You are on page 1of 19

PHÒNG GDĐT…………

TRƯỜNG ………….................................……….

Mã số: ................................
(Do Ban tổ chức ghi)

BÁO CÁO BIỆN PHÁP


………………………………………………………………………….
(Ghi đầy đủ tên gọi của báo cáo biện pháp pháp bằng chữ in hoa đậm)

Người thực hiện: …………………………........................


Môn học tham gia dự thi:...................................................

Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in
 Mô hình  Đĩa CD (DVD)  Phim ảnh  Hiện vật khác

Năm học:..............................

1
MỤC LỤC

STT Nội dung Trang


1 Phần mở đầu 4
2 1. Lý do chọn biện pháp 4-5
3 2. Phạm vi và đối tượng thực hiện 5
4 3. Mục đích của biện pháp 5
5 Phần nội dung 6 -17
6 1. Nội dung các biện pháp của tác giả đã thực hiện. 6 - 17
7 2. Hiệu quả của các biện pháp đã thực hiện 17
8 Phần kết luận 18-19
9 1. Kết luận về biện pháp 18
10 2. Kiến nghị 18-19
11 3. Tài liệu tham khảo 19
3

THÔNG TIN CHUNG VỀ BÁO CÁO BIỆN PHÁP


1. Tên báo cáo biện pháp: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên dạy
tốt phần đọc hiểu
2. Tác giả:
- Họ và tên: ……………………….………….. Nam (nữ): …………………
- Trình độ chuyên môn: …………………………………………………..…
- Chức vụ, đơn vị công tác: ………………………………………………….
- Điện thoại: ……………….. Email: ………………………
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do đề xuất sáng kiến kinh nghiệm:
Môn ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng, là một văn hóa cơ bản, bắt
buộc trong chương trình giáo dục phổ thông, là một bộ phận không thể thiéu của
học vấn phổ thông. Cùng với toán học và tiếng mẹ đẻ, môn Tiếng Anh (cũng như
các ngoại ngữ khác nhau như tiếng Pháp, tiếng Nga hay tiếng Trung Quốc) tạp
thành 3 môn trụ cột trong chương trình giáo dục phổ thông vì một mặt chúng có
nhiệm vụ trang bị cho học sinh những tri thức và cơ sở khoa học để nhận thức thế
giới khách quan, mặt khác chúng là công cụ giúp học sinh nắm chắc và nghiên cứu
sâu hơn tri thức cơ sở của các chuyên ngành khác.
Nghe, nói, đọc, viết được Tiếng Anh một cách thành thạo sẽ giúp chúng ta dễ
dàng tiếp cận với tin học, khoa học công nghệ và sẽ rất thuận lợi trong việc giao
tiếp. Đặc biệt, môn đọc hiểu là một trong những kỹ năng cơ bản được chú trọng
trong quá trình dạy và học ngoại ngữ. Vì vậy, nếu học sinh có khả năng đọc hiểu
Tiếng Anh với những nội dung phù hợp trình độ và lứa tuổi của học sinh; giúp học
sinh có điều kiện thu nhận thông tin, nâng cao trình độ của Tiếng Anh và có thể
hiểu biết thêm về xã hội. Tiếng Anh còn là một công cụ giao tiếp giúp học sinh
tiếp thu những tri thức khoa học, kĩ thuật tiên tiến, tìm hiểu các nền văn hóa đa
dạng và phong phú trên thế giới và giúp học sinh dễ dàng hội nhập với cộng đồng
quốc tế.
Là một giáo viên được nhà trường phân công dạy môn Tiếng Anh lớp 9 trong
những năm qua, và qua dự giờ đồng nghiệp tôi thấy rằng để học sinh có thể vận
dụng được kiến thức mà giáo viên đã cung cấp trong tiết đầu tiên của mỗi đơn vị
bài học ( tiết listen and read) thì còn gặp nhiều khó khăn. Điều này đòi hỏi giáo
viên phải đầu tư thời gian nhiều hơn vì đây là phần ngoài sách giáo khoa, giáo viên
phải tự sáng tạo, do đó phần này nhiều khi giáo viên chưa chú trọng vì nghĩ rằng
mình đã truyền đạt hết nội dung của sách giáo khoa yêu cầu. Vì thế việc các em
vận dụng kiến thức đã học để tái tạo lại ngôn ngữ còn hạn chế. Và đây chính là vấn
đề mà tôi băn khoăn.
5
Để đáp ứng được yêu cầu thực tế, mỗi giáo viên cần phải tìm cho mình một
phương pháp dạy học tối ưu, phù hợp với từng đối tượng thực tế của học sinh để
đạt kết quả cao. Đây cũng là điều mà mỗi giáo viên đang đứng lớp phải trăn trở,
phải suy nghĩ. Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả tiết dạy, tôi đã tìm hiểu phương
pháp giảng dạy và tích lũy được một số kinh nghiệm nhằm tháo gỡ đi hạn chế
trên. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm giúp giáo viên dạy tốt phần
đọc hiểu”
2. Phạm vi và đối tượng của sáng kiến kinh nghiệm
Phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm là giảng dạy Reading Tiếng Anh 9.
Đối tượng là học sinh khối lớp 9 trường THCS Quyết Thắng.
3. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm:

