Professional Documents
Culture Documents
trần thị mỹ hoa
trần thị mỹ hoa
TÓM TẮT
Tên tề tài: Thiết kế phân xưởng sản xuất enzyme glucose oxidase cố định từ nấm
Aspergillus niger
Lớp: 19SH1
Chương 1: Tổng quan tài liệu. Tổng quan về glucose oxidase và nguyên liệu để sản xuất
enzyme cố định từ Aspergillus niger. Các phương pháp sản xuất và lựa chọn phương pháp
phù hợp với sản xuất công nghiệp. Ứng dụng của sản phẩm và tình hình nghiên cứu.
Chương 3: Chọn và thuyết minh dây chuyền công nghệ. Chọn quy trình sản xuất phù
hợp và thuyết minh từng bước thực hiện để sản xuất enzyme glucose oxidase cố định.
Chương 4: Tính cân bằng vật chất. Nêu lên kế hoạch sản xuất của nhà máy. Xử lý các
thông số ban đầu đề cho và tính hao hụt qua các bước của quy trình sản xuất. Lập bảng
thống kê lượng nguyên liệu, thành phẩm và bán thành phẩm qua các bước trong quy trình
để tiến hành chọn lựa thiết bị.
Chương 5: Tính toán và chọn thiết bị. Tính và chọn thiết bị cho mỗi công đoạn, số lượng
thiết bị cần thiết để bố trí tổng mặt bằng nhà máy.
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
KHOA HÓA
NHIỆM VỤ ĐỒ ÁN
Họ và tên sinh viên: Trần Thị Mỹ Hoa Số thẻ sinh viên : 107190256
Thiết kế phân xưởng sản xuất enzyme glucose oxidase cố định từ nấm Aspergillus niger
☐ Có ký kết thỏa thuận sở hữu trí tuệ đối với kết quả thực hiện
- Sản phẩm: có độ ẩm 4%
Tóm tắt
Lời cảm ơn
Cam đoan
Mục lục
Lời mở đầu
5. Các bản vẽ, đồ thị (ghi rõ các loại và kích thước bản vẽ):
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình để hoàn thành đồ án công nghệ 2 này, em đã nhận được những sự
giúp đỡ, chia sẻ, đóng góp ý kiến, chỉ bảo tận tình của Thầy/Cô, gia đình và bạn bè.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô TS. Nguyễn Hoàng Minh, là người hướng
dẫn trực tiếp và tạo điều kiện giúp đỡ em tận tình trong suốt thời gian làm đồ án. Cảm ơn
cô về sự tận tâm, chu đáo, đã đóng góp các ý kiến, chỉnh sửa những lỗi sai trong quá trình
hướng dẫn em thực hiện đề tài của mình.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy/Cô giáo trường Đại học Bách khoa – Đại
học Đà Nẵng nói chung và các Thầy/Cô Bộ môn Công nghệ sinh học nói riêng đã dạy cho
em những kiến thức về các môn đại cương cũng như các môn chuyên ngành, giúp em có
được cơ sở lý thuyết vững vàng để có thể định hướng và tìm hiểu rõ về đề tài.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn gia đình đã tạo điều kiện tốt nhất, luôn lo lắng,
động viên để em có thể hoàn thành đồ án.
Cảm ơn.
Tôi xin cam đoan đây là đồ án tốt nghiệp của riêng tôi. Bản thiết kế mẫu này dựa
trên điều kiện chung nhất, những giả thuyết chung có thể xây dựng ở bất kì địa phương nào
hay địa điểm nào. Các số liệu trong đồ án được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú
thích rõ ràng, minh bạch, có tính kế thừa, phát triển từ tài liệu, tạp chí, các công trình nghiên
cứu khoa học đã công bố, các website.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan của tôi.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Việc nghiên cứu và sản xuất enzyme được phát triển rất mạnh từ đầu thế kỷ 20 đến
nay. Những ứng dụng của enzyme với vai trò như một chất xúc tác công nghiệp ngày càng
gia tăng. Thị trường enzyme công nghiệp thế giới có giá trị 5,9 tỉ đô la mỹ năm 2020 và
được kì vọng sẽ vượt 9,7 tỉ đô trước năm 2030.
Ở Việt Nam, enzyme nói chung và GOD nói riêng hiện đang được ứng dụng rộng
rãi và nghiên cứu rất nhiều nhưng vẫn chưa được phát triển ở quy mô công nghiệp. Do đó,
hầu hết enzyme đang được sử dụng là được nhập khẩu từ các công ty nước ngoài với giá
thành cao.
GOD được coi là một enzym quan trọng có thể ứng dụng trong lĩnh vực điện hóa sinh học,
thực phẩm, dược phẩm, chẩn đoán y tế và thức ăn chăn nuôi. Việc sử dụng GOX trong cảm biến
sinh học và tế bào nhiên liệu sinh học trước đây đã được thảo luận đầy đủ về mặt lâm sàng và sử
dụng cá nhân, theo dõi glucose ở bệnh nhân tiểu đường và tái cấu trúc GOD để phục vụ tốt hơn
cảm biến glucose và tế bào nhiên liệu sinh học. GOD là một chất phụ gia tự nhiên, không độc hại
trong công nghiệp thực phẩm để ngăn ngừa vi sinh vật gây hư hỏng thực phẩm
Mặc dù các đặc tính sinh hóa và lý sinh của GOD đã được nghiên cứu kỹ lưỡng,
nhưng vẫn có những lĩnh vực cần nghiên cứu bổ sung. Ví dụ, tất cả trừ một trong các cấu
trúc của GOD hiện được biết đến là các biến thể của A. niger GOD. Mặc dù một số chủng
công nghiệp với tính ổn định hoặc hoạt tính nâng cao đã được điều chế, nhưng không có
phân tích cấu trúc nào làm cho các dạng này ổn định hơn. Mặc dù có nhiều nỗ lực, nhưng
vẫn không có cấu trúc của phức hợp cơ chất GOD.
Trên các cơ sở này, em chọn đề tài “Thiết kế phân xưởng sản xuất enzyme glucose
oxidase cố định từ nấm Aspergillus niger” để đáp ứng nhu cầu phát triển nền công nghiệp
enzyme trong nước, tạo ra sản phẩm protease chất lượng, giá thành hợp lý và có tính cạnh
tranh cao với sản phẩm của các công ty nước ngoài.
Glucose oxidase (GOD) từ Aspergillus niger (A. niger) là một glycoprotein đặc trưng
bao gồm hai tiểu đơn vị 80-kDa giống hệt nhau với hai liên kết đồng enzyme FAD. Cả trình
tự DNA và cấu trúc protein ở 1,9 Ǻ đã được xác định và báo cáo trước đó. GOX xúc tác
quá trình oxy hóa D -glucose (C 6 H 12 O 6 ) thành D -gluconolactone (C 6 H 10 O 6 ) và hydro
peroxide. GOX được sản xuất tự nhiên trong một số loại nấm và côn trùng, nơi sản phẩm
xúc tác của nó, hydro peroxide, hoạt động như một tác nhân chống vi khuẩn và chống nấm.
GOD được sản xuất tự nhiên bởi động vật, thực vật và vi sinh vật. Mặc dù động vật và
thực vật là những nhà sản xuất GOD quan trọng, năng suất thấp và quy trình chiết xuất và
phân tách không kinh tế của chúng đã hạn chế việc sử dụng chúng trong sản xuất. Do đó,
GOD được sản xuất bởi các vi sinh vật trong thời gian dài, chủ yếu
là Penicillium và Aspergillus , ở quy mô công nghiệp. Ưu điểm chính của việc sử dụng vi
sinh vật phụ thuộc vào khả năng chuyển đổi nhanh chóng nguồn carbon thành GOD với
năng suất cao [2].
GOD được coi là một enzym quan trọng có thể ứng dụng trong lĩnh vực điện hóa sinh
học, thực phẩm, dược phẩm, chẩn đoán y tế và thức ăn chăn nuôi. Việc sử dụng GOX trong
cảm biến sinh học và tế bào nhiên liệu sinh học trước đây đã được thảo luận đầy đủ về mặt
lâm sàng và sử dụng cá nhân, theo dõi glucose ở bệnh nhân tiểu đường và tái cấu trúc GOD
để phục vụ tốt hơn cảm biến glucose và tế bào nhiên liệu sinh học. GOD là một chất phụ
gia tự nhiên, không độc hại trong công nghiệp thực phẩm để ngăn ngừa vi sinh vật gây hư
hỏng thực phẩm ( Staphylococcus aureus , Salmonella infantis , Clostridium
perfringens , Bacillus cereus và Listeria monocytogenes ), phụ gia hóa học (như kali
bromat) thay thế, làm chậm quá trình hóa nâu và hư hỏng [2].
phân giải từ 2,4–1,2 Å; năm trong số chúng nằm trong nhóm không gian lục giác
(P3121hoặc P3221), và một nằm trong trực thoi (C2221). Mặc dù dạng hoạt động trong
dung dịch là mờ hơn, nhưng đơn vị bất đối xứng của mỗi cấu trúc chỉ chứa monome với
monome thứ hai chiếm vị trí liên quan đến đối xứng [1].
GOD từ các cấu trúc có nguồn gốc từ Penicillium và Aspergillus đã được nghiên cứu kỹ
lưỡng. Chúng bao gồm hai tiểu đơn vị giống hệt nhau và mỗi monome có hai miền riêng
biệt: một miền chủ yếu là tờ β và được liên kết chặt chẽ nhưng không liên kết cộng hóa trị
với FAD; cái còn lại được hỗ trợ bởi bốn xoắn ốc α và một tấm β phản song song, và liên
kết với chất nền ( Hình 1.2). FAD liên kết với GOD là một bước thiết yếu trong chức năng
của nó. Các nghiên cứu hiện tại về cấu trúc và tính chất của GOD chủ yếu xem xét A. niger
và Penicillium amagasakiense . Trọng lượng phân tử chủ yếu phụ thuộc vào mức độ
glycosyl hóa và nằm trong khoảng từ 130 đến 175 kDa. GOD từ A. niger là một flavoprotein
đồng nhất có chứa N- và O-glycosyl hóa. GOD của Penicillium amagasakiense được
glycosyl hóa với carbohydrate giàu mannose và việc loại bỏ carbohydrate khỏi enzyme cho
thấy không ảnh hưởng đến cấu trúc, hoạt động hoặc tính ổn định của enzyme [2].
Cấu trúc tổng thể của A. niger glucose oxidase. Monome A. niger GOD tạo thành một
hình lăng trụ hình chữ nhật tròn, thô, có kích thước khoảng 60×52×37. Monome bao gồm
một miền gấp duy nhất với cấu trúc liên kết khá phức tạp. Khi được xem theo cách nhấn
mạnh các yếu tố cấu trúc thứ cấp trong khi giảm thiểu sự đóng góp của các vòng phi cấu
trúc (Hình 1.3), có thể thấy hai miền con, mỗi miền tập trung quanh một chuỗi năm sợi. Hai
tên miền phụ này có thể được liên kết với liên kết FAD trên một mặt và mặt khác liên kết
cơ chất [1].
Trong quá trình xúc tác, GOD sử dụng oxy phân tử làm chất nhận điện tử để xúc tác cụ
thể β- D -glucose thành D -glucono-δ-lactone và hydro peroxide (H2O2 ), sử dụng coenzym
FAD làm chất mang điện tử. D -glucono-δ-lactone tiếp tục được thủy phân thành acid
gluconic, trong khi H2O2 được tạo ra bị phân hủy thành O2 và H2O bởi catalase. Quá trình
này cũng có thể được thể hiện bằng hai nửa phản ứng. Trong nửa phản ứng khử, FAD bị
khử thành FADH 2bằng cách nhận điện tử, và GOD xúc tác β-D-glucose để tạo ra δ-
gluconolactone, chất này sau đó được thủy phân không nhờ enzym thành axit
gluconic. Trong nửa phản ứng oxy hóa, FADH 2 bị oxy hóa thành FAD và oxy phân tử
nhận electron và proton để tạo thành H2O2. Các vị trí xúc tác thiết yếu của GOD từ A. niger
được thể hiện trong hình 1.6A và toàn bộ quá trình xúc tác được thể hiện trong hình 1.6B.
