You are on page 1of 53

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

LÊ DIỄM QUỲNH

NGHIÊN CỨU HỌC THUYẾT


DẤU HIỆU TRONG Y DƯỢC HỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH DƯỢC HỌC

Hà Nội - 2022
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

Người thực hiện: LÊ DIỄM QUỲNH


Mã sinh viên: 17100139

NGHIÊN CỨU HỌC THUYẾT


DẤU HIỆU TRONG Y DƯỢC HỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH DƯỢC HỌC

Khóa : QH.2017.Y
Người hướng dẫn : GS.TS NGUYỄN THANH HẢI

Hà Nội - 2022
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin trân trọng biết ơn thầy - GS.TS Nguyễn Thanh
Hải đã hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu cho khoá luận
tốt nghiệp. Thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và thực
hiện khoá luận. Đồng thời, thầy đã cho tôi những lời nhận xét quý báu không
chỉ trong quá trình thực hiện khóa luận này mà còn là hành trang tiếp bước
trong quá trình học tập và lập nghiệp sau này. Dưới sự hướng dẫn chi tiết
trong quá trình nghiên cứu chủ đề, Thầy đã giúp tôi học tập và phát triển được
nhiều kĩ năng cũng như kiến thức khoa học về ngành dược nói riêng và
phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung. Điều đó giúp tôi cải thiện mạnh
mẽ khả năng nghiên cứu khoa học và thực nghiệm trong lĩnh vực Y Dược.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các Thầy, Cô trường Đại học Y
Dược. Đặc biệt là các Thầy, Cô trong ngành Dược học đã tận tình chỉ dạy và
trang bị cho tôi những kiến thức cần thiết trong suốt thời gian ngồi trên ghế
giảng đường, làm nền tảng cho tôi hoàn thành được bài khóa luận này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và những người
đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và làm khóa luận.
Do giới hạn kiến thức và khả năng lý luận của bản thân còn nhiều thiếu
sót và hạn chế, kính mong sự chỉ dẫn và đóng góp của các Thầy, Cô để bài
khóa luận tốt nghiệp của tôi được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 6, năm 2022


Sinh viên

Lê Diễm Quỳnh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Tiếng Việt Tiếng Anh

DOS Học thuyết Dấu hiệu Doctrine of Signatures


DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1: Kết quả tìm kiếm từ đồng nghĩa của từ khóa “Medicinal plants” 28

Hình 2.2: Kết quả tìm kiếm bài báo với từ khóa “Medicinal plants” 29

Hình 2.3: Sơ đồ quy trình tìm kiếm và lựa chọn bài báo 31
DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Một số ví dụ minh họa về giá trị y học tiềm năng của DOS 7

Bảng 2.1: Các từ khoá dựa theo hệ thống MeSH 26


MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN ............................................................................ 3
1.1. KHÁI NIỆM ........................................................................................... 3
1.2. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN .................................................9
1.2.1. Sự ra đời của DOS ............................................................................11
1.2.2. Sự phát triển theo dòng lịch sử ........................................................ 12
1.3. DOS TRONG VĂN HỌC ................................. Error! Bookmark not defined.
1.4. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỌC THUYẾT ..................................................... 21
1.4.1. Màu sắc .............................................................................................22
1.4.2. Hình dạng ......................................................................................... 23
1.4.3. Kết cấu ..............................................................................................23
1.4.4. Hương thơm ..................................................................................... 24
1.4.5. Địa điểm ........................................................................................... 24
1.5. VAI TRÒ ...............................................................................................25
CHƯƠNG II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........27
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU .............................................................27
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu .......................................................................27
2.1.2. Thời gian nghiên cứu ....................................................................... 27
2.1.3. Nguồn dữ liệu ...................................................................................27
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 27
2.2.1. Chiến lược tìm kiếm .........................................................................27
2.2.2. Quá trình lựa chọn nghiên cứu .........................................................29
2.3. QUÁ TRÌNH ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG VÀ TỔNG HỢP DỮ
LIỆU TỪ CÁC BÀI BÁO ...........................................................................31
2.3.1. Đánh giá chất lượng ......................................................................... 32
2.3.2. Tổng hợp dữ liệu .............................................................................. 32
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ ............................................................................. 33
3.1. ỨNG DỤNG TRONG ĐÔNG Y .........................................................33
3.2. ỨNG DỤNG TRONG Y DƯỢC HIỆN ĐẠI ..................................... 35
CHƯƠNG IV. BÀN LUẬN ..................................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ........................................................................... 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 44
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự hình thành của loài người mang theo sự xuất hiện của bệnh tật và
đòi hỏi loài người phải đối phó với nhiều loại bệnh tật khác nhau. Từ đó, con
người cũng khám phá ra được nhiều phương pháp chữa bệnh có thể kể đến
như: chữa bệnh thông qua tâm lý, thông qua thuốc ..vv. Trong đó, cách thức
điều trị phổ biến và hiệu quả nhất là tác động bằng thuốc. Do đó, ngay từ khi
bệnh tật xuất hiện, việc tìm kiếm và phát triển các loại thuốc đã không ngừng
được tiến hành. Quá trình này là sự phát triển đồng thời với sự phát triển của
con người.
Trước thế kỷ XX, việc tìm kiếm thuốc chủ yếu bằng cách thử và sai,
điều này đồng nghĩa với việc hiệu quả và tính khoa học thấp. Đối tượng được
tìm kiếm chủ yếu là thực vật: quả, rễ, lá và vỏ cây. Với mục đích là để giảm
bớt các triệu chứng của bệnh. Trong suốt quá trình dài tìm hiểu và nghiên cứu
về thuốc, có nhiều Học thuyết được đề xuất, trong đó nổi tiếng là Học thuyết
Dấu hiệu. Học thuyết này chiếm một vị trí quan trọng trong tư duy khoa học
và y học từ thế kỷ XVI đến ngày nay. Đây là Học thuyết được ứng dụng rất
nhiều trong quá trình nghiên cứu và phát triển thuốc từ trước đến nay. Trong
thực hành trị liệu, chúng chỉ ra những đặc tính của thực vật hoặc động bằng
sự tương đồng với các cơ quan cụ thể mà chúng được cho là có thể chữa bệnh
cho con người. Từ khía cạnh nghiên cứu lý thuyết đến ứng dụng thực tế của
học thuyết, trong khoá luận nghiên cứu, chúng tôi mô tả tổng quan các khung
lý thuyết và đặc điểm quan trọng của Học thuyết cũng như các ứng dụng y
khoa phổ biến trong thực tế. Thông qua nghiên cứu này giúp chúng ta một lần
nữa đánh giá chính xác về các giá trị thực tế của học thuyết để từ đó xây dựng
các phương pháp điều trị hữu hiệu trong lĩch vực y dược hiện đại ngày này.
Với tất cả những giá trị của học thuyết, đó là lý do và động lực để tôi quyết
định lựa chọn chủ để “ NGHIÊN CỨU HỌC THUYẾT DẤU HIỆU TRONG
Y DƯỢC HỌC” cho khoá luận nghiên cứu tốt nghiệp với các mục tiêu sau:
1. Tìm hiểu về nguồn gốc ra đời của Học thuyết Dấu hiệu.
2. Tìm hiểu về đặc điểm và vai trò của học thuyết Dấu hiệu.

1
3. Khảo sát một số ứng dụng của Học thuyết Dấu hiệu trong nghiên cứu
y học dược được áp dụng vào cuộc sống.

2
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN
1.1. KHÁI NIỆM

Học thuyết Dấu hiệu (The Doctrine of Signatures - DOS) là một lý


thuyết được trích dẫn rộng rãi nhằm giải thích cách mà con người phát hiện ra
công dụng chữa bệnh của một số loài thực vật. Theo DOS, các đặc điểm vật
lý của thực vật bao gồm hình dạng, màu sắc, cấu trúc, mùi vị cho thấy giá trị
chữa bệnh của chúng [1]. Một nhà sinh lý học thực vật và nhà sử học đã giải
thích một cách ngắn gọn học thuyết như sau: “… mọi loài thực vật có đặc tính
y học hữu ích đều mang dấu ấn của nó ở một nơi nào đó giống như cơ quan
hoặc bộ phận của cơ thể mà nó có tác dụng chữa bệnh” [2]. Ví dụ phù hợp với
định nghĩa hình thái cổ điển này bao gồm rễ cuộn của cây ba gạc hoa đỏ Ấn
Độ (Rauvolfia serpentina, họ Trúc đào) để trị rắn cắn hay bọ cạp cắn [3], quả
của cây óc chó (Juglans regia, họ Juglandaceae) để cải thiện trí nhớ [4, 5] và
đậu thận (Phaseolus vulgaris, họ Đậu) giúp chữa bệnh và duy trì chức năng
của thận [5, 6]
Nguyên tắc cơ bản của học thuyết về dấu hiệu là tất cả các sinh vật đều
có tương quan với nhau. Dựa trên những liên kết này, chúng hình thành các
hệ thống quan hệ bên trong độc lập với các đơn vị phân loại sinh học. Sự
tương đồng giữa sinh vật trong tự nhiên và con người tồn tại dưới dạng hình
thức, màu sắc, mùi, nhưng cũng có thể ở các khía cạnh dịch thể, bệnh lý và
chiêm tinh. Chúng được phân bổ cho các danh mục như nguyên tố, hành tinh
hoặc tính năng. Thực vật và động vật hoặc các bộ phận của chúng cùng loại
với bệnh có thể được sử dụng để chữa bệnh. Học thuyết Dấu hiệu rõ ràng là
một mô hình giải thích phi khoa học, tiền hiện đại của thế giới [6].

3
Bảng 1.1: Một số ví dụ minh họa về giá trị y học tiềm năng của
DOS

Tên thông Tên khoa học Giống loài Dấu hiệu Tác dụng
thường y học

Hoàng liên Ranunculus Họ Lá có các Sử dụng


[7] ficaria Ranunculaceae nốt sần điều trị
giống hạt mụn cóc
mụn và bệnh
trĩ

Lá gan Hepatica Họ Các lá có Chữa


[8] nobilis Ranunculaceae hình dạng bệnh về
giống như gan
lá gan của
người

Óc chó Juglans regia Họ Juglandaceae Quả óc chó Điều trị


[4, 5, 9] L. có hình vết
dạng giống thương ở
não người đầu và
bệnh về
não. Cải
thiện trí
nhớ và
tăng trí
thông
minh

4
Phong lan Ophrys spp., Họ Orchidaceae Rễ có hình Cải thiện
[5] Serapias spp. tinh hoàn sinh lý
Và các chi giới tính
liên quan

Nhân sâm Panax Họ Araliaceae Có rễ Tăng


[5, 9] ginseng giống với cường
hình dáng năng
con người lượng và
sức khỏe.
Cải thiện
sinh lý
giới tính

Cây liễu Salix spp. Họ Salicaceae Cành dẻo Hạ sốt,


[9] dai, vị trí giảm đau
sinh trưởng
ẩm ướt và
khắc nghiệt

Húng quế Ocimum Họ Lamiaceae Rễ phát Tác động


[5] basilicum L. triển nhiều có lợi lên
giống hệ hệ thống
thống hạch hạch
bạch huyết bạch
huyết

5
Tầm gửi Viscum album Họ Santalaceae Là loài ký Được sử
[5] L. sinh hút dụng
nước, muối trong liệu
và dinh pháp điều
dưỡng từ trị ung
cây chủ thư với
giả định
rằng cũng
làm mất
chất dinh
dưỡng để
phát triển
khối u

Địa du Sanguisorba Họ Rosaceae Đầu hoa Cầm máu


[5] officinalis L. màu đỏ
như máu

Cỏ đuôi chuông, Briza media Họ Poaceae Hoa của Chống


cỏ Quaking cây có hình tim đập
[9] tim rung nhanh
rinh trong
gió

6
Cây tỳ bà diệp Asplenim Họ Aspleniaceae Sau khi lá Chống
[9] trichmanes L. rụng rụng tóc
xuống, các
trục lá
trông như
một chùm
tóc

Eyebright hoặc Euphrasia Họ Có hoa Chống


Euphrasy rostkoviana Orobanchaceae giống mắt viêm kết
[5] Hayne mạc viêm
bờ mi

Aconite hoặc Aconitum Họ Có hoa Điều trị


Wolfsbane napellus Ranunculaceae giống mắt các vấn
[7] đề về mắt

Chùm nho Vitis vinifera Họ Vitaceae Chùm nho Giảm


[5] có hình nguy cơ
dáng giống ung thư
phổi, đặc phổi và
biệt là các khí thũng
phế nang

