You are on page 1of 4

VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 177-179; 176

SỬ DỤNG TÁC PHẨM VĂN HỌC NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THẨM MĨ
CHO TRẺ MẦM NON
Trần Thị Phượng - Trường Cao đẳng cộng đồng Kon Tum

Ngày nhận bài: 30/6/2019; ngày chỉnh sửa: 10/7/2019; ngày duyệt đăng: 18/7/2019.
Abstract: Aesthetic education is an indispensable task in the care and education of preschool
children, it brings children interesting and unique things in life. Aesthetic education in the process
of familiarizing children with literature in a basic and systematic way is a central task of early
childhood education, contributing to the formation of a child's personality. This article analyzes
the role of literature in aesthetic education for preschool children; We also propose some measures
to use literary works to form and develop aesthetic competency for preschool children.
Keywords: Literature, development, preschool children.

1. Mở đầu văn học. Cho trẻ 3-6 tuổi tiếp xúc với tác phẩm văn học
Giáo dục thẩm mĩ (GDTM) là một nội dung quan là để trẻ bước đầu cảm nhận được sự độc đáo về phong
trọng của giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ và là việc cách nghệ thuật và vẻ đẹp riêng của nội dung, hình thức
cần phải tiến hành một cách nghiêm túc từ tuổi mầm văn chương. Đây là “thế giới mới” của cuộc sống thực
non. Có thể coi trẻ mầm non là thời kì “hoàng kim” của tại, bao gồm thiên nhiên, xã hội con người được diễn tả,
GDTM. Ở lứa tuổi này, tâm hồn trẻ rất nhạy cảm dễ xúc biểu đạt, truyền đạt trong các hình thức đa dạng, độc đáo.
động đối với con người và cảnh vật xung quanh, trí Văn học nói về thế giới loài vật, cỏ cây, hoa lá, mọi
tưởng tượng của trẻ bay bổng và phong phú. Do vậy, hiện tượng thiên nhiên vũ trụ mà trẻ nhìn thấy được; cũng
năng khiếu nghệ thuật cũng được nảy sinh và phát triển nói về những gì gần gũi trong môi trường sống của trẻ
mạnh mẽ. như làng quê, cánh đồng, phiên chợ, lớp học, dòng sông,
Khi nói đến GDTM cho trẻ mẫu giáo, chúng ta khu phố...; trẻ được cảm nhận thêm tình làng nghĩa xóm,
thường coi đó là nhiệm vụ của trường mầm non với các tình cảm gia đình, tình bạn, tình yêu. Văn học có thể đề
tiết học tạo hình, âm nhạc,… mà hầu như ít chú ý đến các cập những lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt,
tiết học khác và các hoạt động khác của trẻ, đặc biệt là cô tiên, phù thủy, quỷ sứ… và những “phép mầu” còn
văn học. Sự cảm nhận đầu tiên, rực rỡ nhất, ấn tượng nhất tồn đọng trong tâm thức dân tộc. Đó cũng là đối tượng
về vẻ đẹp được bắt nguồn từ thẩm mĩ trong những tác miêu tả của văn học, làm nên sự phong phú, hấp dẫn của
phẩm văn học. Chính trong nội dung các tác phẩm văn đời sống tinh thần. Nhờ số lượng văn học đáng kể, trẻ sẽ
học thể hiện mối quan hệ giao tiếp - ứng xử tốt đẹp giữa nhận dạng được văn học, đó là khả năng mô tả cuộc sống
con người với con người và giữa con người với cảnh vật xung quanh phong phú hấp dẫn bằng những dạng thức
xung quanh. Cái đẹp trong văn học còn thể hiện ở nghệ khác nhau. Trẻ sẽ nhận biết sự khác nhau về nội dung và
thuật ngôn từ giàu hình ảnh và sức gợi cảm. Do đó, cho hình thức giữa các thể loại (thơ, truyện). Trẻ biết phân
trẻ làm quen với tác phẩm văn học là điều kiện quan trọng biệt đó là “cổ tích”; nhận được sự khác nhau của các thể
để GDTM cho trẻ ở trường mầm non. loại tác phẩm, cảm nhận được cái đặc sắc của cách diễn
đạt hình tượng, qua đó phát triển đời sống tinh thần.
Bài viết này phân tích vai trò của văn học trong việc
GDTM cho trẻ mầm non; đề xuất một số biện pháp sử Làm quen với tác phẩm văn học như một cấu trúc
dụng tác phẩm văn học nhằm hình thành, phát triển năng hoàn chỉnh, giúp trẻ nhận biết các mối quan hệ biểu hiện
lực thẩm mĩ cho trẻ mầm non giữa hoàn cảnh, trạng thái tình huống và nhân vật, giữa
lời kể, lời thuật, lời bạch trữ tình và ngôn ngữ nhân vật:
2. Nội dung nghiên cứu
giữa không khí âm sắc giọng điệu chung của tác phẩm
2.1. Vai trò của văn học trong việc giáo dục thẩm mĩ văn học và hành động văn học; bước đầu giúp trẻ nhận
cho trẻ mầm non ra sự khác nhau giữa ngôn ngữ truyện thiên về ngôn ngữ
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là đưa đến đời thường (khẩu ngữ) và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính,
cho trẻ một chân trời mới của nghệ thuật văn chương, chỉ giàu hình ảnh. Qua tác phẩm văn học, trẻ quen dần tính
văn chương thôi chứ chưa phải văn học với tư cách là chất nhiều nghĩa và tinh luyện của ngôn ngữ văn học; dần
một môn văn hóa đầy đủ. Tác phẩm văn học là một hiện hiểu được nghĩa thực đến nghĩa bóng, từ nghĩa văn cảnh
tượng phong phú, phức tạp nhất của khoa học nghiên cứu đến ý tưởng nhà văn truyền đạt.

