Professional Documents
Culture Documents
tâm lú học
tâm lú học
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Xuất tâm (Khách thể hóa)
Con người Thế giới
Nhập tâm (Chủ thể hóa)
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng của giao tiếp
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng của thông tin
TRUYỀN
THÔNG
Thỏa mãn
Kinh
mục đích Thông tin Kiến thức
nghiệm
giao tiếp
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Nguồn phát
thông tin
Nguồn thu
thông tin
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng tổ chức, điều khiển Thống Nhất
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng điều khiển, điều chỉnh
Động cơ
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng xúc cảm
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng nhận thức và đánh giá
Tri thức
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng nhận thức và đánh giá
Tự nhận thức
TIẾP THU
ĐÁNH GIÁ Đối chiếu
Tự đánh giá lại
Tự điều chỉnh
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Chức năng giáo dục và phát triển nhân cách
Tự nhận thức
TIẾP THU HÌNH THÀNH
ĐÁNH GIÁ Đối chiếu VÀđánh
PHÁT
Tiếp nhận Tự giáTRIỂN
lại
Giao tiếp kinh nghiệm, TOÀN DIỆN
hình thành chuẩn mực
phát triển
phẩm chất Tự điều chỉnh
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Theo nghĩa thông thường, ý thức dùng để chỉ những thái độ hay ứng xử của con người mà họ nhận
biết được tính chất hợp lý, đúng đắn dựa trên sự tuân thủ những quy định của pháp luật hay chuẩn mực,
yêu cầu của các nhóm xã hội, cộng đồng. Ý thức theo nghĩa này là có hiểu biết, tự giác và hành động phù
hợp. Chẳng hạn như, ý thức chấp hành luật giao thông, ý thức được tính chất quan trọng của kỳ thi tuyển
sinh đại học…là những biểu hiện của sự hiểu biết và tính tự giác của ý thức.
Dưới góc độ Triết học, ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản, đối lập của phạm trù vật chất.
Triết học Marx - Lenin coi ý thức là tính thứ hai, có sau vật chất và do vật chất quyết định, ý thức là tồn
tại được nhận thức.
Dưới góc độ Tâm lý học, ý thức là hiện tượng tâm lý của con người cụ thể, là mức độ phản ánh
tâm lý cao nhất trong các hình thức phản ánh tâm lý. Con người nhờ hệ thống tín hiệu thứ hai đã tách các
đối tượng của hiện thực ra khỏi hoạt động trực tiếp để hiểu biết gián tiếp và khái quát, đầy đủ và sâu sắc
hơn. Từ đó hình dung trước và lập kế hoạch hợp lý cho hành động để điều khiển hành động có mục đích
của con người đạt chất lượng cao.
Hiện thực khách quan tác động vào não, làm nảy sinh những hình ảnh tâm lý (phản ánh tâm lý).
Hình ảnh tâm lý này lại trở thành đối tượng của sự phản ánh tiếp theo, phản ánh lần hai (phản ánh lại
những gì đã phản ánh). Nói khác đi, ý thức là phản ánh của phản ánh.
Phản ánh tâm lý cho con người nhận thức (hiểu biết) về hiện thực xung quanh. Từ những hiểu biết
này con người sàng lọc và suy luận từ những hiểu biết đã có để đi đến những hiểu biết cao hơn, rộng
hơn, đầy đủ và bao quát hơn…Như vậy, ý thức là hiểu biết của hiểu biết (nhận thức của nhận thức).
Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ riêng con người mới có, phản ánh bằng ngôn
ngữ, là khả năng con người hiểu được những tri thức mà con người đã tiếp thu được
CÁC QUY LUẬT CỦA
CẢM GIÁC
Các quy luật của cảm giác
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Ngưỡng cảm giác phía dưới và
ngưỡng cảm giác phía trên
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Ngưỡng sai biệt
❖ Ngưỡng sai biệt là mức độ khác biệt
tối thiểu về cường độ hoặc tính chất
của hai kích thích để có thể phân biệt
sự khác nhau giữa chúng
Ngưỡng cảm giác phía dưới càng thấp
thì độ nhạy cảm của cảm giác càng cao
Ngưỡng sai biệt càng thấp thì tính nhạy cảm
sai biệt càng cao và ngược lại
b. Quy luật thích ứng
của cảm giác
Thích ứng là khả năng thay đổi
độ nhạy cảm của cảm giác cho
phù hợp với sự thay đổi của
cường độ kích thích.
