Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 7 Cơ S Văn Hoá
Nhóm 7 Cơ S Văn Hoá
Vùng này nổi tiếng với địa hình đa dạng và thú vị, chủ yếu là vùng núi đồ sộ
kéo dài từ hướng Tây Bắc đến Đông Nam. Dãy Hoàng Liên Sơn, với chiều
dài tới 180km và rộng khoảng 30km, là một trong những tuyệt tác thiên
nhiên đáng kinh ngạc với những đỉnh núi cao chót vót, đạt đến 2800 -
3000m. Không chỉ dừng lại ở đó, vùng địa hình này còn có dãy núi Sông Mã
dài hơn 500km, cao trên 1800m. Đồng thời, giữa hai dãy núi này là một khu
vực đồi núi thấp, thuộc lưu vực sông Đà, hay còn được gọi là lòng sông Đà.
Trong vùng Tây Bắc, các sông lớn như sông Đà chiếm số đông, còn các sông
suối nhỏ như thượng nguồn sông Mã cũng xuất hiện đầy quyến rũ.
Dãy cao nguyên đá vôi kéo dài từ Phong Thổ đến Thanh Hóa, có thể chia
nhỏ thành cao nguyên Tà Phình và cao nguyên Mộc Châu, Nà Sản. Ngoài ra
còn có các lưu vực như Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường Thanh.
Địa hình Tây Bắc với lịch sử hình thành của vùng Tây Bắc đã bắt đầu từ 500
triệu năm trước và không ngừng biến đổi theo thời gian. Do đó, tập trung
nhiều loại khoáng sản: đồng, chì, kẽm ở Sơn La; đất hiếm tại Lai Châu. Hơn
nữa, vùng Tây Bắc có diện tích rừng lớn, đất đai đa dạng thuận lợi cho phát
triển lâm nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi. Ngoài ra, vùng
này còn có trữ lượng thủy điện lớn và tập trung nhiều danh lam thắng cảnh
như: hang động, thác nước, hồ Ba Bể, cây cối, cây cổ thụ,...
Bất lợi: Đất cao, cắt xẻ, có nhiều hẻm vực, độ dốc lớn khiến cho việc khai tài
nguyên thiên nhiên bị ảnh hưởng nghiêm trọng, việc phát triển cơ sở hạ tầng,
phát triển giao thông gặp nhiều khó khăn. Với địa hình này, tần suất sạt lở
đất, đá do lũ quét gây ra ảnh hưởng đến giao thông, người và tài sản tăng
cao. Ở những nơi địa hình không bằng phẳng có thể xảy ra động đất.
nguồn
2.2 Khí hậu
Khí hậu Tây Bắc khá phức tạp, điển hình là mùa khô hạn kéo dài cộng với
lượng gió Tây khô nóng gây khó khăn cho cây trồng và vật nuôi.
Vào tháng 12 đến tháng 1 thường xuyên có sương muối và băng giá.
Vào đầu mùa mưa thường có gió lốc, mưa đá, lũ ống và lũ quét.
Vùng nằm trong vòng đai nhiệt đới gió mùa, nhưng từ độ cao từ 800 -
3000m nên khí hậu ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi có khí hậu ôn đới
(Sìn Hồ).
Nền khí hậu Tây Bắc nhìn chung ấm hơn Đông Bắc, chênh lệch có thể đến 2
- 3 độ, tổng số giờ nắng khoảng 1870 giờ/năm do ảnh hưởng của độ cao.
Biên độ nhiệt giữa ngày và đêm ở vùng cao nguyên là núi cao lớn hơn
ở các thung lũng.
Độ ẩm tương đối trung bình thường từ 78 – 93%, ở các tiểu vùng có
độ chênh lệch từ 2 – 5%.
Khu vực Tây Bắc có lượng mưa lớn, bình quân từ 1.800 – 2.500 mm/năm.
Vì vùng Tây Bắc nằm xa biển so với vùng Đông Bắc nên lượng ẩm thấp. Là
tiểu vùng có mùa Đông muộn, nhưng ấm hơn so với vùng Đông Bắc; do có
dãy Hoàng Liên Sơn ngăn cản ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc; đồng thời,
vào đầu mùa Hạ nơi đây chịu ảnh hưởng của gió phơn Tây Nam nên mùa
Đông đến muộn và kết thúc sớm hơn.
