You are on page 1of 14

1.

Các loại chú ý


* Khái niệm: Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm sự vật hiện tượng để
định hướng hoạt động, đảm bảo điều kiện thần kinh- tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến
hành có hiệu quả.
* Phân loại chú ý
a) Chú ý không chủ định
- Là loại chú ý không có mục đích định trước, không cần sự nỗ lực, cố gắng của bản thân.
VD: Đang ngồi nghe giảng trong lớp, bất chợt có tiếng máy bay chúng ta hướng ra cửa sổ
để nhìn.
- Nguyên nhân gây nên chú ý không chủ định:
+ Độ mới lạ của kích thích: kích thích càng mới lạ, mang tính bất ngờ càng dễ gây ra chú ý
không chủ định. VD: trong quảng cáo thưòng sử dụng nguyên nhân này.
+ Cường độ kích thích: cường độ kích thích càng mạnh thì càng dễ gây ra chú ý không chủ
định. VD: sử dụng ánh sáng mạnh, màu sắc rực rỡ, âm thanh vang dội…
+ Tính tương phản của kích thích: những kích thích có sự khác biệt rõ nét về hình dạng, độ
lớn, màu sắc, thời gian tác động đều gây ra chú ý không chủ định. VD: sử dụng trong quảng
cáo, trong tranh biếm hoạ,…
+ Độ hấp dẫn, ưa thích: chú ý còn phụ thuộc vào nhu cầu, cảm xúc, hứng thú của chủ thể.
VD: Em học sinh thích học toán, khi qua hàng sách chỉ chú ý đền sách toán. Vì vậy, chú ý
này còn gọi là chú ý xúc cảm.
- Loại chú ý này có ưu điểm là không gây căng thẳng thần kinh vì nó không đòi hỏi một sự
nỗ lực chú ý nào.Tuy nhiên, nó cũng có nhược điểm là kém bền vững, vì thế trong mọi hoạt
động cần có chú ý có chủ định.
b) Chú ý có chủ định
- Là loại chú ý có mục đích định trước và có sự nỗ lực, cố gắng của bản thân. VD: Học sinh
chú ý lắng nghe giáo viên giảng bài.
- Một số điều kiện cần thiết để duy trì chú ý có chủ định:
+ Về khách quan: Tạo ra hoàn cảnh tốt, yên tĩnh, thuận lợi cho công việc. Loại bỏ hoặc
giảm bớt tối đa những kích thích không liên quan tới nhiệm vụ.
+ Về chủ quan: Phải xác định mục đích rõ ràng, dự kiến được những khó khăn và cố gắng
nỗ lực để vượt qua. Phải tổ chức tốt các hành động để đảm bảo hoạt động có kết quả.
- Nguyên nhân của chú ý có chủ định là do bản thân nhận thức được sự cần thiết phải chú ý.
- Loại chú ý này có liên quan chặt chẽ với hoạt động của hệ thống của hệ thống tín hiệu thứ
2, với ý chí, tình cảm, xu hướng cá nhân.
- Hai loại chú ý nói trên có liên quan chặt chẽ với nhau, bổ sung chuyển hoá lẫn nhau, giúp
con người phản ánh đối tượng có kết quả.
VD: Khi đọc sách, lúc đầu học sinh chỉ chú ý về hình thức bên ngoài, về tranh ảnh ở trong
sách, nhưng đến khi đi vào những nội dung khó hiểu cần phải có sự suy nghĩ thì học sinh
phải nỗ lực, cố gắng mới đọc hết cuốn sách.
c) Chú ý sau chủ định
- Là loại chú ý vốn là chú ý có chủ định, nhưng sau đó do hứng thú với hoạt động mà chủ
thể không cần nỗ lực ý chí vẫn tập trung vào đối tượng hoạt động.
VD: Trong giờ học, mới đầu có thể chú ý có chủ định, nhưng sau đó do sự hấp dẫn của nội
dung, ta không cần sự cố gắng vẫn tập trung chú ý. Như vậy chú ý có chủ định đã chuyển
thành chú ý sau chủ định.
VD: Ta đặt ra yêu cầu là tối nay phải đọc được 50 trang sách, nhưng khi vào đọc do nội
dung trong cuốn sách quá hay đã lôi cuốn ta, khiến ta đọc vượt điều kiện ban đầu lúc nào
không biết.