❖ Khi cường độ kích thích tăng
thì độ nhạy cảm giảm.
❖ Khi cường độ kích thích
giảm thì độ nhạy cảm tăng.
❖ Cảm giác mất dần đi khi kích
thích kéo dài
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
b. Quy luật thích ứng
của cảm giác
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
c. Quy luật tác động
lẫn nhau của cảm giác
❖ Cảm giác không chỉ phụ thuộc
vào tính chất của vật kích thích,
vào khả năng thích ứng của giác
quan mà còn phụ thuộc vào tác
động qua lại của các cảm giác
khác, cũng như chịu sự chi phối
của toàn bộ nhân cách. Nói khác
đi mọi cảm giác con người không
tồn tại biệt lập, tách rời mà chúng
tác động qua lại, thống nhất và bổ
sung cho nhau
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
c1. Quy luật tác động lẫn nhau của cảm giác khác loại
Kích thích
Yếu Mạnh
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
c1. Quy luật tác động
lẫn nhau của cảm giác
khác loại
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
c2. Quy luật tác động lẫn nhau
giữa các cảm giác cùng loại
(Quy luật tương phản)
❖ Sự tương phản là sự thay đổi cường độ
hoặc chất lượng của cảm giác dưới ảnh
hưởng của một kích thích cùng loại xảy
ra trước đó hoặc đồng thời.
❖ Tương phản đồng thời: Tương phản
đồng thời là sự thay đổi cường độ và
chất lượng của cảm giác dưới ảnh hưởng
của một kích thích cùng loại xảy ra đồng
thời.
❖ Tương phản nối tiếp: Tương phản nối
tiếp là sự thay đổi cường độ và chất
lượng của cảm giác dưới ảnh hưởng của
một kích thích cùng loại xảy ra trước đó.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
PHÂN LOẠI TRI GIÁC
Phân loại tri giác
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Tri giác không chủ định: là kiểu tri giác
không theo mục đích, không theo một trình
tự định trước. Kiểu tri giác này do tác động
môi trường bên ngoài, hứng thú, sở thích,
xúc cảm - tình cảm của cá nhân chi phối.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
a. Tri giác không gian
❖ Tri giác không gian là sự phản ánh
khoảng không gian tồn tại khách
quan: hình dáng, hình khối, độ lớn,
chiều sâu, độ xa, vị trí, phương
hướng của các vật trong không gian.
❖ Có vai trò quan trọng trong sự tác
động qua lại của con người với môi
trường, là điều kiện cần thiết để con
người định hướng trong môi trường.
=> Tri giác không gian có thể sai lầm,
tri giác không đúng về độ lớn, độ xa,
hình dáng…
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
b. Tri giác thời gian
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
b. Tri giác thời gian
❖ Chỉ có những khoảng thời gian
ngắn mới đc thời gian 1 cách chính
xác và trực tiếp.
❖ Tri giác thời gian phụ thuộc vào
nhiều yếu tố ( có thể sai lầm - ảo
giác): Nội dung hoạt động, nhu
cầu, hứng thú, tâm trạng, lứa tuổi,
kinh nghiệm…khi hồi tưởng quá
khứ thường nhanh, nhưng nhìn về
tương lai thường là chậm.
❖ Khả năng ước đoán chính xác thời
gian là 1 phẩm chất quan trọng
nhất là với giáo viên
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
c. Tri giác vận động
❖ Tri giác vận động là sự phản
ánh những biến đổi về vị trí của
các sự vật trong không gian.
❖ Trong thực tế chúng ta không tri
giác được những chuyển động
quá nhanh hay quá chậm…
thông tin thu đc về sự thay đổi
của sự vật bằng cách suy luận.
❖ Tri giác vận động có thể sai
lầm… nó phụ thuộc vào khoảng
cách từ vật đến ta, vào kinh
nghiệm và thói quen.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
d. Tri giác con người
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Trí nhớ có vai trò to lớn trong đời sống và hoạt động của con người. Trí nhớ giúp con người xác
định phương hướng để thích nghi với ngoại giới. Nhờ có ghi nhớ mà con người tích lũy được những kinh
nghiệm, nhờ có nhận lại và nhớ lại mà ta có thể đem những kinh nghiệm đó ứng dụng vào thực tế cuộc
sống.
