You are on page 1of 20

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN


1. Hoàn cảnh sáng tác
- Tuyên ngôn Độc lập ra đời giáng một đòn tâm lý mạnh mẽ vào những thế lực muốn xâm lược Việt Nam, đồng
thời muốn tuyên bố với toàn thể thế giới quyền độc lập tự do bình đẳng của người dân Việt Nam, khẳng định ý chí
sắt đá của toàn thể dân tộc Việt Nam quyết bảo vệ nền độc lập tự do của mình, không cho phép bất kì kẻ thù nào
đặt chân lên lãnh địa của dân tộc Việt Nam.
- Bản Tuyên ngôn Độc lập được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ ba của dân tộc Việt Nam, có sự tiếp nối, nâng
cao của dòng chảy lịch sử dân tộc trong thời đại mới. Bản tuyên ngôn không chỉ giải quyết được yêu cầu độc lập
cho dân tộc như hai bản tuyên ngôn trong thời kỳ phong kiến: Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô
đại Cáo của Nguyễn Trãi mà còn giải quyết thêm một yêu cầu hết sức quan trọng là dân chủ cho nhân dân.
2. Mục đích sáng tác
+ Khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước
quốc dân đồng bào và thế giới.
+ Vạch trần và bác bỏ luận điệu xảo trá của thực dân Pháp trước dư luận quốc tế.
+ Tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới đối với cách mạng Việt Nam. T hể hiện lập
trường nhân đạo, chính nghĩa, nguyện vọng hòa bình cũng như tinh thần quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của nhân
dân Việt Nam.
3. Đối tượng
- Hồ Chí Minh viết cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới.
- Bản Tuyên ngôn Độc lập còn hướng tới bọn đế quốc Mĩ, Anh, Pháp, những kẻ đang có âm mưu xâm lược Việt
Nam.
4. Giá trị của bản tuyên ngôn
4.1. Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử vô giá.
* Đối với trong nước
+ Tuyên ngôn Độc lập không chỉ báo hiệu sự chấm dứt ách thống trị hàng ngàn năm phong kiến, ách thống trị ngót
trăm năm của thực dân, sự sụp đổ của chế độ phát xít tàn bạo mà còn khẳng định sự ra đời của một chế độ hoàn
toàn mới: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên độc lập cho toàn thể dân tộc, tự do cho những người
lao động bị áp bức.
+ Nói cách khác, với Tuyên ngôn Độc lập: thiên trường hận của dân tộc Việt Nam chấm dứt, thiên trường ca hạnh
phúc của dân tộc Việt Nam bắt đầu.
* Đối với quốc tế
+ Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định tư thế độc lập và tư cách bình đẳng của nước Việt Nam mới - Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, buộc công luận quốc tế phải chấp nhận.
+ Tuyên ngôn Độc lập còn là tiếng súng khởi đầu cổ vũ, báo hiệu sự thức tỉnh của các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ
tất yếu không gì cưỡng lại được của chủ nghĩa thực dân ở Đông Dương nói riêng và thế giới nói chung.
4.2. Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực
* Giá trị nội dung
- Tuyên ngôn Độc lập chan chứa lòng yêu nước và tự hào dân tộc sâu sắc:
+ Bản tuyên ngôn khẳng định, đòi quyền độc lập tự do, dân chủ cho đất nước.
+ Là bản cáo trạng đanh thép về tội ác man dợ vô nhân đạo của thực dân Pháp ngót một thế kỷ áp bức đồng
bào ta, đất nước ta.
+ Ca ngợi tinh thần nhân ái, đức hòa hiếu của con người Việt Nam.
+ Nêu cao ngọn cờ quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc. Dù phải hy sinh tất cả tinh thần, lực lượng, tính mạng
và của cải cũng nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
- Bản Tuyên ngôn Độc lập của Bác còn là tác phẩm chứa đựng giá trị nhân văn cao đẹp, không trực tiếp nói về vấn
đề nhân quyền nhưng vấn đề nhân quyền vẫn được đặt ra trong bản tuyên ngôn. Ở một đất nước thuộc địa như
Việt Nam muốn thực hiện quyền của con người thì trước hết phải giành quyền độc lập dân tộc. Với nhiệt tình đòi
tự do độc lập cho dân tộc Việt Nam, đòi quyền bình đẳng cho các dân tộc trên thế giới, không kể da trắng, da đen
hay da vàng là mong ước lớn lao của Hồ Chí Minh. Hướng tới một xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Đó là
chiều sâu tư tưởng nhân văn cao đẹp của Người.
* Giá trị nghệ thuật
- Là áng văn chính luận mẫu mực, cô đọng. Mỗi câu, mỗi chữ đều hàm chứa suy tư, cảm xúc của một con người
suốt đời đấu tranh vì độc lập dân tộc và tự do của con người, của nhân loại.
- Hệ thống luận cứ, luận chứng chân thực và chính xác, giàu sức thuyết phục, đa dạng về giọng điệu: đanh thép khi
đối thoại với quân thù, mềm mỏng khi đối thoại với thế giới tiến bộ và tha thiết khi nói với đồng bào, đồng chí.
- Kết cấu chặt chẽ khoa học mà vẫn linh hoạt, nhịp nhàng, phù hợp với cảm xúc đó là sự kết hợp tuyệt diệu giữa lý
trí sáng suốt với tấm lòng yêu nước nồng nàn.
=> Đánh giá:
+ Với những giá trị trên Tuyên ngôn Độc lập được xem là áng văn lập quốc, áng thiên cổ hùng văn của thế kỷ XX.
5. Bố cục
+ Đoạn 1 (từ đầu đến “không ai có thể chối cãi được”): Nêu nguyên lí chung của bản Tuyên ngôn Độc lập.
+ Đoạn 2: (từ “thế mà” đến “lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà”): Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khẳng
định thực tế lịch sử: nhân dân ta nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
+ Đoạn 3 (còn lại): Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc.
6. Thể loại: Văn chính luận
- Hồ Chí Minh chọn thể loại này vì văn phong phù hợp với tính chất trang trọng, trang nghiêm của bản tuyên
ngôn.
- Văn chính luận của Hồ Chí Minh luôn gắn lí luận với thực tiễn, lập luận chặt chẽ, logic; lí lẽ mạch lạc, bằng
chứng xác đáng; giọng văn hùng hồn, giàu tính luận chiến; chất trí tuệ uyên thâm và giàu cảm xúc, có sức thuyết
phục cao.
=> Tuyên ngôn Độc lập mang đầy đủ những đặc điểm này của văn chính luận Hồ Chí Minh.
7. Nội dung tác phẩm
7.1. Phần 1: Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn
- Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã trích dẫn từ hai bản tuyên ngôn của người Pháp và người Mĩ.
+ Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc”.
+ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cách mạng Pháp 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
=> Đó là những danh ngôn, là những chân lý lớn của nhân loại “không ai có thể chối cãi được”. Đó lại là tư
tưởng lớn của chính tổ tiên người Mĩ, người Pháp, không có lý gì người Mĩ người Pháp lại dám phản bội lại tổ tiên
của mình.
- Hồ Chí Minh đã từng nói “Đối với kẻ địch, chúng ta phải khôn khéo và kiên quyết”. Việc trích dẫn danh ngôn
của người Mĩ, người Pháp để mở đầu cho Tuyên ngôn Độc lập của ta là một lập luận vừa kiên quyết vừa khôn
khéo. Có thể coi đó là sách lược “gậy ông đập lưng ông” rất đích đáng của Hồ Chí Minh (dùng chính lý lẽ của đối
phương để đập lại đối phương).
- Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn còn có ý nghĩa Bác đã đặt ba cuộc cách mạng của nhân loại ngang bằng nhau,
trong đó cách mạng Việt Nam cùng lúc thực hiện hai nhiệm vụ của người Mĩ và người Pháp. Điều này bản Tuyên
ngôn Độc lập đã nêu rõ ở phần sau:
+ “Dân tộc ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc
lập”. Đó là nhiệm vụ của cách mạng Mĩ.
+ “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủng mấy mươi thế kỷ để lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Đó
là nhiệm vụ của cách mạng Pháp.
=> Bác coi ba dân tộc ngang bằng nhau vì vậy bản tuyên ngôn cũng có ý nghĩa như nhau. Như thế niềm tự
hào dân tộc được gửi gắm một cách kín đáo.
- Từ vấn đề nhân quyền, vấn đề quyền cá nhân đặt ra trong bản Tuyên ngôn Độc lập của người Mĩ, Bác đã suy
rộng ra vấn đề quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
=> Đây là một đóng góp lớn về tư tưởng của Người đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới sẽ
được phát triển mạnh mẽ ở nửa sau của thế kỷ XX.
7.2. Phần hai: Cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn
a. Bác đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp đối với đất nước ta thực chất đây cũng là cuộc tranh luận
gầm với những luận điệu của bọn thực dân Pháp
* Pháp kể công “khai hóa” thì bản Tuyên ngôn Độc lập đã kể tội chúng:
- Về chính trị:
+ Chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
+ Chúng thi hành những luật pháp dã man, chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản
việc thống nhất nước nhà của ta, ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
+ Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng giết những người yêu nước thương nòi của ta.
- Về kinh tế:
+ Chúng bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy.
+ Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu...
+ Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng, nhập cảng.
+ Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí.
+ Chúng không cho những nhà tư sản ta ngóc đầu lên.
+ Chúng bóc lột nhân dân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
=> Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp là gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã giết hơn hai triệu đồng bào
ta từ Quảng Trị đến Bắc Kì.
* Pháp kể công bảo hộ thì bản tuyên ngôn đã lên án chúng “trong 5 năm chúng đã bán nước ta hai lần cho
Nhật”.
* Thực dân Pháp khẳng định Đông Dương là thuộc địa của chúng thì bản Tuyên ngôn Độc lập đã chỉ rõ:
- “Sự thật là từ mùa thu 1940 nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải là thuộc địa của Pháp nữa”.
- “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”.
