Professional Documents
Culture Documents
tuyên ngôn độc lập
tuyên ngôn độc lập
1. Dạng đề nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi
Đề 1: Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh viết :
“Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” .
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất
cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do .
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói :
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” .
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” .
(Trích Tuyên ngôn Độc lập – Hồ Chí Minh )
Anh (chị) hãy phân tích giá trị nổi bật của đoạn văn trên ở hai phương diện nội dung tư tưởng và nghệ
thuật lập luận
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
- Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà yêu nước và cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đồng thời là nhà hoạt
động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Cùng với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của mình Người còn để lại một
sự nghiệp văn học to lớn.
- Bản Tuyên ngôn Độc lập vừa là văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, vừa là một áng văn chính luận ngắn gọn,
súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục. Đoạn đầu của bản tuyên ngôn có giá trị
nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận của Người.
2. Thân bài
2.1. Khái quát chung
- Hoàn cảnh ra đời bản tuyên ngôn
- Mục đích viết bản tuyên ngôn
- Giá trị bản tuyên ngôn
=> Tham khảo mục 1,2,4 phần I kiến thức cơ bản
2.2. Nội dung phân tích
2.2.1. Phân tích giá trị nội dung tư tưởng
- Đoạn văn đã chỉ ra và khẳng định: quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được sung sướng , quyền tự do,
quyền được mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người "không ai có thể xâm phạm được”.
Nhân quyền là cao cả, thiêng liêng bởi lẽ “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
- Nội dung tư tưởng của đoạn văn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập càng trở lên sâu sắc hơn khi từ những quyền
thiêng liêng của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng lên quyền của các dân tộc : “Tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tư tưởng vĩ đại
ấy không chỉ thể hiện khát vọng về độc lập tự do của nhân dân mà còn phản ánh khát vọng của các dân tộc bị áp
bức, phản ánh xu thế giải phóng dân tộc sau chiến tranh thế giới thứ hai. Đó là “cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí
Minh ”
- Ý nghĩa:
+ Hồ Chí Minh đồng tình với những tư tưởng tiến bộ của các bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ và Pháp.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ngang hàng ba cuộc cách mạng, ba bản Tuyên ngôn của nước Việt Nam, Mĩ,
Pháp nhằm quốc tế hoá vấn đề độc lập của dân tộc ta.
+ Đoạn văn gợi lại niềm tự hào cao cả của lịch sử dân tộc Việt Nam về các triều đại: Triệu, Đinh, Lý, Trần,
cùng sánh vai với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên đã được Nguyễn Trãi ghi trong Bình Ngô Đại Cáo.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm phê phán bản chất phản động của thực dân Pháp đi ngược lại tư tưởng tiến bộ
của tổ tiên họ đã 80 năm qua khi chúng đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta (sẽ được đề cập đến ở phần hai của
bản tuyên ngôn).
2.2.2. Phân tích giá trị nghệ thuật
- Tuyên ngôn Độc lập có kết cấu ba phần rất chặt chẽ: định đề - phản đề - tuyên bố
- Ở phần định đề: Hồ Chí Minh trích dẫn hai đoạn văn tiêu biểu nhất nói về nhân quyền và dân quyền trong bản
Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm
1791. Mĩ và Pháp là hai quốc gia lớn, nhân quyền và dân quyền là khát vọng của con người, là chân lí có ý nghĩa
phổ quát, “không ai có thể chối cãi được”. Cách trích dẫn của Hồ Chí Minh chuẩn mực theo trình tự thời gian
(1776 – 1791), trên hai châu lục khác nhau (châu Mĩ và châu Âu), hai quốc gia khác nhau (nước Mĩ và nước
Pháp). Từ quyền thiêng liêng của con người Hồ Chí Minh “suy rộng ra” nói đến quyền tự quyết của các dân tộc.
Từ trích dẫn đi đến khẳng định “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được”.
=> Cách lập luận rất chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục khi Hồ Chí Minh đã dẫn chứng chính xác, từ
ý tưởng lời văn hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ và Pháp để tạo cơ sở pháp lí, dùng lời nói của đối phương để
so sánh, phản bác âm mưu và hành động trái với công lí của chúng, dùng nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”.
- Nghệ thuật trích dẫn của Hồ Chí Minh đã chỉ ra về độc lập tự do của nhân dân ta, ca ngợi tầm vóc vĩ đại của cuộc
cách mạng tháng Tám. Người vừa tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của các dân tộc trên thế giới, đồng thời
ngầm cảnh báo những âm mưu đen tối của thực dân Pháp và bọn đế quốc rằng chúng xâm lược nước ta là chính
chúng đã chà đạp lên nhân quyền và quyền tự quyết của các dân tộc.
