You are on page 1of 19

Câu 1: Phân tích mối quan hệ giữa tính 2 mặt của lao động sản xuất hàng hóa

với 2
thuộc tính của hàng hóa. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề
này.
Mở bài: Lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa đã và đang trải qua 2 hình thức tổ
chức kinh tế, đó là nền sản xuất tự cấp tự túc và nền sản xuất hàng hóa. Trong nền sản
xuất hàng hóa tồn tại một phạm trù lịch sử đó là hàng hóa.

Hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị.
Gía trị sử dụng là công dụng, tính có ích của hàng hóa, nhằm thỏa mãn nhu cầu của
người tiêu dùng. Đây là thuộc tính tự nhiên, do vật chất quyết định, là phạm trù vĩnh viễn.
trong mỗi hàng hóa có thể có 1 hay nhiều giá trị sử dụng. Chúng không thể được phát
hiện cùng lúc mà phải phát hiện dần dần nhờ sự phát triển của KHKT. GTSD được thể
hiện đầy đủ trong quá trình sử dụng. Chúng không thể được phát hiện cùng lúc mà phải
phát hiện dần dần nhờ sự phát triển của KHKT. GTSD được thể hiện đầy đủ trong quá
trình sử dụng.
Gía trị là hao phí lao động kết tinh trong mỗi hàng hóa. Là thuộc tính xã hội, phạm trù
lịch sử, riêng có của sản xuất hàng hóa. Là cái ẩn bên trong mỗi hàng hóa, còn GTTĐ là
cái biểu hiện ra bên ngoài. Là cơ sở so sánh để trao đổi, mua bán. GT biểu hiện
QHSXXH, cụ thể là mối quan hệ giữa những người sản xuất.

Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính là mối quan hệ biện chứng, vừa thống nhất, vừa mâu
thuẫn: thống nhất vì chúng luôn cùng tồn tại trong mỗi hàng hóa.
Mâu thuẫn:
Gía trị Gía trị sử dụng
Mục đích Người sản xuất Người tiêu dùng
Thời gian thực hiện Trước Sau
Không gian thực hiện Trong quá trình trao đổi Trong quá trình tiêu
mua bán trên thị trường dùng hàng hóa

Tính hai mặt của lao động là lao động cụ thể và lao động trừu tượng:
Lao động cụ thể là lao động có ích của người sản xuất thông qua những biểu hiện cụ thể
của các ngành nghề, chuyên môn khác nhau. Mỗi lao động cụ thể có mục đích sản xuất,
đối tượng lao động, công cụ và phương pháp lao động khác nhau dân tới kết quả lao động
khác nhau. Là nguồn gốc tạo ra giá trị sử dụng (k phải nguồn gốc duy nhất). Là phạm trù
vĩnh viễn.
Ví dụ: Lao động cụ thể của người thợ mộc, mục đích là sản xuất cái bàn, cái ghế, đối
tượng lao động là gỗ, phương pháp của anh ta là các thao tác về cưa, về bào, khoan, đục;
phương tiện được sử dụng là cái cưa, cái đục, cái bào, cái khoan; kết quả lao động là tạo
ra cái bàn,
cái ghế.
Lao động trừu tượng là hao phí lao động nói chung của người sản xuất, không tính đến
hình thức biểu hiện cụ thể của nó, là hao phí sức lực về mặt thể lực và trí lực của người
sản xuất. Là nguồn gốc duy nhất tạo ra giá trị hàng hóa và là mặt chất của giá trị hàng
hóa. Là phạm trù lịch sử, riêng có của sản xuất hàng hóa. Cần quy đổi các giá trị cụ thể
khác nhau về lao động trừu tượng làm mẫu số chung, làm cơ sở so sánh để trao đổi và
mua bán hàng hóa khác nhau đó.
Ví dụ: Lao động của người thợ mộc và lao động của người thợ may, nếu xét về mặt lao
động cụ thể thì hoàn toàn khác nhau, nhưng nếu gạt bỏ tất cả những sự khác nhau ấy sang
một bên thì chúng chỉ còn có một cái chung, đều phải hao phí sức óc, sức bắp thịt và sức
thần
kinh của con người.

*Ý nghĩa to lớn về mặt lý luận: Tạo lập cơ sở khoa học thực sự cho lý luận về lao động
sản xuất. Đồng thời, giải thích hiện tượng phức tạp trong thực tế: Khối lượng của cải vật
chất trong xã hội ngày càng tăng và đi kèm với đó là xu hướng giá trị của một hàng hóa
giảm xuống hoặc k đổi. Hai thuộc tính của hàng hóa là hai mặt đối lập trong một hàng
hóa thống nhất, lao động trừu tượng và lao động cụ thể là hai mặt đối lập trong lao động
thống nhất. Từ đó, Mang lại cơ sở khoa học cho học thuyết giá trị thặng dư và các học
thuyết khác sau này.

*Ý nghĩa to lớn về mặt thực tiễn: Lao động của người sản xuất hàng hóa là lao động xã
hội vì nó là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công lao động
xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản
xuất hàng hóa. Họ làm việc cho nhau, thông qua trao đổi hàng hóa. Việc trao đổi hàng
hóa không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy lao động cụ thể về lao động chung
đồng nhất - lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã
hội.