* Pháp nhân danh đồng minh tuyên bố đã thắng Nhật vậy chúng có quyền lấy lại Đông Dương thì bản Tuyên
ngôn Độc lập vạch rõ: chúng là kẻ phản bội đồng minh, đã hai lần dâng Đông Dương cho Nhật, bản Tuyên ngôn
Độc lập đã khẳng định chỉ có việt minh (Việt Nam độc lập đồng minh hội) mới thực sự thuộc phe đồng minh vì đã
đứng lên đánh Nhật giải phóng Đông Dương.
* Ngoài ra, bản Tuyên ngôn Độc lập còn lên án tội ác dã man và tư cách đê hèn của bọn thực dân Pháp:
- Khi thua chạy chúng đã nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
- Ngược lại Việt Minh đã tỏ rõ lòng nhân đạo giúp cho nhiều người Pháp chạy ra biên thùy, cứu cho nhiều người
Pháp ra khỏi nhà giam của Nhật bảo vệ tính mạng và tài sản của họ.
b. Tuyên bố:
- Thoát ly hẳn mọi quan hệ với thực dân Pháp.
- Xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam.
- Xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Bày tỏ: Quyết tâm chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp. Bày tỏ niềm tin với Đồng minh.
=> Tất cả những lý lẽ và bằng chứng trên đã dẫn đến kết luận: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của
Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay dân tộc đó
phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”.
7.3. Phần ba: Thể hiện rõ quyết tâm bảo vệ độc lập tự do đã giành được
- Tiếp tục lời tuyên bố và khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và tuyên bố một cách
công khai sự thật là đã thành một nước tự do và độc lập”.
- Người bày tỏ quyết tâm như một lời kêu gọi: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền độc lập và tự do ấy”.
8. Nghệ thuật bản tuyên ngôn
* Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực, ngắn gọn, giản dị mà súc tích, trong sáng mà
đanh thép, sắc sảo
- Ngắn gọn, giản dị mà súc tích: thể hiện một nội dung lớn diễn ra trong một thời gian dài gần một thế kỷ, nhưng
tác giả cô đọng lại trong vài ba trang giấy, từ ngữ mà Bác sử dụng đọc lên là hiểu ngay. Đối với những câu dài có
cấu trúc phức tạp Bác đã tìm cách diễn đạt thật ngắn gọn, các câu ngắn thì lại giàu ý tứ.
- Trong sáng: trong sáng được thể hiện ở cách dùng từ, đặt câu tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực của tiếng Việt.
Trong sáng về tư tưởng tình cảm, thái độ rõ ràng yêu gét phân minh trên lập trường chính nghĩa.
- Đanh thép, sắc sảo: thể hiện tính chiến đấu không khoan nhượng, thái độ dứt khoát, thể hiện bản lĩnh vững
vàng, kiên cường. Sắc sảo ở trí tuệ, ở lối lập luận sắc bén.
* Bố cục: chặt chẽ sáng rõ, ở mỗi phần đều có luận điểm chính được triển khai bằng cách lập luận độc đáo,
lý lẽ đanh thép, bằng chứng hùng hồn, cách đặt câu hết sức linh hoạt.
* Bút pháp: có sự kết hợp hài hòa giữa lý trí và cảm xúc khi viết văn nghị luận.
Là áng văn chính luận mẫu mực, Tuyên ngôn Độc lập thể hiện rõ phong cách nghệ thuật trong văn chính
luận của Bác:
- Lập luận: chặt chẽ, thống nhất từ đầu đến cuối (dựa trên lập trường quyền lợi tối cao của các dân tộc)
- Lí lẽ: xuất phát từ tình yêu công lí, thái độ tôn trọng sự thật, dựa vào lẽ phải và chính nghĩa của dân tộc.
- Dẫn chứng: xác thực, lấy ra từ sự thật lịch sử
- Ngôn ngữ: đanh thép, hùng hồn, chan chứa tình cảm, cách xưng hô bộc lộ tình cảm gần gũi.
- Tình cảm: Lòng yêu nước thương dân nồng nàn, sâu sắc.
=> Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh vừa có giá trị lịch sử lớn lao, vừa xứng đáng là áng “thiên cổ
hùng văn” trong thời đại ngày nay.
9. Những ý kiến nhận xét về Tuyên ngôn Độc lập
9.1. Nhà văn Nguyễn Công Hoan: “Với một nội dung ngắn gọn, súc tích được thể hiện bằng thể văn chính luận
mẫu mực, sâu sắc, lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo mà vẫn dung dị, gần gũi, thuyết phục, đi sâu vào lòng người.
Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh thực sự là một văn kiện lịch sử vô giá, một bản anh hùng ca cách mạng của
dân tộc ta, đất nước ta”.
9.2. Nhà sử học Dương Trung Quốc: “Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam không chỉ là tấm giấy khai sinh cho một
nhà nước Việt Nam theo thể chế Dân chủ Cộng hòa và theo đuổi mục tiêu Độc lập -Tự do - Hạnh phúc mà còn
đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân loại bằng một sự “suy rộng ra” thành một chân lí mang tầm thời đại”.
9.3. Giáo sư Trần Trọng Đăng Đàn: “Rất giản dị mà lại rất vững chãi”. Giản dị vì ai cũng hiểu. Vững chãi vì
không ai bẻ được, vì nó lấy thực tế sôi bỏng của cách mạng làm cốt lõi, vì nó bắt nguồn từ lòng yêu thương kính
trọng quần chúng, nhân dân”.
9.4. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh: “Tài nghệ ở đây là đã dàn dựng một lập luận chặt chẽ, đưa ra những luận điểm,
những bằng chứng không ai chối cãi được. Và đằng sau lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn đã tổng kết
được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc triết, kinh nghiệm của nhiều thế kỉ đấu tranh giành độc lập, tự
do, vì nhân quyền, dân quyền của dân tộc, nhân loại”.
9.5. Trần Dân Tiên: “Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh
của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên
máy chém, trên chiến trường. Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng
của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”
9.6. Nguyên thượng nghị sĩ McGovern người Mỹ nhận xét rằng: “Trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhắc lại cuộc kháng chiến giành độc lập của Hoa Kỳ, do Thomas Jefferson soạn thảo. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ thay đổi một ý so với bản tuyên ngôn của Th. Jefferson. Câu “Chúng tôi ủng hộ một sự thật
hiển nhiên rằng mọi người đều sinh ra bình đẳng” thì Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nói rằng: “Mọi dân tộc sinh ra đều
bình đẳng”. Quả là một sự thay đổi khéo léo và sáng suốt”...
10. Cảm xúc, tâm tư, tình cảm của Bác Hồ ẩn chứa trong tác phẩm
- “Tuyên ngôn Độc lập” ra đời là một trong những niềm xúc động, hạnh phúc lớn lao nhất trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của Hồ Chí Minh như có lần Người từng tâm sự. Phía sau những lập luận chặt chẽ, sắc sảo, đanh
thép, đầy tính đối thoại, xác định giá trị pháp lí của chủ quyền dân tộc là dòng cảm xúc, tình cảm của người viết
Tuyên ngôn. Bởi lẽ những lời tuyên bố trang trọng trên Quảng trường Ba Đình lịch sử hôm nay cho toàn thể dân
tộc Việt Nam và nhân dân thế giới là kết quả bao nhiêu máu đã đổ của các chiến sĩ trên chiến trường, trong trại
tập trung, trên máy chém, bao nhiêu tính mạng đồng bào đã hi sinh. Mỗi dòng chữ là chan chứa niềm tự hào khi so
sánh cách mạng dân tộc với những cuộc cách mạng lớn trên thế giới. Mỗi dòng chữ là một niềm hạnh phúc vô biên
khi đất nước đã được tự do, độc lập. Mỗi dòng chữ cũng là những đau đớn, nhức nhối khi nhìn lại bao rên xiết lầm
than của nhân dân trong suốt hơn 80 năm qua dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật.
- Tuyên ngôn Độc lập kết tinh quyết tâm, ý chí sắt đá của toàn dân tộc, điệp đi nhấn lại như một lời thề sắt đá:
“Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy”. Và như vậy, sức thuyết phục của áng văn chính luận đối với người đọc không chỉ ở hệ thống lập
luận sắc sảo, mẫu mực của nó mà còn ở tình cảm chan chứa, sâu sắc của tác giả.
11. Tổng kết
– Tuyên ngôn Độc lập là một văn bản ngắn gọn, khúc chiết, khẳng định quyền tự do bất khả xâm phạm của dân
tộc Việt Nam, có tính chiến đấu cao đập tan luận điệu của kẻ thù xâm lược nước ta.
– Tuyên ngôn Độc lập thể hiện tầm tư tưởng, tầm văn hoá lớn của tư tưởng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc của
Hồ Chí Minh , xứng đáng là một bản hùng văn của dân tộc ta.
II. CÁC DẠNG ĐỀ LUYỆN TẬP

1. Dạng đề nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi

Đề 1: Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh viết :
“Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” .
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất
cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do .
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói :
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” .
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” .
(Trích Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh )
Anh (chị) hãy phân tích giá trị nổi bật của đoạn văn trên ở hai phương diện nội dung tư tưởng và nghệ
thuật lập luận
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
- Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước và cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đồng thời là nhà hoạt
động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Cùng với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của mình Người còn để lại một
sự nghiệp văn học to lớn.
- Bản Tuyên ngôn Độc lập vừa là văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, vừa là một áng văn chính luận ngắn gọn,
súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục. Đoạn đầu của bản tuyên ngôn có giá trị
nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận của Người.
2. Thân bài
2.1. Khái quát chung
- Hoàn cảnh ra đời bản tuyên ngôn
- Mục đích viết bản tuyên ngôn
- Giá trị bản tuyên ngôn
=> Tham khảo mục 1,2,4 phần I kiến thức cơ bản
2.2. Nội dung phân tích
2.2.1. Phân tích giá trị nội dung tư tưởng
- Đoạn văn đã chỉ ra và khẳng định: quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được sung sướng , quyền tự do,
quyền được mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người "không ai có thể xâm phạm được”.