Hoạt động xúc tác của GOD phụ thuộc vào đồng yếu tố FAD, giúp chuyển điện tử trong
quá trình xúc tác. Vị trí hoạt động của FAD được cung cấp bởi một túi sâu, nằm ở dưới
cùng của túi và có một số chuỗi bên axit amin chính gần đó, bao gồm Glam412, His516 và
His559. Ba axit amin này rất cần thiết cho quá trình xúc tác. His559 liên kết mạnh với
Glam412 và một phân tử nước phía trước FAD bằng liên kết hydro [2].
Hình 1. 5: ( A ) Vị trí hoạt động và dư lượng axit amin của dạng GOD bị oxy hóa từ A.
niger ( PDB:1CF3) với sự hiện diện của β- D -glucose. ( B ) Sơ đồ phản ứng oxy hóa
glucose được xúc tác bởi glucose oxidase[2].
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt tính xúc tác của enzyme[3]
a. Nguồn carbon
Trong suốt quá trình lên men, nguồn cacbon không chỉ đóng vai trò như thành phần
chính để xây dựng vật liệu tế bào mà còn được sử dụng trong quá trình tổng hợp
polysaccharide và đóng vai trò là nguồn cung cấp năng lượng cho tế bào. Tỷ lệ cacbon được
chuyển hóa có thể ảnh hưởng đến sự hình thành sinh khối hay sản phẩm chuyển hóa (chính
hoặc phụ). Lượng đường chuyển hóa càng nhanh sẽ giúp tế tào phát triển càng nhanh, kết
hợp với sự tạo thành lượng lớn các sản phẩm liên quan hay các chất chuyển hóa chính.
Năm 1995, Hatzinikolaou và Macris đã nghiên cứu ảnh hưởng của các nguồn cacbon
khác nhau đến sự phát triển và sinh tổng hợp GOD của A. niger. Mặc dù nấm mốc A. niger
phát triển trên tất cả các nguồn cacbon mà họ đã kiểm tra, nhưng enzyme GOD chỉ thể hiện
hoạt tính cao khi sử dụng các nguồn glucose, saccharose và rỉ đường. Hơn nữa, glucose (ở
dạng tinh khiết hoặc là sản phẩm thuỷ phân saccharose bởi invertase) là tác nhân cảm ứng
chính cho sự phiên mã gen của enzyme GOD. Năm 2001, Kona đã sử dụng saccharose như
nguồn cacbon chính khi sử dụng nguồn dinh dưỡng thương mại có chứa nước ngâm bắp để
thực hiện lên men cho A. niger. Năm 1960, Kusai nhận thấy saccharose là nguồn carbon tốt
nhất cho P. amagasakiense sản xuất GOD. Dù sao, nếu pH của môi trường phát triển được
duy trì trong suốt quá trình nuôi thì glucose là nguồn cacbon được lựa chọn.
b. Nguồn nitơ
Nitơ vô cơ bao gồm khí amoniac, muối amoni hoặc nitrate. Amoniac được sử dụng
để điều chỉnh pH. Muối amoni như amoni sulphate thường tạo môi trường axit khi vi sinh
vật sử sụng ion NH4+ và giải phóng ra axit tự do. Mặt khác, nitrate thường gây ra khuynh
hướng kiềm hoá khi chúng được chuyển hóa. Amoni nitrate trước hết sẽ gây ra khuynh
hướng axit khi ion amoni được sử dụng. Khi các ion amoni cạn kiệt, nitrat sẽ được sử dụng
như nguồn nitơ thay thế và tạo ra môi trường kiềm. Năm 1995, Hatzinikolaou và Macris
nghiên cứu ảnh hưởng của các nguồn nitơ khác nhau đến sự phát triển và hoạt tính tổng của
GOD từ A. niger nuôi trên nguồn carbon duy nhất là saccharose và rỉ đường. Họ nhận thấy
nồng độ peptone có ảnh hưởng rõ ràng đến toàn bộ quá trình sản xuất GOD. Với saccharose
và rỉ đường làm nguồn cacbon, hoạt tính cực đại của GOD đạt được lần lượt tại 1÷2% và
0.2÷0.3% peptone. Năm 2001, Kona khảo sát ảnh hưởng của nước ngâm bắp là nguồn dinh
dưỡng duy nhất cho sản xuất GOD từ A. niger và nhận thấy hoạt tính của GOD tăng lên từ
550 Uml− 1 đến 640 Uml− 1, trong khi đó các nguồn nitơ khác không thể cải thiện thêm khả
năng tổng hợp GOD.
Năm 1995, Petruccioli nhận thấy việc bổ sung của CaCO3 vào môi trường phát triển
trong bình tam giác và trong thùng lên men sẽ ngăn cản pH giảm xuống trong suốt quá trình
nuôi, điều này là cần thiết khi tối ưu hóa quá trình sản xuất GOD. Năm 1988, Rogalski cho
thấy sự tổng hợp của GOD rất nhạy cảm bởi sự tăng lên của nồng độ CaCO3 (0÷4,5%) ứng
với hoạt tính cực đại tăng lên gần 3,5%. Hatzinikolaou và Macris cho rằng CaCO3 gây cảm
ứng mạnh trong quá trình sinh tổng hợp GOD của A. niger và đã chứng minh nó là cần thiết
cho quá trình sản xuất. Năm 1996, Hatzinikolaou đã nuôi A. niger sử dụng môi trường nuôi
tối ưu của Rogalski và chứng minh khả năng cảm ứng của CaCO3 khi sản xuất GOD (tối
ưu 4%), nó cũng duy trì pH của môi trường nuôi trong khoảng 6,5÷6,8. Người ta nhận thấy
hoạt tính của enzyme glucolytic và glucose-6-phosphate isomerase là cao hơn trong môi
trường phát triển không có CaCO3, trong khi đó GOD và catalase (CAT) là khá thấp. Sự có
mặt của CaCO3 sẽ làm tăng hoạt tính của GOD và CAT đồng thời hoạt tính của glucose-6-
phosphate isomerase giảm xuống. Việc thêm CaCO3 vào môi trường phát triển có thể gây
ra sự chuyển hóa từ phân hủy glucose đến chu trình pentose phosphate do đó làm tăng lên
hoạt tính của GOD. CaCO3 vào môi trường phát triển gây ra những thay đổi về hoạt tính
của GOD, CAT, 6-phosphofructokinase (6-PFK) và glucose-6-phosphate dehydrogenase
(G-6-PDH). 6-PFK là enzyme điều khiển chủ yếu chu trình Embden-Meyerhof-Parnas
(EMP) trong hầu hết các tế bào sống. Hơn nữa năm 2001, Liu cho thấy những tế bào phát
triển trong môi trường không có CaCO3 tạo ra mức độ cao của 6-PFK và số lượng thấp của
G-6-PDH, GOD và CAT. Việc thêm CaCO3 vào môi trường phát triển làm tăng sự tạo thành
GOD và CAT, và làm giảm sự sự tổng hợp của 6-PFK. Do đó, quan sát này có thể chỉ ra
rằng CaCO3 gắn liền với sự chuyển hóa từ chu trình phân hủy đường glucose (EMP) đến
quá trình oxi hóa trực tiếp glucose bởi GOD .
Hình 1. 6: Sự chuyển hóa từ chu trình phân hủy đường glucose (EMP) đến quá trình oxi
hóa trực tiếp glucose bởi GOD
Nồng độ GOD trong A. niger có thể được tăng lên bởi các loại hydrocarbon khác
nhau trong suốt quá trình nuôi. Năm 1994, Li và Chen cho rằng có một sự tăng lên cực đại
hoạt tính GOD nội bào 43%, 110% và 31% khi thêm vào riêng từng loại n-dodecane, n-
hexadecane và dầu đậu nành. Điều này được cho là do sự tăng lên của hiệu quả tổng hợp
enzyme trong tế bào bởi n-dodecane and n-hexadecane và sự tăng lên của sinh khối với
việc thêm vào dầu đậu nành. Năm 1996, Fiedurek nghiên cứu ảnh hưởng của thành phần
môi trường khác nhau và chất ức chế chuyển hóa của quá trình sản xuất GOD trong A.
niger, và nhận thấy thay thế ammonium phosphate với natri nitrate trong môi trường muối
cơ bản làm tăng đáng kể hoạt tính GOD đến 269,6%. Hơn nữa, hoạt tính GOD nội bào tăng
đến 68,3% trong sự có mặt của natri orthovanadate (1 mM) và hoạt tính GOD ngoại bào
tăng trong sự có mặt của hematin (1 mM), choline (40 mM) và Tween 80 (0,1%). Sự tăng
lên của hoạt tính GOD ngoại bào thu được trong khoảng 31,4÷53,9%.
Sự di chuyển khí-lỏng là nhân tố giới hạn trong quá trình lên men hiếu khí. Một
trong những nguyên nhân chính là do tính hòa tan thấp của oxi trong môi trường lên men
khi so sánh với tính hòa tan của nguồn cacbon, nitơ và các dinh dưỡng khác. Sự cung cấp
oxi càng trở ngại hơn trong môi trường nhớt, nơi có nồng độ tế bào cao và thường thấy
trong quá trình lên men của nấm. Vì vậy thông khí và khuấy trộn là hai nhân tố quan trọng
cho quá trình lên men hiếu khí. Sự thông khí của môi trường phát triển hiếu khí đáp ứng
yêu cầu cung cấp oxi cũng như loại bỏ khí thải ra. Oxi cung cấp cho sự phát triển và sản
xuất trong quá trình nuôi nấm được đảm bảo bởi sự thông khí và khuấy trộn.
Năm 2000, Fiedurek và Gromada xác định phương pháp mới làm tăng oxi hòa tan
trong môi trường phát triển bằng cách thêm vào H2O2 như nguồn oxi duy nhất. CAT được
tạo ra bởi vi sinh vật xúc tác phân hủy H2O2 thành nước và oxi tự do, trong trường hợp này,
H2O2 đóng vai trò như cả chất cho điện tử và chất nhận điện tử trong phản ứng. Oxi tinh
khiết cũng được chứng minh là có lợi cho tốc độ tăng trưởng của A. niger khi nuôi chìm.
Tốc độ tăng trưởng tăng từ 61 mg trọng lượng nấm khô/100 ml/h (thông khí với không
khí) đến 95 mg trọng lượng nấm khô/100 ml/h (thông khí với oxi tinh khiết). So sánh hoạt
tính GOD nuôi ở 24h của A. niger đã khuấy trộn lần lượt ở 460, 700 và 900 rpm cho thấy
hoạt tính của quá trình nuôi đã khuấy trộn ở 700 rpm khoảng 20÷24% cao hơn quá trình
nuôi thông khí ở 460 rpm. Tăng tốc độ máy khuấy trộn hơn nữa không cải thiện được tốc
độ tăng trưởng hay sản xuất GOD. Quá trình nuôi bão hòa oxi đạt được hiệu suất nấm sợi
cao hơn và sớm hơn 8h so với khi nuôi thông khí. Tuy nhiên, sự tự phân cũng cao hơn trong
môi trường nuôi đã bão hòa oxi. Thêm vào đó, độ nhớt của môi trường nuôi bão hòa oxi là
khoảng 50% thấp hơn quá trình nuôi thông khí. Thành tế bào của quá trình nuôi thông khí
được nhận thấy dày hơn và bền hơn quá trình nuôi bão hòa oxi, do đó làm cho tế bào bão
hòa oxi có sức chịu đựng kém hơn trong thiết bị khuấy trộn. Đồng thời hoạt tính GOD của
quá trình nuôi bão hòa oxi gấp đôi của quá trình nuôi thông khí. Bất lợi duy nhất của việc
sử dụng oxi tinh khiết là vấn đề kinh tế khi thực hiện ở qui mô lớn.