Do địa hình bị chia cắt bởi các dãy núi, dòng sông, khe suối,..nên có nơi có
mùa đông ấm áp (thung lũng Mường Lau) nơi lại có mùa đông giá rét (Mộc
Châu). Ngoài ra còn có các hiện tượng thời tiết đặc biệt như: gió Lào, gió
lạnh địa phương, mưa đá, sương muối, băng giá…
Về cơ bản, vùng Tây Bắc là không gian văn hóa của dân tộc Thái, nổi tiếng
với điệu múa xòe tiêu biểu là điệu múa xòe hoa rất nổi tiếng được nhiều
người biết đến. Ai đã từng qua Tây Bắc không thể quên được hình ảnh
những cô gái Thái với những bộ váy áo thật rực rỡ đặc trưng cho Tây
Bắc.Dân cư thưa thớt,chủ yếu là 3 tập người:Thái ,H’Mông, Dao.
Các dân tộc đa dạng về nhóm ngôn ngữ:
Nhóm ngôn ngữ Mông-Dao, Tạng Miến.
Nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer
Nhóm ngôn ngữ Việt- Mường
Nhóm ngôn ngữ Thái-Kadai.
Ở vùng thung lũng, chân núi là nơi sinh sống của các dân tộc thuộc nhóm
ngôn ngữ Việt - Mường, Thái - Kadai, điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn để
phát triển nông nghiệp và các ngành nghề khác.
Vùng rẻo cao (đỉnh núi) là nơi cư trú của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ
Mông - Dao, Tạng Miến với phương thức lao động sản xuất chủ yếu là phát
nương, làm rẫy,.. và điều này phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên.
Xã hội truyền thống của các tộc người cư trú ở Tây Bắc rất phong phú, điều
này phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của họ, về đặc điểm tộc người ở đây,
mỗi dân tộc đều có những nét riêng biệt:
Người Thái: Khu vực chúa đất cai quản gọi là mường và có bộ máy cai trị
cũng như có luật lệ riêng. Mỗi mường có một mường trung tâm và các
mường ngoại vi. Chúa đất cai quản toàn mường, con trai cả của chúa đất sẽ
cai quan rmường trung tâm, các con trai thứ và các cháu sẽ cai quản các
mường phụ thuộc. Bộ máy thống trị toàn mường lớn gọi là Xiêng hay
Chiềng. Trong quan hệ họ hàng của người Thái có 3 mối quan hệ đặc trưng,
đó là: Ải Noong, Lúng Ta và Nhím Sao
Người H'mông: Bộ máy Sao Phải cai quản một bản, thống lý cai quản một
vùng, ngoài ra còn có các phó thống lý, lý dịch. Những người trong bộ máy
cai trị thường là người đứng đầu các dòng họ. Trong xã hội truyền thống của
người Hmông, quan hệ cố kết dòng họ là nét đặc trưng nhất, nó được biểu
hiện ở 2 hình thức: cố kết rộng và cố kết hẹp.
Người Khơ Mú: Người Khơ mú có nhiều dòng họ, các dòng họ của họ
thường mang tên cây, cỏ hay chim, thú. Các quan hệ của họ chủ yếu dựa
theo nhóm hôn nhân.
Các dân tộc khác như Kháng, Xinh Mun, tổ chức xã hội truyền thống của họ
cũng tương tự như ở người Khơ Me. Họ đều có quá trình dài lâu trong lịch
sử là những người bị phụ thuộc và trở thành người làm công như lệ nông cho
các chúa đất người Thái.
Hiện nay, nói tới Việt Bắc là nói tới địa bàn của sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái
Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang. Tuy nhiên, ranh giới vùng văn hóa
Việt Bắc sẽ rộng hơn địa bàn này. Nghĩa là, nó bao gồm cả phần đổi núi của các
tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang và tỉnh Quảng Ninh.
Trên bản đồ, vùng đất này nằm ở những vĩ độ cao nhất, trong các vĩ tuyến từ 21 độ
đến 23 độ vĩ Bắc
Vì trên bản đồ, vùng đất này nằm ở những vĩ độ cao nhất, trong các vĩ tuyến từ 21
độ đến 23 độ vĩ Bắc nên đây là vùng có môi trường tự nhiên với dấu hiệu chuyển
tiếp từ tự nhiên nhiệt đới sang nhiệt đới.