Kết bài: Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa giản đơn biểu hiện ở chỗ sản phẩm của
người sản xuất hàng hóa riêng biệt có thể không ăn khớp hoặc không phù hợp với nhu
cầu của xã hội hoặc hao phí lao động cá biệt của ngưòi sản xuất hàng hoá có thể cao hơn
hay thấp hơn hao phí lao động mà xã hội có thể chấp nhận. Chính vì những mâu thuẫn đó
mà sản xuất hàng hoá vừa vận động phát triển, lại vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng
“sản xuất thừa”.

Câu 2: Phân tích lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng
giá trị của hàng hóa. Nêu ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này.
Mở bài: HH là sản phẩm của LĐ, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi, mua bán. Vì vậy, trong nền sản xuất và lưu thông hàng hóa, chúng ta
cần tìm hiểu rõ giá trị của hàng hóa cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
hàng hóa.

Giá trị của hàng hoá là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất hàng
hoá kết tinh trong hàng hoá.

Ví dụ: Giá trị của chai nước là hao phí LĐXH của người SX ra chai nước kết tinh trong
chai nước (vd: 2h SX ra chai nước, thì 2h là giá trị của chai nước)

Lượng giá trị hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.

Ví dụ: 5 giờ: Thời gian LĐXH cần thiết của chiếc Iphone => Hao phí LĐXH kết tinh
trong chiếc Iphone => Giá trị của chiếc Iphone.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra một hàng
hoá nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với trình độ trang thiết
bị trung bình, với trình độ thành thạo trung bình và cường độ lao động trung bình trong
xã hội đó.

Ví dụ: Hiện nay, thị trường xe máy có nhiều cửa hàng. Nếu xã hội sản xuất 1 sản phẩm
2h (TGLĐXH cần thiết), mà bạn sản xuất mất 3h (TGLĐ cá biệt) vậy bạn bán có hiệu
quả bằng không?

Trong SX, người SX phải tích cực đổi mới, sáng tạo tăng năng suất LĐ nhằm giảm thời
gian hao phí LĐ cá biệt tại đơn vị SX của mình xuống mức thấp hơn mức hao phí trung
bình cần thiết. Khi đó sẽ có được ưu thế trong cạnh tranh.
Xét về mặt cấu thành, lượng giá trị của 1 đơn vị HH được SX ra phải bao hàm: hao phí
LĐ đã được kết tinh trong các yếu tố nguyên vật liệu, thiết bị, vật tư đầu vào - giá trị cũ
và hao phí LĐ sống của người LĐ thực hiện chuyển hao phí LĐ quá khứ vào trong giá trị
sản phẩm - giá trị mới.

*Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hoá.
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hoá cũng
là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi này tuỳ thuộc vào năng suất lao động và
mức độ phức tạp hay đơn giản của lao động.

-Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động được đo bằng lượng sản
phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc lượng thời gian hao phí để sản xuất ra
một đơn vị sản phẩm.

Ví dụ: 1 người công nhân trong 8h sản xuất đc 16 sản phẩm => NSLĐ của người
công nhân là 2 sp/h hoặc 0.5h/sản phẩm.

NSLĐ có quan hệ nghịch biến với lượng giá trị HH, khi tăng NSLĐ, sẽ làm giảm
lượng thời gian hao phí LĐ cần thiết trong 1 đơn vị HH. Cho nên, tăng NSLĐ, sẽ làm
giảm lượng giá trị trong một đơn vị HH. Vì vậy, trong thực hành SX, kinh doanh cần phải
được chú ý, để có thể giảm hao phí LĐ cá biệt, cần phải thực hiện các biện pháp để góp
phần tăng NSLĐ.

NSLĐ phụ thuộc vào các yếu tố chủ yếu: trình độ của người LĐ; trình độ tiên tiến và
mức độ trang bị kỹ thuật, khoa học, công nghệ trong quá trình SX; trình độ quản lý;
cường độ lao động và yếu tố tự nhiên.

-Tăng cường độ lao động là tăng mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động LĐ,
tức là tăng chi phí LĐ, nên mặc dù trong cùng thời gian LĐ số lượng sản phẩm có tăng
lên nhưng tổng chi phí LĐ cũng tăng lên, do đó chi phí LĐ trong 1 đơn vị sản phẩm là
không đổi.
Các nhân tố ảnh hưởng đến cường độ LĐ: sức khỏe, cơ bắp; thể chất và tinh thần
của nlđ.
Nếu Tăng CĐLĐ quá mức dẫn đến Sức khỏe nld giảm, làm cho NSLĐ giảm thì
Lượng giá trị của 1 đvhh tăng lên. Nếu Thời gian LĐCB tăng thì cần có CĐLĐ hợp lý
cho người lao động. Việc tăng cường độ LĐ cũng có ý nghĩa như tái SX mở rộng theo
chiều rộng và cũng có ý nghĩa nhất định trong những điều kiện nhất định.
-Tính chất lao động:
+ Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường không cần
phải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể
tiến hành được.

Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
C.Mác gọi LĐ phức tạp là LĐ giản đơn được nhân bội lên. Đây là cơ sở lý luận quan
trọng để cả nhà quản trị và người LĐ tính toán, xác định mức thù lao cho phù hợp với
tính chất hoạt động LĐ trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế XH.

*Ý nghĩa thực tiễn: Trong hoạt động thực tiễn trên thị trường các chủ thể cạnh
tranh rất gay gắt với nhau, lợi thế luôn thuộc về người SX có năng suất LĐ cao nhất tức
chi phí SX thấp nhất, ngược lại họ sẽ gặp bất lợi và có nguy cơ phá sản. Vì thế cạnh tranh
để tăng NSLĐ, giảm chi phí LĐ có ý nghĩa sống còn của doanh nghiệp, do vậy các yếu tố
tác động tới NSLĐ được đặc biệt quan tâm ứng dụng.

