Professional Documents
Culture Documents
59
Sandhya Talekar and Jayant Shelgaonkar
Một bệnh nhân nam 63 tuổi bị đái tháo đường típ 2 phụ thuộc insulin được đưa
đến khoa cấp cứu vì thay đổi nhận thức và khó thở đã 24 giờ.
Thăm khám cho thấy sốt với nhiệt độ 101 ° F.
Nhịp tim đều 130 lần/phút và huyết áp là 110/70 mmHg. Glasgow 9 điểm.
Glucose máu 963 mg/dL.
Các trường hợp cấp cứu của đái tháo đường bao gồm các tình trạng tăng đường
huyết như đái tháo đường nhiễm toan ceton (DKA), hôn mê tăng áp lực thẩm thấu
(HHS) và hạ đường huyết cấp cứu.
Tất cả những trường hợp khẩn cấp này có thể đe dọa đến tính mạng, nhưng nếu
chúng được xác định và điều trị đúng cách, có thể thu được kết quả hài lòng. DKA
thường xảy ra ở những bệnh nhân trẻ mắc bệnh tiểu đường típ 1 bị lệ thuộc insulin
và HHS thường xảy ra ở người cao tuổi mắc bệnh tiểu đường típ 2 khi sử dụng các
thuốc hạ đường huyết đường uống hoặc insulin. Sự khác biệt về sinh lý bệnh cơ
bản là không có insulin lưu hành trong DKA và một số insulin còn dư lại trong
HHS, giúp ngăn ngừa phân giải lipid (lipolysis) và ketosis, kết hợp với sự suy
giảm của chức năng thận dẫn đến tăng đường huyết nặng và tình trạng tăng áp lực
thẩm thấu.
Step 1: Bắt đầu hồi sức ban đầu (Xem Chap. 78)
• Khẩn trương đặt hai catheter tĩnh mạch ngoại biên lớn để truyền dịch.
• Một đường trung tâm là cần thiết trong trường hợp hạ huyết áp, thiếu đường
truyền ngoại biên, truyền nhiều lần, nhiễm toan nặng và suy giảm các thông số
về tim hoặc hô hấp.
• Đường thở phải được duy trì vì bệnh nhân HHS có thể bị mất chức năng.
• Tăng thông khí nổi bật với nhiễm toan và có thể cần thông khí hỗ trợ.
• Ở những bệnh nhân hạ huyết áp, sử dụng chất keo hoặc tinh thể để khôi phục
thể tích tuần hoàn. Quan trọng hơn loại chất lỏng được sử dụng là sự hồi phục
nhanh chóng của thể tích tuần hoàn.
• Ban đầu, bolus dung dịch muối đẳng trương 1L hoặc 500 ml chất keo trong
hơn 30 phút để điều chỉnh sốc. Sau đó, chất lỏng có thể được bù ở tốc độ 50-
200 mL/giờ cho đến khi tình trạng giảm thể tích được điều chỉnh.
• Bất chấp nồng độ natri máu ban đầu có thể cao trong HHS, hồi sức bằng dịch
tinh thể ban đầu nên dùng NaCl 0,9% vì việc điều chỉnh tình trạng giảm thê
tích nên được ưu tiên hơn so với điều chỉnh thẩm thấu bằng dung dịch nhược
trương.
• Các dấu hiệu lâm sàng như nhịp tim, huyết áp và tưới máu da có thể được sử dụng
để hướng dẫn hồi sức dịch. Ở những bệnh nhân bị HHS có bệnh kèm theo như rối
loạn chức năng thận và tim bảo cần đảm bảo việc theo dõi chặt chẽ hơn về huyết
động.
• Hồi sức bằng NaCl nhược trương (0,45%) có thể thích hợp ở những bệnh nhân
không bị sốc và tăng natri máu (sau khi hiệu chỉnh theo đường huyết cao) vì dung
dịch NaCl nhược trương không thể điều chỉnh nhanh chóng tình trạng giảm thể tích.