7
Cà chua Solanum Họ Solanaceae Có bốn Tác dụng
[5] lycopersicum buồn giống tốt lên
như trái tim và
tim và có máu
màu đỏ

Lạc (đậu phộng) Archis Họ Fabaceae Hạt lạc có Cải thiện


[5] hypogaea hình dáng sinh lý
giống tinh giới tính
hoàn

Bơ Persea Họ Lauraceae Quả bơ có Tác dụng


[5] americana hình dáng tốt lên tử
giống như cung và
tử cung của cổ tử
phụ nữ cung.
Cân bằng
nội tiết
tố, ngăn
ngừa ung
thư cổ tử
cung

Khoai lang Ipomoea Họ Có hình Ổn định


[5] batatas Convolvulaceae dáng giống chỉ số
tuyến tụy đường
huyết của
bệnh
nhân bị
tiểu
đường

8
Ô liu Olea Họ Oleaceae Quả kết Hỗ trợ
[5] europaea thành từng sức khỏe
chùm và cải
giống thiện
buồng chức
trứng của năng
phụ nữ buồng
trứng

Sung Ficus Họ Moraceae Quả sung Cải thiện


[5] racemosa có nhiều khả năng
hạt và di chuyển
thường treo của tinh
thành hai trùng,
sau khi tăng số
chín hoàn lượng
toàn tinh trùng
và khắc
phục tình
trạng vô
sinh ở
nam giới

1.2. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN


Trong suốt lịch sử y học của con người, chúng ta sử dụng thực vật,
khoáng vật, động vật làm thuốc để điều trị bệnh và các cơ quan trên cơ thể có
màu sắc, hình dạng hoặc thậm chí tên gọi tương tự như triệu chứng của bệnh.
Tippo và Stern nói rằng: “Trong nhiều trường hợp, niềm tin vững chắc vào
lòng tốt của Đức Chúa Trời, Đấng ban cho mọi thứ trên Trái Đất, cho dân
chúng của Ngài đã làm nảy sinh ra Học thuyết về Dấu hiệu, học thuyết này

9
cho rằng chìa khóa để con người sử dụng các công dụng của thực vật được ẩn
trong chính thực vật; người ta chỉ có thể nhìn kỹ” [10].
Trải dài từ thời cổ đại, các ứng dụng liên quan đến DOS đã phổ biến
rộng rãi, nhưng các học giả hiếm khi đưa ra lời giải thích rõ ràng về nguồn
gốc của triết lý y học phổ biến này. Một số nhấn mạnh rằng DOS có nguồn
gốc từ Trung Quốc và lan rộng khắp châu Âu trong thời Trung cổ, điều này
dường như khó xảy ra, do sớm đề cập đến các ứng dụng liên quan đến DOS ở
La Mã cổ đại. Số học giả hiện đại lại có ý kiến cho rằng DOS những người Ai
Cập cổ đại là người đầu tiên bắt nguồn kiến thức y học của họ từ những dấu
hiệu này. Trong khi một số nhà khoa học hay nhà thực vật học khác đã đưa ra
quan điểm rằng DOS là phổ biến vì các ứng dụng tương tự đã được tìm thấy ở
châu Á cổ đại, Hy Lạp cổ đại, châu Âu Trung cổ và châu Mỹ thời tiền
Colombo. Những người khác lại cho rằng đó là một ý tưởng xuất phát từ châu
Âu và đã có ghi chép bằng văn bản.
Học thuyết Dấu hiệu được trích dẫn rộng rãi trong các tài liệu về cây
thuốc. Theo lý thuyết, một số thuộc tính vật lý của thực vật là dấu hiệu để chỉ
ra giá trị chữa bệnh của chúng. Pliny the Elder, Dioscorides và các học giả cổ
điển đầu tiên khác ủng hộ lý thuyết này, nhưng nó được triển khai rộng rãi
nhất bởi Paracelsus và những người theo ông trong thời Trung cổ. Nhà thần bí
tôn giáo người Đức Jakob Böhme và các nhà thảo được người Anh Nicholas
Culpeper và William Cole là một trong những người ủng hộ mạnh mẽ nhất
Học thuyết này. Bắt đầu từ giữa những năm 1500, các học giả bắt đầu chỉ
trích khái niệm Dấu hiệu. Bác sĩ và nhà thảo dược học người Flemish
Rembert Dodoens có lẽ là người đầu tiên thách thức tính khoa học của nó.
Nhà tự nhiên học người Anh John Ray cũng chỉ trích lý thuyết này. Các học
giả hiện đại gần như coi thường Học thuyết Dấu hiệu, gọi nó là vô lý, huyền
ảo, xa vời, và giả khoa học. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu tiếp tục coi học
thuyết này là lý do mà nhiều loài thực vật được chọn làm thuốc. Đánh giá kỹ
lưỡng về Học thuyết Dấu hiệu cho thấy rằng nó không có nhiều giá trị trong
điều trị bệnh. Thay vào đó, Học thuyết này đóng vai trò như một phương tiện
ghi nhớ, điều này đặc biệt quan trọng trong các nền văn hóa tiền kim loại [10].

10
1.2.1. Sự ra đời của DOS
Một số người tin rằng Đấng Toàn năng đã đặt dấu hiệu của Ngài trên
các phương tiện khác nhau để chữa trị bệnh tật của con người. Vào năm 1669,
Oswald Crollius đã viết: “Tất cả các loại thảo mộc, hoa, cây cối và những thứ
khác xuất phát từ Trái Đất, đều là sách và các dấu hiệu ma thuật, được truyền
đạt cho chúng ta, bởi lòng thương xót bao la của Thượng đế, các dấu hiệu đó
là thuốc cho chúng ta… Đối với mọi thứ thuộc về bản chất, hãy dựa vào hình
ảnh bên ngoài của thuộc tính huyền bí của nó…” [10].
Học thuyết Dấu hiệu có mặt ở khắp nơi. Nhà nhân chủng học William
Bale và những người khác đã gợi ý rằng nó như một hiện tượng và hiện tượng
này khá phổ biến. Theo nhà khảo sát thế kỷ XIX của khu vực Grand Canyon
(Hoa Kỳ), JW Powell, “Tất cả các bộ lạc Mỹ đều có niềm tin sâu sắc vào Học
thuyết Dấu hiệu…”. BE Read, một nhà dược học đầu thế kỷ XX đã viết rằng
DOS là “được trích dẫn nhiều trong Phương Đông và Huyền bí”. Học thuyết
này thường xuyên xuất hiện trong các văn bản thực vật thời Trung cổ “do
niềm tin rộng rãi vào học thuyết về dấu hiệu”. DOS được đề cập đến trong các
tài liệu cổ của Hy Lạp về cây thuốc. Các yếu tố của học thuyết hiện diện trong
các tác phẩm của Hippocrates, mặc dù ông cũng ủng hộ nguyên tắc rằng các
mặt đối lập được chữa khỏi bởi các mặt đối lập của chúng - phản đề của DOS.
Hơn nữa, Fielding Garrison lập luận rằng đối với các loại thuốc làm từ động
vật, y học Hy Lạp không áp dụng nguyên tắc này [11].
Các nhà thảo dược châu Âu đã sử dụng mủ vàng của cây hoàng liên
(Chelidonium majus, họ Piperaceae) để chữa bệnh gan. Trong bài tường thuật
của mình về cây hoàng liên, nhà thảo dược học người Anh thế kỷ XX và tác
giả Maude Grieve đã viết, "Các nhà giả kim xưa cho rằng nó rất tốt để 'siêu
kiềm chế bệnh vàng da' vì màu vàng đậm của nó" [10]. Nhân sâm Trung
Quốc (Panax ginseng, Araliaceae) rễ vì thân rễ giống như người của chúng đã
được sử dụng như một loại chất kích thích tình dục và tăng cường sự trẻ hóa
cho con người [12]. Nhà hóa học và bác sĩ người Thụy Sĩ thời trung cổ
Paracelsus đã tuyên bố, "Những bông hoa có màu cháy như hoa hồng (Rosa
spp., thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae)) có khả năng chữa lành vết viêm; những

11
người có làn da mang màu sắc giống như hoa hồng (da dẻ hồng hào) sẽ tránh
được say rượu" [10]
Theo William Cole, 2004 - nhà khoa học DOS hàng đầu của Anh, đã
viết: Quả hạch có dấu hiệu hoàn hảo của đầu: Lớp vỏ ngoài hoặc hoặc lớp
màu xanh lá cây, đại diện cho Pericranium, hoặc da bên ngoài của hộp sọ,
trong đó có lông tơ, và do vậy muối làm từ vỏ trấu rất tốt cho vết thương ở
đầu. Lớp vỏ gỗ bên trong có dấu hiệu hình dáng của hộp sọ, và lớp da nhỏ
màu vàng, hay còn gọi là vỏ, che phủ Kernel, của Meninga và Pia-cũ, là
những chiếc khăn mỏng bao bọc não. Kernel có hình dáng rất giống não, và
do đó nó rất có lợi cho não [13].
Vào năm 1763 mục sư Edward Stone tin rằng cây liễu Anh (Salix spp.,
Họ Hoa môi) [9], một loại cây phát triển mạnh trong môi trường ẩm ướt, có
thể chữa được bệnh thấp khớp, có liên quan đến các bệnh tương tự. Thực vật
giống với tinh dịch hoặc cơ quan sinh dục của con người, được coi là thuốc
kích thích tình dục. Một ví dụ khá điển hình là rễ cây Phong lan (Ophrys spp.,
Serapias spp. Và các chi liên quan, họ Orchidaceae) do bộ rễ của cây có hình
dáng giống với tinh hoàn của người. Hay quả của cây Sung có nhiều hạt và
thường treo thành hai sau khi chín hoàn toàn, điều này tương tự như tinh hoàn
của nam giới.
1.2.2. Sự phát triển theo dòng lịch sử
Học thuyết Dấu hiệu đã có từ rất lâu và bắt đầu được phổ biến từ khi
loài người có ngôn ngữ giao tiếp (các ký hiệu hay các hình vẽ hoặc ngôn ngữ
hình thể). Do lưu truyền rộng rãi nên được nhiều người ủng hộ và bắt đầu các
thử nghiệm chứng minh, đến phát triển khái niệm, sau đó được lưu lại trong
các tài liệu ghi chép quá trình tìm kiếm các Dấu hiệu. Các ghi chép này là
những tư liệu quan trọng, là bước đệm cho những nghiên cứu sau này.

1.2.2.1. Pliny the Elder (23-79 CN)


Theo một số nhà chức trách, Natural History của Pliny the Elder chứa
một trong những tài liệu tham khảo sớm nhất về DOS. Tuy nhiên, Pliny
không rõ ràng trong việc ủng hộ DOS. Hơn nữa, không rõ liệu anh ta đang

12
ủng hộ dấu hiệu ý hay chỉ đơn giản là phản biện lại ý kiến của những người
khác. Có khả năng là anh ta sẽ không gán cho bất kỳ lý thuyết nào như vậy vì
niềm tin Khắc kỷ của anh ta, nhưng những ám chỉ đến các dấu hiệu vẫn xuất
hiện trong các bài viết của anh ta. chẳng hạn như theo Pliny, 1938-1963 tuyên
bố rằng, "Một loại thuốc sắc nóng của cây hiếp dâm [Brassica napus hoặc B.
rapa , họ Cải] được sử dụng để chữa bệnh gút do cảm lạnh" [14]. Tuy nhiên,
trích dẫn này theo sau bài hát contraria contrariis curantur của Galen (những
mặt đối lập được chữa khỏi bởi những mặt đối lập của chúng) mang tính chất
triết học nhiều hơn là phản ánh một dấu hiệu. Bellavita và cộng sự đã trích
dẫn tuyên bố của Pliny rằng nước bọt của một con chó bị dại có tác dụng bảo
vệ chống lại bệnh dại như là bằng chứng về sự ủng hộ của ông đối với DOS.
Tuy nhiên, Pliny đề cập đến nhiều phương pháp chữa trị bệnh dại khác mà
không cần đến Học thuyết Dấu hiệu.
Pliny cũng đưa ra những lý do khác ngoài DOS để giải thích việc sử
dụng thực vật. Ví dụ, ông đã viết, "Adiantum chỉ có hiệu quả đặc biệt trong
việc tống xuất và phá vỡ tính chất của bàng quang, đặc biệt là loại u tối; và đó
là vì lý do này, theo ý kiến của tôi, chứ không phải vì nó phát triển trên sỏi,
mà nó đã được người dân nước ta gọi là saxifraga. " Tên saxifraga, và chi
Saxifraga (họ: Saxifragaceae), có nguồn gốc từ các gốc Latin saxum (đá) và
frangere (chia tay). Một loại cây mọc trong các khe nứt của đá, có rễ chẻ hoặc
làm rộng đá, được cho là có phẩm chất "phá đá", do đó tốt cho bàng quang và
sỏi thận.

