You are on page 1of 7

HỆ THỐNG LÀM MÁT

CHƯƠNG 5 : HỆ THỐNG LÀM MÁT

5.1 MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI


5.1.1 Mục đích_ý nghĩa.
- Trong quá trình làm việc của động cơ đốt trong, nhiệt truyền cho các chi tiết máy
tiếp xúc với khí cháy (pittông, xecmăng, xupap, nắp xylanh, thành xylanh) chiếm khoảng
25  35% nhiệt lượng do nhiên liệu cháy trong buồng cháy toả ra. Vì vậy các chi tiết đó
thường bị đốt nóng mãnh liệt: nhiệt độ đỉnh pittông có thể lên đến 600 0C, còn nhiệt nấm
xupap có khi lên đến 9000C.
- Nhiệt độ các chi tiết máy cao sẽ gây ra các hậu quả xấu sau đây:
+ Phụ tải nhiệt của các chi tiết máy lớn, làm giảm sức bền, độ cứng vững và
tuổi thọ của chúng.
+ Do nhiệt độ cao, độ nhớt của dầu bôi trơn giảm nên tổn thất ma sát tăng.
+ Có thể gây kẹt bó pittông trong xylanh do hiện tượng giãn nở nhiệt.
+ Giảm hệ số nạp.
+ Đối với động cơ xăng, dễ phát sinh hiện tượng cháy kích nổ.
Để khắc phục các hậu quả xấu trên, cần thiết phải làm mát động cơ. Hệ thống làm
mát động cơ có nhiệm vụ thực hiện quá trình truyền nhiệt từ khí cháy qua thành buồng
cháy đến môi chất làm mát để đảm bảo nhiệt độ các chi tiết không quá nóng cũng không
quá nguội. Quá nóng sẽ gây ra hiện tượng xấu như đã nói ở trên, còn quá nguội cũng
không tốt, vì rằng quá nguội có nghĩa là động cơ được làm mát quá nhiều vì thế tổn thất
nhiệt nhiều, nhiệt lượng dùng để sinh công ít do đó hiệu suất nhiệt của động cơ nhỏ.
Mặt khác, do nhiệt độ của động cơ thấp, độ nhớt của dầu nhờn tăng, khiến cho dầu
nhờn khó lưu động vì vậy làm tổn thất cơ giới và tổn thất ma sát. Hơn nữa khi nhiệt độ
thành xylanh thấp quá, nhiên liệu sẽ ngưng tụ trên bề mặt thành xylanh làm cho màng
dầu bôi trơn sẽ bị nhiên liệu rửa sạch, nếu trong nhiên liệu có nhiều thành phần lưu
huỳnh, thì có thể dễ tạo ra các axit do sự kết hợp của nhiên liệu và hơi nước ngưng tụ trên
bề mặt thành xylanh. Các axit đó gây ra hiện tương ăn mòn kim loại.
Tóm lại, mức độ làm mát động cơ ảnh hưởng rất lớn đến các chi tiêu kinh tế và
công suất của động cơ.
5.1.2 Phân loại
- Căn cứ vào môi chất làm mát, người ta chia hệ thống làm mát thành hai loại: hệ
thống làm mát bằng nước và hệ thống làm mát bằng không khí. Trong hệ thống làm mát
bằng nước, người ta lại chia ra thành ba loại: bốc hơi, đối lưu tự nhiên và tuần hoàn
cưỡng bức. Căn cứ vào số vòng tuần hoàn và kiểu tuần hoàn, người ta chia hệ thống làm
mát thành các loại: một vòng tuần hoàn kín, một vòng tuần hoàn hở, hai vòng tuần hoàn

