You are on page 1of 459

LỊCH SỬ

ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM


CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN
TỔNG CỤC PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI

BAN BIÊN SOẠN


TS. Trần Quang Hoài - Tổng cục trưởng
ThS. Vũ Xuân Thành - Phó Tổng cục trưởng
ThS. Phạm Đức Luận - Phó Tổng cục trưởng
PGS.TS. Nguyễn Văn Am
THÀNH VIÊN
ThS. Trần Công Tuyên - Vụ trưởng Vụ Quản lý đê điều
ThS. Nguyễn Thanh Tùng - Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý đê điều
TS. Nguyễn Thị Thu Thủy
TS. Trần Xuân Trí
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TỔNG CỤC PHÒNG CHỐNG THIÊN TAI

LỊCH SỬ
ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI


LỜI GIỚI THIỆU

T rong tiến trình phát triển lịch sử, Việt Nam nằm ở khu vực
được coi là một trong những trung tâm khai sinh nông
nghiệp sớm với nền văn minh lúa nước. Từ xa xưa, cuộc sống con
người phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, săn bắt, hái lượm rồi
dần chuyển sang chủ động trồng trọt, chăn nuôi, phát triển kinh tế,
xã hội. Tại thời điểm đó, hệ thống đê điều, đặc biệt ở vùng Đồng bằng
sông Hồng, bắt đầu dần hình thành từ những kinh nghiệm thực tiễn
đấu tranh sinh tồn chống chọi với thiên tai nhằm chống lũ lụt, bảo vệ
cuộc sống, sản xuất nông nghiệp và quá trình phát triển của hệ thống
đê điều cũng gắn liền với lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc.
Trải qua các triều đại phong kiến, các tuyến đê tiếp tục được bồi
trúc, đắp mới, cũng đã có lúc triều đình đưa ra luận bàn giữ hay bỏ,
tuy nhiên, phương án cuối cùng thì đê vẫn là giải pháp được chọn để
chống lũ lụt.
Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, dù chính quyền
non trẻ còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh
vẫn rất quan tâm, coi trọng đê điều, ưu tiên cho tu bổ, đắp đê, hộ đê.
Trong chiến tranh, công trình đê điều được tu bổ đồng thời với việc
bảo vệ chống phá hoại của kẻ địch. Sau ngày thống nhất đất nước, hệ
thống đê điều tiếp tục được đầu tư, tu bổ.
Đến nay, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, tình hình mưa lũ ngày
càng cực đoan, đê điều đã trở thành hệ thống công trình vĩ đại mang
trong mình sứ mệnh chống lũ, bảo vệ nền kinh tế có quy mô ngày
càng lớn với nhiều trung tâm chính trị, kinh tế quan trọng, các khu
vực dân cư đông đúc, đặc biệt là tại các thành phố lớn như Thủ đô
Hà Nội; Thành phố Hồ Chí Minh...
Nhằm giúp cho những cán bộ làm việc trong lĩnh vực đê điều,
phòng chống thiên tai cũng như bạn đọc hiểu rõ hơn về hệ thống đê
điều ở Việt Nam, Tổng cục Phòng, chống thiên tai biên soạn cuốn sách
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Lịch sử đê điều Việt Nam. Cuốn sách cung cấp cho độc giả những thông
tin về sự hình thành và phát triển của hệ thống đê ở Việt Nam từ thời
dựng nước đến nay.
Với việc khảo cứu các nguồn tài liệu chính sử, tài liệu lưu trữ và các
tài liệu tham khảo khác một cách công phu, nghiêm túc cũng như lấy
ý kiến một số lãnh đạo trực tiếp làm công tác đê điều qua các thời kỳ,
các chuyên gia, cuốn sách đã dựng lên bức tranh tổng thể về lịch sử đê
điều Việt Nam từ thời dựng nước đến giữa thế kỷ XIX, từ giữa thế kỷ
XIX đến năm 1945, từ năm 1945 đến năm nay.
Ban Biên soạn trân trọng cảm ơn ông Nguyễn Cảnh Dinh, nguyên
Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và các đồng chí nguyên lãnh đạo của cơ quan
quản lý đê điều, các chuyên gia: ông Nguyễn Ty Niên - nguyên Cục
trưởng Cục Phòng chống lụt bão và Quản lý đê điều (PCLB&QLĐĐ),
ông Nguyễn Văn Lễ - nguyên Phó Cục trưởng Cục PCLB&QLĐĐ,
ông Bùi Nguyên Hồng - nguyên Phó Cục trưởng Cục PCLB&QLĐĐ,
ông Vũ Văn Tú - nguyên Vụ trưởng Vụ Quản lý đê điều, ông Nguyễn
Hữu Phúc - nguyên Giám đốc Trung tâm Phòng tránh và Giảm nhẹ
thiên tai, bà Cao Thị Lụa - nguyên Giám đốc Trung tâm Tư vấn kỹ
thuật về đê điều, GS.TSKH. Nguyễn Ân Niên - nguyên Viện trưởng
Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, TS. Tô Văn Trường - nguyên Viện
trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam và nhiều đồng chí khác
đã cung cấp thông tin, tham gia ý kiến để hoàn thành cuốn sách này.
Cảm ơn nhóm viết sử - PGS.TS. Nguyễn Văn Am, TS. Nguyễn Thị
Thu Thủy và TS. Trần Xuân Trí - đã phối hợp biên soạn.
Mặc dù Ban biên soạn cuốn sách đã cố gắng rất nhiều, song
trong quá trình tổng hợp, biên soạn khó tránh khỏi những thiếu sót.
Rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc để cuốn sách hoàn thiện
hơn cho lần tái bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc./.
TỔNG CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC PHÒNG CHỐNG THIÊN TAI