Kết bài: Chúng ta hiểu được rằng hàng hóa đã trở nên rất phổ biến trong xã hội hiện đại
ngày nay. Hàng hóa không chỉ được trao đổi trực tiếp mà còn được mua bán gián tiếp
trong thời đại 4.0. Mọi người dễ dàng có được hàng hóa mong muốn dùđang ở nhà,
không cần phải di chuyển đến chỗ bán, bạn vẫn có thể nhận đượchàng bằng cú nhấp
chuột chọn mua trên các trang điện tử nổi bật như Shopee, Lazada, Tiki. Nhờ sự phát
triển của công nghệ thông tin, truyền thông phương tiện mà giữa người mua và người bán
không còn bị ngăn cách cản trở về mặt địa lý, với đa dạng nhiều loại hàng hóa khác nhau
cùng các mức giá hợp túi tiền của người tiêu dùng. Với quy mô kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta đang theo đuổi đã tạo điều kiện thuận
lợi cho giao thương phát triểntrong nước và ngoài nước. Đời sống của người dân dần cải
thiện và nâng cấp hơn so với trước kia. Đảng ta luôn lắng nghe những ý kiến đóng góp từ
phía người dân, các cán bộ các cấp để thay đổi bộ máy nhà nước hoàn thiện và linh hoạt
hơn trong tương lai gần.

______________

Câu 3: Phân tích nội dung, yêu cầu và tác dụng của quy luật giá trị trong nền
kinh tế thị trường. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này.
Mở bài: Trong nền sản xuất hàng hóa, chúng chịu rất nhiều tác động của các quy
luật như quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ. Tuy nhiên,
một trong những quy luật có vai trò cơ sở trong việc chi phối nền kinh tế đó là quy luật
giá trị. Do đó, quy luật này có vi trí và vai trò nhất định trong nền sản xuất hàng hóa. Vì
vậy, trong nền sản xuất và lưu thông hàng hóa, chúng ta cần tìm hiểu nội dung, yêu cầu
và tác động của quy luật giá trị.

*Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá; quy định việc sản
xuất và trao đổi hàng hoá phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết.

-Trong SX: Người sx muốn bán được HH trên thị trường, muốn được XH thừa nhận SP
thì cần phải làm sao cho hao phí LĐ cá biệt phải phù hợp (nhỏ hơn hoặc bằng) với hao
phí LĐ XH cần thiết.
-Trong trao đổi: phải dựa trên cơ sở hao phí LĐXH cần thiết, trao đổi theo nguyên tắc
ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt
Sự vận động của giá cả HH trên thị trường xoay quanh trục giá trị là phương thức
hoạt động của quy luật giá trị: (Cung>cầu --> giá cả<giá trị; cung =cầu --> giá cả = giá
trị; Cung<cầu -->giá cả >giá trị)

Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có 3 tác động:

+) Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.


- Thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường dưới tác động của quy luật cung
- cầu mà người SX sẽ điều hòa, phân bổ các yếu tố SX giữa các ngành, các lĩnh
vực của nền kinh tế. Cụ thể: thông qua sự biến động của giá cả, người SX sẽ biết
được tình hình cung cầu của hàng hóa đó và quyết định phương án SX, nếu giá cả
hàng hóa cao hơn giá trị, Sx cần mở rộng để cung ứng HH đó nhiều hơn vì nó
đang khan hiếm trên thị trường, theo đó, tư liệu Sx và sức LĐ sẽ được tự phát
chuyển vào ngành này nhiều hơn các ngành khác, và ngược lại.
- Sự biến động của giá cả thị trường có tác động thu hút luồng HH từ nơi có giá cả
thấp đến nơi có giá cả cao hơn, nhờ đó làm lưu thông HH thông suốt.

Ví dụ: Quốc theo trào lưu thời trang, những mẫu quần áo thời trang mới nhất sẽ được
nhập về nước, đầu tiên sẽ đến với người dân thành thị – nơi có cuộc sống sung túc, đầy
đủ hơn. Cho đến khi những loại quần áo đó đã trở nên lỗi thời, nó được chuyển về bán
cho người dân nông thôn.
+) Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, thúc
đẩy lực lượng SX phát triển nhanh. Yêu cầu của quy luật đòi hỏi người SX muốn giành
được lợi thế phải cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, tăng năng suất LĐ…hạ thấp
hao phí LĐ cá biệt, từ đó, thúc đẩy lực lượng SX XH phát triển.

Ví dụ: Trong lưu thông để bán được nhiều hàng hóa, người sản xuất phải không ngừng
nâng cao chất lượng phục vụ; quảng cáo sản phẩm và kèm theo nhiều chương trình
khuyến mại thu hút được nhiều khách hàng làm cho quá trình lưu thông được hiệu quả
cao hơn, nhanh chóng thuận tiện với chi phí thấp nhất.