Trong số các thông số vật lý, pH của môi trường phát triển đóng vai trò quan trọng
bởi nó gây ra sự thay đổi hình thái trong sinh vật và trong sự tiết enzyme. pH là một yếu tố
quan trọng có ảnh hưởng đến chức năng sinh lý của vi sinh vật bởi nó ảnh hưởng đến tính
hòa tan và hấp thu chất dinh dưỡng, hoạt tính enzyme, hình thái màng tế bào, sự hình thành
sản phẩm và các phản ứng oxi hóa khử. Sự thay đổi pH trong suốt quá trình phát triển của
sinh vật cũng ảnh hưởng đến sự ổn định sản phẩm trong môi trường. pH nuôi có thể có
những ảnh hưởng sâu sắc đến tốc độ sản xuất và tổng hợp enzyme. pH thích hợp cho quá
trình sản xuất GOD có thể khác nhau do sự tối ưu quá trình phát triển. Hầu hết các chủng
thương mại đã sử dụng cho sản xuất GOD có pH tối ưu giữa 6,0 và 7,0 thuận lợi cho tăng
trưởng và sản xuất enzyme. Trong nhiều quá trình, một số thành phần môi trường như
CaCO3 và các phosphate khác có khả năng đệm thì không cần thiết phải điều chỉnh pH.
Nhiệt độ bên trong của vi sinh vật phải cân bằng với môi trường của nó vì hoạt động
vi sinh vật rất nhạy cảm với nhiệt độ môi trường. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình sản
xuất GOD có liên quan đến sự tăng trưởng của vi sinh vật. Trong số các loại nấm, hầu hết
các nghiên cứu sản xuất GOD được thực hiện với nấm sợi trong vùng nhiệt độ từ 25÷37°C.
Hiệu suất tối ưu của GOD đạt được ở 27÷37°C cho A. niger. Năm 1995, Hatzinikolaou và
Macris đã khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ tăng trưởng đến toàn bộ quá trình sản xuất GOD
ở 22,5°C đến 32°C, và nhận thấy 27,5°C là nhiệt độ tối ưu.
Hoạt tính của GOD không bị ảnh hưởng nhiều bởi các ion kim loại, nhưng bị ức chế mạnh
bởi Hg 2+ và bị ức chế hoàn toàn bởi Ag + , Cu 2+ , Fe 2+. Enzyme bị ức chế hoàn toàn bởi
DTNB, DTT và Vc, trong khi DEPC, DMAB và EDTA không gây ra bất kỳ sự ức chế
nào. Chất ức chế protease huyết thanh PMSF giảm hoạt động khoảng 18% và NaN 3, NaF,
2, 4-D bị ức chế 8, 5 và 70%. Các kết quả trên chỉ ra rằng GOD không được đặc trưng như
một liên kết metallicoprotease và disulfide rất quan trọng đối với cơ chế xúc tác [4].
Khả năng ứng dụng của GOD chủ yếu phụ thuộc vào số lượng, độ ổn định nhiệt và hoạt
tính của nó. Nhiều nghiên cứu tập trung vào việc xác định chủng nấm nào tốt hơn cho sự
phát triển cảm biến sinh học, chủng nào tốt hơn cho nghiên cứu lâm sàng và chủng nào tốt
hơn cho các xét nghiệm chẩn đoán sinh hóa. Việc sử dụng GOD tối ưu cũng yêu cầu xem
xét loại ma trận mà GOD được liên kết và loại phương tiện cũng như các điều kiện mà nó
được sử dụng. Do đó, ngoài việc xác định các nhà sản xuất GOD tốt nhất và các điều kiện
lý tưởng cho sự ổn định và hoạt động của nó, việc phát triển các vật liệu liên kết khác nhau,
điều kiện môi trường và hệ thống phát hiện cũng rất quan trọng để mở rộng phạm vi ứng
dụng công nghiệp của GOD [1].
Khả năng GOD tiêu thụ glucose và oxy nội bào để tạo ra hydro peroxide và axit gluconic
có thể cho phép nó được sử dụng trong một số kết hợp trị liệu ung thư. Bằng cách tiêu thụ
glucose, GOD có thể làm giảm các nguồn năng lượng trao đổi chất có sẵn của tế bào ung
thư, do đó, ức chế sự sinh sôi của chúng, và bằng cách tiêu thụ oxy và tạo ra axit gluconic,
nó có thể làm tăng tình trạng thiếu oxy và axit của môi trường vi mô khối u. GOD
chloroquine được gắn vào bề mặt và được nạp vào khoang của các hạt nano vỏ silica xốp
rỗng có cấu trúc lõi polydopamine ( PDA). Những hạt nano này sau đó được sử dụng cho
liệu pháp kết hợp điều hòa chuyển hóa năng lượng (bằng GOD), ức chế quá trình tự thực
(bằng chloroquine) và liệu pháp quang nhiệt ở nhiệt độ thấp (do lõi nano PDA gây ra). Liệu
pháp quang nhiệt sử dụng vật liệu hấp thụ ánh sáng để chuyển năng lượng quang thành tăng
thân nhiệt cục bộ để tiêu diệt các mô ung thư [1].
Đề xuất sớm nhất về cảm biến glucose liên quan đến GOD là vào năm 1962. Ngày nay,
GOD được sử dụng rộng rãi trong các phương pháp phổ biến nhất để đo lượng đường trong
máu.
Fokkert và cộng sự. Đã nghiên cứu hiệu suất của phép đo glucose dựa trên cảm biến huỳnh
quang và dựa trên GOD trong khi tập thể dục cường độ cao, khi mức tiêu thụ oxy dự kiến
sẽ cao hơn và các hoạt động hàng ngày bình thường. Họ phát hiện ra rằng cả hai phương
pháp đều kém chính xác hơn trong khi tập thể dục so với trong các hoạt động hàng ngày và
phát hiện này vẫn tồn tại trên toàn bộ phạm vi nồng độ glucose được kiểm tra.
Gutierrez và cộng sự. Đã cố gắng khắc phục vấn đề này bằng cách thiết kế các biến
thể GOD có mức độ phụ thuộc oxy thấp hơn thông qua gây đột biến ngẫu nhiên bằng cách
sử dụng PCR dễ bị lỗi và độ bão hòa trình tự. Họ đã phát hiện ra những vị trí nào có vẻ
quan trọng đối với độ nhạy oxy và hoạt động của oxy. Một trong những biến thể của chúng
có sự phụ thuộc oxy giảm 37 lần nhưng vẫn giữ nguyên β- D -glucozơ đặc hiệu và bền
nhiệt[1].
GOD cũng được sử dụng trong việc giảm nồng độ cồn trong rượu vang. Nhiệt độ ấm hơn
trong mùa sinh trưởng có khả năng làm tăng mức độ glucose trong nho làm rượu vang. Bằng
cách giảm mức độ glucose, nếu không sẽ được chuyển thành rượu thông qua quá trình lên
men kỵ khí, GOD có thể làm giảm lượng rượu trong rượu thu được. Hydro peroxide do
GOx tạo ra có tác dụng diệt khuẩn đối với các vi khuẩn có tính axit ăn mòn và vi khuẩn sữa
được tạo ra trong quá trình lên men. Hydro peroxide được tạo ra có thể được loại bỏ bởi
enzyme catalase, enzyme này biến đổi H2O2 thành oxi và nước. GOD kết hợp với catalase
làm giảm lượng rượu tốt hơn GOD đơn độc bằng cách chuyển glucose thành axit gluconic
[1].
GOD có những ứng dụng trong công nghiệp dệt như tạo ra H2O2 để tẩy trắng. Năm 2002,
Tzanov đã cố định GOD liên kết cộng hóa trị trên chất nền nhôm oxit và kính cho kết quả
khôi phục cao. Lượng H2O2 lớn nhất là 0.35 g/l và 0.24 g/l đạt được sau 450 phút để GOD
cố định trên chất nền kính và nhôm oxit một cách riêng biệt. H2O2 tạo thành được kiểm tra
để tẩy trắng sợi bông dệt và nhận thấy phù hợp để tiêu chuẩn hóa quá trình tẩy màu. Từ khi
axit gluconic được sản xuất, người ta không sử dụng chất ổn định khác. Năm 2008, Opwis
ứng dụng đồng thời GOD và peroxidase, ông bắt đầu với glucose như cơ chất cho GOD,
H2O2 được tạo thành và được sử dụng ngay lập tức bởi POD oxi hóa hợp chất màu trong
bể nhuộm. Những enzyme này được sử dụng trong quá trình khử màu và tẩy trắng của sợi
tự nhiên trong công nghiệp dệt [3].
GOD cũng được sử dụng trong thương mại để sản xuất axit gluconic nhờ quá trình thủy
phân của δ-glucono-1,5-lactone, sản phẩm cuối cùng của xúc tác GOD. Axit gluconic được
sử dụng như phụ gia thực phẩm hoạt động giống bộ điều chỉnh axit, trong dung dịch khử
trùng hay quá trình tẩy màu trong sản xuất thực phẩm và như muối trong hợp phần hóa học
hay cấp thuốc. Axit gluconic cũng được sử dụng như chất làm chua nhẹ trong thịt và công
nghiệp da thuộc. Nó còn được sử dụng trong công nghiệp xây dựng như phụ gia trong xi
măng để tăng lực cản và sức bền dưới điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Nó xuất hiện tự nhiên
trong mật ong, trái cây và rượu[3].
Năm 1993, Petruccioli và cộng sự nghiên cứu quá trình sản xuất GOD bởi 84 chủng
của Penicillium và kết luận P. expansum (1 chủng), P. italicum (1 chủng), P. chrysogenum
(3 chủng) and P. variabile (3 chủng), khi nuôi trên nguồn cacbon glucose nó tạo ra hoạt
tính GOD từ 0.61Uml-1 đến 5.45Uml-1 [3].
Năm 1995, D. G. Hatzinikolaou và B. J. Macris nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố
đến quá trình sản xuất enzyme GOD bởi A. niger và xác định được vùng điều kiện tối ưu
sinh tổng hợp enzyme GOD [5], cũng trong năm này Maurizio Petruccioli và cộng sự
nghiên cứu quá trình sản xuất GOD bởi chủng đột biến Penicillium variabile ( P16) với
hoạt tính GOD lên đến 19.09Uml-1 sau 96h lên men, cao hơn 127% so với chủng ban đầu
[6].
Cũng với loài A. niger năm 1996 Tongbu Lu và cộng sự nghiên cứu quá trình sản
xuất và ảnh hưởng của các ion kim loại đến hoạt tính enzyme và kết luận: ở nồng độ thấp
muối clorua và gluconate kim loại (như các muối clorua, gluconate của natri, kali, canxi,
magie, kẽm) kích thích hoạt tính GOD nhưng ở nồng độ cao hơn, các muối clorua và
gluconate thể hiện mức độ ức chế khác nhau, và ở cùng nồng độ sự ức chế của muối clorua
mạnh hơn muối gluconate [7], năm 1999 trong nghiên cứu khả năng thu nhận GOD khi sử
dụng nước ngâm bắp sinh tổng hợp bởi A. niger R.P. Kona và cộng sự kết luận hoạt tính
enzyme tăng đến 640±36U/ml khi bổ sung nước ngâm bắp vào môi trường, họ nhận thấy
đây là nguồn nitơ tốt nhất cho sự tổng hợp enzyme GOD hơn hẳn so với các nguồn nitơ
muối nitrat của canxi, natri, amoni, kali và dịch chiết nấm men, dịch chiết malt và peptone
[8].
Với mục đích nâng cao sản xuất GOD năm 2007 Shazia Sabir và cộng sự nghiên cứu
sản xuất GOD từ Penicillium notatum sử dụng cám gạo, hoạt tính của enzyme đạt được tối
đa 112±5U/ml dưới các điều kiện tối ưu: cám gạo 5g, nuôi trong 72h ở (30±1)0C và pH=6.0
[20]. Năm 2009 Muhammad Ramzan và Tahir Mehmood nghiên cứu sản xuất GOD từ
chủng A. niger đột biến UV nhận thấy hoạt tính enzyme ngoại bào và nội bào tăng lên 1.57
and 1.98 lần so với chủng bố mẹ
Không có một giống nấm sợi nào khác ngoài giống nấm này có hệ bào tử đính tương
tự. Giống nấm này phát triển rất nhiều trong các vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới.
xử các lý chất thải và biến đổi sinh học. Nấm mốc A. niger là loài phổ biến nhất của giống
nấm mốc Aspergillus. Nó gây ra một căn bệnh gọi là mốc đen trên một số loại trái cây và
rau quả như nho, hành tây, và đậu phộng, và là một chất gây ô nhiễm phổ biến trong thực
phẩm. Nó tồn tại phổ biến trong đất, từ các môi trường trong nhà…
A. niger là một loại nấm ascomycete dạng sợi, được hình thành bởi sợi nấm vách
ngăn.