BỘ MÔN : CÔNG NGHỆ ÔTÔ 102


HỆ THỐNG LÀM MÁT

(trong đó có một vòng kín, một vòng hở). Dưới đây lần lượt giới thiệu hệ thống làm mát
nói trên.
5.2 HỆ THỐNG LÀM MÁT BẰNG NƯỚC
5.2.1 Hệ thống làm mát bằng nước kiểu bốc hơi
Hê thống làm mát bằng nước kiểu bốc hơi là loại đơn giản nhất. Hệ thống này
không cần bơm, quạt. Bộ phận chứa nước có hai phần: phần khoang chứa nước có hai
phần: phần khoang chứa nước làm mát của thân máy và phần thùng chứa nước bốc hơi
lắp với thân. Khi động cơ làm việc, tại những vùng nước bao bọc chung quanh buồng
cháy, nước sẽ sôi. Nước sôi có tỷ trọng bé sẽ nổi lên mặt thoáng của thùng chứa để bốc
hơi ra ngoài. Nước nguội có tỷ trọng lớn sẽ chìm xuống điền chỗ cho nước nóng đã nổi
lên; do đó tạo thành lưu động đối lưu tự nhiên. Ta biết rằng 1kg nước bốc hơi sẽ thu được
một nhiệt lượng 595kcal/kg vì vậy phụ thuộc vào kiểu động cơ, công suất động cơ mà
thiết kế hệ thống làm mát sao cho lượng nước bốc hơi đảm bảo thu được nhiệt lượng cần
thiết phải là mát. Do làm mát bằng cách bốc hơi, vậy nếu không có nguồn nước bổ sung
kịp thời, mức nước trong thùng chứa sẽ giảm đi dữ dội. Vì vậy kiểu làm mát bốc hơi này
không thích hợp đối với loại động cơ đặt trên máy ô tô máy kéo. Hệ thống làm mát nước
bốc hơi do có kết cấu đơn giản và do đặc tính lưu động đối lưu đã nói ở trên nên hay
dùng cho loại động cơ đặt nằm dùng trong nông nghiệp. Nhược điểm của hệ thống làm
mát này là ưu tiên nước nhiều và hao mòn thành xylanh không đều.
5.2.2 Hệ thống làm mát bằng nước, kiểu đối lưu tự nhiên
- Trong hệ thống làm mát bằng phương pháp đối lưu tự nhiên, nước lưu động tuần
hoàn nhờ độ chênh áp lực hai cột nước nóng và nước lạnh.
- Độ chênh áp được tính theo công thức sau:
 = ght, N/m2 (*)
trong đó:  - khối lượng riêng của nước (kg/m3);
h – hiệu của chiều cao trung bình của hai cột nước nóng và lạnh (m);
 - hệ số giản nở của nước 0,00018m3/m3 0C;
t – độ chênh nhiệt độ của hai cột nước nóng và nước lạnh.
- Từ đẳng thức (*), ta thấy độ chênh áp lực phụ thuộc độ chênh nhiệt độ t của hai
cột nước, vì vậy cường độ làm mát có thể tự động điều chỉnh theo phụ tải. Khi mới khởi
động, t bé, nước lưu động chậm và động cơ nhanh chóng đạt đến giá trị nhiệt độ của chế
độ công tác. Sau đó phụ tải tăng thì t cũng tăng theo, tốc độ lưu động của nước sẽ tăng.
- Độ chênh áp lực cũng còn phụ thuộc vào hiệu số chênh chiều cao trung bình của
hai cột nước, do đó phải luôn luôn đảm bảo mức nước của thùng chứa phải cao hơn của
nước ra ở động cơ. Trên thực tế  có giá trị bé, do chiều cao h bị hạn chế bởi kết cấu và
bố trí chung nên nhược điểm của kiểu làm mát bằng đối lưu tự nhiên là vận tốc của nước

