Professional Documents
Culture Documents
Dalat Data
Dalat Data
Đà Lạt là một thành phố trực thuộc tỉnh và tỉnh lị tỉnh Lâm Đồng, nằm trên cao nguyên Lâm Viên, ở
độ cao 1500 m so với mặt nước biển. Với nhiều cảnh quan đẹp, Đà Lạt là một trong những thành
phố du lịch nổi tiếng nhất của Việt Nam. Dân số 188.467 người (2004).
Mục lục
[giấu]
1 Địa lý
o 1.1 Vị trí
o 1.2 Các đơn vị hành chính
o 1.3 Địa hình
o 1.4 Khí hậu
2 Lịch sử
3 Dân cư
o 3.1 Phát triển dân số
o 3.2 Kết cấu dân số
o 3.3 Thành phần dân tộc
4 Kinh tế
5 Kiến trúc
o 5.1 Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt
o 5.2 Chợ Đà Lạt
o 5.3 Ga Đà Lạt
o 5.4 Thiền viện và chùa
o 5.5 Nhà thờ
o 5.6 Dinh thự
6 Phong cảnh, địa điểm du lịch
o 6.1 Đồi Cù
o 6.2 Hồ Xuân Hương
o 6.3 Công viên hoa Đà Lạt
o 6.4 Các điểm tham quan du lịch khác
7 Con người
8 Xem thêm
9 Liên kết ngoài
Địa lý
Vị trí
Thành phố Đà Lạt nằm trong cao nguyên Lang Biang, phía Bắc tỉnh Lâm Đồng, giáp ranh với
huyện Đức Trọng và Đơn Dương Lạc Dương, Lâm Hà
Hàng trăm năm trước đây, Đà Lạt là địa bàn cư trú của người Lạch, được hiểu như toàn bộ cao
nguyên Lang Biang, diện tích hơn 400 km², bao bọc bởi các đỉnh núi cao và dãy núi liên tiếp:
Phía Bắc và Tây Bắc giới hạn bởi dãy Chorơmui, Yộ Đa Myut (1.816 m), Tây Bắc dựa vào
chân dãy núi Chư Yang Kae (1.921 m), thuộc quần sơn Lang Biang mà đỉnh cao nhất là Chư Yang
Sinh (1.408 m).
Phía Đông là chân dãy núi Bi Doup (2.278 m) dốc xuống cao nguyên Dran.
Phía Đông Nam chắn bởi dãy Cho Proline (1.629 m).
Phía Nam và Tây Nam có dãy núi Voi (1.754 m) và Yàng Sơreng bao bọc.
Trải qua nhiều thời kỳ thay đổi, hiện nay tọa độ thành phố Đà Lạt được xác định như sau:
Điểm cực Bắc: 12°04' Bắc.
Điểm cực Nam: 11°52' Bắc.
Điểm cực Tây: 108°20' Đông.
Điểm cực Đông: 108°35' Đông.
Về phía Bắc, Đà Lạt giáp với huyện Lạc Dương, về phía Đông và Đông Nam giáp với huyện Đơn
Dương, về phía Tây và Tây Nam giáp với hai huyện Lâm Hà và Đức Trọng.
Diện tích tự nhiên: 424 km².
Nguồn: Đà Lạt thành phố cao nguyên, Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Lạt, Nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh, 1993
[sửa] Các đơn vị hành chính
Thành phố Đà Lạt có 12 phường (được đánh số từ 1 đến 12) và 3 xã: Tà Nung, Xuân Trường, Xuân
Thọ.
[sửa] Địa hình
Cao trung bình so với mặt biển là 1.500 m. Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là Nhà Bảo
Tàng (1.532 m), nơi thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri Phương (1.398,2 m).
Bên trong cao nguyên, địa hình Đà Lạt phân thành hai bậc rõ rệt:
Bậc địa hình thấp là vùng trung tâm có dạng như một lòng chảo bao gồm các dãy đồi đỉnh
tròn, dốc thoải có độ cao tương đối 25-100 m, lượn sóng nhấp nhô, độ phân cắt yếu, độ cao trung
bình khoảng 1.500 m.