Là một loại nhựa sống trong đất với một loạt các enzyme thủy phân và oxy hóa tham
gia vào quá trình phân hủy lignocellulose thực vật. Một loạt các enzym này từ A. nigerquan
trọng trong ngành công nghệ sinh học. A. niger cũng là một sinh vật mẫu quan trọng cho
một số lĩnh vực nghiên cứu quan trọng bao gồm nghiên cứu về sự bài tiết protein của sinh
vật nhân chuẩn nói chung, tác động của các yếu tố môi trường khác nhau đối với việc ngăn
chặn hoặc kích hoạt việc sản xuất các loại enzyme phân hủy sinh khối khác nhau, các cơ
chế phân tử quan trọng đối với sự phát triển của quá trình lên men, và các cơ chế liên quan
đến việc kiểm soát hình thái của nấm.
Lúc đầu sợi nấm có màu trắng, sau đó nó trở nên tối và cuối cùng thu được các màu
khác nhau, từ đen tuyền đến nâu sẫm.
A. niger Nó có một conidiophore mịn hoặc hơi hạt có chiều dài 1,5 đến 3 mm, với
một bức tường dày. Chúng thường là hyaline hoặc nâu.
Dưới kính hiển vi, bạn có thể thấy conidia phong phú với khía cạnh khác nhau: trong
số đó có globose, subglobose, elip, mịn, được điều hòa, chiến tranh hoặc với các rãnh dọc,
tất cả đều có màu đen.
Sinh sản vô tính bằng cách hình thành bào tử phân sinh. Vòng đời bắt đầu với sự
phân tán trên bề mặt có điều kiện thuận lợi 25-40oC sau đó nảy mầm tạo thành 1 tế bào sinh
dưỡng. Các tế bào phát triển thành sợi nấm phân nhánh theo cách phân đôi tạo thành sợi
nấm trên không. Sau đó phát triển tạo thành các bào tử phân sinh phồng lên ở định tạo thành
phần túi của bào tử phân sinh.
1.2.5. Tình hình nghiên cứu và sản xuất enzyme từ Asp. Niger
A. niger nổi tiếng là sản sinh nhiều axit hữu cơ, enzym, chất điều hòa sinh trưởng thực
vật, độc tố nấm mốc và kháng sinh. Tầm quan trọng công nghiệp của A. niger là do khả
năng tổng hợp của hơn 35 sản phẩm bản địa. Trong vài năm qua, nhiều nghiên cứu đã được
trình bày về loại nấm quan trọng nhất để sản xuất
1.3. Các phụ liệu trong sản xuất enzyme Glucose oxidase
1.3.1. Nước
Nước được sử dụng trực tiếp trong sản xuất protease là nước đã được xử lý qua hệ
thống lọc nước RO. Hệ thống lọc RO hay còn gọi là công nghệ lọc thẩm thấu ngược là hệ
thống lọc sử dụng hệ thống màng bán thấm nhằm loại bỏ các tạp chất, kim loại, vi sinh vật.
Đây là công nghệ lọc hiện đại bậc nhất hiện nay, chúng chỉ cho phép những phân tử nước
đi qua màng lọc và loại bỏ tạp chất ra đường nước thải. Điều này là do quy trình thẩm thấu
của công nghệ sử dụng tốc độ và áp lực lớn, dòng nước chảy liên tục trên bề mặt màng lọc.
Phương pháp này dựa trên cơ sở sự khác nhau về khả năng kết tủa của các enzyme
ở một nồng độ muối xác định (tính theo phần % nồng độ bão hòa). Các loại muối có thể
được dùng là (NH ) SO , Na SO , MgSO ... người ta đã nhận thấy muối (NH ) SO là tốt nhất
4 2 4 2 4 4 4 2 4
vì nó không làm hại mà làm ổn định (làm bền) hầu hết các loại enzyme. Loại muối này lại
rẻ và phổ biến
− Enzyme cố định có thể tái sử dụng trong một thời gian dài
− Enzyme cố định không lẫn trong sản phẩm, vì vậy mà sẽ không có những ảnh hưởng xấu
đối với chất lượng sản phẩm và sẽ không tốn các chi phí cho việc tách enzyme ra khỏi sản
phẩm
− Có thể làm ngừng nhanh chóng phản ứng khi cần thiết bằng cách tách hệ chất mang -
enzyme ra khỏi dung dịch cơ chất
− Enzyme cố định khá bền với nhiệt độ, pH, dung môi hữu cơ…
− Dễ dàng tiến hành quá trình sản xuất theo phương pháp liên tục [9].
Nhược điểm
− Sự có mặt của chất mang có thể giảm hoạt tính của emzyne
− Trong đa số trường hợp, quá trình cố định enzyme làm enzyme bị mất hoạt tính [9].
Sự liên kết ngang của một enzyme với một polyme (polyacrylamide, alginate…) theo
mọi hướng, bao phủ hầu hết các chuỗi có trên bề mặt của enzyme bằng cách bao bọc quanh
mạng tinh thể polyme. Nó cho phép thẩm thấu chất nền có kích thước thích hợp và giải
phóng các phân tử sản phẩm, đảm bảo sự chuyển hóa liên tục.
Ưu điểm của phương pháp này như: đơn giản, không thay đổi mối quan hệ thích hợp
của enzym nội tại, không liên quan đến biến đổi hóa học, yêu cầu enzym tối thiểu và chất
nền có sẵn ở nhiều hình dạng khác nhau.
Bên cạnh đó thì phương pháp này tồn tại những hạn chế như: chỉ có thể sử dụng với
một lượng enzyme nhất định, gây rò rỉ enzyme, chỉ có thể sử dụng cơ chất hoặc sản phẩm
có kích thước nhỏ, đòi hỏi sự cân bằng giữa các đặc tính cơ học của chất nền và ảnh hưởng
của nó đối với hoạt động của enzyme và sự hiện diện của các chất hạn chế sự khuếch
tán[10].
b. Hấp phụ
Enzyme được gắn vào vật liệu hỗ trợ bởi các liên kết cộng hóa trị không phân cực bao
gồm các tương tác ion hoặc kỵ nước, liên kết hydro và lực van der Waals mà không cần bất
kỳ sự kích hoạt trước của chất hỗ trợ. Các chất mang được sử dụng như than hoạt tính,
kaolinit, bentonit, thủy tinh xốp, chitosan, dextran, gelatin, cellulose, tinh bột.
Phương pháp cố định này liên quan đến việc tối ưu hóa các yếu tố như: pH, nhiệt độ,
bản chất của dung môi, cường độ ion, nồng độ của enzyme và chất hấp phụ. Enzyme được
thêm trực tiếp vào bề mặt (chất hấp phụ hoạt tính) mà không cần loại bỏ bất kỳ enzyme
không hấp phụ nào trong quá trình rửa. Phương pháp này rất đơn giản và nhẹ với rất nhiều
chất mang giúp tinh sạch đồng thời cũng như cố định enzyme (ví dụ như Asparginase trên
CM-cellulose) mà không có bất kỳ sự thay đổi cấu trúc nào [9].
c. Vi nang
Các enzyme được cố định bằng cách bao bọc chúng trong màng polyme bán thấm hình
cầu với độ xốp được kiểm soát (1–100 μm). Màng bán thấm có thể là màng vĩnh viễn hoặc
không vĩnh viễn dựa trên các thành phần. Màng vĩnh viễn được làm bằng cellulose nitrat
và polystyrene, trong khi đó màng không vĩnh viễn được làm bằng chất hoạt động bề mặt
lỏng. Những màng này cũng được sử dụng trong bao gói thuốc nhuộm, thuốc và các hóa
chất khác [9].
Enzyme được gắn vào chất nền bằng các liên kết cộng hóa trị (diazotation, liên kết amin,
phản ứng amid hóa, liên kết peptit và phản ứng alkyl hóa). Các phân tử enzyme được gắn
trực tiếp vào các nhóm phản ứng (nhóm hydroxyl, amit, amino, cacboxyl) có trên chất nền,
được gắn nhân tạo vào chất nền thông qua các phản ứng hóa học khác nhau. Các chất nền
thường được sử dụng là tự nhiên (thủy tinh, Sephadex, Agarose, Sepharose) hoặc tổng hợp
(acryla mide, axit metacrylic, styren).
Phương pháp cố định này liên quan đến các axit amin không thiết yếu dẫn đến những
thay đổi cấu trúc tối thiểu. Nó giúp thúc đẩy khả năng chống chịu cao hơn của các enzyme
đối với các điều kiện vật lý và hóa học khắc nghiệt (ủ nóng, chất biến tính, dung môi hữu
cơ). Tuy nhiên phương pháp này dẫn đến những biến tính về cấu tạo và tính xúc tác của
enzyme, do điều kiện cố định khắc nghiệt và sự tương tác của các nhóm amin tham gia vào
quá trình tương tác của enzyme với chất nền [9].
Là phương pháp có sự liên kết cộng hóa trị giữa enzym và chất nền bằng cách sử dụng
thuốc thử đa chức năng (glutardialdehyde, glutaraldehyde, glyoxal, diisocyanates,
hexamethylene diisocyanate, toluen diisocyanate). Nói chung, các nhóm amin của lysine,
nhóm sulfhydryl của cysteine, nhóm OH phenolic của tyrosine, hoặc nhóm imidazol của
his-tidine của được sử dụng để liên kết với enzyme trong điều kiện nhẹ.
Ưu điểm chính của phương pháp này là tính đơn giản của nó. Tuy nhiên, nó dẫn đến
mất một lượng lớn enzyme do phản ứng không điều hòa được. Hơn nữa, phương pháp cố
định enzyme này gặp phải những hạn chế do sự khuếch tán [9].
Chất nền thường được sử dụng là: các dẫn xuất polysaccharide (dextran, chitosan,
diethylaminoethylcellulose, carboxymethylcellulose), polyme tổng hợp (các dẫn xuất poly-
styrene, polyethylene vinylalcohol) và các vật liệu vô cơ (Amberlite, alumina, silicat,
bentonite, sepiolite, silica gel).
Phương pháp cố định này dẫn đến những thay đổi tối thiểu trong cấu trúc enzyme. Tuy
nhiên, đặc biệt chú ý đến việc duy trì cường độ ion chính xác và độ pH của dung dịch trong
đó enzym cố định trải qua xúc tác vì tăng khả năng tách enzym ra khỏi chất nền trong các
điều kiện dưới mức tối ưu [9].
Gắn enzym vào chất nền bằng cách sử dụng các phối tử cụ thể như his-tag trên enzyme
chất nền chứa kim loại, lectin là các protein liên kết carbohydrate có trên chất nền hoặc đôi
khi các hợp chất hóa học như cơ chất cũng được sử dụng làm phối tử. Trong một số trường
hợp, các phối tử hiện diện tự nhiên trên enzyme hoặc trong trường hợp khác, chúng được
gắn nhân tạo bằng cách dung hợp một trình tự nucleotide tương ứng với DNA mã hóa
polypeptide của enzyme đã cho.
Phương pháp cố định này dẫn đến những thay đổi tối thiểu trong cấu trúc của enzym,
với độ ổn định cao và hiệu quả xúc tác của enzyme cố định do không có sự tham gia của
các gốc vị trí hoạt động và hiệu quả cố định cao hơn do sự hiện diện của mật độ cao của
phối tử trên chất nền.
Phương pháp này không chỉ hữu ích cho việc cố định enzyme mà còn cho một số protein
bao gồm kháng thể, cytokine, streptavidin… Enzyme được cố định bằng phương pháp này
đã được ứng dụng trong công nghệ sinh học, chẩn đoán y học, nuôi cấy mô tế bào động vật
[9].
đảm bảo cho enzyme dễ tiếp cận, tỷ lệ enzyme cố định cao, diện tích bề mặt chất mang
cũng ảnh hưởng đến lượng enzyme có thể gắn lên bề mặt. Các chất mang được lựa chọn
cũng dựa vào chi phí để cố định, khả năng tái sử dụng, loại liên kết dùng để cố định.