Trí nhớ giúp con người học tập, tư duy và hiểu biết thế giới. Nếu không có trí nhớ thì con người
lúc nào cũng như đứa trẻ mới sinh ra.
Những người bị rối loạn về trí nhớ rất khó khăn trong đời sống và hoạt động và hoạt động nhận
thức không đạt được hiệu quả.
Trí nhớ có vai trò quan trọng với tư duy sáng tạo và tư duy phản biện, khả năng nhớ vá tái hiện
lại thông tin linh hoạt để giải quyết vấn đề. Khả năng nhớ được những gì cần phải nhớ, tập các quên
những gì không nên nhớ cũng giúp cuộc sống trở nên cân bằng, nhiều năng lượng tích cực.
Sở hữu một trí nhớ tốt giúp phát triển bản thân và mang lại sự tự tin
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
đối thoại thường ở dạng rút gọn nhờ có sự hỗ trợ của những phương tiện phi ngôn ngữ như ánh mắt, cử
chỉ, điệu bộ, nét mặt, nụ cười.
+ Ít có tính chủ định và thường bị động. Những lời đối đáp trong đối thoại thường có tính chất
phản ứng. Câu nói của người này ở chừng mực nào đó do câu nói của người kia quy định, đồng thời nó
làm nảy sinh ở người kia câu nói tiếp theo.
+ Cấu trúc của ngôn ngữ đối thoại thường không thật chặt chẽ. Những lời đối đáp trong đối thoại
thường không có chương trình định trước, cấu trúc của biểu đạt thường đơn giản cho nên trong ngôn ngữ
đối thoại vừa có nhiều từ được rút gọn, đồng thời có thêm những từ đệm, những câu rườm rà. Những đặc
điểm này làm cho người tham gia đối thoại đỡ gặp khó khăn trong khi vận dụng ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ độc thoại: là loại ngôn ngữ được phát triển từ ngôn ngữ đối thoại. Ngôn ngữ độc thoại
diễn ra trong hoàn cảnh giao tiếp giữa một người nói liên tục và những người khác nghe. Ngôn ngữ độc
thoại đòi hỏi người nói phải đáp ứng những yêu cầu sau: Người nói phải có sự chuẩn bị kĩ càng, chu đáo
về chương trình, nội dung, lời nói phải chính xác, dễ hiểu. có khả năng truyền cảm. Trong khi nói phải
theo dõi người nghe để làm sáng tỏ những vấn đề người nghe chưa rõ, điều chỉnh ngôn ngữ của mình
cho phù hợp với đối tượng. Người nói phải tận dụng khả năng truyền cảm của giao tiếp không lời như
âm điệu, nhịp điệu, cường độ giọng nói, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ một cách phù hợp.
* Ngôn ngữ viết:
Ngôn ngữ viết ra đời muộn hơn ngôn ngữ nói, là biến dạng của ngôn ngữ độc thoại. Ngôn ngữ
viết nảy sinh do nhu cầu giao tiếp của những người ở cách xa nhau và để lưu trữ, truyền đạt kinh nghiệm
của thế hệ trước cho thế hệ sau. Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ được biểu hiện bằng kí hiệu, tín hiệu, chữ
viết. Ngôn ngữ viết có những đặc điểm sau: Ngôn ngữ viết đòi hỏi phải lựa chọn những từ diễn đạt sáng
sủa, chính xác ý nghĩ của người viết. Các câu, các ý phải tuân theo một trình tự lôgic rất chặt chẽ, hợp lí.