Nhân quyền là cao cả, thiêng liêng bởi lẽ “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
- Nội dung tư tưởng của đoạn văn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập càng trở lên sâu sắc hơn khi từ những quyền
thiêng liêng của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng lên quyền của các dân tộc : “Tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tư tưởng vĩ đại
ấy không chỉ thể hiện khát vọng về độc lập tự do của nhân dân mà còn phản ánh khát vọng của các dân tộc bị áp
bức, phản ánh xu thế giải phóng dân tộc sau chiến tranh thế giới thứ hai. Đó là “cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí
Minh ”
- Ý nghĩa:
+ Hồ Chí Minh đồng tình với những tư tưởng tiến bộ của các bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ và Pháp.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ngang hàng ba cuộc cách mạng, ba bản Tuyên ngôn của nước Việt Nam, Mĩ,
Pháp nhằm quốc tế hoá vấn đề độc lập của dân tộc ta.
+ Đoạn văn gợi lại niềm tự hào cao cả của lịch sử dân tộc Việt Nam về các triều đại: Triệu, Đinh, Lý, Trần,
cùng sánh vai với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên đã được Nguyễn Trãi ghi trong Bình Ngô Đại Cáo.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm phê phán bản chất phản động của thực dân Pháp đi ngược lại tư tưởng tiến bộ
của tổ tiên họ đã 80 năm qua khi chúng đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta (sẽ được đề cập đến ở phần hai của
bản tuyên ngôn).
2.2.2. Phân tích giá trị nghệ thuật
- Tuyên ngôn Độc lập có kết cấu ba phần rất chặt chẽ: định đề - phản đề - tuyên bố
- Ở phần định đề: Hồ Chí Minh trích dẫn hai đoạn văn tiêu biểu nhất nói về nhân quyền và dân quyền trong bản
Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm
1791. Mĩ và Pháp là hai quốc gia lớn, nhân quyền và dân quyền là khát vọng của con người, là chân lí có ý nghĩa
phổ quát, “không ai có thể chối cãi được”. Cách trích dẫn của Hồ Chí Minh chuẩn mực theo trình tự thời gian
(1776 – 1791), trên hai châu lục khác nhau (châu Mĩ và châu Âu), hai quốc gia khác nhau (nước Mĩ và nước
Pháp). Từ quyền thiêng liêng của con người Hồ Chí Minh “suy rộng ra” nói đến quyền tự quyết của các dân tộc.
Từ trích dẫn đi đến khẳng định “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được”.
=> Cách lập luận rất chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục khi Hồ Chí Minh đã dẫn chứng chính xác, từ
ý tưởng lời văn hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ và Pháp để tạo cơ sở pháp lí, dùng lời nói của đối phương để
so sánh, phản bác âm mưu và hành động trái với công lí của chúng, dùng nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”.
- Nghệ thuật trích dẫn của Hồ Chí Minh đã chỉ ra về độc lập tự do của nhân dân ta, ca ngợi tầm vóc vĩ đại của cuộc
cách mạng tháng Tám. Người vừa tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của các dân tộc trên thế giới, đồng thời
ngầm cảnh báo những âm mưu đen tối của thực dân Pháp và bọn đế quốc rằng chúng xâm lược nước ta là chính
chúng đã chà đạp lên nhân quyền và quyền tự quyết của các dân tộc.
- Lập luận của đoạn văn chặt chẽ, đặc sắc. Lời văn mạnh mẽ, trong sáng dễ hiểu làm tăng thêm sức thuyết phục
bằng lí lẽ của đoạn văn. Từ đoạn văn mở đầu - định đề mà chuyển sang phản đề, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt
xảo quyệt thâm độc của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng
bào ta” trong suốt hơn tám mươi năm trời, gây ra bao nhiêu tội ác ghê tởm về chính trị, về kinh tế. Cách lập luận
như thế là chặt chẽ và hùng hồn.
3. Kết bài
- Tóm lại, phân tích đoạn văn trên ta thấy được giá trị nổi bật về nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận khéo léo
của Hồ Chí Minh. Đây là một trong những đoạn văn chính luận mẫu mực, ngắn gọn, súc tích, vừa có giá trị lịch
sử vừa có giá trị văn chương bền vững.
- Với những giá trị đó, Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định một chân lí lớn về dân tộc “Không có gì quý hơn độc
lập tự do” bằng cảm hứng trang trọng, giọng văn tha thiết hùng tráng. Chính Hồ Chí Minh cũng “thấy sung sướng”
trong cả cuộc đời viết văn làm báo của mình.
Đề 2: Phân tích đoạn cuối bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ chí Minh: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Gợi ý trả lời


1. Mở bài
Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là áng văn chính luận mẫu mực, là bản khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc. Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trịnh trọng tuyên bố : “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một
nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đây là một lời tuyên bố đanh thép và hùng hồn, đã kết tinh một cách sáng ngời
những tư tưởng nhân văn và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc.
2. Thân bài
2.1. Khái quát chung
- Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại, là bản khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Là kết tinh của chủ nghĩa yêu nước, của khát vọng tự do, hòa bình và tự chủ.
- Ngày 2.9.1945, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn này trước hàng chục vạn đồng bào thủ đô, mở ra kỷ nguyên
mới cho dân tộc.
2.2. Nội dung phân tích
a. Hồ Chủ Tịch khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng độc lập tự do và độc lập”. Khẳng định
như vậy vì điều đó phù hợp với đạo lí và pháp lí.
- Đất nước và con người Việt Nam cũng như tất cả mọi quốc gia, mọi dân tộc và mọi người “đều sinh ra có
quyền bình đẳng … có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” ( Tuyên ngôn Độc lập 1776
của Mĩ). Mặt khác, “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập” bởi lẽ “Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Pháp 1791). Cách lập luận mở đầu của Bác bằng cách lấy hai bản tuyên ngôn của Mĩ và Pháp đã tạo ra tiền đề để
khẳng định độc lập, tự do của Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với quyền bình đẳng quốc tế.
- Từ nhân quyền đặt ra trong bản tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, Hồ Chủ tịch đã “Suy rộng ra”, nói đến quyền
tự quyết của mọi dân tộc “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”. Lẽ phải ấy “không ai chối cãi được” và vô cùng thiêng liêng. Có thể nói, sau
hơn 80 năm bị bọn thực dân Pháp thống trị, lời tuyên bố “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập” bộc
lộ niềm tự hào dân tộc và khát vọng độc lập tự do của đất nước và con người Việt Nam.
b. Cách mạng tháng Tám thành công nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời “và sự thật đã trở
thành nước tự do độc lập”. Đó là một thực tế lịch sử không ai chối cãi được.
- Hồ Chí Minh đã vạch trần những tội ác dã man về chính trị, về kinh kế của thực dân Pháp đối với dân tộc
ta trong gần một trăm năm qua. Chúng áp bức bóc lột dân ta đến tận xương tủy “khiến cho dân ta nghèo nàn thiếu
thốn, nước ta tiêu điều xơ xác”. Thực dân Pháp đã tước đoạt tự do, dìm dân ta vào máu và nước mắt trong đêm
trường nô lệ: “chúng lập ra nhiều nhà tù hơn trường học, chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương
nòi của ta, chúng tắm những cuộc khởi của ta trong bể máu”…Chúng thủ tiêu mọi quyền lợi kinh tế của dân tộc
“cướp không hầm mỏ, nguyên liệu, độc quyền in giấy bạc, bóc lột công nhân ta một cách tàn nhẫn” . Mang tiếng là
bảo hộ ta nhưng thực tế thực dân Pháp chỉ “trong vòng 5 năm 1940 – 1945 chúng đã bán nước ta hai lần cho
Nhật”. Pháp và Nhật đã gây ra nạn đói năm ất Dậu 1945 khiến “hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói”. Khi Nhật đảo
chính Pháp, trước khi thua chạy (ngày 9/3/1945) thực dân Pháp “còn nhẫn tâm giết chết số đông tù chính trị ở Yên
Bái và Cao Bằng”
- Tiếp đến, Người nói lên niềm tự hào mãnh liệt về sự thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám long trời lở
đất đã làm nên lịch sử nước nhà. Cách mạng tháng Tám bùng nổ và thắng lợi, “dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ
tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời khi ba kẻ thù bị lật đổ, thất bại:
“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Chỉ một câu thôi mà Người đã tổng kết được cả một quá trình vươn
lên kì vĩ của dân tộc Việt Nam: Ta đã đánh bại chủ nghĩa thực dân “Pháp chạy”. Ta đã đập tan xiềng xích của Nhật
“Nhật hàng”. Ta đã làm sụp đổ chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn đời nay “Vua Bảo Đại thoái vị”. Đó là lẽ phải,
là sự thật lịch sử không ai chối cãi được. Như vậy, Độc lập và Tự do là thành quả đấu tranh và cách mạng bền bỉ,
gan góc, lâu dài của dân tộc ta: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã
gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được
độc lập!”. Cách lập luận ấy đã làm “đẹp mặt, đẹp lòng” với các nước Đồng minh, đồng thời cách lập luận đó đã
cho ta thấy thái độ nhục nhã của thực dân Pháp khi “phản bội lại Đồng minh” bán nước ta hai lần cho Nhật.
- Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là một sự thật lịch sử, nên Hồ Chí Minh mới tuyên bố một cách
đanh thép, hùng hồn: “Tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí
về nước Việt Nam”. Cách nói “xóa bỏ hết”, “xóa bỏ tất cả” là cách nói thể hiện sự dứt khoát chối bỏ sự có mặt của
người Pháp trên đất nước ta. Từ nay, nước ta là một nước độc lập.
c. Độc lập tự do là khát vọng, là ý chí của đất nước và con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam
- Lời tuyên bố vang lên như một lời thề thiêng liêng làm chấn động lòng người: “Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Lời tuyên bố
hùng hồn, chắc nịch như một lời thề vang vọng khắp núi sông.
