bởi các quy luật xã hội và quyết định thông qua chủ quan mỗi người.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi nghiên cứu tâm lý cần phải tìm được nguyên nhân và kết quả của
những biểu hiện tâm lý người, từ đó đề ra những biện pháp hữu hiệu để tác động, phát triển tâm lý người.
2. Nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý, ý thức, nhân cách với hoạt động (Nguyên tắc hoạt động)
Tâm lý, ý thức và những phẩm chất nhân cách con người chỉ có thể hình thành và phát triển thông
qua hoạt động (vui chơi, học tập, lao động, giao tiếp), đồng thời một khi đã hình thành và phát triển thì
nó tác động ngược trở lại hoạt động. Tâm lý người chính là sản phẩm, là kết quả của hoạt động của con
người trong đời sống xã hội. Do vậy, tìm hiểu tâm lý người, giải thích đúng bản chất của nó chỉ có thể
đạt được khi đặt trong hoạt động để nghiên cứu.
3. Nguyên tắc phát triển
Tâm lý con người nảy sinh, vận động và phát triển theo chiều dài phát triển của xã hội cũng như
của lịch sử cá nhân người đó. Khi nghiên cứu tâm ý người phải nhìn nhận chúng trong sự vận động phát
triển. Sự phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách phụ thuộc vào nội dung tính chất của các hoạt động mà con
người tham gia vào.
4. Nguyên tắc hệ thống cấu trúc
Các hiện tượng tâm lý không tồn tại một cách độc lập riêng rẽ mà chúng có quan hệ chặt chẽ với
nhau và với các hiện tượng tự nhiên, xã hội khác. Khi một yếu tố thay đổi dù bên trong hay bên ngoài
đều dẫn tới sự thay đổi của một biểu hiện tâm lý khác. Vì vậy, khi nghiên cứu tâm lý phải đặt chúng
trong một hệ thống các hiện tượng tâm lý khác, trong toàn bộ nhân cách của con người, trong toàn bộ
bối cảnh hệ thống xã hội mà con người đang tồn tại. Khi ấy người nghiên cứu mới nhận thấy được sự
tương tác, nguyên nhân, kết quả của các biểu hiện tâm lý khác nhau.
HOẠT ĐỘNG
Khái niệm hoạt động

❖ Hoạt động là mối quan hệ


tác động qua lại giữa con
người và thế giới (khách thể)
để tạo ra sản phẩm cả về
phía thế giới, cả về phía con
người (chủ thể)

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Xuất tâm (Khách thể hóa)
Con người Thế giới
Nhập tâm (Chủ thể hóa)

Hoạt động của con người vừa tạo ra


sản phẩm về phía thế giới, vừa tạo ra
tâm lý của bản thân.

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

HOẠT ĐỘNG VÀ GIAO TIẾP


PHÂN LOẠI HOẠT ĐỘNG
Có thể thấy rằng hoạt động là một phạm trù phức tạp cho nên cũng có nhiều cách phân loại khác
nhau. Mỗi cách phân loại đều có thể dựa trên tiêu chí khác nhau nhưng hướng đến việc chỉ rõ hoạt động
được nhìn nhận một cách cụ thể ra sao. Có thể thấy các cách phân loại hoạt động sau:
* Xét theo tiêu chí phát triển cá thể:
Xét theo tiêu chí này có thể nhận thấy con người có bốn loại hoạt động cơ bản: vui chơi, học tập,
lao động và hoạt động xã hội.
Cách phân chia này tuy đơn giản nhưng có thể bao trùm tất cả những gì diễn ra trong hoạt động
của con người. Lẽ đương nhiên, cách phân chia này cũng bộc lộ hạn chế là ranh giới giữa chúng không
rõ ràng vì các hoạt động có thể chứa trong nhau, giao thoa nhau. Tuy vậy, cách phân loại này đem lại ý
nghĩa thiết thực trong cuộc sống và nó khá gần gũi với đời sống thực tế của con người.
* Xét theo tiêu chí sản phẩm (vật chất hay tinh thần):
Xét theo tiêu chí này, có thể chia hoạt động thành hai loại: hoạt động thực tiễn và hoạt động lý
luận. Hoạt động thực tiễn là hoạt động hướng vào các vật thể hay quan hệ tạo ra sản phẩm vật chất là
chủ yếu. Hoạt động lý luận được diễn ra với hình ảnh, biểu tượng, khái niệm tạo ra sản phẩm tinh thần.
Cách phân chia này dựa trên đặc điểm của sản phẩm nhưng một số sản phẩm lại hàm chứa cả yếu
tố vật chất và tinh thần. Vì vậy, cách phân loại này cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối mà thôi.
* Xét theo tiêu chí đối tượng hoạt động:
Theo tiêu chí này, người ta chia ra các loại sau: hoạt động biến đổi, hoạt động nhận thức, hoạt
động định hướng giá trị và hoạt động giao lưu.
Hoạt động biến đổi là những hoạt động hướng đến thay đổi hiện thực (tự nhiên, xã hội, con người)
như hoạt động lao động, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động giáo dục.
Hoạt động nhận thức là hoạt động tinh thần, phản ánh thế giới khách quan. Tuy vậy, hoạt động
này chỉ dừng ở mức tìm hiểu, nhận biết thế giới hiện thực mà không phải là biến đổi hiện thực.
Hoạt động định hướng giá trị là hoạt động tinh thần nhằm xác định ý nghĩa thực tại với bản thân
chủ thể tạo ra phương hướng của hoạt động.
Hoạt động giao lưu là hoạt động thiết lập mối quan hệ giữa người với người trong cuộc sống.
GIAO TIẾP
Khái niệm giao tiếp

❖ Là sự tiếp xúc tâm lý giữa


người với người. Qua đó con
người trao đổi thông tin, cảm
xúc, tác động qua lại và ảnh
hưởng lẫn nhau mà trong đó
giao tiêp xác lập và vận hành
các mối quan hệ

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng của giao tiếp

Phối hợp Điều chỉnh


Thông tin Cảm xúc Nhận thức Giáo dục
hành động hành vi

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng của thông tin

TRUYỀN
THÔNG

Thỏa mãn
Kinh
mục đích Thông tin Kiến thức
nghiệm
giao tiếp

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Nguồn phát
thông tin

Nguồn thu
thông tin

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng tổ chức, điều khiển Thống Nhất

Trao đổi, Bàn bạc


Hiệu Quả

Phối hợp nhịp nhàng

Đạt mục tiêu


Phân công công việc
giao tiếp

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng điều khiển, điều chỉnh

Điều chỉnh hành vi


của mình Mục đích

Động cơ

ME Quyết định YOU

Điều khiển hành vi của Hành động


người khác

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng xúc cảm

Biểu lộ Nhận biết


Thỏa mãn
nhu cầu giao tiếp
Thái độ
Xúc cảm
Tâm trạng

Quan điểm Tình cảm con người Tình cảm

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng nhận thức và đánh giá

Tri thức

Người khác Bản thân

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng nhận thức và đánh giá

Tự nhận thức
TIẾP THU
ĐÁNH GIÁ Đối chiếu
Tự đánh giá lại

Tự điều chỉnh

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng giáo dục và phát triển nhân cách

Tự nhận thức
TIẾP THU HÌNH THÀNH
ĐÁNH GIÁ Đối chiếu VÀđánh
PHÁT
Tiếp nhận Tự giáTRIỂN
lại
Giao tiếp kinh nghiệm, TOÀN DIỆN
hình thành chuẩn mực
phát triển
phẩm chất Tự điều chỉnh