+) Phân hoá người lao động thành kẻ giàu người nghèo: Quá trình cạnh tranh theo đuổi
giá trị sẽ dẫn đến kết quả: những người có điều kiện SX thuận lợi, NSLĐ cao, hao phí LĐ
cá biệt thấp sẽ ngày càng trở nên giàu có. Ngược lại, những người có hao phí LĐ cá biệt
cao hơn hao phí LĐ XH cần thiết sẽ bị thua lỗ dẫn đến phá sản, trở thành những người
nghèo. Trong nền kinh tế thị trường thuần túy, chạy theo lợi ích cá nhân, đầu cơ, gian lận,
khủng hoảng kinh tế… là những yếu tố có thể làm tăng thêm tác động phân hóa SX cùng
những tiêu cực về kinh tế xh khác. Tóm lại, QL giá trị vừa có cả những tác động tích cực
lẫn tiêu cực.

=> Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó,
đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, nhà nước cần có những biện
pháp để phát huy tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay.

*Ýnghĩa thực tiễn: Quy luật giá trị buộc các chủ thể kinh doanh phải nhạy bén với thị
trường, phân bổ các nguồn lực của XH hiệu quả, nhờ đó thúc đẩy lực lượng SX phát
triển, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế một cách linh hoạt, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của XH.
Tuy nhiên, quy luật giá trị cũng dẫn đến tình trạng khai thác cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm
môi trường, HH kém chất lượng, gia tăng khoảng cách về thu nhập, phân hóa XH. Vì
vậy, rất cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước để khắc phục những hạn chế này.

Kết bài: Như vậy, quy luật giá trị có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và
phát triển nền kinh tế của nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức
rõ được tầm quan trọng của quy luật giá trị, Đảng ta đã có những bước đi đúng đắn
trong việc đưa ra chính sách mới để khôi phục kinh tế sau thời kì khủng hoảng
nghiêm trọng (giai đoạn từ 1976-1985). Đảng ta đã đưa ra quan điểm "Một nền
kinh tế phát triển theo mô hình nền kinh tế nhiều thành phần, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa và dưới sự quản lý của nhà nước". Tuy nhiên, quy luật giá trị có tác động
tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế vì vậy, Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô nền
kinh tế cần có những giải pháp để hạn chế những tác động tiêu cực này giúp nền kinh tế
Việt Nam phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

_____________

Câu 4: So sánh 2 thuộc tính của hàng hóa thông thường và hàng hóa sức lao động.
Vì sao trong cơ cấu giá trị của hàng hóa sức lao động phải bao gồm giá trị những tư
liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi con của người lao động.

Mở bài: Trong những năm qua nền kinh tế nước ta dần dần chuyển nền kinh tế từ kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, nhiều thị trường của nước ta đã từng
bước được hình thành và phát triển.

Hàng hóa thông thường là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người thông qua trao đổi, mua bán.
Ví dụ: Đồ điện tử: điện thoại, laptop, máy tính bảng, thiết bị sức khỏe…

Đối với hàng hóa sức lao động thì sức lao động chỉ biến thành hàng hóa sức lao động
khi có đủ hai điều kiện sau: Một là, người lao động phải được tự do về thân thể, có khả
năng chi phối sức lao động của mình. Hai là, người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản
xuất không thể tự tiến hành lao động sản xuất. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều
kiện chủ yếu quyết định sự chuyển hoá tiền thành tư bản.

So sánh 2 thuộc tính của hàng hóa thông thường và hàng hóa sức lao động, sự giống và
khác nhau của hàng hóa thông thường và hàng hóa sức lao động là: Về mặt khác nhau,
Hàng hóa thông thường: Người mua và người bán hoàn toàn độc lập với nhau, trong đó
chỉ thuần túy là yếu tố vật chất. Hàng hóa thông thường là nguồn gốc của giá trị trao đổi
(biểu hiện của của cải). Có thể thấy, sau một thời gian sử dụng thì cả giá trị và giá trị sử
dụng đều tiêu biến, và về giá cả và giá trị có thể tương đương nhau.

Trong khi đó, đối với hàng hóa sức lao động thì lại là một loại hàng hóa đặc biệt chỉ tồn
tại trong cơ thể sống của con người, người mua có quyền sử dụng nhưng không được
quyền sở hữu. Bên cạnh đó, còn bao hàm cả yếu tố tinh thần lẫn lịch sử, là nguồn gốc của
giá trị thặng dư. Khi tiêu dùng hàng hóa sức lao động nó tạo ra một giá trị mới lớn hơn
giá trị của thân sức lao động. Giá cả nhỏ hơn giá trị.
Ngoài những yếu tố khác nhau, thì giữa hai loại hàng hóa này cũng có những nét tương
đồng, giống nhau. Thứ nhất, vì chúng đều là hàng hóa và mang hai thuộc tính (giá trị và
giá trị sử dụng), đều được quy định bởi số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết, đều
chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động nghĩa là khi con người sử dụng hay
tiêu dùng.
Giá trị của hàng hóa sức lao động phải bao gồm giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết
để nuôi con của người lao động vì giá trị của hàng hóa sức lao động phải bao gồm giá trị
những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống con cái người lao động vì giá trị sức lao
động ngang bằng với toàn bộ tư liệu sinh hoạt cần thiết về cả vật chất và tinh thần (đồ ăn,
thức uống, nơi ở, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, giải trí,...) để duy trì đời sống bình thường
của người công nhân và con cái của họ, để người công dân an tâm lao động thì các yếu tố
trên phải được cân bằng ở mức tốt hơn nửa con cái của người công dân chính là thế hệ
lao động tiếp theo người công dân ấy già đi và rời khỏi lực lượng lao động.
Kết bài: Hàng hóa ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người. Với sự
tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ, hàng hóa cũng ngày càng được quan tâm
và chú trọng hơn. Do đó, việc nghiên cứu về hàng hóa và các thuộc tính của nó là điều vô
cùng cần thiết. Việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở để liên hệ thực tế đến đặc điểm và thực
trạng của hàng hóa Việt Nam; từ đó nhận ra những cơ hội và thách thức, những mặt còn
hạn chế của nước ta trong việc sản xuất kinh doanh, đồng thời đưa ra những giải pháp
cho doanh nghiệp nói riêng và cho nhà nước Việt Nam nói chung trong việc vận dụng hai
thuộc tính của hàng hóa nhằm phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó tạo
điều kiện phát triển nền kinh tế nước nhà.
Câu 5: Phân tích quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Căn cứ và ý nghĩa
phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động?