TS. Trần Quang Hoài

6
MỞ ĐẦU

V iệt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, lượng
mưa trung bình nhiều năm trên toàn lãnh thổ vào khoảng
1.940 mm/năm nhưng do ảnh hưởng của địa hình đồi núi, lượng
mưa phân bố không đều trên cả nước và biến đổi mạnh theo thời
gian, hình thành các miền và vùng khí hậu khác nhau rõ rệt. Khí
hậu có thể được chia ra làm hai đới khí hậu lớn: Miền Bắc (từ đèo
Hải Vân trở ra) là khí hậu nhiệt đới gió mùa, với 4 mùa rõ rệt (xuân,
hạ, thu, đông), chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc (từ lục địa
Châu Á tới) và gió mùa Đông Nam, có độ ẩm cao; Miền Nam (từ
đèo Hải Vân trở vào) do ít chịu ảnh hưởng của gió mùa nên khí hậu
nhiệt đới khá điều hòa, nóng quanh năm và chia thành hai mùa
(mùa khô và mùa mưa). Nhiệt độ trung bình dao động từ 210C đến
270C và tăng dần từ Bắc vào Nam. Lượng bức xạ mặt trời rất lớn với
số giờ nắng từ 1.400 - 3.000 giờ/năm. Lượng mưa trung bình hằng
năm từ 1.500 đến 2.000mm. Độ ẩm không khí trên dưới 80%.
Địa hình các khu vực trên toàn quốc rất đa dạng, gồm: đồi núi,
đồng bằng, bờ biển và thềm lục địa; cao độ thấp dần theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam. Trong đó, đồi núi chiếm tới 3/4 diện tích lãnh
thổ dài 1.400km chạy từ Tây Bắc tới Đông Nam Bộ tạo thành một
cánh cung lớn hướng ra Biển Đông; đường bờ biển dài 3.260km.
Ở hai đầu đất nước có hai đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu là Đồng
bằng Bắc Bộ (lưu vực sông Hồng, rộng 16.700km2) và đồng bằng
Nam Bộ (lưu vực sông Mê Kông, rộng 40.000km2). Nằm giữa hai
châu thổ lớn đó là một chuỗi đồng bằng nhỏ hẹp, phân bố dọc theo
duyên hải miền Trung, từ đồng bằng thuộc lưu vực sông Mã (Thanh
Hóa) đến Phan Thiết (Bình Thuận) với tổng diện tích 15.000km2.
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Mạng lưới sông ngòi cũng dày đặc (2.360 con sông có chiều dài
trên 10km/sông), chảy theo hai hướng chính là Tây Bắc - Đông Nam và
vòng cung. Với đặc điểm địa hình chủ yếu là đồi núi xen lẫn các bồn
lục địa, thung lũng nên các sông hầu hết là ngắn và lưu vực nhỏ. Còn
các sông lớn như sông Mê Kông (Cửu Long), sông Hồng, sông Đồng
Nai đa phần là bắt nguồn từ nước ngoài. Hai sông lớn nhất là sông
Hồng và sông Cửu Long tạo nên hai vùng đồng bằng rộng lớn và phì
nhiêu. Hệ thống các sông suối hằng năm được bổ sung tới 310 tỷ m3
nước. Chế độ nước của sông ngòi chia thành mùa lũ và mùa cạn, lượng
nước trong mùa lũ chiếm tới 70 - 80% cả năm và thường gây ra lũ lụt.
Với đặc điểm tự nhiên, khí hậu như vậy, Việt Nam thường
xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, đặc biệt là lũ, lụt, bão. Phòng
chống lũ lụt là việc được nhân dân ta coi trọng nhiều đời nay. Câu
chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh là một trong những truyền thuyết thể
hiện sự dũng cảm, thông minh và ước vọng chế ngự lũ lụt của nhân
dân ta. Theo tài liệu lịch sử, từ thời Hán vào thế kỷ thứ V đã bắt đầu
hình thành một số đoạn đê, đến năm 866 đã hình thành hệ thống
đê xung quanh thành Đại La. Trải qua các triều đại phong kiến, hệ
thống đê điều từng bước được bổ sung phát triển cả về quy mô và
phạm vi bảo vệ. Song song với việc hình thành các tuyến đê, cũng