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN


TÂM LÝ, Ý THỨC
KHÁI NIỆM Ý THỨC

Theo nghĩa thông thường, ý thức dùng để chỉ những thái độ hay ứng xử của con người mà họ nhận
biết được tính chất hợp lý, đúng đắn dựa trên sự tuân thủ những quy định của pháp luật hay chuẩn mực,
yêu cầu của các nhóm xã hội, cộng đồng. Ý thức theo nghĩa này là có hiểu biết, tự giác và hành động phù
hợp. Chẳng hạn như, ý thức chấp hành luật giao thông, ý thức được tính chất quan trọng của kỳ thi tuyển
sinh đại học…là những biểu hiện của sự hiểu biết và tính tự giác của ý thức.
Dưới góc độ Triết học, ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản, đối lập của phạm trù vật chất.
Triết học Marx - Lenin coi ý thức là tính thứ hai, có sau vật chất và do vật chất quyết định, ý thức là tồn
tại được nhận thức.
Dưới góc độ Tâm lý học, ý thức là hiện tượng tâm lý của con người cụ thể, là mức độ phản ánh
tâm lý cao nhất trong các hình thức phản ánh tâm lý. Con người nhờ hệ thống tín hiệu thứ hai đã tách các
đối tượng của hiện thực ra khỏi hoạt động trực tiếp để hiểu biết gián tiếp và khái quát, đầy đủ và sâu sắc
hơn. Từ đó hình dung trước và lập kế hoạch hợp lý cho hành động để điều khiển hành động có mục đích
của con người đạt chất lượng cao.
Hiện thực khách quan tác động vào não, làm nảy sinh những hình ảnh tâm lý (phản ánh tâm lý).
Hình ảnh tâm lý này lại trở thành đối tượng của sự phản ánh tiếp theo, phản ánh lần hai (phản ánh lại
những gì đã phản ánh). Nói khác đi, ý thức là phản ánh của phản ánh.
Phản ánh tâm lý cho con người nhận thức (hiểu biết) về hiện thực xung quanh. Từ những hiểu biết
này con người sàng lọc và suy luận từ những hiểu biết đã có để đi đến những hiểu biết cao hơn, rộng
hơn, đầy đủ và bao quát hơn…Như vậy, ý thức là hiểu biết của hiểu biết (nhận thức của nhận thức).
Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ riêng con người mới có, phản ánh bằng ngôn
ngữ, là khả năng con người hiểu được những tri thức mà con người đã tiếp thu được
CÁC QUY LUẬT CỦA
CẢM GIÁC
Các quy luật của cảm giác

a. Quy luật ngưỡng cảm giác

Ngưỡng cảm giác là giới hạn của


cường độ mà ở đó kích thích gây ra
được cảm giác.

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Ngưỡng cảm giác phía dưới và
ngưỡng cảm giác phía trên

❖ Ngưỡng cảm giác phía dưới là cường độ tối


thiểu cần để gây ra được một cảm giác
❖ Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ tối đa
mà ở đó còn gây ra được cảm giác.
❖ Cường độ kích thích nằm giữa ngưỡng trên và
ngưỡng dưới gọi là vùng cảm giác được.

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Ngưỡng sai biệt
❖ Ngưỡng sai biệt là mức độ khác biệt
tối thiểu về cường độ hoặc tính chất
của hai kích thích để có thể phân biệt
sự khác nhau giữa chúng
Ngưỡng cảm giác phía dưới càng thấp
thì độ nhạy cảm của cảm giác càng cao
Ngưỡng sai biệt càng thấp thì tính nhạy cảm
sai biệt càng cao và ngược lại
b. Quy luật thích ứng
của cảm giác
Thích ứng là khả năng thay đổi
độ nhạy cảm của cảm giác cho
phù hợp với sự thay đổi của
cường độ kích thích.
❖ Khi cường độ kích thích tăng
thì độ nhạy cảm giảm.
❖ Khi cường độ kích thích
giảm thì độ nhạy cảm tăng.
❖ Cảm giác mất dần đi khi kích
thích kéo dài
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
b. Quy luật thích ứng
của cảm giác

❖ Khả năng thích ứng của các loại cảm


giác là do rèn luyện mà có
❖ Tính nhạy cảm giảm nhiều thì cảm
giác của con người sẽ trở nên chai sạn

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
c. Quy luật tác động
lẫn nhau của cảm giác
❖ Cảm giác không chỉ phụ thuộc
vào tính chất của vật kích thích,
vào khả năng thích ứng của giác
quan mà còn phụ thuộc vào tác
động qua lại của các cảm giác
khác, cũng như chịu sự chi phối
của toàn bộ nhân cách. Nói khác
đi mọi cảm giác con người không
tồn tại biệt lập, tách rời mà chúng
tác động qua lại, thống nhất và bổ
sung cho nhau
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
c1. Quy luật tác động lẫn nhau của cảm giác khác loại

Kích thích

Yếu Mạnh

Cơ quan cảm giác 1 Cơ quan cảm giác 2

Tăng độ nhạy cảm Giảm độ nhạy cảm


của cơ quan cảm của cơ quan cảm
giác khác giác khác

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
c1. Quy luật tác động
lẫn nhau của cảm giác
khác loại

❖ Kích thích đặc thù cho một loại


giác quan này có thể gây ra
cảm giác đặc thù cho một loại
giác quan kia => Chuyển Nhìn
màu đỏ, ngửi thấy mặn…
❖ Nhà sạch thì mát, bát sạch
ngon cơm

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
c2. Quy luật tác động lẫn nhau
giữa các cảm giác cùng loại
(Quy luật tương phản)
❖ Sự tương phản là sự thay đổi cường độ
hoặc chất lượng của cảm giác dưới ảnh
hưởng của một kích thích cùng loại xảy
ra trước đó hoặc đồng thời.
❖ Tương phản đồng thời: Tương phản
đồng thời là sự thay đổi cường độ và
chất lượng của cảm giác dưới ảnh hưởng
của một kích thích cùng loại xảy ra đồng
thời.
❖ Tương phản nối tiếp: Tương phản nối
tiếp là sự thay đổi cường độ và chất
lượng của cảm giác dưới ảnh hưởng của
một kích thích cùng loại xảy ra trước đó.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
PHÂN LOẠI TRI GIÁC
Phân loại tri giác

❖ Căn cứ vào cơ quan phân tích:


❖ Tri giác nhìn
❖ Tri giác nghe
❖ Tri giác ngửi
❖ Tri giác nếm
❖ Tri giác sờ mó v.v...

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Tri giác không chủ định: là kiểu tri giác
không theo mục đích, không theo một trình
tự định trước. Kiểu tri giác này do tác động
môi trường bên ngoài, hứng thú, sở thích,
xúc cảm - tình cảm của cá nhân chi phối.