Bao quanh khu vực lòng chảo này là các đỉnh núi với độ cao khoảng 1.700 m tạo thành vành
đai che chắn gió cho vùng trung tâm. Phía Đông Bắc có hai núi thấp: hòn Ông (Láp Bê Bắc 1.738
m) và hòn Bộ (Láp Bê Nam 1.709 m). Ở phía Bắc, ngự trị cao nguyên Lang Biang là dãy núi Bà
(Lang Biang) hùng vĩ, cao 2.165 m, kéo dài theo trục Đông Bắc - Tây Nam từ suối Đa Sar (đổ vào
Đa Nhim) đến Đa Me (đổ vào Đạ Đờng). Phía Đông án ngữ bởi dãy núi đỉnh Gió Hú (1.644 m). Về
phía Tây Nam, các dãy núi hướng vào Tà Nung giữa dãy Yàng Sơreng mà các đỉnh cao tiêu biểu là
Pin Hatt (1.691 m) và You Lou Rouet (1.632 m).
Bên ngoài cao nguyên là các dốc núi từ hơn 1.700 m đột ngột đổ xuống các cao nguyên bên dưới có
độ cao từ 700 m đến 900 m.
Từ đặc điểm địa hình, các cảnh quan của Đà Lạt được tạo lập hết sức kỳ thú.
Trên mọi ngả đường ra vào Đà Lạt, cảnh quan đèo dốc khiến lữ khách tưởng như đang đứng trước
một bức tranh với hình ảnh, màu sắc, đường nét thay đổi không dừng. Bao bọc đèo dốc là cảnh
quan rừng thông thuần loại quanh năm xanh mượt. Rừng tiếp rừng trên những gân núi sườn đồi,
cạnh những dinh thự và cả các khu nhà dân dã.
Khi mùa mưa tới, hoa huệ báo vũ màu hồng, hoa mua màu tím nhạt điểm tô cho cảnh quan đồi cỏ,
rừng thưa. Sang đông, từng đám hoa quỳ vàng rực báo mùa nắng tới, khiến cho cảnh quan núi cao
dường như thêm phần xanh thẳm.
Giữa các đồi núi là cảnh quan thung lũng, nơi bốn mùa đều có sương giăng buổi sớm. Đôi khi giữa
biển sương mù nổi lên các ngọn đồi núi cao như các hòn đảo giữa khơi xa.
Đến Đà Lạt, du khách không thể quên được vẻ hùng vĩ của cảnh quan ghềnh thác. Do sự phân cắt
mạnh mẽ của địa hình, những dòng chảy trên cao nguyên Lang Biang trước khi đổ xuống cao
nguyên bên dưới đã chảy trên vô số ghềnh thác lớn nhỏ. Ngoài các thác đã nổi tiếng từ lâu: thác
Datanla, thác Prenn, thác Cam Ly, thác Ankroët... du khách thích mạo hiểm có thể khám phá ra
nhiều thác khác cũng không kém xinh đẹp và hùng vĩ quanh Đà Lạt như thác Sơrailen, thác Huỳnh
Chước, thác Hang Cọp, thác Bảy Tầng, thác Uyên Ương... xa hơn, về phía Nam Ban còn có thác
Voi (Liêng Chơmiêng).
[sửa] Khí hậu
Do ảnh hưởng của độ cao và rừng thông bao bọc, Đà Lạt mang nhiều đặc tính của miền ôn đới.
Nhiệt độ trung bình 18–21°C, nhiệt độ cao nhất chưa bao giờ quá 32°C và thấp nhất không dưới
5°C.
Đà Lạt có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa nắng từ tháng 11 đến tháng 4.
Mùa hè thường có mưa vào buổi chiều, đôi khi có mưa đá.
Lượng mưa trung bình năm là 1562 mm và độ ẩm 82%.
Đà Lạt không bao giờ có bão, chỉ có gió lớn do ảnh hưởng bão từ biển thổi vào vì sườn đông không
có núi che chắn.
[sửa] Lịch sử
Cao nguyên Lang Biang trước năm 1893 là địa bàn cư trú của các tộc người Thượng. Người Việt
đầu tiên có ý định khám phá vùng rừng núi Nam Trung Bộ là Nguyễn Thông, nhưng do nhiều lí do
nên cho tới cuối đời ông vẫn không thực hiện được ý định của mình. Vào hai năm 1880 và 1881,
bác sĩ hải quân Paul Néis và trung úy Albert Septans có những chuyến thám hiểm đầu tiên vào vùng
người Thượng ở Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ, và họ được coi là hai nhà thám hiểm đầu tiên đã
tìm ra cao nguyên Lang Biang. Hành trình của Paul Néis và Albert Septans mở đường cho nhiều
chuyến đi khác như A. Gautier (năm 1882), L. Nouet (1882), thiếu tá Humann (1884).
Ngày 3 tháng 8 năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên với ý định
tìm đường núi từ Nha Trang vào Sài Gòn, nhưng chuyến đi này bất thành. Từ 28 tháng 3 đến 9
tháng 6 năm 1892, Yersin thực hiện một cuộc thám hiểm từ Nha Trang, băng qua vùng cao nguyên
Đắk Lắk để đến Stung Treng, nằm bên bờ sông Mê Công (thuộc địa phận Campuchia).