2. Các PPNC tâm lý con người
a) Phương pháp quan sát:
Quan sát là tri giác có chủ định, nhằm xác định các đặc điểm của đối tượng thông quan
những biểu hiện như hành động, cử chỉ, cách nói năng... Đây là phương pháp mà các nhà
nghiên cứu thông qua việc con người sử dụng các cơ quan cảm giác của mình để nhận biết
sự biểu hiện ra ngoài một cách thường xuyên các đặc điểm tâm lý bên trong của đối tượng
để thu thập thông tin cần thiết phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
VD: Nghiên cứu thái độ học tập của sinh viên: chuẩn bị bài trước khi đến lớp, tích cực tham
gia phát biểu bài,…
 Các hình thức quan sát: Kín - mở, có trọng điểm – không có trọng điểm, toàn diện - bộ
phận, chiến lược - chiến thuật,…
 Ưu và nhược điểm: Dễ tiến hành, thu thập được tư liệu phong phú, cụ thể và khách quan.
Bên cạnh đó, tồn tại những hạn chế như mất nhiều thời gian, tốn nhiều công sức.
 Yêu cầu:
 Xác định rõ mục đích, nội dung, kế hoạch quan sát.
 Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt trước khi quan sát.
 Tiến hành quan sát một cách cẩn thận và có hệ thống.
 Ghi chép và phân tích tài liệu một cách khách quan, trung thực.
b) Phương pháp thực nghiệm:
Thực nghiệm là phương pháp chủ động tác động vào đối tượng trong điều kiện đã được
khống chế để gây ra ở đối tượng những biểu hiện cần nghiên cứu của các hiện tượng tâm lý.
VD: Dùng thực nghiệm để phát hiện các biểu hiện và mực độ của rối loạn tư duy,…
 Có 2 loại thực nghiệm cơ bản: Thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thực
nghiệm
 Thực nghiệm tự nhiên được tiến hành trong các điều kiện hoạt động bình thường của đối
tượng thực nghiệm. Khác với quan sát, trong thực nghiệm tự nhiên, nhà nghiên cứu có thể
chủ động gây ra những biểu hiện và diễn biến tâm lý bằng cách khống chế một số nhân tố
không cần thiết cho việc nghiên cứu, làm nổi bật các nhân tố cần thiết của người thực
nghiệm.
 Thực nghiệm trong phòng thực nghiệm được tiến hành trong điều kiện khống chế một
cách nghiêm ngặt các tác động chi phối, ảnh hưởng từ bên ngoài, chủ động tạo ra những cơ
sở làm nảy sinh nội dung tâm lý cần nghiên cứu.
c) Phương pháp nghiên cứu trắc nghiệm:
Phương pháp trắc nghiêm (Test) là một phép thử đã được chuẩn hóa để đo lường một phẩm
chất tâm lý nào đó ở đối tượng nghiên cứu.
VD: Dùng “Test Raven” để kiểm tra trí tuệ.
 Cấu tạo của “Test” gồm 4 phần: văn bản “test”, hướng dẫn quy trình tiến hành, hướng dẫn
đánh giá, bản chuẩn hóa.
 Ưu và nhược điểm: Phương pháp này có thể tiến hành đơn giản bằng giấy bút, trang vẽ và
thông qua hành động giải bài test có thể đo nhiều đối tượng, tính mục đích trong nghiên cứu
cao, Tuy nhiên, không dễ dàng để soạn thảo một bộ test đảm bảo tính chuẩn hóa.
d) Phương pháp đàm thoại:
Đàm thoại phương pháp đặt ra các câu hỏi với đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập những
thông tin cần thiết dựa vào câu trả lời của họ. Có thể đàm thoại trực tiếp hay gián tiếp tuỳ sự
liên quan của đối tượng với điều ta cần biết, có thể hỏi thẳng hay hỏi vòng.
 Yêu cầu:
 Xác định rõ mục đích, yêu cầu (vấn đề cần tìm hiểu)
 Tìm hiểu thông tin về một số đặc điểm của đối tượng
 Có kế hoạch chủ động "lái hướng" câu chuyện
 Cần linh hoạt, khéo léo, tế nhị khi "lái hướng" câu chuyện, vừa giữ được vẻ logic tự
nhiên, vừa đáp ứng được yêu cầu của người nghiên cứu.
e) Phương pháp điều tra:
Đây là phương pháp sử dụng một hệ thống câu hỏi được trình bày bằng văn bản thông qua
việc trả lời của đối tượng nghiên cứu để thu thập những thông tin cần thiết. VD: Tra khảo
tội phạm,… Câu hỏi đặt ra có thể là câu hỏi đóng hoặc câu hỏi mở.
 Ưu và nhược điểm: Dễ thu nhập thông tin từ một loạt đối tượng trong thời gian ngắn. Tuy
nhiên, các ý kiến thường mang tính chủ quan.