Địa hình Việt Bắc có cấu trúc theo kiểu cánh cung, tụ lại ở Tam Đảo, các cánh
cung này mở ra ở phía Bắc và Đông Bắc và phán hướng lối quay ra biển, thứ tự từ
trong ra biển là các cánh cung: sông Gâm. Ngân Sơn, Yên Lạc, Bắc Sơn và Đông
Triều. Các dãy núi đều thuộc loại có độ cao trung bình và thấp. Một số núi có độ
cao là Tây Côn Lĩnh (2431m), Kiều Liên Ti (2403m) và Pu Ta Ca (2274m).
Toàn vùng có 5 hệ thống sông chính: sông Thao, sông Lô, hệ thống các sông Cầu,
sông Thương, Lục Nam; hệ thống các sông này chảy ra Biển Đông là trục giao
thông giữa miền núi và miền xuôi. Sông Bằng Giang, sông Kỳ Cùng chảy theo
hướng Nam - Bắc là thủy lộ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nét đặc trưng của hệ
thống sông ở đây là độ dốc lòng sông lớn, mùa lũ là thời gian dòng chảy mạnh
nhất. Mặt khác, trong vùng còn có nhiều hố như hồ Ba Bể, hồ Thang Hen,....
3. Đặc điểm văn hóa:
Tất cả những đặc điểm trong vẽ điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội của vùng Việt
Bắc đều sẽ tác động đến văn hóa của vùng này.
Giữa nam giới Tày và nam giới Nùng chỉ khác nhau đôi chút về kích thước trong
trang phục. Trong khi đó trang phục của nữ giới lại đa dạng và phong phú . Người
phụ nữ Nùng chỉ mặc một màu chàm, khác với người phụ nữ Tày mặc chiếc áo lót
trong màu trắng. Y phục nữ Tày - Nùng gồm có áo cánh, áo dài 5 thân, quấn, thắt
lưng, khăn đội đấu, hài vải đồ trang sức cũng đơn giản, ngày trước chị em thường
đeo vòng cổ, vòng tay, vòng chân và xà tích bằng bạc. Chiếc khăn của phụ nữ Tày
là khăn vuông, khi lễ tết, họ buộc thêm chỉ đỏ, xanh quanh vành khăn rối thắt nút ra
phía sau. Phụ nữ người Nùng có khác đôi chút là họ thường bịt răng văng, ưa thích
đố trang sức bằng bạc như vòng chân, vòng tay, vòng cổ, khuyên tai, hoa tai v.v…
3.3 Ẩm thực
Tùy theo từng tộc người mà cách thức chế biến thức ăn và khẩu vị của cư dân Việt
Bắc có hương vị riêng.
Việc chế biến món ăn của cư dân Tày - Nùng, một mặt có những sáng tạo, một mặt
tiếp thu kỹ thuật chế biến của các tộc lân cận như Hoa, Việt v.v.... Họ chế biến ngô
một cách tỉnh tế. Ngô được giã, hay xay nhỏ để nấu với cơm, làm các loại bánh
thức ăn chính là gạo tẻ, những việc chế biến các món ăn từ gạo nếp lại càng được
chú trọng. Trong ngày tết, cốm là món đặc biệt hấp dẫn. Các loại xôi màu hấp dẫn
thường có mặt trong ngày lễ tết của cư dân Tày - Nùng Thịt lợn, thịt vịt quay
thường được làm cầu kỳ như thịt lợn quay Lạng Sơn, vịt quay Thất Khê.
3.6 Lễ hội
Lễ hội của cư dân Tày - Nùng rất đa dạng và phong phú. Ngày hội của toàn cộng
đồng là hội “Lồng tồng”, diễn ra gồm hai phần: Lễ và hội. Nghi lễ chính là rước
thánh đình và thần nông ra noi mở hội ở ngoài đồng.