177 Email: hoaphuong36@gmail.com


VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 177-179; 176

Từ đặc điểm trẻ tiếp nhận tác phẩm văn học chỉ bằng mầm non, được lồng ghép trong mọi sinh hoạt của nhà
con đường gián tiếp (vì trẻ chưa đọc được mà chỉ nghe trường. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhiệm vụ GDTM
đọc, nghe kể mà thôi) nên phải tăng cường rèn luyện sức cũng được gắn liền với các hoạt động giáo dục ở mức độ
nghe cho trẻ. Đó là sức nghe tối đa về nhạc cảm và sự đa thường xuyên. Nhiều khi do giáo viên quá chú ý đến nội
thanh, nghe được hết những cung bậc âm thanh và nhịp dung tri thức cơ bản của hoạt động giáo dục cần thực hiện
điệu khác nhau trong cuộc sống; nghe ra những âm thanh với trẻ mà ít chú ý đến nội dung thẩm mĩ có thể giáo dục
mới lạ, huyền diệu của thiên nhiên như tiếng nẩy mầm cho các em qua hoạt động này. Khi trao đổi với giáo viên
của hạt, tiếng chim hót, tiếng suối róc rách, tiếng mưa rơi về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy có một số giáo viên
trên biển trong đêm thu; nghe ra những âm sắc biểu cảm, thậm chí chưa hiểu rõ các nội dung GDTM cần thực hiện
những rung cảm của trái tim cùng nhịp điệu hài hòa giữa trong trường mầm non cũng như những biểu hiện về mặt
vũ trụ và con người. Ngay từ khi còn trong bào thai, trẻ thẩm mĩ của trẻ qua mọi loại hình hoạt động. Điều đó dẫn
đã sống trong nhịp điệu, lời ru, tiếng hát, vũ điệu, âm đến tình trạng là họ không biết đưa nội dung GDTM vào
nhạc những mới dây liên hệ tưởng như vô hình giữa con một số hoạt động giáo dục như thế nào.
người với trời đất. Đó là tiếng của sự sống đang sinh sôi Hầu hết giáo viên có quan niệm là GDTM chủ yếu
nảy nở, là khúc vang vọng tâm hồn trong im lặng. gắn liền với các hoạt động giáo dục nghệ thuật như hoạt
Văn học là một loại hình nghệ thuật và được coi là động tạo hình, hoạt động âm nhạc. Nhiều giáo viên chưa
một trong những phương tiện giáo dục trẻ em rất hiệu thực sự hiểu hết bản chất sâu rộng của GDTM tiềm ẩn
quả. Các tác phẩm văn học không chỉ giúp trẻ mở rộng trong nội dung của các hoạt động giáo dục khác như:
nhận thức về thế giới xung quanh mà còn góp phần hỗ khám phá khoa học về môi trường xung quanh, hoạt
trợ trẻ em nói chung, trẻ mầm non nói riêng trong việc động vui chơi, hoạt động lao động…, đặc biệt là hoạt
phát triển ngôn ngữ, thể chất, thẩm mĩ, tình cảm xã hội. động làm quen với văn học. Đây là hoạt động cung cấp
cho trẻ nhiều kiến thức về mặt TM. Nội dung giáo dục
2.2. Một số vấn đề đặt ra trong sử dụng tác phẩm văn
văn học ở trường mầm non luôn lôi cuốn trẻ, mang đến
học nhằm giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mầm non trên địa
cho trẻ sự say mê, làm xuất hiện ở trẻ những cảm xúc tích
bàn thành phố Kon Tum
cực, tác động mạnh mẽ đến tình cảm của trẻ, thúc đẩy trẻ