- Cụm từ “toàn thể dân tộc Việt Nam” nói lên sức mạnh đại đoàn kết, triệu triệu con người Việt Nam kết
thành một khối mà không thể một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục được. Các yếu tố như “tinh thần”, “lực
lượng”, “tính mạng”, “của cải”. “Tự do hay là chết”, “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành lại
nền độc lập!”. Quyết tâm ấy được Hồ Chí Minh tuyên bố đanh thép hùng hồn. Triệu triệu con người Việt Nam
“quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
- Lời tuyên bố của Hồ Chí Minh là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với thực dân Pháp đang âm mưu tái chiếm
Việt Nam một lần nữa, đồng thời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu hi sinh cho độc lập, tự do
của Tổ quốc. Ba mươi năm kháng chiến chống Pháp và Mĩ, nhân dân ta đã thể hiện một cách hùng hồn lời tuyên
bố mạnh mẽ ấy. Đó là khát vọng, là ý chí sắt đá về độc lập, tự do của dân tộc ta, của nhân dân ta. Một lần nữa,
Người lại tuyên bố “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”. (Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 19.12.1946).
- Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, những chặng đường
lịch sử vẻ vang của dân tộc ta đã trải qua rất đáng tự hào: Cách mạng tháng Tám ; chiến thắng Điện Biên oai hùng;
Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, Non sông liền một dải, Bắc Nam sum họp một nhà …Đó là chiến thắng tất
yếu của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của một dân tộc Việt Nam bé nhỏ nhưng có sức vươn lên kì vĩ:
“Ta như thuở xưa thần phù Đồng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khỏe như ngựa sắt
Chí căm hờn rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”
2.3. Nghệ thuật
- Tuyên ngôn Độc lập có nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết
phục. Ngôn ngữ vừa chính xác vừa gợi cảm. Giọng văn linh hoạt. Tuyên ngôn Độc lập của Bác đã trở thành một
áng văn chính luận mẫu mực nổi tiếng. Đằng sau đó là một tầm tư tưởng văn hóa của Hồ Chí Minh, Người đã tổng
kết được một cách giản dị mà súc tích những kinh nghiệm đấu tranh của nhiều thế kỷ giành độc lập dân tộc, dân
quyền, nhân quyền của dân tộc ta và nhân loại.
3. Kết bài
- Tuyên ngôn độc lập xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn”. Nó đã kế tục truyền thống vinh quang của
Nam quốc sơn hà, của Bình Ngô đại Cáo. Nó là lời non nước cao cả và thiêng liêng, thể hiện sâu sắc tư tưởng vĩ
đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, biểu lộ ý chí và sức mạnh Việt Nam.
- Đọc đoạn văn cuối bản Tuyên ngôn Độc lập, chúng ta càng thấm thía tự hào về độc lập, tự do mà dân tộc ta
đã giành được bằng xương máu của bao thế hệ, của bao anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống cho chúng ta được tự do như
ngày hôm nay.
ĐỀ 3: Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh.
Gợi ý trả lời
1) Mở bài
- Tác giả: (như đề 1)
- Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Tác phẩm
không chỉ kết tinh tâm hồn Bác, điểm hội tụ những nét đẹp tinh tuý của dân tộc, những tình cảm thiết tha và sâu
lắng của thời đại mà hơn hết còn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh nói chung, rất độc đáo và đặc
sắc.
2) Thân bài
2.1. Phần 1: Hồ Chí Minh đưa ra chân lí của thời đại về quyền con người và quyền độc lập của các
dân tộc trên thế giới (Cơ sở pháp lí)
2.1.1. Để khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc ta là đúng và phù hợp với công luận quốc tế, mở đầu
bản tuyên ngôn ta thấy cách đặt vấn đề của Hồ Chí Minh bất ngờ, độc đáo, thú vị. Người không ôn lại những trang
sử chói lọi của dân tộc, không dùng những mĩ từ, những quan điểm riêng tư của bản thân mà lại trích những lời bất
hủ trong Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ (1976), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1979): “Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”
- Cách trích dẫn cho thấy Bác sắc sảo trí tuệ trong cuộc đối thoại lịch sử.
- Cách trích dẫn còn rất chuẩn mực khoa học theo trình tự thời gian, trên cả hai châu lục Châu Âu, châu Mĩ, là
tiếng nói của những nước hùng mạnh, danh tiếng nhất.
- Những lời dẫn ở hai bản tuyên ngôn có sự tương đồng về chiều sâu tư tưởng, đề cao Nhân quyền và Dân quyền.
Đó là thành quả của hai cuộc cách mạng vĩ đại thuộc về người Mĩ và người Pháp, đánh dấu buổi bình minh mới
của nhân loại, lật đổ chế độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân, thiết lập chế độ cộng hòa dân chủ cho con người.
2.1.2. Cách viết mở đầu như vậy là khéo léo và kiên quyết
- Khéo léo vì Bác rất trân trọng tư tưởng tiến bộ của người Pháp và người Mĩ. Với cách viết này Người thể
hiện thái độ trân trọng đối với kẻ thù.
- Kiên quyết vì Tuyên ngôn Độc lập một mặt khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam dựa trên
những chân lí mà người Mĩ, người Pháp đưa ra. Đồng thời ngầm cảnh báo nếu thực dân Pháp tấn công Việt Nam
một lần nữa thì chính họ đã phản bội lại tổ tiên của mình, làm dơ bẩn lá cờ nhân đạo thiêng liêng mà những cuộc
cách mạng vĩ đại của dân tộc họ đã giành được.
- Cách viết thể hiện lập luận sắc sảo. Hồ Chí Minh thực hiện chiến thuật “gậy ông đập lưng ông” vì thế Chế
Lan Viên viết: “Những câu tuyên ngôn trích trên kia vừa là quả táo đối với chúng ta vừa là quả lựu đạn đối với kẻ
thù”.
- Trích dẫn lời tuyên ngôn của Pháp và Mĩ, Bác muốn đặt ba bản tuyên ngôn ngang bằng nhau, từ đó gián
tiếp khẳng định thành quả to lớn của cuộc cách mạng tháng Tám, thế đứng của dân tộc Việt Nam về quyền độc
lập, tự do.
- Trong lịch sử cuộc đấu tranh phát triển thuộc địa Bắc Mĩ nhằm thoát khỏi chế độ thống trị của thực dân
Anh, với cách mạng tháng Tám 1945 Bác nêu rõ: “Dân ta đánh đổ xiềng xích thực dân 100 năm nay để gây dựng
nước Việt Nam độc lập”.
- Nếu cuộc cách mạng Nhân quyền và Dân quyền ở Pháp mà lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến quân chủ
mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa thì với cách lập luận này, Hồ Chí Minh khẳng định: cách
mạng tháng Tám của Việt Nam đã giải quyết đúng đắn những nhiệm vụ mà cách mạng Pháp, Mĩ đạt được. Vì thế
nếu người Pháp, Mĩ được độc lập tự do thì lẽ gì điều đó không là hiện thực của người Việt Nam.
- Trích dẫn lời tuyên ngôn của Pháp, Mĩ còn thể hiện niềm tự hào dân tộc của Bác, Người nêu rõ thế đứng
của dân tộc Việt Nam sánh ngang cường quốc Pháp, Mĩ. Điều này khiến người đọc nhớ tới những câu văn hào
hùng trong “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
2.1.3. Bác trích dẫn hai bản tuyên ngôn rất sáng tạo linh hoạt thể hiện ở lời suy rộng ra của Người : “suy
rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”
- Từ quyền của con người trong tuyên ngôn của Mĩ, Pháp Bác suy ra thành quyền của các dân tộc trên thế
giới. Nhà văn hóa Cu Ba trong cuốn Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới viết: “Cống hiến lớn nhất của cụ
Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi con người thành quyền lợi dân tộc. Như vậy, tất cả các dân
tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình”. Lời “suy rộng ra” này là đóng góp quan trọng đối với
phong trào phát triển của các nước bị áp bức trên thế giới, nó không chỉ đòi quyền độc lập, tự do cho dân tộc Việt
Nam mà còn là tiếng súng khởi đầu, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, dự báo thời kỳ bão táp cách mạng ở các nước
thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX.
2.1.4. Nhận xét chung
Với lời lẽ giản dị, cách viết cô đọng, lập luận chặt chẽ, hai câu trích dẫn bổ sung cho nhau, kết hợp với một
lời bình luận sáng tạo đầy chất trí tuệ, cùng câu kết thúc: “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được” phần mở đầu đã
đặt nền móng, cơ sở pháp lí thuyết phục hấp dẫn.
2.2. Phần 2: Cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn
2.2.1. Tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp
- Câu văn mở đầu: “Thế mà hơn 80 năm nay thực dân Pháp đã lợi dụng lá cờ tự do bình đẳng, bác ái đến
cướp nước ta, áp bức đồng bào ta” chỉ bằng một câu văn chuyển tiếp mà đã mở ra một nội dung hoàn toàn đối lập
với những gì là văn minh nhân đạo mà kẻ thù nêu ở hai bản tuyên ngôn của chúng. Từ câu văn này Bản án chế độ
thực dân Pháp từng được Hồ Chí Minh đưa ra cách đấy hai mươi năm nay lại được tóm tắt và đưa ra trước công
luận thế giới một lần nữa.
- Đứng trên lập trường dân tộc nếu Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo trước đây đã tố cáo tội ác xâm
lược của giặc Minh với luận điệu xảo trá “Phù Trần diệt Hồ”:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng minh thừa cơ gây hoạn
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”.
Thì nay bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh cũng đứng trên lập trường dân tộc tố cáo thực dân Pháp lợi
dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Đây là hành động phi nhân nghĩa, vô
nhân đạo.
- Hơn thế, thực dân Pháp tuyên bố với thế giới chúng đến Đông Dương là để khai hóa và bảo hộ. Thực dân
Pháp muốn kể công nhưng qua bản tuyên ngôn Bác cho thấy chúng có nhiều tội lớn “trời không dung đất không
tha”. Đứng trên lập trường nhân bản Hồ Chí Minh đã tố cáo tội ác man dợ này của thực dân Pháp, với những tội ác
về chính trị: “Chúng tuyệt đối không cho dân ta chút tự do nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man… Chúng
lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc
phiện, rượu cồn để làm nòi giống ta suy nhược”. Bên cạnh đó là những tội ác về kinh tế: “Chúng bóc lột dân ta đến
xương tủy. Chúng độc quyền in giấy bạc, xuất cảng, nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí. Chúng
không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”.