Đề tài góp phần đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên có thể chủ động
trong việc hướng dẫn học sinh hoạt động nhóm đôi. Học sinh tự tin, hợp tác tích
cực hơn trong quá trình học tập, đồng thời có cơ hội thể hiện bản thân cũng như
thực hành được kĩ năng nghe và nói nhiều hơn.
Nêu được vai trò và tầm quan trọng của hoạt động nhóm trong việc dạy học;
Nghiên cứu thực trạng học sinh khối lớp 9 trường THCS Quyết Thắng và chỉ ra
một số biện pháp, kĩ năng nhằm giúp giáo viên và học sinh thực hiện tốt và có
hiệu quả hoạt động nhóm trong quá trình dạy và học.
6

PHẦN NỘI DUNG

I. Nội dung đề tài


Trong dạy học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người
truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các
hoạt động để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục
tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của môn học. Trên lớp, học sinh hoạt
động là chính, giáo viên chỉ là người hướng dẫn. Nhưng để có một tiết học sôi
nổi, đúng nghĩa, các hoạt động nhóm linh hoạt, đạt được hiệu quả tốt thì trước
đó, khi soạn giáo án, chuẩn bị bài trước khi đến lớp giáo viên đã phải đầu tư công
sức, thời gian rất nhiều như: Xác định rõ mục đích bài học, lên kế hoạch hoạt
động nhóm, chuẩn bị đồ dùng học tập (tranh ảnh, phiếu học tập, bài giảng trình
chiếu…) mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác,
động viên, cố vấn, trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của
học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm
tốt, có lòng yêu nghề và sự kiên nhẫn mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt
động của học sinh. Bản thân tôi, qua thời gian giảng dạy, dự giờ, học hỏi đồng
nghiệp cũng như tham gia các buổi tập huấn chuyên môn về phương pháp dạy
học, nghiên cứu các tài liệu liên quan đã rút ra được một số kĩ năng tổ chức và sử
dụng hoạt động nhóm đôi đối với học sinh lớp 9. Đây là hình thức hai người trao
đổi với nhau (có thể là hai bạn ngồi kế bên hoặc không gần nhau, có thể là thầy
với trò… nhằm tránh sự lặp lại nhàm chán) để thực hiện nhiệm vụ hoặc giải quyết
tình huống do giáo viên nêu ra. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và giải quyết
các tình huống, học sinh sẽ giúp đỡ nhau một cách tích cực. Hình thức này tôi
thường sử dụng trong việc luyện đọc từ mới, mẫu câu, luyện đọc bài hội thoại
ngắn, viết những câu trả lời ngắn, luyện kĩ nói hoặc kiểm tra bài cũ. Hoạt động
theo nhóm đôi thường không mất thời gian tổ chức, không xáo trộn chỗ ngồi,
7
không gây ồn ào hay lộn xộn mà vẫn huy động được học sinh làm việc cùng nhau.
Vì vậy đây là hình thức nhóm mà tôi thường chọn.
Chẳng hạn, đối với hoạt động kiểm tra bài cũ, tôi thấy hầu hết các giáo viên
thường gọi một vài học sinh lên bảng hoặc viết các từ mới và mẫu câu đã học vào
giấy kiểm tra để kiểm tra xem học sinh về nhà có học bài không. Nhưng với bản
thân, tôi thường kiểm tra các em bằng việc cho các em chơi trò chơi hoặc tạo tình
huống giao tiếp. Để dạy một tiết listen and read giáo viên tuân thủ theo các bước
sau: Giới thiệu (Presentation), luyện tập (Practice) và sản sinh lời nói
(Production). Trong khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm này tôi xin đưa ra
những thủ thuật để giúp học sinh vận dụng bài học vào sản sinh lời nói:
 Discussion.
Thảo luận theo cặp đôi, theo nhóm về những bài học các em rút ra được
qua nội dung bài hội thoại.
 Free Role play.
Đóng vai theo tình huống gợi ý, hoặc tình huống có thật trong lớp. Học
sinh làm việc trong cặp hoặc nhóm theo vai trò hay nhân vật mà các em được