- Lập luận của đoạn văn chặt chẽ, đặc sắc. Lời văn mạnh mẽ, trong sáng dễ hiểu làm tăng thêm sức thuyết phục
bằng lí lẽ của đoạn văn. Từ đoạn văn mở đầu - định đề mà chuyển sang phản đề, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt
xảo quyệt thâm độc của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng
bào ta” trong suốt hơn tám mươi năm trời, gây ra bao nhiêu tội ác ghê tởm về chính trị, về kinh tế. Cách lập luận
như thế là chặt chẽ và hùng hồn.
3. Kết bài
- Tóm lại, phân tích đoạn văn trên ta thấy được giá trị nổi bật về nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận khéo léo
của Hồ Chí Minh. Đây là một trong những đoạn văn chính luận mẫu mực, ngắn gọn, súc tích, vừa có giá trị lịch
sử vừa có giá trị văn chương bền vững.
- Với những giá trị đó, Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định một chân lí lớn về dân tộc “Không có gì quý hơn độc
lập tự do” bằng cảm hứng trang trọng, giọng văn tha thiết hùng tráng. Chính Hồ Chí Minh cũng “thấy sung sướng”
trong cả cuộc đời viết văn làm báo của mình.
Đề 2: Phân tích đoạn cuối bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ chí Minh: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do
và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Đề 1: “Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết rất cao tay: vừa khéo
léo, lại vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc” (Phan Trọng Luận). Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Gợi ý trả lời
1. Mở bài
- Hồ Chí Minh (1890 – 1969), vừa là một nhà yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại, vừa là một nhà văn hóa lớn.
- Tuyên ngôn Độc lập được xem là mẫu mực của thể loại văn chính luận. Đoạn văn mở đầu “được viết rất cao tay:
vừa khéo léo vừa kiên quyết, lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc” đúng như nhận xét của giáo sư Phan Trọng
Luận.
2. Thân bài
2.1. Giải thích ý kiến
- cao tay: nghĩa là có khả năng xử lí, ứng phó tài tình hơn người khác trước những việc nan giải.
- viết rất cao tay: là khả năng viết của con người một cách tài tình hơn người khác.
- khéo léo: biết có những cử chỉ, hành động, lời lẽ thích hợp làm người khác vừa lòng, để đạt được kết quả như
mong muốn trong quan hệ đối xử.
- kiên quyết: tỏ ra hết sức cứng rắn, quyết làm bằng được điều đã định, dù khó khăn trở ngại đến mấy cũng
không thay đổi
- hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc: chứa đựng một nội dung ý nghĩa nào đó ở bên trong, chứ không diễn đạt
trực tiếp
=> Đánh giá của Phan Trọng Luận: “Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
được viết rất cao tay: vừa khéo léo, lại vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc” là sự khẳng định nghệ thuật viết văn,
nghệ thuật trích dẫn của Bác rất tài tình, chứa đựng nội dung tư tưởng sâu sắc.
2.2. Nội dung phân tích
2.2.1. Đoạn mở đầu được viết vừa khéo léo vừa kiên quyết
- Đoạn mở đầu Bác không nêu trực tiếp nguyên lí của một bản tuyên ngôn mà dựa vào việc trích dẫn hai bản tuyên
ngôn nổi tiếng Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm
1791 nhằm khẳng định “quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” của nhân dân ta. Đây chính là nghệ thuật
“gậy ông đập lưng ông”.
- Bác đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp
ghi trong hai bản tuyên ngôn từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng, văn hóa của hai dân tộc ấy đã được cả
thế giới công nhận. Cách viết như thế vừa khéo léo vừa kiên quyết
+ “Khéo léo” vì tỏ ra trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ để “khóa miệng” bọn
thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đang âm mưu xâm lược và can thiệp vào nước ta.
+ “Kiên quyết” vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bẩn bùn lên lá cờ nhân đạo
của những cuộc cách mạng của nước Pháp, nước Mĩ nếu cứ nhất định xâm lược Việt Nam.
2.2.2. Đoạn mở đầu còn hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc
- Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của đất nước Việt Nam Bác trích dẫn hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của nước
Mĩ, Pháp không chỉ thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc mà còn có hàm ý coi ba đất nước, ba bản tuyên ngôn
ngang hàng nhau. Thực tế, cuộc cách mạng tháng Tám đã giải quyết được cả hai nghiệm vụ mà hai bản tuyên ngôn
của người Pháp và người Mĩ đề cập: đánh đổ giai cấp phong kiến và giải phóng dân tộc.
- Luận điểm “suy rộng ra” của Bác không những khẳng định quyền tự quyết, con đường đi lên của dân tộc Việt
Nam mà còn là đóng góp đầy ý nghĩa của Bác với phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa trên thế
giới. Nó như phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân ở nửa sau thế kỉ XX.