Mở bài: Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang phát triển trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam luôn đứng trước những cơ hội và thách thức của thời
đại đòi hỏi Đảng và nhà nước ta phải có đường lối, chủ trương và chính sách đúng đắn,
phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Do đó để tồn tại và phát triển đứng vững trên thị trường,
các doanh nghiệp cần kết hợp phân tích lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản với
điều kiện hiện có của doanh nghiệp để từ đó có những quyết định đúng đắn đối với việc
phân bổ các nhân tố sản xuất sao cho phù hợp.
Tuần hoàn tư bản: là sự vận động liên tục của tư bản lần lượt trải qua ba giai đoạn
mang ba hình thái (tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hóa), thực hiện ba chức
năng khác nhau (chuẩn bị sản xuất giá trị thặng dư, sản xuất giá trị thặng dư, thực hiện
giá trị thặng dư) rồi quay lại trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.
Ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản:
✓ Giai đoạn 1: giai đoạn lưu thông: T-H
• Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với các yếu tố sản xuất để mua tư liệu sản
xuất và sức lao động, chức năng của giai đoạn này là mua các yếu tố cho quá trình sản
xuất, tức là biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất.
✓ Giai đoạn 2: giai đoạn sản xuất: H…H’
• Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất, thực hiện kết
hợp hai yếu tố là tư liệu sản xuất và sức lao động đề sản xuất ra hàng hóa và tạo ra giá trị
thặng dư, giai đoạn này được xem là giai đoạn có ý nghĩa quyết định nhất, vì nó gắn trực
tiếp với mục đích của nền sản xuất TBCN. Kết thúc giai đoạn này là tư bản sản xuất
chuyển hóa thành tư bản hàng hóa.
✓ Giai đoạn 3: Giai đoạn lưu thông: H-T’
- Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa, chức năng là
thực hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất và tạo ra giá trị thặng dư. Trong giai
đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng, hàng hóa của nhà tư
bản được chuyển hóa thành tiền. Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hóa chuyển thành tư
bản tiền tệ. Như vậy, mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản quay trở lại hình
thái ban đầy trong tay chủ của nó với số lượng lớn hơn trước.
*Ba hình thái của tuần hoàn tư bản:
 Tư bản tiền tệ: bắt đầu là tiền, kết thúc cũng là tiền còn tư bản hàng hoá và tư bản sản
xuất là trung gian.
 Tư bản sản xuất: H’ – T’ – H quá trình sản xuất diễn ra, bắt đầu là sản xuất, kết thúc là
sản xuất còn tư bản hàng hoá và tư bản tiền tệ chỉ là trung gian.
 Tư bản hàng hoá: H’ – T’ – H – SX – H” bắt đầu là hàng hoá kết thúc cũng là hàng hoá
còn tư bản tiền tệ và tư bản sản xuất là trung gian. Sự vận động qua ba giai đoạn nói trên
là sự vận động có tính tuần hoàn: tư bản ứng ra dưới hình thái tiền và rồi đến khi quay trở
về cũng dưới hình thái tiền có kèm theo giá trị thặng dư. Quá trình đó tiếp tục được lặp
đi, lặp lại không ngừng gọi là sự vận động tuần hoàn của tư bản.
=> Sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn nói trên là sự vận động có tính tuần
hoàn: tư bản ứng ra dưới hình thái tiền tệ và rồi đến khi quay trở về cũng dưới hình thái
tiền tệ có kèm theo giá trị thặng dư. Quá trình đó tiếp tục được lặp đi, lặp lại không
ngừng gọi là sự vận động tuần hoàn của tư bản.
Chu chuyển tư bản: là tuần hoàn tư bản được xét là quá trình định kì, thường
xuyên lặp đi lặp lại và đổi mới theo thời gian. Chu chuyển tư bản được đo lường bằng
thời gian chu chuyển hoặc tốc độ chu chuyển tư bản.
Vd: Tốc độ xoay vòng vốn trong kinh doanh
+ Thời gian chu chuyển tư bản là khoảng thời gian mà một tư bản kể từ khi được
ứng ra dưới một hình thái nhất định cho đến khi quay trở về dưới hình thái đó cùng với
giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu
thông.
+Tốc độ chu chuyển của tư bản là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới một hình
thái nhất định quay trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư tính trong một đơn
vị thời gian nhất định. Thông thường tốc độ chu chuyển được tính bằng số vòng chu
chuyển của tư bản trong một năm.
Căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động:
* Tư bản cố định
Khái niệm: Một bộ phận của tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, … tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển
hết
một lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong
thời gian sản xuất.
* Tư bản lưu động
Khái niệm: Một bộ phân tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu phụ, sức lao động, giá trị của nó lưu thông toàn bộ cùng với sản phẩm và được hoàn
lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản xuất.
Ví dụ: để dệt được 5 kg sợi, thì cần phải có 5 kg bông, và phải mất 2 h lao động
của công nhân. Có nghĩa rằng, tư bản lưu động tồn tại dưới dạng 5kg bông và mua
2h sức lao động của người công nhân, trong 1 chu kỳ sản xuất, nó phải dịch chuyển
toàn bộ giá trị vào sản phẩm thì mới có được 5 kg sợi.

