Professional Documents
Culture Documents
Chuong 5 - He Thong Lam Mat
Chuong 5 - He Thong Lam Mat
(trong đó có một vòng kín, một vòng hở). Dưới đây lần lượt giới thiệu hệ thống làm mát
nói trên.
5.2 HỆ THỐNG LÀM MÁT BẰNG NƯỚC
5.2.1 Hệ thống làm mát bằng nước kiểu bốc hơi
Hê thống làm mát bằng nước kiểu bốc hơi là loại đơn giản nhất. Hệ thống này
không cần bơm, quạt. Bộ phận chứa nước có hai phần: phần khoang chứa nước có hai
phần: phần khoang chứa nước làm mát của thân máy và phần thùng chứa nước bốc hơi
lắp với thân. Khi động cơ làm việc, tại những vùng nước bao bọc chung quanh buồng
cháy, nước sẽ sôi. Nước sôi có tỷ trọng bé sẽ nổi lên mặt thoáng của thùng chứa để bốc
hơi ra ngoài. Nước nguội có tỷ trọng lớn sẽ chìm xuống điền chỗ cho nước nóng đã nổi
lên; do đó tạo thành lưu động đối lưu tự nhiên. Ta biết rằng 1kg nước bốc hơi sẽ thu được
một nhiệt lượng 595kcal/kg vì vậy phụ thuộc vào kiểu động cơ, công suất động cơ mà
thiết kế hệ thống làm mát sao cho lượng nước bốc hơi đảm bảo thu được nhiệt lượng cần
thiết phải là mát. Do làm mát bằng cách bốc hơi, vậy nếu không có nguồn nước bổ sung
kịp thời, mức nước trong thùng chứa sẽ giảm đi dữ dội. Vì vậy kiểu làm mát bốc hơi này
không thích hợp đối với loại động cơ đặt trên máy ô tô máy kéo. Hệ thống làm mát nước
bốc hơi do có kết cấu đơn giản và do đặc tính lưu động đối lưu đã nói ở trên nên hay
dùng cho loại động cơ đặt nằm dùng trong nông nghiệp. Nhược điểm của hệ thống làm
mát này là ưu tiên nước nhiều và hao mòn thành xylanh không đều.
5.2.2 Hệ thống làm mát bằng nước, kiểu đối lưu tự nhiên
- Trong hệ thống làm mát bằng phương pháp đối lưu tự nhiên, nước lưu động tuần
hoàn nhờ độ chênh áp lực hai cột nước nóng và nước lạnh.
- Độ chênh áp được tính theo công thức sau:
= ght, N/m2 (*)
trong đó: - khối lượng riêng của nước (kg/m3);
h – hiệu của chiều cao trung bình của hai cột nước nóng và lạnh (m);
- hệ số giản nở của nước 0,00018m3/m3 0C;
t – độ chênh nhiệt độ của hai cột nước nóng và nước lạnh.
- Từ đẳng thức (*), ta thấy độ chênh áp lực phụ thuộc độ chênh nhiệt độ t của hai
cột nước, vì vậy cường độ làm mát có thể tự động điều chỉnh theo phụ tải. Khi mới khởi
động, t bé, nước lưu động chậm và động cơ nhanh chóng đạt đến giá trị nhiệt độ của chế
độ công tác. Sau đó phụ tải tăng thì t cũng tăng theo, tốc độ lưu động của nước sẽ tăng.
- Độ chênh áp lực cũng còn phụ thuộc vào hiệu số chênh chiều cao trung bình của
hai cột nước, do đó phải luôn luôn đảm bảo mức nước của thùng chứa phải cao hơn của
nước ra ở động cơ. Trên thực tế có giá trị bé, do chiều cao h bị hạn chế bởi kết cấu và
bố trí chung nên nhược điểm của kiểu làm mát bằng đối lưu tự nhiên là vận tốc của nước
bé: khi h = 0,2 0,5m; t = 200C thì = 7 17,65 N/m2 và vận tốc nước lưu động =
0,12 0,19 m/s. Điều đó dẫn đến chênh lệch nhiệt độ của nước vào và nước ra lớn, vì
vậy mà thành xylanh được làm mát không đều. Muốn giảm chênh lệch nhiệt độ nước vào
và ra ở động cơ thì phải tăng kích thước của thùng chứa, nhưng làm như vậy, kết cấu sẽ
cồng kềnh không thích hợp cho động cơ ô tô máy kéo. Vì vậy kiểu làm mát bằng tuần
hoàn đối lưu tự nhiên thường gặp trong động cơ tĩnh tại.