3. Kết bài
- Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Bác chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, lại
được viết bằng một nghệ thuật cao tay, mang sức thuyết phục mạnh mẽ.
- Nó xứng đáng là một đoạn mở đầu mẫu mực cho một bản tuyên ngôn bất hủ.
Đề 2: Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đánh giá Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau:
“Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng
không ai chối cãi được và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được
trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập, tự
do, vì nhân quyền của dân tộc và của nhân loại”.
Anh/ chị hãy phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập để làm sáng tỏ ý trên.
Gợi ý trả lời
1. Mở bài
- Tác giả Hồ Chí Minh (như đề số 1 ở trên)
- Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Bản
tuyên ngôn có sức lay động mạnh mẽ tâm hồn người nghe, người đọc bởi chính tài nghệ của Bác mà “Tài nghệ ở
đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi
được. Và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn
gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỉ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền, dân quyền của
dân tộc và của nhân loại” đúng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đánh giá.
2. Thân bài
2.1. Giải thích ý kiến
- tài nghệ : Tài năng đạt đến độ điêu luyện, tinh xảo trong nghề nghiệp
- dàn dựng: tập để chuẩn bị đưa ra diễn (nói khái quát)
- dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi
được: nghĩa là khả năng thuyết phục đối phương bằng lập luận, dẫn chứng và lí lẽ
- tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn: quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với hiện thực khách quan
và đối với xã hội; những tư cách, phẩm chất đạo đức mà một người cần phải có để được coi là một người tốt, một
người gương mẫu.
- dân quyền: quyền công dân nói chung
- nhân quyền: quyền căn bản của con người, như quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, …
- Và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn
gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỉ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền, dân quyền của
dân tộc và của nhân loại”. Là kết quả của ngòi bút tài tình Hồ Chí Minh
=> Nhận định của Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập không chỉ kết
tinh tâm hồn Bác, điểm hội tụ những nét đẹp tinh tuý của dân tộc, những tình cảm thiết tha và sâu lắng của thời
đại, mà hơn hết còn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh nói chung, rất độc đáo và đặc sắc.
2.2. Phân tích ý kiến
2.2.1. Đọc Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh điều ta nhận thấy được đầu tiên là tài nghệ của
Người, đó là: “dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng
không ai chối cãi được”
2.2.1.1. Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn
- Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh mở ra bằng những câu văn trích trong hai văn kiện lập quốc: Tuyên
ngôn Độc lập năm 1776 của Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp 1791:
+/ “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc”
+/ “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
- Việc trích dẫn như thế mang lại một cách lập luận có tính chiến thuật sắc bén, khéo léo, khóa miệng đối phương.
Trích dẫn như vậy, tác giả vừa khéo léo vừa rất kiên quyết:
+ Khéo léo vì Người đã ngợi ca Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ và Pháp - được xem là những tư tưởng tiến bộ,
chân lí của loài người. Những lời bất hủ ấy về quyền sống, bình đẳng, sống tự do, sống hạnh phúc, không ai không
thể công nhận bởi nó đã được thực tế lịch sử chứng minh, đã trải nghiệm xương máu qua hai cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ điển hình của nhân loại.
+ Kiên quyết vì: Với đôi mắt sáng suốt, nhìn xa trông rộng, Bác đã thấy kẻ thù cụ thể trước mắt sẽ xâm lược
dân tộc ta là thực dân Pháp, đằng sau đó là đế quốc Mĩ nên mở đầu bản tuyên ngôn, Bác đã rung hồi chuông cảnh
báo: nếu chúng xâm lược Việt Nam là đi ngược lại lời cha ông chúng, đã làm vấy bẩn lá cờ nhân đạo và chính
nghĩa mà tổ tiên chúng đã dựng lên.
-> Ý nghĩa sâu sắc và đanh thép trên ẩn dưới cách nói khéo léo, tỏ ra tôn cao, tôn trọng những danh ngôn
bất hủ của người Pháp, người Mĩ, nhưng thật chất thể hiện sự mềm dẻo của sách lược, thắt bụng chúng như “lạt
mềm buộc chặt”. Thật thú vị và cũng thích đáng biết bao với cú đòn lấy “gậy ông đập lưng ông” của Bác.
- Mặt khác, Người dùng nghệ thuật đăng đối cân xứng đề:
+ Trích dẫn văn kiện lập quốc của Mĩ và Pháp – hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại, bản
tuyên ngôn của Bác đã nâng cao tầm vóc văn hóa của dân tộc Việt Nam, sánh ngang với ánh sáng văn minh thế
giới, một dân tộc với bề dày truyền thống “vốn xưng nền văn hóa đã lâu”. Ta như gặp lại âm hưởng ngân vang, tự
hào của áng “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo khi đặt nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngang hàng với
những nước lớn trên thế giới, cũng như cha ông ta xưa kia:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương”.