 Yêu cầu:
 Phải điều tra nhiều lần
 Câu hỏi soạn thảo phải rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn
 Các câu hỏi phải đặt ra trong cấu trúc chặt chẽ, chính xác
 Soạn kỹ bản hướng dẫn điều tra viên
f) Phương pháp phân tích sản phẩm của hoạt động:
Là phương pháp dựa vào sản phẩm vật chất và tinh thần của đối tượng để nghiên cứu về các
chức năng tâm lý của đối tượng đó. VD: Dùng phương pháp vẽ tranh
 Yêu cầu:
 Cần phải cẩn trọng trong nghiên cứu, đánh giá.
 Phải đặt trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể để nghiên cứu, đánh giá.
g) Phương pháp nghiên cứu hồ sơ, tài liệu:
Là phương pháp nghiên cứu lịch sử về quá trình hoạt động của cá nhân đối tượng nghiên
cứu, trên cơ sở đó có những đánh giá, nhận định về vấn đề nghiên cứu.
 Yêu cầu:
 Cần phải nhìn nhận đánh giá các vấn đề tâm lý trong tính lịch sử, cụ thể và phát triển.
 Tránh thành kiến, áp đặt chủ quan.
 Kết hợp với phương pháp khác trong nghiên cứu.

Tóm lại, mỗi phương pháp nghiên cứu đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Muốn
nghiên cứu một chức năng tâm lý một cách khoa học, khách quan, chính xác cần phải:
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu thích hợp với vấn đề nghiên cứu.
- Sử dụng phối hợp, đồng bộ các phương pháp nghiên cứu để đem lại kết quả khoa học toàn
diện.
3. Giao tiếp
* Khái niệm: Giao tiếp là mối quan hệ qua lại giữa con người với con người, thể hiện sự tiếp
xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về
cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng, tác động qua lại với nhau.
* Các loại giao tiếp:
a) Theo khoảng cách, có 2 loại:
- Giao tiếp trực tiếp: giao tiếp mặt đối mặt
- Giao tiếp gián tiếp: qua thư từ, có khi qua ngoại cảm,...
b) Theo quy cách, có 2 loại:
- Giao tiếp chính thức: nhằm thực hiện nhiệm vụ chung theo chức trách, quy định, thể chế,...
VD, Tổng bí thư của nước này đón tiếp Tổng bí thư của nước khác; Giáo viên với học sinh.
- Giao tiếp không chính thức: giữa những người hiểu biết rõ về nhau không câu nệ vào thể
thức, nhằm mục đích chính là thông cảm, đồng cảm với nhau. VD, bạn bè đến nhà chơi.
c) Theo phương tiện giao tiếp, có 3 loại:
- Giao tiếp vật chất: Giao tiếp thông qua hành động với vật thể. Đây là kiểu giao tiếp sớm
nhất của loài người. Khi ngôn ngữ chưa phát triển, mọi người thường trao đổi với nhau
thông qua đồ vật. VD, muốn nói điều gì thì chỉ vào vật đó; một ngày đi qua kí hiệu bằng
thắt một nút dây;... Ngày nay, kiểu giao tiếp này được biến đổi dưới hình thức tặng hoa,
tặng quà. Đối với người bị khuyết tật câm, điếc, hình thức giao tiếp này rất quan trọng.
- Giao tiếp bằng tín hiệu phi ngôn ngữ như cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, diện mạo,... Những tín
hiệu phi ngôn ngữ này hỗ trợ rất lớn cho ngôn ngữ, không phải tự nhiên có mà phải qua tập
luyện. Sử dụng nó một cách hiệu quả là một nghệ thuật. Khi tiến hành giao tiếp phi ngôn
ngữ cần chú ý đến tâm lý lứa tuổi, văn hoá từng dân tộc,... VD, Đạo hồi nghiêm cấm việc
bắt tay phụ nữ, không lấy thức ăn bằng tay trái, muốn chỉ vào vật nào hoặc hướng nào phải
dùng ngón tay cái.
- Giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết)
Đây là hình thức giao tiếp đặc trưng của con người bằng cách sử dụng tín hiệu chung là từ,
ngữ, xác lập và vận hành mối quan hệ người - người trong xã hội. Những người có khả năng
ngôn ngữ tốt thường giao tiếp rất có hiệu quả, bởi vì họ có thể chuyển tải được nội dung
giao tiếp đến đối tượng giao tiếp.
Khoảng cách giữa 2 người trong giao tiếp cũng nói lên mức độ thân mật hay xa lạ:
x>= 4m: giao tiếp xã giao
1,2m<x<4m: giao tiếp thân mật
0,45m<x<1,2m: giao tiếp thân tình
0m<x<0,45m: giao tiếp rất thân mật đậm đà
* Chức năng:
- Chức năng thông tin: Thông qua giao tiếp, con người trao đổi, truyền đạt tri thức, kinh
nghiệm với nhau. Chủ thể giao tiếp vừa là nơi phát thông tin vừa là nơi nhận và xử lý thông
tin. Đây là một con đường quan trọng để phát triển nhân cách. VD, qua giao tiếp sư phạm
giữa thầy và trò, trò tiếp thu những tri thức mới, còn thầy thì không ngừng được củng cố và
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
- Chức năng cảm xúc: Giao tiếp không chỉ để bày tỏ cảm xúc mà còn tạo ra những ấn tượng,
những cảm xúc mới giữa các chủ thể. Vì thế, giao tiếp là một trong những con đường hình
thành tình cảm của con người.