Tháng 1 1893, Yersin nhận nhiệm vụ từ toàn quyền Jean Marie Antoine de Lanessan, khảo sát một
tuyến đường bộ từ Sài Gòn xuyên sâu vào vùng người Thượng và kết thúc ở một địa điểm thuận lợi
trên bờ biển Trung Kỳ. Yersin còn phải tìm hiểu về tài nguyên trong vùng: lâm sản, khoáng sản, khả
năng chăn nuôi... Từ ngày 8 tháng 4 đến ngày 26 tháng 6 năm 1893, Yersin đã thực hiện ba chuyến
đi quan trọng. Và 15h30 ngày 21 tháng 6, Yersin đã phát hiện ra cao nguyên Lang Biang, trong nhật
ký hành trình, ông ghi vắn tắt "3h30: grand plateau dénudé mamelonné" (3h30: cao nguyên lớn trơ
trụi, gò đồi nhấp nhô).
Với nhu cầu tìm một vùng đất có khí hậu ôn hòa, gần giống với châu Âu để xây dựng khu nghỉ mát,
trạm điều dưỡng, toàn quyền Paul Doumer viết một bức thư hỏi ý kiến của Yersin, và Yersin đã trả
lời là cao nguyên Lang Biang. Tháng 3 năm 1899, Yersin cùng toàn quyền Doumer thực hiện một
chuyến đi lên cao nguyên Lang Biang và chuyến đi này có ý nghĩa quyết định về việc thành lập một
trạm điều dưỡng ở đây.
Ngày 1 tháng 11 năm 1899, Doumer ký nghị định thành lập ở Trung Kỳ tỉnh Đồng Nai Thượng
(Haut-Donnai) và hai trạm hành chính được thiết lập tại Tánh Linh và trên cao nguyên Lang Biang.
Đó có thể được xem là văn kiện chính thức thành lập trạm điều dưỡng trên cao nguyên Lang
Biang – tiền thân của thành phố Đà Lạt sau này.
Ngày 20 tháng 4 năm 1916, vua Duy Tân đã ra đạo dụ thành lập thị tứ, tức thị xã (centre urbain) Đà
Lạt, tỉnh lị tỉnh Lâm Viên. Đạo dụ này được Khâm sứ J.E. Charles chuẩn y ngày 30 tháng 5 năm
1916.
Trong hai thập niên 1900 và 1910, người Pháp đã xây dựng hai tuyến đường từ Sài Gòn và từ Phan
Thiết lên Đà Lạt. Hệ thống giao thông thuận lợi giúp Đà Lạt phát triển nhanh chóng. Vào năm
1893, vùng Đà Lạt ngày nay hầu như hoang vắng. Đến đầu năm 1916, Đà Lạt vẫn còn là một khu
thị tứ nhỏ với độ 8 căn nhà gỗ tập trung hai bên bờ dòng Cam Ly, chỉ có 9 phòng khách sạn phục vụ
du khách, đến cuối năm này mới nâng lên được 26 phòng. Cuối năm 1923, đồ án thiết kế đầu tiên
hoàn thành, Đà Lạt đã có 1.500 dân.
Ngày 31 tháng 10 năm 1920, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo dụ ngày 11 tháng
10 cùng năm của vua Khải Định về việc thành lập thành phố (commune- thành phố loại 2) Đà Lạt
cùng với việc tỉnh Đồng Nai Thượng được tái lập. Nhằm biến Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ mát
ở Đông Dương, Nha giám đốc các sở nghỉ mát Lâm Viên và du lịch Nam Trung Kỳ được thành lập.
Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý, đại diện của Toàn quyền Đông Dương. Năm 1928 chuyển
tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai Thượng về Đà Lạt. Năm 1936 một Hội đồng thành phố được bầu ra. Năm
1941, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Lâm Viên (Lang Bian) mới tái lập. Thị trưởng Ðà Lạt kiêm chức
Tỉnh trưởng tỉnh Lâm Viên.
Trong thời gian Thế chiến thứ hai, những người Pháp không thể về chính quốc nên họ tập trung lên
nghỉ ở Đà Lạt. Nhiều nhu cầu rau ăn, hoa quả của người Pháp cũng được Đà Lạt cung cấp.
Ngày 10 tháng 11 năm 1950, Bảo Ðại ký Dụ số 4-QT/TD ấn định địa giới thị xã Ðà Lạt.