Ngôn ngữ viết là dạng ngôn ngữ có tính chủ định nhất. Những điều viết ra phải thể hiện được nội
dung cần diễn đạt. Trong trường hợp chưa đạt yêu cầu đó, người viết phải viết lại. Sự lựa chọn như vậy
thường kết hợp với việc sử dụng ngôn ngữ bên trong (nghĩ rồi mới viết ra).
b. Ngôn ngữ bên trong
Đây là một dạng đặc biệt của ngôn ngữ, nó hướng vào bản thân chủ thể. Ngôn ngữ bên trong là
vỏ từ ngữ của tư duy, của ý thức, giúp con người tự điều khiển, tự điều chỉnh mình. Ngôn ngữ bên trong
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
có thể biểu hiện qua ngôn ngữ thầm, không phát ra âm thanh, rút gọn và cô đọng. Nhiều thành phần trong
câu bị lược đi, thường chỉ còn lại những từ chủ yếu như chủ ngữ hoặc vị ngữ, tương tự như văn phong
của điện báo. Ngoài ra ngôn ngữ bên trong tồn tại như những hình ảnh thị giác, thính giác và vận động -
ngôn ngữ của các từ mà con người hoàn toàn không nói ra.
Ở trẻ em, ngôn ngữ bên trong được hình thành trên cơ sở ngôn ngữ bên ngoài do quá trình nội
tâm hóa hoạt động tâm lí. Trẻ em 3 tuổi sau khi nắm được một số từ và câu, thường tự nói thành tiếng
với mình. Đó là biểu hiện của bước quá độ chuyển ngôn ngữ vào bình diện bên trong. Sau đó trẻ có khả
năng chuyển ngôn ngữ bên trong thành ngôn ngữ bên ngoài để diễn đạt ý nghĩ và tình cảm của mình. Khi
chuyển từ ngôn ngữ bên ngoài thành ngôn ngữ bên trong, trẻ thường trải qua thời kì độc thoại hay đối
thoại với chính mình dưới dạng ngôn ngữ chưa rút gọn, vẫn gọi là ngôn ngữ bên ngoài, mặc dù không
thành tiếng. Tiếp đó mới chuyển thành ngôn ngữ bên trong thể hiện qua ngôn ngữ thầm, không phát ra
âm thanh, rút gọn và cô đọng. Các dạng hoạt động ngôn ngữ trên đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ
trợ cho nhau và có thể chuyển hóa cho nhau. Chất lượng của các dạng hoạt động ngôn ngữ tùy thuộc vào
sự rèn luyện tích cực của mỗi cá nhân trong hoạt động và giao tiếp.
3. Vai trò của ngôn ngữ đối với hoạt động nhận thức
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của con người. Nhờ sự tham gia của
ngôn ngữ vào việc tổ chức, điều chỉnh các hoạt động tâm lí mà tâm lí của con người mang tính mục đích,
tính xã hội và tính khái quát cao. Ngoài chức năng là công cụ của giao tiếp, ngôn ngữ còn là công cụ của
tư duy và có ảnh hưởng quan trọng tới toàn bộ hoạt động nhận thức của con người
a. Vai trò của ngôn ngữ đối với cảm giác và tri giác
Dưới tác động của ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ bên trong có thể làm thay đổi ngưỡng cảm giác,
tính nhạy cảm của cảm giác, hoặc có thể gây nên những ảo ảnh tri giác bằng tác động của ngôn ngữ. Sự
tham gia của ngôn ngữ vào quá trình tri giác giúp cho các cảm giác thành phần được tổ hợp lại thành một
chỉnh thể, một hình tượng trọn vẹn gắn liền với một ý nghĩa, một tên gọi cụ thể (quy luật tính có ý nghĩa
của tri giác).
Ngôn ngữ làm cho các quá trình tri giác diễn ra dễ dàng, nhanh chóng và làm cho sự vật hiện
tượng được tri giác trở nên khách quan, đầy đủ và rõ ràng hơn. Ví dụ, nhờ ngôn ngữ mà việc tách đối
tượng ra khỏi bối cảnh để tri giác tốt hơn (quy luật về tính lựa chọn của tri giác). Ngôn ngữ giúp cho việc
xây dựng một hình ảnh trọn vẹn về đối tượng (quy luật tính trọn vẹn của tri giác).
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Ở một mức độ phát triển nhất định của con người, nhờ có ngôn ngữ mà tri giác của con người
mang tính chủ định (có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp). Chất lượng của quan sát không chỉ phụ
thuộc vào khả năng tinh vi, nhạy bén của các giác quan, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ tư duy,
vào vốn kinh nghiệm sống, vào khả năng ngôn ngữ.