Điều này cũng có thể thích hợp ở những bệnh nhân có truyền kali đồng thời để duy
trì tính đẳng trương của dịch truyền. Tính toán lượng nước thiếu hụt để hỗ trợ bù
dịch ở bệnh nhân tăng natri máu (xem Chương 56) và thay thế bằng dung dịch
dextrose hoặc nước uống.
• Thay thế tổng lượng nước mất từ từ bằng dung dịch glucose 5% (50-200 mL / giờ)
sau khi thể tích tuần hoàn và natri máu được phục hồi (thường là khi đường huyết
giảm xuống < 200 mg / dL). Điều này là để tránh thay đổi thẩm thấu đột ngột, có
thể dẫn đến phù não và co giật, được thấy thường xuyên hơn ở bệnh nhân nhi khoa.
• Hạ magie máu xảy ra sớm trong quá trình điều trị DKA và cần điều chỉnh.
Theo dõi nồng độ magiê huyết thanh.
• Thiếu phốt pho là phổ biến ở DKA. Nên cần bổ sung khi giảm nặng (< 1 mg /
dL).
• Truyền natri bicarbonate: nhiễm toan chuyển hóa cải thiện khi phục hồi thể
tích nội mạch và tưới máu mô. Bicarbonate có một vai trò hạn chế vì nó chưa
được chứng minh là có thể cải thiện kết cục trong DKA. Hơn nữa, bicarbonate
có liên quan đến các tác dụng phụ như tăng nhiễm toan dịch nội bào và não tủy
nghịch lý, tăng sản xuất CO2, ảnh hưởng xấu đến oxy hóa mô và kiềm hóa
chuyển hóa sau hồi sức.
• Bicarbonate có thể được cân nhắc trong các tình huống sau:
– Khi pH < 7.0 dai dẳng sau khi đã điều trị 2–3 h
– Khi sốc tụt huyêt áp không đáp ứng với bù dịch nhanh và toan chuyển hóa
nặng dai dẳng
– Có tăng kali máu nặng
• Ngay cả trong những trường hợp này, bicarbonate chỉ có thể ―mua thời gian‖
(buy time) cho đến khi có điều trị khác điều chỉnh tình trạng nhiễm toan.
• Có thể sử dụng bicarbonate dưới dạng truyền tĩnh mạch 100 mEq trong 4 giờ
với theo dõi pH động mạch thường xuyên.
Step 7: Theo dõi hiệu quả điều trị bằng lâm sàng và xét nghiệm
• Những đặc điểm sau cho thấy sự cải thiện lâm sàng:
– Bệnh nhân cảm thấy khỏe hơn
59 Diabetic Emergencies 467
Một bệnh nhân nam 42 tuổi, bị đái tháo đường típ 1, đã được đưa đến khoa cấp
cứu vì cảm thấy không khỏe, buồn nôn, nôn trong 2 ngày, đột ngột bị choáng
váng, đổ mồ hôi, đánh trống ngực và thay đổi nhận thức. Đường huyết là 42
mg/dL.
Suy giảm nhận thức ở bệnh nhân đái tháo đường thường gặp nhất là do
hạ đường huyết, phổ biến nhất là do thuốc. Các triệu chứng của hạ đường huyết là
không đặc hiệu, và nó có thể giả dạng thành bệnh lý tim mạch, thần kinh và thậm
chí là bệnh tâm thần. Cần có một ngưỡng thấp để kiểm tra đường huyết ở tất cả
các bệnh nhân đái tháo đường để đảo bảo việc loại trừ hạ đường huyết vì đây là
một tình trạng có thể điều trị được và nếu không được chú ý sẽ dẫn đến tử vong và
tàn tật nghiêm trọng.
Step 1: Nhận diện nhanh chóng những biểu hiện lâm sàng của hạ đường huyết
• Các đặc điểm của hạ đường huyết có thể là do thần kinh như vã mồ hôi, run,
lo âu, đánh trống ngực, đói, dị cảm và nhịp tim nhanh do kích thích giao cảm.
