You are on page 1of 24

Câu 1: Trình bày mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lí

tính ?
Làm
Nhận thức cảm tính là gì ?
Trực quan sinh động còn được gọi là giai đoạn nhận thức cảm tính; đây là giai đoạn con
người sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự vật nhằm nắm bắt các sự
vật ấy. Trực quan sinh động bao gồm 3 hình thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng
đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của
mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hóa những năng lượng kích thích từ bên ngoài
thành yếu tố của ý thức. Chính vì thế mà Lênin đã viết: "Cảm giác là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan"
Tri giác là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác động
vào các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác, là sự tổng hợp của
nhiều cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn,
phong phú hơn về sự vật.
Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực quan sinh
động. Đó là hình ảnh có tính đặc trưng và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ óc
người về sự vật khi sự vật đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan. Biểu
tượng được hình thành nhờ sự phối hợp, bổ sung lẫn cho nhau của các giác quan nhưng
đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, tổng hợp và ít nhiều mang tính chất trừu
tượng hóa.
Như vậy cảm giác, tri giác và biểu tượng là những giai đoạn kế tiếp nhau của hình thức
nhận thức cảm tính. Trong nhận thức cảm tính đã tồn tại cả cái bản chất lẫn không bản
chất, cả cái tất yếu và ngẫu nhiên, cả cái bên trong lẫn bên ngoài về sự vật. Nhưng ở đây,
con người chưa phân biệt được cái gì là bản chất với không bản chất, đâu là tất yếu với
ngẫu nhiên, đâu là cái bên trong với cái bên ngoài. Yêu cầu của nhận thức đòi hỏi phải
tách ra và nắm lấy cái bản chất, tất yếu, bên trong, chỉ có chúng mới có vai trò quan
trọng cho hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Như vậy, dừng lại ở nhận
thức cảm tính sẽ gặp phải mâu thuẫn giữa một bên là thực trạng chưa phân biệt được đâu
là cái bản chất, tất yếu, bên trong, đâu là cái không bản chất, ngẫu nhiên bên ngoài với
một nhu cầu tất yếu phải phân biệt được những cái đó thì con người mới có thể nắm
được quy luật vận động và phát triển của sự vật. Khi giải quyết mâu thuẫn ấy, nhận thức
sẽ vượt lên một trình độ mới, cao hơn về chất, đó là tư duy trừu tượng.
Nhận thức lý tính là gì ?
Tư duy trừu tượng là đặc trưng của giai đoạn nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính là giai
đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản
chất của đối tượng. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là
tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý
tính được thể hiện với ba hình thức: khái niệm, phán đoán và suy lý.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất
của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các
đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính
khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa
thường xuyên vận động và phát triển. Nó chẳng những rất linh động, mềm dẻo, năng
động mà còn là "điểm nút" của quá trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình thành phán
đoán.
Phán đoán là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định
hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng. Ví dụ câu: "Dân tộc
Việt Nam là một dân tộc anh hùng" là một phán đoán. Bởi vì ở đó có sự liên kết khái
niệm "dân tộc Việt Nam" với khái niệm "anh hùng". Sự liên kết ấy khẳng định thuộc
tính "anh hùng" trong dân tộc Việt Nam
Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán
đoán đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và
phán đoán phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện). Phán đoán phổ biến là hình thức
thể hiện sự bao quát rộng lớn nhất về đối tượng.
Suy lý là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới
bằng phán đoán mới. Ví dụ, nếu liên kết phán đoán "Kim loại thì dẫn điện" với phán
đoán "Đồng là kim loại" ta rút ra được một phán đoán mới là "Đồng dẫn điện"
Tùy theo sự kết hợp các phán đoán theo trật tự nào (từ phán đoán đơn nhất qua phán
đoán đặc thù, rồi tới phán đoán phổ biến hoặc ngược lại) mà người ta có được hình thức
suy luận quy nạp hay diễn dịch .
Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận
thức. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong một quá trình nhận
thức; song chúng có những nhiệm vụ và chức năng khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính
gắn liền với hoạt động thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho
nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết
được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật; giúp cho nhận thức
cảm tính có định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn. Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận
thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức về đối tượng, còn bản thân
những tri thức ấy có chân thực hay không thì con người chưa biết được. Trong khi đó,
nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức ấy có chân thực hay không. Để thực
hiện điều đó, nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu
chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận
thức.

Ý nghĩa
Trong việc học tập và làm việc cần phải đánh giá toàn diện, sử dụng nhận thức cảm tính
và nhận
thức lý tính để phân tích vấn đề. Nếu chỉ sử dụng nhận thức cảm tính sẽ dẫn đến sự
phiến diện tr
chong việc phân tích vấn đề.
- Để phát triển xa hơn trong cuộc sống cũng như học tập cần phải rèn luyện và phát triển
nhận thức lý tính, trong đó có tư duy. Tư duy giúp con người nhận thức được quy luật
khách quan, giúp con người chủ động dự kiến một cách khoa học xu hướng phát triển
củasự vật hiện tượng và có kế hoạch, biện pháp cải tạo hiện thực kháchquan. Chính vì
vậy, rèn luyện và phát triển tư duy là một nhu cầu thiết yếu của mỗi cá nhân, đặc biệt với
sinh viên.
- Bên cạnh việc phát triển về nhận thức lý tính nói chung và tư duy, tưởng tượng nói
riêng, chúng ta cũng cần chú ý phát triển, nhạy cảm hơn với hoạt động nhận thức cảm
tính, những cảm giác trực tiếp bằng các giác quan, tránh sự chai lì. Vì khi nhận thức cảm
tính kém, nhận thức lý tính sẽ thiếu đi nguồn tài liệu để phân tích

Câu 2 Thực tiễn là gì, trong đấy có mấy hình thức thực tiễn cơ bản, cái
nào quan trọng nhất, vì sao ?
Thực tiễn là :
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội
Hình thức thực tiễn cơ bản
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là
hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự
nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát
triển của mình và xã hội
Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau
trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là hoạt động được
tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những
trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của
đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trò quan trọng
trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại
Hình thức quan trọng nhất? Vì sao
Hoạt động sản xuẩt là hính thức quan trọng nhất.
Câu 3
Chân lý là gì ?