5.2.3 Hệ thống làm mát bằng nước kiểu tuần hoàn cưỡng bức
- Do tốc độ lưu động của nước trong hệ thống tuần hoàn đối lưu bé; vì vậy, để tăng
tốc độ lưu động của nước, người ta thường dùng hệ thống tuần hoàn cưỡng bức.
- Trong hệ thống đó, nước lưu động được không phải do hiện tượng đối lưu mà do
sức đẩy của cột nước do bơm nước tạo ra.
- Hình bên giới thiệu hệ thống làm mát tuần hoàn cưỡng bức của động cơ ô tô máy
kéo một hàng xylanh. Ở đây, nước tuần hoàn nhờ bơm ly tâm, qua ống phân vào các
khoang chứa của các xylanh.
- Nước làm mát từ thân động cơ lên nắp xylanh qua các ống đến van điều nhiệt.
Nước từ van điều nhiệt được chia ra hai dòng: một ra két làm mát qua bơm ly tâm; một
tuần hoàn trở lại động cơ. Sự phân chia lưu lượng cho các dòng này phụ thuộc vào nhiệt
độ của nước làm mát và do van điều nhiệt tự động điều chỉnh, ống dẫn không khí và hơi
nước khi động cơ bị nóng.
- Kiểu làm mát tuần hoàn cưỡng bức dùng trên động cơ ô tô máy kéo phân làm hai
loại: hệ thống tuần hoàn kín, nước sau khi qua két làm mát lại, trở về động cơ, còn trong
hệ thống tuần hoàn hở thì ngược lại, nước làm mát sau khi đã làm mát động cơ thì thải ra
ngoài. Hệ thống làm mát kín có rất nhiều ưu điểm nên được dùng rất rộng rãi trong các
loại động cơ đốt trong. Trong hệ thống kín, nắp két làm mát có hai van: van xả hơi và van
hút không khí. Van xả hơi nước làm việc khi áp suất trong hệ thống làm mát lớn hơn 0,15
0,125MN/m2 (1,15 1,25 kG/cm2) (hình a), còn van hút không khí sẽ mở khi trong hệ
thống làm mát có áp suất nhỏ hơn 0,095 0,09MN/m2 (0,95 0,9kG/cm2) (hình b). Nhờ
vậy mà hệ thống làm mát kiều kín có áp suất trong két làm mát cao hơn một ít so với kiều
làm mát tuần hoàn hở.
- Nguyên lý làm việc của nắp két nước khi áp suất bên trong két nước thay đổi
giới thiệu trên hình bên. Do áp suất trong két làm mát cao hơn áp suất môi trường nên
nhiệt độ sôi của nước trong hệ thống làm mát kín cao đến 100 1050C (nhiệt độ sôi của
nước trong hệ thống hở khoảng 90 950C) do đó làm giảm lượng nước bốc hơi, (ở chế
độ toàn tải, lượng nước bốc hơi giảm từ 6 8 lần). Ưu điểm này rất thuận lợi đối với loại
xe chạy đường dài nhất là ở những vùng hiếm nguồn nước. Ngày nay kiểu làm mát tuần
hoàn cưỡng bức dùng rộng rãi trong các loại động cơ đốt trong nhất là đối với các loại
động cơ ô tô máy kéo.
5.3 KẾT CẤU MỘT SỐ BỘ PHẬN CHÍNH CỦA HỆ THỐNG LÀM MÁT BẰNG
NƯỚC
Sơ đồ bố trí các bộ phận của hệ thống làm mát tuần hoàn cưỡng bức
5.3.1 Két làm mát
- Két làm mát dùng để hạ nhiệt độ của nước từ động cơ ra rồi lại đưa trở vào làm
mát động cơ.
- Trong động cơ ô tô máy kéo, két làm mát gồm có ba phần: ngăn trên chứa nước
nóng, ngăn dưới chứa nước nguội và giàn ống truyền nhiệt nối ngăn trên và ngăn dưới
với nhau. Hiệu suất truyền nhiệt của bộ phận truyền nhiệt phụ thuộc chủ yếu vào tốc độ
lưu động của hai dòng môi chất (môi chất toả nhiệt là nước và môi chất thu nhiệt là
không khí). Vì vậy để tăng hệ số truyền nhiệt, phía sau két nước thường được bố trí quạt
gió để hút gió đi qua giàn ống truyền nhiệt (gồm các ống và lá tản nhiệt).