• Chúng có thể vắng mặt ở những bệnh nhân mắc bệnh thần kinh tự động hoặc
dùng thuốc chẹn beta.
• Ở một số bệnh nhân, các triệu chứng thần kinh do thiếu glucose máu như
buồn ngủ, bất thường về hành vi, hôn mê và co giật chiếm ưu thế.
• Nếu đường huyết dưới 70 mg/dL và các triệu chứng được cải thiện khi dùng
glucose, thì triệu chứng của bệnh nhân có thể được quy cho hạ đường huyết.
Step 4: Cân nhắc thuốc thay thế trong một số tình huống cụ thể
• Có thể tiêm glucagon với liều 1 mg tiêm bắp hoặc tiêm dưới da nếu không thể
lấy được tĩnh mạch.
• Có thể tiêm octreotide 25-50 mcg tiêm dưới da hoặc truyền tĩnh mạch ở bệnh
nhân hạ đường huyết đề kháng, hạ đường huyết do sulfonylurea hoặc hạ đường
huyết do thuốc như quinine hay quinidine.
Step 5: Xem xét các yếu tố thúc đẩy hạ glucose máu ở những bệnh nhân đái
tháo đường
• Bỏ lỡ bữa ăn/lượng thức ăn không đủ
• Dùng insulin quá liều
• Thay đổi điều trị/liều lượng thuốc hạ đường huyết hoặc insulin
• Uống đồng thời những loại thuốc gây hạ đường huyết
• Có suy gan hoặc suy thận
Step 6: Xem xét những rối loạn hay những loại thuốc liên quan đến hạ đường
huyết (xem Tables 59.1 and 59.2)
• Trong một đơn vị chăm sóc đặc biệt, một số rối loạn có liên quan đến hạ
đường huyết và việc theo dõi đường huyết thường xuyên nên được thực hiện ở
những bệnh nhân này.
• Hạ đường huyết là phổ biến hơn nếu không dung nạp việc cho ăn đường ruột
và bệnh nhân không được bắt đầu cho dinh dưỡng ngoài ruột.
• Nhiều bệnh nhân trong ICU có thay đổi trạng thái tinh thần và/hoặc đang bị
dùng thuốc an thần, tình trạng hạ đường huyết có thể không được chú ý ở
những bệnh nhân này, và vì vậy, theo dõi đường huyết thường xuyên là điều
cần thiết ở những nhóm bệnh nhân này.
470 S. Talekar and J. Shelgaonkar
• Nhiều bệnh nhân trong ICU đang truyền tĩnh mạch insulin. Ngừng hoặc
không dung nạp với cho ăn đường ruột và ngừng dinh dưỡng qua đường tĩnh
mạch mà không ngừng insulin dẫn đến hạ đường huyết.
• Ở mức glucose thấp hơn và ở tình trạng tưới máu thấp, máy đo đường huyết
tại giường mất đi độ chính xác.
Suggested Reading
1. Kitabchi AE, Murphy MB. Is a priming dose of insulin necessary in a low-dose insulin
protocol for the treatment of diabetic ketoacidosis? Diabetes Care. 2008;31(11):2081.
A priming dose in low-dose insulin therapy in patients with DKA is unnecessary if an
adequate dose of regular insulin of is given.
2. Magee MF, Bhatt BA. Management of decompensated diabetes. Diabetic ketoacidosis and
hyperglycemic hyperosmolar syndrome. Crit Care Clin. 2001;17(1):75–106.
A comprehensive review article on DKA and HONK.
3. Viallon A, Zeni F. Does bicarbonate therapy improve the management of severe diabetic
ketoacidosis? Crit Care Med. 1999;27(12):2690.
Data from the literature and this study are not in favor of the use of bicarbonate in the
treatment for diabetic ketoacidosis with pH values between 6.90 and 7.10.
4. Hillman K. Diabetic ketoacidosis and hyperosmolar nonketotic coma. In: Albert RK, Slutsky A,
Ranieri M, Takala J, Torres A, editors. Clinical Critical Care Medicine. Philadelphia: Mosby
Inc; 2006. p. 507–515.