*Căn cứ để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động là
phương thức chuyển dịch giá trị khác nhau của từng bộ phận tư bản trong quá trình
sản xuất.
*Ý nghĩa của việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
Việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động chỉ diễn ra đối với tư bản sản xuất, căn
cứ vào tính chất chuyển giá trị vào trong sản phẩm mới. Tuy sự phân chia tư bản cố định
và tư bản lưu thông thật sự chưa làm rõ bản chất bóc lột của tư bản nhưng có ý nghĩa to
lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp trong việc bảo tồn và tái sản xuất tư bản cố định
và lưu động, xác định đúng những chi phí hình thành sản phẩm hàng hóa. Trong quản lý
kinh tế và trong sản xuất, doanh nghiệp cần có cách thức tác động phù hợp với tính chất
vận động của từng loại tư bản để nâng cao.

Kết bài: Với học thuyết “tuần hoàn và chu chuyển tư bản” của Mác, ta đã có
những tiền đề và cơ sở lý luận cho sự phát triển nền kinh tế của đất nước theo con đường
đúng đắn, hợp lý nhất. Học thuyết này mang một ý nghĩa thực tiễn to lớn không chỉ ở
thời điểm nó ra đời mà còn có tác dụng ngay cả thời điểm hiện nay. Với lý luận này
chúng ta có thể nhìn nhận rõ hơn về vấn đề tuần hoàn và chu chuyển tư bản cũng như
nguồn vốn trong các doanh nghiệp. Là cơ sở cho các doanh nghiệp nhìn nhận đúng hơn
vai trò của vốn để từ đó xây dựng những phương án, giải pháp cho vấn đề sử dụng vốn
trong doanh nghiệp. Đây là nhân tố và tiền đề cho sự phát triển của mỗi quốc gia.

___________

Câu 6: Phân tích đặc trưng về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tại sao thành phần kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo?
Mở bài: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương thức để phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh”
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy
luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế:
Sở hữu là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất và tái sản
xuất trên cơ sở chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản xuất và kết quả lao động tương
ứng của quá trình sản xuất hay tái sản xuất ấy trong điều kiện lịch sử nhất định.

Sở hữu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý:
+ Về nội dung kinh tế: sở hữu là cơ sở để các chủ thể thực hiện lợi ích từ các đối tượng
sở hữu.
+ Về pháp lý: sở hữu thể hiện những quy định mang tính chất pháp luật về quyền hạn
hay nghĩa vụ của chủ thể sỡ hữu, các cơ chế quản lý nhà nước.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế với nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau.
Các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Bên cạnh đó, có nét riêng.


 Những TLSX chủ yếu thuộc về chế độ công hữu.
 Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
 Thành phần kinh tế nhà nước cùng với thành phần kinh tế tập thể (nòng cốt là
HTX) trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
 Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng cho phép huy động mọi nguồn lực vào phát
triển kinh tế, kích thích cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng năng suất lao
động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
 Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát
triển theo pháp luật.
 Phần sở hữu nhà nước không chỉ có trong kinh tế nhà nước mà có thể được sử
dụng ở nhiều thành phần kinh tế khác.
 Kinh tế nhà nước phải là đòn bẩy để thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững và giải
quyết các vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác
cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết,
quản lý nền kinh tế.
 Các DNNN chỉ đầu tư vào những ngành kinh tế then chốt vừa chi phối được nền
kinh tế vừa đảm bảo được an ninh, quốc phòng và phục vụ lợi ích công cộng.

*Thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo: Thứ nhất, Nhà nước là đầu tàu,
hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở hữu khác trong việc phát triển các lĩnh vực đặc biệt.
Trong điều kiện các quan hệ thị trường mới được phát triển, khu vực tư nhân còn nhỏ bé,
chưa có khả năng đầu tư lớn, khu vực sở hữu nhà nước tất yếu phải đảm nhận vai trò đầu
tàu, dẫn dắt trong những lĩnh vực mới này. Thứ hai, góp phần bảo đảm phát triển năng
lực cạnh tranh của quốc gia. Khi khu vực tư nhân chưa kịp phát triển, Nhà nước phải trực
tiếp tham gia và đầu tư phát triển, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu đàn trong giai đoạn đầu.
Khi khu vực tư nhân lớn mạnh dần, kinh tế nhà nước dần dần rút hoặc chuyển đổi sở hữu
và về lâu dài, kinh tế nhà nước có thể không cần giữ vai trò chủ đạo ở lĩnh vực có lợi thế
cạnh tranh. Thứ ba, đối với an ninh quốc gia, kinh tế nhà nước thể hiện vai trò chủ đạo
trong việc nắm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để giữ vững định hướng xã hội, làm
đối trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế, bán buôn lương thực, xăng dầu, sản xuất điện,
khai thác khoáng sản quan trọng một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin
quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay. Vai trò của kinh tế nhà nước còn thể hiện ở chỗ
phải thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các
ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, các
chương trình xóa đói, giảm nghèo.