+ Hơn nữa, cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng nâng lên tầm vóc thế giới, kết hợp vừa “đánh đổ các
xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”, vừa “đánh đổ chế độ quân chủ
mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa” những nhiệm vụ cuộc cách mạng Mĩ 1776 và cách mạng
Pháp 1791 đã giải quyết. Nối liền trong nguồn mạch dạt dào của truyền thống tự hào dân tộc, bản tuyên ngôn gợi
mối dây lịch sử hiện nay với quá khứ ngàn xưa, niềm tự hào dân tộc từ ngàn xưa như kết tinh lại trong thời điểm
hiện đại, cùng âm vang tha thiết hào hùng. Tư tưởng Hồ chí minh đã vượt phạm vi trong nước nhỏ hẹp vươn đến
tầm cao nhân loại, vượt thời gian, không gian hiện tại, bắt gặp và lắng đọng “hồn thiêng sông núi”.
- Nét sáng tạo linh hoạt, mới mẻ của ngòi bút văn phong chính luận của Bác không chỉ ở việc trích dẫn hai bản
tuyên ngôn trên mà Bác còn mở rộng, phát triển lên tư tưởng mới”: “… Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn
Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
+ Từ quyền con người Bác đã vận dụng thiết thực, sáng tạo vào quyền độc lập dân tộc.
+ Câu nói không chỉ thức tỉnh trí tuệ Việt Nam mà trí tuệ nhân loại cũng như bừng tỉnh, hay nói như giáo sư
nguyễn Đăng Mạnh, đó là “phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ
chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX”.
+ Những lí lẽ sắc bén, chặt chẽ giàu sức thuyết phục thể hiện ngòi bút già dặn “cao tay” của một nhà tư
tưởng, nhà văn hóa lớn có tầm vóc nhân loại, kết tinh trí tuệ tình cảm tha thiết và sâu lắng của thời đại, của con
người.
=> Tóm lại: cách đặt vấn đề khéo léo, lập luận chặt chẽ, giàu tính chiến đấu, Bác buộc thế giới phải thừa
nhận độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
2.2.1.2. Hệ thống lập luận của tuyên ngôn không chỉ chặt chẽ trong việc đặt cơ sở pháp lí của nền độc
lập dân tộc mà còn rất toàn diện khi đưa ra cơ sở thực tế của Tuyên ngôn
* Những “bằng chứng sống” của hiện thực lịch sử, những lí lẽ của sự thật có sức tác động trực tiếp và sức
thuyết phục mạnh mẽ hơn cả đến tâm hồn người nghe, nguời đọc.
* Câu văn mở đầu đoạn hai: Bắt đầu từ hai tiếng “Thế mà …”, mạch văn chuyển rất tự nhiên, lay chuyển
nhận thức con người từ những nguyên lí cao đẹp vừa nêu trong hai bản tuyên ngôn đến thực tế nước Việt Nam.
Không nói gián tiếp kín đáo mà đến đây, ngòi bút sắc sảo của Bác như lưỡi dao sắc bén đi sâu vào bản chất thực
dân Pháp, bóc trần danh nghĩa “khai hóa”, “bảo hộ” mà chúng đã rêu rao, dưới lá cờ “tự do, bình đẳng, bác ái”, chỉ
thẳng “hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
* Cơ sở khách quan: tội ác của thực dân Pháp trong 80 năm
- Một hệ thống luận cứ chặt chẽ, toàn diện, tiêu biểu và đầy ấn tượng tung ra dưới bút lực dồi dào, sắc sảo của Bác.
- Pháp kể công “khai hóa”, Hồ Chí Minh đã vạch tội ác của thực dân Pháp:
+ Về chính trị: chúng cướp nước ta, thủ tiêu quyền tự do dân chủ, chia cắt cơ thể thống nhất đất nước thành
ba chế độ, ngăn cản khối đoàn kết dân tộc…
+ Về kinh tế: chúng “bóc lột dân ta đến xương tuỷ”, kìm hãm nền kinh tế dân tộc trong vòng què quặt, lạc
hậu…
+ Về văn hóa giáo dục: chúng đầu độc dân ta bằng rượu cồn và thuốc phiện; Chúng xây dựng nhà tù nhiều
hơn trường học…
+ Về quân sự: chúng đàn áp nhân dân ta dã man, không những không “bảo hộ” nước ta mà còn “bán nước ta
hai lần cho Nhật”.