Căn cứ vào tính mục đích


khi tri giác
Tri giác có chủ định: là kiểu tri giác theo
mục đích, theo một trình tự nhất định.
Quan sát là hình thức tích cực nhất của tri
giác có chủ định và thể hiện rõ khả năng
tri giác của con người.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Căn cứ theo đối tượng khi tri giác

Tri giác thuộc tính không


gian của đối tượng

Tri giác thời gian

Tri giác vận động

Tri giác con người

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
a. Tri giác không gian
❖ Tri giác không gian là sự phản ánh
khoảng không gian tồn tại khách
quan: hình dáng, hình khối, độ lớn,
chiều sâu, độ xa, vị trí, phương
hướng của các vật trong không gian.
❖ Có vai trò quan trọng trong sự tác
động qua lại của con người với môi
trường, là điều kiện cần thiết để con
người định hướng trong môi trường.
=> Tri giác không gian có thể sai lầm,
tri giác không đúng về độ lớn, độ xa,
hình dáng…

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
b. Tri giác thời gian

❖ Tri giác thời gian là sự phản ánh độ


dài lâu, tốc độ và tính kế tục khách
quan của các hiện tượng trong hiện
thực. Nhờ tri giác này, con người
phản ánh được các biến đổi trong
thế giới khách quan

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
b. Tri giác thời gian
❖ Chỉ có những khoảng thời gian
ngắn mới đc thời gian 1 cách chính
xác và trực tiếp.
❖ Tri giác thời gian phụ thuộc vào
nhiều yếu tố ( có thể sai lầm - ảo
giác): Nội dung hoạt động, nhu
cầu, hứng thú, tâm trạng, lứa tuổi,
kinh nghiệm…khi hồi tưởng quá
khứ thường nhanh, nhưng nhìn về
tương lai thường là chậm.
❖ Khả năng ước đoán chính xác thời
gian là 1 phẩm chất quan trọng
nhất là với giáo viên
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
c. Tri giác vận động
❖ Tri giác vận động là sự phản
ánh những biến đổi về vị trí của
các sự vật trong không gian.
❖ Trong thực tế chúng ta không tri
giác được những chuyển động
quá nhanh hay quá chậm…
thông tin thu đc về sự thay đổi
của sự vật bằng cách suy luận.
❖ Tri giác vận động có thể sai
lầm… nó phụ thuộc vào khoảng
cách từ vật đến ta, vào kinh
nghiệm và thói quen.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
d. Tri giác con người

❖ Tri giác con người là một quá


trình nhận thức (phản ánh) lẫn
nhau của con người trong
những điều kiện giao lưu trực
tiếp. Đây là tri giác đặc biệt vì
đối tượng của tri giác cũng là
con người.

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC


TRÍ NHỚ
VAI TRÒ TRÍ NHỚ

Trí nhớ có vai trò to lớn trong đời sống và hoạt động của con người. Trí nhớ giúp con người xác
định phương hướng để thích nghi với ngoại giới. Nhờ có ghi nhớ mà con người tích lũy được những kinh
nghiệm, nhờ có nhận lại và nhớ lại mà ta có thể đem những kinh nghiệm đó ứng dụng vào thực tế cuộc
sống.
Trí nhớ giúp con người học tập, tư duy và hiểu biết thế giới. Nếu không có trí nhớ thì con người
lúc nào cũng như đứa trẻ mới sinh ra.
Những người bị rối loạn về trí nhớ rất khó khăn trong đời sống và hoạt động và hoạt động nhận
thức không đạt được hiệu quả.
Trí nhớ có vai trò quan trọng với tư duy sáng tạo và tư duy phản biện, khả năng nhớ vá tái hiện
lại thông tin linh hoạt để giải quyết vấn đề. Khả năng nhớ được những gì cần phải nhớ, tập các quên
những gì không nên nhớ cũng giúp cuộc sống trở nên cân bằng, nhiều năng lượng tích cực.

Một số kỹ thuật ghi nhớ hiệu quả (sieutrinhohocduong.com.vn)

Sở hữu một trí nhớ tốt giúp phát triển bản thân và mang lại sự tự tin
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC


NGÔN NGỮ
1. Khái niệm chung về ngôn ngữ
1.1. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là hiện tượng lịch sử - xã hội nảy sinh trong hoạt động thực tiễn của con người. Trong
quá trình cùng nhau lao động, loài người cổ xưa có nhu cầu trao đổi ý nghĩ, dự định, nguyện vọng, tâm
tư tình cảm... Nhờ đó đến một giai đoạn phát triển nhất định đã xuất hiện những dấu hiệu quy ước chung
để giao tiếp, trong đó có những dấu hiệu âm thanh, từ những tín hiệu này dần dần tạo thành từ ngữ và
một hệ thống quy tắc ngữ pháp, đó chính là ngôn ngữ. Vậy ngôn ngữ là gì?
Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu từ ngữ đặc biệt dùng làm phương tiện giao tiếp và làm công cụ
tư duy. Kí hiệu từ ngữ là một hiện tượng tồn tại khách quan trong đời sống tinh thần của con người, là
một hiện tượng của nền văn hoá tinh thần của loài người, một phương tiện đặc biệt của xã hội loài người.
Kí hiệu từ ngữ là một hệ thống, trong đó mỗi kí hiệu chỉ có ý nghĩa và thực hiện một chức năng nhất
định ở trong hệ thống của mình.
Ngôn ngữ gồm ba bộ phận: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Các đơn vị của ngôn ngữ là âm vị, hình
vị, từ, câu, ngữ đoạn, văn bản.... Bất cứ ngôn ngữ của dân tộc nào cũng chứa đựng phạm trù ngữ pháp
và phạm trù lôgic. Phạm trù ngữ pháp là một hệ thống các quy định việc thành lập từ và câu, quy định
sự phát âm. Phạm trù ngữ pháp ở các ngôn ngữ khác nhau là khác nhau. Phạm trù lôgic là quy luật,
phương pháp tư duy đúng đắn của con người, vì vậy tuy dùng các ngôn ngữ (tiếng nói) khác nhau, nhưng
các dân tộc khác nhau vẫn hiểu được nhau. Ngôn ngữ có tác động thay đổi hoạt động tinh thần, hoạt động
trí tuệ, hoạt động bên trong của con người. Nó hướng vào và làm trung gian hoá cho các hoạt động tâm
lí cấp cao của con người như tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng... Ngôn ngữ do cá nhân tiến hành có
thể có những xu hướng, mục đích khác nhau nhằm truyền đạt một thông báo mới, những tri thức mới,
giải quyết một nhiệm vụ tư duy mới...
Ngôn ngữ của mỗi cá nhân phát triển cùng với năng lực nhận thức của cá nhân đó và bao giờ cũng
mang dấu ấn của những đặc điểm tâm lí riêng. Song ngôn ngữ của mỗi cá nhân không chỉ phản ánh nghĩa
của các từ mà còn phản ánh cả thái độ của bản thân đối với đối tượng của ngôn ngữ và đối với người
đang giao tiếp. Việc nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ trong quá trình phát triển cá thể là nhiệm vụ của
Tâm lí học. Vì thế ngôn ngữ là một hoạt động tâm lí, là đối tượng của tâm lí học. Ngôn ngữ đặc trưng
cho từng người. Sự khác biệt cá nhân về ngôn ngữ thể hiện ở cách phát âm, ở giọng điệu, cách dùng từ,
cách biểu đạt nội dung tư tưởng, tình cảm.
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