1.4.4.2. Chitosan
Chitosan là một polysaccharide mạch thẳng, có nguồn gốc tự nhiên, gồm các đơn vị
glucosamine và N-acetyl-glucosamine được liên kết bởi các liên kết β-(1,4) glycosidic [11].
Hình 1. 7: Cấu trúc hóa học của chitin và chitosan, và quá trình N-acetyl hóa từ chitin
thành chitosan [11].
Chitin là nguồn nguyên liệu để sản xuất chitosan, được khai thác chủ yếu từ hai loài
giáp xác biển tôm và cua. Chitosan là sản phẩm thu được từ quá trình N-acetyl hóa chitin,
với sự có mặt của kiềm nóng [12].
Chitosan không thể hòa tan trong dung dịch trung tính hoặc kiềm nhưng có thể dễ
hòa tan trong dung dịch acid loãng (pH<6) nơi có các nhóm amin tự do được proton hóa và
phân tử trở nên hòa tan. Độ hòa tan của chitosan phụ thuộc vào sự phân bố của các nhóm
amin và N-acetyl tự do, thông thường dung dịch acid axetic 1-3% sử dụng để hòa tan
chitosan. Chitosan là một nguyên liệu tương đối rẻ, có tính trơ, ưu nước, không độc tính,
có hoạt tính kháng khuẩn và chống nấm nên nó là một vật liệu phù hợp cho việc cố định
enzyme [11].
Chitosan có thể dễ dàng tạo liên kết ngang bằng các thuốc thử như glutaraldehyde
để tạo thành aquagel cứng. Trên thực tế, chitosan đã được chứng minh là chất hỗ trợ vượt
trội cho quá trình cố định enzyme, so với các polysacarit như alginate. Hơn nữa, chitosan
thể hiện khả năng liên kết protein đáng kể và khả năng phục hồi hoạt tính enzyme cao, cho
phép enzyme cố định trên đó vẫn hoạt động đáng kể[13].
Chitosan–SiO2 được điều chế bằng cách ghép chitosan với tetramethoxy silicane
thông qua phương pháp sol–gel ở điều kiện môi trường xung quanh. Để thu được các vật
liệu sẵn có và rẻ tiền, loại gel lai chitosan–SiO2 mới được sử dụng thông qua quá trình thủy
phân tetramethoxy-silica.
Phản ứng thủy phân của tetramethoxy silicane (TMOS) trong môi trường axit được
sử dụng để tạo thành gel chitosan–SiO2 như được minh họa bằng phương trình dưới đây:
Dung dịch ban đầu của chitosan trong nước được tạo ra bằng cách khuấy một lượng
chitosan nhất định với axit axetic 1% trong nước để tạo thành dung dịch nhớt và có màu
vàng nhạt, sau đó thêm tetramethoxy-silicane (TMOS) vào. Hỗn hợp ban đầu bao gồm hai
pha được làm đồng nhất bằng cách khuấy mạnh cho đến khi pha chứa SiO2 phân tán đều
trong dung dịch nước trong khi phản ứng thủy phân diễn ra. Để yên 30 phút, gel trắng đục
được hình thành. Gel thu được sau đó được đặt trong dung dịch formaldehyde trong 6 giờ,
sau đó được rửa ba lần bằng nước cất để loại bỏ formaldehyde. Gel được để khô qua đêm
ở nhiệt độ phòng và sau đó được bảo quản để sử dụng [13].
b. Cố định enzyme
Quá trình cố định đạt được bằng phương pháp sau: 10 mg GOD trong 5 ml dung
dịch đệm phosphat 0,06 mol/l ở độ pH mong muốn được cho tiếp xúc với 0,2 g chất hỗ trợ
gel chitosan–SiO2 (trọng lượng khô) trong ống nghiệm ở 4°C trong 24 giờ. Sau đó thu thập
enzyme cố định bằng cachs ly tâm ra khỏi dung dịch, tiếp đên sẽ được rửa ba lần trong 20
ml dung dịch đệm photphat 0,06 mol/l để loại bỏ GOD tự do[13].
GOx được biết là được sản xuất nội bào hoặc ngoại bào hoặc đôi khi dưới dạng
enzyme liên quan đến sợi nấm. Do đó, các tế bào phải bị phá vỡ để giải phóng hoàn toàn
GOx vào nước dùng. Vị trí trong hoặc ngoài tế bào của enzym của các loài A. niger và
Penicillium là chủ đề của nhiều cuộc thảo luận. Trong khi đó, vị trí chu chất của A. niger
GOx đã được chứng minh rõ ràng (Witteveen et al., 1992), phù hợp với sự hiện diện của
một chuỗi tín hiệu trước gen A. niger GOx (Kriechbaum et al., 1989 ; Frederick và cộng
sự, 1990). Do vị trí ngoại vi, việc giải phóng enzyme khỏi sợi nấm có thể được tạo điều
kiện thuận lợi bằng các lực cơ học và vật lý, ví dụ như kích động và/hoặc siêu âm[3].
Rỉ đường hay còn gọi là mật rỉ là sản phẩm phụ trong quá trình sản xuất đường mía,
chiếm 3-5% mía nguyên liệu, có pH=6,8 ÷ 7,2. Thành phần của rỉ đường bao gồm: 15-20%
nước; 80-85% chất khô hòa tan bao gồm: Đường 60% (saccharose 35-40%, đường khử 15-
20 %); chất khô khác < 40% (30-32% chất hữu cơ như a.a., các acid hữu cơ... và 8-10%
chất vô cơ); vitamin (Thiamin 8,3; Riboflavin 2,5; a.nicotinic 21,4; a.folic 0,038;
pyridoxine 6,5; biotin 12y/g rỉ đường). Do đó, đây không chỉ là nguồn nguyên liệu rẻ tiền
dễ kiếm mà còn là nguồn dinh dưỡng cho Asp. niger sinh trưởng và phát triển.
Nguyên liệu bao gồm các thành phần dinh dưỡng nhằm cung cấp cho Asp. niger
phát triển. Đối với quá trình hoạt hóa giống, quá trình này được tiến hành trên môi trường
PDA. Môi trường PDA (Potato Dextrose Agar) với thành phần chủ yếu là bột khoai tây và
đường dextrose và là môi trường rất phù hợp cho sự phát triển và sinh bào tử của nấm Asp.
niger.
Đối với môi trường nhân giống cấp 1 và nhân giống cấp 2 bao gồm các thành phần
như:. (NH4)2HPO4; KH2PO4; MgSO4.7H2O; Peptone 10g/l và Sucrose 70g/l .
Đối với môi trường lên men gồm rỉ đường, rượu ngâm ngô (CSL), CaCO3,
(NH4)2HPO4; KH2PO4; MgSO4.7H2O
Mục đích:
Chuẩn bị nguyên liệu cho sản xuất phù hợp với năng suất, và kế hoạch sản xuất của
nhà máy
Tiến hành:
Đối với giống A. niger : rã đông giống được bảo quản lạnh và tiến hành hoạt hóa
giống, nhân giống nhân giống các cấp. Đối với môi trường dinh dưỡng: lấy đủ hóa chất cần
thiết cho môi trường lên men từ kho bảo quản hóa chất (kho bảo quản mát mẻ và không
chứa các chất dễ gây cháy nổ).
Xử lí nguyên liệu rỉ đường:
Vì rỉ đường có nồng độ đường lớn, độ nhớt cao và các hợp chất ức chế quá trình lên
men nên cần cần xử để thích hợp cho sự phát triển của Asp. niger.
Mật rỉ được pha loãng với nước cất theo tỷ lệ 1:4, thêm than hoạt tính nhằm khử
màu. Cho hexacyanoferrate vào mật rỉ sau khi được khử màu, điều chỉnh pH 4,0÷4,5, sau
đó đun nóng ở 70–90°C trong 15 phút. Sau quá trình, kết tủa hình thành có chứa phức hợp
kim loại và được loại bỏ bằng cách lọc.
Định lượng:
Môi trường hoạt hóa giống:
Dẫn một thể tích nước vào thiết bị phối trộn, cho tinh bột vào hòa tan trước sau đó
lần lượt thêm các thành phần môi trường khác, dẫn thêm nước vào đến thể tích cần.
2.2.3. Tiệt trùng và làm lạnh
Mục đích:
Nhằm tiêu diệt các vi sinh vật có hại và bào tử của chúng trong môi trường dinh
dưỡng trước khi lên men, đảm bảo điều kiện thuận lợi, tránh sự cạnh tranh của các loài vi
sinh vật khác trong quá trình lên men. Hạ nhiệt độ môi trường sau tiệt trùng để phù hợp cho
quá trình lên men.
Tiến hành:
Dịch môi trường đã phối trộn được đưa vào thiết bị tiệt trùng và làm nguội. Tiến
hành 121oC trong 15 phút.
Tạo môi trường nuôi cấy thích hợp cho A. niger phát triển, để tăng sinh và sinh tổng
hợp glucose oxidase. Đây là giai đoạn chính để sản xuất enzyme,tại đây thực hiện các quá
trình biến đổi sinh lý hóa quyết định đến chất lượng, năng suất của sản phẩm. Chính vì vậy
giai đoạn này cần được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo quá trình lên men đạt được hiệu quả.
Tiến hành:
Cho giống đã nhân giống sản xuất vào môi trường đã được thanh trùng và làm nguội.
Quá trình lên men được tiến hành trong thiết bị lên men có cánh khuấy trộn, cung cấp khí,
cơ chế tạo bọt, điều khiển nhiệt độ, áp suất, pH. Duy trì 40h pH 6-7 và nhiệt độ 30°C.
Tiến hành: Canh trường trong thiết bị bioreactor được làm lạnh xuống 4⁰C nhờ dòng
nước lạnh dẫn qua lớp áo nước thiết bị bioreactor.
2.2.7. Lọc
Mục đích: Loại bỏ các tế bào A. niger và thu dịch chứa enzyme
Tiến hành: Tiến hành ly tâm lọc nhiệt độ 4oC tốc độ ly tâm :
Bã sau khi ly tâm được cho vào thùng chứa bã còn phần dịch được đem đi kết tủa.
2.2.8. Kết tủa
Mục đích: Nâng cao nồng độ enzyme có trong dịch enzyme, loại bỏ bớt các thành
phần hòa tan không phải là enzyme có trong dịch enzyme.
Tiến hành: cho dung dịch (NH ) SO bão hòa vào. Có thể sử dụng thùng chứa có cánh
4 2 4
Nhằm tách phần enzyme đã được kết tủa trong dung dịch ra khỏi các phần không
kết tủa để thu nhận enzyme.
Tiến hành: Dung dịch enzyme từ tank kết tủa được chuyển qua thiết bị ly tâm nhờ lực đẩy
của bơm.
Tiến hành:
Quá trình cố định đạt được bằng phương pháp sau: 10 mg GOD trong 5 ml dung
dịch đệm phosphat 0,06 mol/l ở độ pH mong muốn được cho tiếp xúc với 0,2 g chất hỗ trợ
gel chitosan–SiO2 (trọng lượng khô) trong ống nghiệm ở 4°C trong 24 giờ. Sau đó thu thập
enzyme cố định bằng cachs ly tâm ra khỏi dung dịch, tiếp đên sẽ được rửa ba lần trong 20
ml dung dịch đệm photphat 0,06 mol/l để loại bỏ GOD tự do[13].
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Cả năm
Ngày làm 23 28 31 28 30 30 31 31 29 31 16 31 339
Số ca làm 69 84 93 84 90 90 93 93 87 83 48 93 1017
Năng suất nhà máy sản xuất enzyme cố định theo năm: 1520(tấn/ năm)
152000
Năng suất nhà máy sản xuất enzyme cố định theo ngày: = 448.377 (kg/ngày)
339
Độ ẩm sản phẩm thu nhận: W = 4%
Độ ẩm của sản phẩm enzyme sau khi sấy chân không: 4%.
Hao hụt chất khô: là hao hụt nguyên liệu do quá trình bảo quản bị thất thoát đi. Tuy
nhiên, trong đề tài này, giả sử nguyên liệu được mua về và sử dụng ngay nên không có hao
hụt chất khô.