- Từng câu, từng chữ bên cạnh những thuật ngữ chính trị còn ám ảnh, nhức nhối đến sâu thẳm tâm can người đọc
bởi sức mạnh nghệ thuật văn chương. Những câu ngắn như dồn nén bao căm hận, ẩn đằng sau đó là sôi trào máu
và nước mắt thấm đầu ngòi bút. Mỗi câu vang lên đanh thép, chất chứa hờn căm như những lời tuyên án, mở đầu
là hàng loạt từ “Chúng” với những hành động tàn bạo “Thẳng tay chém giết”, “tắm các cuộc khởi nghĩa của chúng
ta bằng những bể máu”, “ràng buộc dư luận”, “bóc lột dân ta đến xương tủy”… và từ đó dội xuống như búa tạ đến
“nhân dân ta”, “nhà nước ta”, “nòi giống ta”, “dân tộc ta”… Những hình ảnh giàu sức gợi cảm, ngắn gọn, chính
xác: “Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Ta nghe trong lời của Bác âm vang tiếng nói
cha ông – tiếng nói hờn căm tội ác “trời không dung, đất không tha” của kẻ thù khi chúng:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
(Bình Ngô đại Cáo – Nguyễn Trãi)
--> Với ngòi bút hiện thực sắc sảo, giàu giá trị thẩm mĩ, bản Tuyên ngôn rất hàm súc, đã vẽ lên bức tranh
một thời kỳ lịch sử đau thương của dân tộc với những gam màu xám lạnh trên nền máu và nước mắt kéo dài “từ
Quảng Trị đến Bắc kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”. Những trang văn ấy lay động mạnh mẽ tâm hồn
người đọc, là bằng chứng xác thực “không thể chối cãi được” tạo lí lẽ lật tẩy bộ mặt tàn bạo của thực dân Pháp, đi
ngược lại truyền thống văn hóa của nước Pháp, của nhân loại. Đằng sau những trang văn day dứt ấy là tâm hồn
nhân đạo cao cả của Hồ Chí Minh:
“Người đã đói mọi cơn đói ngày xưa
Người đã chết hai triệu lần năm đói bốn lăm khủng khiếp”
(Nhà thơ Cuba A.Rôđờrighết)
- Pháp kể công “bảo hộ”, Hồ Chí Minh đã vạch chúng tội ác trong năm năm từ 1940 đến 1945:
+ Khi Nhật đến, Pháp bộc lộ rõ bản chất đê hèn “quì gối đầu hàng, mở cửa nước rước Nhật”.
+ Khi Nhật đảo chính, thực dân Pháp bỏ chạy, hoặc đầu hàng.
* Cơ sở chủ quan: Quá trình đấu tranh anh dũng của nhân dân ta
- Dân tộc Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Nếu Pháp giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái, Cao Bằng thì ta
luôn chính nghĩa, nhân đạo “giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy”.
- Cách mạng tháng Tám là niềm tự hào bởi “Sự thật là từ mùa Thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa
của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa… Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ
không phải từ tay Pháp”. Láy đi, láy lại hai từ “sự thật” thể hiện niềm tự hào dân tộc.
- Tổng kết 100 năm đấu tranh chỉ bằng một câu: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”.
- Từ sự đấu tranh kiên cường của dân tộc tất yếu gặt hái được những kết quả chân chính: “Nước Việt Nam
có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Bản tuyên ngôn thắt buộc các
nước Đồng minh khi khẳng định Việt Nam đã “gan góc đứng về phe Đồng minh chống Phát xít mấy năm nay”
(Trong khi thực dân Pháp đầu hàng Phát xít Nhật) một lần nữa lại chặn được âm mưu của các nước đế quốc.
Những câu văn khẳng định: “chúng tôi tin rằng…” hoặc phủ định của phủ định “quyết không thể không công nhận
quyền độc lập của dân tộc Việt Nam”.
* Từ những cơ sở khách quan, chủ quan, Hồ Chí Minh đi đến tuyên bố: “Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm
thời Chính phủ nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát li với Pháp, xóa bỏ hết những
hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Đây
là lời khai tử dứt khoát đối với bọn thực dân cướp nước.
2.2.1.3. Cuối cùng, Người đưa ra lời tuyên bố độc lập trong niềm xúc động trào dâng của hàng triệu
con người Việt Nam
- Những câu văn với những kết cấu song song: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80
năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do!
Dân tộc đó phải được độc lập!” tạo nên những điệp khúc âm vang, vừa hào hùng, vừa đanh thép.