hình thành tổ chức và quy chế quản lý đê, năm 1809 ban hành điều
lệ về đê điều, năm 1857 bắt đầu có cơ quan phụ trách về đê. Từ đó
đến nay hệ thống đê điều chống lũ đã phát triển cả về quy mô,
khối lượng, mở rộng ra trên hầu hết các vùng miền cả nước. Tùy
theo từng đặc điểm về tự nhiên, khí hậu của từng vùng mà công tác
phòng chống lũ có những đặc điểm tương ứng:
Đồng bằng Bắc Bộ (lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình)
Đồng bằng Bắc Bộ được hình thành bởi 2 hệ thống sông: hệ
thống sông Hồng (gồm 3 sông lớn là Đà, Thao, Lô Gâm) và hệ
thống sông Thái Bình (gồm 3 sông lớn là Cầu, Thương, Lục Nam)
có diện tích lưu vực 169.020km2, trong đó phần lưu vực thuộc lãnh
thổ Việt Nam là 86.720km2 chiếm 51% tổng diện tích còn lại thuộc
địa phận Lào và Trung Quốc. Địa thế chung của hệ thống sông
8
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hồng rất hiểm trở, có đến 47% có độ cao trên 1.000m, phần lớn
nằm ở phía Tây của lưu vực thuộc hai nhánh lớn sông Đà và sông
Thao và một phần sông Lô. Phần đất bằng chỉ phân bố nhỏ lẻ
dọc thung lũng của các sông lớn, song phần chủ yếu tập trung
ở tam giác châu sông Hồng, sông Thái Bình. Do phần lớn diện
tích là miền núi (chiếm 87%) địa hình dốc và tập trung nhiều tâm
mưa lớn như Bắc Quang (5.000mm), Hoàng Liên Sơn (3.200mm),
Kim Bôi, Mường Tè (3.000mm) nên khu vực miền núi tập trung lũ
nhanh và tạo ra lũ lớn đổ về vùng đồng bằng trong mùa mưa bão
(lưu lượng lũ lịch sử năm 1971 tại Sơn Tây lên đến 37.800m3/s).
Về đến đồng bằng, hệ thống sông Hồng cùng với sông Thái
Bình nối với nhau tạo ra gần 30 phụ lưu và đổ ra biển qua 9 cửa
sông gồm: Nam Triệu, Cấm, Lạch Tray, Văn Úc, Thái Bình, Trà Lý,
Ba Lạt, Ninh Cơ, Đáy. Hệ thống sông ngòi chằng chịt với lượng phù
sa lớn đã bồi đắp tạo thành Đồng bằng sông Hồng (lớn thứ 2 cả
nước) với cao độ bình quân chủ yếu từ 2 - 9m (cao độ < 6m chiếm
đến 90%). Mùa lũ thường từ tháng 7 đến tháng 10 với lưu lượng lũ
lớn từ miền núi đổ về, mực nước trên các sông dâng rất cao, cao hơn
hầu hết diện tích toàn vùng; thời gian lũ kéo dài do khả năng thoát
lũ chậm (do các sông có hình nan quạt), chảy tập trung vào một số
dòng chính dẫn đến nước sông bị dồn ứ làm nước lũ lên nhanh,
xuống chậm. Nhiều trận lũ gây ra những thảm họa lớn thiệt hại cả
về người và tài sản đã xảy ra (điển hình những trận lũ xảy ra các
năm 1915, 1945, 1971, 1969, 1996).
Đặc điểm lũ về Đồng bằng sông Hồng, sông Thái Bình mặc dù
không dữ dội như lũ ở khu vực miền Trung nhưng cũng không hẳn
hiền hòa như lũ ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Vùng có địa
hình khá bằng phẳng và có diện tích khá rộng, do đó từ lâu đã dần
hình thành hệ thống đê chống lũ triệt để như ngày nay, bảo vệ các
vùng dân cư, sản xuất trù phú, có mật độ dân số lớn nhất cả nước.
Những năm gần đây (kể từ năm 1971 khi hồ Thác Bà được xây
dựng) chế độ lũ trên vùng Đồng bằng sông Hồng đã thay đổi bởi
điều tiết các hồ chứa lớn phía thượng lưu như hồ Thác Bà, Hòa
9
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bình, Tuyên Quang, Sơn La có tổng dung tích phòng lũ 8,45 tỷ m3.
Với dung tích phòng lũ khá lớn, khả năng phòng chống lũ cho khu
vực đồng bằng được nâng lên đáng kể (từ mức bảo đảm 125 năm
lên đến 300 năm).