giao.
 Comparision.
So sánh đối chiếu, đánh giá nội dung bài học với thực tế cuộc sống.
 Expressing feelings and opinions.
Bày tỏ quan điểm, thái độ của mình về nội dung hoặc nhân vật trong bài
hội thoại.
 Imagination.
Tưởng tượng bản thân học sinh là nhân vật, hoặc đang ở nơi có sự việc đó
xảy ra và nêu cảm tưởng hoặc nhận xét.
 Brainstorm.
Học sinh làm việc theo từng nhóm. Mỗi nhóm cử một thư ký ghi lại ý kiến
của nhóm sau đó viết lên poster. Dán các poster lên bảng. Các nhóm so sánh kết
quả và bổ sung những thông tin mà nhóm mình chưa có.
 Mapped Dialogue.
8
Giáo viên viết một vài từ gợi ý hoặc vẽ hình minh họa lên bảng hoặc tranh
gợi ý. Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh nói theo cặp. Giáo viên gọi một số cặp
học sinh để kiểm tra. Với những lớp yếu giáo viên có thể tạo cơ hội cho các em
bằng cách gọi những cặp học sinh khá của lớp làm trước.
 Survey.
Giáo viên nêu chủ điểm hoặc viết câu hỏi ra bảng rồi yêu cầu học sinh làm
việc theo từng cặp, lần lượt một em hỏi một em trả lời và đổi vai. Vừa hỏi các
em vừa ghi chú thông tin về bạn mình. Sau khi phỏng vấn xong giáo viên yêu
cầu một số học sinh tường thuật lại cho cả lớp nghe những thông tin mà em đã
biết về bạn mình hoặc yêu cầu các em viết thành câu vào vở hoặc có thể yêu
cầu các em viết ở nhà như một bài tập về nhà.
 Retelling.
Giáo viên sử dụng hoạt động này để giúp học sinh kể lại câu chuyện hay
bài hội thoại mà các em đã được học dựa vào tranh hoặc từ gợi ý.
 Arrange the events in order.
Giáo viên chuẩn bị các câu theo nội dung của bài học nhưng không đúng
với trật tự trong bài. Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc theo cặp hoặc nhóm
sắp xếp lại câu chuyện. Đại diện của nhóm hoặc cặp học sinh kể lại câu chuyện
sau khi đã sắp xếp.
 Interviews.
Phỏng vấn là một thủ thuật phổ biến cho luyện tập giao tiếp. Giáo viên cho
học sinh làm việc theo cặp, phỏng vấn và ghi lại câu trả lời đầy đủ. Giáo viên
cũng có thể cho học sinh viết lại thành một đoạn văn hoàn chỉnh và đọc trước
lớp.
Ngoài ra giáo viên cũng có thể áp dụng những trò chơi vào bài học giúp
củng cố kiến thức cho học sinh, giúp các em có thể vận dụng bài học tốt hơn
nhờ học mà vui, vui mà học tạo cho các em tâm lý thoải mái khi học nâng cao
chất lượng học tập. Việc chọn trò chơi cần phải phù hợp với nội dung bài học.
Trò chơi không chỉ được áp dụng nhiều ở phần warm - up mà nếu áp dụng hợp
lý vào phần Production thì sẽ đem lại hiệu quả cho tiết học vì các em rất thích
9
các hoạt động này. Sau đây là một số những trò chơi mà tôi đã áp dụng trong
bài dạy:
 Chain game
Giáo viên có thể chia lớp ra thành các nhóm nhỏ . Một nhóm từ 4-6 em
hoặc từ 6-8 em. Học sinh ngồi quay mặt lại với nhau. Em đầu tiên trong cả
nhóm lặp lại câu đầu tiên của giáo viên. Học sinh thứ hai lặp lại câu của học
sinh thứ nhất và thêm vào một ý khác và cứ tiếp tục như vậy cho đến khi trở lại
với học sinh thứ nhất trong nhóm. Các em có thể hoàn thành được nội dung của
bài học. Giáo viên chỉ sử dụng hoạt động này khi nội dung bài học ngắn và dễ.
Với những bài dài giáo viên nên cho từ gợi ý để học sinh nói dễ dàng hơn.
 Noughts and crosses.
Giáo viên giải thích cho học sinh trò chơi này giống như trò chơi "ca rô" ở
Việt Nam nhưng chỉ cần 3 "O" hoặc ba "X" trên một hàng ngang, dọc hay chéo
là thắng. Giáo viên kẻ 9 ô vuông trên bảng. Mỗi ô có chứa một từ hoặc một
tranh vẽ ( từ hoặc tranh phải nằm trong nội dung bài mà học sinh vừa học).
Giáo viên chia học sinh ra làm 2 nhóm. Một nhóm là " noughts" và một nhóm