1.2. Các chức năng cơ bản của ngôn ngữ


* Chức năng chỉ nghĩa:
Chỉ nghĩa là quá trình dùng một từ, một câu đều chỉ một nghĩa nào đó, tức là quá trình gắn từ đó,
câu đó với một sự vật, hiện tượng (ví dụ từ "cái bút" chỉ một vật dùng để viết, vẽ...).
* Chức năng thông báo:
Mỗi quá trình ngôn ngữ đều chứa đựng một nội dung thông tin, sự biểu cảm dùng để truyền đạt
từ người này tới người kia, hay tự mình nói với bản thân mình bằng ngôn ngữ thầm.
* Chức năng điều khiển, điều chỉnh:
Con người trong quá trình giao tiếp nhận được thông tin từ người khác và cũng phát ra thông tin
cho người khác. Nhận được thông tin ấy, con người thường kịp thời điều chỉnh hành vi, hoạt động của
mình cho phù hợp với nội dung thông tin đó và hoạt động của bản thân. Đồng thời ngôn ngữ có chức
năng thiết lập và giải quyết các nhiệm vụ của hoạt động (trong đó có hoạt động trí tuệ). Nó bao gồm việc
kế hoạch hóa hoạt động, thực hiện hoạt động và đối chiếu kết quả hoạt động với mục đích đã đề ra. Trong
ba chức năng của ngôn ngữ nêu trên, chức năng thông báo là chức năng cơ bản nhất. Chỉ trong quá trình
giao tiếp con người mới thu nhận được các tri thức, do đó một điều chỉnh được hành vi của mình cho
thích hợp với hoàn cảnh sống. Còn chức năng chỉ nghĩa là điều kiện để thực hiện hai chức năng trên.
2. Các dạng hoạt động ngôn ngữ
Căn cứ vào những dấu hiệu khác nhau ta có thể phân loại các dạng hoạt động ngôn ngữ theo nhiều
cách. Ở đây chúng ta phân loại theo tính chất xuất tâm hay nhập tâm của ngôn ngữ: ngôn ngữ bên ngoài
và ngôn ngữ bên trong.
a. Ngôn ngữ bên ngoài
Ngôn ngữ bên ngoài là loại ngôn ngữ chủ yếu hướng vào người khác, nhằm mục đích giao tiếp.
Ngôn ngữ bên ngoài bao gồm: ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
* Ngôn ngữ nói:
Ngôn ngữ nói có sớm nhất, biểu hiện bằng âm thanh và được tiếp thu bằng cơ quan thính giác. Có
hai loại ngôn ngữ nói: ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại.
- Ngôn ngữ đối thoại: là hình thức có sớm nhất ở loài người. Đối thoại diễn ra giữa hai người hay
một nhóm người. Đối thoại là hình thức ngôn ngữ đơn giản nhất, nó có những đặc điểm sau:
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
+ Có tính chất tình huống, nghĩa là ngôn ngữ trong khi đối thoại liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh
diễn ra cuộc trao đổi. Nó nảy sinh, được duy trì và kết thúc tùy theo hoàn cảnh cụ thể đó. Câu nói trong

đối thoại thường ở dạng rút gọn nhờ có sự hỗ trợ của những phương tiện phi ngôn ngữ như ánh mắt, cử
chỉ, điệu bộ, nét mặt, nụ cười.
+ Ít có tính chủ định và thường bị động. Những lời đối đáp trong đối thoại thường có tính chất
phản ứng. Câu nói của người này ở chừng mực nào đó do câu nói của người kia quy định, đồng thời nó
làm nảy sinh ở người kia câu nói tiếp theo.
+ Cấu trúc của ngôn ngữ đối thoại thường không thật chặt chẽ. Những lời đối đáp trong đối thoại
thường không có chương trình định trước, cấu trúc của biểu đạt thường đơn giản cho nên trong ngôn ngữ
đối thoại vừa có nhiều từ được rút gọn, đồng thời có thêm những từ đệm, những câu rườm rà. Những đặc
điểm này làm cho người tham gia đối thoại đỡ gặp khó khăn trong khi vận dụng ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ độc thoại: là loại ngôn ngữ được phát triển từ ngôn ngữ đối thoại. Ngôn ngữ độc thoại
diễn ra trong hoàn cảnh giao tiếp giữa một người nói liên tục và những người khác nghe. Ngôn ngữ độc
thoại đòi hỏi người nói phải đáp ứng những yêu cầu sau: Người nói phải có sự chuẩn bị kĩ càng, chu đáo
về chương trình, nội dung, lời nói phải chính xác, dễ hiểu. có khả năng truyền cảm. Trong khi nói phải
theo dõi người nghe để làm sáng tỏ những vấn đề người nghe chưa rõ, điều chỉnh ngôn ngữ của mình
cho phù hợp với đối tượng. Người nói phải tận dụng khả năng truyền cảm của giao tiếp không lời như
âm điệu, nhịp điệu, cường độ giọng nói, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ một cách phù hợp.
* Ngôn ngữ viết:
Ngôn ngữ viết ra đời muộn hơn ngôn ngữ nói, là biến dạng của ngôn ngữ độc thoại. Ngôn ngữ
viết nảy sinh do nhu cầu giao tiếp của những người ở cách xa nhau và để lưu trữ, truyền đạt kinh nghiệm
của thế hệ trước cho thế hệ sau. Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ được biểu hiện bằng kí hiệu, tín hiệu, chữ
viết. Ngôn ngữ viết có những đặc điểm sau: Ngôn ngữ viết đòi hỏi phải lựa chọn những từ diễn đạt sáng
sủa, chính xác ý nghĩ của người viết. Các câu, các ý phải tuân theo một trình tự lôgic rất chặt chẽ, hợp lí.
Ngôn ngữ viết là dạng ngôn ngữ có tính chủ định nhất. Những điều viết ra phải thể hiện được nội
dung cần diễn đạt. Trong trường hợp chưa đạt yêu cầu đó, người viết phải viết lại. Sự lựa chọn như vậy
thường kết hợp với việc sử dụng ngôn ngữ bên trong (nghĩ rồi mới viết ra).
b. Ngôn ngữ bên trong
Đây là một dạng đặc biệt của ngôn ngữ, nó hướng vào bản thân chủ thể. Ngôn ngữ bên trong là
vỏ từ ngữ của tư duy, của ý thức, giúp con người tự điều khiển, tự điều chỉnh mình. Ngôn ngữ bên trong
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
có thể biểu hiện qua ngôn ngữ thầm, không phát ra âm thanh, rút gọn và cô đọng. Nhiều thành phần trong
câu bị lược đi, thường chỉ còn lại những từ chủ yếu như chủ ngữ hoặc vị ngữ, tương tự như văn phong

của điện báo. Ngoài ra ngôn ngữ bên trong tồn tại như những hình ảnh thị giác, thính giác và vận động -
ngôn ngữ của các từ mà con người hoàn toàn không nói ra.
Ở trẻ em, ngôn ngữ bên trong được hình thành trên cơ sở ngôn ngữ bên ngoài do quá trình nội
tâm hóa hoạt động tâm lí. Trẻ em 3 tuổi sau khi nắm được một số từ và câu, thường tự nói thành tiếng
với mình. Đó là biểu hiện của bước quá độ chuyển ngôn ngữ vào bình diện bên trong. Sau đó trẻ có khả
năng chuyển ngôn ngữ bên trong thành ngôn ngữ bên ngoài để diễn đạt ý nghĩ và tình cảm của mình. Khi
chuyển từ ngôn ngữ bên ngoài thành ngôn ngữ bên trong, trẻ thường trải qua thời kì độc thoại hay đối
thoại với chính mình dưới dạng ngôn ngữ chưa rút gọn, vẫn gọi là ngôn ngữ bên ngoài, mặc dù không
thành tiếng. Tiếp đó mới chuyển thành ngôn ngữ bên trong thể hiện qua ngôn ngữ thầm, không phát ra
âm thanh, rút gọn và cô đọng. Các dạng hoạt động ngôn ngữ trên đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ
trợ cho nhau và có thể chuyển hóa cho nhau. Chất lượng của các dạng hoạt động ngôn ngữ tùy thuộc vào
sự rèn luyện tích cực của mỗi cá nhân trong hoạt động và giao tiếp.
3. Vai trò của ngôn ngữ đối với hoạt động nhận thức
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của con người. Nhờ sự tham gia của
ngôn ngữ vào việc tổ chức, điều chỉnh các hoạt động tâm lí mà tâm lí của con người mang tính mục đích,
tính xã hội và tính khái quát cao. Ngoài chức năng là công cụ của giao tiếp, ngôn ngữ còn là công cụ của
tư duy và có ảnh hưởng quan trọng tới toàn bộ hoạt động nhận thức của con người
a. Vai trò của ngôn ngữ đối với cảm giác và tri giác
Dưới tác động của ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ bên trong có thể làm thay đổi ngưỡng cảm giác,
tính nhạy cảm của cảm giác, hoặc có thể gây nên những ảo ảnh tri giác bằng tác động của ngôn ngữ. Sự
tham gia của ngôn ngữ vào quá trình tri giác giúp cho các cảm giác thành phần được tổ hợp lại thành một
chỉnh thể, một hình tượng trọn vẹn gắn liền với một ý nghĩa, một tên gọi cụ thể (quy luật tính có ý nghĩa
của tri giác).
Ngôn ngữ làm cho các quá trình tri giác diễn ra dễ dàng, nhanh chóng và làm cho sự vật hiện
tượng được tri giác trở nên khách quan, đầy đủ và rõ ràng hơn. Ví dụ, nhờ ngôn ngữ mà việc tách đối
tượng ra khỏi bối cảnh để tri giác tốt hơn (quy luật về tính lựa chọn của tri giác). Ngôn ngữ giúp cho việc
xây dựng một hình ảnh trọn vẹn về đối tượng (quy luật tính trọn vẹn của tri giác).
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Ở một mức độ phát triển nhất định của con người, nhờ có ngôn ngữ mà tri giác của con người
mang tính chủ định (có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp). Chất lượng của quan sát không chỉ phụ
thuộc vào khả năng tinh vi, nhạy bén của các giác quan, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ tư duy,
vào vốn kinh nghiệm sống, vào khả năng ngôn ngữ.