Đồng bằng duyên hải miền Trung


Nằm giữa hai đồng bằng châu thổ ở hai đầu đất nước là vùng
đồng bằng duyên hải miền Trung kéo dài từ đồng bằng thuộc lưu
vực sông Mã (Thanh Hóa) đến Phan Thiết (Bình Thuận) với tổng
diện tích 15.000km2. Khu vực miền Trung có bề ngang hẹp, địa hình
chủ yếu là đồi núi lại bị chia cắt phức tạp bởi các con sông và dãy
núi đâm ra biển, như dãy Hoàng Mai, Hồng Lĩnh, Bạch Mã - đèo
Hải Vân, Nam Bình Định - đèo Cả,... Các con sông như Mã, Cả, Nhật
Lệ, Gianh, Thạch Hãn, Hương, Hàn, Vu Gia - Thu Bồn, Trà Khúc,
Ba, Cái,... có hệ thống sông ngòi ngắn và dốc, bờ biển sâu với nhiều
đoạn khúc khuỷu, thềm lục địa hẹp. Lượng mưa bình quân nhiều
năm lớn, có những tâm mưa có lượng mưa lên đến 5.000mm như A
Lưới, Bạch Mã. Lượng mưa mùa lũ chiếm 68 - 75% lượng mưa trong
năm. Các sông có độ dốc lớn, nước chảy xiết, thường gây lũ lụt bất
ngờ gây khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân.
Ngoài 2 vùng đồng bằng thuộc lưu vực sông Mã, Cả, các đồng
bằng còn lại của vùng có diện tích không lớn do các dãy núi phía
Tây trải dọc theo hướng Nam tiến dần ra sát biển và có hướng thu
hẹp dần diện tích lại từ Bắc vào Nam. Mùa mưa lũ ở Bắc Trung Bộ
thường xảy ra từ tháng 7 đến tháng 10, ở vùng Duyên hải Nam
Trung Bộ thường xảy ra từ tháng 10 đến tháng 12. Những trận lũ lụt
lớn đã xảy ra ở miền Trung vào các năm: 1952, 1964, 1980, 1983, 1990,
1996, 1998, 1999, 2002, 2003, 2010 và 2020.
Đối với đồng bằng các tỉnh từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh thuộc
lưu vực các sông Mã, Cả có diện tích tương đối lớn, phía thượng
lưu có độ đốc lớn, lũ dồn về nhanh nhưng đến vùng hạ lưu tại các
đồng bằng do dòng sông và lưu vực sông mở rộng, độ dốc nhỏ nên
kéo dài thời gian ngập lũ. Hệ thống đê điều chống lũ chính vụ hằng

10
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

năm bảo vệ các khu vực dân cư và sản xuất đã dần hình thành, có
thể chống chịu được các trận lũ lịch sử.
Từ Quảng Bình trở vào, việc đắp đê chống lụt rất khó khăn, tốn
kém mà hiệu quả không cao, vì châu thổ của sông rất hẹp, sông có
độ dốc lớn, chênh lệch giữa lũ và mức nước thường lớn, thời gian
duy trì lũ không kéo dài. Vì vậy, vùng đồng bằng này vẫn phải chấp
nhận ngập lụt hằng năm khi lũ chính vụ về. Hệ thống đê nhỏ chỉ
chống lũ sớm đầu mùa bảo vệ sản xuất và để nước tràn qua trong
mùa lũ chính vụ.
Một số lưu vực sông đã có những hồ chứa có thể điều tiết lũ cho
hạ du như hệ thống hồ trên sông Mã, sông Cả, sông Hương, sông
Vu Gia - Thu Bồn. Nhìn chung các hồ chứa nước trên các lưu vực
sông đều là các hồ chứa có dung tích không lớn, khả năng phòng
chống lũ cho hạ du hạn chế.

Đồng bằng Nam Bộ (lưu vực sông Mê Kông)


Lưu vực sông Mê Kông có diện tích lưu vực 795.000km2, trong
đó phần diện tích ở Việt Nam khoảng 71.000km2, chiếm hơn 8%
diện tích toàn lưu vực. Sông Cửu Long (hay còn gọi là sông Mê
Kông) là một trong những con sông dài nhất trên thế giới. Sông bắt
nguồn từ các dãy núi có độ cao trên 5.000m của Trung Quốc, sau đó
chảy qua 4 nước là Myanmar, Thái Lan, Lào và Campuchia trước khi
chảy vào Việt Nam.
Sông Mê Kông khi chảy xuống hạ lưu Phnôm Pênh vào Việt
Nam được chia thành hai nhánh chính là sông Mê Kông (sông Tiền)
và sông Bát Sắc (sông Hậu) từ đó chia ra nhiều nhánh nhỏ đổ ra
Biển Đông ở 9 cửa sông: Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên,
Cung Hậu, Định An, Ba Thác và Trần Đề. Phù sa sông Mê Kông đã
bồi đắp tạo nên đồng bằng sông Cửu Long (đồng bằng lớn nhất cả
nước, diện tích > 40.000km2) có địa hình bằng phẳng, hầu hết có
cao độ trung bình từ 0,7 - 1,2m. Lưu lượng lớn nhất về đồng bằng
sông Cửu Long đạt khoảng 40.000m3/s, gây ngập khoảng 50% diện
tích vùng và thường xuất hiện vào các tháng 8 đến tháng 10. Thông
11
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