Theo Ðịa phương chí Ðà Lạt (Monographie de Dalat), năm 1953, thị xã Ðà Lạt là thủ phủ của
Hoàng triều Cương thổ, có diện tích là 67 km², dân số: 25.041 người.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, dân số Đà Lạt tăng nhanh bởi lượng người di cư từ Bắc vào Nam.
Dưới chính quyền miền Nam, Đà Lạt được phát triển như một trung tâm giáo dục và khoa học.
Năm 1957, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Tuyên Đức. Thị xã Ðà Lạt có 10 khu phố.
Nhiều trường học và trung tâm nghiện cứu được thành lập: Viện Đại học Đà Lạt (1957), Trường Võ
bị Quốc gia Đà Lạt (1959), Thư viện Đà Lạt (1960), trường Đại học Chiến tranh Chính trị (1966),
trường Chỉ huy và Tham mưu (1967)... Các công trình phục vụ du lịch được tiếp tục xây dựng và
sửa chữa, hàng loạt biệt thự do các quan chức Sài Gòn, nhiều chùa chiền, nhà thờ, tu viện được xây
dựng... Đà Lạt cũng là một điểm hấp dẫn với giới văn nghệ sĩ.
Sau 1975, với sự rút đi của quân đội và bộ máy chính quyền miền Nam, nhưng được bổ sung bởi
lượng cán bộ và quận đội miền Bắc, dân số Đà Lạt ổn định ở con số khoảng 86 ngàn người. Du lịch
Đà Lạt hầu như bị lãng quên. Những năm cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, hàng loạt khách
sạn, nhà hàng được sửa chữa, nhiều biệt thự được đưa vào phục vụ du lịch... Đà Lạt trở thành một
thành phố du lịch quan trọng của Việt Nam với nhiều lễ hội được tổ chức.
Cuối năm 1975 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định Đà
Lạt sẽ trở thành 1 trong 4 thành phố trực thuộc Trung ương, nhưng ngay sau đó đã điều chỉnh lại.
Tháng 2 năm 1976 Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Nghị định hợp
nhất tỉnh Tuyên Ðức và thành phố Ðà Lạt thành tỉnh Lâm Ðồng. Ðà Lạt trở thành tỉnh lỵ tỉnh Lâm
Ðồng.
[sửa] Dân cư
[sửa] Phát triển dân số
Trước Thế chiến thứ hai, dân số Đà Lạt rất ít, ngoài dân cư bản địa chỉ có một số ít người châu Âu
làm công tác. Số người Kinh định cư đầu tiên ở Đà Lạt là những tù nhân, thay vì phải lưu đày ở Côn
Đảo thì bị đưa lên Đà Lạt để khai phá đất hoang, xây dựng nhà cửa. Trong khoảng thời gian từ năm
1933 đến 1938 nhiều công trình giao thông được hoàn thành. Bắt đầu từ thời gian này dân số Đà
Lạt bắt đầu tăng nhanh từ 1.500 người (1923) lên đến 9.000 người năm 1928 rồi 11.500 người vào
năm 1936. Và đến cuối năm 1942, Đà Lạt đã đạt con số hai vạn dân.
Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, các viên chức Pháp không có khả năng trở về quê hương nên đổ xô
lên Đà Lạt nghỉ mát. Dân số tăng nhanh trong thời kỳ này: 13.000 người năm 1940, 20.000 người
(1942) và lên đến 25.000 người năm 1944. Trong thời gian kháng chiến 9 năm (1945-1954) dân số
Đà Lạt chựng lại ở vào khoảng 25.000 người. Vào cuối năm 1954 dân số tăng lên đến 52.000 người
và giữa năm 1955 là 53.390 người do người dân miền Bắc di cư vào Nam. Từ đấy dân số Đà Lạt
tăng 73.290 người vào năm 1965, 89.656 người (1970) và đến năm 1982 dân số Đà Lạt đã vượt qua
con số 100.000 người. Năm 1999, dân số Đà Lạt là 129.400 người.
Đến năm 2004 thành phố Đà Lạt có dân số là 188.467 người với mật độ dân số là 469 người/km²
(số liệu năm 2004, nguồn: [1])
Tỷ lệ sinh, chết và tăng dân số tự nhiên của Đà Lạt:
Năm Tổng số sinh Tỷ lệ sinh Tỷ lệ chết Tăng tự nhiên
1990 2.371 2,26% 0,40% 1,86%
1991 2.949 2,31% 0,47% 1,84%
1992 2.884 2,25% 0,46% 1,79%
[sửa] Kết cấu dân số
Dân số dưới 15 tuổi chiếm vào khoảng 33,5%, là một tỷ lệ khá lớn. Đây cũng là một đặc trưng
chung cho dân số cả nước. Số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ 61,8%, trong đó tỷ lệ lao
động trẻ (16 đến 25 tuổi) chiếm đa số.
