You are on page 1of 3

Bài làm giữa kỳ môn LTTCTT

SV: Lê Thị Mỹ Tuyến


K224060823
Sử dụng lý thuyết đại diện (Agency therory) giải thích việc ngân hàng SCB bị sử dụng
như một công cụ huy động vốn cho các doanh nghiệp trong hệ sinh thái Vạn Thịnh
Phát.? Đây là mâu thuẫn lợi ích của các bên liên quan nào của ngân hàng SCB?
Đề xuất công cụ tài chính để hạn chế các vấn đề này trong tương lai?

Sơ lược về Ngân hàng SCB: ra đời vào năm 2012 là kết quả của việc sát nhập 3 NH là
Đệ Nhất, TÍn Nghĩa và Sài Gòn.
Để tránh việc một cá nhân có toàn quyền thao túng một ngân hàng, Luật Việt Nam quy
định mỗi cổ đông là cá nhân không được nắm giữ quá 5% cổ phần của một tổ chức tín
dụng.
Để sát nhập 3 ngân hàng Bà Trương Mỹ Lan đã chỉ đạo nhiều cá nhân đại diện mua gom
gần 90% cổ phần. Trên giấy tờ bà đang chỉ sở hữu 4% cp SCB nhưng gần như kiểm soát
SCB thông qua các đại diện thân tín của mình

Lý thuyết đại diện (Agency theory) được sử dụng để giải thích mối quan hệ giữa người
ủy thác (principal) và người đại diện (agent). Trong trường hợp này, người ủy thác là cổ
đông của ngân hàng SCB, người đại diện là ban lãnh đạo của ngân hàng.
Theo lý thuyết đại diện, người đại diện có thể có những hành vi không vì lợi ích tối đa
của người ủy thác. Điều này có thể xảy ra do một số nguyên nhân, chẳng hạn như:
• Thông tin bất cân xứng: Người đại diện thường có nhiều thông tin hơn người ủy
thác, điều này có thể dẫn đến việc người đại diện lợi dụng thông tin để phục vụ lợi
ích cá nhân.
• Chi phí ủy thác: Chi phí ủy thác là chi phí mà người ủy thác phải bỏ ra để giám sát
người đại diện. Chi phí ủy thác càng cao thì người ủy thác càng khó giám sát
người đại diện, điều này có thể dẫn đến việc người đại diện có nhiều cơ hội để vi
phạm lợi ích của người ủy thác.

Trong vụ án Vạn Thịnh Phát - SCB, Trương Mỹ Lan, chủ tịch Tập đoàn Vạn Thịnh Phát,
nắm giữ chi phối cổ phần của ngân hàng. Điều này tạo ra một mối quan hệ đại diện giữa
Trương Mỹ Lan (người ủy thác) và ban lãnh đạo của ngân hàng (người đại diện).
Do nắm giữ chi phối cổ phần, Trương Mỹ Lan có thể dễ dàng chi phối hoạt động của
ngân hàng. Điều này có thể dẫn đến việc Trương Mỹ Lan lợi dụng ngân hàng để phục vụ
lợi ích của mình và của hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát.
Cụ thể, Trương Mỹ Lan đã sử dụng ngân hàng SCB để huy động vốn cho các doanh
nghiệp trong hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát thông qua các thủ đoạn sau:

• Tạo lập các công ty "ma" để vay vốn từ ngân hàng. Các công ty "ma" này thường
được thành lập chỉ để phục vụ mục đích vay vốn, không có hoạt động kinh doanh
thực sự.
• Tạo lập các hồ sơ vay vốn khống. Các hồ sơ vay vốn khống này thường được lập
dựa trên các tài sản không có thật hoặc có giá trị thấp hơn giá trị thực.
• Thông đồng với các công ty thẩm định giá. Các công ty thẩm định giá đã thông
đồng với Trương Mỹ Lan để xác định giá trị tài sản cao hơn giá trị thực, nhằm hợp
thức hóa các khoản vay khống.

Từ đó rút tiền từ ngân hàng một cách bất chính.