b. Vai trò của ngôn ngữ đối với trí nhớ


Ngôn ngữ có ảnh hưởng quan trọng đối với trí nhớ của con người. Ngôn ngữ tham gia tích cực
vào quá trình ghi nhớ và gắn bó chặt chẽ với quá trình đó làm cho sự ghi nhớ, gìn giữ và nhận lại nhớ lại
của con người có chủ định, có ý nghĩa. Không có ngôn ngữ thì không thể thực hiện được sự ghi nhớ có
chủ định, sự ghi nhớ có ý nghĩa và cả ghi nhớ máy móc. Ngôn ngữ là một phương tiện để ghi nhớ, là một
hình thức để lưu giữ những kết quả cần nhớ. Nhờ ngôn ngữ con người có thể chuyển hẳn những thông
tin cần nhớ ra bên ngoài đầu óc con người. Chính bằng cách này con người lưu giữ và truyền đạt được
kinh nghiệm của loài cho thế hệ sau.
c. Vai trò của ngôn ngữ đối với tư duy
Ngôn ngữ liên quan chặt chẽ tới tư duy của con người. Tư duy sử dụng ngôn ngữ làm phương
tiện, công cụ để tư duy, chính điều này làm tư duy của con người khác về chất so với tư duy của con vật
- con người có tư duy trừu tượng. Không có ngôn ngữ thì con người không thể tư duy trừu tượng và khái
quát được. Nhờ ngôn ngữ mà chủ thể tư duy nhận thức được tình huống có vấn đề, tiến hành các thao tác
tư duy và biểu đạt các kết quả của tư duy thành từ ngữ, thành câu.
d. Vai trò của ngôn ngữ đối với tưởng tượng
Trong quá trình tưởng tượng, ngôn ngữ có vai trò to lớn trong việc hình thành và biểu đạt các hình
ảnh mới. Trong quá trình tưởng tượng, hệ thống các đường liên hệ thần kinh tạm thời (nơi chứa đựng
biểu tượng của trí nhớ) tựa như bị phân giải và được kết hợp thành một hệ thống mới. Sự phân giải và
kết hợp này diễn ra trong não dưới tác động của ngôn ngữ. Ngôn ngữ làm cho tưởng tượng trở thành một
quá trình có ý thức, được điều khiển tích cực có kết quả và chất lượng cao.
Tóm lại, ngôn ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động nhận thức của con người.
Không thể hiểu được những đặc trưng tâm lí diễn ra trong quá trình nhận thức nếu không hiểu được vai
trò của ngôn ngữ trong sự hình thành các quá trình ấy.
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM


TÍNH NHẬN THỨC CỦA TÌNH CẢM
Trong tình cảm luôn có khía cạnh nhận thức, nhận thức được nhu cầu cũng như sự vật, hiện
tượng thỏa mãn nhu cầu. Nghĩa là trong tình cảm, chủ thể nhận thức được nguyên nhân, nguồn
gốc cũng như mức độ của tình cảm của mình. Yếu tố nhận thức khiến cho tình cảm luôn có đối
tượng xác định và được biểu đạt dưới nhiều hình thức như ngôn ngữ hoặc hành động cụ thể. Quá
trình nảy sinh và hình thành tình cảm đi cùng với quá trình nhận thức về đối tượng. Khi chủ thể
càng nhận thức rõ được về bản chất của đối tượng thì tình cảm trên cơ sở đó càng bền vững và
ổn định, sâu sắc hơn.

Ví dụ:
Bài văn “Kể về một người em yêu quý nhất” cho thấy mức độ tình cảm của người cháu
dành cho ông, cũng như người cháu này nhận thức được những vất vả, những hi sinh và sự yêu
thương của ông dành cho con cháu. Trên cơ sở nhận thức này, tình cảm của cháu dành cho ông
sâu sắc, bền vững.
Ông ngoại là người mà em yêu mến nhất. Năm nay, ông đã bảy mươi hai tuổi. Ông có vóc
người gầy gầy, nhưng đi lại vẫn còn nhanh nhẹn. Hằng ngày ông thường mặc bộ đồ bà ba màu
xám trông rất sạch sẽ. Khi đi đâu thì ông mặc quần tây áo sơ mi. Khuôn mặt ông gầy gầy, xương
xương vì ông phải trải qua bao nhọc nhằn, vất vả. Tóc ông bạc gần hết, chải ngược ra sau để lộ
vầng trán cao cao, hằn in nhiều nếp nhăn. Đôi mắt ông còn rất sáng. Mỗi tối ông thường xem tivi,
chương trình thời sự. Đôi bàn tay xương xương và rám nắng của ông minh chứng một điều
ông đã phải trải qua những tháng ngày vất vả để nuôi con cháu. Thế nhưng, hiện giờ đôi bàn
tay ấy vẫn còn rất nhanh nhẹn. Mỗi buổi chiều ông thường xách nước tưới cây kiểng và chăm sóc
cây, đó là một thói quen mà ông không thế bỏ được. Vườn cây của ông mùa nào quả nấy. Mỗi
lần về thăm ngoại, chúng em tha hồ hái ăn mà không hề bị rầy la. Ông em luôn qua tâm đến con,
cháu. Ông luôn nhắc nhở từng li, từng tí, ông còn dạy chúng em biết yêu thương và quan tâm
đến mọi người xung quanh. Em rất yêu thương ông ngoại của mình.
(Chia sẻ của Tiểu Hy, dẫn từ https://download.vn/ke-ve-mot-nguoi-ma-em-quy-men-nhat-36187)
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM


VAI TRÒ CỦA ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM
Nhờ có các xúc cảm, tình cảm con người nhận biết được về bản thân mình rõ nét hơn, ngay từ
xa xưa, nguồn gốc các xúc cảm đã giúp bảo vệ con người khỏi những nguy hiểm để đảm bảo sự sinh
tồn, thông báo tình trạng cơ thể giúp con người có những phản ứng hành động kịp thời.
Đối với nhân cách, chính những xúc cảm, tình cảm giúp con người khi trải nghiệm, thể nghiệm một
xúc cảm, tình cảm, con người nhận ra những nhu cầu của mình một cách rõ ràng hơn và từ đó, có
những thái độ điều chỉnh điều khiển hoặc tự giáo dục phù hợp để phát triển nhân cách theo chiều
hướng tốt hơn. Hoặc chính những xúc cảm, tình cảm đặc trưng cho nhân cách lại ảnh hưởng chi phối đến
cách ứng xử của bạn bè, những người xung quanh chủ thể đó và qua đó ảnh hưởng gián tiếp đến quá
trình hình thành nhân cách của chủ thể ấy.
Đối với nhận thức và hoạt động, đời sống tình cảm đóng vai trò như một động lực cho quá trình con
người tìm tòi, khám phá thế giới khách quan xung quanh, mở rộng tri thức, hiểu biết cũng như hoạt động
tích cực để thay đổi, cải tạo thế giới ấy. Có thể xem xúc cảm, tình cảm là động cơ bền bỉ nhất ảnh hưởng
và chi phối toàn bộ hoạt động của con người.