- Bản tuyên ngôn kết thúc với câu móc xích trùng điệp: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập,
và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Câu nói như chạm khắc ý chí sắt đá giữ vững nền độc
lập của dân tộc ta trên trang sử vàng của dân tộc. Tác phẩm kết lại cũng chính là mở đầu một thời kỳ mới đấu
tranh giữ vững chủ quyền đất nước.
* Tiểu kết: Trên đây là “tài nghệ” lập luận của Hồ Chí Minh với sự khéo léo, lập luận chặt chẽ, đanh thép,
bằng chứng thuyết phục khiến kẻ thù không thể chối cãi. Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh xứng đáng là áng
văn mẫu mực của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Với hệ thống lập luận chặt chẽ, đi từ ràng buộc này đến
thắt buộc khác, với hệ thống luận cứ toàn diện, kết cấu trùng điệp, văn phong sắc sảo, bản tuyên ngôn hướng tới
nhiều đối tượng với nhiều giọng điệu khác nhau: tha thiết, sâu lắng yêu thương với quốc dân, đồng bào; Đanh
thép, rắn rỏi cảnh tỉnh, bác bỏ lí lẽ bọn đế quốc, thực dân phản động; trang trọng tự tin tuyên bố độc lập trước công
luận quốc tế… Tác phẩm thuyết phục người đọc bởi hệ thống lập luận khoa học, xác đáng, hơn nữa còn đi vào
lòng người bằng vẻ đẹp văn chương gợi cảm, giàu tính thẩm mĩ. Bản tuyên ngôn thừa kế truyền thống các áng
tuyên ngôn độc lập của cha ông chúng ta, đồng thời thổi vào đó hơi thở của thời đại mới giàu chất trí tuệ, sắc sảo,
hấp dẫn.
2.2.2. Đặc biệt, “Đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn” mang đậm dấu ấn Hồ
Chí Minh, tầm tư tưởng ấy “đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh
nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền của dân tộc và của nhân loại”
- Tầm tư tưởng, văn hóa lớn của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập. Đó là:
+ Với cái nhìn sáng suốt, tỉnh táo, thấu suốt bản chất của kẻ thù, Người đã vận dụng linh hoạt, khéo léo thể
văn chính luận để lật tẩy bộ mặt kẻ thù, đập tan luận điệu giả dối của chúng.
+ Với cái nhìn yêu thương, chủ nghĩa nhân đạo trí tuệ của người cộng sản, những trang văn của Người thấm
nhuần tư tưởng yêu nước, nhân ái của dân tộc, ca ngợi, tự hào sức mạnh quật cường của dân tộc và sâu sắc hơn,
khơi dậy ngọn lửa đấu tranh vì quyền lợi chính đáng của nhân loại, của dân tộc trên thế giới.
+ Với những trải nghiệm của bản thân, Người đúc kết nên chân lí của dân tộc, lịch sử và thời đại “Không có
gì quý hơn độc lập tự do”. Tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi, như ngọn đuốc soi đường cho con người tiến lên
xã hội văn minh, tiến bộ.
+ Với tầm tư tưởng, tầm văn hóa ấy, Tuyên ngôn Độc lập không có dung lượng đồ sộ như những tác phẩm
lớn trên thế giới mà ngược lại, tác phẩm rất “ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết”. Ngắn gọn trong số lượng câu, chữ
của tác phẩm, có thể đếm được. Trong sáng giản dị với những từ thuần Việt vừa chính xác, vừa hình tượng, câu
văn hàm súc, cô đọng mà gợi mở nhiều lớp nghĩa, nhiều mã số. Ví dụ mỗi câu trong bản Tuyên ngôn: “Pháp chạy,
Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, câu văn chỉ có bảy tiếng mà đã đi gần 100 năm lịch sử, khái quát những sự kiện
trọng yếu của dân tộc. Sự thật lịch sử gợi lên trước mắt người đọc với không khí sử thi hoành tráng, không khí
vùng lên quật khởi của dân tộc và tư thế của kẻ thù, tay sai bán nước. Những câu văn ngắn gọn nhưng lại hàm
chứa năng lượng thẩm mĩ lớn khi miêu tả tội ác đẫm máu của kẻ thù, rung động lòng người sâu sắc. Âm vang của
những câu văn còn dư ba mãi. Và đúng như câu nói “Cái đẹp nằm ngay trong sự giản dị”, Tuyên ngôn Độc lập súc
tích nhưng dồn nén bao giá trị tư tưởng, nghệ thuật cũng như ý nghĩa lịch sử to lớn của dân tộc ta trong mùa thu
lịch sử.
2.2.3. Đánh giá chung
- Trước Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, ta đã có bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Đại
Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, những áng tuyên ngôn ấy khắc chữ vàng trên bia đá lịch sử muôn đời những mốc
sơn rực rỡ của dân tộc Việt Nam qua nhiều thế kỉ đấu tranh vì “độc lập, tự do, vì nhân quyền và dân quyền của dân
tộc và của nhân loại”.