Ví dụ:
Bài văn “Kể về một người em yêu quý nhất” cho thấy mức độ tình cảm của người cháu
dành cho ông, cũng như người cháu này nhận thức được những vất vả, những hi sinh và sự yêu
thương của ông dành cho con cháu. Trên cơ sở nhận thức này, tình cảm của cháu dành cho ông
sâu sắc, bền vững.
Ông ngoại là người mà em yêu mến nhất. Năm nay, ông đã bảy mươi hai tuổi. Ông có vóc
người gầy gầy, nhưng đi lại vẫn còn nhanh nhẹn. Hằng ngày ông thường mặc bộ đồ bà ba màu
xám trông rất sạch sẽ. Khi đi đâu thì ông mặc quần tây áo sơ mi. Khuôn mặt ông gầy gầy, xương
xương vì ông phải trải qua bao nhọc nhằn, vất vả. Tóc ông bạc gần hết, chải ngược ra sau để lộ
vầng trán cao cao, hằn in nhiều nếp nhăn. Đôi mắt ông còn rất sáng. Mỗi tối ông thường xem tivi,
chương trình thời sự. Đôi bàn tay xương xương và rám nắng của ông minh chứng một điều
ông đã phải trải qua những tháng ngày vất vả để nuôi con cháu. Thế nhưng, hiện giờ đôi bàn
tay ấy vẫn còn rất nhanh nhẹn. Mỗi buổi chiều ông thường xách nước tưới cây kiểng và chăm sóc
cây, đó là một thói quen mà ông không thế bỏ được. Vườn cây của ông mùa nào quả nấy. Mỗi
lần về thăm ngoại, chúng em tha hồ hái ăn mà không hề bị rầy la. Ông em luôn qua tâm đến con,
cháu. Ông luôn nhắc nhở từng li, từng tí, ông còn dạy chúng em biết yêu thương và quan tâm
đến mọi người xung quanh. Em rất yêu thương ông ngoại của mình.
(Chia sẻ của Tiểu Hy, dẫn từ https://download.vn/ke-ve-mot-nguoi-ma-em-quy-men-nhat-36187)
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Tấm gương ý chí
❖ Nhắc đến những bài nhạc cổ điển
phức tạp với giai điệu cuốn hút là
nhắc đến thiên tài Beethoven, người
đã để lại hàng trăm tác phẩm âm
nhạc nổi tiếng cho nhân loại.
❖ Nhưng ít ai biết rằng, ông bị khiếm
thính sau trận ốm thuở ấu thơ.
Beethoven là một nhà soạn nhạc cổ
điển người Đức. Sau một trận ốm,
thính giác của ông ngày một suy
yếu và cuối cùng, ông không thể
nghe được nữa.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Tấm gương ý chí
❖ Vượt lên số phận, ông tiếp tục tập
luyện đàn và đã trở thành một nhà
soạn nhạc vĩ đại. Người thầy dạy
ông những nốt nhạc đầu tiên chính
là cha ruột, một nhạc sĩ đứng tuổi
không thành công. Năm 17 tuổi,
ông mất mẹ, không lâu sau thì cha
qua đời. Đã có những lúc, cậu thiếu
niên phải sống dựa vào tiền trợ cấp
ít ỏi, một mình gánh vác trách
nhiệm nuôi hai người em. Hơn nữa,
ông còn bị đánh đập, áp đặt bởi
người cha nghiện rượu.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Tấm gương ý chí
❖ Nhưng vì ý chí quyết tâm và nghị
lực siêu phàm, cậu bé Beethoven đã
tìm cách ghi nhớ âm điệu các phím
đàn qua sự mô tả, tiếp tích theo thầy
dạy đàn. Chẳng bấy lâu sau, cậu bé
phụ tá chơi piano trong nhà thờ đã
trở thành nghệ sĩ đại dương cầm
trong dàn nhạc Hoàng gia
❖ Khắp nơi trên thế giới đều kính
trọng nghị lực và quyết tâm của ông,
một người không nghe được âm
thanh lại trở thành nhà soạn nhạc
huyền thoại.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
VAI TRÒ
❖ Ý chí là quá trình chống lại đam mê, dục vọng bên trong và
những áp lực – khó khăn của thế giới bên ngoài, phát huy sự
tự do của con người.
❖ Ý chí là một trong những phương thức góp phần kiểm soát
hành vi, phát triển tâm lý.