- Thông thường két nước hay dùng kiểu ống dẫn nước dẹt, bố trí nhiều hàng so le,
cắm trong các lá tản nhiệt. Loại két nước kiểu ống tròn, gió đi qua ống còn nước thì chảy
bên ngoài ống nói chung ít được dùng. Tuy loại két nước này có ưu điểm là đường nước
đi hẹp, diện tích thông gió tương đối lớn do đó làm mát tốt, nhưng cũng có nhược điểm là
do đường nước hẹp nên hay bị tắc do cặn bẩn trong nước đọng lại; ống cũng dùng nhiều
mối hàn nên không bền, sửa chữa không tiện lợi, giá thành cao.
- Hiệu quả tản nhiệt phụ thuộc vào những yếu tố sau đây:
1-Khả năng tản nhiệt từ nước vào không khí của các ống và lá tản nhiệt.
2-Tốc độ lưu động của nước và của không khí làm mát.
- Kết cấu của bộ phận giàn ống tản nhiệt và lá tản nhiệt của két làm mát giới thiệu
trên hình dưới. Loại két nước dùng ống dẹt có sức cản không khí ít hơn và diện tích tản
nhiệt lớn hơn khoảng 2 3 lần so với ống tròn nhưng loại ống này không bền vì có nhiều
mối hàn và khó sửa chữa. Kiểu ống tròn hình có ưu điểm là đơn giản dễ sửa chữa do làm
bằng những ống tháo lắp được mà không hàn vào hai ngăn chứa trên và dưới. Hơn nữa
nếu tốc độ gió đi qua giàn ống truyền nhiệt lớn thì hiệu quả của loại ống tròn cũng tốt. Do
đó kiểu ống tròn được dùng khá phổ biến trong các loại két nước xe vận tải và máy kéo.
- Muốn tản nhiệt tốt, vật liệu làm ống và lá tản nhiệt phải dẫn nhiệt tốt (đồng hay
đồng thau tốt hơn thép). Thành ống và lá tản nhiệt phải mỏng (chiều dày ống khoảng 0,13
0,20mm, chiều dày lá tản nhiệt khoảng 0,08 0,12mm). Để tăng diện tích tản nhiệt,
nên dùng loại ống nước dẹt (kích thước ống dẹt khoảng a = 13 20mm, b = 2 4mm
đồng thời hàn vào ống nước dẹt nhiều lá tản nhiệt khoảng cách giữa các lá: t b = 2,5
4,5mm. Tốc độ lưu động của nước phụ thuộc vào lưu lượng nước. Nếu ống bé thì khi tốc
độ lưu động đã xác định, muốn tăng lưu lượng nước phải tăng số ống lên. Nếu diện tích
hút gió đã xác định thì khi tăng số ống phải bố trí nhiều hàng ống do đó sức cản không
khí sẽ tăng lên, mặt khác diện tích tản nhiệt của các lá tản nhiệt sẽ nhỏ đi làm giảm sự tản
nhiệt.
- Để giảm bớt sức cản không khí khi lưu động, các dãy ống chắn gió phải bố trí
cách nhau khoảng 10 15mm hoặc bố trí theo nhiều hàng ống theo chiều gió đi qua két
làm mát. Tuy vậy hiệu quả truyền nhiệt khi tăng hàng ống theo chiều gió cũng không lớn,
ví dụ khi tăng chiều dày của két nước lên 50% thì khả năng tản nhiệt của két làm mát
tăng 15%, và khi tăng chiều dày lên 100%, cũng chỉ tăng khả năng dẫn nhiệt lên 20%
(các hàng ống bố trí cách nhau một khoảng tđ = 16 25mm theo chiều gió).
Hình dưới cho thấy sự sắp xếp thứ tự các bộ trao đổi nhiệt của một chiếc xe có 4
bộ trao đổi nhiệt. Một quạt điện đẩy ở phía trước giúp đảm bảo một lượng không khí
thích hợp đi đi qua bô trao đổi nhiệt. Tiếp theo là dàn nóng của máy lạnh, tiếp theo là dàn
lạnh. Gần động cơ là hệ thống làm mát động cơ, với két làm mát dầu động cơ ở bên cạnh.
Một quạt hút và tấm chắn giúp cung cấp lượng gió cần thiết. Và cho thấy dòng không khí
đi tới các bộ phận động cơ. Không khí bên ngoài thổi ngang qua các bộ trao đổi nhiệt,
phía trên và vòng quanh động cơ, và phía dưới xe.
- Hầu hết các quạt thường là quạt hút, chúnh được lắp cạnh két nước và hút khí
không khí đi qua két nước. Một vài loại xe dùng quạt đẩy, nó được gắn phía trước két
nước và đẩy không khí đi qua. - Quạt điện sẽ tiêu tốn công suất và gây tiếng ồn ít hơn
quạt cơ khí. Mặt khác quạt điện không cần dây cudoa nên không phải kiểm tra, điều
chỉnh và thay thế dây cu-roa