Theo nghiên cứu của lý luận nhận thức của Chủ nghĩa Mác – Lênin, chân lý là định
nghĩa dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù
hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn
Chân lý thuộc về vấn đề nhận thức. Bởi vì, nhiệm vụ của nhận thức là phải
đạt đến chân lý, nghĩa là đạt đến tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực
khách quan; nhưng không phải là sự nhận thức nói chung, mà là sự nhận
thức đúng về hiện thực khách quan.
Chân lý cũng không phải bản thân hiện thực khách quan nói chung, mà chỉ
là hiện thực khách quan đã được phản ánh đúng bởi nhận thức của con
người. Không thể có chân lý chủ quan, hoặc chân lý tồn tại tự nó một cách
trừu tượng thuần túy ở trong hiện thực khách quan như quan điểm của triết
học duy tâm đã thừa nhận. Hoặc có quan điểm không đúng cho rằng chân lý
thuộc về số đông, tức là tư tưởng đó được nhiều người thừa nhận, hoặc nó
thuộc về những người có quyền lực, người giàu có v.v…
Các tính chất của chân lý :
Chân lý có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể. Tính khách quan của chân lý
là tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý thức của con người và loài người. Điều đó có
nghĩa là nội dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không phải
là sự xác lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn ở trong nhận thức mà nội dung đó thuộc về thế giới
khách quan, do thế giới khách quan quy định. Ví dụ, luận điểm cho rằng "trái đất quay xung quanh mặt
trời" là một chân lý. Chân lý ấy có tính khách quan bởi vì nội dung của luận điểm đó phản ánh đúng sự
kiện có thực, tồn tại độc lập đối với mọi người, không lệ thuộc vào ý thức của mỗi người. Khẳng định
chân lý có tính khách quan là một trong những đặc điểm nổi bật dùng để phân biệt quan niệm về chân
lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng so với chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết. Đồng thời đó
cũng là sự thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất. Chân lý không chỉ có tính khách quan
mà nó còn có tính tuyệt đối và tính tương đối. Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hoàn toàn và
đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng ta có thể
đạt đến tính tuyệt đối của chân lý (chân lý tuyệt đối). Bởi vì, trong thế giới khách quan không tồn tại
một sự vật, hiện tượng nào mà con người hoàn toàn không thể nhận thức được. Khả năng đó trong
quá trình phát triển là vô hạn. Song khả năng đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế
hệ khác nhau và bởi điều kiện xác định về không gian và thời gian của đối tượng được phản ánh. Do đó
chân lý lại có tính tương đối. Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ
giữa nội dung phản ánh của những tri thức với hiện thực khách quan. Điều đó có nghĩa là giữa nội dung
của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ mới phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một
số khía cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định. Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý
không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, tính tuyệt đối của chân
lý là tổng số các tính tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa
đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. V.I.Lênin viết: "Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số
những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương đối là những phản ánh tương đối đúng của một
khách thể tồn tại độc lập với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân
lý khoa học, dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối"

Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính tuyệt đối của chân
lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm cực đoan trong nhận
thức và trong hành động. Nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân lý, hạ thấp tính tương đối của nó sẽ
rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa
tính tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối của nó sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ
đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và không thể biết.
Ngoài tính khách quan, tính tuyệt đối và tính tương đối, chân lý còn có tính cụ thể. Tính cụ thể của chân
lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử, cụ thể. Điều đó có nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung
nhất định. Nội dung đó không phải là sự trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà nó luôn luôn gắn
liền với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian, thời gian hay một hoàn cảnh nào đó,
trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch
sử - cụ thể, cũng có tính cụ thể. Nếu thoát ly những điều kiện lịch sử cụ thể thì những tri thức được
hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào sự trừu tượng thuần túy. Vì thế nó không phải là
những tri thức đúng đắn và không được coi là chân lý. Khi nhấn mạnh đặc tính này V.I.Lênin đã viết:
""không có chân lý trừu tượng", rằng "chân lý luôn luôn là cụ thể""1 . Việc nắm vững nguyên tắc về tính
cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem xét, đánh giá mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi việc làm của con người
phải dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể mà vận dụng
những lý luận chung cho phù hợp. Theo V.I.Lênin, "bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác: là phân
tích cụ thể một tình hình cụ thể" 2 . Rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách
quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất định. Quán triệt nguyên tắc đó, Đảng ta đã
vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh vào trong những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước. Đồng thời luôn luôn xuất phát từ những
điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước để đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Như vậy,
mỗi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể. Các tính chất đó của
chân lý có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Thiếu một trong các tính chất đó thì những
tri thức đạt được trong quá trình nhận thức không thể có giá trị đối với đời sống của con người

Chân lý và sai lầm có quyền chuyển hóa cho nhau không ?


Chât lý có chuyển hóa được thành sai lầm không
Câu trả lời là có
- Trước hết, chúng ta phải nhìn lại khái niệm chân lý
- Theo nghiên cứu của lý luận nhận thức của Chủ nghĩa Mác – Lênin, chân lý là định
nghĩa dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù
hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn
Trong đó, chân lý còn được chia làm 3 loại :
+ Chân lý tương đối
+ Chân lý tuyệt đối
+ Chân lý vĩnh cửu
1) Sự khác biệt giữa các loại chân lý
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối giống nhau ở chỗ chúng đều là chân lý, tức
là trái ngược với sai lầm. Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối có sự khác nhau. Chân
lý tương đối là chân lý chưa hoàn toàn đúng đắn, và do đó, sẽ được con người thay thế
bằng chân lý khác đúng đắn hơn. Chân lý tuyệt đối là chân lý hoàn toàn đúng đắn, và do
đó, sẽ không thể bị thay thế bằng chân lý khác đúng đắn hơn. Một chân lý nào đó của
con người nếu chưa hoàn toàn đúng đắn thì sớm hay muộn sẽ được bổ sung và phát triển
để trở nên đúng đắn hơn, chân lý như vậy là chân lý tương đối. Một chân lý nào đó của
con người nếu đã hoàn toàn đúng đắn thì không cần phải được bổ sung và phát triển để
trở nên đúng đắn hơn, chân lý như vậy là chân lý tuyệt đối. Trong chân lý tương đối vẫn
chứa đựng một phần sai lầm. Trong chân lý tuyệt đối thì không chứa đựng một phần sai
lầm nào. Nhưng đến đây, một vấn đề phức tạp lại được đặt ra là ở chỗ, có chân lý nào là
chân lý tuyệt đối không, nói cách khác, phải chăng mọi chân lý mà con người đạt được
đều là chân lý tương đối?