Công thức:
Lượng chất khô trong suốt quá trình là không đổi, khi đó:
100 − 𝑊t 100 − 𝑊s
M = Gt × = Gs ×
100 100
Suy ra:
100 − 𝑊s
Gt = Gs ×
100 − 𝑊t
G1
Đóng gói
Khối lượng hỗn hợp bột enzyme trước khi đóng gói:
100 100
G1 = G × = 4483.775 × = 4506.307 (kg/ngày)
100−𝑇1 100−0,5
G1
Tỉ lệ hao hụt của công đoạn sấy: T2= 0,5%
Giả sử trong quá trình sấy chỉ có lượng nước bay hơi.
Lượng ẩm tách ra khỏi thiết bị trong quá trình sấy bằng khối lượng nước bay hơi ta có:
𝑊t 𝑊s 40 4
𝑊 = G2 × − G1 × =7246.322× − 4506.307 × =2718.277 (kg/ngày)
100 100 100 100
G3
Tinh bột
Phối trộn
G2
Tỉ lệ hao hụt là T3 = 0,5%.
Quá trình phối trộn tinh bột vào dịch enzyme theo tỷ lệ 3:1.
Khối lượng dịch enzyme trước khi phối trộn là:
100 33.33 100 33.33
G3 = G2 × × = 7246.322 × × =2427.336 (kg/ngày)
100−𝑇3 100 100−0,5 100
3.3.4. Rửa
Tỷ lệ hao hụt T4 = 1%
Chất mang
→ Khối lượng enzyme được gắn là: 2594.555 × 0,05 = 129.728 (kg/ngày)
Ta có: G5 = khối lượng chất mang + khối lượng enzyme sau khi hòa tan tủa = A + G6
100 100
G6 = (G5 – A) × = (6879.502 − 2594.555) × = 4306.479 (kg/ngày)
100− T6 100− 0.5
G6
Giả sử độ ẩm dịch enzyme trước và sau khi hòa tan tủa lần lượt là W7 = 20%, W6 = 65%.
G7
Lượng hao hụt do vận chuyển khi qua công đoạn ly tâm là:
G8’= G8 – Gdịch – G7 =6343.719 – 4396.197 –1884.085 = 63.437 (kg/ngày).
(NH4)2SO4, 80%
Kết tủa
G8
3.3.10. Lọc
G10
Lọc 1 bã
G9
Hao hụt vận chuyển T10= 1%
Giả sử lượng dịch enzyme thô chiếm 65% khối lượng canh trường đem đi ly tâm.
Lượng hao hụt do vận chuyển khi qua công đoạn ly tâm tách bã ghiền là:
G11
G10
Nhân giống sx
Ggiống
Tỉ lệ đưa giống cấp 2 cấy vào bằng 10% khối lượng dịch môi trường trước khi cấy:
Gọi khối lượng dịch môi trường nhân giống sản xuất là Gmtsx ta có:
100 100
G12= Ggiống × = 631.442 × = 632.707 (kg/ngày)
100− T12 100− 0.2
1
CSL: : 575.188 × = 5.752kg/ngày
100
5
CaCO3: 575.188 × = 28.759 kg/ngày
100
0.04
(NH4)2HPO4: 575.188 × = 0.230 kg/ngày
100
0.02
KH2PO4: 575.188 × = 0.115 kg/ngày
100
0.02
MgSO4.7H2O: 575.188 × = 0.115 kg/ngày
100
G13
Nhân giống c2
Ggiống sx
Tỉ lệ đưa giống cấp 2 cấy vào bằng 10% khối lượng dịch môi trường trước khi cấy:
Gọi khối lượng dịch môi trường nhân giống cấp 2 là Gmt cấp 2 ta có:
100 100
G13= Ggiống sx × = 57.519 × = 57.634 (kg/ngày)
100− T13 100− 0.2
7
Sucrose: : 52.395 × = 3.668 kg/ngày
100
0.04
(NH4)2HPO4: 52.395 × = 0.021 kg/ngày
100
0.02
KH2PO4: 52.395 × = 0.010 kg/ngày
100
0.02
MgSO4.7H2O: 52.395 × = 0.010 kg/ngày
100
Nhân giống c1
Ggiống c2
SVTH: Trần Thị Mỹ Hoa GVHD: TS. Nguyễn Hoàng Minh
44
Thiết kế phân xưởng sản xuất enzyme Glucose oxidase ( cố định) từ nấm Aspergillus niger
Tỉ lệ đưa giống cấp 1 cấy vào bằng 10% khối lượng dịch môi trường trước khi cấy:
Gọi khối lượng dịch môi trường nhân giống cấp 1 là Gmt c1 ta có:
100 100
G14= Ggiống c2 × = 5.239 × = 5.250 (kg/ngày)
100− T14 100− 0.2
7
Sucrose: :4.773 × = 0.334 kg/ngày
100
0.04
(NH4)2HPO4: 4.773 × = 0.002 kg/ngày
100
0.02
KH2PO4: 4.773 × = 0.001 kg/ngày
100
0.02
MgSO4.7H2O: 4.773 × = 0.001 kg/ngày
100
G15
Ggiống c1
Tỉ lệ đưa giống hoạt hóa cấy vào bằng 10% khối lượng dịch môi trường trước khi cấy:
Gọi khối lượng dịch môi trường hoạt hóa là Ghh ta có:
100 100
G15= Ggiống c1 × = 0.477 × = 0.478 (kg/ngày)
100− T15 100− 0.2
2
Dextrose: : 0.435 × = 0.0087 kg/ngày
100
G16
G11
Khối lượng môi trường sau khi làm nguội chính là khối lượng môi trường trước khi chuẩn
bị nhân giống sản xuất và lên men.
Lượng môi trường trước công đoạn làm nguội và tiệt trùng là:
100 100
G16= G11 × = 6945.860× = 6980.763 (kg/ngày)
100− T16 100− 0.5
G17
Phối trộn
G16
G18
Định lượng
G17
1
CSL: : 7086.710 × = 70.867 kg/ngày
100
5
CaCO3: 7086.710 × = 354.335 kg/ngày
100
0.02
KH2PO4: 7086.710 × = 1.417 kg/ngày
100
0.02
MgSO4.7H2O: 7086.710 × = 1.417 kg/ngày
100
Năng suất
STT Công đoạn Nguyên liệu
(kg/ngày)
Bột khoai tây 0.087
Dextrose 0.0087
Agar 0.0087
1 Hoạt hóa giống
Nước 0.331
Lượng giống cấy vào 0.0435
Dịch canh trường 0.435
peptone 0.047
Sucrose 0.334
(NH4)2HPO4 0.002
KH2PO4: 0.001
2 Nhân giống cấp 1
MgSO4 0.001
Nước 4.397
Lượng giống cấy vào 0.477
Dịch canh trường 4.773
peptone 0.524
Sucrose 3.668
3 Nhân giống cấp 2 (NH4)2HPO4 0.021
KH2PO4: 0.010
MgSO4 0.010
Nước 48.126
Lượng giống cấy vào 5.239
Dịch canh trường 52.395
Rỉ đường 28.759
CSL 5.752
CaCO3 28.759
(NH4)2HPO4 0.230
4 Nhân giống sản xuất KH2PO4: 0.115
MgSO4 0.115
Nước 512.482
Lượng giống cấy vào 57.519
Dịch canh trường 575.188
Rỉ đường 354.336
CSL 70.867
CaCO3 354.335
5 Định lượng (NH4)2HPO4 2.834
KH2PO4: 1.417
MgSO4 1.417
Nước 6314.132
6 Phối trộn Môi trường 7051.276
7 Tiệt trùng, làm nguội Môi trường 6980.763
Dịch lên men 6314.418
8 Lên men
Giống 631.442
Dịch lọc 6911.130
9 Lọc lần 1
bã 2418.896
Dịch enzyme 4447.312
10 Kết tủa
(NH4)2SO4 1960.485
Enzyme tủa 6343.719
11 Lọc lần 2
Dịch bỏ 4396.197
Enzyme 1884.085
12 Hòa tan tủa
Nước 2427.249
13 Cố định enzyme Dịch enzyme 4306.479
4.1. Các thiết bị sửa dụng trong dây chuyền sản xuất enzyme cố định
Bảng 4. 1: Liệt kê các thiết bị sử dụng trong dây chuyền sản xuất
✓ Thiết bị phải đảm bảo chất lượng sản phẩm cao, tiêu hao lãng phí nguyên liệu ít nhất.
✓ Đây phải là những thiết bị hiện hành ở trong nước hoặc nước ngoài.
✓ Thiết bị làm việc liên tục, có cấu tạo đơn giản, rẻ tiền, việc sử dụng và sửa chữa dễ, kích
thước gọn, năng suất cao và tiêu hao năng lượng ít.
Trong đó:
✓ T: Thời gian của một chu kỳ làm việc của máy (phút)
✓ V: Thể tích làm việc của thiết bị, được tính cùng đơn vị với N
4.2.2.3. Công thức tính dành cho một số dạng thiết bị hình trụ, đáy cầu
Thiết bị hình trụ đứng, có đáy và nắp hình chỏm cầu và hệ thống cánh khuấy để đảo
đều nguyên liệu bên trong thiết bị, thiết bị làm việc gián đoạn.
Trong đó:
Với H là chiều cao của thiết bị, ta có: H= 1,3 × D + 2 ×(0,3 × D) =1,9 × D
Gọi:
2
𝜋 × 𝐷 2 × ℎ1 𝜋 × 𝐷 2 × 1.3 × 𝐷
Vtr = π × r × h1 = = = 1.201 × 𝐷 3
4 4
Thể tích phần chỏm cầu:
𝜋 𝜋 3𝐷 2
Vc = × h2 × (ℎ22 + 3𝑟 2 ) = × 0,3 D × (0,09 𝐷 2 + ) = 0,132𝐷 3
6 6 4
Vậy: 𝑉𝑡𝑏 = 𝑉𝑡𝑟ụ + 2 × 𝑉𝑐 = 1,021𝐷 3 + 2 × 0,132 𝐷 3 = 1,285 𝐷 3 (CT 4.3)
3 𝑉𝑡𝑏
𝐷=√ ( CT 4.4)
1.285
Bunke có dạng hình trụ, đáy hình nón có góc nghiêng = 60°.
Bunke chứa có dạng hình trụ, đáy côn, có thể tích chứa đủ lượng nguyên liệu dùng
trong một mẻ. Thiết bị được làm bằng thép, có góc ở đáy 600 . Hệ chứa đầy là 0,85.
Trong đó:
1 𝐷 2 + 𝑑 2 + 𝑑𝐷 √3
𝑉𝑁 = × 𝜋 × ℎ1 × = × 𝜇 × (𝐷 3 − 𝑑 3 )
3 4 24
Với: d là đường kính ống tháo liệu
𝐷2
𝑉𝑇 = 𝜋 × × ℎ2
4
Với: h2 là chiều cao phần hình trụ
Mà:
𝐷−𝑑
ℎ1 = × tan 𝛼
2
chọn: h2 = 1.5D
𝐷
𝑑= , h= 0.3m
10
Nguyên tắc hoạt động: Khi đặt nguyên liệu lên mặt bàn cân, khối lượng của nguyên
liệu sẽ tác động lên mặt cân và tạo thành một lực uốn cong thanh cảm biến lực. Khi đó,
điện trở sẽ bị kéo dãn ra và điện trở sẽ thay đổi. Nguyên liệu có khối lượng càng lớn thì độ
biến dạng của thanh load cell càng lớn, dẫn đến điện trở thay đổi càng nhiều. Bộ phận xử
lý tín Thiết kế nhà máy sản xuất mannanase cố định trên các hạt nano chitosan năng suất
1850 tấn sản phẩm/năm và mannanase hòa tan năng suất 600 tấn sản phẩm/năm SVTH:
Nguyễn Thị Huyền GVHD: TS. Nguyễn Hoàng Minh 67 hiệu điện tử của cân điện tử sẽ
quy đổi những tín hiệu nhận được thành kết quả, báo khối lượng nguyên liệu cụ thể.
Giả sử khối lượng riêng của môi trường pha chế là: ρmtpc = 1000 (kg/m3 ).