1.2.2.2. Pedanius Dioscorides (khoảng năm 40-90 CN)

Dioscorides, một bác sĩ và nhà dược học người Hy Lạp, đã đi du lịch


khắp nơi trong thời gian làm bác sĩ phẫu thuật cho quân đội La Mã. Ông được
biết đến nhiều nhất với cuốn sách De Materia Medica, được coi là tài liệu
dược học tiêu chuẩn trong khoảng mười sáu trăm năm. Dioscorides hiếm khi
được đề cập đến trong các cuộc thảo luận của DOS, rất có thể là do ông
không chấp nhận nó làm cơ sở lý thuyết cho việc lựa chọn cây thuốc. Tuy
nhiên, khi báo cáo cách sử dụng thông thường, đôi khi ông ta bao gồm cả việc
loại bỏ DOS.

13
Học giả người Ý Giambattista Della Porta, 2006 đã viết, "Dioscorides
nói, rằng các loại thuốc mọc ở những nơi dốc, lạnh và khô, và đón gió, khó
cưỡng chế nhất, nhưng chúng mọc trong bóng tối, nơi có nhiều nước và yên
tĩnh, thì ít tác dụng hơn" [15]. Mặc dù tuyên bố này có thể được hiểu một
cách đại khái để đại diện cho DOS, nhưng nó có nhiều khả năng phản ánh
mối quan tâm của Dioscorides đối với sự thay đổi trong chất lượng của các
loại thuốc thảo dược. Della Porta trích dẫn một trích dẫn khác từ De Materia
Medica có thể được hiểu là để hỗ trợ DOS: Dioscorides -2000 đã cho rằng
Herb Scorpius giống với đuôi của Bọ cạp và được sử dụng để chống lại vết
cắn của nó" [16]. Tuy nhiên, việc sử dụng kết hợp giữa ký hiệu và công dụng
của thực vật, thay vì trạng từ liên hợp là có ý nghĩa. Cụm từ "và được sử dụng
để chống lại sự cắn của anh ta" khá khác với "và do đó được sử dụng để
chống lại sự cắn của anh ta." Sự bao hàm ngầm của trạng từ liên từ "do đó"
tạo ra sự ngụy biện hợp lý của post hoc ergo propter hoc ("sau cái này, do đó
vì cái này"), điều này thường gặp trong các diễn giải về dấu hiệu. Mô tả của
Dioscorides về cây Balananon elaion (mật sồi, có thể từ Quercus lusitanica
hoặc Q. infectoria, Fagaceae) để "ngăn chặn sự phát triển bất thường của thịt",
cũng được một số giải thích là để hỗ trợ DOS.

1.2.2.3. Galen (131-201 CN)


Claudius Galenus, hay Galen, theo thuyết Hippocrates cho rằng sức
khỏe đòi hỏi phải duy trì trạng thái cân bằng giữa các chất dịch khác nhau, ví
dụ như máu, mật vàng, mật đen và đờm. Một số học giả cho rằng ông là một
trong những người đề xướng sớm nhất DOS, nhưng sẽ không chính xác.
Người ta có thể thấy lý thuyết hoạt động trong các sản phẩm dược phẩm sớm
nhất.
Lưu ý, "Galen kiên quyết tin tưởng vào một thiết kế cơ bản trong suốt
tự nhiên để có thể chứng minh được phù hợp với học thuyết về dấu hiệu." Tuy
nhiên, bằng chứng cho việc Galen tuân thủ DOS còn thiếu. Paracelsus, người
đề xuất DOS vĩ đại nhất, đã từ chối Galen và các nhà chức trách cổ điển khác
bằng cách đốt công khai các văn bản của họ. Galen có lẽ được biết đến nhiều
nhất với khái niệm contraria contrariis curantur (điều ngược lại được chữa

14
khỏi với điều ngược lại), nền tảng của cái gọi là y học dị ứng. Theo đó, nhiệt
sẽ được áp dụng cho các bệnh bắt nguồn từ lạnh và ngược lại.

1.2.2.4. Paracelsus (1493-1541)

Paracelsus, hay Philippus Theophrastus Aureolus Bombastus von


Hohenheim, từng là bác sĩ của thành phố Basel và là giảng viên tại trường đại
học của thành phố. Ông phản đối thuốc Galenic, thay vào đó thúc đẩy một
phương pháp thử nghiệm. Paracelsus đã được gọi là "cha đẻ của hóa học",
"người sáng lập hóa dược" và "cha đẻ của độc chất học." Tiêu đề thứ hai bắt
nguồn từ tuyên bố của ông rằng, "Chỉ liều lượng xác định rằng một thứ không
phải là chất độc." Tuyên bố tiết lộ nhiều hơn nguyên tắc sáng lập của độc chất
học. Nó cho thấy niềm tin của Paracelsus vào hiệu quả của các chất vô cơ
trong y học, bất chấp những lời phê bình của ông khẳng định rằng chúng quá
độc để được sử dụng làm chất chữa bệnh.Việc sử dụng điều trị các hóa chất
tinh khiết (như asen, chì, thủy ngân và bất kỳ hợp chất vô cơ đơn lẻ nào), đặc
biệt là các nguyên tố vô cơ, là một phát kiến vào thế kỷ XVI của Paracelsus.
Paracelsus và những người theo ông tán thành nguyên tắc similia
similibus curatur (giống như các phương pháp chữa trị như thế nào). Trong y
học Paracelsian, việc điều trị nhằm chống lại tác nhân bên ngoài của bệnh tật,
thay vì hướng tới việc khôi phục sự cân bằng trong các cơn buồn nôn.
Paracelsus tin rằng thực vật, động vật và khoáng chất đã được Tạo hóa đưa
vào Trái đất để con người sử dụng. Đức Chúa Trời đã cung cấp các dấu hiệu
bên trong thực vật để chỉ ra công dụng của chúng. "Thiên nhiên đánh dấu mỗi
sự trưởng thành đến từ cô ấy tùy theo lợi ích chữa bệnh của nó... và không có
vật nào trong tự nhiên, được tạo ra hay sinh ra, không cố gắng bộc lộ hình
thức bên trong ra bên ngoài; vì đời sống bên trong liên tục hoạt động hướng
tới sự mặc khải."

1.2.2.5. Nicolas Bautista Monardes (1493-1588 SCN)


Monades, bác sĩ Tây Ban Nha nổi tiếng nhất trong thời đại của ông, đã
hành nghề ở Seville. Ông đã xuất bản một bộ sưu tập các bài viết của mình
vào năm 1574, trong đó có mô tả về loài cây Nam Mỹ mới được du nhập, cây

15
coca (Erythroxylum coca, Erythroxylaceae) và những công dụng của nó.
Monardes là một trong những người châu Âu đầu tiên quảng bá cây thuốc từ
Tân Thế giới. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy Thế giới Mới, với tư cách là
người đề xuất DOS, Monardes đã chấp nhận các biện pháp khắc phục bằng
thực vật của người Mỹ bản địa, mặc dù đôi khi ông đã sửa đổi chúng.

1.2.2.6. Giambattista Della Porta (1538-1615)

Một đệ tử của Paracelsus, Della Porta đã giải thích các đặc tính của
thực vật dựa trên các đặc điểm ngoại hình của chúng. Các bài viết của ông
trên Magia Naturalis và Phytognomonica được coi là bản giới thiệu DOS cuối
cùng của thế kỷ XVI và XVII thế kỷ và ông đã phát triển lý thuyết rất chi tiết.
Sự ủng hộ của Della Porta đối với DOS là rõ ràng. Ví dụ, ông viết "…
Bugloss and Orchanet bear seeds like a Viper's head, and these are good to
heal their venomous bitings. Likewise Stone-crop and Saxifrage are good to
break the stone in a man's bladder."

1.2.2.7. Oswaldus Crollius (khoảng 1560-1609)


Một môn đồ khác của Paracelsus, Oswald Croll (hay Oswaldus Crollius)
phản đối thuyết Galenic về hài cốt và tìm kiếm nguyên nhân bên ngoài gây
bệnh. Sự ủng hộ của Croll đối với DOS được thể hiện rõ trong cuốn De
Signaturis Internis Rerum ( Luận về các dấu hiệu của những thứ bên trong ),
xuất bản lần đầu vào năm 1669. Theo Croll, vảy gỗ của nón thông giống như
răng trước; do đó lá thông đun sôi trong giấm được sử dụng để giảm đau răng.
Croll kiên quyết trong việc tán thành DOS là chìa khóa để làm sáng tỏ giá trị
của cây thuốc.

1.2.2.8. Jakob Böhme (1575-1624)


Jakob Böhme, một nhà thần bí tôn giáo người Đức, là một nhà đào tạo
bậc thầy trong nghề. Ông đã trải qua một khải tượng thần bí vào năm 1600,
điều này đã tiết lộ cho ông rằng mối quan hệ giữa Chúa và con người đã được
báo hiệu trong mọi tạo vật. Năm 1621, ông xuất bản Signatura Rerum (Dấu
hiệu của vạn vật). Ở đây, Böhme nhắc lại lý thuyết Paracelsian rằng những
phẩm chất và đặc tính bên trong của mọi sự vật đều được thể hiện dưới dạng

16
bên ngoài của chúng. Ông khuyên tất cả những nhà khoa học hãy nghiên cứu
thiên nhiên với tâm trí này, đảm bảo với họ rằng, "sự hiểu biết lớn nhất nằm ở
các dâu hiệu, trong đó con người có thể không chỉ học cách hiểu biết về bản
thân mình, mà còn là bản chất của tất cả các bản chất." Mặc dù sở thích của
ông chủ yếu là thần bí và tâm linh, nhưng khái niệm về dấu hiệu của ông đã
mở rộng đến các loại cây thuốc. "Và không có gì được tạo ra hoặc sinh ra
trong tự nhiên, nhưng nó cũng biểu hiện hình thức bên trong của nó ra bên
ngoài, vì bên trong liên tục lao động hoặc tự hoạt động để biểu hiện ra ngoài...
mà chúng ta thấy và biết trong các vì sao và nguyên tố, tương tự như vậy
trong các sinh vật sống, và cả trong cây cối và thảo mộc. "

1.2.2.9. Nicholas Culpeper (1616-1654)

Culpeper, bác sĩ, nhà thảo dược và nhà chiêm tinh học người Anh, tin
rằng chỉ có các nhà chiêm tinh mới phù hợp để nghiên cứu y học. Ông mô tả
Trường Cao đẳng Y sĩ ở London là "Một cơ quan gồm những bác sĩ kiêu hãnh,
xúc phạm, độc đoán, những người có trí thông minh ra đời trước họ khoảng
500 năm." Thảo dược của Culpeper, được xuất bản lần đầu với tên The
English Physitian (1652), đã liên tục được xuất bản trong hơn 350 năm. Các
tác phẩm của ông nhắm đến đối tượng phổ thông và bao gồm các tham chiếu
rõ ràng đến DOS và cả các lý thuyết chiêm tinh. Culpeper đánh giá cao các
dấu hiệu trong thực vật, như là manh mối cho giá trị y học của chúng. Ông
viết "… bằng biểu tượng hoặc hình ảnh của mỗi loại thảo mộc, con người đầu
tiên phát hiện ra đặc tính của chúng. Các nhà văn hiện đại cười nhạo chúng vì
điều đó, nhưng tôi tự hỏi trong lòng làm thế nào những đặc tính của thảo mộc
được biết đến lần đầu tiên, nếu không phải là dấu hiệu của chúng. Người hiện
đại có chúng từ các tác phẩm của người xưa-người xưa không có tác phẩm
nào có chúng từ đó. "

1.2.2.10. William Cole (1626-1662)


Nhà thực vật học thế kỷ 17 William Cole (đôi khi bị viết sai chính tả là
Coles) được biết đến với hai cuốn sách, The Art of Simpling (1656) và Adam
in Eden (1657). Ông là người đề xuất tiếng Anh chính của DOS và, giống như
Culpeper đương thời của ông, đã viết cho dân chúng. Tuy nhiên, Cole đã chỉ

17
trích Culpeper, mô tả anh ta là "người dốt nát trong pháo đài của những ngôi
đền." Ông cũng chỉ trích việc Culpeper kết hợp chiêm tinh vào các phương
pháp thực hành thảo dược. Cole tin rằng một số loài thực vật được ký hiệu "để
giúp con người đi đúng hướng", nhưng những loài khác lại bị bỏ trống để
khuyến khích con người khám phá ra chúng.
Đối với Cole, các tuyến trong lá của cây St. John's wort (Hypericum
perforatum, họ Clusiaceae). Ông lập luận rằng quả óc chó có hiệu quả trong
việc chữa các bệnh về đầu bởi vì "Chúng có các dấu hiệu hoàn hảo của đầu."
Cole's Art of Simpling (Nghệ thuật Đơn giản hóa của Cole) vẫn còn được báo
chí đăng tải và trích dẫn rộng rãi trong nhiều loại thảo mộc. Ở đây, DOS được
thúc đẩy mạnh mẽ.