- Nhận xét nghệ thuật lập luận:
+ Sức mạnh của văn chính luận là cách lập luận bởi thế nó thường nghiêng về lí lẽ, lí trí trở nên khô cứng
giáo điều. Thế nhưng ở Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã viết những câu văn có sức thuyết phục cao, lay động
mạnh mẽ người đọc. Bản cáo trạng về tội ác của Pháp được thiết lập bằng những lý lẽ, dẫn chứng sát thực, những
sự thật mà thực dân Pháp không thể chối cãi.
+ Văn chính luận Hồ Chí Minh còn giàu hình ảnh, sử dụng điệp từ, điệp ngữ hết sức điêu luyện tài tình. Từ
“chúng” được nhắc đi nhắc lại kết hợp với những động từ mạnh “cướp”, “đâm” … có tác dụng nêu bật tội ác tày
trời của quân cướp nước. Người đọc nghe như được xem những thước phim thời sự ghi lại tình cảnh thê thảm của
người dân Việt Nam và cũng giúp nhận rõ bộ mặt quỷ dữ của quân cướp nước.
+ Câu văn sinh động hiệu quả bởi các thủ pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hóa liên tưởng … đặc biệt
câu văn “Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu” được Bác viết tràn đầy xúc động chan chứa xót
thương cùng lòng căm thù giặc sâu sắc gợi người đọc liên tưởng tới tội ác một thời của giặc Minh:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
+ Kiểu điệp câu: 14 câu câu nào cũng có chữ “chúng” mở đầu nặng như búa tạ (Chế Lan Viên). Cách viết
làm cho đoạn văn thêm nhức nhối, làm cháy ngọn lửa căm hờn, sức mạnh cụ thể hóa, hình tượng hóa tội ác của
giặc.
2.2.2. Hồ Chí Minh hùng biện về quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam và khẳng định Pháp không
có quyền trở lại Việt Nam
* Pháp không được quay trở lại Đông Dương và Việt Nam
- Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sự thật từ mùa thu 1940 nước ta đã là thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp”.
- Hơn thế, Pháp là kẻ đớn hèn đi ngược lại thế giới tiến bộ, không đủ tư cách để khai hóa bảo hộ Việt Nam:
Quỳ gối đầu hàng mở cửa nước ta rước Nhật, liên kết với Nhật bóc lột nhân dân ta gây ra nạn đói khủng khiếp
1945 khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói; nhiều lần Việt minh kêu gọi Pháp liên minh chống Nhật nhưng
chúng đã hèn nhát từ chối, trong năm năm bán nước ta hai lần cho Nhật; thậm chí chúng còn giết tù chính trị của ta
khi rút chạy.
- Với những lập luận và dẫn chứng xác đáng này, đặt trong bối cảnh thời đại khi Pháp tuyên bố với thế giới
rằng: Chúng có công “khai hóa” và “bảo hộ” Việt Nam thì những luận chứng ấy có sức mạnh to lớn, trở thành bức
rào cản không cho Pháp quay trở lại Việt Nam. Đây cũng là lời cảnh tỉnh nhân dân tiến bộ thế giới về bộ mặt xảo
trá đê hèn của thực dân Pháp.
* Bác khẳng định dân tộc Việt Nam có đủ tư cách để độc lập
- Hồ Chí Minh chỉ rõ nếu thực dân Pháp hai lần phản bội đồng minh thì dân tộc Việt Nam anh dũng đứng về
phe đồng minh chống phát xít.
- Nếu thực dân Pháp đê hèn giết tù chính trị thì dân tộc Việt Nam lại đối xử độ lượng nhân ái. Sau biến động
9/3 Việt Minh giúp người Pháp chạy qua biên thùy, cứu nhiều người Pháp khỏi nhà giam của Nhật, bảo vệ tính
mạng tài sản của họ, các từ “đã giúp”,“đã cứu”, “đã bảo vệ” biểu hiện ba tình trạng khốn quẫn của kẻ thù và biểu
hiện tấm lòng nhân đạo của người Việt như ông cha ta đã từng đúc kết:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Quan trọng nhất là dân tộc Việt Nam tiến hành cách mạng tháng Tám thành công lật đổ ba tầng xiếng xích.
Câu văn “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” ngắn ngọn, súc tính nhưng đủ sức diễn tả ách thống trị
nghìn năm phong kiến, trăm năm Pháp thuộc và chế độ phát xít bạo tàn. Đây là cách nói hình ảnh sinh động thể
hiện sức mạnh vũ bão của cách mạng tháng Tám, thế oai hùng của dân tộc Việt Nam sải những bước dài vào kỷ
nguyên độc lập, tự do.
* Nghệ thuật lập luận:
- Dùng những từ “sự thật”, điệp ngữ “sự thật là” làm tăng tính thuyết phục chân thực một mặt phủ nhận
quyền của thực dân Pháp đối với Việt Nam, mặt khác buộc công luận thế giới chấp nhận quyền độc lập tự quyết
của Việt Nam.
- Hồ Chí Minh sử dụng những ngôn từ giản dị nhưng chọn lọc: “quỳ gối”, “rước” … chỉ rõ bản chất đớn hèn
của thực dân Pháp, chặn đứng âm mưu dã tâm của chúng.
- Giọng điệu đanh thép sắc sảo mang tầm vóc của một trí tuệ lớn.
2.2.3. Lời tuyên bố tuyệt giao với Pháp
- Yêu cầu đồng minh công nhận tư cách độc lập của Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn với Pháp, xóa bỏ hết
những hiệp ước, mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
- Những cụm từ: “thoát ly hẳn”; “xóa bỏ hết”; “ xóa bỏ tất cả” … theo chiều tăng tiến mang nghĩa phủ nhận
mạnh mẽ mọi mối quan hệ, ràng buộc nhà Nguyễn bù nhìn đã ký với Pháp nay không còn giá trị nữa. Lời tuyên bố
tuyệt giao được Bác viết với giọng điệu dứt khoát, đó là tiếng nói không khoan nhượng, kiên quyết chống âm mưu
của bọn thực dân Pháp.
- Hồ Chí Minh đối xử với thực dân Pháp sắc sảo không khoan nhượng bao nhiêu thì hướng tới đồng minh lại
mềm mỏng theo lập luận “lạt mềm buộc chặt” thấu tình đạt lí: “Chúng tôi tin rằng”…. lý do người đưa ra hết sức
thuyết phục:
+ Việt Nam là một dân tộc như bao dân tộc khác, mà các nước đồng minh đã công nhận nguyên tắc dân tộc
bình đẳng, thì đương nhiên Pháp phải thừa nhận điều đó ở Việt Nam.
+ Dân tộc Việt Nam đã gan góc chống phát xít thực dân, luôn trung thành ủng hộ đồng minh thì tất yếu phải
được tự do, độc lập. Từ dân tộc đi liền với từ “gan góc” được điệp đi điệp lại đã làm nổi bật một sự thật mà kẻ thù
phải kính trọng, thế giới phải thừa nhận.
2.3. Phần tuyên ngôn
- Từ giọng văn hùng biện ở phần một và phần hai thì đến phần ba giọng điệu thay đổi trở nên trang trọng
đanh thép.
Thay mặt chính phủ lâm thời của nước Việt Nam, toàn thể dân tộc Việt Nam Hồ Chí Minh khẳng định
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập”. Đó không phải là cái quyền cần có mà đó là một sự thật
không ai chối cãi được. Lời kết luận giản dị mà chắc như dao chém xuống đá nêu lên một chân lí, một quyền lợi
chính đáng, một sự thật hiển nhiên.
Tự do độc lập là khát vọng lý tưởng của đất nước của dân tộc Việt Nam. Dòng cuối của tuyên ngôn như một
lời thề làm chấn động lòng người:
+ “Toàn thể dân tộc Việt Nam”, sức mạnh đoàn kết dân tộc Việt Nam là một thành đồng, một lũy thép không
kẻ thù nào có thể đánh bại được. Khát vọng giữ gìn quyền độc lập tự do không phải là của một người mà là triệu
con người đất Việt.
+ Lời thề ở câu cuối chất chứa tinh thần của thời đại cách mạng tự do hay là chết? “Dân tộc Việt Nam quyết
hy sinh tất cả tinh thần, lực lượng, tính mạng, của cải chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.
+ Mặt khác nó còn hàm chứa sức mạnh của truyền thống dựng nước, giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc,
khắc họa thế đứng hào hùng của dân tộc Việt Nam, một đất nước chưa bao giờ khuất, đất nước chưa bao giờ chịu
khuất phục, bị diệt vong trước bất cứ một kẻ thù tàn bạo nào.
+ Lời khẳng định ấy chan chứa lòng yêu nước và tự hào dân tộc, thức tỉnh muôn thế hệ người đọc lòng yêu
quê hương đất nước mà biểu hiện cao đẹp nhất chính là phải biết “gắn bó” và “san sẻ”, phải biết “hóa thân” cho
đất nước.
3/ Kết luận
Tuyên ngôn Độc lập thấm nhuần tư tưởng chính nghĩa, yêu nước, thương dân cùng khát vọng độc lập tự do
cháy bỏng của Hồ Chí Minh, ý chí sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách
văn chính luận của Bác được viết bằng lí chí sáng suốt, sắc sảo bằng cả tấm lòng yêu nước nồng nàn sâu sắc của
một trái tim vĩ đại. Lập luận giàu sức thuyết phục, bố cục chặt chẽ, giọng điệu đa dạng, ngôn từ hàm súc, giàu giá
trị thẩm mĩ.
Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” của thế kỷ XX, chan chứa lòng yêu nước, tự hào
dân tộc, tư tưởng nhân văn tiến bộ sẽ còn làm xúc động người đọc đương thời…
2. Dạng đề nghị luận về một ý kiến (nhiều ý kiến) bàn về tác phẩm

Đề 1: “Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết rất cao tay: vừa khéo
léo, lại vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc” (Phan Trọng Luận). Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Gợi ý trả lời
1. Mở bài
- Hồ Chí Minh (1890 – 1969), vừa là một nhà yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại, vừa là một nhà văn hóa lớn.
- Tuyên ngôn Độc lập được xem là mẫu mực của thể loại văn chính luận. Đoạn văn mở đầu “được viết rất cao tay:
vừa khéo léo vừa kiên quyết, lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc” đúng như nhận xét của giáo sư Phan Trọng
Luận.