PHẦN 3: BẮC BỘ
Về vị trí địa lý: Vùng châu thổ Bắc Bộ là tâm điểm của con đường giao lưu
quốc tế theo hai trục chính: Tây – Đông và Bắc – Nam. Vị trí này khiến cho
nơi đây trở thành vị trí để tiến tới các vùng khác trong nước và trong khu vực
Đông Nam Á. Nơi đây là mục tiêu xâm lược hàng đầu của tất cả bọn xâm
lược muốn bành trướng thế lực vào lãnh thổ Đông Nam Á. Nhưng cũng
chính vị trí địa lí này đã tạo điều kiện thuận lợi cho dân cư có thể giao lưu và
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Vùng văn hóa thuộc địa phận các tỉnh bao gồm: Hà Tây, Nam Định, Hà
Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, phần
đồng bằng của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh
Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. (Cũng cần lưu ý thêm về Nghệ An, Hà
Tĩnh ngay từ thời văn minh Văn Lang – u Lạc, thậm chí ngược lên xa hơn,
Nghệ An – Hà Tĩnh vẫn gắn bó với Bắc Bộ).
Lễ hội là một hình thức thể hiện tín ngưỡng của văn hóa Bắc Bộ góp phần
tạo dựng nên nền văn hóa tiến bộ, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Các tín
ngưỡng của cư dân trồng lúa nước như tục thờ Thành hoàng, thờ mẫu, thờ
ông tổ nghề đều tổ chức hàng năm ở hầu hết các làng quê Bắc Bộ. Các lễ hội
truyền thống của miền Bắc như hội chùa “Hương” (Hà Tây), hội đền “Hùng”
(Phú Thọ), hội “Gióng” ( Hà Tây), hội “Lim” (Bắc Ninh) là kết quả của
những tinh hoa văn hóa dân tộc được kế thừa chọn lọc qua các thời kỳ lịch
sử. Những lễ hội ấy đã mang lại một nét tiêu biểu trong văn hóa của vùng
châu thổ Bắc Bộ.
Bắc Bộ là vùng đất có bề dày lịch với những giá trị văn hóa, phong tục
truyền thống độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc. Văn hóa Bắc Bộ là sự giao
hòa giữa tự nhiên và con người, phát triển dựa trên sự kế thừa và phát huy
bản sắc dân tộc và kết hợp có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại.
PHẦN 4: TRUNG BỘ
1. Vị trí
Miền Trung hẹp theo chiều ngang Đông Tây, nếu quay mặt về Đông thì
trước mặt mỗi người dân Trung Bộ sẽ là Biển Đông, sau lưng là dãy Trường
Sơn.
Miền Trung được chia làm ba khu vực
Bắc Trung bộ: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên-Huế
Tây nguyên gồm có : Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm
Đồng
Duyên Hải Nam Trung bộ : Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận
Trung Bộ có phía Bắc giáp khu vực Đồng bằng sông Hồng và Trung du và
miền núi phía Bắc; phía Nam giáp các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa
– Vũng Tàu vùng Nam Bộ; phía Đông giáp Biển Đông; phía Tây giáp 2 nước
Lào và Campuchia. Dải đất Trung Bộ được bao bọc bởi những dãy núi chạy
dọc bờ phía Tây và sườn bờ biển phía Đông, vùng có chiều ngang theo
hướng Đông - Tây hẹp nhất Việt Nam (khoảng 50 km) và nằm trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình.
2. Đặc điểm khí hậu
Địa hình miền Trung Bộ chia cắt theo chiều dọc Bắc Nam, bởi các đèo là
những dãy núi đồi tách tử Trường Sơn đâm ngang ra biển. Nếu tính từ Tam
Điệp, đèo Ba Dội thuộc xứ Thanh thì cứ một đèo, một đèo lại một đèo, lặp đi
lặp lại qua đèo Hoàng Mai, đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông,… Đây
chỉ là các đèo con, chứ thật ra vẫn còn nhiều đèo khác, chẳng hạn đèo Lý
Hòa, núi Lễ Dễ (hay núi Ma Cô) ở giữa Quảng Bình, đèo Bình Đê ở khoảng
giữa Quảng Ngãi và Bình Định.
Về khí hậu, miền Trung lại có mùa mưa lệch pha với hai đầu Bắc Nam đất
nước, ở miền Trung, lại gặp gió Tây rất khó nóng, thổi từ Lào qua, tạo ra sự
khô ran cho miền Trung.
2.1 Khu vực bắc trung bộ:
Vào mùa hè thời tiết khô và nóng. Nhiệt độ trung bình hàng năm khá cao.