Thực tế công tác GDTM ở các trường mầm non trên mong muốn hành động theo những cái đẹp, cái tốt. Tuy
địa bàn thành phố Kon Tum những năm gần đây đã được nhiên, vẫn còn một số giáo viên chưa thấy hết được các
chú trọng hơn. GDTM cho trẻ đã được lồng ghép thông giá trị thẩm mĩ chứa đựng trong nội dung giáo dục văn
qua các hoạt động vui chơi, học tập…; được thực hiện học ở trường mầm non nên không tận dụng triệt để hoạt
qua các chuyên đề đổi mới nội dung, hình thức phù hợp động này để GDTM cho trẻ.
với độ tuổi, đặc điểm tâm sinh lí của trẻ. Việc lồng ghép, Một số nguyên nhân dẫn đến chất lượng GDTM cho
tích hợp GDTM vận dụng thông qua các môn tạo hình, trẻ thông qua hoạt động làm quen với văn học chưa đạt
âm nhạc, văn học… cũng đã được quan tâm, giúp phát hiệu quả cao, đó là: trình độ giáo viên không đồng đều,
triển ở trẻ kĩ năng quan sát các sự vật hiện tượng xung năng lực cảm thụ tác phẩm văn học còn hạn chế, chưa
quanh, khả năng cảm thụ thiên nhiên cũng như xúc cảm phát huy được vai trò dạy học sáng tạo, đôi khi còn rập
trong mối quan hệ giao tiếp với người thân, qua đó hình khuôn, máy móc; chưa phát huy được tính tích cực, chủ
thành cho trẻ những hành vi ứng xử văn minh. động, sáng tạo ở trẻ; việc bồi dưỡng kĩ năng GDTM cho
Tuy nhiên, vẫn còn một số giáo viên và cán bộ quản giáo viên hàng năm chưa được sâu sát và đầy đủ; chưa
lí nhận thức chưa hoàn toàn đúng đắn về ý nghĩa, tầm có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong
quan trọng đặc biệt của GDTM đối với trẻ ở lứa tuổi này. nhiệm vụ GDTM cho trẻ mầm non, đa số phụ huynh có
Chúng ta chú ý nhiều đến sự phát triển trí tuệ, phát triển quan niệm trẻ đến lớp chủ yếu là để học chữ, học toán.
đạo đức của trẻ mà chưa thực sự coi trọng sự phát triển 2.3. Một số biện pháp sử dụng tác phẩm văn học nhằm
thẩm mĩ, chưa thực sự nhận thức được rằng chính sự phát phát triển năng lực thẩm mĩ cho trẻ mầm non
triển khả năng thẩm mĩ của mỗi cá nhân sẽ nâng con Biện pháp 1: Đọc và kể diễn cảm tác phẩm văn học
người lên một tầm giá trị mới - bởi vì nếu không có các Trẻ mầm non chưa đọc, chưa viết được, đến lớp với
năng lực thẩm mĩ thì sự nhận thức thế giới khách quan tâm hồn đón đợi hướng về cô giáo, coi cô là “cầu nối” trẻ
của con người sẽ “lạnh lùng, khô cứng”. Giáo viên mầm với tác phẩm. Phương pháp này được coi là phương pháp
non cần nhận thức đúng điều này và quán triệt nhiệm vụ chủ đạo. Đọc có sự sáng tạo của cá nhân làm cho tác
GDTM trong tất cả các hoạt động giáo dục ở trường MN. phẩm văn học vốn là những kí hiệu thẩm mĩ sống dậy,
Hiện nay, nhiệm vụ GDTM đã được các giáo viên cất tiếng nói, vì vậy cô giáo cần sử dụng mọi sắc thái của
thực hiện thông qua các hoạt động giáo dục ở trường giọng mình cùng với các hình thức biểu hiện khác cho