1.2.2.11. Lịch sử gần đây


Quan điểm về DOS đã đạt đến đỉnh cao trong thời kỳ Phục hưng. Bác
sĩ Paracelsian của thế kỷ XVI đã thể hiện sự quan tâm mới với DOS, cho rằng
những người tiền nhiệm của họ đã hiểu sai lý thuyết. Họ đã mở rộng khái
niệm về dấu hiệu để bao gồm các manh mối hóa học. Panese lập luận rằng
DOS có ảnh hưởng đáng kể trong khoa học và y học từ thế kỷ XVI trở đi.
Trong quá trình tồn tại của mình, ngoài việc được ủng hộ mạnh mẽ,
DOS vẫn luôn chịu những lời bác bỏ do thiếu tính khoa học. Năm 1583, nhà
nghiên cứu vật lý và thảo dược người Flemish, Rembert Dodoens (1517-1585)
tuyên bố rằng: “DOS không nhận được quyền hạn của một nhà văn cổ đại nào
được coi trọng: hơn nữa nó rất dễ thay đổi và không chắc chắn rằng,về mặt
khoa học nghiên cứu, nó dường như hoàn toàn không đáng được chấp nhận”.
Khi thời kỳ khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, Học thuyết Dấu hiệu
được cho là cổ hủ và lạc hậu vì khó để giải thích khi mà có nhiều loài cây
cùng dấu hiệu nhưng lại chỉ có thể sử dụng ít hoặc không loại nào để làm
dược liệu làm thuốc. Hay có thực vật, động vật không hề có dấu hiệu liên
quan đến bộ phận cơ thể con người nhưng lại có công dụng rất tốt trong
phòng và điều trị bệnh. Do đây là một trong những Học thuyết cổ xưa nên khó
để xác minh tính chính xác về nguồn gốc cũng như lý thuyết của Học thuyết.

18
Các nước phát triển ở châu Âu, châu Mỹ đã từng bác bỏ Học thuyết về
Dấu hiệu do không mang tính khoa học cao và khó để áp dụng vào nghiên
cứu, phát triển thuốc mới. Tuy nhiên với các quốc gia tại châu Á, đặc biệt là
Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Việt Nam, vẫn luôn áp dụng Học
thuyết này trong nhiều lĩnh vực, trong đó có y học. Việc áp dụng DOS vào
lĩnh vực y dược học thường lấy tài liệu từ các ghi chép cổ xưa, các cây thuốc
dân gian được lưu truyền lại. Từ đó, nghiên cứu tiếp các dược liệu để tìm
kiếm hoạt chất thuốc theo dấu hiệu của thực vật hoặc nghiên cứu phát triển
một loại thuốc mới.
Hiện nay đã có khá nhiều các nhà khoa học tham gia công trình nghiên
cứu và xây dựng thí nghiệm về Học thuyết này. Nhiều tác phẩm văn học hiện
đại ám chỉ đến các dấu hiệu của DOS. Điều đó chứng tỏ DOS là một Học
thuyết đáng chú ý, ứng dụng của nó là rất lớn.

1.3. DOS TRONG VĂN HỌC


DOS xuất hiện trong tài liệu Phục hồi tiếng Anh. Trong Paradise Lost ,
nhà thơ người Anh thế kỷ XVII John Milton đã mô tả việc Tổng lãnh thiên
thần Michael sử dụng cây thuốc bổ mắt (Euphrasia officinalis, họ
Orobanchaceae) để phục hồi thị lực của Adam. Dấu hiệu đặc trưng của
Eyebright là những cánh hoa sọc của nó, được cho là gợi nhớ đến đôi mắt đỏ
ngầu [17].
DOS cũng xuất hiện trong tài liệu hiện tại. Nhà thơ Canada Anne
Szumigalski (1922-1999) đã đặt tên cho bộ sưu tập dài thứ ba của mình là
Doctrine of Signatures. Cụm từ "signatures of all things" xuất hiện ở đầu tập
3 trong cuốn tiểu thuyết Ulysses của James Joyce.
Tác phẩm nổi tiếng Harry Potter của nhà văn J.K. Rowling có miêu tả
về loài sinh vật kỳ bí, một giống cây có hình người với tiếng thét chói tai và
dùng để làm thuốc chữa trị cho những ai bị hóa đá khi nhìn vào mắt con tử xà
Basilisk. Đó là cây Khoai ma - Mandrake, một loài thực vật có thật. Tên gọi
của nó bắt nguồn từ "Mandragora" trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "gây tổn
thương cho gia súc" [18].

19
Trong văn hóa dân gian đây là loài cây có hình dáng con người, cây cái
có rễ chia làm hai nhánh mang hình hài của người phụ nữ với mái tóc dày,
cây đực thì rễ không có nhánh (một số dị bản khác thì có rễ như cây cái) và
mang ngoại hình của một người đàn ông với bộ râu dài. Điểm đặc biệt ở
Khoai ma là nó có tiếng thét kinh hoàng, có thể gây sát thương tai, làm chảy
máu không ngừng dẫn đến tử vong. Âm thanh này được cho là sự nguyền rủa
gây nên bệnh tật, chết chóc. Vì vậy nó là loại cây gắn liền với ma quỷ, nhiều
người cho rằng Khoai ma là dược liệu chỉ những kẻ có phép thuật mới tìm ra
cách thu hoạch và sử dụng giống thực vật quái đản này. Ở phương Tây thời
xưa, những ai được cho là sở hữu Khoai ma đều bị gán ghép vào tội phù thủy
và bị thiêu sống. Nữ anh hùng nước Pháp Jeanne d'Arc, người được mệnh
danh là Trinh nữ xứ Orléans đã từng bị quan tòa giám mục Pháp phe thân
Anh xét xử và thiêu sống vào ngày 30/05/1431 vì cáo buộc bà là phù thủy.
Hội đồng xét xử cáo buộc rằng Jeanne d'Arc đã dùng cây khoai ma như một lá
bùa may mắn, mặc trang phục đàn ông và ra trận chiến đấu như là kẻ dị giáo.
Jeanne d'Arc đã phủ nhận mọi cáo buộc nhưng bà vẫn phải chịu tội, chết trong
oan ức. Năm 1456, bà được rửa oan và phong Thánh vào năm 1920 [19].
Theo truyền thuyết kể lại cây Khoai ma mọc lên từ những sát nhân bị
hành hình. Tại vùng đất mà máu của những tên tử tù rơi xuống, cây sẽ đâm
chồi và được nuôi dưỡng bằng tà khí từ linh hồn quỷ dữ của chúng. Dị bản
khác lưu truyền rằng Khoai ma được tạo ra từ linh hồn của những người vô
tội bị giết oan, khi máu đổ xuống thì rễ cây sẽ hình thành nên hình hài, mang
gương mặt của người đó và phát triển, lớn lên với tiếng hét ai oán về nỗi đau
mà họ phải chịu ở dương gian. Cách để lấy được rễ cây Khoai ma cũng rất tàn
nhẫn. Người xưa cho rằng để đào được rễ của giống cây này thì phải dùng con
chó là vật thế mạng. Cụ thể, con chó bị buộc vào củ Khoai ma rồi chạy đi khi
thấy tiếng thét. Rễ cây bị nhổ lên, con chó sẽ phải chết, đổi mạng vì lấy rễ
Khoai ma cho chủ nhân. Truyền thuyết khác thì kể rằng khi mặt trời đã lặn
những ai là phù thủy, pháp sư có phép thuật cao cường sẽ dùng đũa phép hoặc
thanh kiếm vẽ xung quanh của Khoai ma để nhổ nó lên [19].
Trong thực tế cuộc sống, Khoai ma là loài thực vật có thật, xuất xứ từ
khu vực Địa Trung Hải và cũng được tìm thấy ở vùng Trung Đông, Trung Á,

20
Ấn Độ và phía Tây Trung Quốc. Tên khoa học của nó là Mandragora
docinarum, thuộc chi thực vật Mandragora, có hai loại hoa màu trắng và màu
tím, quả mọng có màu vàng hoặc cam, rễ chẻ đôi có thể mọc dài đến 120 cm.
Khoai ma là loài có chứa độc dược nhưng rễ cây của nó lại có ích khi được
chế biến làm thuốc gây tê từ thời Hy Lạp cổ đại, nếu dùng với liều lượng vừa
đủ nó sẽ giúp chữa những bệnh như trầm cảm, co giật, giảm đau và bệnh thấp
khớp
Trong quan điểm tâm linh, người xưa còn dùng cây Khoai ma để điều
chế bùa yêu, họ tin rằng khi nhổ lên được loại cây có mang giới tính của
người mình thích rồi làm thành bùa và đem tặng cho đối phương thì tình yêu
của họ sẽ được hạnh phúc như ý. Khoai ma cũng được điều chế ra thuốc trị vô
sinh, giúp phụ nữ dễ dàng sinh đẻ. Người Hy Lạp cổ sử dụng nó như một loại
thuốc kích thích tình dục, lấy rễ ngâm trong rượu hoặc giấm. Còn người Do
Thái cổ đại tin rằng cây Khoai ma có thể được sử dụng để kích thích sự thụ
thai.
Với những người học pháp thuật thì cây Khoai ma được xem là bùa
may mắn, giúp các phù thủy, pháp sư tăng thêm sức mạnh. Nó cũng được bào
chế thành thuốc để trục xuất quỷ dữ khi con người bị nhập hồn, những quái
vật như thú hóa người khi ăn phải rễ cây Khoai ma sẽ hiện nguyên hình [19].
Trong y khoa, cây khoai ma có thể là dược liệu nhưng nếu lạm dụng và
dùng quá liều thì độc tố trong cây sẽ phát tán khiến con người bị mê sảng, gặp
ảo giác và phát điên. Bởi vì quả cây Khoai ma có chứa chất alkaloid gây ảo
giác mê sảng và hình dạng rễ của nó thường giống hình người, nên chúng có
liên quan đến nhiều tập tục mê tín dị đoan, gắn liền với những thứ ma quỷ,
làm phép bị giáo hội xem là vật tà đạo cần phải diệt trừ [20].

1.4. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỌC THUYẾT


Trong một vũ trụ được hình thành như một hệ thống tương ứng rộng
lớn, đặc biệt là giữa thế giới của chúng ta, các nền văn hóa và ý muốn của
Đức Chúa Trời, các ký hiệu là dấu hiệu hữu hình về mục đích của thần thánh.
Trong các thực hành trị liệu, chúng chỉ ra các đặc tính của thực vật bằng cách

21
tương đồng với các cơ quan cụ thể mà chúng được cho là có thể làm lành và
bảo vệ.
Theo một cách dễ hiểu, rằng thực vật có ngôn ngữ riêng và chúng có
cách đặc biệt để tồn tại cùng chúng ta trên Trái Đất. Cách thực vật thể hiện
bản thân qua màu sắc, hình dạng, kết cấu, mùi hương và vị trí sinh trưởng của
chúng năm trong nhận thức của chúng ta và có thể hiểu đầy đủ hơn thông qua
nhãn quan của trí óc. Những vẻ ngoài rất tinh tế, nhưng chúng phản ánh
những dấu ấn sâu sắc về khả năng của thực vật trong môi trường và tiềm năng
trong cơ thể con người.