Theo V.I.Lênin: “Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ những chân lý tương đối
đang phát triển”, “Con người không thể nắm bắt được = phản ánh = miêu tả toàn bộ giới
tự nhiên một cách đầy đủ”. Từ luận điểm này, chúng ta có thể hiểu rằng, theo V.I.Lênin,
con người ngày càng đi gần tới chân lý tuyệt đối, chứ không thể đạt tới chân lý tuyệt đối;
mọi chân lý mà con người đạt được đều không hoàn toàn đúng hay không tuyệt đối
đúng, tức đều là chân lý tương đối chứ không phải là chân lý tuyệt đối; bất kỳ quan điểm
nào của bất kỳ ai về bất kỳ vấn đề nào dù đúng đắn đến đâu cũng đều chưa đầy đủ.
Những chân lý đơn giản như “Mặt Trời mọc ở hướng đông lặn ở hướng tây”, “đồng là
kim loại” cũng chỉ là chân lý tương đối, chứ không phải là chân lý tuyệt đối vì sẽ được
thay thế bằng các chân lý khác đầy đủ hơn, đúng đắn hơn. Không có chân lý nào đúng
đắn đến mức không cần phải bổ sung và phát triển cho đúng đắn hơn.
Quan điểm cho rằng con người không thể đạt tới chân lý tuyệt đối là quan điểm
biện chứng, chứ không phải là quan điểm siêu hình. Bởi vì, theo quan điểm biện chứng,
mọi chân lý đều có tính tương đối; còn theo quan điểm siêu hình, mọi chân lý đều có
tính tuyệt đối. Đối với quan điểm biện chứng, giữa chân lý và sai lầm không có ranh giới
tuyệt đối, một quan điểm nào đó nếu là chân lý thì vẫn cần phải làm cho đúng đắn hơn;
một quan điểm nào đó nếu là chân lý thì đó là chân lý tương đối. Đối với quan điểm siêu
hình, giữa chân lý và sai lầm có ranh giới tuyệt đối, một quan điểm nào đó nếu là chân lý
thì không cần phải làm cho đúng đắn hơn; một quan điểm nào đó nếu là chân lý thì đó là
chân lý tuyệt đối. Người theo quan điểm biện chứng thì xem xét mọi chân lý đều là quá
trình; còn người theo quan điểm siêu hình thì xem xét mọi chân lý đều là kết quả của quá
trình.
Quan điểm cho rằng con người không thể đạt tới chân lý tuyệt đối là quan điểm
biện chứng, chứ không phải là quan điểm bất khả tri. Bởi vì, người theo quan điểm bất
khả tri cho rằng trong thế giới có một đường ranh giới tuyệt đối phân biệt cái con người
có thể nhận thức được với cái con người không thể nhận thức được; trong khi đó, người
theo quan điểm biện chứng cho rằng trong thế giới không có một đường ranh giới tuyệt
đối như vậy.
Khi thừa nhận mọi chân lý đều là chân lý tương đối, chủ nghĩa duy vật biện
chứng khác với chủ nghĩa tương đối. Sự khác nhau đó là ở chỗ, chủ nghĩa tương đối
không thừa nhận chân lý có tính khách quan, còn chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa
nhận chân lý có tính khách quan. Chủ nghĩa tương đối cho rằng mọi chân lý đều là chân
lý tương đối với nghĩa nội dung của chân lý phụ thuộc vào chủ thể nhận thức, tức là cho
rằng chân lý không có tính khách quan. Còn chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng mọi
chân lý đều là chân lý tương đối với nghĩa nội dung của chân lý không phụ thuộc vào
chủ thể nhận thức, tức là cho rằng chân lý có tính khách quan Khi thừa nhận mọi chân lý
đều là chân lý tương đối, tức là thừa nhận tính tương đối của chân lý, chủ nghĩa duy vật
biện chứng cũng thừa nhận có chân lý vĩnh cửu. Ví dụ, theo Ph.Ăngghen, “Napôlêông
chết ngày...” là một chân lý vĩnh cửu. Chân lý vĩnh cửu mà Ph.Ăngghen nói ở đây, theo
chúng tôi, cần được hiểu không phải là chân lý tuyệt đối, mà cần được hiểu là chân lý
tương đối. Chân lý vĩnh cửu là chân lý không thể bị bác bỏ, chứ không phải là chân lý
tuyệt đối. Chân lý vĩnh cửu cũng là chân lý tương đối vì vẫn có thể được làm cho đúng
đắn hơn. Tuy nhiên, các chân lý vĩnh cửu là các chân lý đơn giản, dù có thể bổ sung và
phát triển nhưng người ta không cần phải bổ sung và phát triển.
Đó là chân lý, vậy còn sai lầm thì sao ?
Còn sai lầm là những khái niệm để chỉ những quan điểm, việc làm,hành động không
đúng đắn, trái với quy luật khách quan và lẽ phải thông thường
Vậy, quay lại câu hỏi ban đầu : “ Sai lầm và chân lý có quyền chuyển hóa cho nhau
không?”
Thì câu trả lời của tôi là vừa có thể chuyển hóa, vừa không thể chuyển hóa. Với một số
chân lý tương đối và tuyệt đối, nó vẫn có thể chưa hoàn thiện hoặc có những lỗi sai, và
cầm được tìm tòi, khai phá đề thay đổi cho đúng.
Ví dụ vào thời trung cổ, trước khi galilei chứng minh thuyết “Nhật Tâm” thì trước đó,
thuyết “Địa tâm” được coi là chân ái
Hay như ngày xưa người ta nghĩ rằng trái đất không phải hình cầu, nó cũng là một chân
lý cho đến khi nó bị chứng minh là sai lầm
Đó là lí do có thể chuyển hóa
Vậy còn tại sao nó không thể chuyển hóa ?
Là bởi, chân lý còn tồn tại chân lý vĩnh cửu, tức là nó luôn đúng và không thể sai lầm
được,trường tồn với thời gian, khác với chân lý tương đối và tuyệt đối, bị ảnh hưởng bởi
các yếu tố bên ngoài thì chân lý vĩnh cửu không thể bị bác bỏ, như những công
thức,định lý
VD: định lý pytago,...
Kết luận:
Chân lý và sai lầm đều có mối quan hệ, chặt chẽ, gắn liền nhau, chân lý là cái khởi đầu,
sai lầm xuất hiện và chỉnh sửa, biến đổi chân lý.

Câu 4 Lực lượng sản xuất là gì ? trong các bộ phận của lực lượng sản
xuất, bộ phận nào quan trọng nhất? Vì sao
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình
sản xuất. Trong quá trình sản xuất, con người kết hợp sức lao động của mình với tư liệu
sản xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành sức mạnh khai thác giới tự nhiên, làm
ra sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình. Vậy, lực lượng sản xuất là năng lực thực
tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình
Cấu trúc:
Lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố người lao động và tư liệu sản xuất
cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp) tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải
biến giới tự nhiên sáng tạo tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người. Đây là
sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con
người và được xem xét trên hai mặt:
Kinh tế - xã hội (đối tượng lao động): Người lao động là những yếu tố vật chất của sản
xuất là con người dùng tư liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng cho phù hợp
với mục đích sử dụng của con người.
Con người có tri thức kinh nghiệm kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất định
trong quá trình sản xuất của xã hội người lao động là chủ thể sáng tạo đồng thời là chủ
thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản vô tận và đặc biệt của
sản xuất.
Ngày nay, trong nền sản xuất xã hội tỉnh trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm
trong đó lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên
Kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản xuất): là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất,
bao gồm tư liệu và đối tượng lao động.Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của
sản xuất mà con người dùng tư liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng cho phù
hợp với mục đích sử dụng của con người.
 Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác
động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng
yêu cầu sản xuất của con người.
Tư liệu lao động gồm:
Phương tiện lao động: là những yếu tố vật chất của sản xuất cùng với công cụ lao động
mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật
chất.
Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác
động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng tạo ra các của cải vật chất phục vụ
yêu nhu cầu của con người và xã hội. Là cầu nối giữa người lao động và đối tượng lao
động => Giữ vai trò quyết định trực tiếp đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm;
Ngày nay công cụ lao động được tin học hoá, tự động hoá và trí tuệ hoá…
Là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là nguyên nhân sâu xa
của mọi biến đổi kinh tế - xã hội trong lịch sử; cải biến tự nhiên của môi trường => Là
thước đo trình độ phát triển của LLSX
Yếu tố quan trọng nhất trong các bộ phận của lực lượng sản xuất là
Người lao động

Câu 5 từ mqh giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hãy giải thích
vì sao việt nam phát triển kinh tế nhiều thành phần
I. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
I.1. Phương thức sản xuất
Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức nhất
định, tức là có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng, đó là phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất là sự
thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương
ứng. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm chỉ hai mối quan hệ “song
trùng” của nền sản xuất vật chất xã hội, đó là quan hệ giữa con người với tự nhiên và
quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. “Người ta không thể sản
xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để
trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và
quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”.
Do vậy, phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện đồng thời sự tác động
giữa con người với tự nhiên (lực lượng sản xuất) và sự tác động giữa người với người
(quan hệ sản xuất) để sáng tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội ở
những giai đoạn lịch sử nhất định.
Ví dụ: Phương thức sản xuất của xã hội phong kiến ở Việt Nam là phương thức
sản xuất nông nghiệp chủ yếu là dùng sức người, kết hợp cùng với những công cụ thô sơ
như: cuốc, xẻng,... cày thì dùng trâu. Do đó năng suất thu hoạch không được cao, sản
phẩm làm ra ít thông qua trao đổi mua bán. Đây là nền sản xuất thủ công nhỏ lẻ, năng
xuất thu hoạch không được cao và nó quyết định đến tính chất của xã hội Việt Nam bấy
giờ là: xã hội phong kiến; kết cấu giai cấp gồm 2 giai cấp chủ yếu là địa chủ và nông
dân, mâu thuẫn chủ yếu nhất trong xã hội cũng là giữa địa chủ và nông dân với sự bóc
lột của địa chủ với nông dân bằng địa tô phong kiến.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra
sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên
theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Về cấu trúc, lực lượng sản xuất được
xem xét trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản xuất) và mặt kinh tế - xã
hội (người lao động). Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa “lao động sống” với
“lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong
sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Như vậy, lực lượng sản xuất là một hệ thống
gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu sản xuất) cùng mối quan hệ (phương thức kết
hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của
cải vật chất theo mục đích của con người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản
nhất - năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người.
Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng
lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động với những
kinh nghiệm sản xuất tạo ra thói quen lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra
của cải vật chất. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi
của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. Người
lao động có thể kể đến như là nông dân, công nhân, bác sĩ, kĩ sư… Ngày nay, trong nền
sản xuất xã hội, tỷ trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao động có trí
tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.
Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư
liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của
sản xuất mà con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù
hợp với mục đích sử dụng của con người. Đối tượng lao động chia làm 2 loại chính, một
là đối tượng có sẵn trong tự nhiên như là đất, rừng, cá, tôm…; hai là đối tượng đã qua
chế biến (nguyên liệu) như là điện, xi măng… Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất
của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi
đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao
động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động. Phương tiện lao động là những
yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động mà con người sử dụng để tác
động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất. Phương tiện lao động có
thể là đường xá, bến cảng, phương tiện giao thông… Công cụ lao động là những phương
tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm
biến đổi chúng, tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của con người và xã hội. Công
cụ lao động có thể kể đến như là cày, cuốc, máy gặt, máy kéo… Công cụ lao động là yếu
tố vật chất “trung gian”, “truyền dẫn” giữa người lao động và đối tượng lao động trong
tiến hành sản xuất. Đây chính là “khí quan” của bộ óc, là tri thức được vật thể hóa do
con người sáng tạo ra và được con người sử dụng làm phương tiện vật chất của quá trình
sản xuất. Công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng suất lao động. Ngày nay,
trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển, công cụ lao
động được tin học hóa, tự động hóa và trí tuệ hóa càng có vai trò đặc biệt quan trọng.
Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là
nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế - xã hội trong lịch sử; là thước đo trình độ
tác động, cải biến tự nhiên của con người và tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế
khác nhau. Chính vì vậy, C. Mác khẳng định: “Những thời đại kinh tế khác nhau không
phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những
tư liệu lao động nào”.
Ví dụ: Người nông dân khi sản xuất lương thực sẽ dùng cày, cuốc, máy cày… để
tác động vào đất, giúp đất tơi xốp để gieo trồng hạt lúa, củ quả. Sau một khoảng thời
gian tưới tiêu, bón phân, các cây lúa, củ quả đến mùa thu hoạch thì người nông dân sẽ
đem chúng vận chuyển bằng xe tải, xe chuyên chở… để đem đi bán. Vậy trong ví dụ
này, người lao động chính là người nông dân, còn tư liệu sản xuất sẽ bao gồm tư liệu lao
động (công cụ lao động là cày, cuốc, máy cày… và phương tiện lao động là đường xá,
xe tải, xe chuyên chở…) và đối tượng lao động ở đây chính là đất, hạt lúa, củ quả.
Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và
công cụ lao động. Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai
trò quyết định, bởi vì người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động.
Suy đến cùng, các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá
trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ sử dụng của người
lao động. Hơn nữa, trong quá trình sản xuất, nếu như công cụ lao động bị hao phí và di
chuyển dần giá trị vào sản phẩm, thì do bản chất sáng tạo của mình, trong quá trình lao
động người lao động không chỉ sáng tạo ra giá trị đủ bù đắp hao phí lao động, mà còn
sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu. Người lao động là nguồn gốc của
mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc của sự phát triển sản xuất. Cùng với
người lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản, quan trọng không thể thiếu, đặc biệt,
trình độ phát triển của công cụ lao động là nhân tố quyết định năng suất lao động xã hội.
Lực lượng sản xuất là kết quả năng lực thực tiễn của con người, nhưng bản thân năng
lực thực tiễn này bị quy định bởi những điều kiện khách quan mà trong đó con người
sống và hoạt động. Vì vậy, lực lượng sản xuất luôn có tính khách quan. Tuy nhiên, quá
trình phát triển lực lượng sản xuất là kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa khách
quan và chủ quan.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là phát triển ở cả tính chất và trình độ. Tính
chất của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hóa trong việc
sử dụng tư liệu sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của người lao
động và công cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ của
công cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản
xuất; trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động và đặc biệt là trình độ phân
công lao động xã hội. Trong thực tế, tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất không tách rời nhau.
Nghiên cứu sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lịch sử, C. Mác khẳng
định:
“Tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản
xuất trực tiếp”. Ngày nay, trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học sản xuất ra
của cải đặc biệt, hàng hóa đặc biệt. Đó là những phát minh sáng chế, những bí mật công
nghệ, trở thành nguyên nhân của mọi biến đổi trong lực lượng sản xuất. Hiện nay,
khoảng cách từ phát minh, sáng chế đến ứng dụng vào sản xuất đã được rút ngắn làm
cho năng suất lao động, của cải xã hội tăng nhanh. Khoa học kịp thời giải quyết những
mâu thuẫn, những yêu cầu do sản xuất đặt ra; có khả năng phát triển “vượt trước” và
thâm nhập vào tất cả các yếu tố của sản xuất, trở thành mắt khâu bên trong của quá trình
sản xuất. Tri thức khoa học được kết tinh, “vật hóa” vào người lao động, người quản lý,
công cụ lao động và đối tượng lao động. Sự phát triển của khoa học đã kích thích sự phát
triển năng lực làm chủ sản xuất của con người.
Trong thời đại ngày nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển,
cả người lao động và công cụ lao động được trí tuệ hóa, nền kinh tế của nhiều quốc gia
phát triển đang trở thành nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mà trong đó sự sản sinh,
phổ cập và sử dụng tri thức của con người đóng vai trò quyết định nhất đối với sự phát
triển kinh tế, từ đó tạo ra của cải vật chất và nâng cao chất lượng cuộc sống con người.
Đặc trưng của kinh tế tri thức là công nghệ cao, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo
được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và trong đời sống xã hội. Lực lượng sản xuất phát
triển trong mối quan hệ biện chứng với quan hệ sản xuất.
Tuy nhiên, ngày nay, chúng ta đang sống trong điều kiện có nhiều cái mới, rất
khác so với thời kỳ của C. Mác. Khoa học - công nghệ có những bước tiến nhảy vọt, góp
phần tạo ra một lực lượng sản xuất mà xưa nay nhân loại chưa từng được chứng kiến.
Những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra bước phát triển
nhảy vọt của đời sống xã hội nói chung và lực lượng sản xuất nói riêng. Có thể khái quát
những đặc trưng cơ bản của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là “cuộc cách mạng số
hóa, thông qua các công nghệ như in-tơ-nét vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế
ảo (VR), tương tác thực tại - ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân
tích dữ liệu lớn (SMAC)... để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế giới số với tốc
độ rất nhanh, quy mô rất lớn, tích hợp nhiều lĩnh vực, tương tác đa chiều”. Những thành
tựu của khoa học - công nghệ hiện đại đã tác động trực tiếp đến sự phát triển của lực
lượng sản xuất ở tất cả những yếu tố cấu thành của nó: trình độ của tư liệu sản xuất và
trình độ của người lao động.
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với
người trong quá trình sản xuất vật chất. Đây chính là một quan hệ vật chất quan trọng
nhất - quan hệ kinh tế, trong các mối quan hệ vật chất giữa người với người. Chính nhờ
mối quan hệ giữa con người với con người với nhau mà quá trình sản xuất xã hội mới
diễn ra bình thường. Quá trình sản xuất vật chất chính là tổng thể các yếu tố trong một
quá trình thống nhất, gồm sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất.
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ
chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc
chiếm hữu, sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội (tức là công cụ lao động, phương tiện lao
động và đối tượng lao động thuộc sở hữu của ai). Đây là quan hệ quy định địa vị kinh tế
- xã hội của các tập đoàn người trong sản xuất, từ đó quy định quan hệ quản lý và phân
phối. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ bản, trung tâm của
quan hệ sản xuất, luôn có vai trò quyết định các quan hệ khác bởi vì, lực lượng xã hội
nào nắm phương tiện vật chất chủ yếu của quá trình sản xuất thì sẽ quyết định việc quản
lý quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm.
Ví dụ: Trong công ty sản xuất bánh kẹo, người nắm giữ những tư liệu sản xuất
như là trang thiết bị máy móc… thì người đó chính là ông chủ. Người này có vai trò tổ
chức, quản lý điều hành sản xuất, có quyền đưa ra và thực hiện các phương thức phân
phối sản phẩm. Ngược lại, ai không nắm giữ các tư liệu sản xuất thì đó chính là những
người công nhân, phải bán sức lao động và nhận được của cải ít hơn người làm chủ.
Quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong
việc tổ chức sản xuất và phân công lao động (tức là trong xã hội ai là người tổ chức điều
hành và quản lý sản xuất). Quan hệ này có vai trò quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc
độ, hiệu quả của nền sản xuất; có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của
nền sản xuất xã hội. Ngày nay, khoa học tổ chức quản lý sản xuất hiện đại có tầm quan
trọng đặc biệt trong nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất.
Ví dụ: Nếu công ty có người chủ biết điều hành và quản lý giỏi, có phương pháp
tổ chức sản xuất hợp lý, phù hợp với công nhân viên thì chất lượng sản phẩm sẽ được
nâng cao, hiệu quả công việc sẽ tốt hơn. Ngược lại, nếu người chủ không có khả năng
điều hành, tổ chức và quản lý sản xuất thì hiệu quả công việc sẽ giảm, sản phẩm chất
lượng thấp.
Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn người
trong việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và quy mô của cải vật
chất mà các tập đoàn người được hưởng (tức là phân chia thành quả lao động sau quá
trình sản xuất cho những người lao động sản xuất). Quan hệ này có vai trò đặc biệt quan
trọng, kích thích trực tiếp lợi ích con người; là “chất xúc tác” kinh tế thúc đẩy tốc độ,
nhịp điệu sản xuất, làm năng động hóa toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Hoặc ngược lại,
có thể làm trì trệ, kìm hãm quá trình sản xuất.
Ví dụ: Chỉ tiêu của người thợ may là sản xuất được 10 áo trong 1 ngày, nếu vượt
chỉ tiêu sẽ được thưởng và ngược lại, nếu không sản xuất được 10 áo thì sẽ bị trừ lương.
Từ đó, người thợ may sẽ có thái độ làm việc khác nhau và mang lại chất lượng sản phẩm
đầu ra khác nhau.
Các mặt trong quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chi phối,
ảnh hưởng lẫn nhau; trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định
bản chất và tính chất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách
quan, là quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội.
Theo quan điểm của Đảng ta, "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc" .
Lý do cần phát triển kinh tế nhiều thành phần
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp
với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động
thủ công là phổ biến. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân;
phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện
mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

Câu 6 : từmqh giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, hãy giải
thích vì sao công nghiệp hóa là nhiệm vụ trọng tâm
Câu 7 từ mqh giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, hãy giải
thích vì sao trong quá trình đổi mới, đảng quyết định đổi mới kinh tế
làm trọng tâm ( gợi ý: cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng,
kinh tế quyết định chính trị, cái gì quyết định đổi mới cái đấy trước )
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Gồm 4 phần:
Khái niệm của CSHT và KTTT (phần 1),
mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT (phần 2),
ý nghĩa trong đời sống xã hội (phần 3)
và vận dụng của CSHT và KTTT ở Việt Nam hiện nay (phần 4)
I. Khái niệm:
1. Cơ sở hạ tầng:
 Với tư cách là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: “Cở sở hạ tầng là toàn bộ
những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định”. CSHT ở
đây là một phạm trù triết học, cần phân biệt với thuật ngữ cơ sở hạ tầng trong ngành xây
dựng (điện, đường, trường, trạm)
 Về mặt kết cấu cơ sở hạ tầng gồm có: quan hệ sản xuất thống trị, những quan hệ sản
xuất tàn dư của thế hệ trước đó, những quan hệ sản xuất là nền móng của xã hội sau.
Trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo quyết định
tính chất của một cơ sở hạ tầng nhất định. Tuy nhiên, hai kiểu quan hệ sản xuất còn lại
cũng có vai trò nhất định
 Nếu xét trong nội bộ phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất là hình thức phát triển
của lực lượng sản xuất. Còn nếu xét trong tổng thể các quan hệ xã hội, các quan hệ sản
xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội đó. Đây là cơ sở hiện thực để con người dựng
nên kiến trúc thượng tầng tương ứng
2. Kiến trúc thượng tầng:
 Với tư cách là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, “Kiến trúc thượng tầng là toàn
bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội, những tiết chế tương ứng, và những quan hệ nội
tại của chúng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định”.
 Về mặt kết cấu KTTT gồm: những quan điểm, tư tưởng của xã hội (về chính trị, pháp
quyền, đạo đức, tôn giáo,…) và những thiết chế xã hội tương ứng (nhà nước, đảng phái,
giáo hội và những đoàn thể xã hội khác)
 Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát
triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành
trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ
tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng;
còn những yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT: Mỗi một xã hội đều có cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng của nó, đây là hai mặt của đời sống xã hội và được hình thành
một cách khách quan, gắn liền với những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Không như các
quan niệm duy tâm giải thích sự vận động của các quan hệ kinh tế bằng những nguyên
nhân thuộc về ý thức, tư tưởng hay thuộc về vai trò của nhà nước và pháp quyền, trong
Lời tựa tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, C.Mác đã khẳng định:
“không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước,
hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những
quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt
nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất”(1).
- Thứ nhất vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện
qua:
+ Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính
chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội
có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính
trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết
định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị
tư tưởng là biểu hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến
trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,… đều trực tiếp hay gián
tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định
VD: Trước đây, vào khoảng từ 2000-4000 năm tcn, trên thế giới có xuất hiện hình thái
kinh tế chiếm hữu nô lệ: quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, đất đai và các tư liệu sản
xuất khác hầu hết thuộc sở hữu tư nhân của các chủ nô, kể cả nô lệ, từ đó hình thành nên
kiểu nhà nước chủ nô. Cơ sở kinh tế xã hội của nhà nước chủ nô là nhân tố quyết định
bản chất, chức năng, bộ máy, hình thức nhà nước (hay KTTT) cũng như quá trình tồn
tại, phát triển của nhà nước chủ nô. Nô lệ có địa vị vô cùng thấp kém, họ bị coi là tài sản
thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô có quyền tuyệt đối đối với nô lệ, khai thác bóc lột sức
lao động, đánh đập, đem bán, tặng cho, bỏ đói hay giết chết.
+ Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá
trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế – xã hội này
sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái
kinh tế – xã hội. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng
diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh
chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật.
VD:
+) Thay đổi từ HT KT-XH này sang HT-KT XH khác: Nhà nước phong kiến là nhà
nước của giai cấp địa chủ phong kiến, cơ sở hình thành của nhà nước là quan hệ sản xuất
phong kiến mà đặc trưng là chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp này. Các địa chủ
phong kiến nắm trong tay đủ mọi quyền lực, còn nông dân chỉ có quyền sở hữu nhỏ phụ
thuộc vào địa chủ và hầu như không có quyền gì. Khi nền kinh tế hàng hóa thị trường
phát triển (tức sự thay đổi trong CSHT), sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao
động đòi hỏi con người phải có quyền tự do bình đẳng, hội họp kinh doanh và đảm bảo
quyền sở hữu tài sản. Chế độ phong kiến hà khắc đã không còn phù hợp với quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Vì thế các cuộc cách mạng dân chủ tư sản liên tiếp nổ ra dưới sự
lãnh đạo của giai cấp tư sản, lật đổ nhà nước phong kiến, thiết lập nhà nước tư sản, mở
đường cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển.
+) Diễn ra ngay trong bản thân các HT KT-XH: Thời bao cấp, VN ta có nền kinh tế nhà
nước chỉ huy, tức là các thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ. Tuy nhiên dần dần cho tới
hiện nay, VN đang phát triển kinh tế theo nền kt thị trường, có sự tham gia của rất nhiều
doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp được tạo điều kiện để phát triển. Sự thay đổi
này diễn ra ngay trong hình thái KT-XH XHCN - Thứ hai tác động trở lại của kiến trúc
thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
+ Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau.
+ Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều.
Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó
là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm
phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
+ Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng
không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội. III. Ý nghĩa trong
đời sống xã hội:
- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cơ
sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị. - Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế tác động chính trị, chính
trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế. Thực chất của vai trò kiến trúc
thượng tầng là vai trò hoạt động tự giác tích cực của các giai cấp, đảng phái vì lợi ích
kinh tế sống còn của mình. Sự tác động của kiến thức thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
trước hết và chủ yếu thông qua đường lối, chính sách của đảng, nhà nước. Chính vì vậy
Lenin viết: “Chính trị là biểu hiện của sự tập trung kinh tế… Chính trị không thể không
chiếm vị trí hạng đầu so với kinh tế”.
- Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc tuyệt đối hóa một yếu tố nào giữa kinh
tế và chính trị đều là sai lầm
+ Tuyệt đối hóa kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là rơi vào quan điểm
duy vật tầm thường, duy vật kinh tế sẽ dẫn đến vô chính phủ, bất chấp kỷ cương, pháp
luật và không tránh khỏi thất bại, đổ vỡ.
+ Còn nếu tuyệt đối hóa về chính trị, hạ thấp hoặc phủ định vai trò của kinh tế sẽ dẫn
đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn và cũng không tránh
khỏi thất bại. - Có thể thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã rất quan tâm đến nhận thức và vận dụng quy luật này. Điều đó thể hiện ở chỗ:
trong thời kỳ đổi mới đất nước, ĐCS Việt Nam chủ trương đổi mới toàn diện cả kinh tế
và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng thời đổi mới chính trị từng bước
thận trọng vững chắc bằng những hình thức, bước đi thích hợp; giải quyết tốt mối quan
hệ giữa đổi mới - ổn định – phát triển, giữ vững định hướng XHCN. IV. S ự vận dụng
của CSHT và KTTT ở nước ta hiện nay:
 Trước đổi mới (1986): đề cao thái quá vai trò của kiến trúc thượng tầng, chính trị là
thống soái, Nhà nước, cơ quan quản lí can thiệp thô bạo vào kinh tế bằng những mệnh
lệnh chủ quan; vi phạm các quy luật kinh tế khách quan => khủng hoảng kinh tế, xã hội.
 Từ 1986 đến nay: Thực hiện đổi mới toàn diện (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội), lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới về chính trị, trước hết là đổi mới tư
duy về kinh tế; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định – phát triển, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa.  Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị tác động
mạnh mẽ qua lại với kinh tế
 Thực trạng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay: Về sơ sở hạ
tầng: - Nền kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện.
Đất nước đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, đã ra khủng hoảng kinh tế xã hội. Kinh
tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải
thiện rõ rệt.  Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn
còn tồn tại. Về kiến trúc thượng tầng:
- Qua 25 năm đổi mới: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã
hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành
trên những nét cơ bản”
- Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề:
+ Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn đề ở tầm quan điểm,
chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và
thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành.
- Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về phẩm
chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu vừa không đủ trình độ, năng lực
hoàn thành nhiệm vụ.
- Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của NN có lúc có
nơi chưa rõ ràng, chồng chéo, buông lỏng.
- Ý thức chấp hành PL của cán bộ, nhân dân còn yếu, hệ thống PL chưa đồng bộ, hoàn
chỉnh; đạo đức lối sống sa sút đáng lo ngại, bản chất văn hóa dân tộc bị sói mòn, tội
phạm, tệ nạn XH có xu hướng gia tăng; sự tấn công của các mặt trái cơ chế thị trường
cũng như những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch với VN càng ngày càng lộ
rõ và gia tăng.
- Tệ quan liêu tham nhũng vẫn còn diễn ra nghiêm trọng.
 Sự vận dụng của Đảng CSVN trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội ở
Việt Nam hiện nay: Về CSHT: - Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trọng tâm
+ Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của
nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành kinh tế và
các sản phẩm kinh tế có giá trị tăng cao dựa nhiều vào tri thức. + Đẩy mạnh hơn nữa
công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề
nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
- Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các kiểu QHSX gắn liền với các hình thức sở hữu
và bước đi thích hợp làm cho QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. + Phát
triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
+ Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước: Nhà nước làm tốt các chức năng
định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế; chính sách
trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ
thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và
doanh nghiệp…
+ Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo
cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã
hội, thực hiện công bằng ngày một tốt hơn. Thực hiện nhiều hình thức phân phối,
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc, quan hệ kinh
tế với nước ngoài. Về KTTT:
- Nâng cao bản lĩnh và trình độ trí tuệ của Đảng: + Kiên định và vận dụng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, coi
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt
+ Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ
những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. -
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
+ Xây dựng hệ thống chính trị XHCN vừa đảm bảo tính quốc tế, tính giai cấp, tính dân
tộc, tính nhân dân; trong đó quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân. + Xây dựng hệ thống
pháp luật đồng bộ phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội để quản lý mọi mặt của xã hội
văn minh hiện đại.