178
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 177-179; 176

tác phẩm một bức tranh tương ứng. Đọc đòi hỏi sự trung nghệ thuật” như đọc thơ, kể chuyện, nhập vai trong các trò
thành với tác phẩm, truyền đạt thông tin đầy đủ, chính chơi đóng kịch dựa theo tác phẩm văn học, đê từ đó tiến tới
xác. Ở đây đòi hỏi sự hiểu biết mọi thành tố nội dung và sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật của mình.
hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Phải đọc đúng giọng Biện pháp 3: Thúc đẩy năng lực hoạt động nghệ thuật
điệu, âm hưởng sắc thái của tác phẩm, cũng có nghĩa là một cách sáng tạo ở trẻ
phải đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Phương pháp đọc Ngôn ngữ, hình thể của cô giáo là một phương tiện
và kể tác phẩm có nghệ thuật đòi hỏi mức độ cao hơn đọc trực quan hỗ trợ, bổ sung, làm sâu sắc hơn, sống dậy hình
diễn cảm vì đã đi vào bản chất nghệ thuật của tác phẩm, tượng tác phẩm. Khả năng rung cảm, hiểu biết tác phẩm
đào sâu sự sáng tạo nghệ thuật của tác giả. Kể sáng tạo của cô sẽ bộc lộ qua ngôn ngữ, ánh mắt, cử chỉ, nét mặt,
có nghệ thuật mở ra cho cô giáo sự sáng tạo nhiều hơn điệu bộ khi trình bày tác phẩm khiến trẻ có thể cảm nhận
đọc, người kể có thể hòa trộn ngôn ngữ tác phẩm và ngôn bằng trực cảm. Đây cũng là yếu tố thúc đẩy năng lực hoạt
ngữ của mình, bằng sự cảm thụ riêng có thể tô đậm ý động nghệ thuật ở trẻ.
chính, tình tiết hay hình ảnh đẹp với những cách trình bày Việc tổ chức dạy và học thích hợp với mối quan hệ
khác nhau. Kể bằng giọng thủ thỉ, chậm hơn đọc, truyền với đối tượng và chủ thể là phương tiện để làm giàu năng
cảm cùng với việc trình bày tác phẩm khéo léo làm cho lực tự hoạt động nghệ thuật của trẻ, tăng cường cho trẻ
lượng thông tin được dãn ra, trẻ đỡ căng thẳng khi theo tham gia vào vui chơi, lễ hội, xem các hoạt động nghệ
dõi. Hơn nữa, việc phối hợp giọng kể với những cử chỉ, thuật, tích luỹ vốn văn học nghệ thuật bằng việc cho trẻ
điệu bộ, nét mặt, ánh mắt - những yếu tố phi ngôn ngữ - nghe nhiều tác phẩm văn học chọn lọc. Phải dạy trẻ biết
sẽ giúp trẻ thâm nhập sâu hơn, hiểu rõ hơn ý nghĩa của lắng mình với tác phẩm văn học, hòa vào cõi mộng mơ,
truyện. Với sự cảm thụ riêng của cô, ý nghĩa tác phẩm trau dồi thói quen đón nhận được các hòa âm tinh tế
vượt ra ngoài văn bản. Lời kể của cô như là sự bổ sung thoáng qua, bất chợt đến từ các nguồn sống khác. Lắng
tạo nên mối quan hệ thâm tình giữa cô và trẻ. Phương mình, an tĩnh đến mức quên tất cả bản thân mình thì khả
pháp kể đòi hỏi sự khúc chiết, sinh động, tạo khả năng năng sáng tạo trong sức nghe sẽ biểu lộ. Đó là sự “đồng
ghi nhớ thông qua năng lực nghe, nhìn, sự cảm nhận sắc hóa” của cá nhân trẻ vào đối tượng nghệ thuật và cũng là
thái biểu cảm và thái độ, tình cảm của tác giả, của người sự bột phát của tâm linh, nhu cầu bộc lộ những khát khao