MỐI QUAN HỆ GIỮA TÌNH CẢM VÀ NHẬN THỨC


Nhận thức và tình cảm là hai mặt khác nhau trong đời sống tâm lý người nhưng chúng cùng tồn tại,
tác động và hỗ trợ cho nhau. Vì cả hai đều là những hiện tượng tâm lý nên nó đều mang tính chủ thể, có
bản chất xã hội, tính phản ánh và những thuộc tính của nhận thức và tình cảm nói lên đặc trưng nhân
cách của cá nhân ấy. Tuy nhiên, chúng có những khác biệt nhất định, kể cả trong những điểm tưởng
chừng hoàn toàn giống nhau ấy.
* Về nội dung phản ánh
Nhận thức phản ánh bản thân sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan nhưng xúc cảm, tình cảm
lại phản ánh mối quan hệ giữa sự vật, hiện tượng với chính nhu cầu của chủ thể. Chính vì vậy, phạm vi
phản ánh của tình cảm hẹp hơn và tính chủ thể lại cao hơn nhiều so với nhận thức.
* Về phương thức phản ánh
Nhận thức phản ánh thế giới khách quan bằng những hình ảnh, khái niệm, còn xúc cảm và tình cảm
thì bằng những rung động.
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

* Về kết quả phản ánh


Kết quả của quá trình nhận thức cho ta biết bản chất, đặc điểm của thế giới khách quan, nhưng xúc
cảm, tình cảm lại xác định ý nghĩa của chúng với chủ thể, mang đến ý nghĩa sống cho con người.
* Về quá trình hình thành
Về quá trình hình thành, nhận thức được hình thành bằng con đường khác nhiều so với xúc cảm, tình
cảm. Hoạt động nhận thức có thể lượng hóa dễ dàng nhưng đo lường xúc cảm, đặc biệt là tình cảm thì
khó hơn rất nhiều. Chính vì vậy, nếu muốn nâng cao nhận thức, phát triển khả năng tư duy, quan sát, trí
tưởng tượng, ta có thể giáo dục trẻ bằng những con dường như dạy học, thuyết giảng. Nhưng với xúc
cảm, tình cảm, muốn hình thành thì phải có những trải nghiệm thực tế để các em xuất hiện những rung
động.
Mặc dù có những điểm khác biệt như trên, nhận thức và xúc cảm, tình cảm lại có mối quan hệ gắn
bó với nhau. Nhận thức làm nền tảng cho xúc cảm, tình cảm, định hướng cho đời sống tình cảm của con
người. Nhờ có nhận thức mà con người xác định được mối quan hệ sự vật hiện, tượng với nhu cầu của
bản thân để nảy sinh những rung động tương ứng. Nhận thức càng sâu sắc sẽ giúp đời sống tình cảm
càng ổn định hơn. Ngược lại, chính xúc cảm, tình cảm lại ảnh hưởng khá lớn đến nhận thức. Nó có thể
là động lực cho con người vươn đến những tìm tòi, khám phá nhưng cũng có thể khiến nhận thức con
người bị sai lệch, mù quáng khi cường độ của xúc cảm, tình cảm quá mạnh. Chính điều này khiến con
người gặp khó khăn trong nhận thức, đặc biệt với những người sống thiên về tình cảm.
Trên thực tế, hai thành tố này luôn tương tác cho nhau trong quá trình sống của một con người. Mỗi
khi ra một quyết định nào đó con người ngoài phân tích những thiệt - hơn, được - mất, còn tính đến yếu
tố ấy mang ý nghĩa như thế nào đối với bản thân mình. Chính sự kết hợp hài hòa giữa nhận thức và đời
sống tình cảm sẽ tạo ra những con người cân bằng, ngược lại, có thể tạo nên những người sống rất lý trí,
cứng nhắc, nguyên tắc hoặc những người ủy mị, yếu đuối, làm việc nhất thời theo xúc cảm, tình cảm, để
tình cảm điều khiển hoặc khống chế chính bản thân mình.
Ý CHÍ
❖ Nick Vujicic là một cái tên nổi tiếng trên
toàn thế giới, là tấm gương về ý chí nghị
lực của mọi thời đại. Nick Vujicic sinh ra
với hội chứng tetra-amelia bẩm sinh hội
chứng rối loạn hiếm gặp không có cả
chân và tay. Thế nhưng dù sinh ra với
một thân hình không toàn vẹn, Nick vẫn
đối diện với nghịch cảnh của bản thân
bằng một tinh thần thép. Nick Vujicic đã
chứng minh cho mọi người thấy được
rằng “chúng ta không có quyền lựa chọn
cách mình được sinh ra, nhưng có quyền
lựa chọn cách mình sẽ sống”.
❖ Thiên tài chỉ có 5% năng khiếu, còn 95%
là mồ hôi và nước mắt.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
KHÁI NIỆM

❖ Ý chí là mặt năng động


của ý thức, biểu hiện ở
năng lực thực hiện những
hành động có mục đích,
đòi hỏi phải có sự nỗ lực
khắc phục khó khăn bên
ngoài và bên trong.

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Tấm gương ý chí
❖ Nhắc đến những bài nhạc cổ điển
phức tạp với giai điệu cuốn hút là
nhắc đến thiên tài Beethoven, người
đã để lại hàng trăm tác phẩm âm
nhạc nổi tiếng cho nhân loại.
❖ Nhưng ít ai biết rằng, ông bị khiếm
thính sau trận ốm thuở ấu thơ.
Beethoven là một nhà soạn nhạc cổ
điển người Đức. Sau một trận ốm,
thính giác của ông ngày một suy
yếu và cuối cùng, ông không thể
nghe được nữa.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Tấm gương ý chí
❖ Vượt lên số phận, ông tiếp tục tập
luyện đàn và đã trở thành một nhà
soạn nhạc vĩ đại. Người thầy dạy
ông những nốt nhạc đầu tiên chính
là cha ruột, một nhạc sĩ đứng tuổi
không thành công. Năm 17 tuổi,
ông mất mẹ, không lâu sau thì cha
qua đời. Đã có những lúc, cậu thiếu
niên phải sống dựa vào tiền trợ cấp
ít ỏi, một mình gánh vác trách
nhiệm nuôi hai người em. Hơn nữa,
ông còn bị đánh đập, áp đặt bởi
người cha nghiện rượu.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Tấm gương ý chí
❖ Nhưng vì ý chí quyết tâm và nghị
lực siêu phàm, cậu bé Beethoven đã
tìm cách ghi nhớ âm điệu các phím
đàn qua sự mô tả, tiếp tích theo thầy
dạy đàn. Chẳng bấy lâu sau, cậu bé
phụ tá chơi piano trong nhà thờ đã
trở thành nghệ sĩ đại dương cầm
trong dàn nhạc Hoàng gia
❖ Khắp nơi trên thế giới đều kính
trọng nghị lực và quyết tâm của ông,
một người không nghe được âm
thanh lại trở thành nhà soạn nhạc
huyền thoại.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
VAI TRÒ
❖ Ý chí là quá trình chống lại đam mê, dục vọng bên trong và
những áp lực – khó khăn của thế giới bên ngoài, phát huy sự
tự do của con người.
❖ Ý chí là một trong những phương thức góp phần kiểm soát
hành vi, phát triển tâm lý.
❖ Ý chí giúp con người có sức mạnh phi thường, vượt qua
muôn vàn khó khăn trở ngại tưởng chừng không vượt nổi.
❖ Ý chí làm cho đời sống con người và đời sống xã hội sẽ
phong phú hơn khi nhờ vào sự năng động của ý thức.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
CÁC PHẨM CHẤT
Ý CHÍ
TÍNH MỤC ĐÍCH
Tính mục đích là một phẩm chất quan
trọng của ý chí liên quan chặt chẽ đến khả
năng đề ra mục đích trong hoạt động và trong
cuộc sống của mình.
Ngoài ra, tính mục đích giúp con người biết
điều khiển hành vi của mình phục tùng vào
định hướng đã được xác lập một cách tự giác,
mạnh mẽ.
TÍNH ĐỘC LẬP