2. Thân bài
2.1. Giải thích ý kiến
- cao tay: nghĩa là có khả năng xử lí, ứng phó tài tình hơn người khác trước những việc nan giải.
- viết rất cao tay: là khả năng viết của con người một cách tài tình hơn người khác.
- khéo léo: biết có những cử chỉ, hành động, lời lẽ thích hợp làm người khác vừa lòng, để đạt được kết quả như
mong muốn trong quan hệ đối xử.
- kiên quyết: tỏ ra hết sức cứng rắn, quyết làm bằng được điều đã định, dù khó khăn trở ngại đến mấy cũng
không thay đổi
- hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc: chứa đựng một nội dung ý nghĩa nào đó ở bên trong, chứ không diễn đạt
trực tiếp
=> Đánh giá của Phan Trọng Luận: “Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
được viết rất cao tay: vừa khéo léo, lại vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc” là sự khẳng định nghệ thuật viết văn,
nghệ thuật trích dẫn của Bác rất tài tình, chứa đựng nội dung tư tưởng sâu sắc.
2.2. Nội dung phân tích
2.2.1. Đoạn mở đầu được viết vừa khéo léo vừa kiên quyết
- Đoạn mở đầu Bác không nêu trực tiếp nguyên lí của một bản tuyên ngôn mà dựa vào việc trích dẫn hai bản tuyên
ngôn nổi tiếng Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm
1791 nhằm khẳng định “quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” của nhân dân ta. Đây chính là nghệ thuật
“gậy ông đập lưng ông”.
- Bác đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp
ghi trong hai bản tuyên ngôn từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng, văn hóa của hai dân tộc ấy đã được cả
thế giới công nhận. Cách viết như thế vừa khéo léo vừa kiên quyết
+ “Khéo léo” vì tỏ ra trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ để “khóa miệng” bọn
thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đang âm mưu xâm lược và can thiệp vào nước ta.
+ “Kiên quyết” vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bẩn bùn lên lá cờ nhân đạo
của những cuộc cách mạng của nước Pháp, nước Mĩ nếu cứ nhất định xâm lược Việt Nam.
2.2.2. Đoạn mở đầu còn hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc
- Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của đất nước Việt Nam Bác trích dẫn hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của nước
Mĩ, Pháp không chỉ thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc mà còn có hàm ý coi ba đất nước, ba bản tuyên ngôn
ngang hàng nhau. Thực tế, cuộc cách mạng tháng Tám đã giải quyết được cả hai nghiệm vụ mà hai bản tuyên ngôn
của người Pháp và người Mĩ đề cập: đánh đổ giai cấp phong kiến và giải phóng dân tộc.
- Luận điểm “suy rộng ra” của Bác không những khẳng định quyền tự quyết, con đường đi lên của dân tộc Việt
Nam mà còn là đóng góp đầy ý nghĩa của Bác với phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa trên thế
giới. Nó như phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân ở nửa sau thế kỉ XX.
3. Kết bài
- Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Bác chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, lại
được viết bằng một nghệ thuật cao tay, mang sức thuyết phục mạnh mẽ.
- Nó xứng đáng là một đoạn mở đầu mẫu mực cho một bản tuyên ngôn bất hủ.
Đề 2: Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đánh giá Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau:
“Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng
không ai chối cãi được và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được
trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập, tự
do, vì nhân quyền của dân tộc và của nhân loại”.
Anh/ chị hãy phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập để làm sáng tỏ ý trên.
Gợi ý trả lời
1. Mở bài
- Tác giả Hồ Chí Minh (như đề số 1 ở trên)
- Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Bản
tuyên ngôn có sức lay động mạnh mẽ tâm hồn người nghe, người đọc bởi chính tài nghệ của Bác mà “Tài nghệ ở
đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi
được. Và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn
gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỉ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền, dân quyền của
dân tộc và của nhân loại” đúng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đánh giá.
2. Thân bài
2.1. Giải thích ý kiến
- tài nghệ : Tài năng đạt đến độ điêu luyện, tinh xảo trong nghề nghiệp
- dàn dựng: tập để chuẩn bị đưa ra diễn (nói khái quát)
- dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi
được: nghĩa là khả năng thuyết phục đối phương bằng lập luận, dẫn chứng và lí lẽ
- tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn: quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với hiện thực khách quan
và đối với xã hội; những tư cách, phẩm chất đạo đức mà một người cần phải có để được coi là một người tốt, một
người gương mẫu.
- dân quyền: quyền công dân nói chung
- nhân quyền: quyền căn bản của con người, như quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, …
- Và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn
gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỉ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền, dân quyền của
dân tộc và của nhân loại”. Là kết quả của ngòi bút tài tình Hồ Chí Minh
=> Nhận định của Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập không chỉ kết
tinh tâm hồn Bác, điểm hội tụ những nét đẹp tinh tuý của dân tộc, những tình cảm thiết tha và sâu lắng của thời
đại, mà hơn hết còn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh nói chung, rất độc đáo và đặc sắc.
2.2. Phân tích ý kiến
2.2.1. Đọc Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh điều ta nhận thấy được đầu tiên là tài nghệ của
Người, đó là: “dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng
không ai chối cãi được”
2.2.1.1. Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn
- Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh mở ra bằng những câu văn trích trong hai văn kiện lập quốc: Tuyên
ngôn Độc lập năm 1776 của Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp 1791:
+/ “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc”
+/ “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
- Việc trích dẫn như thế mang lại một cách lập luận có tính chiến thuật sắc bén, khéo léo, khóa miệng đối phương.
Trích dẫn như vậy, tác giả vừa khéo léo vừa rất kiên quyết:
+ Khéo léo vì Người đã ngợi ca Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ và Pháp - được xem là những tư tưởng tiến bộ,
chân lí của loài người. Những lời bất hủ ấy về quyền sống, bình đẳng, sống tự do, sống hạnh phúc, không ai không
thể công nhận bởi nó đã được thực tế lịch sử chứng minh, đã trải nghiệm xương máu qua hai cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ điển hình của nhân loại.
+ Kiên quyết vì: Với đôi mắt sáng suốt, nhìn xa trông rộng, Bác đã thấy kẻ thù cụ thể trước mắt sẽ xâm lược
dân tộc ta là thực dân Pháp, đằng sau đó là đế quốc Mĩ nên mở đầu bản tuyên ngôn, Bác đã rung hồi chuông cảnh
báo: nếu chúng xâm lược Việt Nam là đi ngược lại lời cha ông chúng, đã làm vấy bẩn lá cờ nhân đạo và chính
nghĩa mà tổ tiên chúng đã dựng lên.
-> Ý nghĩa sâu sắc và đanh thép trên ẩn dưới cách nói khéo léo, tỏ ra tôn cao, tôn trọng những danh ngôn
bất hủ của người Pháp, người Mĩ, nhưng thật chất thể hiện sự mềm dẻo của sách lược, thắt bụng chúng như “lạt
mềm buộc chặt”. Thật thú vị và cũng thích đáng biết bao với cú đòn lấy “gậy ông đập lưng ông” của Bác.
- Mặt khác, Người dùng nghệ thuật đăng đối cân xứng đề:
+ Trích dẫn văn kiện lập quốc của Mĩ và Pháp – hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại, bản
tuyên ngôn của Bác đã nâng cao tầm vóc văn hóa của dân tộc Việt Nam, sánh ngang với ánh sáng văn minh thế
giới, một dân tộc với bề dày truyền thống “vốn xưng nền văn hóa đã lâu”. Ta như gặp lại âm hưởng ngân vang, tự
hào của áng “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo khi đặt nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngang hàng với
những nước lớn trên thế giới, cũng như cha ông ta xưa kia:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương”.
+ Hơn nữa, cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng nâng lên tầm vóc thế giới, kết hợp vừa “đánh đổ các
xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”, vừa “đánh đổ chế độ quân chủ
mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa” những nhiệm vụ cuộc cách mạng Mĩ 1776 và cách mạng
Pháp 1791 đã giải quyết. Nối liền trong nguồn mạch dạt dào của truyền thống tự hào dân tộc, bản tuyên ngôn gợi
mối dây lịch sử hiện nay với quá khứ ngàn xưa, niềm tự hào dân tộc từ ngàn xưa như kết tinh lại trong thời điểm
hiện đại, cùng âm vang tha thiết hào hùng. Tư tưởng Hồ chí minh đã vượt phạm vi trong nước nhỏ hẹp vươn đến
tầm cao nhân loại, vượt thời gian, không gian hiện tại, bắt gặp và lắng đọng “hồn thiêng sông núi”.
- Nét sáng tạo linh hoạt, mới mẻ của ngòi bút văn phong chính luận của Bác không chỉ ở việc trích dẫn hai bản
tuyên ngôn trên mà Bác còn mở rộng, phát triển lên tư tưởng mới”: “… Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn
Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
+ Từ quyền con người Bác đã vận dụng thiết thực, sáng tạo vào quyền độc lập dân tộc.
+ Câu nói không chỉ thức tỉnh trí tuệ Việt Nam mà trí tuệ nhân loại cũng như bừng tỉnh, hay nói như giáo sư
nguyễn Đăng Mạnh, đó là “phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ
chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX”.
+ Những lí lẽ sắc bén, chặt chẽ giàu sức thuyết phục thể hiện ngòi bút già dặn “cao tay” của một nhà tư
tưởng, nhà văn hóa lớn có tầm vóc nhân loại, kết tinh trí tuệ tình cảm tha thiết và sâu lắng của thời đại, của con
người.
=> Tóm lại: cách đặt vấn đề khéo léo, lập luận chặt chẽ, giàu tính chiến đấu, Bác buộc thế giới phải thừa
nhận độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
2.2.1.2. Hệ thống lập luận của tuyên ngôn không chỉ chặt chẽ trong việc đặt cơ sở pháp lí của nền độc
lập dân tộc mà còn rất toàn diện khi đưa ra cơ sở thực tế của Tuyên ngôn
* Những “bằng chứng sống” của hiện thực lịch sử, những lí lẽ của sự thật có sức tác động trực tiếp và sức
thuyết phục mạnh mẽ hơn cả đến tâm hồn người nghe, nguời đọc.