❖ Ý chí giúp con người có sức mạnh phi thường, vượt qua
muôn vàn khó khăn trở ngại tưởng chừng không vượt nổi.
❖ Ý chí làm cho đời sống con người và đời sống xã hội sẽ
phong phú hơn khi nhờ vào sự năng động của ý thức.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
CÁC PHẨM CHẤT
Ý CHÍ
TÍNH MỤC ĐÍCH
Tính mục đích là một phẩm chất quan
trọng của ý chí liên quan chặt chẽ đến khả
năng đề ra mục đích trong hoạt động và trong
cuộc sống của mình.
Ngoài ra, tính mục đích giúp con người biết
điều khiển hành vi của mình phục tùng vào
định hướng đã được xác lập một cách tự giác,
mạnh mẽ.
TÍNH ĐỘC LẬP
Tính độc lập liên quan đến khả năng đưa ra những quyết
định và thực hiện hành động đã dự định mà không chịu
ảnh hưởng bởi người khác.
Tính độc lập trong ý chí còn thể hiện ở điểm chủ thể
không bị ám thị hay áp đặt suy nghĩ, hành động bởi một
đối tượng khác khi mình đã có suy nghĩ, cân nhắc và đưa
ra những sự lựa chọn.
TÍNH QUYẾT ĐOÁN
❖ Tính quyết đoán là phẩm chất của
ý chí liên quan chặt chẽ đến khả
năng đưa ra những quyết định kịp
thời, dứt khoát mà không có những
tình trạng dao động không cần
thiết hay phụ thuộc vào những tác
động xung quanh.
❖ Tính quyết đoán được thể hiện vẫn
dựa trên nền tảng của sự suy nghĩ,
cân nhắc và phân tích một cách
thấu đáo.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
TÍNH KIÊN TRÌ
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
TÍNH TỰ CHỦ
❖ Tính tự chủ liên quan đến khả năng
làm chủ được bản thân trong
những trường hợp có sự xung đột
tâm lý bên trong.
❖ Tính tự chủ giúp con người duy trì
được sự kiểm soát các hành vi của
bản thân như: chiến thắng những
đòi hỏi không hợp lý, chiến thắng
những suy nghĩ tiêu cực hoặc
những xúc cảm âm tính.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
ĐẶC ĐIỂM CỦA
HÀNH ĐỘNG Ý CHÍ
❖ Hành động ý chí mang tính mục
đích. Khi con người ý thức được
mục đích và điều kiện thực hiện thì
hành động ý chí mới trở nên mạnh
mẽ vì nó sẽ thôi thúc con người đạt
được mục đích. Nếu mất đi đặc
điểm này thì hành động ý chí sẽ
không thể tồn tại và không thể gọi
đó là hành động ý chí.
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
❖ Hành động ý chí xuất phát từ tâm lý của
chủ thể. Trong hành động ý chí còn luôn
có sự tham gia của nhận thức ở mức độ
cao mà nó thể hiện ở sự theo dõi, kiểm tra,
giám sát, điều khiển và điều chỉnh. Đấy
chính là sự tham gia đích thực của ý chí.
Với sự nỗ lực của ý chí, hành động ý chí
sẽ hướng đến việc khắc phục những khó
khăn, hoặc nỗ lực nhiều hơn nữa. Tuy
nhiên, cũng có thể hành động ý chí sẽ
được chính sự điều khiển của ý thức để
chuyển sang một quyết định mới liên quan
đến hành động như: tạm dừng hành động,
chuyển hành động, không hành động…
KHÓA HỌC TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG - TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Ý CHÍ
PHÂN LOẠI HÀNH ĐỘNG Ý CHÍ
Có thể phân loại hành động ý chí theo các loại sau đây:
* Hành động ý chí đơn giản
Hành động ý chí đơn giản là những hành động có mục đích rõ ràng nhưng sự lựa chọn phương tiện,
biện pháp thực hiện cũng như sự nỗ lực khó khăn không thể đầy đủ.
* Hành động ý chí cấp bách
Hành động ý chí cấp bách là những hành động xảy ra trong một thời gian rất ngắn ngủi, đòi hỏi phải
có sự quyết định và sự thực hiện quyết định nhanh chóng. Trong hành động này, mục đích, phương tiện
cũng như sự nỗ lực của bản thân hầu như hòa quyện cùng nhau.