Kết bài: Nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường
phù hợp với trình độ phát triển và điều kiện lịch sử của Việt Nam. Trên những đặc trưng
của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà nước xây
dựng chính sách phát triển kinh tế thị trường có tính khoa học, nhất quán và phù hợp với
thực tiễn Việt Nam.

Câu 7: Cách mạng công nghiệp là gì? Nêu đặc trưng cách mạng công nghiệp lần thứ
tư và vai trò của cách mạng 4.0 đến phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam?

Mở bài: Cách mạng công nghiệp đã và đang cho thấy một Việt Nam mới, năng động và
sáng tạo hơn, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 của thế giới
được dự báo sẽ lan truyền với tốc độ lớn, có tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của cuộc
sống, tái nhận thức của conngười trên nhiều lĩnh vực, giúp cho nhân loại đạt được nhiều
hơn thành tựu và cả kì tích.

Cách mạng CN là những bước phát triển nhảy vọt về chất trình độ của tư liệu lao động
trên cơ sở những phát minh đột phá về kỹ thuật và công nghệ trong quá trình phát triển
của nhân loại kéo theo sự thay đổi căn bản về phân công lao động xã hội cũng như tạo
bước phát triển năng suất lao động cao hơn hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến những
tính năng mới trong kỹ thuật - công nghệ đó vào đời sống xã hội.

*Đặc trưng cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
xuất phát từ khái niệm “Industrie 4.0” trong một báo cáo của chính phủ Đức năm 2013.
Đây được gọi là cuộc cách mạng số, với yêu cầu là nâng cao năng suất lao động bằng
cách chuyển đổi thế giới thực thành thế giới ảo qua các công nghệ như Internet vạn vật
(IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR), tương tác thực tại ảo (AR), mạng xã hội,
điện toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC)… để chuyển hóa toàn bộ thế
giới thực thành thế giới số. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ
trên nhiều lĩnh vực, với sự xuất hiện của robot có trí tuệ nhân tạo mang lại nhiều ứng
dụng trong xã hội.
*Vai trò của cách mạng 4.0 đến phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam: Cuộc cách
mạng 4.0 mang lại nhiều cơ hội cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Hoàn
thiện thể chế, xây dựng nền kinh tế dựa trên nền tảng sáng tạo. Đối với sự phát triển
nhanh chóng của các ngành công nghiệp chế tạo thâm dụng lao động có định hướng xuất
khẩu đang có tác động đáng kể đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quá trình này
giúp Việt Nam chuyển đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ
với năng suất và thu nhập cao hơn, qua đó thúc đẩy thực hiện hiệu quả quá trình tái cơ
cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bước sang quỹ đạo tăng trưởng
nhanh và bền vững hơn. Việt Nam cần biết nắm bắt và đẩy mạnh việc ứng dụng những
thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0). AI đã và đang được ứng
dụng mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực như y tế, giáo dục, nông nghiệp, giao thông, thương
mại điện tử... Công nghệ AI cũng đã mang lại cho Việt Nam sự phát triển vượt bậc thời
gian qua. Song, bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết để
ứng phó với những tác động tiêu cực của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4.0) mang
lại.

Kết bài: Là một sinh viên còn đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cần nhận thức
đúng đắn về tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; có niềm tin vững vàng vào
Đảng và nhà nước. Để hướng tới mục tiêu lớn, mỗi sinh viên luôn cần sự chủ động lập kế
hoạch, định hướng phát triển bản thân hơn nữa. Trong đó cần nâng cao trình độ văn hoá,
khoa học-công nghệ và ứng dụng vào đời sống, chủ động nắm bắt tình hình kinh tế xã hội
trong nước và trên thế giới, tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, tham gia giải quyết
các vấn đề toàn cầu, công tác ngoại giao nhân dân.

Câu 8: Hội nhập kinh tế quốc tế là gì? Phân tích tác động của hội nhập kinh tế quốc
tế đến phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Là sinh viên, anh/chị hãy cho biết bản
thân nên làm gì để góp phần phát huy tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc
tế?

Mở bài: Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được hình thành và phát triển cùng với sự
phát triển của quá trình tự do hóa thương mại và xu hướng mở cửa nền kinh tế của các
quốc gia. Vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là gì?

Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là một quá trình quốc gia đó thực hiện gắn
kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân
thủ các chuẩn mực quốc tế chung.

*Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến Việt Nam:
-Tích cực:
Một là, mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện cho sản
xuất trong nước, tận dụng các lợi thế kinh tế của nước ta trong phân công lao động quốc
tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và chuyển đổi mô hình
tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.
Ví dụ: Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở
rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và
vùng lãnh thổ. Tham gia nhiều hiệp định thương mại như EVFTA, CPTPP...

Hai là, tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiện đại
và hiệu quả hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và
doanh nghiệp trong nước; góp phần cải thiện môi trường đầu tư, làm tăng khả năng thu
hút khoa học công nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nền kinh tế.
Ví dụ: Nền kinh tế nước ta đang chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng khu vực II, III,
giảm tỉ trọng khu vực I.