* Câu văn mở đầu đoạn hai: Bắt đầu từ hai tiếng “Thế mà …”, mạch văn chuyển rất tự nhiên, lay chuyển
nhận thức con người từ những nguyên lí cao đẹp vừa nêu trong hai bản tuyên ngôn đến thực tế nước Việt Nam.
Không nói gián tiếp kín đáo mà đến đây, ngòi bút sắc sảo của Bác như lưỡi dao sắc bén đi sâu vào bản chất thực
dân Pháp, bóc trần danh nghĩa “khai hóa”, “bảo hộ” mà chúng đã rêu rao, dưới lá cờ “tự do, bình đẳng, bác ái”, chỉ
thẳng “hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
* Cơ sở khách quan: tội ác của thực dân Pháp trong 80 năm
- Một hệ thống luận cứ chặt chẽ, toàn diện, tiêu biểu và đầy ấn tượng tung ra dưới bút lực dồi dào, sắc sảo của Bác.
- Pháp kể công “khai hóa”, Hồ Chí Minh đã vạch tội ác của thực dân Pháp:
+ Về chính trị: chúng cướp nước ta, thủ tiêu quyền tự do dân chủ, chia cắt cơ thể thống nhất đất nước thành
ba chế độ, ngăn cản khối đoàn kết dân tộc…
+ Về kinh tế: chúng “bóc lột dân ta đến xương tuỷ”, kìm hãm nền kinh tế dân tộc trong vòng què quặt, lạc
hậu…
+ Về văn hóa giáo dục: chúng đầu độc dân ta bằng rượu cồn và thuốc phiện; Chúng xây dựng nhà tù nhiều
hơn trường học…
+ Về quân sự: chúng đàn áp nhân dân ta dã man, không những không “bảo hộ” nước ta mà còn “bán nước ta
hai lần cho Nhật”.
- Từng câu, từng chữ bên cạnh những thuật ngữ chính trị còn ám ảnh, nhức nhối đến sâu thẳm tâm can người đọc
bởi sức mạnh nghệ thuật văn chương. Những câu ngắn như dồn nén bao căm hận, ẩn đằng sau đó là sôi trào máu
và nước mắt thấm đầu ngòi bút. Mỗi câu vang lên đanh thép, chất chứa hờn căm như những lời tuyên án, mở đầu
là hàng loạt từ “Chúng” với những hành động tàn bạo “Thẳng tay chém giết”, “tắm các cuộc khởi nghĩa của chúng
ta bằng những bể máu”, “ràng buộc dư luận”, “bóc lột dân ta đến xương tủy”… và từ đó dội xuống như búa tạ đến
“nhân dân ta”, “nhà nước ta”, “nòi giống ta”, “dân tộc ta”… Những hình ảnh giàu sức gợi cảm, ngắn gọn, chính
xác: “Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Ta nghe trong lời của Bác âm vang tiếng nói
cha ông – tiếng nói hờn căm tội ác “trời không dung, đất không tha” của kẻ thù khi chúng:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
(Bình Ngô đại Cáo – Nguyễn Trãi)
--> Với ngòi bút hiện thực sắc sảo, giàu giá trị thẩm mĩ, bản Tuyên ngôn rất hàm súc, đã vẽ lên bức tranh
một thời kỳ lịch sử đau thương của dân tộc với những gam màu xám lạnh trên nền máu và nước mắt kéo dài “từ
Quảng Trị đến Bắc kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”. Những trang văn ấy lay động mạnh mẽ tâm hồn
người đọc, là bằng chứng xác thực “không thể chối cãi được” tạo lí lẽ lật tẩy bộ mặt tàn bạo của thực dân Pháp, đi
ngược lại truyền thống văn hóa của nước Pháp, của nhân loại. Đằng sau những trang văn day dứt ấy là tâm hồn
nhân đạo cao cả của Hồ Chí Minh:
“Người đã đói mọi cơn đói ngày xưa
Người đã chết hai triệu lần năm đói bốn lăm khủng khiếp”
(Nhà thơ Cuba A.Rôđờrighết)
- Pháp kể công “bảo hộ”, Hồ Chí Minh đã vạch chúng tội ác trong năm năm từ 1940 đến 1945:
+ Khi Nhật đến, Pháp bộc lộ rõ bản chất đê hèn “quì gối đầu hàng, mở cửa nước rước Nhật”.
+ Khi Nhật đảo chính, thực dân Pháp bỏ chạy, hoặc đầu hàng.
* Cơ sở chủ quan: Quá trình đấu tranh anh dũng của nhân dân ta
- Dân tộc Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Nếu Pháp giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái, Cao Bằng thì ta
luôn chính nghĩa, nhân đạo “giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy”.
- Cách mạng tháng Tám là niềm tự hào bởi “Sự thật là từ mùa Thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa
của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa… Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ
không phải từ tay Pháp”. Láy đi, láy lại hai từ “sự thật” thể hiện niềm tự hào dân tộc.
- Tổng kết 100 năm đấu tranh chỉ bằng một câu: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”.
- Từ sự đấu tranh kiên cường của dân tộc tất yếu gặt hái được những kết quả chân chính: “Nước Việt Nam
có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Bản tuyên ngôn thắt buộc các
nước Đồng minh khi khẳng định Việt Nam đã “gan góc đứng về phe Đồng minh chống Phát xít mấy năm nay”
(Trong khi thực dân Pháp đầu hàng Phát xít Nhật) một lần nữa lại chặn được âm mưu của các nước đế quốc.
Những câu văn khẳng định: “chúng tôi tin rằng…” hoặc phủ định của phủ định “quyết không thể không công nhận
quyền độc lập của dân tộc Việt Nam”.
* Từ những cơ sở khách quan, chủ quan, Hồ Chí Minh đi đến tuyên bố: “Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm
thời Chính phủ nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát li với Pháp, xóa bỏ hết những
hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Đây
là lời khai tử dứt khoát đối với bọn thực dân cướp nước.
2.2.1.3. Cuối cùng, Người đưa ra lời tuyên bố độc lập trong niềm xúc động trào dâng của hàng triệu
con người Việt Nam
- Những câu văn với những kết cấu song song: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80
năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do!
Dân tộc đó phải được độc lập!” tạo nên những điệp khúc âm vang, vừa hào hùng, vừa đanh thép.
- Bản tuyên ngôn kết thúc với câu móc xích trùng điệp: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập,
và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Câu nói như chạm khắc ý chí sắt đá giữ vững nền độc
lập của dân tộc ta trên trang sử vàng của dân tộc. Tác phẩm kết lại cũng chính là mở đầu một thời kỳ mới đấu
tranh giữ vững chủ quyền đất nước.
* Tiểu kết: Trên đây là “tài nghệ” lập luận của Hồ Chí Minh với sự khéo léo, lập luận chặt chẽ, đanh thép,
bằng chứng thuyết phục khiến kẻ thù không thể chối cãi. Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh xứng đáng là áng
văn mẫu mực của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Với hệ thống lập luận chặt chẽ, đi từ ràng buộc này đến
thắt buộc khác, với hệ thống luận cứ toàn diện, kết cấu trùng điệp, văn phong sắc sảo, bản tuyên ngôn hướng tới
nhiều đối tượng với nhiều giọng điệu khác nhau: tha thiết, sâu lắng yêu thương với quốc dân, đồng bào; Đanh
thép, rắn rỏi cảnh tỉnh, bác bỏ lí lẽ bọn đế quốc, thực dân phản động; trang trọng tự tin tuyên bố độc lập trước công
luận quốc tế… Tác phẩm thuyết phục người đọc bởi hệ thống lập luận khoa học, xác đáng, hơn nữa còn đi vào
lòng người bằng vẻ đẹp văn chương gợi cảm, giàu tính thẩm mĩ. Bản tuyên ngôn thừa kế truyền thống các áng
tuyên ngôn độc lập của cha ông chúng ta, đồng thời thổi vào đó hơi thở của thời đại mới giàu chất trí tuệ, sắc sảo,
hấp dẫn.
2.2.2. Đặc biệt, “Đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn” mang đậm dấu ấn Hồ
Chí Minh, tầm tư tưởng ấy “đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh
nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền của dân tộc và của nhân loại”
- Tầm tư tưởng, văn hóa lớn của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập. Đó là:
+ Với cái nhìn sáng suốt, tỉnh táo, thấu suốt bản chất của kẻ thù, Người đã vận dụng linh hoạt, khéo léo thể
văn chính luận để lật tẩy bộ mặt kẻ thù, đập tan luận điệu giả dối của chúng.
+ Với cái nhìn yêu thương, chủ nghĩa nhân đạo trí tuệ của người cộng sản, những trang văn của Người thấm
nhuần tư tưởng yêu nước, nhân ái của dân tộc, ca ngợi, tự hào sức mạnh quật cường của dân tộc và sâu sắc hơn,
khơi dậy ngọn lửa đấu tranh vì quyền lợi chính đáng của nhân loại, của dân tộc trên thế giới.
+ Với những trải nghiệm của bản thân, Người đúc kết nên chân lí của dân tộc, lịch sử và thời đại “Không có
gì quý hơn độc lập tự do”. Tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi, như ngọn đuốc soi đường cho con người tiến lên
xã hội văn minh, tiến bộ.
+ Với tầm tư tưởng, tầm văn hóa ấy, Tuyên ngôn Độc lập không có dung lượng đồ sộ như những tác phẩm
lớn trên thế giới mà ngược lại, tác phẩm rất “ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết”. Ngắn gọn trong số lượng câu, chữ
của tác phẩm, có thể đếm được. Trong sáng giản dị với những từ thuần Việt vừa chính xác, vừa hình tượng, câu
văn hàm súc, cô đọng mà gợi mở nhiều lớp nghĩa, nhiều mã số. Ví dụ mỗi câu trong bản Tuyên ngôn: “Pháp chạy,
Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, câu văn chỉ có bảy tiếng mà đã đi gần 100 năm lịch sử, khái quát những sự kiện
trọng yếu của dân tộc. Sự thật lịch sử gợi lên trước mắt người đọc với không khí sử thi hoành tráng, không khí
vùng lên quật khởi của dân tộc và tư thế của kẻ thù, tay sai bán nước. Những câu văn ngắn gọn nhưng lại hàm
chứa năng lượng thẩm mĩ lớn khi miêu tả tội ác đẫm máu của kẻ thù, rung động lòng người sâu sắc. Âm vang của
những câu văn còn dư ba mãi. Và đúng như câu nói “Cái đẹp nằm ngay trong sự giản dị”, Tuyên ngôn Độc lập súc
tích nhưng dồn nén bao giá trị tư tưởng, nghệ thuật cũng như ý nghĩa lịch sử to lớn của dân tộc ta trong mùa thu
lịch sử.