1.4.1. Màu sắc


Đây có thể là một trong những cách dễ nhất để đọc một loại cây là
thông qua màu sắc của nó. Lấy ví dụ một loại cây như cây hoa oải hương
(Lavandula spp, họ Lamiaceae). Làm thế nào để bạn nhìn thấy nó? Màu sắc
bạn nghĩ đến là gì? Những thứ khác trong tự nhiên của chúng ta có màu sắc
tương tự?
Xanh lam và tím là những màu trong quang phổ màu khả kiến, có tần
số cao hơn (biên độ dao động) và bước sóng ngắn hơn. Đây cũng là màu của
hoa oải hương. Làm một ví dụ về điều này rút ra mối liên hệ giữa các trung
tâm năng lượng của cơ thể con người và nới năng lượng này di chuyển trong
chúng ta. Đối với những người đã biết đến Chakra cổ đại (Luân xa), màu xanh
lam, tím và đỏ tươi đại diện cho luân xa cổ họng, con mắt thứ ba và vương
miện [21]. Đó là trong sự biến đổi màu sắc tuyệt đẹp mà hoa oải hương tồn tại.
Hoa oải hương tăng dần về màu sắc, vươn ra khỏi thân. Những trung tâm
năng lượng này là nơi giao tiếp, lắng nghe, âm nhạc, thị giác, hiểu biết sâu sắc,
khả năng truyền tải, nhẹ nhàng, cởi mở và kết nối với thần thánh được tổ chức,
luyện tập và cân bằng.
Hoa oải hương có ái lực với hệ thần kinh. Nó làm dịu đau đầu, giảm
căng thẳng trong các mô và có thể phục hồi (Culpeper, 1975) [22]. Oải hương
cũng giúp mang lại sự sảng khoái bằng cách nhẹ nhàng làm sạch và giải
phóng năng lượng bị mắc kẹt trên toàn cơ thể. Nó có thể hỗ trợ trong lĩnh vực
giao tiếp bằng cách cung cấp sự rõ ràng về suy nghĩ, lời nói và lắng nghe sâu

22
sắc (Bennett, 2014) [23]. Loài thực vật đẹp đẽ và nhiều công dụng này được
sử dụng trong nhiều sản phẩm chăm sóc tóc, mặc dù đây có thể không phải là
lý do cố ý để tạo ra công thức, nhưng nó có thể cung cấp một liên kết trực tiếp
đến việc trang trí và kích hoạt luân xa vương miện của một người; vì vậy có
thể dùng hoa oải hương hoặc tinh dầu trong kem dưỡng da mặt hoặc dầu xoa
bóp thái dương.
1.4.2. Hình dạng
Một cách có thể khác để quan sát cây là thông qua hình dạng của nó.
Lưu ý về hướng mà lá có thể mọc hoặc với một chút trí tưởng tượng, các
đường nét và hình dạng có thể giống với một bộ phận cơ thể, động vật hoặc
thiên thể như thế nào. Những cách suy nghĩ này có thể hướng chúng ta đến
năng lượng của thực vật, và hơn nữa, mối quan hệ có thể có của nó với các cơ
quan cơ thể của hình dạng con người. Một ví dụ về dấu hiệu thông qua hình
dạng là cây thông (Pinus strobus, họ Pinaceae).
Cây thân gỗ nói chung có bộ rễ ăn sâu, thân cây to khỏe, có nhiều sức
chịu đựng với thời tiết và thời gian. Khi nhìn vào một cây thông, chúng ta có
thể cảm nhận được bộ rễ của nó phản chiếu những cành và lá của cây đã có
một sức sống mạnh mẽ. Cây giống dáng người ở tư thế đứng. Hình dạng của
cành và lá thông khá phức tạp, quan sát trực quan thấy rằng nó tương tự các
khoang mỏng manh của hệ hô hấp của chúng ta. Thông có tác dụng hỗ trợ bổ
phổi mạnh mẽ với đặc tính kháng khuẩn và chống oxy hóa (Grieve, 1971)
[24]. Về mặt năng lượng, phổi có thể chứa đựng sự đau buồn và phiền muộn.
Một trong những đặc tính của nó, cây thông mở ra các đường dẫn khí giúp
giải phóng năng lượng bị mắc kẹt, mang lại sự bình tĩnh và ổn định. Nó còn
được biết đến là cây của hòa bình, và đúng như vậy.
1.4.3. Kết cấu
Gai, lông, nhựa và dầu được hầu hết các loài thực vật sản xuất để bảo
vệ và thụ phấn. Những biến thể của kết cấu này là chỉ số về tính cách và khả
năng hỗ trợ sức khỏe của cây. Đôi khi bề mặt của cây là nơi chứa đựng những
lợi ích rất tốt cho sức khỏe. Một ví dụ tuyệt vời và đối tượng của nhiều nhà
thảo dược là cây thảo bản bông vàng (Verbascum thapsus, họ

23
Scrophulariaceae. Lá Mullein mềm và mờ, giống như mô có lông của hệ hô
hấp [25]. . Đối với những người cần hỗ trợ ngắn hạn khi bị ho hoặc nhiễm
trùng phổi, hỗ trợ lâu dài cho bệnh hen suyễn, hoặc thậm chí khuyến khích cơ
thể sửa chữa phổi, mullein là một lựa chọn phổ biến và đáng tin cậy. Nó đã
được sử dụng theo truyền thống trong nhiều năm như một loại thuốc bổ phổi
và long đờm và được điều chế theo vô số cách để chữa bệnh.
1.4.4. Hương thơm
Một trong những dấu hiệu thú vị nhất và là cách trực tiếp để nhận được
lợi ích sức khỏe của thực vật là thông qua mùi hương của nó. Đây vừa là một
phương thức nghệ thuật vừa là một phương pháp y học. Một số thực vật, đặc
biệt là thực vật có hoa, có chứa dầu thơm dễ bay hơi. Những loại dầu thơm
này được nội tại thông qua các thụ thể trong đường mũi của chúng ta và có
ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể chúng ta. thông qua khứu giác trong não [25].
Một ví dụ tuyệt vời là cây bạc hà (Mentha piperita, họ Lamiaceae).
Hương thơm của nó the mát, sạch sẽ đem lại sự sảng khoái, minh mẫn và bình
tĩnh cho cơ thể. Khi bạn ngửi thấy mùi bạc hà, một tín hiệu sẽ được đưa đến
não của bạn và não của bạn sẽ phản hồi bằng cách gửi thông điệp đến các
vùng khác nhau trên cơ thể, dẫn đến nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe. Loại cây
tuyệt vời này không chỉ giúp hạ sốt mà còn có thể giúp làm dịu cơn đau bụng
và hệ thần kinh hoạt động quá mức. Tất cả là nhờ vào mùi hương kích thích
và làm mát của nó (Grieve, 1971) [24].
1.4.5. Địa điểm
Nơi thực vật sinh sống và phát triển cho thấy nó có rất nhiều về mối
quan hệ của chúng với khu vực đó. Nó cũng cho thấy tiềm năng của thực vật
trong mối quan hệ hỗ trợ với hình thức con người. Học thuyết về vị trí thay
đổi khá nhiều, vì nó không nhất thiết phải là một công cụ trực quan như các
học thuyết khác, mà thay vào đó là sự hiểu biết rộng lớn về các vùng sinh học,
địa hình và khí hậu. Thế giới thực vật được kết nối hoàn toàn, giao tiếp với
nhau trên và dưới mặt đất.
Mỗi đặc điểm của thực vật là đặc trưng cho các điều kiện phát triển mà
nó cần để quang hợp ánh sáng mặt trời và carbon dioxide thành nguồn dinh

24
dưỡng để nuôi cây. Lấy cây nha đam (Aloe barbadensis miller, họ Liliaceae)
làm ví dụ điển hình. Nó có thể được tìm thấy mọc ở những vùng khô hạn, khô
cằn như sa mạc, và loài cây này dự trữ nước từ những điều kiện khô hạn. Bên
trong cây lô hội chứa chất gel dày, dưỡng ẩm và làm mát tuyệt vời mà chúng
ta sử dụng trong nhiều sản phẩm thảo dược, mỹ phẩm, chăm sóc cơ thể và
thậm chí cả thực phẩm. Nha đam thường được sử dụng như một loại cây sơ
cứu vết bỏng và kích ứng da. Nó cũng được sử dụng để hỗ trợ trị táo bón,
viêm trong và xung quanh cơ thể (Sujushe, Vasani, & Saple, 2008) [26]. Đây
là một loài thực vật có tác dụng bảo vệ tuyệt vời, không chỉ cho chính nó, mà
còn cho môi trường và con người xung quanh nó.
1.5. VAI TRÒ
Học thuyết Dấu hiệu đã chiếm một vị trí quan trọng trong tư duy khoa
học và y học từ thế kỷ XVI trở đi. Những người ủng hộ DOS lập luận rằng
Học thuyết về Dấu hiện đóng vai trò như một biện pháp hỗ trợ ghi nhớ, làm
cho việc sử dụng thực vật và y học cổ truyền dễ nhớ hơn. Nếu những câu
chuyện chỉ được truyền miệng thì những người yêu thích cây cỏ và hiểu biết
về công dụng làm thuốc của chúng mà không nhất thiết phải học một loại cây
thuốc mà có thể là bất cứ loài nào, mở mang kiến thức về loài cây đó. Các
kiến thức sau đó được truyền tai nhau để mọi người có thể áp dụng vào cuộc
sống hàng ngày.
Vai trò của ghi nhớ trong truyền tải văn hóa đã được xác lập rõ ràng.
Nhiều cây thuốc được gọi tên theo cách gọi dân gian mà tên gọi đó được mô
tả ẩn dụ về một số đặc điểm của thực vật hoặc động vật mà chúng được áp
dụng, điều này được coi như một sự trợ giúp cho việc ghi nhớ và phân biệt dễ
dàng giữa các loài khác. Học thuyết về Dấu hiệu đã được lưu truyền rộng rãi
trong dân gian vì các ứng dụng của nó dễ áp dụng trong cuộc sống hàng ngày.
Tuy nhiên, với mỗi một dân tộc, một vùng miền hay mỗi một quốc gia thì đều
có các dấu hiệu để nhận biết các loài thực vật hay động vật. Mặc dù sẽ có
những dấu hiệu khác nhau, có thể là do khác biệt về văn hóa và vùng miền,
nhưng nhìn chung đều mang dấu hiệu đặc biệt ẩn chứa tác dụng y học.

25
Liệu DOS dẫn đến việc một ai đó phát hiện ra một cây thảo dược có tác
dụng dược lý là điều không kiểm được. Theo Leonti và cộng sự (2002) thừa
nhận các vấn đề nhận thức lý luận về việc gán ghép vai trò làm sáng tỏ các
đặc tính cảm quan của thuốc [27]. Hơn nữa, nhiều cây trồng thiếu các dấu
hiệu vẫn được sử dụng cho mục đích tương tự như các cây có dấu hiệu. Shuar
sử dụng ít nhất chín loài để đốt chảy máu. Với những chiếc lá có đốm màu đỏ,
machan cha là loài duy nhất mang dấu hiệu có thể liên tưởng đến máu.
Nhiều loài có dấu hiệu rõ ràng lại không được sử dụng trong y học. Sự
liên kết với một dấu hiệu sẽ giúp ghi nhớ dễ dàng một loài thực vật và truyền
tải kiến thức về cách sử dụng chúng. Người ta sẽ trích xuất các dấu hiệu nổi
bật và đặc biệt để thêm vào với nhóm các loại cây có công dụng hiệu quả.
Người Globe ở Panama sử dụng hạt màu đỏ tươi của cây soroci như một loại
thuốc bổ máu, cũng như những người chữa bệnh ở Andors ở Bahamas [28].

26
CHƯƠNG II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu về Học thuyết Dấu hiệu trong lịch sử y dược của
thế giới, bao gồm các bài báo thừa nhận / không thừa nhận Học thuyết Dấu
hiệu.
Toàn bộ dữ liệu từ tháng 09/2020 trở về trước.
2.1.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 02/2022 đến tháng 06/2022
2.1.3. Nguồn dữ liệu
Các nguồn dữ liệu cơ sở dữ liệu: Pubmed và ClinicalTrials.gov
(bao gồm toàn bộ dữ liệu từ tháng 09/2020 trở về trước).
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Chiến lược tìm kiếm
Tìm kiếm trên Pubmed
Xác định từ khóa: ‘doctrine of signatures’, ‘medicinal
substances’, ‘medicinal plant selection’, ‘medicinal plants’, ‘signatures’.
Từ các từ khóa tìm được, câu lệnh xác định thông qua chiến lược
tìm kiếm dựa theo hệ thống MeSH (Medical Subject Headings)
Bảng 2.1: Các từ khoá dựa theo hệ thống MeSH

Từ khóa Từ khóa đồng nghĩa

Doctrine of signatures Không tìm thấy kết quả nào

Medicinal substances Không tìm thấy kết quả nào

Medicinal plant selection Không tìm thấy kết quả nào

Medicinal plants Medicinal Plant, Plant, Medicinal,

27
Medicinal Plants, Medicinal Herbs,
Herb, Medicinal, Medicinal Herb,
Herbs, Medicinal, Pharmaceutical
Plants, Pharmaceutical Plant, Plant,
Pharmaceutical, Plants,
Pharmaceutical, Healing Plants,
Healing Plant, Plant, Healing

Signatures Không tìm thấy kết quả nào

Kết quả tìm được 15 từ đồng nghĩa cho từ khóa “Medicinal plants”.