Tính độc lập liên quan đến khả năng đưa ra những quyết
định và thực hiện hành động đã dự định mà không chịu
ảnh hưởng bởi người khác.
Tính độc lập trong ý chí còn thể hiện ở điểm chủ thể
không bị ám thị hay áp đặt suy nghĩ, hành động bởi một
đối tượng khác khi mình đã có suy nghĩ, cân nhắc và đưa
ra những sự lựa chọn.
TÍNH QUYẾT ĐOÁN
❖ Tính quyết đoán là phẩm chất của
ý chí liên quan chặt chẽ đến khả
năng đưa ra những quyết định kịp
thời, dứt khoát mà không có những
tình trạng dao động không cần
thiết hay phụ thuộc vào những tác
động xung quanh.
❖ Tính quyết đoán được thể hiện vẫn
dựa trên nền tảng của sự suy nghĩ,
cân nhắc và phân tích một cách
thấu đáo.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
TÍNH KIÊN TRÌ

❖ Tính kiên trì của ý chí liên quan


đến khả năng vượt khó để đạt được
mục đích dù rằng quá trình thực
hiện ấy có thể ngắn nhưng cũng có
thể rất dài.
❖ Tính kiên trì thể hiện cường độ của
ý chí mà đó chính là sự bền bỉ làm
cho cá nhân không cảm thấy mệt
mỏi, chán nản.

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
TÍNH TỰ CHỦ
❖ Tính tự chủ liên quan đến khả năng
làm chủ được bản thân trong
những trường hợp có sự xung đột
tâm lý bên trong.
❖ Tính tự chủ giúp con người duy trì
được sự kiểm soát các hành vi của
bản thân như: chiến thắng những
đòi hỏi không hợp lý, chiến thắng
những suy nghĩ tiêu cực hoặc
những xúc cảm âm tính.

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
ĐẶC ĐIỂM CỦA
HÀNH ĐỘNG Ý CHÍ
❖ Hành động ý chí mang tính mục
đích. Khi con người ý thức được
mục đích và điều kiện thực hiện thì
hành động ý chí mới trở nên mạnh
mẽ vì nó sẽ thôi thúc con người đạt
được mục đích. Nếu mất đi đặc
điểm này thì hành động ý chí sẽ
không thể tồn tại và không thể gọi
đó là hành động ý chí.

KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
❖ Hành động ý chí xuất phát từ tâm lý của
chủ thể. Trong hành động ý chí còn luôn
có sự tham gia của nhận thức ở mức độ
cao mà nó thể hiện ở sự theo dõi, kiểm tra,
giám sát, điều khiển và điều chỉnh. Đấy
chính là sự tham gia đích thực của ý chí.
Với sự nỗ lực của ý chí, hành động ý chí
sẽ hướng đến việc khắc phục những khó
khăn, hoặc nỗ lực nhiều hơn nữa. Tuy
nhiên, cũng có thể hành động ý chí sẽ
được chính sự điều khiển của ý thức để
chuyển sang một quyết định mới liên quan
đến hành động như: tạm dừng hành động,
chuyển hành động, không hành động…
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

Ý CHÍ
PHÂN LOẠI HÀNH ĐỘNG Ý CHÍ
Có thể phân loại hành động ý chí theo các loại sau đây:
* Hành động ý chí đơn giản
Hành động ý chí đơn giản là những hành động có mục đích rõ ràng nhưng sự lựa chọn phương tiện,
biện pháp thực hiện cũng như sự nỗ lực khó khăn không thể đầy đủ.
* Hành động ý chí cấp bách
Hành động ý chí cấp bách là những hành động xảy ra trong một thời gian rất ngắn ngủi, đòi hỏi phải
có sự quyết định và sự thực hiện quyết định nhanh chóng. Trong hành động này, mục đích, phương tiện
cũng như sự nỗ lực của bản thân hầu như hòa quyện cùng nhau.
* Hành động ý chí phức tạp
Hành động ý chí phức tạp là loại hành động điển hình, mục đích, phương tiện, sự nỗ lực được thực
hiện một cách rõ ràng.

CÁC GIAI ĐOẠN CỦA HÀNH ĐỘNG Ý CHÍ


Một hành động ý chí bao gồm các giai đoạn khác nhau từ khác chuẩn bị đến lúc thực thi. Phân tích
các giai đoạn cơ bản của hành động ý chí cho thấy:
1. Giai đoạn chuẩn bị
Đây là giai đoạn hành động trí tuệ, giai đoạn suy nghĩ. Giai đoạn này bao gồm:
+ Đặt ra và ý thức rõ ràng về mục đích hành động.
+ Lập kế hoạch và tìm ra phương pháp thực hiện.
+ Quyết định hành động.
Phân tích sâu về giai đoạn chuẩn bị cho thấy nhu cầu chính là yếu tố cơ bản thúc đẩy cho hành động
ý chí được chuẩn bị. Nhu cầu thực hiện hành động ý chí có thể phân tích sau:
Nhu cầu là yếu tố kích thích, gây ra mọi hành động. Nhu cầu gồm nhiều mức độ khác nhau:
+ Mức độ thấp - ý hướng; ở mức độ này mới chỉ phản ánh trong ý thức, nghĩa là còn mù mờ, chưa
rõ ràng. Nhu cầu ở mức ý hướng là nhu cầu còn chưa rõ ràng, chưa phản ánh một cách đầy đủ.
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