BỘ MÔN : CÔNG NGHỆ ÔTÔ 103


HỆ THỐNG LÀM MÁT

bé: khi h = 0,2  0,5m; t = 200C thì  = 7  17,65 N/m2 và vận tốc nước lưu động  =
0,12  0,19 m/s. Điều đó dẫn đến chênh lệch nhiệt độ của nước vào và nước ra lớn, vì
vậy mà thành xylanh được làm mát không đều. Muốn giảm chênh lệch nhiệt độ nước vào
và ra ở động cơ thì phải tăng kích thước của thùng chứa, nhưng làm như vậy, kết cấu sẽ
cồng kềnh không thích hợp cho động cơ ô tô máy kéo. Vì vậy kiểu làm mát bằng tuần
hoàn đối lưu tự nhiên thường gặp trong động cơ tĩnh tại.
5.2.3 Hệ thống làm mát bằng nước kiểu tuần hoàn cưỡng bức
- Do tốc độ lưu động của nước trong hệ thống tuần hoàn đối lưu bé; vì vậy, để tăng
tốc độ lưu động của nước, người ta thường dùng hệ thống tuần hoàn cưỡng bức.
- Trong hệ thống đó, nước lưu động được không phải do hiện tượng đối lưu mà do
sức đẩy của cột nước do bơm nước tạo ra.
- Hình bên giới thiệu hệ thống làm mát tuần hoàn cưỡng bức của động cơ ô tô máy
kéo một hàng xylanh. Ở đây, nước tuần hoàn nhờ bơm ly tâm, qua ống phân vào các
khoang chứa của các xylanh.
- Nước làm mát từ thân động cơ lên nắp xylanh qua các ống đến van điều nhiệt.
Nước từ van điều nhiệt được chia ra hai dòng: một ra két làm mát qua bơm ly tâm; một
tuần hoàn trở lại động cơ. Sự phân chia lưu lượng cho các dòng này phụ thuộc vào nhiệt
độ của nước làm mát và do van điều nhiệt tự động điều chỉnh, ống dẫn không khí và hơi
nước khi động cơ bị nóng.
- Kiểu làm mát tuần hoàn cưỡng bức dùng trên động cơ ô tô máy kéo phân làm hai
loại: hệ thống tuần hoàn kín, nước sau khi qua két làm mát lại, trở về động cơ, còn trong
hệ thống tuần hoàn hở thì ngược lại, nước làm mát sau khi đã làm mát động cơ thì thải ra
ngoài. Hệ thống làm mát kín có rất nhiều ưu điểm nên được dùng rất rộng rãi trong các
loại động cơ đốt trong. Trong hệ thống kín, nắp két làm mát có hai van: van xả hơi và van
hút không khí. Van xả hơi nước làm việc khi áp suất trong hệ thống làm mát lớn hơn 0,15
 0,125MN/m2 (1,15  1,25 kG/cm2) (hình a), còn van hút không khí sẽ mở khi trong hệ
thống làm mát có áp suất nhỏ hơn 0,095  0,09MN/m2 (0,95  0,9kG/cm2) (hình b). Nhờ
vậy mà hệ thống làm mát kiều kín có áp suất trong két làm mát cao hơn một ít so với kiều
làm mát tuần hoàn hở.
- Nguyên lý làm việc của nắp két nước khi áp suất bên trong két nước thay đổi
giới thiệu trên hình bên. Do áp suất trong két làm mát cao hơn áp suất môi trường nên
nhiệt độ sôi của nước trong hệ thống làm mát kín cao đến 100  1050C (nhiệt độ sôi của
nước trong hệ thống hở khoảng 90  950C) do đó làm giảm lượng nước bốc hơi, (ở chế
độ toàn tải, lượng nước bốc hơi giảm từ 6  8 lần). Ưu điểm này rất thuận lợi đối với loại
xe chạy đường dài nhất là ở những vùng hiếm nguồn nước. Ngày nay kiểu làm mát tuần
hoàn cưỡng bức dùng rộng rãi trong các loại động cơ đốt trong nhất là đối với các loại
động cơ ô tô máy kéo.