Hình 2.1: Kết quả từ đồng nghĩa của từ khóa “Medicinal plants”
Sau khi tìm kiếm các từ đồng nghĩa của các từ khoá trên trường MeSH
ta liên kết các từ đồng nghĩa lại với nhau bằng toán tử “OR” để tìm kiếm trên
trường Pubmed.
Trên trường Advanced, sử dụng toán tử “AND” để liên kết các kết quả
đã tìm kiếm. Cú pháp cuối cùng được đưa lên tìm kiếm trên trường Pubmed.
Kết quả tìm được 29581 bài báo cáo khoa học từ năm 2000 - 2022.

28
Hình 2.2: Kết quả tìm kiếm bài báo qua từ khóa “Medicinal plants”
2.2.2. Quá trình lựa chọn nghiên cứu
Quá trình lựa chọn nghiên cứu dựa trên các tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu
chuẩn loại trừ sau:
- Tiêu chuẩn lựa chọn:
(1) Nghiên cứu Học thuyết Dấu hiệu trong y học cận đại và hiện đại
(2) Đối tượng nghiên cứu là Học thuyết Dấu hiệu
(3) Có hoặc không có kết quả
- Tiêu chuẩn loại trừ:
(1) Tóm tắt hội nghị, hội thảo
(2) Các bài báo được viết bằng ngôn ngữ khác, không phải tiếng Anh
Các bài báo sau khi đã được tìm kiếm trên các nguồn cơ sở dữ liệu sẽ
được đánh giá theo tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ đã nêu ở trên.
Quá trình được tiến hành qua các bước sau:
Bước 1: Đưa các bài báo tìm được trên hai nguồn cơ sở dữ liệu về phần
mềm Zotero. Sử dụng chức năng tòm baì báo trùng lặp trên phần mềm (sử

29
dụng tiêu chí là các bài báo trùng nhau về tác giả, năm công bố và tiêu đề bài
báo). Một số bài báo trùng nhau sẽ được loại bỏ.
Bước 2: Lựa chọn các bài báo qua tiêu đề và tóm tắt. Các bài báo sẽ
được đánh giá theo tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ.
Bước 3: Các bài báo được lựa chọn qua bước 2 sẽ được lựa chọn tiếp
bằng cách đọc nội dung chi tiết bài báo (fulltext) và đánh giá dựa trên tiêu
chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ.
Bước 4: Các bài báo được lựa chọn sau bước 3 sẽ chính thức được đưa
vào phân tích kết quả.
Trong trường hợp không lấy được bài có nội dung chi tiết, các bài báo
đó sẽ được đánh giá trên nội dung tiêu đề và tóm tắt. Bài báo chỉ được lựa
chọn nếu nội dung tóm tắt thoả mãn các tiêu chuẩn đánh giá và có kết quả cụ
thể.
Việc lựa chọn các bài báo qua từng bước đều có sự đồng thuận giữa hai
người nghiên cứu. Nếu có mâu thuẫn xảy ra trong việc lựạ chọn các bài báo
giữa hai người nghiên cứu này sẽ được thảo luận, xem xét lại với nhau một
lần nữa để đưa ra kết quả cuối cùng.
Quá trình tìm kiếm và thu thập bài báo được trình bày trong hình dưới
đây:

30
Hình 2.3: Sơ đồ quy trình tìm kiếm và lựa chọn bài báo

2.3. QUÁ TRÌNH ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG VÀ TỔNG HỢP DỮ


LIỆU TỪ CÁC BÀI BÁO
Sau khi đọc chi tiết các bài báo được chọn, tiến hành đánh giá chất
lượng bằng chứng và chiết xuất dữ liệu các bài báo một cách độc lập.

31
2.3.1. Đánh giá chất lượng
Hệ số ảnh hưởng (impact factor, viết tắt IF) của một tạp chí được định
nghĩa, thừa nhận và dùng rộng rãi lâu nay. Hệ số này của một tạp chí thay đổi
theo từng năm, và hệ số ảnh hưởng của một tạp chí T trong năm N được tính
bằng tỷ số A/B, trong đó A là tổng số lần trích dẫn, tính trong tất cả các ấn
phẩm của năm N, đến các bài đăng trên T trong hai năm liên tiếp ngay trước
N, và B là tổng số các bài đăng trên T trong hai năm này. Nếu trong hai năm
2007 và 2008 tạp chí T đăng tất cả 100 bài báo, và có 250 lần các bài trong số
100 bài này của T được trích dẫn trong tất cả các bài ở các tạp chí, hội
nghị, … của năm 2009, thì hệ số ảnh hưởng của T trong năm 2009 sẽ là
250/100 = 2,5. Tạp chí Physical Review Letters có IF năm 2009 là 7,180 có
nghĩa là về trung bình mỗi bài báo của tạp chí này công bố năm 2007 và 2008
được trích dẫn 7,180 lần trong năm 2009. Người ta thường chỉ nói hệ số ảnh
hưởng của một tạp chí và không nêu cụ thể một năm nào đấy. Nhưng thực ra
hệ số này có thể thay đổi rất nhiều theo thời gian, thí dụ tạp chí
Bioinformatics có IF theo ISI là 4,328 vào năm 2008, 4,894 năm 2007, 5,742
năm 2004, 6,701 năm 2003, 4,615 năm 2002, và 3,421 năm 2001.
Hệ số ảnh hưởng của tạp chí được dùng cho nhiều mục đích, như cho
biết uy tín và sự phát triển của tạp chí, nhà khoa học chọn tạp chí gửi bài, nhà
quản lý dùng để đánh giá hiệu quả nghiên cứu của các nhà khoa học, như cơ
sở để xét biên chế, giải thưởng, cấp duyệt kinh phí. Hệ số ảnh hưởng của tạp
chí còn được dùng để đánh giá các khoa, trường và viện nghiên cứu, đo hiệu
quả khoa học của các quốc gia.
2.3.2. Tổng hợp dữ liệu
Sau khi chất lượng các nghiên cứu được đánh giá, tiến hành tổng hợp
dữ liệu. Mẫu này được trao đổi và thống nhất giữa các thành viên trong nhóm
nghiên cứu. Nội dung được ghi nhận là thông tin về nghiên cứu bao gồm tên
các tác giả chính, tên tạp chí, năm xuất bản, địa điểm nghiên cứu, loại hình
nghiên cứu, thời gian tiến hành nghiên cứu.

32
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ
Quan sát kỹ thực vật, chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều - về môi
trường sống, khí hậu, thủy văn, động vật và thổ nhưỡng địa phương. Mỗi cây
là một cây truyện và mang một tiếng nói riêng. Ví dụ, những chiếc lá mọng
nước chỉ ra rằng một loại cây có thể phát triển mạnh trong đất cát hoặc chịu
đựng trong điều kiện hạn hán; những cây hoa có màu sắc sặc sỡ, có mùi nồng
hoặc có thể có mùi hôi khó chịu lại cho thấy rằng loài cây này dựa vào côn
trùng để làm thức ăn, tạo chất dinh dưỡng và để phân phối hạt giống cho cây.
Không chỉ phản ánh góc nhìn từ một nhà thực vật học với tính chất
nghiên cứu khoa học mà để dễ dàng tiếp cận, người ta đã làm cho DOS trở
nên dễ dàng ghi nhớ. Thông qua cách gọi gần gũi với công dụng của nó hay
đặc điểm thực vật của cây mà mỗi một vùng miền lại có cách gọi khác nhau
nhưng nhìn chung thì không có sự khác biệt. Đây được xem là một cách để
ghi nhớ trong văn hóa lâu đời từ khi mà ngôn ngữ chữ viết chưa phát triển.
Vậy nên Học thuyết Dâu hiệu là một phương tiện để ghi nhớ và giao tiếp văn
hóa với các vùng miền, các quốc gia hay các châu lục.
Học thuyết Dấu hiệu có lẽ tồn tại từ lâu khi con người nhìn vào thực
vật. Các Dấu hiệu này cũng được giải thích ở các lục địa khác. Chúng là nền
tảng của y học cổ truyền Trung Quốc, có niên đại hàng thiên niên kỷ. Các nhà
dân tộc học đã ghi lại khái niệm này ở nhiều bộ lạc thổ dân châu Mỹ, trong
các cộng đồng truyền thống ở Israel và nhiều nơi khác. Việc áp dụng các dấu
hiệu vào thực vật là một sự thúc đẩy phức tạp và phổ biến, và điều này đã
diễn ra dưới nhiều hình thức qua các thời kỳ và các nền văn hóa [29]. DOS là
một đóng góp to lớn trong nền y học cận đại trở về trước, mang góc nhìn khá
chủ quan nhưng lại là tiền đề nổi bật trong thời bấy giờ để xem xét một thực
vật có hay không mang tác dụng y học.
3.1. ỨNG DỤNG TRONG ĐÔNG Y
Trung Quốc cổ đại đã có niên đại từ xa xưa đến nay, khoảng 3500
những năm trước Công nguyên. Bằng chứng về sự tồn tại của nó đã được
nghiên cứu rộng rãi từ các tài liệu lâu đời và các nghiên cứu khảo cổ học. Họ
đã chứng tỏ một nền văn minh phát triển mạnh mẽ ở miền trung Trung Quốc

33
ngày nay và khu vực thung lũng sông Hoàng hà ở miền bắc Trung Quốc. Một
đặc điểm thú vị và nhất quán được các nhà sử học xác định là khả năng người
Trung Quốc cổ đại đồng hóa các khu vực xung quanh vào nền văn minh của
họ. Điều này được thực hiện thông qua chinh phục, chiến tranh và thuộc địa.
Điều này cho phép phổ biến kiến thức, ngôn ngữ, văn hóa và ảnh hưởng chính
trị ra ngoài biên giới của họ. Điều này đặc biệt được thể hiện qua việc tương
đồng với thuốc và các phương pháp chữa bằng thảo dược đã di cư đến những
nơi ngày nay là Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
Tập trung vào một nền văn minh sơ khai của Trung Quốc, triều đại nhà
Hạ (khoảng 2070 TCN-1600 TCN). Mặc dù thời kỳ này không phải là một
triều đại theo định nghĩa cổ điển (tức là đòi hỏi một người cai trị hoặc gia
đình cai trị duy nhất), thời kỳ này trong lịch sử Trung Quốc được coi là một
thực thể riêng biệt trong văn học và nghệ thuật từ các triều đại sau đó. Tất cả
các vị hoàng đế từ thời kỳ này đều được công nhận cai trị trong một thời kỳ
hòa bình vĩ đại và sống đến già. Những vị hoàng đế này đã mang đến cho
người dân thời đại này lửa, kiến trúc, các nguyên tắc canh tác và nông nghiệp,
lịch và y học.
Hoàng đế Shen-Nung là vị hoàng đế thứ hai trong số các vị hoàng đế
thần thoại của Trung Quốc (3500-2600 TCN). Ông được coi là cha đẻ của y
học Trung Quốc, ông lập danh mục hơn 365 loài cây thuốc. Người ta tin rằng
ông đã tự mình nếm thử nhiều món trong số chúng. Thông qua chuyên luận
“Shen Nung Benchau Jing” (Sách của Hoàng đế Shen-Nung), các tài liệu
được lưu trữ và bản thảo tại Bộ sưu tập Lịch sử Y học Wellcome, Hiệp hội Y
khoa Hoàng gia, London, Bảo tàng Khoa học Y tế Hồng Kông và Bảo tàng
Lịch sử Y khoa, Thượng Hải , Trung Quốc. Nhân sâm (Panax ginseng, họ
Araliaceae) là một trong những đóng góp của Seng-Nung trong lĩnh vực y học
thảo dược [12] . Ông đã trải qua cảm giác ấm áp và khoái lạc tình dục sau khi
sử dụng nhân sâm bằng cách nhai củ của nó. Ông ủng hộ đây là phương pháp
điều trị chứng rối loạn cương dương và sử dụng nó để kích thích ham muốn
tình dục. Nhân sâm được biết đến như một loại thuốc kích thích tình dục dựa
trên học thuyết về dấu hiệu. Vì rễ trưởng thành có hình dạng quả hạch, Seng-
Nung tin rằng sự tương đồng của nhân sâm với hình dạng con người là bằng