Chọn thiết bị phối trộn 10000 L thuộc công ty Shanghai Kaiquan Machine, có thông số kỹ
thuật như sau:
Nguyên tắc hoạt động: Thiết bị có cánh khuấy hoạt động bằng động cơ. Khi
nguyên liệu được nạp vào cửa nạp liệu, mở động cơ làm cánh khuấy chuyển động để tạo
ra dòng chảy rối nhằm phối trộn đều các nguyên liệu
Bảng 4. 4: Thông số kỹ thuật thiết bị phối trộn 10000L [16]
Giả sử khối lượng riêng của môi trường pha chế là: ρmtpc = 1000 (kg/m3 ).
Chọn thiết bị tiệt trùng UHT BR16-3-0,5 , có thông số kỹ thuật như sau:
Bảng 4.5: Thông số kỹ thuật thiết bị tiệt trùng làm nguội [17]
BR16-3-0,5
STT Thiết bị tiệt trùng UHT
1 Model BR16-3-0,5
Nguyên tắc hoạt động: Thiết bị gồm những tấm bản được đặt sát vào nhau, độ dày
của các tấm bảng rất mỏng và trên bề mặt chúng có các khe lồi lõm nhằm mục đích làm
tăng hệ số và bề mặt truyền nhiệt. Khi ghép các tấm bản lại với nhau trên bộ khung của
thiết bị sẽ tạo nên hệ thống đường dẫn vào và ra cho dòng lưu chất nóng và lạnh. Chất lỏng
chạy ngược chiều thông qua bộ trao đổi nhiệt. Chất lỏng nóng (được minh họa bằng màu
đỏ) thường đi qua một trong các kết nối trên và rời khỏi kết nối bên dưới. Chất lỏng lạnh
(được minh họa bằng màu xanh) đi vào một trong các kết nối thấp hơn và rời khỏi kết nối
ở trên. Khi chất lỏng đi qua bộ trao đổi nhiệt, nhiệt được truyền từ môi trường nóng sang
môi trường lạnh. Dòng chảy ngược cho phép khả năng thu hồi nhiệt tối đa. Nhờ tiếp xúc
70 qua bề mặt của các tấm mỏng. Các miếng đệm kín được thiết kế đặc biệt nằm giữa các
tấm dẫn chất lỏng để chất lỏng nóng và lạnh vượt qua các kênh hiện tại trong các kênh xen
kẽ, không bị hòa trộn với nhau.
Chọn bình tam giác thể tích 500 ml làm thiết bị hoạt hóa giống, thời gian hoạt hoá 48-72h.
Hệ số chứa đầy của bình là 0,6
Bảng 4. 6: Bảng thông số của Bình tam giác cổ hẹp 50ml Schott- Đức [18]
STT Thông số
1 Code 212164404
Chọn bình tam giác thể tích 1000 ml làm thiết bị nhân giống, thời gian hoạt hoá 24h. Hệ số
chứa đầy của bình là 0,6
Bảng 4. 7: Bảng thông số của bình tam giác cổ rộng 200ml [19]
STT Thông số
1 Code 212165409
Thời gian nhân giống 24h hệ số chứa đầy của bình là 0,6
Chọn thiết bị nhân giống sản xuất là bionet F3-100 có thông số kĩ thuật như
sau:
Thời gian nhân giống 24h. Hệ số chứa đầy của thùng là 0,6
Chọn thiết bị nhân giống sản xuất là bionet F3-500 có thông số kĩ thuật như
sau:
Quá trình lên men được thực hiện trong các thiết bị lên men gián đoạn, hệ số chứa
đầy của thùng là 0,8.
Nguyên tắc hoạt động: Thiết bị lên men dạng đứng đáy côn có cánh khuấy hoạt động
nhờ động cơ. Môi trường lên men và nguồn vi sinh vật được nạp vào thiết bị, quá trình lên
men được điều khiển bằng hệ thống cánh khuấy, hệ thống sục khí, lớp áo nhiệt và các đầu
dò theo dõi.
Tổng thời gian lên men là 40h, vì vậy để cho quá trình lên men được diễn ra liên tục
ta chọn 14 thiết bị lên men.
4.3.6. Thiết bị ly tâm thu enzyme thô
Theo bảng 3.4 khối lượng dịch lọc là: 6911.130 kg/ngày= 287.964 kg/h
Nguyên tắc hoạt động: Thiết bị ly tâm phân tách rắn – lỏng dạng đĩa hoạt động dựa
trên tác dụng của lực ly tâm. Dòng sản phẩm cần được phân tách được bơm vào thiết bị qua
một ống dẫn đặt tại tâm các đĩa. Đĩa quay với tốc độ cao quanh trục chính, được điều khiển
bởi một động cơ thông qua khớp nối thủy lực và cặp bánh răng. Dưới tác dụng của lực ly
tâm các đĩa sẽ phân dòng sản phẩm thành các lớp màng mỏng có tỷ trọng khác nhau, các
lớp chất lỏng có tỷ trọng nhẹ sẽ theo các vách của đĩa đi ngược lên phía trên và được dẫn
ra bởi một máy bơm. Lực ly tâm cao làm cho các chất rắn được tách ra khỏi chất lỏng và
phân ly ra hai bên của đĩa, một hệ thống thủy lực gắn piston hoạt động định kỳ sẽ đẩy các
chất rắn tách ra khỏi buồng ly tâm.
Qáu trình kết tủa trong 1,5h, hệ số chứa đầy của bình là 0,8
Nguyên tắc hoạt động: Thiết bị có cánh khuấy hoạt động bằng động cơ. Khi nguyên
liệu được nạp vào cửa nạp liệu, mở động cơ làm cánh khuấy chuyển động để tạo ra dòng
chảy rối nhằm phối trộn đều các nguyên liệu giúp cho quá trình diễn ra nhanh hơn.
Nguyên tắc hoạt động: Thiết bị ly tâm phân tách rắn – lỏng dạng đĩa hoạt động dựa
trên tác dụng của lực ly tâm. Dòng sản phẩm cần được phân tách được bơm vào thiết bị qua
một ống dẫn đặt tại tâm các đĩa. Đĩa quay với tốc độ cao quanh trục chính, được điều khiển
bởi một động cơ thông qua khớp nối thủy lực và cặp bánh răng. Dưới tác dụng của lực ly
tâm các đĩa sẽ phân dòng sản phẩm thành các lớp màng mỏng có tỷ trọng khác nhau, các
lớp chất lỏng có tỷ trọng nhẹ sẽ theo các vách của đĩa đi ngược lên phía trên và được dẫn
ra bởi một máy bơm. Lực ly tâm cao làm cho các chất rắn được tách ra khỏi chất lỏng và
phân ly ra hai bên của đĩa, một hệ thống thủy lực gắn piston hoạt động định kỳ sẽ đẩy các
chất rắn tách ra khỏi buồng ly tâm.
Chọn thiết bị phối trộn môi trường có thông số kỹ thuật như sau:
Nguyên tắc hoạt động: Thiết bị có cánh khuấy hoạt động bằng động cơ. Khi nguyên
liệu được nạp vào cửa nạp liệu, mở động cơ làm cánh khuấy chuyển động để tạo ra dòng
chảy rối nhằm phối trộn đều các nguyên liệu giúp cho quá trình diễn ra nhanh hơn
https://www.alibaba.com/product-detail/Stainless-Steel-Holding-Tank-Mixing-
Tank_60511741972.html?spm=a2700.shop_plser.41413.79.1d7f7ec8IYMmjg
Nguyên tắc hoạt động: Thiết bị có cánh khuấy hoạt động bằng động cơ. Khi
nguyên liệu được nạp vào cửa nạp liệu, mở động cơ làm cánh khuấy chuyển động để tạo
ra dòng chảy rối nhằm phối trộn đều các nguyên liệu.
Số lượng thiết bị cần là:
Nguyên tắc hoạt động: Thiết bị ly tâm phân tách rắn – lỏng dạng đĩa hoạt động dựa
trên tác dụng của lực ly tâm. Dòng sản phẩm cần được phân tách được bơm vào thiết bị qua
một ống dẫn đặt tại tâm các đĩa. Đĩa quay với tốc độ cao quanh trục chính, được điều khiển
bởi một động cơ thông qua khớp nối thủy lực và cặp bánh răng. Dưới tác dụng của lực ly
tâm các đĩa sẽ phân dòng sản phẩm thành các lớp màng mỏng có tỷ trọng khác nhau, các
lớp chất lỏng có tỷ trọng nhẹ sẽ theo các vách của đĩa đi ngược lên phía trên và được dẫn
ra bởi một máy bơm. Lực ly tâm cao làm cho các chất rắn được tách ra khỏi chất lỏng và
phân ly ra hai bên của đĩa, một hệ thống thủy lực gắn piston hoạt động định kỳ sẽ đẩy các
chất rắn tách ra khỏi buồng ly tâm.
Chọn thiết bị lọc tiếp tuyến CentramateTM 500S thuộc Pall Corporation, có thông số kỹ
thuật như sau:
Bảng 4. 17: Thông số của thiết bị lọc tiếp tuyến CM500SE [24]
Hình 4. 24: Cấu tạo của các loại bộ lọc trong hệ thống lọc TFF
Nguyên tắc hoạt động: Sản phẩm cần lọc di chuyển vào màng lọc thông qua bơm áp
lực, các phần tử có kích thước nhỏ hơn lỗ lọc sẽ đi tiếp tuyến qua bề mặt màng lọc đến
thùng chứa chất thấm (permeate), những phần tử có kích thước lớn hơn lỗ lọc sẽ giữ lại trên
màng và được theo đường hồi vào thùng chứa sản phẩm (retentate). Màng lọc thường được
làm từ cellulose tái sinh và polyethersulfone. Số lượng thiết bị cần là
103.193
n= = 0.172
600
Chọn thiết bị phối trộn WLDH-1, thuộc Henan Workers Machinery Co., có thông
số kỹ thuật sau:
Nguyên tắt hoạt động: nguyên liệu cần được đổ hỗn hợp nguyên liệu trực tiếp hoặc
qua thiết bị cấp liệu vào bồn trộn. Khi cấp nguồn điện và khởi động máy, động cơ sẽ truyền
động năng cho hệ thống trục và lưỡi trộn. Lưỡi trộn chuyển động xoay quanh trục vít để
cuộn, đảo các nguyên liệu cho thật đều. Đáy của thùng trộn thường được thiết kế hình cầu,
giúp hỗ trợ hoạt động cho lưỡi trộn trong quá trình khuấy đảo. Khi tất cả đã hòa trộn lại với
nhau thành một hỗn hợp đồng nhất, thành phẩm sẽ được cho ra ở ống xả dưới đáy của máy
trộn.
Chọn thiết bị sấy chân không SCK2000 thuộc công ty THIBIVINA với các thông
số kỹ thuật sau:
Nguyên tắc hoạt động: Khi cho sản phẩm sấy vào trong buồng sấy và tiến hành bật
máy thì quá trình sấy sẽ bắt đầu. Nguyên lý của máy sấy chân không phụ thuộc vào điểm
sôi của nước. Hệ thống bơm hút chân không sẽ làm cho áp suất trong buồng sấy giảm dần,
khi áp suất đã giảm đạt gần tới ngưỡng yêu cầu thì hệ thống nhiệt sẽ cấp nhiệt cho buồng
sấy. Tại thời điểm này, do áp suất trong buồng sấy thấp nên chỉ cần cấp nhiệt từ 30- 500℃
là nước đã sôi, khi đó nước trong sản phẩm sẽ nhanh chóng bốc hơi và khuếch tán ra ngoài.
Khi hơi nước đã được thoát ra khỏi sản phẩm sấy thì áp suất trong buồng sẽ tăng lên, khi
đó hệ thống điều khiển sẽ cấp tín hiệu cho bơm hút chân không làm việc. Không khí trong
buồng sấy sẽ mang nhiều hơi nước ra ngoài và cần phải đi qua buồng ngưng tụ hơi nước để
ngưng tụ hoàn toàn hơi nước trước khi đưa không khí vào máy hút chân không. Quá trình
hút chân không sẽ diễn ra liên tục, khi hơi nước trong sản phẩm thoát ra ngoài sẽ bị hút ra
khỏi buồng sấy ngay lập tức nên sản phẩm sẽ rất nhanh khô và đảm bảo màu sắc đẹp.
