You are on page 1of 16

BÁO CÁO KẾT QUẢ

NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN


1. Lời giới thiệu
Văn học dân gian đóng vai trò là: “Bầu sữa mẹ” (Theo cách nói
của MGORKI-Nhà văn Nga vĩ đại) nuôi dưỡng nền văn học.
Nếu không có thể thơ lục bát được hình thành và đào luyện từ
trong ca dao dân tộc thì không thể có truyện Kiều của Nguyễn
Du. Không có kho tàng truyện cổ tích cực kỳ phong phú thì không
có Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ. Nhiều nhà văn thơ khác
của dân tộc đã học tập, tiếp thu những hìn tượng nghệ thuật,
những cốt truyện và nhất là cách nhìn nhận về con người và cuộc
sống trong văn học dân gian truyền thống để tạo nên tác phẩm
văn học của họ như: Hồ Chí Minh,Nguyễn Khuyến, Tố Hữu,Trần
Đăng khoa…
Trong đó truyện cổ tích là một trong những thể loại chủ yếu của
văn học dân gian nó cũng là thể loại có nhiều vấn đề phức tạp
và phong phú. Thông qua những sáng tạo nghệ thuật cổ tích ,tác
giả dân gian đã gửi vào đó quan niệm nghệ thuật về thế giới
nhân sinh thể hiện ý thức thẩm mỹ gắn liền với tinh thần nhân
văn của mình
Truyện cổ tích của dân tộc nào cũng đề cao đạo đức nhân nghĩa.
Nó là một môi trường đắc địa để những bài học đạo đức,luân lý
được đưa đến cho trẻ một cách tự nhiên. Hiện nay cuộc sống
hiện đại nên có nhiều phương tiện giải trí vui chơi và học tập hấp
dẫn khiến các bậc phụ huynh thường lệ thuộc vào đó, thường
khi con đi học về là bố mẹ mở băng đĩa siêu nhân hay trò chơi
“Game” cho con xem. Nhưng thông qua các thể loại ấy làm sao
có thể đánh thức được tình cảm đạo đức ban đầu như: Tình yêu
thương lòng biết ơn, tinh thần đoàn kết….mà thông qua nội dung
ý nghĩa của những câu chuyện khiến những quan hệ hành vi của
trẻ nhận thức được sâu sắc từ đó tôi đã tìm tòi, học hỏi, suy nghĩ
và mạnh dạn chọn đề tài “ Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho
trẻ 5 tuổi thông qua các câu truyện cổ tích Việt Nam”.
Chuyện cổ tích chiếm một vị trí quan trọng trong kho tàng văn
học Việt Nam. Nó đi sâu vào tâm trí của mỗi con người ngay từ
thủa ấu thơ. Nội dung truyện gần gũi với cuộc sống của trẻ, nó gợi lên những cảm
xúc lành mạnh, dễ nhớ. Giúp trẻ hiểu được cái hay cái đẹp trong cuộc sồng xung quanh
trẻ từ đó bồi dưỡng tâm hồn thanh cao, lòng nhân ái và những đức tính tốt đẹp.