- Chức năng nhận thức lẫn nhau và đánh giá lẫn nhau: Khi giao tiếp, mỗi chủ thể tự bộc lộ
quan điểm, tư tưởng, thái độ… của mình, từ đó các chủ thể có thể nhận thức được về nhau
làm cơ sở đánh giá lẫn nhau. Quan trọng hơn, trên cơ sở so sánh với người khác cùng với ý
kiến đánh giá của người khác, có thể tự đánh giá được bản thân mình.
- Chức năng điều chỉnh hành vi: Từ việc nhận thức lẫn nhau, đánh giá lẫn nhau và tự đánh
giá được bản thân, mỗi chủ thể có khả năng tự điều chỉnh hành vi của mình, có thể tác động
đến hành động của chủ thể khác.
- Chức năng phối hợp hoạt động: Nhờ có quá trình giao tiếp, con người có thể phối hợp hoạt
động để cùng nhau giải quyết nhiệm vụ nào đó. VD, phối hợp với nhau trong việc cùng làm
ra một sản phẩm.
* Một số kết luận sư phạm:
- Nhân cách con người được hình thành và phát triển thông qua giao tiếp, vì vậy chúng ta
cần tổ chức nhiều hoạt động giao lưu cho học sinh.
- Để giao tiếp tốt cần phải rèn luyện trên cả 3 phương diện:
+ Rèn luyện ngôn ngữ (vì ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản nhất, quan trọng nhất)
trên 3 bình diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.
+ Rèn luyện các kỹ năng giao tiếp (định vị, định hướng, điều khiển).
+ Tăng cường tham gia vào các hoạt động giao lưu.
4. Các quy luật của cảm giác
1.4.1. Quy luật ngưỡng cảm giác và tính nhạy cảm của cảm giác
- Ngưỡng là đại lượng xác định một dạng năng lượng.
- Ngưỡng cảm giác là giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác. Song không phải
mọi kích thích vào giác quan đều gây ra cảm giác. Kích thích quá yếu không đủ gây cảm
giác (VD, bụi bay vào da), kích thích quá mạnh cũng dẫn đến mất cảm giác (VD, máy bay
có tần số cao, chúng ta không nghe thấy được).
- Cảm giác có 2 ngưỡng:
+ Ngưỡng cảm giác tuyệt đối phía dưới là cường độ kích thích tối thiểu đủ để gây được cảm
giác.
+ Ngưỡng cảm giác tuyệt đối phía trên là cường độ kích thích tối đa vẫn còn gây được cảm
giác.
VD: Ngưỡng phía dưới của cảm giác nhìn ở người là những sóng ánh sáng có bước sóng là
390m, ngưỡng phía trên của cảm giác nhìn là 780m. Ngưỡng cảm giác nghe là từ 16HZ-
2000HZ.
Lưu ý: Vùng cảm giác được là phạm vi giữa 2 ngưỡng cảm giác nêu trên, trong đó có vùng
cảm giác tốt nhất. VD, vùng phản ánh tốt nhất của cảm giác về ánh sáng là những sóng ánh
sáng có bước sóng 565m, âm thanh là 1000hec.
- Ngưỡng sai biệt là mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hay tính chất của hai kích
thích đủ để phân biệt sự khác nhau giữa chúng. Ngưỡng sai biệt của mỗi cảm giác là một
hằng số.
Các thí nghiệm cho thấy: âm thanh, cường độ tăng lên 1/10 so với cường độ tối thiểu ban
đầu thì mới có sự phân biệt trong cảm giác nghe. Với sóng ánh sáng thì tỉ lệ đó là 1/100.
Với trọng lượng là 1/30 ta mới phân biệt được trong cảm giác.
Tóm lại, ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt của cảm giác khác nhau ở mỗi loại cảm giác
và ở mỗi người. Ngưỡng cảm giác có thể thay đổi tuỳ theo lứa tuổi, trạng thái sức khỏe,
trạng thái tâm sinh lý, tính chất nghề nghiệp và do sự rèn luyện của mỗi người.
- Độ nhạy cảm của cảm giác là khả năng cảm nhận được kích thích tác động vào các giác
quan đủ gây ra cảm giác.