kể gây ấn tượng mạnh cho trẻ. Rõ ràng, nhu cầu sáng tạo sống, những khát vọng mơ ước của tuổi thơ. Từ nghe ra
phát sinh từ phía trẻ, bạn đọc nhỏ tuổi này tác động đến nhìn thấy, trẻ bước vào hoạt động nghệ thuật một cách tự
sự hoàn chỉnh văn bản kể. Thông qua vai trò “trung gian” nhiên, đó là khi trẻ say sưa đọc một bài thơ, cũng là lúc
của cô giáo, thấy rõ mối quan hệ giữa tác giả - tác phẩm trẻ tự kể, sống với câu chuyện kể của mình.
- bạn đọc nhỏ tuổi. Phương pháp này đòi hỏi cao, hướng Biện pháp 4: Xây dựng góc thư viện sinh động, hấp
vào việc giao tiếp giữa cô và trẻ. Cô phải là nhà sư phạm, dẫn
là nghệ sĩ, biết kết hợp chất giọng với hình thể và các Góc thư viện cần được sắp xếp gọn gàng, có nhiều
hình thức nghệ thuật khác để trình bày tác phẩm sáng tạo. truyện tranh phù hợp với trẻ ở từng độ tuổi, được trang
Biện pháp 2: Sử dụng phương pháp đàm thoại giúp trí theo từng chủ đề đang thực hiện ở trường mầm non.
trẻ lĩnh hội nội dung, ý nghĩa tác phẩm Hệ thống các giá sách cũng cần được bài trí và sắp đặt
Nhằm kích thích hoạt động nhận thức của trẻ, phương thuận tiện cho các hoạt động của trẻ tại góc thư viện.
pháp đàm thoại khi được sử dụng đòi hỏi phải lôi cuốn Cùng với việc xây dựng góc thư viện, giáo viên cần tạo
trẻ bộc lộ suy nghĩ cảm nhận riêng của mình - hay nói cho trẻ nền nếp, thói quen đọc sách; tạo môi trường sư
khác là khơi gợi để trẻ bộc lộ cảm thụ của cá nhân tự do, phạm giàu thẩm mĩ, trong đó có việc trang trí lớp học,
hồn nhiên. Cần có một hệ thống câu hỏi thông minh và trang phục của giáo viên, tạo cho trẻ cảm xúc, ấn tượng,
khéo léo để cuốn hút trẻ tranh luận. Muốn có câu hỏi hay, thị hiếu thẩm mĩ. Các đồ vật được bày đặt, sắp xếp hợp
cô giáo phải hiểu sâu sắc tác phẩm, mục đích yêu cầu của lí, đẹp mắt, có nghệ thuật sẽ nảy sinh óc thẩm mĩ, nhu
tiết học. Biêlinxki nói “người đem tác phẩm văn học đến cầu, hoạt động nghệ thuật ở con người.
cho người khác, trước hết phải là người có cảm xúc và Ngoài ra, nên trang trí một số các hình ảnh hấp dẫn,
tin vào nghệ thuật”, ở đây sự giao tiếp giữa cô và trẻ cần sinh động trên nóc các kệ tủ; hoặc dán các hình trang trí
cởi mở, tự nhiên như một cuộc trò chuyện có định hướng. là các nhân vật trong truyện cổ tích hay các câu chuyện
Trẻ cần học được và nắm vững giá trị thẩm mĩ qua làm thần kì để tạo ra một không gian kì thú để thu hút trẻ hơn,
quen với tác phẩm văn học. Giáo viên cần cho trẻ cảm thụ qua đó kích thích trẻ sáng tạo. Đồng thời, qua đó cũng
được giá trị nội dung và hình thức tác phẩm, hình thành ở hình thành ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp, nhu cầu, mong
trẻ khả năng cảm thụ văn học, để trẻ yêu thích văn học, thích muốn được đọc sách.
tham gia vào các hoạt động mang đậm tính chất “văn học (Xem tiếp trang 176)