34
chứng về các đặc tính kích thích và trẻ hóa của nhân sâm. Người ta tin rằng
càng gần giống với hình người thì tác dụng cho con người càng mạnh [30].
Ông khuyến nghị sử dụng nó cho nam giới để tăng hiệu suất của họ
trong các lĩnh vực và nâng cao hiệu lực của họ. Nhân sâm cũng được ghi nhận
trong các văn bản Vệ Đà của Ấn Độ cổ đại như thông qua thực hành
ayurvedic cổ đại, nhân sâm “ban cho nam giới, cả người trẻ và người già, sức
mạnh của một con bò đực” [12].
Nhân sâm đỏ (hồng sâm) có tác dụng mạnh hơn so với nhân sâm trắng,
nó được cho là thúc đẩy năng lượng với “cường độ cao hơn”. Do đó, nhân
sâm đỏ đã được sử dụng trong những trường hợp cần sức sống, sức chịu đựng
và năng lượng. Từ đó, nó được liên kết với việc trở thành một chất bổ sung bổ
sung lý tưởng để tăng cường ham muốn tình dục. Chính từ những đặc tính
này mà vai trò của nó trong điều trị rối loạn cương dương và tăng cường chức
năng tình dục đã phát triển.
Một hiện tượng thú vị được gọi là “hội chứng nhân sâm” đã được báo
cáo vào những năm 1970. Tập hợp các triệu chứng bao gồm ham muốn tình
dục cao độ, lo lắng, tiêu chảy và mất ngủ đã bị thu hồi khỏi tài liệu [12].
Loại củ có nhiều tác dụng này đã thu hút trí tưởng tượng không chỉ của
người viễn Đông, mà còn cả thế giới phương Tây. Việc sử dụng nhân sâm
trong việc điều trị bệnh rối loạn cương dương của Hoàng đế Shen-Nung là
duy nhất vào thời đó. Nó đã ảnh hưởng đến hoạt động tiết niệu cho đến nay ở
nhiều quốc gia và tiếp tục duy trì sự hiện diện của nó như một loại thuốc kích
thích tình dục thảo dược hiện đại 5000 năm sau.
3.2. ỨNG DỤNG TRONG Y DƯỢC HIỆN ĐẠI
Hiện nay DOS dù chưa có nhiều cơ sở khoa học để chứng minh, tuy
nhiên nó lại là học thuyết phổ biến, dễ ứng dụng trong cuộc sống và là cơ sở
cho nhiều nhà khoa học để nghiên cứu tìm ra các chất, hoạt chất để chữa bệnh.
Một thuốc cực kỳ nổi tiếng đã được tìm ra và phát triển nhờ học thuyết này là
Aspirin.
4000 năm trước, người Sumer cổ đại đã có một khám phá bất ngờ. Nếu
họ lột vỏ của một loài cây đặc biệt, rồi ăn nó, cơn đau của họ biến mất. Họ

35
hẳn không biết rằng thứ họ tìm được sẽ có ảnh hưởng to lớn trong lịch sử y
học. Thứ người Sumer cổ tìm thấy là tiền thân của loại thuốc được biết đến
ngày nay với tên Aspirin. Hoạt chất của Aspirin thường được tìm thấy trên
cây liễu và một số loài cây dại khác. Vì thế mà nó còn xuất hiện trong y học
cổ truyền của Sumer, Ai Cập cổ đại, Hy Lạp cổ đại và nhiều nền văn minh
khác.
Khoảng năm 4000 trước Công nguyên, Hippocrates, cha đẻ của y học
hiện đại đã lần đầu tiên đề xuất nhai vỏ cây liễu để giảm đau và uống trà lá
liễu giúp phụ nữ dịu cơn đau lúc lâm bồn. Dù vậy, chúng ta mất khoảng hơn
2000 năm để hiểu tường tận hiệu quả của nó.
Vào giữa thế kỷ XVIII, một mục sư người Anh tên Edward Stone đọc
một báo cao cho Hiệp hội Hoàng gia về việc sử dụng vỏ cây liễu trong cơn sốt
[10]. Ông đã vô tình nếm thử và ngạc nhiên vì vị đắng lạ thường của loại cây
này, nó khiến ông nhớ đến mùi vị của vỏ cây canhkina (có chứa quinine). Ông
tin vào quy định rằng các phương pháp chữa bệnh thuyên giảm sẽ được tìm
thấy ở cùng những địa điểm nơi bệnh tật xảy ra. Vì cây liễu thích nơi đất ẩm
ướt để sinh trưởng. Ông đã tiến hành năm năm thí nghiệm bằng cách lấy vỏ
cây liễu, sấy khô trong lò làm bánh sau đó nghiền thành bột. Và kết quả cho
thấy ăn vỏ liễu nghiền thành bột có thể làm hạ sốt.
Linh mục Stone không chọn cây liễu vì các dấu hiệu logic hình thái tiên
nghiệm mà ông chọn nó vì ông đã “vô tình” nếm thử vỏ cây. Lý do mà ông
lựa chọn cây liễu có thể thúc đẩy bởi sự phát triển của cây liễu trong đất ẩm
ướt và niềm tin rằng “các biện pháp khắc phục không nằm xa nguyên nhân
của chúng”. Tuy nhiên, nhiều loài khác có cùng môi trường sống nhưng Stone
rất khách quan trong cách tiếp cận của mình: “Tôi không có động cơ nào khác
để xuất bản giá trị cụ thể có thể có này, ngoài việc nó có thể có một phiên tòa
công bằng và đầy đủ trong tất cả các loại và hoàn cảnh, tình huống của nó”
(trong Vane và Botting, 1998). Các dấu hiệu hình thái học không đủ để giải
thích sự lựa chọn của ông [31].
Phải mất thêm 70 năm nữa, một dược sĩ người Đức là Johann Buchner
mới xác định và tinh chế ra chất có những tác dụng này, một hợp chất tên là

36
salicin (Salix: cây liễu - tên Latin) (. Từ đó, các bác sĩ thường chỉ định vỏ cây
liễu và những loại cây chứa nhiều salicin như cây râu dê để giảm đau, hạ sốt,
và hạn chế viêm sưng. Năm 1853, một nhà hóa học người Pháp đã hóa tổng
hợp thành công hợp chất và tạo ra một chất tên là acid acetylsalicylic. Đến
1897, hãng Bayer tìm ra một phương pháp mới và bắt đầu quảng bá hợp chất
này như là một loại thuốc giảm đau có tên Aspirin. Đây được xem là một
trong những chất được tổng hợp đầu tiên [32].
Tại thời điểm phát minh ra Aspirin, nhiều người tin rằng cơ chế giảm
đau của thuốc là tác động lên hệ thần kinh trung ương. Nhưng ngày nay chúng
ta đã biết giá trị sử dụng của nó vượt xa hiệu quả giảm đau đơn thuần và
aspirin thậm chí còn được sử dụng trong điều trị triệu chứng viêm gây ra bệnh
tim và nhiều bệnh ung thư (đặc biệt là ung thư trực tràng) [32].

37
CHƯƠNG IV. BÀN LUẬN
Mọi thứ mà chúng ta nhìn thấy, cảm nhận, nhận thức đều là năng lượng
trong chuyển động. Mỗi cơ quan và tế bào trong cơ thể chúng ta đều có một
số rung động đặc trưng hoặc một tập hợp các tần số. Bản thân ánh sáng trắng
là sự kết hợp của các tần số có thể tách thành quang phổ cầu vồng nhìn thấy
được. Tương tự, mọi dạng hình học đều tạo ra các tần số riêng biệt của nó. Vì
vậy, không phải ngẫu nhiên mà hình dạng và màu sắc của rau, hạt, trái cây và
hoa quyết định nó sẽ cộng hưởng với cơ quan nào. DOS nói rằng mọi loại trái
cây và rau quả đều có một hình thái nhất định giống với một cơ quan trong cơ
thể và mô hình này đóng vai trò là manh mối cho thấy lợi ích của trái cây
hoặc rau đó đối với con người.
Học thuyết Dấu hiệu được tìm thấy khắp nơi trên thế giới. Nó được
trích dẫn bởi sách viết cổ điển Hy Lạp và được sử dụng thường xuyên trong y
học thảo dược trong thời kỳ Phục Hưng. Với một vài trường hợp ngoại ngoại
lệ, các học giả bác bỏ DOS như một ý tưởng “sơ khai” hoặc “hiện đại”. Mặc
dù có lịch sử lâu đời, học thuyết đã có rất ít sự phê bình. Việc đánh giá cẩn
thận các dấu hiệu gợi ý bốn điều.
(1) Theo phân loại được xác định theo hình thái học, các dấu hiệu hiếm
khi dẫn đến việc phát hiện ra các cây thuốc. Xem xét DOS theo cách này là
không hiệu quả và phần lớn là không thể kiểm chứng được.
(2) Hầu hết các dấu hiệu là tên gọi hậu kỳ hơn là manh mối tiên nghiệm.
Nhìn thấy một dấu hiệu cụ thể thường đòi hỏi một trí tưởng tượng phong phú,
sống động.
(3) Một khái niệm rộng hơn về các bản chất bao gồm các đặc tính cảm
quan được gắn với giá trị điều trị là hiệu quả. Thực vật có mùi mạnh và vị
đắng, ngay cả những cây không có tiền sử sử dụng làm thuốc, cần được điều
tra dược lý vì những đặc tính này có liên quan đến sự hiện diện của các hợp
chất có hoạt tính sinh học tiềm năng.
(4) DOS nên được coi là phương thức chủ yếu của nó, một cách phổ
biến thông tin. Về cơ bản, DOS là một phương tiện ghi nhớ và do đó nó cực
kỳ có giá trị trong các nền văn hóa truyền thống.

38
Theo Moerman (2002, và cộng sự) cho rằng dấu hiệu có thể nâng cao
“hiệu ứng giả dược” của thuốc [33]. Những loài có đặc điểm giống với bệnh
đang được điều trị có thể được bệnh nhân cho là hiệu quả hơn.
Ý tưởng đằng sau Học thuyết rất đơn giản: các nhà thảo dược sẽ quan
sát hình thái vật chất của một loài thực vật hoặc môi trường sinh thái để xây
dựng các loại bệnh tật mà nó có thể giúp chữa khỏi. Bằng cách lưu ý các khía
cạnh như màu sắc của cây và hoa, hình dạng của lá hay rễ hoặc khu vực mà
nó phát triển, họ sẽ cố gắng xác định cách sử dụng nó. Ví dụ, thực tế là hoa
cúc giống với đôi mắt có nghĩa là chúng có thể giúp điều trị các chứng bệnh
về mắt; các loại thảo mộc có hoa hoặc rễ màu đỏ được cho là có thể giúp chữa
bệnh rối loạn máu; các loại thảo mộc có hoa hoặc rễ màu vàng có thể làm
giảm bớt các vấn đề liên quan đến bệnh vàng da.
Xem xét các giả thuyết khác nhau và các lý thuyết chính đã được sử
dụng để nghiên cứu chính. Những giả thuyết này và các lý thuyết, từ dân tộc
học và các lĩnh vực liên quan như y học hay thực vật học. Tổng kết lại có một
số thắc mắc vẫn chưa được giải đáp.
Những nhà thảo thực vật học đã dựa vào dấu hiệu của thực vật để đặt
tên và từ đó tìm ra công dụng của chúng, hay theo một chiều ngược lại rằng từ
tác dụng y học mà chúng ta đặt tên loài cây theo đó như một cách để ghi nhớ?
Dựa theo các học giả có lập luận ủng hộ DOS, các dấu hiệu dễ thấy của cây là
từ quan sát bằng cảm quan (mắt nhìn) như màu sắc của hoa hay lá, hoặc hình
dáng của cây, cành hay rễ. Sau đó là mùi của thực vật đó, tiếp theo mới là
phân tích kỹ hơn về đặc điểm và thuộc tính của nó. Cũng có thể từ đó nó mới
được đặt tên, một cái tên dễ ghi nhớ cho con người giữa vô vàn loài thực vật.
Ví dụ như cây Lá gan (có lá giống với lá gan của người), quả Óc chó (có phần
hạt giống với não người). Các học giả đã không có mặt khi mà những người
được coi là đầu tiên nhận biết một loại thực vật và hiểu rõ công dụng của nó.
Do đó cũng không thể khẳng định các dấu hiệu có ảnh hưởng đến việc lựa
chọn cây trồng như thế nào. Nếu Học thuyết Dấu hiệu là một phương pháp
phổ biến trong việc lựa chọn thảo dược, như nhiều người tranh luận, thì cây
có dấu hiệu nên được sử dụng rộng rãi hơn những cây không có dấu hiệu.

39
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ giúp cho y học
hiện đại đạt được những thành tựu quan trọng, phát hiện ra nhiều bước tiến
mới vượt bậc, với những sự hiện đại đó chúng ta chứng minh lâm sàng và các
thử nghiệm mù có thể khiến chúng ta coi lý thuyết này là sai lầm. Nhưng đối
với những người quan tâm đến gốc rễ của y học thảo dược phương Tây và
phương Đông, Học thuyết Dấu hiệu vẫn là một lý thuyết tiếp tục gây tò mò,
đặc biệt là do trong một số trường hợp, nó đã dẫn đến các ứng dụng chính xác
để chữa bệnh của các loại thảo mộc.