VD: Hai người A và B cùng đứng một chỗ nghe tiếng tích tắc của đồng hồ. Sau đó ta đưa
đồng hồ ra xa dần, đến một vị trí nào đó người A không còn nghe thấy nữa nhưng B vẫn còn
nghe được. Vậy người B có độ nhạy cảm hơn người A.
- Độ nhạy cảm sai biệt là khả năng cảm giác cho thấy sự khác nhau giữa hai kích thích cùng
loại. VD, một vật nặng 1kg phải thêm vào ít nhất 35gam thì mới gây cảm giác.
- Ngưỡng cảm giác phía dưới và ngưỡng sai biệt tỉ lệ nghịch với độ nhạy cảm của cảm giác
và độ nhạy cảm sai biệt.
VD: Hai người A và B đứng cách nhau một vật 100m, đối với A đi lại vật đó 10m thì nghe
được âm thanh của vật, còn B đi lại 15m mới nghe được. Về mặt số học thì 15 lớn hơn 10
nhưng về độ nhạy cảm thì 10 lớn hơn 15. (nhạy cảm của cảm giác)
VD: Hai người cùng cầm một vật có trọng lượng 1kg, đối với A chỉ cần thêm 30gam là đã
biết được nặng hơn trước nhưng còn B phải thêm 40gam. Vậy A nhạy cảm hơn B. (nhạy
cảm sai biệt)
* Vận dụng:
Trong hoạt động thực tiễn của con người, ngưỡng cảm giác tuyệt đối và ngưỡng cảm giác
sai biệt có ý nghĩa rất lớn. Đặc biệt đối với hoạt động nghề nghiệp nhờ các ngưỡng đó mà
con người có thể tiếp thu được những kỹ thuật phức tạp, tinh vi. Thông qua hoạt động nghề
nghiệp, hoạt động thực tiễn mà tính nhạy cảm tuyệt đối và tính nhạy cảm sai biệt của cảm
giác con người tăng lên vô hạn. VD, người thợ nhuộm có thể phân biệt được 30 sắc đỏ, 60
sắc đen về màu sắc; một người thợ máy chỉ nghe tiếng máy anh ta biết ngay bị hỏng chỗ
nào; một dàn nhạc giao hưởng với hàng trăm nhạc cụ khác nhau, mà nhạc trưởng cũng phát
hiện được chỗ sai của một nhạc cụ.
Trong công tác dạy học người thầy giáo cần phải hiểu rõ học sinh về mọi mặt: sức khoẻ, đặc
điểm tâm lý, đặc điểm về sự phát triển của các giác quan để sắp xếp chỗ ngồi cho thích hợp.
Giọng nói của giáo viên phải đủ to, rõ ràng, diễn cảm giúp học sinh tiếp thu bài giảng dễ
dàng, thoải mái. Tránh giọng nói quá to, gay gắt, hoặc quá nhỏ, the thé làm cho học sinh
ngồi học chóng mỏi mệt. Chữ viết trên bảng phải rõ ràng để học sinh ngồi bất cứ chỗ nào ở
trong lớp cũng có thể nhìn thấy rõ. Phòng học phải đủ ánh sáng, thoáng mát, yên tĩnh. Tráng
trang trí rườm rà làm phân tán chú ý của học sinh. Dạy học phải đảm bảo đúng giờ giấc quy
định, tránh tiết học kéo dài làm ức chế sự tiếp thu bài giảng của học sinh trong quá trình dạy
học. Dụng cụ trực quan phải bảo đảm yêu cầu thẩm mỹ, khoa học,…
1.4.2. Quy luật thích ứng của cảm giác
- Thích ứng đó là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với cường độ
kích thích. VD: Khi ta đang ở chỗ sáng (cường độ kích thích của ánh sáng mạnh) mà vào
chỗ tối (cường độ kích thích của ánh sáng yếu) thì lúc đầu không nhìn thấy được gì cả, sau
một thời gian ta mới dần dần thấy được mọi thứ xung quanh (thích ứng); khi mới vào bệnh
viện ta thấy rất khó chịu vì “mùi bệnh viện” như thuốc, cồn,… nhưng ngồi lâu thì thấy bình
thường.
- Quy luật thích ứng có ở mọi loại cảm giác, nhưng mức độ thích ứng không giống nhau. Có
loại cảm giác thích ứng nhanh như: cảm giác nhìn, cảm giác ngửi, nhưng cũng có loại cảm
giác chậm thích ứng hơn như cảm giác nghe, cảm giác đau.
- Khả năng thích ứng của cảm giác có thể thay đổi và phát triển do rèn luyện và tính chất
nghề nghiệp... VD, người công nhân luyện kim có thể chịu đựng được nhiệt độ tới 50- 60oc
trong hàng tiếng đồng hồ.