thường, khoảng 4 - 6 năm tại đồng bằng sông Cửu Long có một
trận lũ lụt lớn, các năm 1961, 1966, 1978, 1984, 1991, 1994, 1996, 2000,
2001, 2002 và 2011 là những năm lũ lụt lớn. Trong đó, đã xuất hiện
3 năm lũ lớn liên tiếp là 2000, 2001 và 2002 (năm 2000 được xem là
lũ lịch sử).
Trước đây, Mê Kông là một trong những con sông trên thế giới
vẫn được chảy tự do (không có đập trên dòng chính). Từ cuối thế kỷ
XX đến nay, một số đập được xây dựng ở trên dòng chính thuộc địa
phận Trung Quốc và các phụ lưu đang được đẩy mạnh xây dựng đã
tạo ra những biến động lớn trong quy luật của dòng chảy Mê Kông.
Lũ từ thượng nguồn đổ về làm vùng đồng bằng sông Cửu Long
ngập nước mang theo nhiều phù sa, sản vật mùa lũ và nhiều giá
trị sinh thái ngập nước đặc biệt. Do về đến Việt Nam là vùng đồng
bằng có độ dốc nhỏ (chỉ khoảng 0,025%) nên lũ trên sông Mê Kông
khá hiền hòa, biên độ và cường suất lũ nhỏ và có thể coi là ưu đãi
của thiên nhiên cho vùng.
Những đặc điểm tự nhiên này khiến việc phòng chống lũ của
khu vực có tính đặc trưng là “sống chung với lũ”. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, trước thực tế kinh tế - xã hội ngày càng phát
triển, yêu cầu bảo vệ cho các khu vực đô thị, công nghiệp và các khu
nông nghiệp có giá trị kinh tế cao gia tăng, các hệ thống đê bao, bờ
bao đã được xây dựng, hình thành với quy mô ngày càng tăng, một
phần đắp mới, một phần từ chính hệ thống kênh đã tồn tại từ trước
đó rất lâu.

12
PHẦN THỨ NHẤT
CÔNG CUỘC ĐẮP ĐÊ TRỊ THỦY
TỪ THỜI DỰNG NƯỚC
ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
Chương 1 :

SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐÊ Ở VIỆT NAM ...

TỪ THẾ KỶ VII TCN ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XVIII

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐÊ, PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT TỪ THỜI KỲ DỰNG NƯỚC
ĐẾN THẾ KỶ X

1. Thời kỳ dựng nước


Việt Nam nằm ở một trong những khu vực được coi là trung tâm
khai sinh nông nghiệp sớm với nền văn minh lúa nước. Dân tộc Việt
Nam đã được hình thành và bước đầu phát triển trên vùng châu thổ
sông Hồng và sông Mã phía Bắc của Việt Nam ngày nay. Điều kiện
tự nhiên có những thuận lợi cho sinh sống, sản xuất, song cũng có
nhiều khó khăn, hằng năm thường xảy ra giông bão, mưa nhiều, lũ
lụt, hạn hán kéo dài.
Cư dân người Việt cổ từ các vùng đồi núi xuống vùng đồng
bằng, từ đời này sang đời khác, bằng sức lao động cần cù, sáng tạo đã
khai hoá đất để trồng trọt, đắp đê chống lũ lụt để bảo vệ cuộc sống,
phát triển sản xuất. Đến thời Đông Sơn, trên nền tảng phát triển kinh
tế - xã hội, trước những yêu cầu của quản lý xã hội, chống xâm lăng
và trị thủy, Nhà nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên - đã ra đời vào
khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Đi cùng với Nhà nước
đầu tiên của lịch sử Việt Nam là một nền kinh tế phong phú, một nền
văn hóa cao được biết đến với tên gọi là văn hóa Đông Sơn (một giai
đoạn của nền văn minh sông Hồng).
Thời kỳ Văn Lang, ngoài rìu đồng được sử dụng để khai phá
đất đai, lưỡi dao gặt (nhíp) đồng dùng để thu hoạch, đã tìm thấy
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

hàng loạt công cụ làm đất như lưỡi cày, cuốc, xẻng, thuổng (mai)
bằng đồng và một số lưỡi cuốc, thuổng (mai), rìu, liềm bằng sắt. Với
những công cụ kim khí, cư dân Đông Sơn khai khẩn, mở rộng địa
bàn cư trú, đẩy mạnh công cuộc chinh phục vùng Đồng bằng Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ. Các di tích văn hoá Đông Sơn phân bố trên địa
bàn rất rộng, bao gồm cả miền núi, trung du và đồng bằng ven biển.
Từ lưu vực sông Hồng, lan rộng dần lên đến tận miền núi Lào Cai
và xuống hầu khắp vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Từ lưu
vực sông Mã, sông Lam, địa bàn cư trú của người Việt cũng toả rộng
trên cả vùng trung du và đồng bằng cho đến vùng ven biển.
Kết quả khảo cổ học chứng minh rằng, trên vùng đất Văn Lang
- Âu Lạc có một nền nông nghiệp tiền sử khá vững chắc. Các di chỉ
Xóm Trại (Hòa Bình), Hạ Long (Quảng Ninh), Quỳnh Văn (Nghệ
An), Đa Bút (Thanh Hóa), Tràng Kênh (Hải Phòng), Phùng Nguyên,
Đồng Đậu (Phú Thọ),… đã tìm thấy nhiều hiện vật sản phẩm nông
nghiệp, đặc biệt là lúa nước, gồm: hạt thóc, vỏ trấu, phấn hoa của
loại lúa nước Oryza (Tràng Kênh), di chỉ bờ ruộng bao quanh bờ
ruộng mặt phẳng (Phùng Nguyên),…
Một số thư tịch cổ Trung Hoa cũng có ghi chép về đê sông của
người Việt, như sách Giao Châu ngoại vực kí cho biết người Việt đã
biết canh tác trồng cấy lúa nước, đắp đê sông Hồng, sông Mã phòng,
chống lũ lụt mùa nước lớn và đề phòng chống hạn, phát triển sản
xuất nông nghiệp… Những con đê phòng chống lũ lụt được xây
dựng trước khi các triều đại phương Bắc xâm lược và đô hộ Việt
Nam. Sách Giao Châu kí từ những năm đầu công nguyên có ghi về
con đê chống lũ lụt của người Việt ở trên bờ sông Đà: “Huyện (kinh
đô) Phong Khê (nay là vùng Cổ Loa, Đông Anh - TG chú) đã có đê
phòng nước sông Long Môn (sông Cà Lồ)”1. Hán thư quận huyện
chí chép: “Phía Tây Bắc huyện Long Biên, quận Giao Chỉ đã có đê
phòng nước sông”2. Ở Cổ Loa đã phát hiện được dấu tích của một