Đối với trẻ mẫu giáo 5 tuổi việc giáo dục lễ giáo cho trẻ tốt nhất là
cho trẻ là thông qua những câu chuyện cổ tích. Trên cơ sở chỉ đạo,
triển khai, quan tâm giúp đỡ của Phòng giáo dục huyện Tam
Dương và sự hướng dẫn trực tiếp của ban giám hiệu nhà trường.
Qua thực tiễn đặc điểm tình hình lớp 5 tuổi A3 và 5 tuổi A2, khả
năng giao tiếp của trẻ còn nhiều hạn chế. Cùng với sự tìm tòi, học
hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, tôi đã tích lũy đúc rút được một số
kiến thức và đã bắt tay vào nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp
giáo dục lễ giáo cho trẻ 5 tuổi thông qua các câu chuyện cổ
tích việt nam” làm sáng kiến của mình với mục đích nhằm nâng
cao khả năng giao tiếp tốt nhất, tình yêu thương, lòng biết ơn, kỹ
năng nói, khả năng hiểu và diễn đạt, đặc biệt sẽ gây được ấn tượng mạnh,
ghi nhớ có chủ đích của trẻ để trẻ phát huy được tính tái tạo, tính
tưởng tưởng sáng tạo theo lôgic khoa học và đây cũng là tiêu chí
mà tôi đưa ra cho bản thân để hướng tới thực hiện có hiệu quả
công tác giáo dục trẻ tốt hơn.
2. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 5 tuổi
thông qua các câu chuyện cổ tích việt nam”.
3. tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Lê Thị Lan
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường mầm non Hoàng Lâu - Tam
Dương - Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0332978739
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Lê Thị Lan
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phát triển ngôn ngữ
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
Từ tháng 02/2018 đến tháng 02/2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1.Về nội dung của sáng kiến
Là một loại hình nghệ thuật, văn học giữ vai trò lớn trong việc
hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Dẫn dắt trẻ vào thế giới văn học là nhiệm vụ quan trọng của
trường mầm non nhất là các lớp mẫu giáo: Đó là sự mở cửa cho
những bước đi chập chững đầu tiên vào thế giớ các giá trị phong
phú chứa đựng trong tác phẩm văn học đóng góp trong việc hình
thành và phát triển tình cảm đạo đức cho trẻ.Tuy niên không phải
dân tộc nào cũng đề cao đạo đức như yếu tố thứ nhất của phẩm
chất con người như dân tộc Việt Nam. Dường như quan điểm
của con người Việt Nam đạo đức như là cái gốc của sự tôt sấu
trên đời. Quan niệm được phản ánh trong truyện cổ tích, vừa
chắt lọc kinh nghiệm ứng sử trong thực tế vừa là đạo đức lý
tưởng mà con người lao độmg mong muốn xây dựng. Vì thế nó
vừa gần gũi, vừa cao cả, nó không chỉ là cái vốn có, cần phải
cho cuộc đời tốt đẹp hơn
Khả năng khám phá thế giới xung quanh của trẻ còn hạn chế.Tư
duy của trẻ là tư duy tổng quát hành động nên trẻ không hiểu
qua những lời cô nói, làm như thế này có nghĩa là tốt, như thế
kia là xấu ,hay còn phải làm như thế nào?...Nhưng qua những
câu truyện cổ tích thường có cốt truyện ngắn gọn, rõ ràng, dễ
nhớ dễ thuộc, nhân vật gần gũi, chính là con người trong các mối
quan hệ xã hội. Điều quấn hút các em chính là yếu tố thần kỳ
những đồ vật quen thuộc gần gũi được thổi những yếu tố ly kỳ
hoang đường bỗng trở nên hấp dẫn đối với trí tượng của trẻ thơ
mà giáo dục tình cảm cho trẻ là một trong năm nhiệm vụ lớn của
công tác chính sách giáo dục cho trrẻ mẫu giáo. Việc giáo dục lễ
giáo cho trẻ Mẫu giáo lớn là vô cùng cần thiết, để chuẩn bị tốt
cho trẻ bước lên lớp 1 có tâm thế tốt nhất để trẻ vào lớp một một
cách tự tin. Từ thực tế trên tôi luôn suy nghĩ và trăn trở xem mình
phải làm gì và làm như thế nào để giáo dục lễ giáo cho trẻ trong
trường mầm non. Do đó tôi quyết định lựa chọn sáng kiến “Một
số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ thông qua các câu
truyện cổ tích Việt Nam”.
7.2. Thực trạng
* Thuận lợi:
- Giáo vên có trình độ chuyên môn vững vàng, tâm huyết với
nghề, nhiệt tình trong công tác.
-Trẻ đi học tương đối đều, được làm quen và củng cố thường
xuyên nên đã thành hệ thống.
- Cô giáo có trình độ chuyên môn vững, yêu nghề mến trẻ, chịu
khó học hỏi. Tích cực học hỏi và trao đổi cùng đồng nghiệp về
chuyên môn nghiên cứu, sưu tầm các loại sách báo nên tích lũy
được một số kinh nghiệm.
* Khó Khăn
-Trường mầm non Hoàng Lâu là trường mầm non nông thôn và
đặc biệt phụ huynh làm nông nghiệp nên chưa thực sự quan tâm
đến con cái.Vì vậy việc học tập của trẻ chưa đạt kết quả
Nhất là phụ huynh không hiểu tầm quan trọng của các môn học
đặc biệt là môn văn học, họ đưa con em họ đến lớp với mục đích
là nhờ cô giáo…Vì thế cho nên nhận thức của trẻ còn yếu.
- Đồ dùng và tranh ảnh còn ít.
- Khả năng truyền thụ tác phẩm văn học của giáo viên không
đồng đều, một số giáo viên còn hạn chế khi trò chuyện, kể
chuyện, đàm thoại kích thích được sự phát triển kỹ năng nghe,
hiểu, nói của trẻ.
- Nhận thức của trẻ không đồng đều. Khả năng sáng tạo của trẻ
còn nhiều hạn chế.
- Số trẻ đông, một số trẻ còn quá hiếu động, một số trẻ nhút nhát
nên việc rèn kỹ năng cá nhân ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến
thức.
- Khả năng giao tiếp của trẻ còn nhiều hạn chế, vốn từ của
trẻ chưa phong phú còn nhiều trẻ nói trống không, quá trình trải
nghiệm, tiếp xúc với môi trường bên ngoài còn có những hạn
chế nhất định.
* Khảo sát tình hình thực tế trẻ đầu năm lớp 5 tuổi A3-
Trường mầm non Hoàng Lâu (số trẻ 42)