là " crosses" (X) . Hai nhóm lần lượt chọn từ trong ô và đặt câu. Nhóm nào đặt
câu đúng sẽ được một (O) hay một (X).
 My red color.
Giáo viên chuẩn bị trên bảng phụ 6 đến 8 hình vuông nhỏ. Mỗi hình
vuông chứa 1 yêu cầu. Che các hình vuông bằng giấy trắng. Trên mỗi hình
vuông đánh số thứ tự từ 1 đến 8. Học sinh chọn số và làm theo yêu cầu của các
hình vuông. Nếu đúng sẽ được 10 điểm. Còn nếu không trả lời được thì đội bạn
sẽ giành quyền trả lời. Nếu chọn được ô màu đỏ thì học sinh không phải trả lời
mà vẫn được 10 điểm và được chọn tiếp ô khác.
 10- square: Make up a sentence.
Giáo viên kẻ 10 ô vuông lên bảng, hoặc chuẩn bị trước. Mỗi ô vuông chứa
1 động từ, danh từ, tính từ , trạng từ hay cụm từ gợi ý, hoặc là những bức tranh về
nội dung của bài. Trên mỗi ô vuông đánh số từ 1 đến 10 ( Số lượng ô vuông tuỳ
theo nội dung của bài học ). Giáo viên viết số từ 1 đến 10 vào những mẫu giấy nhỏ.
10
Chia học sinh thành nhóm hoặc đội. Lần lượt từng học sinh trong nhóm bóc thăm
số để chọn từ. Học sinh chọn được từ nào hoặc bức tranh nào thì đặt 1 câu có chứa
từ đó. Tổng kết trò chơi, đội nào có nhiều câu đúng hơn thì đội đó chiến thắng.
Đó là một số hoạt động mà tôi thường áp dụng khi giảng dạy để khơi dậy sự
hứng thú của học sinh trong các tiết học. Sau đây, chúng ta cùng tìm hiểu và
nghiên cứu 3 vấn đề chính:
 Tiếp cận khái niệm đọc hiểu, những yêu cầu đối với giáo viên và
học sinh trong quá trình dạy – học kỹ năng đọc hiểu.
 Tiến trình dạy kỹ năng đọc hiểu.
 Một số thủ thuật khai thác bài đọc hiểu trong SGK Tiếng Anh 9 để
phát triển kỹ năng đọc hiểu.
 Vấn đề thứ nhất: Tiếp cận khái niệm đọc hiểu, những yêu cầu đối với giáo
viên và học sinh trong quá trình dạy - học kỹ năng đọc hiểu.
1. Tiếp cận khái niệm đọc hiểu.
Đọc là một trong những kỹ năng cơ bản được chú trọng trong quá trình dạy và
học ngoại ngữ. Đọc vừa là mục đích, vừa là phương tiện hữu hiệu và thiết yếu để
học sinh có thể nắm vững, củng cố kiến thức ngôn ngữ, mở rộng vốn từ vựng, cũng
như hiểu sâu thêm văn phong, cách sử dụng ngôn ngữ mình đang học.
Như vậy kỹ năng đọc hiểu là đọc để nắm bắt các thông tin phục vụ cho các
mục đích đọc và học khác nhau, nó còn là công cụ hỗ trợ việc hình thành các kỹ
năng khác như nghe, nói và viết.
2. Những yêu cầu đối với giáo viên và học sinh trong quá trình dạy - học kỹ
năng đọc hiểu.
Dạy học là một quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ giữa hai đối tượng: người
dạy và người học. Trong quá trình dạy học, để giờ học kỹ năng đọc hiểu có thể đạt
được hiệu quả nhất định thì giáo viên và học sinh cần:
2.1. Đối với giáo viên:
Là người hướng dẫn học sinh tiếp cận với ngôn ngữ Tiếng Anh qua các bài
đọc, giúp các em biết cách sử dụng ngôn ngữ, đọc hiểu những lời hướng dẫn trong
khi thực hành máy móc, thiết bị, sử dụng các vật dụng hàng ngày được viết bằng
11
Tiếng Anh, dùng máy vi tính, truy cập mạng Internet, đọc các tài liệu thông tin
khoa học, kỹ thuật, đọc sách, báo, truyện,…
Để có thể giúp học sinh phát triển kỹ năng đọc có hiệu quả, trước hết giáo
viên cần giúp học sinh phân biệt được những loại đọc cơ bản được sử dụng trong
việc dạy - học ngoại ngữ:
2.1.1. Đọc to và đọc thầm:
Xếp theo cách thức đọc có 2 loại đọc:
+ Đọc to (Reading aloud)
+ Đọc thầm (Silent reading)
+ Đọc to (Reading aloud) với mục đích là để truyền đạt lại thông tin của một
người khác đã được viết ra như: đọc báo, đọc tin, đọc thư cho một hay nhiều người
nghe… Trong dạy - học ngoại ngữ đọc to thường chỉ có tác dụng giúp học sinh rèn
luyện cách phát âm, trọng âm, ngữ điệu và kỹ năng đọc để thông báo.
+ Đọc thầm (Silent reading) với mục đích đọc để hiểu, đọc để nắm bắt và
nhận biết thông tin.
2.1.2. Đọc phân tích và đọc tổng hợp (Intensive reading and Extensive
reading):
Xếp theo mục đích của việc đọc, có những loại đọc sau:
+ Đọc giải trí (Reading for pleasure)
+ Đọc để lấy thông tin cần thiết (Scanning)
+ Đọc lấy ý chính (Skimming)
+ Đọc phân tích để hiểu nội dung chi tiết hoặc để nghiên cứu.
+ Đọc phân tích để học tiếng/ ngôn ngữ.
Các loại đọc kể trên đều được sử dụng trong các hoạt động dạy học. Ba loại
đọc đầu mang tính chất là “Đọc rộng” (Extensive reading), còn hai loại đọc sau
mang tính chất đọc phân tích hay đọc sâu (Intensive reading). Phổ biến trong các
chương trình dạy học ở phổ thông là đọc phân tích (Intensive reading) chủ yếu
nhằm để cung cấp ngữ liệu và thực hành dạy tiếng nói chung. Các loại đọc tổng
hợp còn hạn chế.
12
Để thành công trong trong quá trình dạy đọc, giáo viên cần giúp học sinh hiểu
rõ tầm quan trọng của việc đọc:
 Đọc để làm gì? (What reading for?);
 Đọc như thế nào? (How to read?);
 Mục đích cần đạt được sau khi đọc là gì? (What aim after reading?).
2.2. Đối với học sinh.
Cùng với sự hướng dẫn của thầy, bản thân mỗi học sinh cần phải có nhận thức
đúng đắn về tầm quan trọng của môn học, mục tiêu cần đạt được sau khi kết thúc
chương trình học ở THCS.
2.2.1. Về kiến thức:
Mở rộng và nâng cao học vấn phổ thông, đặc biệt là ngôn ngữ Tiếng Anh cơ
bản, hiện đại và tương đối hệ thống để làm cơ sở cho việc hình thành các kỹ năng
giao tiếp phù hợp với lứa tuổi.
Có sự hiểu biết khái quát về đất nước, con người và nền văn hoá của một số
quốc gia nói Tiếng Anh.
2.2.2. Về thái độ:
Hình thành được ý thức học tập và sử dụng Tiếng Anh như một công cụ hỗ trợ
cho việc phát triển tư duy, tính sáng tạo, cho việc học tập các môn học khác, cho
nghiên cứu và phát triển chuyên môn sau này, góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình
cảm, đạo đức, tác phong của người lao động mới.
Có thái độ đúng đắn trong việc sử dụng Tiếng Anh như một công cụ nhằm
nâng cao hiểu biết, tiếp thu có chọn lọc các tinh hoa văn hoá của thế giới, góp phần
phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước, làm cho các dân tộc khác trên thế giới
hiểu rõ hơn về văn hoá, lịch sử, con người Việt Nam. Qua đó học sinh ý thức được
sự giống nhau và khác nhau giữa các nền văn hoá, phát triển tình cảm tốt đẹp đối
vời ngôn ngữ, văn hoá, lịch sử và các truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam,
từ đó tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc, giữ gìn hoà bình thế
giới.
Có ý thức sử dụng ngôn ngữ một cách hiệu quả thông qua việc tiếp thu các tri
thức ngôn ngữ, hình thành các kỹ năng giao tiếp và phương pháp học tiếng như
13
khả năng tìm kiếm và phát hiện thông tin, khả năng tự học, tự đánh giá. Những khả
năng này sẽ tác động tích cực tới việc sử dụng tiếng mẹ đẻ và đem lại cho học sinh
năng lực ngôn ngữ toàn diện.
Mỗi khi đọc một bài đọc Tiếng Anh, những câu hỏi hữu ích mà học sinh cần
đặt ra là:
 Đọc để làm gì? (What reading for?)
 Đọc như thế nào? (How to read?)
 Mục đích đạt được sau khi đọc là gì? (What aim after reading?)
 Đó có phải là mục đích mong muốn không?
2.2.3. Về kỹ năng:
Có khả năng sử dụng Tiếng Anh như một công cụ giao tiếp ở mức độ đơn
giản, cơ bản, phổ thông dưới dạng nghe - nói - đọc – viết. Ở giai đoạn đầu của quá
trình học ngoại ngữ, việc dạy đọc thường chỉ hạn chế trong phạm vi các kỹ năng
cơ bản như:
 Nhận biết mặt chữ và nghĩa của từ đã đọc qua nói.
 Đọc và hiểu được những câu và chuỗi lời nói đã học qua nói.
Các kỹ năng này chưa đủ để đảm bảo học sinh có được kỹ năng đọc hiểu
thông thạo. Khi đọc, người đọc cần có những kỹ năng khác như:
 Kỹ năng đọc để tìm ra những thông tin cần thiết (Scanning). Ví dụ như
đọc giờ tàu chạy, tìm số liệu,…
 Kỹ năng đọc lướt tổng quát để lấy nội dung chính (Skimming).
 Kỹ năng phán đoán trước khi đọc và trong quá trình đọc (Predicting).
 Kỹ năng đoán từ chưa biết trong ngữ cảnh.
 Kỹ năng sử dụng từ điển.
Tóm lại, mục tiêu cuối cùng của việc đọc phải đạt được là hiểu được văn bản,
lấy được và xử lý được những thông tin cần thiết cho mục đích riêng của mình.
 Vấn đề thứ hai: Tiến trình dạy kỹ năng đọc hiểu.
1. Khai thác bài đọc
Có hai loại bài đọc được dùng trong dạy ngoại ngữ:
+ Bài đọc dùng để dạy tiếng.
14
+ Bài đọc dùng để dạy kỹ năng đọc hiểu.
Tuỳ theo mục đích của từng bài đọc, chú trọng dạy tiếng hay dạy kỹ năng đọc
hiểu mà giáo viên có những khai thác bài đọc khác nhau. Trong phạm vi của đề tài
này, người nghiên cứu đi sâu khai thác bài đọc để dạy kỹ năng đọc hiểu.
Các bài đọc nhằm giúp học sinh phát triển kỹ năng đọc hiểu không chỉ đơn
thuần giúp học sinh hiểu được ngữ liệu trong một đoạn văn nào đó mà còn phải tạo
ra những hoạt động luyện tập giúp học sinh thực hành các kỹ năng đọc. Đó là
những kỹ năng có thể giúp các em đọc hiểu được những đoạn văn khác nhau cho
những mục đích khác nhau. Ở một bài đọc nhằm phát triển kỹ năng đọc hiểu giáo
viên không trình bày, giới thiệu nội dung mà học sinh phải tự đọc để nắm bắt nội
dung; vai trò của giáo viên chỉ là hỗ trợ, gợi ý, hướng dẫn, ra yêu cầu và kiểm tra.
Các hoạt động của học sinh đều được gắn với các nhu cầu, mục đích thật của
việc học đọc trong cuộc sống hằng ngày.
Cũng giống như việc dạy học các kỹ năng nghe và nói, việc dạy đọc thường
được tích hợp nhiều kỹ năng khác nhau và được thực hiện bằng nhiều kỹ thuật và
chiến lược. Để việc dạy đọc có kết quả tốt, tiến trình dạy một bài đọc thường được
tiến hành theo ba giai đoạn :
1. Các hoạt động trước khi đọc (Pre-reading activities)
2. Các hoạt động trong khi đọc (While-reading activities)
3. Các hoạt động sau khi đọc (Post-reading activities)
2. Các hoạt động trước khi đọc (Pre-reading activities)
Các hoạt động trước khi đọc bao gồm những hoạt động và thủ thuật nhằm
đạt được những mục đích sau:
- Gây hứng thú (Arouse interest)
- Thiết lập ngữ cảnh (Set up the context)
- Tạo nhu cầu, lý do, mục đích của việc đọc (Creat reasons for reading)
- Dạy trước cấu trúc, từ mới cần thiết cho đọc hiểu (Pre-teach
structures, new words)
- Giới thiệu tóm tắt nội dung bài đọc (Introduce briefly the topic,
content)
15
- Gợi ý, hướng sự chú ý vào những điểm chính của bài đọc (Eliciting,
guiding questions)
- Cho học sinh đoán trước nội dung bài đọc (Predict the context)
- Nêu những điều muốn biết qua bài đọc (Give expectation)
Tuy nhiên tuỳ theo mục đích và đặc thù của từng kiểu, loại bài đọc mà giỏo
viờn có thể chọn những hoạt động và thủ thuật cụ thể cho phù hợp.
3. Các hoạt động luyện tập trong khi đọc (While-reading activities)
Các hoạt động luyện tập trong khi đọc là những bài tập được thực hiện ngay
trong khi học sinh đang đọc bài khoá, học sinh có thể đọc đi đọc lại để thực hiện
các bài tập.
Các hình thức luyện tập ở giai đoạn này là để tìm hiểu, khai thác nội dung bài
đọc. Tuỳ theo mục đích và mức độ khó của từng bài, giáo viên thay đổi cách dạy,
cách khai thác khác nhau, có thể vừa về nội dung, vừa về ngôn ngữ.
Giáo viên có thể lựa chọn một số bài tập đọc và cho học sinh luyện tập trước ở
nhà để khi hoạt động nhóm, học sinh có thể so sánh và trao đổi kết quả làm việc ở