Giao Châu ký, Dẫn theo: Lịch sử Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1971, tr.232.
1

Nguyễn Văn Siêu, Dẫn theo: Điều trần về đê điều Việt Nam năm Tự Đức thứ 5 (1852).
2

15
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

đoạn đê cổ, có trước thời Bắc thuộc. Vào cuối thời Hùng Vương, cư
dân vùng đồng bằng sông Hồng có thể đã biết đắp đê, nhưng chắc
chỉ mới đắp được những đoạn đê quai để khai phá đất đai và chống
ngập lụt cho từng vùng.
Sau khi nước Âu Lạc thất bại trước Nam Việt của Triệu Đà, nhiều
người Hán ở phương Bắc di cư đến Âu Lạc. Các thư tịch của Trung
Hoa chép, khi họ đặt chân đến vùng đất này, họ nhìn thấy những
đoạn đê khoanh vùng, những công trình đắp bằng đất đồ sộ như
thành Cổ Loa, những sông đào quanh Cổ Loa để nối giao thông thủy
với kênh rạch bên ngoài. Sách Di vật chí của Dương Phủ thời Đông
Hán và lời chú của Duy Ích Kí chép: “lúa Giao Chỉ chín hai mùa mỗi
năm”, “ruộng Lạc theo nước triều lên xuống mà làm”.

2. Thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc


Năm 179 TCN, An Dương Vương thất bại trước cuộc tấn công
của Triệu Đà. Nước Âu Lạc bị sáp nhập vào Nam Việt, trở thành hai
quận là Giao Chỉ và Cửu Chân của nước Nam Việt.
Các sử liệu của người Trung Hoa cho biết, người Lạc Việt đã
phát triển cả về diện tích canh tác lẫn giống cây trồng, nhất là lúa
nước, đã sử dụng công cụ bằng sắt, dùng trâu bò làm sức kéo,…
Từ đầu công nguyên trở về sau, Âu Lạc buớc vào thời đại đồ
sắt, những công cụ và vũ khí chủ yếu đều được chế tạo bằng sắt.
Công việc đắp đê, khơi đào sông ngòi được thuận lợi hơn trước.
Sách Nam Việt chí cho hay khi đi qua miền Tạc Khẩu (Ninh
Bình), Mã Viện đã cho chất đá làm đê để ngăn sóng biển. Các
sách Hậu Hán thư, Thuỷ kinh chú còn chép việc Mã Viện cho
“sửa sang kênh ngòi” hay cho “thông đường tưới nước để làm
lợi cho dân” 1.
Sử Trung Quốc một mực quy tất cả những thành tựu phát triển
1
Lịch Đạo Nguyên: Thuỷ kinh chú, Q.37, Sđd, tr.695. Sách chép rõ là theo sách
Thái Khang địa ký đời Tấn thì huyện Bình Đạo là do Mã Viện đặt ra. Mã Viện
cho thông đường tưới nước để làm lợi cho dân.