179
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 173-176

chơi gãy tạo ra các điểm sắc nhọn hoặc tạo ra các mảnh [7] Bộ GD-ĐT (2010). Đề án “Phát triển thiết bị dạy
vụn dễ gây chấn thương hoặc hóc, sặc cho trẻ. Cần đặc học tự làm giáo dục mầm non và phổ thông giai
biệt chú ý đến các phần bằng gỗ, các đầu mối kim loại, đoạn 2010-2015”.
các đồ chơi có nhiều phần gắn kết không chắc chắn và sự
chắc bền của màu sắc.
SỬ DỤNG TÁC PHẨM VĂN HỌC…
3. Kết luận
Trẻ thuộc bất cứ độ tuổi nào đều thích chơi. Hoạt (Tiếp theo trang 179)
động này giúp chúng phát triển các năng lực thể chất và
tâm hồn; tận hưởng không gian ngoài trời, hiểu hơn về
3. Kết luận
thế giới của mình, tương tác với những người khác; bộc
lộ, kiểm soát cảm xúc, phát triển khả năng kí hiệu và giải GDTM là một nhiệm vụ không thể thiếu trong công
quyết vấn đề. Trong thế giới vĩ mô, trẻ em làm chủ thế tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non, mang đến cho trẻ
giới của mình giống như việc chúng làm chủ được những những điều thú vị và độc đáo trong cuộc sống. Văn học
đồ chơi của mình. Đồ chơi và các loại học liệu được sử khơi dậy và tiếp sức cho những rung động về cái đẹp,
dụng như những phương tiện giúp trẻ phát triển. Việc xác nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ, gìn giữ phát triển chất
định đúng và đủ 9 yêu cầu sư phạm đối với đồ chơi trẻ nghệ sĩ vốn có trong tâm hồn,... ở mỗi người; hình thành
em là một việc rất quan trọng, khi tuân thủ các yêu cầu ở họ tấm lòng hồn hậu, không nguội lạnh, thờ ơ với số
này sẽ làm cho đồ chơi trở nên toàn diện và đóng góp cho phận con người; biết ghét những cái xấu, cái ác, biết
thương yêu, trân trọng điều tốt đẹp. GDTM trong quá
sự phát triển các mặt về kĩ năng xã hội, cảm xúc, thể chất,
trình cho trẻ làm quen với văn học một cách cơ bản và hệ
tinh thần và thẩm mĩ của trẻ.
thống là một nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non,
góp phần hình thành nhân cách trẻ.
Bài viết trích từ đề tài KHCN cấp Nhà nước
“Nghiên cứu giải pháp phát triển hệ thống đồ chơi
phục vụ hoạt động giáo dục trẻ, đáp ứng yêu cầu đổi Tài liệu tham khảo
mới giáo dục mầm non”. Mã số của đề tài: KHGD/16 [1] Bộ GD-ĐT (2017). Thông tư số 01/VBHN-BGDĐT
-20.ĐT.014. ngày 24/01/2017 ban hành Chương trình giáo dục
mầm non.
Tài liệu tham khảo [2] Hà Nguyễn Kim Giang (2009). Phương pháp tổ
[1] Hoàng Phê (chủ biên, 2008). Từ điển tiếng Việt. chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.
NXB Đà Nẵng. NXB Giáo dục Việt Nam.
[2] T.A. Culikova - X. A. Cozlova (2002). Giáo dục học [3] Nguyễn Cẩm Giang - Phạm Thị Thu (2015). Tuyển
mầm non. Matxcova - Akademia. chọn thơ, truyện cho trẻ mầm non. NXB Văn học.
[3] Phan Đông Phương (2007). Một số biện pháp tổ [4] Lã Thị Bắc Lý (2012). Văn học thiếu nhi với giáo
chức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tự làm đồ chơi trong dục trẻ em lứa tuổi mầm non. NXB Đại học Sư
các góc hoạt động. Đề tài cấp Viện Khoa học Giáo phạm.
dục Việt Nam, mã số V2006- 07. [5] Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) - Nguyễn Thị Như
[4] Shelley Frost (2014). Guidelines for Choosing Mai - Đinh Thị Kim Thoa (2015). Tâm lí học trẻ em
Developmentally Appropriate Toys for Young lứa tuổi mầm non từ lọt lòng đến 6 tuổi. NXB Đại
Children. United States National Library. học Sư phạm.
[5] Ruffino, A. G - Mistrett, S. G - Tomita, M - Hajare
[6] Lã Thị Bắc Lý (2012). Giáo trình văn học thiếu nhi
(2006). The universal design for play tool:
và đọc, kể diễn cảm. NXB Giáo dục Việt Nam.
Establishing validity and reliability. Journal of
Special Education Technology, Vol. 21, pp. 25-38. [7] Barbara C. Lust (2006). Child Language:
[6] Phan Đông Phương (2003). Tự tạo và sử dụng có Acquisition and Growth. Cambridge University
hiệu quả đồ dùng đồ chơi trong các góc hoạt động Press, UK.
của trẻ mẫu giáo 5 tuổi bằng những nguyên vật liệu [8] Caroline Rowland (2014). Understanding Child
dễ kiếm, rẻ tiền. Đề tài cấp cơ sở Viện Khoa học Language Acquisition. Routlege: Taylors & Francis
Giáo dục Việt Nam, mã số C9-2002. Group, London, UK.

176

You might also like