+ Cải cách nền hành chính quốc gia, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước,
phát huy dân chủ tăng cường pháp chế XHCN.
+ Phân định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Đảng, chính quyền, các ban
ngành, các tổ chức quần chúng từ trung ương đến địa phương.
- Phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển văn hóa tiến bộ mang đậm bản sắc dân tộc, giải
quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.
- Tăng cường củng cố sức mạnh của lực lượng vũ trang, nâng cao cảnh giác cách mạng,
sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại nền kinh tế và lật đổ chế độ.

Câu 8: tại sao phát triển hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử
tự nhiên

1. Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch
sử chịu sự tác động, chi phối của các quy luật xã hội khách quan.
– Mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định có các thành tố tương ứng là lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Các thành tố đó tác động qua lại với nhau theo những quy luật xã hội khách quan: Đó
là quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,
quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
– Xét đến cùng, sự thay thế hình thái kinh tế – xã hội này bằng một hình thái kinh tế – xã
hội khác bắt nguồn sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ
lao động.
Khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức một mức độ nhất định mà quan hệ sản xuất
hiện tồn trở nên mâu thuẫn, chật hẹp, trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất đó, thì
tất yếu sẽ diễn ra cách mạng xã hội để xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp.
Khi đó cơ sở hạ tầng mới cũng xuất hiện, kéo theo kiến trúc thượng tầng mới tương
ứng. Và đương nhiên, hình thái kinh tế – xã hội mới xuất hiện thay thế cho hình thái
kinh tế – xã hội cũ.
Như thế, sự phát triển, thay thế nhau từ thấp lên cao của các hình thái kinh tế – xã hội
chịu sự tác động, chi phối của các quy luật nội tại: Quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng.
Rõ ràng, đây là quá trình lịch sử – tự nhiên. Tức là quá trình này không phải ngẫu
nhiên. Tuy là quá trình diễn ra thông qua hoạt động của con người (tức là mang tính
“lịch sử”), nhưng không phải do con người, vĩ nhân hoặc đấng siêu nhiên nào đó sắp đặt,
mà là quá trình tự thân, theo quy luật khách quan (tức là mang tính “tự nhiên”).
2. Quy luật chi phối các hình thái kinh tế – xã hội là quy luậtxã hội, thể hiện thông qua
hoạt động của con người, nhưng không vì thế mà quy luật đó không mang tính khách
quan.
Quy luật xã hội không những phụ thuộc vào ý thức, ý chí con người mà ngược lại, khi
xét đến cùng, quy luật xã hội quyết định, chi phối cả ý thức, ý chí của con người. Mỗi
hình thái kinh tế – xã hội được coi như một cơ thể xã hội phát triển theo những quy luật
vốn có của nó.
Sống trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, con người làm ra lịch sử của mình, đó là xã
hội. Nhưng xã hội của con người vận động theo quy luật khách quan không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của con người, không phụ thuộc vào vĩ nhân hay mệnh trời.
– Lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự tiến hóa của các hình thái kinh tế – xã hội.
Quá trình tiến hóa là quá trình kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế – xã hội như: Xã
hội cộng sản nguyên thủy được kế tiếp bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, sau đó được kế tiếp
bằng xã hội phong kiến, tiếp đó là sự kế tiếp của xã hội tư bản chủ nghĩa… Quá trình
tiến hóa đó là khách quan, là quá trình lịch sử – tự nhiên.
HTKT-XH vận động, ptriển từ thấp đến cao bắt nguồn từ sự ptr của LLSX. LLSX ptr
qđịnh sự thđổi QHSX. QHSX tđổi sẽ làm cho KTTT tđổi theo, và do đó mà các HTKT-
XH vđộng, ptr từ thấp đến cao, từ HTKT-XH này lên HTKT-XH khác cao hơn. Lịch sử
phát triển ở một số quốc gia có thể có những đặc trưng riêng biệt, nhưng sự riêng biệt đó
vẫn là một bộ phận của quá trình lịch sử – tự nhiên.
– Khi nghiên cứu quy luật phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, C. Mác đi đến kết
luận khoa học rằng sẽ xuất hiện một hình thái kinh tế – xã hội mới thay thế cho hình thái
tư bản chủ nghĩa: Đó là hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu
là hình thái xã hội chủ nghĩa.
Với sự ra đời của nước Nga Xô-viết sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, nhân loại
đã được kiểm chứng kết luận của Mác.
Sự sụp đổ của Liên Xô không phải là sụp đổ của tư tưởng xã hội chủ nghĩa mà là sự
thất bại của một mô hình không thích hợp. Mô hình phát triển của Trung Quốc đã phần
nào đã chứng minh điều này.
– Như thế, nếu xem xét ở phạm vi toàn nhân loại thì sự phát triển của các hình thái kinh
tế – xã hội trên thực tế đã theo một tuần tự từ thấp lên cao, tuần tự của quá trình lịch sử –
tự nhiên. Song, nếu chỉ xét riêng ở phạm vi một quốc gia riêng lẻ, thì do các yếu tố lịch
sử, không gian và thời gian, không phải quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả các hình
thái kinh tế – xã hội một cách tuần tự, mà có thể bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh
tế – xã hội nào đó.
Ví dụ: Việt Nam và Lào là hai quốc gia đã bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa để quá
độ từ hình thái phong kiến lên hình thái xã hội chủ nghĩa.
Rõ ràng, một số quốc gia như Việt Nam, Lào… dù là quốc gia riêng biệt nhưng vẫn là
bộ phận thuộc nhân loại, gắn với nhân loại. Sự bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa ở các
quốc gia đó không hề mâu thuẫn với tính tuần tự của các hình thái kinh thế – xã hội trên
toàn nhân loại.
Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của C. Mác có ý nghĩa khái quát đối với toàn
nhân loại, nên nếu chỉ lấy hoàn cảnh đóng khung ở một quốc gia riêng biệt để minh họa
phản bác thì minh họa đó không mang có giá trị.
– Sở dĩ có hiện tượng “phát triển rút ngắn”, bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế –
xã hội ở một số quốc gia là vì có quy luật kế thừa của lịch sử loài người. Quy luật kế
thừa luôn cho phép một cộng đồng người vốn có xuất phát điểm thấp, cơ sở kinh tế lạc
hậu có thể giao lưu, hợp tác, kế thừa từ những cộng đồng người khác đang có trình độ
phát triển cao hơn.

You might also like