BỘ MÔN : CÔNG NGHỆ ÔTÔ 104


HỆ THỐNG LÀM MÁT

5.3 KẾT CẤU MỘT SỐ BỘ PHẬN CHÍNH CỦA HỆ THỐNG LÀM MÁT BẰNG
NƯỚC
Sơ đồ bố trí các bộ phận của hệ thống làm mát tuần hoàn cưỡng bức
5.3.1 Két làm mát
- Két làm mát dùng để hạ nhiệt độ của nước từ động cơ ra rồi lại đưa trở vào làm
mát động cơ.
- Trong động cơ ô tô máy kéo, két làm mát gồm có ba phần: ngăn trên chứa nước
nóng, ngăn dưới chứa nước nguội và giàn ống truyền nhiệt nối ngăn trên và ngăn dưới
với nhau. Hiệu suất truyền nhiệt của bộ phận truyền nhiệt phụ thuộc chủ yếu vào tốc độ
lưu động của hai dòng môi chất (môi chất toả nhiệt là nước và môi chất thu nhiệt là
không khí). Vì vậy để tăng hệ số truyền nhiệt, phía sau két nước thường được bố trí quạt
gió để hút gió đi qua giàn ống truyền nhiệt (gồm các ống và lá tản nhiệt).
- Thông thường két nước hay dùng kiểu ống dẫn nước dẹt, bố trí nhiều hàng so le,
cắm trong các lá tản nhiệt. Loại két nước kiểu ống tròn, gió đi qua ống còn nước thì chảy
bên ngoài ống nói chung ít được dùng. Tuy loại két nước này có ưu điểm là đường nước
đi hẹp, diện tích thông gió tương đối lớn do đó làm mát tốt, nhưng cũng có nhược điểm là
do đường nước hẹp nên hay bị tắc do cặn bẩn trong nước đọng lại; ống cũng dùng nhiều
mối hàn nên không bền, sửa chữa không tiện lợi, giá thành cao.
- Hiệu quả tản nhiệt phụ thuộc vào những yếu tố sau đây:
1-Khả năng tản nhiệt từ nước vào không khí của các ống và lá tản nhiệt.
2-Tốc độ lưu động của nước và của không khí làm mát.
- Kết cấu của bộ phận giàn ống tản nhiệt và lá tản nhiệt của két làm mát giới thiệu
trên hình dưới. Loại két nước dùng ống dẹt có sức cản không khí ít hơn và diện tích tản
nhiệt lớn hơn khoảng 2  3 lần so với ống tròn nhưng loại ống này không bền vì có nhiều
mối hàn và khó sửa chữa. Kiểu ống tròn hình có ưu điểm là đơn giản dễ sửa chữa do làm
bằng những ống tháo lắp được mà không hàn vào hai ngăn chứa trên và dưới. Hơn nữa
nếu tốc độ gió đi qua giàn ống truyền nhiệt lớn thì hiệu quả của loại ống tròn cũng tốt. Do
đó kiểu ống tròn được dùng khá phổ biến trong các loại két nước xe vận tải và máy kéo.
- Muốn tản nhiệt tốt, vật liệu làm ống và lá tản nhiệt phải dẫn nhiệt tốt (đồng hay
đồng thau tốt hơn thép). Thành ống và lá tản nhiệt phải mỏng (chiều dày ống khoảng 0,13
 0,20mm, chiều dày lá tản nhiệt khoảng 0,08  0,12mm). Để tăng diện tích tản nhiệt,
nên dùng loại ống nước dẹt (kích thước ống dẹt khoảng a = 13  20mm, b = 2  4mm
đồng thời hàn vào ống nước dẹt nhiều lá tản nhiệt khoảng cách giữa các lá: t b = 2,5 
4,5mm. Tốc độ lưu động của nước phụ thuộc vào lưu lượng nước. Nếu ống bé thì khi tốc
độ lưu động đã xác định, muốn tăng lưu lượng nước phải tăng số ống lên. Nếu diện tích
hút gió đã xác định thì khi tăng số ống phải bố trí nhiều hàng ống do đó sức cản không