- Có thể nói Tuyên ngôn Độc lập là kết tinh truyền thống yêu nước của dân tộc và tinh thần của thời đại mà
lắng lòng mình trong đó, ta có thể nghe thấy “Lời non nước – tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau” (Tố Hữu). Tác
phẩm tiêu biểu cho văn phong chính luận sắc sảo, giàu tính chiến đấu, đồng thời thể hiện phong cách nghệ thuật
Hồ Chí Minh ngắn gọn, giản dị mà hàm súc, sâu sắc; kết hợp dân tộc và thời đại, thấu tình đạt lí… Người đọc
không chỉ thấy được một cây bút nghệ thuật tài năng, trí tuệ mà còn bắt gặp, tâm hồn yêu thương, nhân đạo cao cả
của Hồ Chí Minh.
- Kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, lập luận giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ chính xác, gợi cảm. Giọng điệu linh
hoạt, tha thiết, trang nghiêm, hùng hồn, căm phẫn, xót thương…
3. Kết bài
Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử có giá trị muôn đời, không chỉ đối với sự nghiệp cách mạng dân tộc
mà còn đóng góp cho tinh hoa nhân loại trí tuệ, tâm hồn Hồ Chí Minh. Tác phẩm cũng là một áng văn chính luận
mẫu mực – nghệ thuật lập luận tài tình. Không chỉ vậy, tác phẩm còn là “một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã
tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc
lập, tự do, vì nhân quyền của dân tộc và của nhân loại”. Ngày nay, khi đọc lại tác phẩm ấy, giá trị của nó mãi còn
sáng giá.
3. Trong tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh có đoạn:
“Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,
độc lập ấy”
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr. 41)
Trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng có đoạn:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr. 89)
Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn trích trên.
Gợi ý trả lời
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm
- Hồ Chí Minh là nhà yêu nước, nhà hoạt động cách mạng vĩ đại của dân tộc; đồng thời là một nhà thơ trữ
tình lớn và là một cây bút chính luận tài năng. Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm chính luận đặc sắc, kết tinh
khát vọng cháy bỏng về độc lập tự do của dân tộc ta. Đoạn trích là lời tuyên bố về quyền tự do, độc lập và ý chí,
quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do của toàn thể dân tộc Việt Nam.
- Quang Dũng một nghệ sĩ đa tài nhưng trước hết là một thi sĩ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng
mạn và tài hoa. Tây Tiến là một bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng và thơ ca kháng chiến chống Pháp; tác
phẩm đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến. Đoạn thơ đã thể hiện vẻ đẹp hào hùng bi tráng của
người lính với lý tưởng lớn lao, ý chí và nghị lực phi thường.
2. Cảm nhận về đoạn trích trong Tuyên ngôn Độc lập
- Về nội dung:
+ Khẳng định quyền được hưởng tự do, độc lập của nước Việt Nam và sự thật Việt Nam đã trở thành một
nước tự do, độc lập. Tự do, độc lập là quyền của tất cả mọi dân tộc trên thế giới. Đặc biệt, quyền ấy được nêu lên
trong hai bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách
mạng Pháp năm 1791. Trên thực tế, đó còn là kết quả tất yếu của gần một thế kỉ chiến đấu bền bỉ, phi thường của
nhân dân Việt Nam.
+ Khẳng định ý chí, kiên quyết bảo vệ quyền độc lập, tự do của toàn thể dân tộc Việt Nam. Lời tuyên bố là
lời kêu gọi, hiệu triệu nhân dân Việt Nam kết thành một khối đại đoàn kết vững chắc, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh
cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Lời tuyên bố còn là lời cảnh báo nghiêm khắc đối với những kẻ thù đang âm mưu
xâm lược nước ta, đặc biệt là thực dân Pháp.
- Về nghệ thuật: Đoạn trích sử dụng nghệ thuật lập luận chặt chẽ, giọng điệu hùng hồn, các từ tự do, độc lập được
điệp lại nhiều lần,….
3. Cảm nhận về đoạn trích trong Tây Tiến
- Về nội dung:
+ Đoạn thơ thể hiện sự cảm nhận thấm thía về sự hi sinh của người lính: hình ảnh những “nấm mồ rải rác”
nơi biên cương viễn xứ càng nhân lên cảm xúc bi thương đó, hình ảnh “áo bào thay chiếu anh về đất” lại trực tiếp
diễn tả giờ phút vĩnh biệt những người đồng đội của người lính Tây Tiến, âm thanh của tiếng gầm sông Mã như
một khúc độc hành bi tráng. Con người thì câm lặng trước nỗi đau, thiên nhiên thì dữ dội, gào thét.