* Trong dạy học và giáo dục cần giúp học sinh tích cực rèn luyện về mọi mặt. VD: HS nào
nhút nhát thì phải cho HS đó tập dần cách trình bày vấn đề trước đám đông để thích ứng
dần. Còn trong nghệ thuật không nên dung một loại màu hay một gam màu mà cần thích
ứng với các loại màu, gam màu khác nhau. Song điều đáng lưu ý là tránh làm chai sạn các
biện pháp giáo dục, làm cho học sinh khó tiếp thu.
1.4.3. Quy luật về sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các cảm giác
- Sự tác động giữa các cảm giác là sự thay đổi tính nhạy cảm của một cảm giác này dưới
ảnh hưởng của một cảm giác khác. Nó diễn ra theo quy luật sau: Sự kích thích yếu lên một
cơ quan phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia và ngược lại.
VD: "đói bụng mờ cả mắt","nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm".
- Hiện tượng tương phản trong cảm giác là sự thay đổi của một kích thích cùng loại xảy ra
trước đó hay đồng thời.
- Có 2 loại tương phản: tương phản nối tiếp và tương phản đồng thời. VD: Sau một kích
thích lạnh thì một kích thích ấm ta cảm thấy có vẻ nòng hơn (tương phản nối tiếp). Một
người có làn da "bánh mật" mặt bộ đồ màu tối (đen hoặc xám...) ta thấy họ càng đen hơn
(tương phản đồng thời).
* Vận dụng: Trong dạy học người ta vận dụng sự tương phản của cảm giác để so sánh hoặc
làm nổi bật một sự vật nào đó trước học sinh. Khi sử dụng đồ dùng dạy học cần làm nổi bật
rõ các đường nét, màu sắc của đối tượng, giúp học sinh nhanh chóng nhận biết được đối
tượng trong nhiều sự vật khác nhau. Trong sản xuất cần chế tạo những công cụ lao động
màu sắc thích hợp sẽ gây hứng thú cho người làm việc.
5. Các quy luật của tri giác
2.2.1. Quy luật về tính đối tượng của tri giác
- Do sự tác động của SVHT nhất định của thế giới xung quanh vào giác quan ta nghĩa là:
Hình ảnh trực quan mà tri giác mang lại bao giờ cũng thuộc về sự vật, hiện tượng nhất định
của thế giới bên ngoài. Thực chất của quy luật này muốn nói lên khả năng tự điều chỉnh các
giác quan sao cho hình ảnh trong đầu khớp với khách quan bên ngoài.
- Tính đối tượng của tri giác có vai trò rất quan trọng, nó là cơ sở định hướng cho mọi hành
vi và hoạt động của con người. Tính đối tượng được hình thành trong quá trình phát triển
của cá nhân và được gắn liền với hành động thực tiễn của họ.
Trong dạy học và giáo dục việc xác định đúng đối tượng là rất quan trọng, bởi vì từ đó ta
mới có thể xác định được nhiệm vụ của tư duy và hành động, làm cho hoạt động đạt hiệu
quả.
- Vận dụng: được vận dụng trong dạy học trực quan,...
2.2.2. Quy luật về tính lựa chọn của tri giác
- Tri giác chính là quá trình tách đối tượng ra khỏi bối cảnh để phản ánh đầy đủ và chính
xác hơn, VD: khi tri giác giáo viên trên lớp, thì giáo viên trở thành đối tượng tri giác của
chúng ta, tất cả những cái còn lại xung quanh đều trở thành bối cảnh của sự tri giác.
- Tính lựa chọn của tri giác phụ thuộc vào tính chủ quan như: hứng thú, nhu cầu, động cơ ...
của cá nhân; vào tính khách quan như: đặc điểm của ngôn ngữ, hoàn cảnh tri giác.
- Tính tương phản càng cao thì sự lựa chọn càng nhanh. VD: Sơn 3 cái mẹt 3 màu khác
nhau: trắng, xanh và đen, sau đó rải hạt mè đen lên các mẹt và thả bồ câu vào, bồ câu sẽ bay
tới mẹt trắng nhiều nhất, một số tới mẹt xanh, còn mẹt đen thì không có con nào.
- Sự lựa chọn của tri giác không có tính chất cố định, vai trò của đối tượng và bối cảnh có
thể giao hoán cho nhau (cần chú ý trong việc sử dụng đồ dùng dạy học).
- Trong dạy học lời nói của giáo viên có tác dụng hướng dẫn sự lựa chọn tri giác của học
sinh. Trong giáo dục cần phải hình thành cho học sinh khả năng biết lựa chọn cái đúng, cái
tốt để học tập và rèn luyện.