2.2.3. Đánh giá chung
- Trước Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, ta đã có bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Đại
Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, những áng tuyên ngôn ấy khắc chữ vàng trên bia đá lịch sử muôn đời những mốc
sơn rực rỡ của dân tộc Việt Nam qua nhiều thế kỉ đấu tranh vì “độc lập, tự do, vì nhân quyền và dân quyền của dân
tộc và của nhân loại”.
- Có thể nói Tuyên ngôn Độc lập là kết tinh truyền thống yêu nước của dân tộc và tinh thần của thời đại mà
lắng lòng mình trong đó, ta có thể nghe thấy “Lời non nước – tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau” (Tố Hữu). Tác
phẩm tiêu biểu cho văn phong chính luận sắc sảo, giàu tính chiến đấu, đồng thời thể hiện phong cách nghệ thuật
Hồ Chí Minh ngắn gọn, giản dị mà hàm súc, sâu sắc; kết hợp dân tộc và thời đại, thấu tình đạt lí… Người đọc
không chỉ thấy được một cây bút nghệ thuật tài năng, trí tuệ mà còn bắt gặp, tâm hồn yêu thương, nhân đạo cao cả
của Hồ Chí Minh.
- Kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, lập luận giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ chính xác, gợi cảm. Giọng điệu linh
hoạt, tha thiết, trang nghiêm, hùng hồn, căm phẫn, xót thương…
3. Kết bài
Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử có giá trị muôn đời, không chỉ đối với sự nghiệp cách mạng dân tộc
mà còn đóng góp cho tinh hoa nhân loại trí tuệ, tâm hồn Hồ Chí Minh. Tác phẩm cũng là một áng văn chính luận
mẫu mực – nghệ thuật lập luận tài tình. Không chỉ vậy, tác phẩm còn là “một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã
tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc
lập, tự do, vì nhân quyền của dân tộc và của nhân loại”. Ngày nay, khi đọc lại tác phẩm ấy, giá trị của nó mãi còn
sáng giá.
3. Trong tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh có đoạn:
“Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,
độc lập ấy”
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr. 41)
Trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng có đoạn:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr. 89)
Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn trích trên.
Gợi ý trả lời
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm
- Hồ Chí Minh là nhà yêu nước, nhà hoạt động cách mạng vĩ đại của dân tộc; đồng thời là một nhà thơ trữ
tình lớn và là một cây bút chính luận tài năng. Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm chính luận đặc sắc, kết tinh
khát vọng cháy bỏng về độc lập tự do của dân tộc ta. Đoạn trích là lời tuyên bố về quyền tự do, độc lập và ý chí,
quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do của toàn thể dân tộc Việt Nam.
- Quang Dũng một nghệ sĩ đa tài nhưng trước hết là một thi sĩ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng
mạn và tài hoa. Tây Tiến là một bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng và thơ ca kháng chiến chống Pháp; tác
phẩm đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến. Đoạn thơ đã thể hiện vẻ đẹp hào hùng bi tráng của
người lính với lý tưởng lớn lao, ý chí và nghị lực phi thường.
2. Cảm nhận về đoạn trích trong Tuyên ngôn Độc lập
- Về nội dung:
+ Khẳng định quyền được hưởng tự do, độc lập của nước Việt Nam và sự thật Việt Nam đã trở thành một
nước tự do, độc lập. Tự do, độc lập là quyền của tất cả mọi dân tộc trên thế giới. Đặc biệt, quyền ấy được nêu lên
trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách
mạng Pháp năm 1791. Trên thực tế, đó còn là kết quả tất yếu của gần một thế kỉ chiến đấu bền bỉ, phi thường của
nhân dân Việt Nam.
+ Khẳng định ý chí, kiên quyết bảo vệ quyền độc lập, tự do của toàn thể dân tộc Việt Nam. Lời tuyên bố là
lời kêu gọi, hiệu triệu nhân dân Việt Nam kết thành một khối đại đoàn kết vững chắc, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh
cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Lời tuyên bố còn là lời cảnh báo nghiêm khắc đối với những kẻ thù đang âm mưu
xâm lược nước ta, đặc biệt là thực dân Pháp.
- Về nghệ thuật: Đoạn trích sử dụng nghệ thuật lập luận chặt chẽ, giọng điệu hùng hồn, các từ tự do, độc lập được
điệp lại nhiều lần,….
3. Cảm nhận về đoạn trích trong Tây Tiến
- Về nội dung:
+ Đoạn thơ thể hiện sự cảm nhận thấm thía về sự hi sinh của người lính: hình ảnh những “nấm mồ rải rác”
nơi biên cương viễn xứ càng nhân lên cảm xúc bi thương đó, hình ảnh “áo bào thay chiếu anh về đất” lại trực tiếp
diễn tả giờ phút vĩnh biệt những người đồng đội của người lính Tây Tiến, âm thanh của tiếng gầm sông Mã như
một khúc độc hành bi tráng. Con người thì câm lặng trước nỗi đau, thiên nhiên thì dữ dội, gào thét.
+ Đoạn thơ cũng đã khẳng định mạnh mẽ ý chí, khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp
nhận, mà còn vượt lên trên cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả sự sống, tuổi trẻ cho nghĩa lớn của cả dân tộc. “Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã thực sự trở thành dũng khí tinh thần và hành động của nhiều thế hệ trong những
năm kháng chiến.
- Về nghệ thuật: sự kết hợp giữa cảm hứng bi tráng và tinh thần lãng mạn; sự tương phản giữa hình ảnh những
nấm mồ nhỏ và không gian mênh mông, vắng vẻ của chốn biên cương; hệ thống từ Hán Việt mang sắc thái trang
trọng, thiêng liêng; lối nói giảm, nói tránh,…
4. Về sự tương đồng và khác biệt
4.1. Tương đồng
- Hai đoạn trích đều thể hiện ý chí, quyết tâm của mọi người vì nền độc lập, tự do, vì nghĩa lớn của dân tộc
bằng cảm hứng yêu nước của tác giả.
4.2. Khác biệt
- Đoạn trích trong Tuyên ngôn Độc lập thể hiện quyết tâm giữ vững độc lập của toàn thể dân tộc khi nước ta
vừa mới giành được tự do, bằng nghệ thuật lập luận chặt chẽ của thể văn chính luận.
- Đoạn thơ trong Tây Tiến thể hiện ý chí và lý tưởng của tuổi trẻ sẵn sàng cống hiến cho nghĩa lớn của dân
tộc trong những năm đất nước ta đang có chiến tranh, bằng cảm hứng lãng mạn và bi tráng của thơ trữ tình.
5. Kết bài: Đánh giá chung
Qua tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh chị có suy nghĩ gì về ý thức trách nhiệm
của thanh niên ngày nay đối với đất nước?
Đáp án
- Cảm nhận về tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập”
+ Tuyên ngôn Độc lập chan chứa lòng yêu nước và tự hào dân tộc sâu sắc.Tác phẩm đã khẳng định, đòi quyền
độc lập tự do, dân chủ cho đất nước. Là bản cáo trạng đanh thép về tội ác man dợ vô nhân đạo của thực dân Pháp
ngót một thế kỷ áp bức đồng bào ta, đất nước ta. Ca ngợi tinh thần nhân ái, đức hòa hiếu của con người Việt Nam.
Nêu cao ngọn cờ quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc dù phải hy sinh tất cả tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải
cũng nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
+ Là áng văn chính luận mẫu mực, cô đọng. Hệ thống luận cứ, luận chứng chân thực và chính xác, giàu sức
thuyết phục, đa dạng về giọng điệu. Kết cấu chặt chẽ khoa học mà vẫn linh hoạt, nhịp nhàng, phù hợp với cảm xúc
đó là sự kết hợp tuyệt diệu giữa lý trí sáng suốt với tấm lòng yêu nước nồng nàn.
- Suy nghĩ gì về ý thức trách nhiệm của thanh niên ngày nay đối với đất nước?(4,
+ Tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện một quan niệm đúng đắn về đất nước và ý thức rõ ràng về trách
nhiệm của mỗi cá nhân và thế hệ mình trước vận mệnh của dân tộc. Tư tưởng ấy phù hợp với mọi hoàn cảnh, mọi
thời đại.
+ Nhận thức của bản thân về tình hình đất nước hiện nay: thời cơ và thách thức
+ Mỗi cá nhân, mỗi thế hệ là một mắt xích quan trọng trong cuộc chạy tiếp sức vĩnh cửu giữa các thế hệ để làm
nên truyền thống dân tộc. Đặc biệt là thanh niên. Thanh niên chính là hiện tại và tương lai của đất nước. Mỗi thanh
niên phải có trách nhiệm tự nguyện gánh vác những công việc chung của đất nước:
~ Trân trọng, biết ơn thế hệ cha anh đã chiến đấu, hi sinh để bảo vệ đất nước.
~ Học tập, trau dồi tri thức, bắt kịp yêu cầu của thời đại, để góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
~ Rèn luyện bản lĩnh vững vàng về tư tưởng, rèn luyện sức khỏe… để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
~ Sẵn sàng lên đường chiến đấu chống quân thù mỗi khi tổ quốc cần
~ Phê phán những biểu hiện thiếu trách nhiệm của một công dân với đất nước: không quan tâm tới tình hình thời
sự của đất nước; sống dựa dẫm, lười biếng; bị kẻ xấu lôi kéo làm tổn hại đến lợi ích, danh dự của dân tộc…
+ Rút ra bài học và liên hệ bản thân

You might also like