40
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

Trong hàng nghìn năm, con người đã tìm đến thiên nhiên để cung cấp
thuốc chữa nhiều loại bệnh. Ngày nay, chúng ta có các công cụ hiện đại hữu
hiệu để đánh giá hiệu quả và đặc tính chữa bệnh của thực vật, động vật,
khoáng chất và các chất tổng hợp, nhưng làm thế nào con người trong thời
gian trước đây đánh giá các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có để điều trị
bệnh của họ?. Người ta đã sử dụng vẻ ngoài của một loại cây để đánh giá các
đặc tính y học của nó. Học thuyết về dấu hiệu là niềm tin lâu đời rằng thực vật
giống với chính các bộ phận cơ thể mà chúng được dùng để chữa bệnh. Thông
qua quá trình nghiên cứu tổng quan về lý thuyết nay cho chúng ta thấy rằng
vai trò quan trọng của học thuyết và những ứng dụng của nó trong Y Dược
hiện đại.
Ở mỗi một thời kỳ, hay triều đại đều có những nhà khoa học ủng hộ
Học thuyết này, coi nó như một điểm tựa để tìm ra loại dược liệu mới nhằm
mục đích điều chế thuốc chữa bệnh. Sự phổ biến hiện nay của nó dường như
bắt nguồn từ mối quan hệ mạnh mẽ của nó với y học cổ truyền, vốn vẫn đang
được thực hành. Chẳng hạn như, nó chỉ ra rằng các loại thực vật giống với
tình trạng hoặc bộ phận cơ thể, theo một cách nào đó có thể điều trị hoặc giảm
bớt bệnh tật. Chẳng hạn như, quả óc chó, trông giống như bộ não, sẽ làm dịu
cơn đau đầu; và rễ cây huyết dụ có thể điều trị các bệnh về hệ tuần hoàn.
Dưới góc độ cá nhân thông qua quá trình nghiên cứu này tôi thấy rằng
ưu điểm lớn nhất của Học thuyết Dấu hiệu đó là: Giúp tăng sự đa dạng trong
phương pháp trị liệu và phục hồi sức khoẻ của các bệnh nhân. Học thuyết này
là cơ sở và nền tảng quan trọng trong quá trình điều chế thuốc trong lĩnh vực
dược. Ngoài ra, điểm xuất phát phát của học thuyết này bắt nguồn từ các
nguồn tài nguyên (thực vật, động vật, hoặc khoáng sản) trong thiên nhiên cho
nên để xây dựng và ứng dụng trong thực tế là hết sức thuận lợi. Các ứng dụng
của học thuyết này trở nên phổ biến hơn ở thời đại ngày nay, sự xuất hiện với
nhiều căn bệnh mới ở trên người với việc duy trì được một sức đề kháng tốt
cùng thông qua các dược liệu từ tự nhiên là hết sức cần thiết. Cho nên học
thuyết này một lần nữa chứng minh được giá trị to lớn là điều dễ hiểu.

41
Tuy nhiên, trong suốt chiều dài lịch sử luôn có những luận điểm bác bỏ
DOS, cho rằng đây chỉ là một Học thuyết lạc hậu và lỗi thời. Các ý kiến được
đưa ra hầu hết dựa trên lập luận về tính hiệu quả chính xác của Học thuyết
này về mặt khoa học. Tôi cũng cho rằng đây là điểm hạn chế của học thuyết
này. Theo khái niệm chung, Học thuyết này dựa trên nền tảng dấu hiệu ( màu
sắc, hương vị, hình dạng) của sinh vật , tuy nhiên do tính phân bổ không đồng
đều của các sinh vật theo địa lý của vùng miền cho nên việc đánh giá về tính
hiệu quả về mặt khoa học chưa được chứng minh một cách nhất quán. Điều
này làm cho sự hoài nghi trong việc ứng dụng học thuyết trở nên phổ biến
trong suốt lịch sử qua. Thêm và đó, với sự phát triển của của khoa học Y
Dược hiện đại về cả công nghệ và kỹ thuật bào chế thuốc điều này đã làm cho
việc phổ biến học thuyết này trở nên khó khăn hơn.
Tóm lại, kết quả phân tích và nghiên cứu Học thuyết cho chúng ta thấy
rằng vài trò quan trọng của học thuyết dấu hiệu trong ứng dụng thực tế ngày
nay. Việc duy trì và phát triển học thuyết này vào thực tế là hết sức cần thiết
trong lĩnh vực Y Dược ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Dưới góc
độ là một sinh viên nghiên cứu về Dược tôi cho rằng việc ứng dụng các
phương pháp bào chế thuốc từ các dược liệu và thảo dược là hết sức tiềm
năng tại thị trường thuốc ở Việt Nam. Bởi vì Việt Nam là một trong những
vùng có nguồn dược liệu lớn trên thế giới. Việc ứng dụng có tính khoa học
của học thuyết DOS vào quá trình điều trị và phục hồi bệnh nhân tại Việt
Nam vừa đóng vai trò giảm gánh nặng về mặt kinh tế vừa tạo tiền đề cho sự
phát triển thương hiệu Thuốc của Việt Nam trong tương lai.
Để thực hiện điều đó chúng ta cần có sự đầu tư nghiên cứu khoa học về
từng dược phẩm cụ thể, cần có những chính sách về việc mở rộng và phát
triển các vùng thảo dược tại Việt Nam. Đồng thời cũng có những chính để
bảo tồn và duy trì sự tồn tại và nhân rộng của các loại thảo dược quý hiếm.
Trong lĩnh vực Dược và Y thì cần có sự đầu tư về nghiên cứu đồng bộ các
pháp đồ điều trị và phục hồi có sự kết hợp hiệu quả giữa Đông Y và Tây Y.
Đặc biệt là các nghiên cứu về dược liệu cần sự kết hợp chặt chẽ giữa nhiều
bên liên quan, từ việc nghiên cứu cây làm dược liệu chính, đến trồng và chuẩn
bị nguyên liệu điều chế và cuối cùng là bào chế, đều là một quy trình khép kín

42
và được trang bị thiết bị máy móc đầy đủ, cùng với đó là đội nghiên cứu dồi
dào, đủ trình độ năng lực. Tất cả những điều này cho thấy tầm quan trọng của
Học thuyết và phát triển sự dạ dạng trong ngành Dược trong tương lai.

43
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Bennett, B., Doctrine of Signatures: Through Two Millennia. American
Botanical Council, (78): p. 34-45.
2. Levetin E, M.K., Plants and society. 1996, Dubuque, Iowa: Wm C.Brown
Publishers.
3. Fazal, H., N. Ahmad, and B. Haider Abbasi, Identification, characterization, and
palynology of high-valued medicinal plants. ScientificWorldJournal, 2013. 2013: p.
283484.
4. Khir, R. and Z. Pan, Chapter 16 - Walnuts, in Integrated Processing Technologies
for Food and Agricultural By-Products, Z. Pan, R. Zhang, and S. Zicari, Editors.
2019, Academic Press. p. 391-411.
5. Pandita, D., Is the Doctrine of Signatures Signature Sequences designed by God?
International Journal of Scientific and Research Publications, 2016.
6. Jati, I.R.A.P., V. Vadivel, and H.K. Biesalski, Chapter 31 - Antioxidant Activity of
Anthocyanins in Common Legume Grains, in Bioactive Food as Dietary
Interventions for Liver and Gastrointestinal Disease, R.R. Watson and V.R. Preedy,
Editors. 2013, Academic Press: San Diego. p. 485-497.
7. Aworinde, D.O., et al., The †œDoctrine of Signatures†in herbal prescriptions in
Ikale and Ilaje communities of Ondo State, Southwestern Nigeria. Journal of
Medicinal Plants Research, 2018. 12(18): p. 222-227.
8. Davies, O. and F. Matteoni, The Places and Tools of Execution, in Executing Magic
in the Modern Era: Criminal Bodies and the Gallows in Popular Medicine, O.
Davies and F. Matteoni, Editors. 2017, Springer International Publishing: Cham. p.
53-79.
9. Bennett, B.C., Doctrine of Signatures: An Explanation of Medicinal Plant
Discovery or Dissemination of Knowledge? Economic Botany, 2007. 61(3): p. 246-
255.
10. Allkin, B., Wellcome Trust–Funded Monographs and Book Chapters Useful Plants
– Medicines: At Least 28,187 Plant Species are Currently Recorded as Being of
Medicinal Use, in State of the World's Plants 2017, K.J. Willis, Editor. 2017, Royal
Botanic Gardens, Kew© The Board of Trustees of the Royal Botanic Gardens,
Kew.: London (UK).
11. Leonti, M., The future is written: impact of scripts on the cognition, selection,
knowledge and transmission of medicinal plant use and its implications for
ethnobotany and ethnopharmacology. J Ethnopharmacol, 2011. 134(3): p. 542-55.
12. Nair, R., S. Sellaturay, and S. Sriprasad, The history of ginseng in the management
of erectile dysfunction in ancient China (3500-2600 BCE). Indian J Urol, 2012.
28(1): p. 15-20.
13. American Academy of Microbiology Colloquia Reports, in Systems Microbiology:
Beyond Microbial Genomics: This report is based on a colloquium sponsored by
the American Academy of Microbiology held June 4-6, 2004, in Portland, Oregon.
2004, American Society for Microbiology Copyright 2004 American Academy of
Microbiology.: Washington (DC).
14. Frasca, T., A.S. Brett, and S.D. Yoo, Mandrake Toxicity: A Case of Mistaken
Identity. Archives of Internal Medicine, 1997. 157(17): p. 2007-2009.
15. Jewell, W., The Golden Cabinet of True Treasure: containing the summe of morall
philosophie. Vol. 1612. 2011, London: John Crosley: Text Creation Partnership.
167.

44
16. Dioscorides, P. and L.Y. Beck, De materia medica. Third, revised edition. ed.
Altertumswissenschaftliche Texte und Studien, Bd. 38. 2017, Hildesheim: Olms-
Weidmann.
17. Morse, K., Milton's Ideas of Science as Shown in "Paradise Lost". The Scientific
Monthly, 1920. 10(2): p. 150-156.
18. The Powerful Solanaceae: Mandrake. United States Department of Agriculture.
19. Mandrake – The Scream of Death.
20. Carter, A.J., Myths and mandrakes. J R Soc Med, 2003. 96(3): p. 144-7.
21. Kristin, Third Eye Chakra: Everything You Need to Know. 2021.
22. Culpeper, N. and N. Culpeper, Culpeper's complete herbal : consisting of a
comprehensive description of nearly all herbs with their medicinal properties and
directions for compounding the medicines extracted from them. 1880, London:
Foulsham.
23. Bennett, R.R., The Gift of Healing Herbs: Plant Medicines and Home Remedies for
a Vibrantly Healthy Life. Berkeley: North Atlantic Books.
24. Grieve, M., A Modern Herbal. 1971: Stone Basin Books. 512.
25. Coleman, R.F. DOCTRINE OF SIGNATURES: AN INTRODUCTION TO
DEEPENING OUR CONNECTION WITH THE BENEFICIAL PROPERTIES OF
PLANTS. 2017.
26. Surjushe, A., R. Vasani, and D.G. Saple, Aloe vera: a short review. Indian J
Dermatol, 2008. 53(4): p. 163-6.
27. Leonti, M., O. Sticher, and M. Heinrich, Medicinal plants of the Popoluca, México:
organoleptic properties as indigenous selection criteria. Journal of
Ethnopharmacology, 2002. 81(3): p. 307-315.
28. Richardson-Boedler, C., The doctrine of signatures: a historical, philosophical and
scientific view (I). Br Homeopath J, 1999. 88(4): p. 172-7.
29. Richardson-Boedler, C., The Doctrine of Signatures: a historical, philosophical,
scientific view (II). Br Homeopath J, 2000. 89(1): p. 26-8.
30. Liu, C.X. and P.G. Xiao, Recent advances on ginseng research in China. J
Ethnopharmacol, 1992. 36(1): p. 27-38.
31. Desborough, M.J.R. and D.M. Keeling, The aspirin story – from willow to wonder
drug. British Journal of Haematology, 2017. 177(5): p. 674-683.
32. Vlachojannis, J., F. Magora, and S. Chrubasik, Willow species and aspirin:
different mechanism of actions. Phytother Res, 2011. 25(7): p. 1102-4.
33. Moerman, D., Meaning, Medicine, and the ‘Placebo Effect’. 2002. xiii, 172 p. :.

45

You might also like