16
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

khoa học kĩ thuật nông nghiệp của người Việt thời kỳ này cho quan
lại người Hán thống trị. Chẳng hạn như Nhâm Diên có công “dạy
dân đúc đồ điền khí”(?), “dạy dân cày bừa”(?), trong khi người Việt
đã biết từ trước khi người Hán đến rất lâu. Mã Viện khi còn đang
dồn toàn bộ sức lực chống chọi với cuộc kháng chiến của Trưng
Vương mà vẫn còn để tâm giúp (?) những người dân (những người
mà Mã Viện đang tìm mọi cách tiêu diệt) đã biết đắp đê, mở mang
hệ thống tưới tiêu, phát triển sản xuất. Điều này chỉ cho phép hiểu
ngược lại rằng chính Nhâm Diên, Mã Viện và cả những người chép
sử nhà Hán có liên quan đến khu vực Giao Chỉ, Cửu Chân sau này
nữa cũng hết sức ngạc nhiên trước những thành tựu khoa học kĩ
thuật nông nghiệp và trị thủy của người Việt nhiều mặt không thua
kém người Trung Hoa khi đó.
Trong quá trình đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau
khi Hai Bà tử trận, tại Cửu Chân, từ Ninh Bình trở vào còn một lực
lượng quan trọng của Hai Bà do Đô Lương chỉ huy chiếm giữ. Mã
Viện được lệnh phải đem 2.000 lâu thuyền1 tiến vào Cửu Chân. Tuy
nhiên, với một lực lượng lớn như vậy thì Mã Viện không thể từ cửa
Hát Giang tiến vào sông Đáy. Mã Viện chỉ có thể tiến theo sông
Hồng qua Phủ Lý mà vào sông Đáy. Mã Viện định theo cửa Thần
Phù, vòng ra biển để vào cửa sông Mã tiến lên đánh Đô Dương. Tuy
nhiên, lúc này, cửa Thần Phù sóng cao ngất trời. Giao Châu kí và Nam
Việt chí chép: Mã Viện muốn tránh đường biển nên đào qua dãy núi
đá vôi ngăn cách Ninh Bình - Thanh Hóa để vào đánh nghĩa quân
ở Cửu Chân.
Thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, tuy có nhiều cản trở khó
khăn nhưng việc đắp đê phòng chống lụt vẫn tiếp tục thực hiện. Có rất
ít tài liệu ghi chép về xây dựng đê ở Việt Nam thời kỳ này. Tuy nhiên,
một số thư tịch cổ của Trung Hoa cũng có ghi chép về tình hình thiên
tai, việc đắp đê chống lụt ở Việt Nam đương thời. Sách Hậu Hán thư,
1
Lâu thuyền là loại thuyền chiến xưa, tầng đáy bố trí hàng chục đến hàng trăm
tay chèo, tầng trên chở quan binh, lính chiến.

17
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Đông Quan Hán chí ghi chép lại rằng, Mã Viện chứng kiến cảnh lũ lụt:
“Lúc ta (tức Mã Viện) đang ở miền Lãng Bạc và Tây Lý, quân giặc (tức
nghĩa quân Hai Bà Trưng) chưa diệt được, dưới thì nước lụt, trên thì
mây mù, ngẩng đầu lên thấy chim diều hâu, đang bay…”1.
Sách Nam Việt chí ghi chép lại việc Mã Viện cho “chất đá thành
đê để ngăn sóng biển” ở vùng Tạc Khẩu (Tam Điệp, Ninh Bình)2.
Sách Hậu Hán thư ghi lại việc Mã Viện cho “sửa sang kênh ngòi”3.
Thời thuộc Đường, nhà Đường cử Cao Biền sang làm Tiết độ
sứ. Sử chép, Cao Biền bắt nhân dân Việt đắp lại thành Tống Bình
(Đại La - Hà Nội), chu vi dài 1.982 trượng 5 thước (6.608m)4, cao 1
trượng 6 thước (5,3m), chân rộng 2 trượng 5 thước (9,6m), tường cao
5 thước 5 tấc (1,5m). Sử cũng chép rằng: “Cao Biền cho đào sông,
khơi ngòi, mở đường lộ, lập quán trọ cho khách đi đường trên khắp
An Nam. Nhiều đoạn đê, nhất là đoạn đê trên vùng gần Hà Nội
hiện nay được đắp để chống lụt lội”.
Sách Đường thư ghi lại sự kiện: Cao Biền bắt nhân dân Việt đắp
đê quanh thành Đại La vào thế kỷ IX, đê dài 2.125 trượng (7.083m),
cao 1 trượng 5 thước (5m), chân đê rộng 2 trượng (6,7m), đến nay
vẫn còn vết tích.
Do hậu quả của hàng ngàn năm Bắc thuộc, rất khó để tìm được
1
Hậu Hán thư 954-8a, Đông Quan Hán chí 912-4a.
2
Sử kí q.8, Dẫn theo: Lịch sử Việt Nam, Tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1971, tr.232.
3
Dẫn theo: Lịch sử Việt Nam, Tập 1, Sđd, 1971, tr.232.
4
Giá trị chuyển đổi của các đơn vị đo lường cổ (trượng, thước) được lấy theo
giá trị trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập IV (từ T-Z), Nxb Từ điển Bách
khoa, Hà Nội, 2005 (theo Luật Đo lường, Nghị định số 86/2012/NĐ-CP ngày 19
tháng 10 năm 2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Đo lường; tham khảo Nghị định số 134/2007/NĐ-CP ngày 15
tháng 8 năm 2007 của Chính phủ quy định về đơn vị đo lường chính thức). Giá
trị độ dài và kích thước mặt cắt đê trong tư liệu lịch sử trích dẫn không hoàn
toàn thống nhất về hệ đo lường nhưng để tiện theo dõi và so sánh, nhóm biên
soạn cơ bản sử dụng chung thang sau để chuyển đổi: 01 trượng = 10 thước; 01
thước ≈ 0,32m.