BỘ MÔN : CÔNG NGHỆ ÔTÔ 105


HỆ THỐNG LÀM MÁT

khí sẽ tăng lên, mặt khác diện tích tản nhiệt của các lá tản nhiệt sẽ nhỏ đi làm giảm sự tản
nhiệt.
- Để giảm bớt sức cản không khí khi lưu động, các dãy ống chắn gió phải bố trí
cách nhau khoảng 10  15mm hoặc bố trí theo nhiều hàng ống theo chiều gió đi qua két
làm mát. Tuy vậy hiệu quả truyền nhiệt khi tăng hàng ống theo chiều gió cũng không lớn,
ví dụ khi tăng chiều dày của két nước lên 50% thì khả năng tản nhiệt của két làm mát
tăng 15%, và khi tăng chiều dày lên 100%, cũng chỉ tăng khả năng dẫn nhiệt lên 20%
(các hàng ống bố trí cách nhau một khoảng tđ = 16  25mm theo chiều gió).
Hình dưới cho thấy sự sắp xếp thứ tự các bộ trao đổi nhiệt của một chiếc xe có 4
bộ trao đổi nhiệt. Một quạt điện đẩy ở phía trước giúp đảm bảo một lượng không khí
thích hợp đi đi qua bô trao đổi nhiệt. Tiếp theo là dàn nóng của máy lạnh, tiếp theo là dàn
lạnh. Gần động cơ là hệ thống làm mát động cơ, với két làm mát dầu động cơ ở bên cạnh.
Một quạt hút và tấm chắn giúp cung cấp lượng gió cần thiết. Và cho thấy dòng không khí
đi tới các bộ phận động cơ. Không khí bên ngoài thổi ngang qua các bộ trao đổi nhiệt,
phía trên và vòng quanh động cơ, và phía dưới xe.

* Bình nước phụ (bình giãn nở):


- Hầu hết các hệ thống làm mát đều có bình nước phụ riêng biệt hay bình giãn nở.
Nó được đổ nước làm mát ở một mức nào đó (không đầy) và nối với phần tràn của két
nước bằng ống mềm. Khi động cơ nóng, nước làm mát dãn nở đầy và chảy tới bình nước
phụ. Khi động cơ nguội, nước làm mát co lại. Điều này làm tăng không gian trống trong
hệ thống làm mát, khi đó nước làm mát từ bình nước phụ chảy về két làm mát.
5.3.2 Bơm nước
- Trong hệ thống làm mát bằng nước, bơm nước có nhiệm vụ cung cấp nước cho
hệ thống làm mát với lưu lượng và áp suất nhất định. Lưu lượng của nước làm mát tuần
hoàn cần cho các động cơ thay đổi trong phạm vi: 68  245l/kWh =(50  180l/ml.h) và
số lần tuần hoàn 7  12 lần/ph.
- Bơm nước dùng trong các loại động cơ ô tô thường là bơm đẩy (hình bên). Nó
được gắn phía trước động cơ và được dẫn động bởi dây cudoa từ puly trục khuỷu. Nước
từ két nước đi vào trong bơm được các cánh bơm đẩy tới áo nước. Trục bơm được đỡ bởi
ổ bi kín nên không cần bôi trơn. Vòng đệm (seal) ngăn cản nước làm mát đi ngang qua ổ
bi. Bơm nước dẫn động bởi dây cudoa quạt. đôi khi bơm nước được dẫn động riêng
(không chung với quạt gió) .
5.3.3 Áo nước
- Áo nước là khoảng không gian mở giữa vách xylanh và block máy và nắp quy
nát. Nước làm mát từ bơm đầu tiên chảy vào áo nước ở block máy. Sau đó nước làm mát
từ áo nước block máy đi lên áo nước trên nắp quy nát rồi trở về két làm mát.