- Ứng dụng:
+ Điểm cần nhấn mạnh thì phải làm nổi bật trên nền của nó. VD: phấn trắng viết bảng đen;
dùng bút màu nổi để gạch dưới những từ quan trọng.
+ Trái lại, khi cần ngụy trang một vật thì ta hoà lẫn một số bộ phận của nó vào bối cảnh để
phá vỡ tính trọn vẹn của nó. VD: bộ đội cài lá cây để ngụy trang; hoặc áo quần của lính
trinh sát có màu lốm đốm pha lẫn sáng tối.
2.2.3. Quy luật về tính ý nghĩa của tri giác
- Những hình ảnh của tri giác luôn có một ý nghĩa nhất định. Vì thế, khi ta tri giác một sự
vật hiện tượng, bằng kinh nghiệm và vốn hiểu biết của mình gọi tên sự vật hiện tượng đó và
xếp nó vào một nhóm, một loại nhất định.
- Ngay cả khi tri giác một sự vật hiện tượng không quen biết ta vẫn cố gắng ghi nhận ở
trong đó một cái gì đó giống với đối tượng mà ta đã biết để xếp nó vào một loại sự vật hiện
tượng đã biết. VD: Tri giác cây hoa ta luôn xếp nó vào loại hoa đơn hay hoa kép.
- Ứng dụng: Trong quá trình tổ chức hoạt động học tập cho học sinh, giáo viên cần phải tính
đến quy luật này. Việc gọi tên đầy đủ, chính xác các sự vật hiện tượng mới mẻ khi tổ chức
cho học sinh quan sát là rất cần thiết. Đồng thời ứng dụng quy luật này trong hệ thống hoá
tri thức.
2.2.4. Quy luật về tính ổn định của tri giác
- Tính ổn định của tri giác là khả năng phản ánh sự vật hiện tượng không thay đổi khi điều
kiện tri giác thay đổi. VD: Trước mặt ta là một em bé,xa hơn, phía sau nó là một chàng
thanh niên. Trên võng mạc, mặc dù hình ảnh đứa bé lớn hơn hình ảnh chàng thanh niên,
nhưng ta vẫn cảm thấy chàng thanh niên lớn hơn đứa trẻ. Tương tự, dưới ánh đèn màu xanh
nhưng ta vẫn tri giác màu giấy vở là màu trắng.
- Tính ổn định của tri giác được hình thành trong quá trình hoạt động của cá nhân với thế
giới đồ vật và do kinh nghiệm mà cá nhân thu được bằng hoạt động thực tiễn.
- Tri giác không đúng dẫn đến tình trạng "nhìn gà hoá cuốc".
Tính ổn định của tri giác có ý nghĩa quan trọng trong đời sống và hoạt động của con người,
nó giúp con người định hướng được thế giới xung quanh.
- Ứng dụng: Trong dạy học cần phải truyền thụ cho học sinh những tri thức cơ bản, chính
xác và có hệ thống. Đây là cơ sở để học sinh tiếp thu những tri thức, kỹ năng và kỹ xảo mới.
2.2.5. Quy luật tổng giác
- Sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung đời sống tâm lý con người, vào đặc điểm nhân cách
của họ được gọi là hiện tượng tổng giác. Nghĩa là ngoài những tính chất đặc điểm của vật
kích thích tri giác của con người còn phụ thuộc vào bản thân chủ thể tri giác như: nhu cầu,
hứng thú, tình cảm, mục đích, động cơ,... VD: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"-
Nguyễn Du; "Yêu nhau yêu cả đường đi lối về", "ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng".
- Ứng dụng: Trong dạy học và giáo dục cần phải tính đến kinh nghiệm và hiểu biết của học
sinh, xu hướng, hứng thú và tâm thế của các em khi tri giác, đồng thời cung cấp tri thức,
kinh nghiệm, giáo dục niềm tin, nhu cầu,... cho học sinh để làm cho sự tri giác hiện thực của
các em tinh tế hơn, súc tích hơn.
2.2.6. Ảo giác
- Là tri giác không đúng, bị sai lệch với những điều kiện thực tế xác định. VD: Các vòng
tròn như nhau nhưng nằm giữa các vòng tròn to hơn thì tri giác dường như bé hơn.
- Ứng dụng: Người ta lợi dụng ảo giác vào trong kiến trúc, hội hoạ, trang trí, trang phục,...
6. Các quy luật của tình cảm
1.4.1. Quy luật “thích ứng”
- Một tình cảm nào đó cứ lặp đi lặp lại nhiều lần một cách đơn điệu thì đến một lúc nào đó
có hiện tượng thích ứng, mạng tính chất “chai sạn” của tình cảm. Dân gian vẫn thường nói
“gần thường xa thương” là vậy.
- Vận dụng:
+ Rèn luyện cho học sinh thích ứng với điều kiện và hoạt động mới.
+ Trong dạy học, giáo dục để tránh hiện tượng “chai sạn”, giáo viên cần:
+ Thường xuyên thay đổi phương pháp dạy học, giáo dục.
+ Sử dụng phượng tiện trực quan.
+ Nội dung bài giảng phải được chế biến hấp dẫn và mới lạ.
+ Ngôn ngữ phong phú, có ngữ điệu, “giáo viên như một diễn viên” (Makarencô)
Ví dụ: Trong dạy học, không nên phê bình mãi một khuyết điểm, nó sẽ làm cho học sinh
thêm gan lì.
1.4.2. Quy luật “cảm ứng” (hay tương phản)
Trong quá trình hình thành hoặc biểu hiện tình cảm, sự xuất hiện hay suy yếu đi của một
tình cảm này có thể làm tăng hoặc giảm một tình cảm khác xảy ra đồng thời hoặc nối tiếp
nó. Đó là hiện tượng “cảm ứng” trong tình cảm. Ví dụ, Trong văn học người ta xây dựng
nhân vật phản diện càng độc ác, tàn bạo bao nhiêu thì độc giả càng có cảm tình với nhân vật
chính diện. Hoặc khi chấm bài, sau một loạt bài kém, gặp một bài khá, giáo viên thấy hài
lòng hơn nhiều so với trường hợp bài khá đó nằm trong một loạt bài khá ta đã gặp trước đó.
1.4.3. Quy luật “pha trộn”
- Trong cuộc sống tâm lý của mỗi cá nhân, nhiều khi 2 tình cảm đối cực nhau xảy ra cùng
một lúc, nhưng không loại trừ nhau, mà “pha trộn” vào nhau. Ví dụ: “giận mà thương”,
“thương mà giận”; sự “ghen tuông” trong tình yêu; “thương cho roi cho vọt”... cũng đều do
quy luật này tạo nên.
- Vận dụng: Từ việc thấy rõ tính chất phức tạp, nhiều khi mâu thuẫn trong tình cảm con
người dễ thông cảm, chia sẻ, hiểu nhau hơn và điều chỉnh hành vi của nhau.
1.4.4. Quy luật “di chuyển”
- Tình cảm của con người có thể “di chuyển” từ đối tượng này sang đối tượng khác: “giận
cá chém thớt”, “vơ đũa cả nắm”; hay “yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi
họ hàng” (ca dao).
- Vận dụng:
+ Cần kiểm soát thái độ, cảm xúc của mình, tránh tình trạng “vơ đũa cả nắm”, đặc
biệt với nghề giáo viên cần phải “vệ sinh” tâm lý trước khi đến lớp.
+ Tránh thiên vị trong đánh giá “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, lấy tình cảm cá nhân để
giải quyết việc tập thể.
1.4.5. Quy luật “lây lan”
- Tình cảm của con người có thể truyền (lây) từ người này sang người khác. Hiện tượng
“vui lây”, “buồn lây”, “đồng cảm”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” là những biểu hiện của
quy luật “lây lan” tình cảm.
Lơbon: “Lây lan là một nạn truyền nhiễm, nó phát triển theo nguyên tắc cộng hưởng, nó tỉ
lệ thuận với số đông người, càng đông người bao nhiêu càng lây lan bấy nhiêu”.
- Vận dụng:
+ Giáo dục trong tập thể và thông qua tập thể.
+ Trong tập thể cần xây dựng những tình cảm tốt đẹp, lành mạnh, xây dựng tập thể
học sinh tương thân tương ái “niềm vui nhân đôi, nỗi buồn sẻ nữa”, có biện pháp ngăn chặn
những dư luận, tin đồn thất thiệt gây hoảng loạn.
Tuy nhiên, việc “lây lan” tình cảm từ chủ thể này đến chủ thể khác không phải là con đường
chủ yếu để hình thành tình cảm.
1.4.6. Quy luật về sự hình thành tình cảm
- Xúc cảm là cơ sở của tình cảm. Tình cảm được hình thành do quá trình tổng hợp hoá, động
hình hoá, khái quát hoá những xúc cảm đồng loại (cùng một phạm trù, một phạm vi đối
tượng). Ví dụ, tình cảm của con cái đối với cha mẹ là xúc cảm (dương tính) thường xuyên
xuất hiện do liên tục được cha mẹ thoả mãn nhu cầu, dần dần được tổng hợp hoá, động hình
hoá, khái quát hoá mà thành.
- Vận dụng:
+ Muốn hình thành tình cảm cho học sinh phải đi từ xúc cảm đồng loại.
+ Người thực việc thực là kích thích dễ gây rung động nhất.

You might also like