+ Đoạn thơ cũng đã khẳng định mạnh mẽ ý chí, khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp
nhận, mà còn vượt lên trên cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả sự sống, tuổi trẻ cho nghĩa lớn của cả dân tộc. “Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã thực sự trở thành dũng khí tinh thần và hành động của nhiều thế hệ trong những
năm kháng chiến.
- Về nghệ thuật: sự kết hợp giữa cảm hứng bi tráng và tinh thần lãng mạn; sự tương phản giữa hình ảnh những
nấm mồ nhỏ và không gian mênh mông, vắng vẻ của chốn biên cương; hệ thống từ Hán Việt mang sắc thái trang
trọng, thiêng liêng; lối nói giảm, nói tránh,…
4. Về sự tương đồng và khác biệt
4.1. Tương đồng
- Hai đoạn trích đều thể hiện ý chí, quyết tâm của mọi người vì nền độc lập, tự do, vì nghĩa lớn của dân tộc
bằng cảm hứng yêu nước của tác giả.
4.2. Khác biệt
- Đoạn trích trong Tuyên ngôn Độc lập thể hiện quyết tâm giữ vững độc lập của toàn thể dân tộc khi nước ta
vừa mới giành được tự do, bằng nghệ thuật lập luận chặt chẽ của thể văn chính luận.
- Đoạn thơ trong Tây Tiến thể hiện ý chí và lý tưởng của tuổi trẻ sẵn sàng cống hiến cho nghĩa lớn của dân
tộc trong những năm đất nước ta đang có chiến tranh, bằng cảm hứng lãng mạn và bi tráng của thơ trữ tình.
5. Kết bài: Đánh giá chung
Qua tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh chị có suy nghĩ gì về ý thức trách nhiệm
của thanh niên ngày nay đối với đất nước?
Đáp án
- Cảm nhận về tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập”
+ Tuyên ngôn Độc lập chan chứa lòng yêu nước và tự hào dân tộc sâu sắc.Tác phẩm đã khẳng định, đòi quyền
độc lập tự do, dân chủ cho đất nước. Là bản cáo trạng đanh thép về tội ác man dợ vô nhân đạo của thực dân Pháp
ngót một thế kỷ áp bức đồng bào ta, đất nước ta. Ca ngợi tinh thần nhân ái, đức hòa hiếu của con người Việt Nam.
Nêu cao ngọn cờ quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc dù phải hy sinh tất cả tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải
cũng nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
+ Là áng văn chính luận mẫu mực, cô đọng. Hệ thống luận cứ, luận chứng chân thực và chính xác, giàu sức
thuyết phục, đa dạng về giọng điệu. Kết cấu chặt chẽ khoa học mà vẫn linh hoạt, nhịp nhàng, phù hợp với cảm xúc
đó là sự kết hợp tuyệt diệu giữa lý trí sáng suốt với tấm lòng yêu nước nồng nàn.
- Suy nghĩ gì về ý thức trách nhiệm của thanh niên ngày nay đối với đất nước?(4,
+ Tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập đã thể hiện một quan niệm đúng đắn về đất nước và ý thức rõ ràng về trách
nhiệm của mỗi cá nhân và thế hệ mình trước vận mệnh của dân tộc. Tư tưởng ấy phù hợp với mọi hoàn cảnh, mọi
thời đại.
+ Nhận thức của bản thân về tình hình đất nước hiện nay: thời cơ và thách thức
+ Mỗi cá nhân, mỗi thế hệ là một mắt xích quan trọng trong cuộc chạy tiếp sức vĩnh cửu giữa các thế hệ để làm
nên truyền thống dân tộc. Đặc biệt là thanh niên. Thanh niên chính là hiện tại và tương lai của đất nước. Mỗi thanh
niên phải có trách nhiệm tự nguyện gánh vác những công việc chung của đất nước:
~ Trân trọng, biết ơn thế hệ cha anh đã chiến đấu, hi sinh để bảo vệ đất nước.
~ Học tập, trau dồi tri thức, bắt kịp yêu cầu của thời đại, để góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
~ Rèn luyện bản lĩnh vững vàng về tư tưởng, rèn luyện sức khỏe… để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
~ Sẵn sàng lên đường chiến đấu chống quân thù mỗi khi tổ quốc cần
~ Phê phán những biểu hiện thiếu trách nhiệm của một công dân với đất nước: không quan tâm tới tình hình thời
sự của đất nước; sống dựa dẫm, lười biếng; bị kẻ xấu lôi kéo làm tổn hại đến lợi ích, danh dự của dân tộc…
+ Rút ra bài học và liên hệ bản thân