Đặc biệt tại một số tỉnh như Nghệ An, Hà Tĩnh, nhiệt độ có thể lên tới 40-42
độ C. Đặc biệt vào thời điểm này trong năm, gió mùa Tây Nam hoạt động
mạnh, gió Lào thổi vào dãy Trường Sơn tạo nên hiện tượng gió giật dẫn đến
thời tiết cực kỳ khô nóng, ẩm thấp. Về mùa đông, do ảnh hưởng của gió mùa
Đông Bắc, toàn bộ Bắc Trung Bộ nhiệt độ giảm, trời rét, kèm theo mưa do
hơi nước từ biển vào nên lạnh hơn so với khí hậu miền Bắc vào mùa đông,
thường là khô ráo nhưng không có mưa.
2.2 Khu vực duyên hải Nam Trung Bộ
Ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, mùa đông khá thoải mái do ảnh hưởng
của gió mùa Đông Bắc gần như không có do dãy Bạch Mã chắn ngang. Tuy
nhiên, mùa hè khá nóng do gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh và thổi từ
vịnh Thái Lan qua dãy Trường Sơn tạo nên hiệu ứng khô và ấm, khắp miền
Trung tình trạng khô hạn và mưa khá nghiêm trọng. Vào mùa khô, nhiệt độ
tăng cao, độ ẩm giảm mạnh khiến đất đai, cây cối, sông ngòi gần như cạn
kiệt. Đặc biệt, đã xảy ra nhiều vụ cháy rừng tự nhiên do nhiệt độ cao, cây cối
khô héo. Điều này làm tổn hại lớn đến bầu không khí xanh.
Mùa khô hạn hán, mùa mưa có lũ, lụt, bão, từ tháng 9 hàng năm, nhất là
tháng 10, 11 miền Trung liên tục xảy ra các trận bão dữ dội, lượng mưa dao
động từ 250 - 450mm khu vực. Lượng mưa liên tục kéo dài gây ra xói mòn
và lũ quét ở nhiều nơi
2.3 Khu Vực Tây Nguyên
Khí hậu ở đây được chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô.
Vào mùa mưa, những trận mưa như trút nước có thể gây ra lũ quét và đường
lầy lội gây khó khăn cho việc di chuyển. Vào tháng 7 và đầu tháng 8, mưa có
thể xuất hiện liên tục. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 24 ° C, với tháng Ba
và tháng Tư là hai tháng nóng nhất và khô nhất. Lượng mưa trung bình hàng
năm khoảng 1.900 mm đến 2.000 mm và chủ yếu tập trung vào mùa mưa.
Do chênh lệch độ cao, khí hậu ở cao nguyên nên khi lên độ cao khoảng
500m thì tương đối mát và mưa nhiều, ở vị trí cao hơn như cao nguyên có độ
cao 1000m thì khí hậu ở Đà Lạt mát mẻ quanh năm, đặc trưng của khí hậu
núi cao. Đắk Lắk và Đắk Nông có độ cao thấp hơn và nhiệt độ cao hơn so
với các tiểu vùng phía Bắc và phía Nam.
Vùng văn hoá Trung Bộ phải là một vùng đất chứa nhiều dấu tích văn hóa
Chămpa. Dọc miền Trung, nhiều di sản văn hoá hữu thể còn tồn tại trên mặt
đất. Đó là các tháp Chăm phơi sương gió cùng năm tháng
Trung Bộ là vùng đất được người Việt khai phá theo kiểu tiệm tiến. Sự cộng
cư với người Chăm, thái độ ứng xử với những vốn văn hoá hiện diện trên
mặt đất tàng ẩn dưới lòng đất theo bản chất hiền hoà của người Việt tạo cho
sự giao lưu văn hoá ở đây có những điểm khác biệt.
3.1 Tín ngưỡng tôn giáo
Trước hết, người Việt tiếp nhận những di sản văn hoá của người Chăm, Việt
hoá biến thành di tích văn hoá của mình. Tháp Chăm, đền Chăm khi người
Chăm ra đi thì người Việt thờ cúng, sử dụng. Chẳng hạn như tháp Bà ở Nha
Trang vốn là một ngôi tháp của người Chăm, được người Việt sử dụng, coi
như nơi thờ tự linh thiêng của tín ngưỡng thờ Mẫu- một tín ngưỡng của
người Việt.