nhà với nhau. Hình thức này giúp học sinh yếu tự tin hơn và học sinh khá không có
cảm giác mình bị kéo lùi lại.
Một số bài tập được thiết kế để học sinh có thể tự sửa chữa được sẽ giúp học
sinh tự đánh giá được kết quả đọc của mình và dần dần khả năng đọc sẽ tốt hơn.
Các bài tập này cũng giúp cho học sinh cảm thấy yên tâm vì được hướng dẫn, từ
đó hình thành cảm giác tự tin hơn.
Các bài tập và phương pháp phổ biến được dùng ở giai đoạn này cũng rất đa
dạng và phong phú.
 Choose the sentence A,B,or C that is nearest meaning to the given
sentence.
 Answer the questions.
 Explain the meaning of the italicized words/ phrases in the following
sentences.
 Give Vietnamese equivalents to the following words/ phrases.
 Decide whether the following statements are true(T) or false(F).
16
 Choose the best title for the passage.
 Choose A, B, C, or D to complete the following sentences about the
reading passage.
 Scan the passage and complete each of following sentences.
4. Các hoạt động sau khi đọc (Post-reading activities)
Sau khi học sinh đọc và làm bài tập theo các yêu cầu và câu hỏi đọc hiểu, giáo
viên có thể tiến hành các hoạt động luyện tập đòi hỏi sự thông hiểu tổng quát của
toàn bài; liên hệ thực tế; chuyển hoá vốn kiến thức, nhận thức hoặc thông tin, dữ
liệu vừa nhận qua bài đọc, luyện tập củng cố các cấu trúc ngữ pháp chủ chốt được
học qua bài đọc.
Để kiểm tra mức độ đọc sâu hiểu rộng của học sinh, giỏo viờn có thể thiết kế
bài giảng theo nhiều phương pháp khác nhau, tuỳ theo từng kiểu bài, từng nội dung
mà giáo viên lựa chọn phương pháp kiểm tra cho phù hợp.
+ Summarize the passage, based on the years: 1967, 1998,…
+ Summazed the reading passage by writing ONE sentence for each
paragraph.
+ Fill in each space of the following paragraph with a suitable word.
+ Make a comparison between……
+ Discuss the advantages of….
+ Scan the passage and make brief notes.
+ Discuss the questions.
 Vấn đề thứ ba: Một số thủ thuật khai thác bài đọc hiểu trong SGK Tiếng
Anh 9 để phát triển kỹ năng đọc hiểu.
Trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy rằng các bài đọc trong SGK Tiếng Anh
9 có rất nhiều điểm mạnh, song bên cạnh đó vẫn còn một số điểm còn hạn chế:
1. Những điểm mạnh:
Các chủ đề bài đọc đa dạng, phong phú, cung cấp tương đối đầy đủ lượng
thụng tin bổ ích, mới lạ cho cả giỏo viờn lẫn học sinh.
Một số bài đọc có chủ đề hấp dẫn thu hút, thúc đảy tư duy và sự tò mò của
học sinh, học sinh hứng thú với nội dung bài đọc.
17
Dung lượng kiến thức đáp ứng yêu cầu kiến thức cần đạt được đói với trình độ
học sinh trong thời kỳ hội nhập.
Một số nhiêm vụ (Task) trong SGK Tiếng Anh 9 khá phù hợp và phục vụ cho
các mục đích dạy học khá hiệu quả.
2. Những điểm hạn chế:
Một số phần đọc trong sách được thiết kế chưa phù hợp với nội dung, kiểu
bài, một số câu hỏi quá khó với học sinh vùng miền.
Một số nhiệm vụ được thiết kế không gắn liền với chủ đề bài đọc. Nếu giảng
viờn sử dụng các nhiệm vụ này thì học sinh thường gặp bối rối.
Ví dụ: + “After you read” – Unit 4 – trang 46.
+ Unit 5 không có phần “After you read”,……
II. Kết quả
Với những hướng giải quyết và những phương pháp mà tôi đã áp dụng (như
phần trình bày ở phần nội dung), kết hợp với sự quan tâm, chỉ đạo của ban giỏm
hiệu nhà trường, sự trao đổi giữa các thành viên trong tổ chuyên môn về việc áp
dụng những phương pháp phù hợp cho từng đối tượng học sinh ở trường THCS
Quyết Thắng. Sau một năm học áp dụng vào thực tiễn giảng dạy, tôi đã thu được
những kết quả đáng khích lệ. Đa số học sinh đã dần nâng cao được chất lượng học