* Hành động ý chí phức tạp
Hành động ý chí phức tạp là loại hành động điển hình, mục đích, phương tiện, sự nỗ lực được thực
hiện một cách rõ ràng.
+ Mức độ cao hơn ý muốn - so với ý hướng thì nhu cầu biểu hiện rõ ràng hơn, xác định được đối
tượng của nhu cầu, nhưng chưa xác định được phương pháp thực hiện mục đích.
+ Mức độ ý định là nhu cầu đã được ý thức một cách đầy đủ, con người đã xác định được mục đích
của hành động. Chẳng hạn, khi ta nói ý định làm việc gì đó nghĩa là người ta sẵn sàng hành động.
Khi giai đoạn chuẩn bị được thực thi thì một trong những yếu tố cần được phân tích sâu đó chính là
quyết định hành động. Trong khi chủ thể chuẩn bị thì chính chủ thể đã trải qua việc ý thức rõ ràng về
mục đích cũng như lập kế hoạch thực hiện. Quyết định được thực hiện là bước cuối trong khâu chuẩn bị
hay giai đoạn chuẩn bị.
2. Giai đoạn quyết định thực hiện hoạt động
Kết quả của những đấu tranh trong chính bản thân là hành động đưa đến những quyết định. Giai
đoạn quyết định thực hiện hoạt động dựa trên những suy nghĩ và cân nhắc của cá nhân. Quyết định là
việc kết thúc giai đoạn chuẩn bị cho hành vi ý chí. Quyết định xuất hiện cũng chỉ dừng lại ở mục đích và
những phương pháp, phương tiện tiến hành hành vi ý chí. Người ta có thể phân biệt các loại quyết định
như sau:
- Quyết định thông thường.
Quyết định thông thường là quyết định hầu như không tách rời khỏi các ý muốn cụ thể, thực hiện
tiêu biểu qua các hành vi ý chí đơn giản, dễ dàng xảy ra, không có sự dao động gì và thường không có
sự đấu tranh giữa các động cơ hoặc sự đấu tranh ấy bị hạn chế tối đa. Quyết định thông thường là quyết
định được vận dụng theo truyền thống đã hình thành mà không cần có sự nỗ lực đặc biệt nào của ý chí.
- Quyết định không có đủ cơ sở.
Quyết định không có đủ cơ sở là quyết định được đưa ra trong những tình huống khó khăn mà chủ
thể chưa có sự chuẩn bị để vượt qua. Thông thường có những quyết định như vậy xảy ra ở những người
thiếu kiên quyết, kém ý chí, quy phục hoàn cảnh và không có lý tưởng sống rõ ràng. Quyết định như vậy
xảy ra ở những người thiếu kiên quyết, kém ý chí, quy phục hoàn cảnh và không có lý tưởng sống rõ
ràng.
- Quyết định có ý thức.
Quyết định có ý thức là quyết định tiêu biểu đối với những hành vi ý chí được thực hiện một cách
độc lập sau khi đã phân tích kỹ các tình huống. Những quyết định loại này thường gắn liền với sự nhận
thức đầy đủ bản chất, tầm quan trọng và sự cần thiết của hành động cần tiến hành.
- Nỗ lực ý chí.
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Trong giai đoạn này vẫn có sự tham gia đặc biệt của sự nỗ lực ý chí. Nỗ lực ý chí thể hiện ở sự chú
ý tập trung vào hoạt động cần thiết, hoặc ở sự kích thích chủ thể hoạt động, mặc dù có những khó khăn
trở ngại nảy sinh trên con đường đạt tới mục đích. Sự nỗ lực ý chí thường khác nhau tùy thuộc vào tính
chất và đặc điểm của những khó khăn phải nỗ lực để vượt qua. Có thể phân thành các nhóm khó khăn
sau đây:
+ Những khó khăn khách quan do những đặc điểm tiêu biểu của bản thân các đối tượng khác nhau
quy định.
+ Những khó khăn chủ quan do những đặc điểm riêng của bản thân chủ thể, do những mối quan hệ
đã hình thành giữa chủ thể với hiện thực xung quanh quy định.
3. Giai đoạn thực hiện
Đây là giai đoạn kế tiếp của hành động ý chí sau khi đã quyết định. Giai đoạn này đòi hỏi sự nỗ lực
lớn lao, nhưng nỗ lực chưa đủ mà phải có ý chí.
Quá trình thực hiện quyết định có thể có hai hình thức hành động bên ngoài - hành động bên trong,
có thể gọi đó là hành động ý chí bên ngoài và hành động ý chí bên trong. Nếu con người ta đi chệch khỏi
con đường đã định tức lệch mục đích thì đó là hành động thiếu ý chí.
Việc thực hiện được tiến hành bằng các thao tác hoạt động nhất định nhằm đạt tới mục đích với
những phương thức nhất định. Thiếu giai đoạn này thì không thể có hành vi ý chí nữa. Chính giai đoạn
thực hiện làm chỉ hành vi ý chí mới thực sự hiện hữu để đạt được mục đích của hành động.
4. Giai đoạn đánh giá
Sau khi các hành vi ý chí được thực hiện, con người bao giờ cũng đánh giá các kết quả đã đạt được.
Việc đánh giá này rất cần thiết để rút kinh nghiệm cho những hành vi sau đó. Việc đánh giá hành vi ý
chí có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong hoạt động của con người, nó trở thành sự kích thích và động
cơ đối với hoạt động tiếp theo. Sự đánh giá xấu thường là động cơ dẫn đến việc đình chỉ hoặc sửa chữa
những hành động hiện tại. Sự đánh giá tốt sẽ kích thích việc tiếp tục tăng cường và cải tiến hành động
đang thực hiện.
Đánh giá kết quả hành động là đối chiếu kết quả đạt được với mục đích đã định. Sự đánh giá có thể
xảy ra hai trạng thái: Đánh giá xấu thường kèm theo những rung cảm xấu hổ, hối hận, chưa thỏa mãn;
Đánh giá tốt xảy với những rung cảm thỏa mãn, hài lòng, sung sướng.
Sự đánh giá hành động có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong hoạt động của con người. Nó có thể trở
thành động cơ, kích thích đối với hoạt động tiếp theo: Đánh giá xấu lẫn dẫn đến việc đình chỉ hoặc sửa
chữa hành động hiện tại; Đánh giá tốt sẽ kích thích việc tiếp tục, tăng cường hành động đang thực hiện.
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Ý CHÍ
PHÂN BIỆT KỸ XẢO VÀ THÓI QUEN
Giống nhau:
- Đều là hành động tự động hóa
- Đều có cơ sở sinh lý là các định hình động lực
- Mang tính chất lặp lại và sự thuần thục trong hành động
Khác nhau:
NHÂN CÁCH
GIÁO DỤC VÀ NHÂN CÁCH
Giáo dục là hoạt động chuyên biệt, có mục đích, có kế hoạch, có chương trình và sử dụng những
hình thức, phương pháp tác động dựa trên cơ sở khoa học nhằm hình thành nhân cách con người theo
yêu cầu của xã hội.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển
nhân cách.
- Giáo dục vạch phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách, xác định mô hình nhân cách
trong tương lai đáp ứng yêu cầu của cuộc sống trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
- Thông qua giáo dục, mỗi cá nhân lĩnh hội được nền văn hóa, tri thức, kinh nghiệm được chọn lọc dưới
sự dẫn dắt của thế hệ trước.
- Cách thức tác động của giáo dục dựa trên những thành tựu khoa học, các quy luật nhận thức và quy luật
tâm lý của con người…vì thế nó mang lại hiệu quả phát triển cao và rút ngắn về thời gian.
- Giáo dục có thể phát huy, hiện thực hóa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối sự hình thành nhân
cách như yếu tố sinh học, môi trường; đồng thời bù đắp cho những thiếu hụt và hạn chế do các yếu tố
này gây ra (bệnh tật, khuyết tật, hoàn cảnh không thuận lợi).
- Giáo dục có thể uốn nắn những sai lệch của nhân cách về một mặt nào đó so với các chuẩn mực, hướng
nó phát triển theo mong muốn của xã hội.
- Giáo dục đi trước sự phát triển, giáo dục luôn hướng về trình độ tương lai với những bậc phát triển ngày
càng cao.
Tuy nhiên, không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, cần phải đặt giáo dục trong mối quan hệ
với các yếu tố khác.