Ba là, giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học công nghệ
quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước
mà nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ mới
thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ để thay đổi, nâng cao
chất lượng của nền kinh tế.
Ví dụ: VN bây giờ đã sản xuất được ô tô, tham gia quá trình nghiên cứu mạng 5G…

Bốn là, giúp DN tiếp cận thị trường, vốn, công nghệ, tri thức quản trị, không ngừng
thúc đẩy hoạt động hợp tác, giúp đỡ những nhân viên tri thức kết nối và tìm ra những
chuyên gia, giúp tổ chức học hỏi và đưa ra những quyết định dựa trên những dữ liệu,
thông tin, tri thức đầy đủ, hợp pháp và được diễn giải tốt.

Năm là, tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người dân được thụ hưởng các
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh
tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội tìm
kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.

Ví dụ: Nếu như ở VN trước kia chỉ ăn được thịt bò trong nước thì ngày nay thịt bò trên
thị trường rất phong phú như thịt bò Mỹ, Úc, Hà Lan,...

Sáu là, tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và
xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều chỉnh chiến lược phát triển hợp
lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.
Ví dụ: Hiện nay, dịch Covid-19 đã và đang gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế thế giới
nhưng cũng có thể tạo ra một số cơ hội. Cùng với sự tác động của chiến tranh thương mại
Mỹ - Trung, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã có sự chuyển dịch địa bàn đầu tư và quy mô
đầu tư, họ đã và đang chọn điểm đến là Việt Nam. Nước ta có thể nắm bắt cơ hội này để
thúc đẩy phát triển đất nước trên tinh thần chuẩn bị các điều kiện cần thiết

Bảy là, tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị tinh
hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn minh thế giới để làm giàu
thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Ví dụ: Việt Nam tích cực tổ chức các hoạt động văn hóa tại nhiều trung tâm văn hóa ở
nước ngòai như Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Pháp, Lào…Đồng thời cho phép nước
ngoài mở các trung tâm văn hóa tại Việt Nam như Trung tâm Văn hóa Pháp, Viện Gothic
(Đức), Viện Khổng Tử (Trung Quốc),…Nhiều tổ chức sản xuất, hoạt động xã hội phi lợi
nhuận ở nước ngoài được đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam.

Tám là, tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo động lực và điều kiện để cải
cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng
một xã hội mở, dân chủ, văn minh hơn.

Chín là, tạo điều kiện để nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong
các tổ chức chính trị, kinh tế toàn cầu.

Ví dụ: Việt Nam được bầu giữ chức Ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an
Liên hợp quốc.

Mười là, củng cố an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và quốc tế
để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực
và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung như môi trường,
biến đổi khí hậu, phòng chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.

-Tác động tiêu cực: Bên cạnh những mặt tích cực mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại,
thì nó cũng mang lại không ít những trở ngại, thách thức:

Một là, làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế
nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về
mặt kinh tế - xã hội.
Ví dụ: trên thị trường bán lẻ, xoài Việt Nam phải cạnh tranh với xoài Thái lan hay Đài
Loan,...
Hai là, có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên
ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường về chính trị,
kinh tế và thị trường quốc tế.
Ví dụ: Các mặt hàng may mặc của Việt Nam trong đợt bùng dịch Covid vừa rồi không
thể xuất khẩu ra các thị trường như Mỹ, EU và cũng không thể sản xuất do thiếu nguyên
liệu, phụ thuộc vào nước ngoài. Do đó phải đóng cửa, dừng sản xuất.

Có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và các nhóm
khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu - nghèo và bất
bình đẳng xã hội.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta phải đối
mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào
các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp.
Do vậy, dễ trở thành bãi rác công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường ở mức độ cao.

Năm là, tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước, chủ quyền quốc gia
và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn
xã hội.

Sáu là, có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống Việt
Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.

Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu,
tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…

*Để có thể tận dụng được những cơ hội do hội nhập quốc tế mang lại, mỗi sinh viên
cần đặt ra cho mình những mục tiêu và định hướng rõ ràng:
Không ngừng học tập, nâng cao chất lượng chuyên môn, chủ động, tự tin hơn trong quá
trình hội nhập quốc tế, sinh viên - thế hệ trẻ luôn ứng dụng những thành tựu khoa học
công nghệ tiên tiến và nghiên cứu, ứng dụng tri thức mới và đời sống xã hội… phục vụ
cho công tác quản lý và sản xuất. Bên cạnh đó, còn là lực lượng tiên phong, mang lại hiệu
quả cao. Hiện nay, trong mọi lĩnh vực của đời sống thanh niên, thanh niên đã từng bước
khẳng định vai trò trung tâm, vị trí then chốt, chính nghị lực, nhiệt huyết ấy đã làm nên
thành công của sinh viên, có sự đóng góp không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương. Sinh viên là lực lượng chủ yếu quyết định sự nhanh chậm, thành bại của
quá trình hội nhập quốc tế. Từ đó, sẽ là điều tốt cho Việt Nam khi phần lớn thanh niên
ngày nay có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần tình nguyện
và ý thức chia sẻ cộng đồng cao, sức mạnh của thành tựu khoa học công nghệ và đổi mới
sáng tạo, năng động, sáng tạo, luôn tích cực học hỏi cái mới và sự tiến bộ của nhân loại.
Đây sẽ là những yếu tố thuận lợi để đất nước và địa phương hội nhập vào tiến trình quốc
tế.

Kết bài: Hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi khách quan của thới kỳ toàn cầu hoá, có tác
động cả tích cực và tiêu cực. Ngày nay, Việt Nam cần tích cực và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập phù hợp, tích cực khai thác lợi thế
của hội nhập, đồng thời ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ, tác động bất lợi của hội nhập
mang lại.

You might also like