Đạt Chưa đạt


Ghi
Nội dung Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ chú
lượng (%) lượng (%)
Ngoan ngoãn lễ phép 17 40,4 25 59,6
với mọi người
Nhường nhịn chia sẻ 13 30,9 29 69,1
Quan tâm giúp đỡ 15 35,7 27 64,3
* Khảo sát tình hình thực tế trẻ đầu năm lớp 5 tuổi A2-Trường
mầm non Vân Hội (số trẻ 32)
Đạt Chưa đạt
Ghi
Nội dung Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ chú
lượng (%) lượng (%)
Ngoan ngoãn lễ phép 10 31,2 22 68,8
với mọi người
Nhường nhịn chia sẻ 12 37,5 20 62,5
Quan tâm giúp đỡ 9 28,1 23 71,9
Những kết quả trên tôi nhận thấy rằng cần phải giáo dục lễ giáo
cho trẻ cho trẻ mẫu giáo thông qua các câu chuyện cổ tích là rất
cần thiết.
7.3. Giải pháp mới
Xuất phát từ những tình hình thực tế trên. Tôi đã mạnh dạn cho
trẻ làm quen với một số truyện cổ tích Việt Nam (ngoài chương
trình quy định).Thông qua nội dung truyện dẫn đến giáo dục lễ
giáo cho trẻ một cách nhẹ nhàng, phù hợp với lứa tuổi, không gò
bó áp đặt mà đạt hiệu quả cao cho trẻ
7.3.1. Giải pháp thứ nhất: Lập kế hoạch cho chủ đề.
Trước hết để cho nội dung lôgích và phù hhợp với chủ đề, tôi
xây dựng kế hoạch làm quen với văn học cho cả một năm ngay
từ đầu năm. Tìm hiểu theo từng chủ đề của ban giám hiệu xem
có bao nhiêu bài mà có nội dung là truyện cổ tích Việt Nam từ đó
điều chỉnh, bổ xung một số truyện mà tôi sưu tầm sao cho phù
hợp với đặc điểm của trẻ cuả lớp theo các chủ đề.
Chương trình của lớp tôi là 9 chủ đề. Tôi thấy số lượng truyện
cổ tích Việt Nam còn rất ít và đưa vào giờ hoạt đông chung cũng
rất ít. Trong khi đó kho tàng truyện cổ tích của chúng ta rất phong
phú. Truyện cổ tích dù ở thể loại nào :Truyện cổ về loài vật,
truyện cổ tích thần kỳ hay truyện cổ tích sinh hoạt đều mang nội
dung tình cảm, nêu được những bài học đạo đức cho các em ở
lứa tuổi mầm non. Chính vì vậy tôi đã bỏ ra khá niều thời gian
sưu tầm lựa chọn một số truyện cổ tích Viêt Nam để đưa vào
chương trình để cho trẻ của tôi được học (ngoài chương trình
quy định) để giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ.
Ví dụ
*Chủ đề gia đình (Tấm Cám, người con út hiếu thảo)
*Chủ đề nghề nghiệp -Sự tích quả dưa hấu, anh nông dân và
ba điều ước.
*Chủ đề động vật - Sự tích con khỉ, cóc kiện trời.
*Chủ đề thực vật-Sự tích cây thìa là, cây khế, cây tre
trăm đốt.
7.3.2. Giải pháp thứ hai: Nghiên cứu tài liệu tập san, truy
cập Internet tham khảo giáo án, các tiết dạy của giáo viên dạy
giỏi các cấp, Ứng dụng công nghệ thông tin để có thêm kinh
nghiệm kiến thức mới để áp dụng vào các giờ dạy trên lớp.
Tôi thường xuyên nghiên cứu, tài liệu có liên quan dến phương
pháp kể chuyện, đao loát trên mạng Internet để có thêm kinh
nghiệm về cách tổ chức các giờ kể chuyện luôn dược đổi mới
về hình thức tạo sự hứng thú ở trẻ. Tôi thiết kế giáo án điện tử
để có những giờ kể chuyện có sử dụng hình ảnh trên máy chiếu,
thường cho trẻ quan sát đàm thoại chuyện tranh ở mọi hoạt động
chơi trong ngày để trẻ được thoải mái đàm thoại một cách cởi
mở cùng cô và bạn về các nội dung câu chuyện sắp học từ đó
trẻ nhở và hiểu nội dung truyện một cách sâu sắc và thoải mái
lên trẻ hứng thú với giờ học hơn,tích cực trao đổi đàm thoại với
cô và bạn.
Tôi tạo mọi diều kiện để dự giờ và tham khảo các giờ dạy của
giáo viên giỏi các cấp tìm và làm mới hình thức tổ chức trong các
giờ tổ chức hoạt động trong và ngoài lớp.
7.3.3. Giải pháp thứ ba: Chuẩn bị đồ dùng dạy học.
Bản thân tôi khẳng định: Đồ dùng dạy học là một trong những
phương tiện dạy học đạt kết quả cao nhất. Đồ dùng dạy học hấp
dẫn sẽ giúp trẻ nhớ rất lâu những kiến thức mà cô cung cấp nhất
là khi trẻ được trực tiếp quan sát, trực tiếp hoạt động, qua đó trẻ
cảm nhận dược tình cảm, tính cách của các nhân vật trong
truyện một cách sâu sắc. Vì vậy trước khi tổ chức cho trẻ làm
quen với truyện tôi chuẩn bị đồ dùng thật chu đáo. Tranh ảnh
hấp dẫn, rối nhạc nền khi kể phù hợp, sa bàn phù hợp khi kể, có
thể cho trẻ xem đĩa.
Ví dụ khi kể truyện “cây tre trăm đốt” ở chủ đề thực vật kể song
cho trẻ đóng kịch và chuẩn bị đồ dùng cho trẻ đóng kịch. Tôi
muợn áo của bà già làm áo anh nông dân cho các cháu mặc
vào làm cuốc dao vv..
7.3.4. Giải pháp thứ tư: Sử dụng các phương tiện giảng dạy
Sử dụng phối hợp và hợp lý ->hiệu quả các phương pháp giáo
dục sẽ phát huy tínhchủ động tích cực của trẻ vì thế cho nên khi
cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tôi dùng kết hợp nhiều
phương pháp để tất cả trẻ được hoạt động một cách tích cực và
cụ thể là:
+Thuộc truyện
+Nhập vai kể diễn cảm
+Phương pháp cá thể hóa
+Phương pháp tích hợp
*Thuộc truyện và nhập vai kể diễn cảm .
-Để đạt dược giờ dạy đạt kết quả tốt cô giáo phải chuẩn bị tốt
giáo án, phải thuộc truyện, thuộc các tình tiết tròg truyện để từ
đó nhập vai tốt.
*Phương pháp cá thể hóa
Mỗi trẻ em tuy ở cùng độ tuổi song có sự phát triển khác nhau
cả về thể chất và trí tuệ nên cô phải dựa vào đặc điểm này để
có những biện pháp riêng biệt tránh lối giáo dục đồng lọat để
phát huy khả năng của từng trẻ.
*Phương pháp tích hợp
Đây không phải là phép cộng tác bộ môn mà là sự kết hợp
lôgích, hợp lý giúp giáo viên khai thác tối đa nội dung giáo dục
tình cảm đạo đức qua mỗi truyện nhờ đó bài học đạo đức trở
nên hấp dẫn, gần gũi ấn tượng và sâu sắc với trẻ.
Ví dụ : Khi dạy truyện “cây trẻ trăm đốt” ở chủ đề thế giới thực
vật.
Cô giáo có thể tích hợp bộ môn môi trường xung quanh, biết về
cây tre gần gũi và rất quen thuộc của địa phương và một số loại
cây khác …
Tôi còn dùng những hình ảnh sinh động để cuốn hút sự chú ý để
kiểm tra trẻ: Những hình ảnh về chủ đề, về tác phẩm văn học mà
trẻ đã làm quen trên máy tính, tranh ảnh qua đó đàm thoại với
trẻ để trẻ được khám phá và phát triển thêm vốn từ ngữ. Tôi
thường xuyên làm những động tác vui, buồn... thể hiện bằng nét
mặt, cử chỉ rồi cho trẻ nhận xét, đoán xem đó là thể hiện tình
cảm như thế nào và cho trẻ bắt chước làm lại có thể kèm theo
một số lời nhận xét, tả lại quá trình mà con làm như thế nào. Cho
trẻ quan sát hình ảnh có tính hệ thống: Từ gần đến xa và cho trẻ
nhận xét về hình ảnh đó: Hình ảnh ở gần to hơn, hình ảnh ở xa
nhỏ hơn.
Gây sự chú ý của trẻ bằng các hình ảnh sinh động, hấp dẫn trên
máy vi tính, tranh ảnh, sách, báo, lô tô, đặc biệt là những hình
ảnh động để trẻ tập trung chú ý quan sát. Cho trẻ nghe, xem
tranh ảnh, xem nhiều phim (tác phẩm văn học dưới hình thức
phim) từ đó trẻ quan sát được các cử chỉ điệu bộ khác nhau theo
từng tình huống qua đó đàm thoại với trẻ, để trẻ được phát triển
ngôn ngữ.
Tôi thường sưu tầm những bộ phim, hình ảnh, làm giáo án điện
tử trên máy tính cho trẻ xem, trẻ khám phá, kích thích sự tò mò
ham hiểu biết của trẻ.
Tôi đặt ra các câu hỏi nguyên nhân, kết quả: Tại sao? Để làm
gì? Như thế nào? Vì sao con biết? Và những câu hỏi so sánh
như: Tại sao? Có điểm gì giống và khác nhau? Để trẻ tư duy
lôgic và có câu trả lời chính xác, rõ ràng hơn.
Khuyến khích trẻ tham gia biểu diễn hay đóng kịch thể hiện tình
cảm của mình với nhiên nhiên, con người, cuộc sống. Từ đó trẻ
biết bày tỏ tình cảm và kinh nghiệm của bản thân rõ ràng dễ hiểu
bằng những câu đơn, câu ghép khác nhau. Trẻ biết trả lời những
câu hỏi về nguyên nhân, so sánh: Tại vì, có điểm giống và khác
nhau ở chỗ, ở điểm...Và cũng biết đặt các câu hỏi: Tại sao? Như
thế nào? Để làm gì?... Biết sử dụng các từ biểu cảm, có hình
ảnh. Tự tin khi giao tiếp. Nói và thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét mặt
phù hợp với yêu cầu, hoàn cảnh giao tiếp. Từ đó trẻ sẽ biết thể
hiện tối đa nhất về tình cảm của mình cho tác phẩm văn học bộc
lộ lên qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, lời nói. Đây cũng chính là
những bước để tôi nắm bắt được đặc điểm tâm, sinh lý của từng
trẻ, từ đó tôi đưa ra những biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ và
chủ động điều chỉnh linh hoạt, sáng tạo, phù hợp.
7.3.5. Giải pháp thứ năm: Tạo môi trường ngôn ngữ phong phú, đa
dạng.
Môi trường giáo dục trong lớp có tác dụng tốt đến quá trình chăm
sóc giáo dục trẻ, có tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới tâm, sinh
lý của trẻ. Để trẻ được làm quen với tác phẩm văn học ở mọi lúc
mọi nơi, tôi luôn tạo môi trường trong và ngoài lớp thân thiện
nhất, đẹp và sinh động để cuốn hút trẻ.
Ở lớp trang trí các góc bằng chính sản phẩm của cô và của trẻ
phù hợp với chủ đề. Đặc biệt là ở góc phân vai tạo những hình
ảnh đẹp tượng trưng cho trẻ nhập vai mình vào các nhân vật
trong tác phẩm để trẻ được thể hiện mình qua sự tái tạo các hình
ảnh nhân vật và phát triển được tính sáng tạo. Ví dụ: Cắt, xé,
dán, vẽ, nặn những nhân vật chính trong tác phẩm văn học trang
trí vào các góc trong lớp đặc biệt là góc phân vai và cho trẻ kể
lại câu chuyện qua những hình ảnh mà trẻ vừa làm được.
Trang trí khu vườn cổ tích bằng những hình ảnh nhân vật trong
truyện cổ tích như hình ảnh truyện “Thần sắt” “Sự tích hoa hồng”
“Nàng tiên cá”, “Sự tích dưa hấu”.... phù hợp với từng chủ đề để
trang trí khi cho trẻ khám phá trẻ sẽ hứng thú tham gia hoạt động
đóng vai các nhân vật để kể lại chuyện.
Ví dụ: Tôi thường xuyên trò chuyện với trẻ vào các thời điểm đón
trẻ, giờ chơi, giờ sinh hoạt, lúc rảnh rỗi nhằm tìm hiểu nhu cầu,
hứng thú, tâm trạng, tình cảm của trẻ về bản thân, sự vật hiện
tượng xung quanh như thời tiết hôm nay như thế nào? Con cảm
thấy mình như thế nào? Những đồ vật này có công dụng gì? Cái
này có thể dùng vào những việc gì?
Động viên khuyến khích trẻ tham gia trò chuyện với cô và bạn,
tổ chức trò chơi ngôn ngữ cho trẻ, trò chơi kết hợp vận động với
lời ca, lời đồng dao đưa trẻ vào hoạt động bằng cách bắt chước
vần điệu và nhịp điệu ngôn ngữ. Thường xuyên tập cho trẻ nghe
và phân biệt âm thanh từ các giọng khác nhau: Giọng của cô,
của từng bạn, âm thanh của của các đồ vật khác nhau. Tổ chức
các hoạt động có sử dụng văn hóa địa phương: Nghe, kể chuyện
dân gian, hò, vè...
Chụp lại những khoảnh khắc của cô và trẻ trong khi chơi, dạo
chơi hay đóng kịch kể lại truyện, khi trẻ được thực hành trải
nghiệm, làm hình ảnh trang trí dán vào tường trong lớp học để
khi trẻ được tham gia trẻ nhận thấy sự tự tin, hào hứng, phấn
khởi, gần gũi, thân quen. Trên các mảng tường, tại các góc lớp
tôi trang trí nhiều hình ảnh đẹp, sinh động phù hợp với từng chủ
đề và mỗi hình ảnh đó đều được gắn tên gọi để trẻ được làm
quen, khám phá: Phát âm, tìm chữ, gắn thẻ chữ…
7.3.6. Giải pháp thứ sáu: Tổ chức giáo dục lể giáo cho trẻ thông
qua truyện cổ tích ở mọi lúc mọi nơi.
Theo lịch sinh hoạt chương trình cho trẻ làm quen với văn học
mỗi tuần chỉ một giờ hoạt động chung (30-35 phút) mà nội dung
chương trình đa số là truyện hiện đại và thơ truyện cổ tích còn ít
.
Chính vì vậy để đạt được mục đích đề ra tôi đã tổ chức cho trẻ
làm quen với truyện cổ tích Việt Nam mọi lúc mọi nơi mọi thời
điểm khác nhau trong ngày như:
+ Giờ đón trẻ
+ Giờ chơi ngoài trời
+ Giờ HĐ góc
+ Giờ HĐ học
+ Giờ trả trẻ
Trẻ mẫu giáo rất giầu tình cảm, trong mọi hành động đều chịu sự
chi phối của tình cảm. Một hành vi tốt của trẻ thường do cảm xúc
khi được khích lệ khen ngợi hoặc do tình yêu lòng mong muốn
giúp đỡ người mà trẻ yêu mến thúc đẩy. Những hành vi đạo đức
của trẻ chỉ thực hiện được định kỳ khi trẻ phân biệt được điều
tốt, điều xấu, những hành vi ứng xử nào cần làm và làm như thế
nào? Những hành vi nào không nên làm và không được làm
đồng thời trẻ có những hành vi động cơ đúng đắn.
Chính vì vậy việc giáo dục các chuẩn mực, quy tắc và động cơ
hành vi coi là cốt lõi của công tác giáo dục đạo đức và được thực
hiện liên tục, thường xuyên, cần luôn luôn làm giàu vốn kinh
nghiệm đạo đức cho trẻ.
- Giờ đón trẻ, giờ trả trẻ là lúc cô áp dụng biện pháp cá thể hiệu
quả nhất.
Ví dụ: Cô trò chuyện cởi mở, tự nhiên gần gũi trẻ để trẻ tự bộc
lộ bản thân: Cô hỏi trẻ nhà con có em bé không? con thường làm
gì với em bé nếu em đòi đồ chơi của con thì con làm gì? từ đó
cô có thể kể chuyện có nội dung về gia đình cho trẻ nghe
- Hoặc giờ hoạt động góc:
Góc là khu vực riêng biệt trong nhóm nơi trẻ có thể làm việc
một mình hoặc theo nhóm nhỏ theo hứng thú và nhu cầu riêng
để trẻ xem xét và khám phá .Cô giáo có thể làm việc riêng với
từng nhóm nhơ mà không sợ ảnh hưởng đến sự hoạt động tích
cực của trẻ ,ở đây trẻ được thoải mái về không gian và thời gian

- Hoạt động vào buổi chiều: Đây là thời gian lý tưởng để cô giáo
tổ chức cho trẻ làm quen chọn vẹn với một truyện cổ tích đúng
các bước làm quen với tác phẩm văn học.
7.3.7. Giải pháp thứ bảy: Thực hiện tốt tông tác phối hợp, tuyên
truyền với phụ huynh.
Khi trẻ đến trường được tôi cho giáo dục lễ giáo cho trẻ thông
qua các hoạt động với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên các
kiến thức, kỹ năng mà trẻ thu nhận được cũng cần phải được ôn
luyện tại nhà. Vì vậy để trẻ được học tốt cần có sự phối hợp cộng
tác giữa giáo viên và phụ huynh học sinh. Trong khi đó để công
tác tuyên truyền với phụ huynh một cách khoa học và đạt hiệu
quả tốt, tôi đã thực hiện như sau:
- Để việc giáo dục đạt hiệu quả tốt nhất tôi dã phối hợp chặt chẽ
với phụ huynh, từ đầu năm giáo viên đã thông báo chương trình
học của cả một năm cho phụ huynh nắm được
-Tuyên truyền với phụ huynh về lợi ích của truyện cổ tích Việt
Nam trong quá trình giáo dục trẻ. Đến đầu chủ đề tôi cho phụ
huynh muợn phô tô những câu truyện đã chọn cho phụ huynh
xem. Phát cho phụ huynh nhũng bản phụ huynh phô tô để phụ
huynh kể cho con em mình nghe.
- Giáo dục lễ giáo cho trẻ không thể tách rời khỏi gia đình vì giáo
dục tình yêu là nội dung cơ bản của giáo dục lòng nhân ái cho
trẻ.
- Giáo viên luôn trò chuyện tuyên truyền với phụ huynh về các
nội dung giáo dục đạo đức, hành vi đạo đức phù hợp với trẻ để
phụ huynh phối hợp rèn trẻ và dạy trẻ tại gia đình .
- Hàng ngày tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình
sức khỏe và học tập của trẻ để về nhà phụ huynh kết hợp dạy
thêm, cho trẻ ôn luyện thêm bằng cách hỏi trẻ như: Hôm nay con
được chơi trò chơi gì, chơi như thế nào, con được nghe cô kể
chuyện gì?.. con kể lại cho bố mẹ nghe nào?...
- Lên kế hoạch, thông báo chương trình dạy trẻ, ghi rõ ràng nội
dung giáo dục vào bảng “Cha mẹ cần biết” để phụ huynh theo
dõi, ôn luyện thêm cho con em mình khi ở nhà. Đưa nội dung trẻ
đã được học ở lớp, cho phụ huynh về nhà cùng tham khảo và
hướng dẫn trẻ. Khuyến khích phụ huynh trao đổi về đặc điểm,
tâm lý, nhu cầu tình cảm của trẻ để tôi nắm rõ đặc điểm từng trẻ,
từ đó giúp tôi lựa chọn và điều chỉnh kế hoạch linh động, sáng
tạo phù hợp với trẻ.
8. Các thông tin cần được bảo mật: Không có
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
a. Về cơ sở vật chất.
- Nhà trường đầu tư mua máy chiếu, thiết kế vườn cổ tích.
- Phòng học đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm về mùa đông.
Trong phòng có máy tính, ti vi, đủ bàn ghế, giấy trắng, giấy in,
sáp vẽ, màu… cho trẻ hoạt động vẽ…
- Giáo viên cần trang bị đa dạng các loại tranh minh họa truyện,
rối rẹt, rối tay…để phục vụ cho các tiết kể chuyện và ở góc thư
viện của bé.
b. Về con người.
- Giáo viên phải có trình độ chuyên môn đạt chuẩn chở lên, có
sức khỏe tốt, nhiệt tình, tâm huyết với nghề và yêu quý trẻ.
- Trẻ 5 tuổi lớp mẫu giáo 5 tuổi trường mầm non Hoàng Lâu và
trường mầm non Vân Hội
- Thời gian áp dụng: Từ tháng 2 năm 2018 đến tháng 2 năm 2019
10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến
Sau một thời gian thực hiện với lòng kiên trì lòng say mê kết
hợp với việc sử dụng các biện pháp trên một cách linh hoạt .Tôi
nhận thấy nội dung mình lựa chọn đạt kết quả như sau:
-Tạo cho trẻ hứng thú hoạt động làm quen với văn học đặc biệt
là truyện cổ tích Việt Nam, giờ hoạt động góc nhiều trẻ thích chơi
ở góc sách hơn.
-Trẻ tiếp thu được những chuẩn mực đạo đức gần gũi trong
cuộc sống hằng ngày .
- Giáo dục lễ giáo không chỉ thể hiện trong giờ học mà còn được
thể hiện ở tất cả các hoạt động;
+ Giờ chơi, góc chơi, trẻ biết hòa thuận không tranh giành đồ
chơi
+ Đối với mọi người biết chào hỏi lễ phép biết nhường nhị em
nhỏ .
+ Đối với gia đình: không quấy rầy vòi vĩnh bố mẹ biết yêu
thương chia sẻ tình cảm với người thân trong lúc vui buồn.
+ Đối với thiên nhiên: Không bẻ cành, hái hoa,…hình thành đức
tính tốt: Ngăn nắp, gọn gàng, tính tự lập.
Qua một thời gian nghiên cứu và áp dụng sáng kiến trên giúp trẻ
5 tuổi A3 trường mầm non Hoàng Lâu và lớp 5 tuổi A2 trường
mầm non Vân Hội, tôi có nhận thấy kết quả chuyển biến rõ dệt
như sau:
Lớp 5 tuổiA3 trường mầm non Hoàng Lâu có kết quả như sau:
Ngoan Nhường nhịn Quan tâm
ngoãn lễ chia sẻ giúp đỡ
Số phép với
Nội dung mọi người
trẻ
Đạt Chưa Đạt Chưa Đạt Chưa
đạt đạt đạt
Trước khi
áp dụng 42 17 25 13 29 15 27
sáng kiến
Sau khi áp
dụng sáng 42 42 0 42 0 42 0
kiến
Qua bảng so sánh cho thấy sau khi áp dụng đề tài vào thực tế
đã mang lại kết quả khả quan:
+ Ngoan ngoãn lễ phép với mọi người:
Đạt: 42 = 100%; tăng 25 cháu so với đầu năm khi chưa áp dụng
đề tài.
Chưa đạt: 0; giảm so với đầu năm 25 cháu.
+ Nhường nhịn chia sẻ:
Đạt: 42 = 100%; tăng 29 cháu so với đầu năm.
Chưa đạt: 0; giảm 29 cháu so với đầu năm.
+ Quan tâm giúp đỡ:
Đạt: 42 = 100%; tăng 27 cháu so với đầu năm.
Chưa đạt: 0; giảm 27 cháu so với đầu năm.
Lớp 5 tuổiA2 trường mầm non Vân Hội có kết quả như sau:
Ngoan Nhường nhịn Quan tâm
ngoãn lễ chia sẻ giúp đỡ
Số phép với
Nội dung mọi người
trẻ
Đạt Chưa Đạt Chưa Đạt Chưa
đạt đạt đạt
Trước khi
áp dụng 32 10 22 12 20 9 23
sáng kiến
Sau khi áp
dụng sáng 32 32 0 32 0 32 0
kiến
Qua bảng so sánh cho thấy sau khi áp dụng đề tài vào thực tế
đã mang lại kết quả khả quan:
+ Ngoan ngoãn lễ phép với mọi người:
Đạt: 32 = 100%; tăng 22 cháu so với đầu năm khi chưa áp dụng
đề tài.
Chưa đạt: 0; giảm so với đầu năm 22 cháu.
+ Nhường nhịn chia sẻ:
Đạt: 32 = 100%; tăng 20 cháu so với đầu năm.
Chưa đạt: 0; giảm 20 cháu so với đầu năm.
+ Quan tâm giúp đỡ:
Đạt: 32 = 100%; tăng 23 cháu so với đầu năm.
Chưa đạt: 0; giảm 23 cháu so với đầu năm.
Trẻ rất hứng thú trong giờ kể chuyện. Thích bình luận trao đổi
với nhau ở bất cứ nơi đâu. Từ đó giúp trẻ tự tin, cởi mở trong
giao tiếp, không nói trống không, diễn tả được suy nghĩ của mình
bằng ngôn ngữ nói của trẻ một cách mạch lạc rõ ràng. Hứng thú
trong mọi hoạt động học và chơi, trẻ thích đi học, phụ huynh rất
phấn khởi thấy con em mình tiến bộ và chăm học hơn. Đặc biệt
là trẻ ngoan ngoãn, lễ phép hơn, biết quan tâm giúp đỡ bạn bè,
hiểu được việc gì cần làm và không nên làm, hình thành ở trẻ
tính lương thiện, chia sẻ với mọi người xung quanh. Và từ đó các