+ Mức độ cao hơn ý muốn - so với ý hướng thì nhu cầu biểu hiện rõ ràng hơn, xác định được đối
tượng của nhu cầu, nhưng chưa xác định được phương pháp thực hiện mục đích.
+ Mức độ ý định là nhu cầu đã được ý thức một cách đầy đủ, con người đã xác định được mục đích
của hành động. Chẳng hạn, khi ta nói ý định làm việc gì đó nghĩa là người ta sẵn sàng hành động.
Khi giai đoạn chuẩn bị được thực thi thì một trong những yếu tố cần được phân tích sâu đó chính là
quyết định hành động. Trong khi chủ thể chuẩn bị thì chính chủ thể đã trải qua việc ý thức rõ ràng về
mục đích cũng như lập kế hoạch thực hiện. Quyết định được thực hiện là bước cuối trong khâu chuẩn bị
hay giai đoạn chuẩn bị.
2. Giai đoạn quyết định thực hiện hoạt động
Kết quả của những đấu tranh trong chính bản thân là hành động đưa đến những quyết định. Giai
đoạn quyết định thực hiện hoạt động dựa trên những suy nghĩ và cân nhắc của cá nhân. Quyết định là
việc kết thúc giai đoạn chuẩn bị cho hành vi ý chí. Quyết định xuất hiện cũng chỉ dừng lại ở mục đích và
những phương pháp, phương tiện tiến hành hành vi ý chí. Người ta có thể phân biệt các loại quyết định
như sau:
- Quyết định thông thường.
Quyết định thông thường là quyết định hầu như không tách rời khỏi các ý muốn cụ thể, thực hiện
tiêu biểu qua các hành vi ý chí đơn giản, dễ dàng xảy ra, không có sự dao động gì và thường không có
sự đấu tranh giữa các động cơ hoặc sự đấu tranh ấy bị hạn chế tối đa. Quyết định thông thường là quyết
định được vận dụng theo truyền thống đã hình thành mà không cần có sự nỗ lực đặc biệt nào của ý chí.
- Quyết định không có đủ cơ sở.
Quyết định không có đủ cơ sở là quyết định được đưa ra trong những tình huống khó khăn mà chủ
thể chưa có sự chuẩn bị để vượt qua. Thông thường có những quyết định như vậy xảy ra ở những người
thiếu kiên quyết, kém ý chí, quy phục hoàn cảnh và không có lý tưởng sống rõ ràng. Quyết định như vậy
xảy ra ở những người thiếu kiên quyết, kém ý chí, quy phục hoàn cảnh và không có lý tưởng sống rõ
ràng.
- Quyết định có ý thức.
Quyết định có ý thức là quyết định tiêu biểu đối với những hành vi ý chí được thực hiện một cách
độc lập sau khi đã phân tích kỹ các tình huống. Những quyết định loại này thường gắn liền với sự nhận
thức đầy đủ bản chất, tầm quan trọng và sự cần thiết của hành động cần tiến hành.
- Nỗ lực ý chí.
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

Trong giai đoạn này vẫn có sự tham gia đặc biệt của sự nỗ lực ý chí. Nỗ lực ý chí thể hiện ở sự chú
ý tập trung vào hoạt động cần thiết, hoặc ở sự kích thích chủ thể hoạt động, mặc dù có những khó khăn
trở ngại nảy sinh trên con đường đạt tới mục đích. Sự nỗ lực ý chí thường khác nhau tùy thuộc vào tính
chất và đặc điểm của những khó khăn phải nỗ lực để vượt qua. Có thể phân thành các nhóm khó khăn
sau đây:
+ Những khó khăn khách quan do những đặc điểm tiêu biểu của bản thân các đối tượng khác nhau
quy định.
+ Những khó khăn chủ quan do những đặc điểm riêng của bản thân chủ thể, do những mối quan hệ
đã hình thành giữa chủ thể với hiện thực xung quanh quy định.
3. Giai đoạn thực hiện
Đây là giai đoạn kế tiếp của hành động ý chí sau khi đã quyết định. Giai đoạn này đòi hỏi sự nỗ lực
lớn lao, nhưng nỗ lực chưa đủ mà phải có ý chí.
Quá trình thực hiện quyết định có thể có hai hình thức hành động bên ngoài - hành động bên trong,
có thể gọi đó là hành động ý chí bên ngoài và hành động ý chí bên trong. Nếu con người ta đi chệch khỏi
con đường đã định tức lệch mục đích thì đó là hành động thiếu ý chí.
Việc thực hiện được tiến hành bằng các thao tác hoạt động nhất định nhằm đạt tới mục đích với
những phương thức nhất định. Thiếu giai đoạn này thì không thể có hành vi ý chí nữa. Chính giai đoạn
thực hiện làm chỉ hành vi ý chí mới thực sự hiện hữu để đạt được mục đích của hành động.
4. Giai đoạn đánh giá
Sau khi các hành vi ý chí được thực hiện, con người bao giờ cũng đánh giá các kết quả đã đạt được.
Việc đánh giá này rất cần thiết để rút kinh nghiệm cho những hành vi sau đó. Việc đánh giá hành vi ý
chí có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong hoạt động của con người, nó trở thành sự kích thích và động
cơ đối với hoạt động tiếp theo. Sự đánh giá xấu thường là động cơ dẫn đến việc đình chỉ hoặc sửa chữa
những hành động hiện tại. Sự đánh giá tốt sẽ kích thích việc tiếp tục tăng cường và cải tiến hành động
đang thực hiện.
Đánh giá kết quả hành động là đối chiếu kết quả đạt được với mục đích đã định. Sự đánh giá có thể
xảy ra hai trạng thái: Đánh giá xấu thường kèm theo những rung cảm xấu hổ, hối hận, chưa thỏa mãn;
Đánh giá tốt xảy với những rung cảm thỏa mãn, hài lòng, sung sướng.
Sự đánh giá hành động có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong hoạt động của con người. Nó có thể trở
thành động cơ, kích thích đối với hoạt động tiếp theo: Đánh giá xấu lẫn dẫn đến việc đình chỉ hoặc sửa
chữa hành động hiện tại; Đánh giá tốt sẽ kích thích việc tiếp tục, tăng cường hành động đang thực hiện.
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

Ý CHÍ
PHÂN BIỆT KỸ XẢO VÀ THÓI QUEN
Giống nhau:
- Đều là hành động tự động hóa
- Đều có cơ sở sinh lý là các định hình động lực
- Mang tính chất lặp lại và sự thuần thục trong hành động

Khác nhau:

Kỹ xảo Thói quen


Mang tính chất kỹ thuật Mang tính chất nhu cầu nếp sống
Được đánh giá về mặt thao tác Được đánh giá về mặt đạo đức
(Thao tác có nhuần nhuyễn hay không, nhanh (Trong đó có cả thói quen tốt và thói quen xấu)
hay chậm)
Ít gắn với tình huống Luôn gắn với tình huống cụ thể
Ít bền vững nếu không được luyện tập. Bền vững ăn sâu vào nếp sống
Hình thành chủ yếu là do luyện tập có mục Hình thành bằng nhiều con đường (tự giác, bắt
đích. chước, ôn tập).

Hình minh họa kỹ xảo Hình minh họa thói quen


TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

NHÂN CÁCH
GIÁO DỤC VÀ NHÂN CÁCH
Giáo dục là hoạt động chuyên biệt, có mục đích, có kế hoạch, có chương trình và sử dụng những
hình thức, phương pháp tác động dựa trên cơ sở khoa học nhằm hình thành nhân cách con người theo
yêu cầu của xã hội.

Theo quan điểm duy vật biện chứng, giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển
nhân cách.

- Giáo dục vạch phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách, xác định mô hình nhân cách
trong tương lai đáp ứng yêu cầu của cuộc sống trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.

- Thông qua giáo dục, mỗi cá nhân lĩnh hội được nền văn hóa, tri thức, kinh nghiệm được chọn lọc dưới
sự dẫn dắt của thế hệ trước.

- Cách thức tác động của giáo dục dựa trên những thành tựu khoa học, các quy luật nhận thức và quy luật
tâm lý của con người…vì thế nó mang lại hiệu quả phát triển cao và rút ngắn về thời gian.

- Giáo dục có thể phát huy, hiện thực hóa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối sự hình thành nhân
cách như yếu tố sinh học, môi trường; đồng thời bù đắp cho những thiếu hụt và hạn chế do các yếu tố
này gây ra (bệnh tật, khuyết tật, hoàn cảnh không thuận lợi).

- Giáo dục có thể uốn nắn những sai lệch của nhân cách về một mặt nào đó so với các chuẩn mực, hướng
nó phát triển theo mong muốn của xã hội.

- Giáo dục đi trước sự phát triển, giáo dục luôn hướng về trình độ tương lai với những bậc phát triển ngày
càng cao.

Tuy nhiên, không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, cần phải đặt giáo dục trong mối quan hệ
với các yếu tố khác.

You might also like