tập của mình, đồng thời các em cũng lấp dần sự thiếu hụt về kiến thức, từ đó phát
triển thêm những kỹ năng, kỹ xảo trong việc sử dụng ngôn ngữ nói chung và Tiếng
Anh nói riêng. Ngoài ra trong giờ dạy học, tôi luôn gây hứng thú học tập cho các
em bằng những câu chuyện ngắn nhưng dí dỏm, những câu đố vui, những trò chơi
vui nhộn phù hợp với kiểu bài, mang tính giáo dục cao. Qua 1 năm, các em đã lấy
lại được sự tự tin, nâng cao được tư duy sáng tạo trong học tập.
18
PHẦN KẾT LUẬN
1. Kết luận
Như vậy, chúng ta thấy rõ một điều rằng: tất cả những bài học tưởng như
đơn giản nhưng trong thực tế lại rất phức tạp, đòi hỏi mỗi chúng ta cần phảI có tầm
nhìn bao quát, những phương pháp hợp lý
Đây đang là những năm đầu chúng ta thực hiện chương trình thay sách giáo
khoa ở bậc THCS, đặc biệt là năm đầu tiên thực hiện chương trình SGK Tiếng Anh
lớp 9, vì vậy chúng ta đã gặp phải không ít những khó khăn trong quá trình giảng
dạy. Những khó khăn này đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau: từ việc cơ sở vật
chất, đồ dùng và trang thiết bị chưa đáp ứng hoặc chưa phù hợp với nội dung của
SGK – Chương trình đổi mới; cho đến trình độ yếu kém, thiếu hụt kiến thức nền
của học sinh. Mặt khác, các chúng ta cũng chỉ mới ở mức độ làm quen với sách
mới, có những bài/ phần còn chưa kiểm soát hết cả về nội dung lẫn phương pháp
giảng dạy nên việc khắc phục những khó khăn trong quá trình dạy học còn hạn
chế. Việc học chuyên đề thay sách trong một thời gian ngắn không thể đáp ứng hết
nhu cầu trao đổi về kinh nghiệm, phương pháp cũng như toàn bộ nội dung của
sách. Vì vậy, có thể nói viếc viết sáng kiến kinh nghiệm hàng năm của các thầy cô
giáo cũng là điều kiện tốt để các thầy cô giáo cùng ghi chép, nhìn nhận, đánh giá
và bày tỏ những phương pháp và kinh nghiệm dạy học của chính bản thân mình;
đồng thời cùng nhau trao đổi để rút ra những bài học và kinh nghiệm quý giá nhằm
nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy học.
2. Kiến nghị
Theo tôi để thành công trong giờ dạy Tiếng Anh nói chung và dạy kỹ năng
đọc nói riêng, đòi hỏi người giáo viên phải biết kết hợp hài hòa, khéo léo giữa các
bước lên lớp với lượng kiến thức trong sách giáo khoa.
Bên cạnh đó, để giờ dạy thêm sinh động, ngoài những phương pháp giảng
dạy cụ thể giáo viên nên sử dụng các bức tranh minh hoạ, các giáo cụ trực quan và
bằng các bài tập thực tế.
19
Ngoài ra, để gây hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên nên kể các mẫu
chuyện liên quan đến bài học gợi mở cho học sinh những nội dung chính thức khi
đọc bài.

3. Tài liệu tham khảo


Qua nhiều năm giảng dạy tiếp xúc trực tiếp với các em học sinh, học hỏi
qua các bậc thầy cô đi trước.
Nghiên cứu kỹ sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế bài giảng, sách
văn phạm, những giáo án mẫu có hiệu quả trong nhà trường, sách bài tập bổ trợ,
nâng cao.
Thăm lớp, dự giờ, rút kinh nghiệm trong các tiết dạy.
Sưu tập tranh ảnh, vật thật để minh hoạ cho bài dạy.
Làm trắc nghiệm lấy ý kiến của học sinh trong các lớp mình dạy để đề ra
phương pháp dạy tốt nhất.
Tham khảo tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy lớp 9.

……………, ngày… tháng … năm…..


XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO ĐƠN TÁC GIẢ
VỊ NƠI TÁC GIẢ CÔNG TÁC (Ký, ghi rõ họ tên)
Báo cáo biện pháp này áp dụng hiệu
quả và lần đầu được dùng để đăng ký thi
giáo viên dạy giỏi cơ sở giáo dục phổ
thông và chưa được dùng để xét duyệt
thành tích khen thưởng cá nhân trước đó
(Ký tên, đóng dấu)

You might also like