BỘ MÔN : CÔNG NGHỆ ÔTÔ 106


HỆ THỐNG LÀM MÁT

5.3.4 Van hằng nhiệt


- Van hằng nhiệt là van dùng để điều chỉnh nhiệt độ nước làm mát. Nó làm điều
này bằng cách điều chỉnh dòng chảy từ động cơ tới két làm mát. Van hằng nhiệt được lắp
giữa nắp quy nát và két làm mát. Khi động cơ nguội, van hằng nhiệt đóng. Khi động cơ
nóng lên, van hằng nhiệt mở. Sự ngăn cản hay cho dòng chảy chảy qua két làm mát được
biểu diễn trên dưới.
Do đóng đường nước tới két làm mát khi động cơ còn lạnh làm cho thân nhiệt
động cơ tăng lên nhanh hơn. Nhiệt độ chở lại động cơ thay vì đi qua két làm mát. Điều
này rút ngắn thời gian làm ấm động cơ, giảm lãng phí nhiên liệu, giảm ô nhiễm khí xả.
Sau khi động cơ nóng lên, van hằng nhiệt giữ cho nhiệt độ động cơ nóng và ổn định hơn
(80 – 900C) so với không có van hằng nhiệt. Sự hoạt động ở nhiệt độ cao giúp cải tiến
hiệu suất nhiệt động cơ và giảm ô nhiễm khí xả.
5.3.5 Quạt gió
- Két nước đôi khi cần dòng gió để ngăn cản sự qúa nhiệt của động cơ. Điều này
thường xuất hiện khi xe đứng yên và vận tốc thấp. Khi xe chuyển động về phía trước với
tốc độ cao không khí đi xuyên qua két làm mát giải nhiệt cho két nước và động cơ. Quạt
gió kéo thêm không khí đi ngang két làm mát. Quạt gió có thể là quạt cơ khí hay quạt
điện.
- Động cơ đặt dọc dẫn động cầu sau thường dùng quạt cơ khí và quạt được gắn với
trục của bơm nước. Quạt gió được làm bằng thép tấm hay nhựa tồng hợp có từ 4 đến 7
cánh và cùng quay với bơm nước. Để tăng hiệu suất của quạt ta thường dùng tấm chắn để
hướng gió.
5.3.5.1 Thay đổi tốc độ quạt gió
- Nhiều loại động cơ đặt dọc dùng quạt gió thay đổi tốc độ bằng cách dùng ly hợp
(hình 6.24). Ly hợp quạt gió là khớp nối thủy lực được điều khiển bởi nhiệt độ, bộ phận
đó được lắp giữa puly bơm nước và quạt gió.
- Khi động cơ còn lạnh, ly hợp trượt do đó quạt gió không quay. Điều này làm
giảm tiếng ồn và không tốn công suất động cơ. Khi động cơ nóng, nhiệt độ làm cho dầu
đi vào khớp nối thủy lực nhiều hơn. Khi đó ly hợp quạt gió bắt đầu kéo quạt gió quay.
5.3.5.3 Quạt điện
- Những xe có động cơ đặt ngang dẫn động cầu trước thường dùng quạt điện hình
bên. Công tắc nhiệt chỉ mở quạt khi cần thiết. Ví dụ, trong động cơ công tắc sẽ đóng khi
nhiệt độ nước làm mát khoảng 200 0F (930C). Công tắc sẽ ngắt khi nhiệt độ nước làm mát
nhỏ hơn nhiệt độ này. Trên những xe có gắn máy lạnh, việc mở máy lạnh cũng bằng
công tắc nhiệt. Quạt máy lạnh sẽ quay khi máy lạnh mở. Trong các xe có hệ thống điều
khiển tự động động cơ việc bật, tắt quạt được điều khiển bởi một modul điều khiển điện
(ECM).

BỘ MÔN : CÔNG NGHỆ ÔTÔ 107


HỆ THỐNG LÀM MÁT

- Hầu hết các quạt thường là quạt hút, chúnh được lắp cạnh két nước và hút khí
không khí đi qua két nước. Một vài loại xe dùng quạt đẩy, nó được gắn phía trước két
nước và đẩy không khí đi qua. - Quạt điện sẽ tiêu tốn công suất và gây tiếng ồn ít hơn
quạt cơ khí. Mặt khác quạt điện không cần dây cudoa nên không phải kiểm tra, điều
chỉnh và thay thế dây cu-roa

BỘ MÔN : CÔNG NGHỆ ÔTÔ 108

You might also like