Mâu thuẫn lợi ích của các bên liên quan của ngân hàng SCB

Vụ án Vạn Thịnh Phát - SCB đã bộc lộ một số mâu thuẫn lợi ích của các bên liên
quan của ngân hàng, bao gồm:

• Mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đông và ban lãnh đạo ngân hàng: Trương Mỹ Lan,
chủ tịch Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, nắm giữ chi phối cổ phần của ngân hàng.
Điều này tạo ra một mối quan hệ đại diện giữa Trương Mỹ Lan (người ủy thác)
và ban lãnh đạo của ngân hàng (người đại diện). Tuy nhiên, trong trường hợp
này, mối quan hệ đại diện đã bị lợi dụng để phục vụ lợi ích của Trương Mỹ
Lan và của hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát, thay vì lợi ích của các cổ đông của
ngân hàng.
• Mâu thuẫn lợi ích giữa ngân hàng và khách hàng: Các khoản vay khống của
Trương Mỹ Lan và hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát đã gây thiệt hại cho ngân hàng.
Điều này đã làm giảm uy tín của ngân hàng và ảnh hưởng đến khả năng huy
động vốn của ngân hang cũng như sự tín nhiệm khách hàng đặt tiền vào ngân
hàng

• Mâu thuẫn lợi ích giữa ngân hàng và nhà đầu tư: Vụ án Vạn Thịnh Phát - SCB
đã gây thiệt hại cho nhà đầu tư của ngân hàng. Giá cổ phiếu của ngân hàng đã
giảm mạnh sau khi vụ án được công bố.

• Khi ngân hàng SCB cho các doanh nghiệp trong hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát vay
vốn, ngân hàng có thể thu được lãi suất cao hơn. Điều này có lợi cho cổ đông,
nhưng có thể gây ra rủi ro cho khách hàng, nhân viên và chính phủ.Rủi ro cho
khách hàng là nếu các doanh nghiệp này không trả được nợ, ngân hàng có thể bị
mất tiền. Điều này có thể dẫn đến việc ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay để bù
đắp, gây bất lợi cho khách hàng.Rủi ro cho nhân viên là nếu ngân hàng gặp khó
khăn tài chính, ngân hàng có thể phải cắt giảm nhân sự. Điều này có thể ảnh
hưởng đến thu nhập và việc làm của nhân viên.Rủi ro cho chính phủ là nếu ngân
hàng bị mất khả năng thanh toán, chính phủ có thể phải sử dụng tiền thuế để cứu
trợ ngân hàng. Điều này có thể gây tốn kém cho ngân sách nhà nước.

Đề xuất công cụ tài chính để hạn chế các vấn đề này trong tương lai
• Quy định về tỷ lệ an toàn vốn: Các ngân hàng phải duy trì một tỷ lệ an toàn vốn
nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán. Tỷ lệ an toàn vốn cao hơn sẽ giúp giảm
thiểu rủi ro cho khách hàng, nhân viên và chính phủ.
• Quy định về quản trị công ty: Các ngân hàng phải có một hệ thống quản trị công ty
hiệu quả để đảm bảo rằng các quyết định được đưa ra vì lợi ích của tất cả các bên
liên quan.
• Quy định về minh bạch thông tin: Các ngân hàng phải cung cấp thông tin đầy đủ
và minh bạch cho các bên liên quan để họ có thể đưa ra quyết định sáng suốt.

Ngoài ra, các ngân hàng cũng cần tự xây dựng các biện pháp kiểm soát nội bộ để giảm
thiểu rủi ro. Các biện pháp này có thể bao gồm:

• Quy trình phê duyệt tín dụng chặt chẽ: Các khoản vay phải được phê duyệt bởi
một ủy ban độc lập, bao gồm cả các chuyên gia tài chính và pháp lý.
• Quy trình giám sát tín dụng thường xuyên: Các khoản vay phải được giám sát
thường xuyên để đảm bảo rằng các doanh nghiệp vay vốn có khả năng trả nợ.

You might also like