3.2 Nhà ở
Đặc trưng trong bố cục mặt bằng của nhà ở truyền thống vùng Trung Bộ là
tổng thể ngôi nhà bao gồm nhiều nếp nhà được xây dựng với mái liền kề.
Trong đó, nhà trên là nơi tôn nghiêm đặt bàn thờ tổ tiên còn nhà dưới là
không gian sinh hoạt dành cho các thành viên trong gia đình. Tại vùng Trung
Bộ, nhà trên và nhà dưới thường được thiết kế vuông góc với nhau và cùng
hướng về sân phơi phía trước nhà. Đa số nhà ở vùng Trung Bộ được xây với
hình thức bốn mái có đầu hồi.
3.3 Văn hóa ẩm thực
Du lịch qua từng nơi nhưng chỉ khi thưởng thức ẩm thực của mỗi vùng, du
khách mới cảm nhận rõ sự khác biệt đầy tinh tế, góp một phần tạo nên bản
sắc riêng cho nền ẩm thực Việt. Những món ăn Việt Nam luôn được cho là
vô cùng đa dạng, đa dạng từ Bắc chí Nam, mỗi một vùng miền đều có những
đặc sản riêng, đa dạng, hài hòa âm dương.
Có thể thấy rằng ẩm thực chính là một phần cần thiết giúp mang lại sự khác
biệt và ấn tượng cho văn hóa miền Trung nói riêng và văn hóa nước ta nói
chung. Ẩm thực miền Trung tương đối cầu kỳ, chú trọng từ hình thức, cách
giải thích cho đến tên gọi món ăn, nổi bật nhất là Huế – nơi được xem là cái
nôi của ẩm thực miền Trung.
Văn hóa ẩm thực ở Huế được chia ra làm hai loại khác nhau là ẩm thực Cung
đình và ẩm thực dân Dân gian. Dù là cao lương mỹ vị hay dân dã mộc mạc
thì đều làm say lòng thực khách ngay từ lần thưởng thức trước tiên. Một vài
món ăn đặc sản của miền Trung được nhiều khách du lịch yêu thức như mì
quảng, cao lầu, bánh bèo, bún bò Huế, bánh bột lọc, chả ram
Khí hậu của Tây Nguyên là khí hậu nhiệt đới cận xích đạo (mùa khô kéo dài,
dẫn tới nguy cơ thiếu nước và cháy rừng nghiêm trọng)
Nổi tiếng với nhiều hệ thống sông ngòi,nơi bắt nguồn của nhiều con sông
như sông Ba,sông Đồng Nai,sông Sê San,...có nhiều thác ghềnh,sông có trữ
lượng thủy năng lớn (chiếm 21% trữ năng thủy điện cả nước)
PHẦN 6: NAM BỘ
1. Vị trí địa lí
Phía tây giáp Vịnh Thái Lan, phía đông và Đông Nam giáp biển Đông, phía
bắc và Tây Bắc giáp Campuchia và phía đông bắc giáp với Duyên Hải Nam
Trung Bộ và Tây Nguyên (miền Trung, Trung Bộ).
Thứ 1: Do người dân ở đây đa số không phải dân bản địa nền văn hóa
của họ là văn hóa vùng đất mới, đó là sự kết hợp giữa truyền thống
văn hóa trong tiềm thức, trong dòng máu, và điều kiện lịch sử tự nhiên
của vùng đất mới.
Thứ 2: Quá trình giao lưu văn hóa diễn ra với tốc độ mau lẹ trong ẩm
thực, ngôn ngữ... Mặt khác, Nam Bộ có nhiều vùng văn hóa tín
ngưỡng cùng đan xen tồn tại tạo nên sự đa dạng và phức tạp.
Về nội dung, làng ấp của người Việt ở Nam Bộ là một tâp hợp cư dân
đên từ nhiêu vùng, nhiêu họ tộc khác nhau gắn bó với nhau không
phải do quan hệ dòng họ mà chủ yếu là do quan hệ láng giềng.
Về hình thức, để tiện việc đi lại, làng ấp ở Nam Bộ thường hình thành
dọc theo kinh rạch hoặc trục lộ, không có luỹ tre lang đong kin. Do đó,
tính cố kết cộng đồng của làng ấp Nam Bộ lỏng lẻo hơn làng quê ở
đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ.