Mặc dù thất bại của thị trưởng và công bằng xã hội là những lý do tốt để chính phủ can thiệp vào nền kinh tế, nhưng điều đó không có nghĩa là sự can thiệp của chính phủ luôn có hiệu quả. Chính phủ không phải là liều thuốc vạn năng cho tất cả các khó khăn của thị trường, bởi lẽ bản thân chính phủ cũng có những hạn chế của riêng mình. a. Hạn chế do thiếu thông tin Một chính sách can thiệp muốn thực sự hữu hiệu thì cần có đầy đủ thông tin về thị trường. Tuy nhiên, chính phủ cũng đứng trước tình trạng thông tin không đầy đủ, khiến cho nhiều khi sự can thiệp của chính phủ không chính xác hoặc thiểu tính thực tiễn. Ví dụ: khi chính phủ quyết định trợ cấp cho người nghèo, nhưng do không có đầy đủ thông tin về tình trạng nghèo đói ở từng địa phương hoặc những nhu cầu bức thiết của họ nên kết quả có thể trợ cấp không đúng đối tượng, vừa làm lãng phí ngân sách quốc gia vừa có thể làm trầm trọng hơn sự phân hóa thu nhập trong xã hội. b. Hạn chế do thiếu khả năng kiểm soát phản ứng của cá nhân Chính phủ nhiều khi không thể lường hết được cá nhân sẽ phản ứng như thế nào trước những thay đổi về chính sách do chính phủ để ra. Một khi sự phản ứng của tư nhân đi theo chiều hướng mà người hoạch định chính sách chưa dự kiến được thì chính sách có thể không đạt được hiệu quả mong muốn, hoặc trở thành thất bại. Ví dụ: việc cấm nhập khẩu thuốc lá ngoại của chính phủ là một chính sách nhằm hạn chế việc tiêu dùng một thử hàng hoá phi khuyến dụng, bảo hộ sản xuất thuốc lá trong nước và tiết kiệm ngoại tệ. Tuy nhiên, với một quốc gia có hàng nghìn cây số bờ biển và biên giới đất liền như Việt Nam, việc kiểm soát buôn lậu thuốc lá ngoại dường như là một điều không khả thi. Kết quả, thuốc lá ngoại vẫn tràn ngập thị trường, còn chính phủ thì mất đi một khoản thuế nhập khẩu đáng lẽ thu được nếu cho phép nhập khẩu thuốc lá chính thức, nhưng đánh thuế. c. Hạn chế do thiếu khả năng kiểm soát bộ máy hành chính Việc ra quyết định trong KVC thường phải trải qua một quá trình phức tạp, qua nhiều khâu nấc trung gian. Ví dụ, một đạo luật do Quốc hội thông qua, muốn thực sự được thực thi trong thực tiễn cần phải qua các bộ hoặc các cơ quan chuyên trách để cụ thể hóa thành các văn bản hướng dẫn thi hành luật. Ngoài ra, cần có hệ thống các cơ quan chấp pháp của nhà nước để đảm bảo các văn bản đó có hiệu lực. Nhiều khi, do sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các cơ quan này hoặc do sự không nhất quán về phương hướng hành động của các cơ quan nhà nước đã khiến các chính sách của chính phủ không có sức sống trong thực tiễn. Câu nói nhiều chính sách thất bại của chính phủ được lát bằng những ý tưởng tốt đẹp là một bằng chứng về thất bại này của chính phủ. d. Hạn chế do quá trình ra quyết định công cộng Việc ra quyết định công cộng là một quá trình phức tạp, phải tuân theo những qui tắc bỏ phiếu nhất định mà không phải lúc nào cũng đem lại một kết quả có hiệu quả (Lựa chọn công cộng là một quá trình mà trong đó ý muốn của các cá nhân được kết hợp lại trong một quyết định tập thể, khác với lựa chọn cá nhân). Hành động của chính phủ sẽ ảnh hưởng đến nhiều người, nhưng lại được quyết định bởi một số những đại diện được bầu ra. Những người ra quyết định chịu sự chi phối của các cử tri, mà không phải lúc nào những cử tri đó cũng có lợi ích thống nhất với nhau. Điều này đặt người ra quyết định trước tình thể khó khăn khi phải điều hoà những lợi ích này. Đó cũng là lý do vì sao quá trình ra các quyết định công cộng thường mất thời gian, khó khăn, thậm chí bế tắc. 1.1.4. Định hướng cải cách nhằm nâng cao năng lực can thiệp của Chính phủ 1. Thực hiện tốt các vấn đề cơ bản Năm nhiệm vụ cơ bản nằm ở trung tâm sứ mệnh của mọi chính phủ mà nếu thiếu chúng thì không có sự phát triển bền vững, đó là (1) thiết lập một khuôn khổ pháp luật; (2) duy trì một môi trường chính sách không bị méo mó, kể cả liên quan đến ổn định kinh tế vĩ mô; (3) đầu tư vào các dịch vụ xã hội và KCHT (kết cấu hạ tầng) cơ bản; (4) bảo vệ những nhóm người dễ bị tổn thương, và (5) bảo vệ môi trường. 2. Thống nhất quan điểm chính phủ không nhất thiết là người cung ứng độc nhất. Thực tế nhiều quốc gia đã cho thấy, việc chính phủ cung cấp công công độc quyền về KCHT, các dịch vụ xã hội và hàng hóa, dịch vụ khác chưa chắc đã là tối ưu. Đồng thời, những thay đổi về công nghệ và tổ chức đã tạo ra cơ hội mới để các nhà cung ứng tư nhân cạnh tranh trong những lĩnh vực mà trước đây chỉ giới hạn ở KVC. Để tận dụng các cơ hội này và phân bố tốt hơn nguồn lực có hạn của KVC, các chính phủ đang bắt đầu thu hút KVTN vào việc cung cấp tài chính cho các dự án KCHT và dịch vụ công và tách các công việc sản xuất kinh doanh ra khỏi mục tiêu phục vụ lợi ích xã hội trong các hoạt động của mình. 3. Nhận thức rõ những giới hạn của chính phủ. Chìa khóa để thực hiện CÁC chính sách như dự kiến và nhất quán là sự phù hợp giữa năng lực thể chế và các hoạt động của chính phủ. Ở các nước phát triển, năng lực quản lý hành chính mạnh và cơ chế đối trọng, kiểm soát được thể chế hóa đã hạn chế được nhiều hoạt động mang tính chuyên quyền và tùy tiện của chính phủ. Thậm chí, chúng còn tạo cho các tổ chức của chính phủ có khả năng linh hoạt trong việc theo đuổi các nhiệm vụ của mình. Ngược lại, các chính phủ có thể chế yếu kém hơn có thể rất cần cách tiếp cận ít mềm dẻo và kiểm soát chặt hơn. Điều này có thể thực hiện theo hai cách: (1) ban hành các quy định, luật lệ để tự hạn chế, xác định chính xác nội dung chính sách và ràng buộc chúng vào những cơ chế mà nếu muốn đảo ngược chúng sẽ rất tốn kém; (2) hợp tác với KVTN và người dân.