Chọn thiết bị cân và đóng gói ZH-BG10 thuộc công ty Zon Pack, có thông số kỹ
thuật như sau:
Bảng 4. 20: Thông số kỹ thuật thiết bị cân và đóng gói ZH-BG10 [27]
Rỉ đường được nhập dự trữ trong 30 ngày tại thùng chứa: 10630.08 kg/ngày
3 9.263
Áp dụng công thức ( CT 4.5) ta có: 𝐷 = √ = 1.877𝑚 = 1877𝑚𝑚
1.4
1877
d= = 187.7 𝑚𝑚
10
𝐷−𝑑
ℎ1 = × tan(60) = 1463 𝑚𝑚
2
ℎ2 = 1.5 × 𝐷 = 2815.5𝑚𝑚
Chọn h = 300mm
H= 1463+2815.5+300 = 4578.5 mm
3 2.475
Áp dụng công thức ( CT 4.5) ta có: 𝐷 = √ = 1.209𝑚 = 1209𝑚𝑚
1.4
1209
d= = 120.9 𝑚𝑚
10
𝐷−𝑑
ℎ1 = × tan(60) = 942.322 𝑚𝑚
2
ℎ2 = 1.5 × 𝐷 = 1813.5𝑚𝑚
Chọn h = 300mm
H= 942.322+1813.5+300 = 3022.822 mm
Tinh bột được nhập dự trữ trong 7 ngày tại thùng chứa: 33986.099 kg/ngày
3 25.796
Áp dụng công thức ( CT 4.5) ta có: 𝐷 = √ = 2.641𝑚 = 2641𝑚𝑚
1.4
𝐷−𝑑
ℎ1 = × tan(60) = 2058.455 𝑚𝑚
2
ℎ2 = 1.5 × 𝐷 = 3961.5𝑚𝑚
Chọn h = 300mm
H= 2058.455+3961.5+300 = 6319.955 mm
Chitosan được nhập dự trữ trong 7 ngày tại thùng chứa: 18161.885 kg/ngày
3 15.827
Áp dụng công thức ( CT 4.5) ta có: 𝐷 = √ = 2.244𝑚 = 2244𝑚𝑚
1.4
2244
d= = 224.4𝑚𝑚
10
𝐷−𝑑
ℎ1 = × tan(60) = 1749.025 𝑚𝑚
2
ℎ2 = 1.5 × 𝐷 = 3366𝑚𝑚
Chọn h = 300mm
H= 1749.025+3366+300 = 5415.025 mm
(NH4)2SO4 được nhập dự trữ trong 7 ngày tại thùng chứa: 13723.395 kg/ngày
3 9.122
Áp dụng công thức ( CT 4.5) ta có: 𝐷 = √ = 1.868𝑚 = 1868𝑚𝑚
1.4
1868
d= = 186.8𝑚𝑚
10
𝐷−𝑑
ℎ1 = × tan(60) = 1681.2 𝑚𝑚
2
ℎ2 = 1.5 × 𝐷 = 2802𝑚𝑚
Chọn h = 300mm
H= 1681.2+2802+300 = 4783.2 mm
3 7.442
Áp dụng công thức ( CT 4.4) ta có: 𝐷 = √ = 1.795𝑚 = 1795𝑚𝑚
1.285
ℎ1 = 1.3 × D = 2333.5 𝑚𝑚
ℎ2 = 0.3 × 𝐷 = 538.5𝑚𝑚
H= 1.9× D = 3410.5 mm
3 7.743
Áp dụng công thức ( CT 4.4) ta có: 𝐷 = √ = 1.820𝑚 = 1820𝑚𝑚
1.285
ℎ1 = 1.3 × D = 2366 𝑚𝑚
ℎ2 = 0.3 × 𝐷 = 546𝑚𝑚
H= 1.9× D = 3458 mm
3 2.861
Áp dụng công thức ( CT 4.4) ta có: 𝐷 = √ = 1.305𝑚 = 1305𝑚𝑚
1.285
ℎ1 = 1.3 × D = 1696.5 𝑚𝑚
ℎ2 = 0.3 × 𝐷 = 391.5𝑚𝑚
H= 1.9× D = 2479.5 mm
Nguyên lý hoạt động: Trong lúc bơm ly tâm hoạt động, chất lỏng vào qua cửa hút sẽ
được vẫn chuyển theo các cánh của bánh công tác đang quay, nhờ vào lực ly tâm mà chất
lỏng văng khỏi bánh công tác tạo với thân máy bơm thành dòng chảy, dòng chảy này hướng
đến cửa đẩy với áp suất cao. Đây gọi là quá trình đẩy bơm. Ngay sau khi nước bị đẩy khỏi
bánh công tác thì vùng trống đó tạo thành vùng chân không lại tiếp tục hút nước vào, cũng
một phần nhờ áp suất lớn trong bể chứa nên chất lỏng liên tục được hút vào theo cửa hút.
Đây là quá trình hút bơm. Hai quá trình hút bơm và đẩy bơm diễn ra liên tục tạo thành một
dòng chảy qua bơm ổn định.
Nguyên lý hoạt động: Vít tải được ứng dụng để tải nguyên vật liệu rời hay bột, được
ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực chế biến nông sản thực phẩm, chế biến thức ăn gia
súc... Cấu tạo và nguyên lý vận hành của vít tải tương đối đơn giản bao gồm một trục vít
xoắn vô tận chuyển động xoay tròn trong lòng máng hình ống hay hình máng chữ U được
gọi là máng vít tải, trục vít được truyền động nhờ một motor giảm tốc được lắp ở đầu trục
vít. Khi trục vít chuyển động ma sát giữa cánh vít với vật liệu sẽ đẩy vật liệu di chuyển theo
hướng xoắn dọc theo chiều dài trục vít. Tùy theo yêu cầu và mục đích sử dụng, vít tải được
thiết kế nằm ngang hay nghiêng hoặc theo phương thẳng đứng. Kết cấu vít tải đơn giản, có
thể kéo dài vít tải bằng các khớp nối trung gian. Vận hành đơn giản. Chi phí vận hành và
bảo trì thấp.
Kích thước
STT Tên Số lượng
( LxWxH) mm
1 Thiết bị định lượng 450×600×660 1
2 Thiết bị phối trộn 2440x2300x4500 1
KẾT LUẬN
Sau khoảng thời gian hoàn thành đồ án, qua một quá trình nghiên cứu tài liệu, học
hỏi, cố gắng cùng với sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Hoàng
Minh, đến nay em đã hoàn thành đồ án công nghệ 2 và rút ra được một số kết luận như sau:
Việc xây dựng các nhà máy công nghệ sinh học trong đó có ngành công nghệ enzyme
sẽ giúp nền kinh tế trong nước giảm sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập, giảm
bớt gánh nặng chi phí đầu vào, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm nội địa so với các
sản phẩm ngoại nhập tương đồng khác. Đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Hơn nữa việc tận dụng các phụ phẩm từ các nhà máy khác để làm nguyên liệu sản
xuất giúp giảm tình trạng ô nhiễm môi trường, một trong những vấn đề cấp bách hiện nay.
Qua quá trình thực hiện đồ án, em đã biết cách chọn lựa quy trình sản xuất phù hợp
với yêu cầu của mục đích sử dụng, nắm được các quy tắc cơ bản trong việc tính toán, thiết
kế nhà máy, lựa chọn vị trí đặt nhà máy. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực
hiện đồ án, nhưng với thời gian có hạn cùng với những hạn chế về kiến thức chuyên môn
cũng như kinh nghiệm thực tiễn của bản thân nên sai sót là điều không thể tránh khỏi. Em
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của thầy cô và bạn bè để hoàn thiện
đồ án, nâng cao kiến thức, kinh nghiệm nhằm phục vụ công tác làm việc sau này.
1. Bauer, J.A., et al., Glucose Oxidase, an Enzyme "Ferrari": Its Structure, Function,
Production and Properties in the Light of Various Industrial and Biotechnological
Applications. Biomolecules, 2022. 12(3).
2. Wang, F., et al., Insights into the Structures, Inhibitors, and Improvement Strategies
of Glucose Oxidase. International Journal of Molecular Sciences, 2022. 23(17): p.
9841.
3. Bankar, S.B., et al., Glucose oxidase—an overview. Biotechnology advances, 2009.
27(4): p. 489-501.
4. Meng, Y., et al., Production and characterization of recombinant glucose oxidase
from Aspergillus niger expressed in Pichia pastoris. Letters in Applied
Microbiology, 2014. 58(4): p. 393-400.
5. Gujral, H.S. and C.M. Rosell, Improvement of the breadmaking quality of rice flour
by glucose oxidase. Food research international, 2004. 37(1): p. 75-81.
6. Petruccioli, M., et al., Glucose oxidase overproducing mutants of Penicillium
variabile (P16). FEMS microbiology letters, 1995. 128(2): p. 107-111.
7. Lu, T., et al., The production of glucose oxidase using the waste myceliums of
Aspergillus niger and the effects of metal ions on the activity of glucose oxidase.
Enzyme and microbial technology, 1996. 19(5): p. 339-342.
8. Kona, R., N. Qureshi, and J. Pai, Production of glucose oxidase using Aspergillus
niger and corn steep liquor. Bioresource technology, 2001. 78(2): p. 123-126.
9. Dwevedi, A., Enzyme Immobilization. 2016: Springer.
10. Liu, C.H., et al., Improvement in the growth performance of white shrimp,
Litopenaeus vannamei, by a protease‐producing probiotic, Bacillus subtilis E20,
from natto. Journal of applied microbiology, 2009. 107(3): p. 1031-1041.
11. Zhang, H., et al., Demineralized bone matrix carriers and their clinical applications:
an overview. Orthopaedic surgery, 2019. 11(5): p. 725-737.
12. Rinaudo, M., Chitin and chitosan: Properties and applications. Progress in polymer
science, 2006. 31(7): p. 603-632.
13. Yang, Y., J. Wang, and R. Tan, Immobilization of glucose oxidase on chitosan–SiO2
gel. Enzyme and Microbial Technology, 2004. 34(2): p. 126-131.
16. https://www.alibaba.com/product-detail/Stainless-Steel-Holding-Tank-Mixing-
Tank_60511741972.html?spm=a2700.shop_plser.41413.79.1d7f7ec8IYMmjg
17. https://beyond-machinery.en.made-in-china.com/product/ywHtdoIDracP/China-Factory-
price-juice-pasteurization-machine-milk-pasteurizer-Pasteurizer-for-Egg-Egg-Liquid-
Pasteurizing-Machine.html
18. https://vietchem.com.vn/san-pham/binh-tam-giac-co-hep-50ml-schott-duc.html
19. https://vietchem.com.vn/san-pham/binh-tam-giac-mh-1000ml-duran.html
20. https://bionet.com/wp-content/uploads/2021/04/f3_stainless-steel_-
pilot_sip_bioreactor_fermenter_fermentor-1.pdf
21 https://bionet.com/wp-content/uploads/2021/04/f3_stainless-steel_-
pilot_sip_bioreactor_fermenter_fermentor-1.pdf
22. http://thietbikhoahoc.com/san-pham/may-ly-tam-lien-tuc-dang-dia-series-dhc-
3046.html
23. https://blsfluid.en.made-in-china.com/product/qyZJgNKlSAWC/China-500L-
Stainless-Steel-Double-Jacketed-Reactor-Tank.html
24. https://www.labmakelaar.eu/shop/all/saleable/filtering-and-extraction/filtering-
equipment/pall-corporation-centramate-cm500se-tangential-flow-filtration-system/
25. https://www.alibaba.com/product-detail/Dry-protein-whey-powder-horizontal-
ribbon_1600790623001.html?spm=a2700.shop_plser.41413.17.6caf122fsz2reA
26. http://www.thietbivietnam.vn/san-pham/33477/may-say-chan-khong-thuc-pham-
nang-suat-lon-sck2000.html
27. https://www.machinio.com/listings/59482497-2021-zon-pack-zh-bg10-in-
hangzhou-china