lĩnh vực khác như “Tình cảm kỹ năng xã hội, nhận thức, thẩm
mỹ…cũng có được kết quả tốt khá rất cao so với trước khi thực
hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm. Phụ huynh rất phấn khởi về
những tiến bộ của con em mình. Rất yên tâm khi cho con đến
trường mầm non học.
10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo
ý kiến của tác giả.
Sau một năm áp dụng sáng kiến các nội dung đánh giá trẻ ở mức
độ đạt và chưa đạt trong việc giáo dục lễ giáo cho trẻ nói chung và
các lĩnh vực khác cũng được nâng lên rõ rệt, không còn trẻ chưa
đạt. Trẻ rất hứng thú với chuyện cổ tích trong giờ kể chuyện, hoạt
động góc. Thích bình luận chao đổi khi nhìn thấy tranh ảnh ở bất
cứ nơi đâu.Từ đó giúp trẻ tự tin cởi mở trong giao tiếp, hứng thú
trong mọi hoạt động học và chơi, trẻ thích đi học.
Phụ huynh rất phấn khởi thấy con em mình tiến bộ và chăm học
và ngoan ngoãn hơn. Đặc biệt là ngôn ngữ của trẻ mạch lạc rõ
ràng, hiểu được nhiều từ khó và hình thành ở trẻ tính lương
thiện, chia sẻ với mọi người xung quanh. Từ đó phụ huynh sẽ
yên tâm tin tưởng gửi con vào trường.
Bản thân giáo viên có thêm nhiều kỹ năng kinh nghiệm trong việc
tổ chức các hoạt động trong chương trình giáo dục mầm non đặc
biệt là trong các giờ kể chuyện đặc biệt là những câu chuyện cổ
tích việt nam.
Sáng kiến này có thể áp dụng cho nhiều năm học tới, cho các
bạn đồng nghiệp trong và ngoài trường trong huyện.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến của tổ
chức, cá nhân.
Qua thời gian áp dụng sáng kiến tại lớp mẫu giáo 5-6 tuổi, với
kết quả đã đạt được ở trên, sáng kiến đã được các đồng chí
trong ban giám hiệu nhà trường, các đồng chí tổ trưởng, tổ phó
chuyên môn đánh giá cao và cho rằng có thể áp dụng vào các
khối lớp ở năm học tiếp theo
Trên đây là một số giải pháp mà bản thân tôi đã áp dụng vào việc
giảng dạy tại lớp mẫu giáo lớn trong năm học 2018-2019. Tôi tin
rằng đề tài sáng kiến này ít nhiều cũng đã mở cho bản thân tôi
và các giáo viên trong trường một hành trang mới để bước tiếp
trong “Sự nghiệp trồng người” ngày càng có kết quả cao, để đáp
ứng với những yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non hiện nay
11. Danh sách các tổ chức cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu:
TT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/ lĩnh vực áp dụng sáng
kiến
1 Lê Thị Lan Trường mầm non
Hoàng Lâu-Tam
Dương- Vĩnh Phúc

2 Học sinh lớp


Trường mầm non
5 tuổi A3 Hoàng Lâu-Tam
Dương-Vĩnh Phúc - Phạm vi: Cấp huyện
- Lĩnh vực: Phát triển ngôn ngữ

Trường mầm non


3 Nguyễn Thị kim Huệ
Vân Hội-Tam Dương-
Vĩnh Phúc

4 Học sinh lớp Trường mầm non


5 tuổi A2 Vân Hội-Tam Dương-
Vĩnh Phúc

Hoàng Lâu, ngày tháng 02 năm 2019 Hoàng Lâu, ngày 18 tháng 02 năm
2019
HIỆU TRƯỞNG
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

Nguyễn Thị Kiều Ngân


Lê Thị Lan

ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH NHÀ TRƯỜNG


Tổng điểm: ………………………
Xếp loại: .......................................
Hoàng Lâu, ngày tháng năm 2019
TM. HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
CHỦ TỊCH

You might also like