[sửa] Thành phần dân tộc
STT Dân số Số người
01 Kinh 112.476
02 Tày 91
03 Thái 102
04 Hoa 1.779
05 Khmer 14
06 Mường 6
07 Nùng 88
08 Gia-Rai 1
09 Ê-Đê 4
10 Kơ Ho 1.407
11 Chàm 7
12 Hrê 1
13 M'Nông 20
14 Thổ 5
15 Mạ 12
16 Châu-ro 7
17 Chu-ru 8
18 Người nước ngoài 4
Dân số toàn thành phố 116.052
(Theo tài liệu Tổng điều tra dân số lần thứ II ngày 1 tháng 4 năm 1989 của Ban chỉ đạo điều tra dân
số TP. Đà Lạt)
[sửa] Kinh tế
Kinh tế Đà Lạt có thế mạnh về du lịch, trồng hoa và rau. Phần lớn diện tích trồng hoa chuyên
nghiệp của tỉnh Lâm Đồng tập trung tại Đà Lạt. Tổng cộng diện tích canh tác nông nghiệp của Đà
Lạt vào khoảng 9.978 ha. Sản lượng rau hằng năm vào khoảng 170.000 tấn, trong đó có 35.000 tấn
được xuất khẩu sang các nước Đông Bắc châu Á và ASEAN. Sản lượng hoa Đà Lạt hằng năm vào
khoảng 540 triệu cành, trong đó xuất khẩu vào khoảng 33,3 triệu cành hoa. (Nguồn: [2]).
[sửa] Kiến trúc
"Tòa nhà" đầu tiên ở Đà Lạt là một đồn binh lợp lá vào năm 1898, tiếp theo đó là nhà bằng gỗ lợp
tôn của viên công sứ Pháp năm 1900. Hotel du Lac mở cửa vào năm 1907. Năm 1916 người Pháp
cho xây dựng thêm Hotel du Langbian Palace. ([3]). Đà Lạt thật sự trở thành thành phố khi người
Pháp xây dựng thành phố theo đồ án thiết kế tổng thể của kiến trúc sư Ernest Hébrard. Năm 1933
kiến trúc sư Pineau trình bày một công trình nghiên cứu chỉnh trang và mở rộng Đà Lạt. Đến năm
1940 kiến trúc sư Mondet thiết lập một đồ án mới, quay về với ý tưởng của Hébrard là bố trí các
khu vực hành chánh và dân cư quanh hồ. Thế nhưng dự án này không được duyệt.
Đà Lạt có nhiều công trình xây dựng đặc sắc, phần nhiều mang đặc trưng của kiến trúc kiểu Pháp.
Trong thời gian vừa qua toàn cảnh kiến trúc đô thị của thành phố Đà Lạt đã bị phá vỡ vì xây dựng
thiếu quy hoạch đồng bộ, lấn chiếm làm nhà ở và cơi nới, xây cất vô lối ngay trong biệt thự. Nếu so
với nhiều thành phố khác trong cả nước, Đà Lạt vẫn là một thành phố trẻ, nhưng đó lại là một thành
phố có đồ án thiết kế theo kiểu cách phương Tây. Đà Lạt trước kia là một thành phố do người Pháp
xây dựng cho người Pháp, và các đồ án thiết kế đều phải do Phủ toàn quyền quyết định, các kỹ sư,
kiến trúc sư, các đoàn lên Đà Lạt nghiên cứu về việc chỉnh trang, xây dựng đều được tuyển chọn kỹ
lưỡng và nhất thiết phải có trình độ chuyên môn giỏi.
[sửa] Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt
Thác Pongour
Đỉnh Lang Biang
Hồ Than Thở
Thác Cam Ly
Thác Datanla
Thác Hang Cọp
Thác Prenn
Thác Pongour
Thung lũng Tình Yêu
Đồi Mộng Mơ.
Thung Lũng Vàng (gần Hồ Dan Kia).
Hồ Tuyền Lâm
Bàn xoay - Nhà hàng Phong Lan gần Chùa tàu
[sửa] Con người
Con người Đà Lạt thân thiện. Bạn có thể hỏi đường bất cứ một người nào mà bạn bắt gặp trên
đường. Họ luôn tươi cười, đặc biệt là ngưỡi cô gái trẻ với đôi má đỏ hây hây vì tiết trời luôn se lạnh