18
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

nguồn sử liệu cho biết người Việt cổ đã xây dựng đê điều từ bao giờ.
Hiện nay, chúng ta chỉ có thể căn cứ vào một số chi tiết được nhắc
đến trong các bộ sách cổ của người Trung Hoa để có được hiểu biết
sơ lược về vấn đề này.

II. XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN ĐÊ ĐIỀU TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XVIII
1. Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê (thế kỷ X)
Từ khi lũ lụt được ghi vào quốc sử thì công cuộc đắp đê, chống
lũ lụt của dân tộc Việt Nam cũng được ghi vào quốc sử. Trong những
triều đại đầu của nền tự chủ Ngô - Đinh - Tiền Lê, ngắn ngủi, đầy
biến động, họa ngoại xâm và các thế lực cát cứ nổi lên. Nhà nước
phong kiến chưa đủ sức để lo nhiều đến việc phòng chống lũ lụt và
cũng chưa có tổ chức biên soạn quốc sử nên nhiều sự kiện thuộc các
triều đại hoặc việc đắp đê đã không được ghi lại.
Năm Mậu Tuất (938), Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán
trên sông Bạch Đằng đã chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc, mở ra một thời
kỳ mới trong lịch sử dân tộc. Thời kỳ này chiến tranh loạn lạc, công
tác đắp đê, trị thủy chưa có điều kiện phát triển.
Thời Tiền Lê, nhà nước chăm lo tới việc đào kênh mương,
sông ngòi tạo thuận lợi cho giao thông, vừa để tưới tiêu nước
cho đồng ruộng. Chẳng hạn như việc cho đào kênh từ núi Đồng
Cổ (Yên Định, Thanh Hóa) đến sông Bà Hòa (Tĩnh Gia, Thanh
Hóa) vào năm Quý Mùi (983), vét sông Đa Cái (Hưng Nguyên,
Nghệ An) năm Quý Mão (1003), đào các kênh ở Châu Ái năm
Kỷ Dậu (1009).
Có thể thấy, đất nước vừa mới giành được độc lập, việc triều
chính chưa ổn định, phải đối phó với các thế lực phong kiến trong
nước nổi lên cát cứ tranh giành quyền lực; đồng thời phải chống
quân Tống. Các vương triều Đinh – Tiền Lê chưa có điều kiện tập
trung giải quyết vấn đề đê sông. Nhưng chắc chắn là nhân dân các
làng xã, các bộ tộc vẫn tiến hành công việc đắp đê, khoanh vùng để
tự bảo vệ.
19
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

2. Thời Lý (thế kỷ XI - XIII)


Năm Kỷ Dậu (1009), sau khi Lê Long Đĩnh mất, quan lại trong
triều, gồm các sư tăng và đại thần đứng đầu là sư Vạn Hạnh tôn
Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên làm vua, mở đầu cho vương
triều nhà Lý (1010 - 1225).
Vừa mới lên ngôi, Lý Công Uẩn đã cho dời đô ra Thăng Long
mở đầu sự nghiệp xây dựng đất nước với quy mô lớn, đặt nền tảng
vững chắc và toàn diện cho sự phát triển của dân tộc và của quốc
gia độc lập.
Thăng Long tuy “ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuốn hổ
ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước...”1
nhưng địa thế Thăng Long cũng không cao so với mực nước sông
Hồng mùa lũ, nhất là đối với vùng ngoại thành, phố xá cư dân.
Nhiều năm lũ lụt uy hiếp đến kinh thành, song chắc hẳn nhiều năm
bình thường vì cũng đã có đê ngăn lụt, chiếu dời đô mới có đoạn
viết: “vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng
sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi
tốt phồn thịnh”2. Việc dời đô về vùng đất như vậy một mặt khẳng
định được khả năng tránh lũ lụt ở một chừng mực, do thế đất cao
mà kinh thành có thể an toàn. Nhưng mặt khác cũng đặt ra một mối
quan tâm cho triều đình, nhất là những năm nước lên, lũ lụt liên
tiếp xảy ra.
Bắt đầu từ triều Lý đã có những ghi chép về lũ lụt. Ngay từ
các triều vua đầu của nhà Lý, sử cũ đã chép về các hiện tượng
thiên tai như: năm Đinh Mão (1027), hạn; năm Đinh Sửu (1037),
lụt to; năm Quý Mùi (1043), đói lớn; năm Canh Dần (1050), tháng
sáu lụt lớn; năm Quý Tỵ (1053), từ tháng 7 đến tháng 8, lụt lớn;
năm Canh Tuất (1070), hạn; năm Tân Hợi (1071), từ mùa xuân
đến mùa hạ không mưa; năm Đinh Dậu (1117), không mưa;
năm Canh Thân (1120), lụt đến tận cửa Đại Hưng; năm Tân Sửu
1
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 1, Sđd, tr.241.
2
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 1, Sđd, tr.241.

20
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

(1121), hoàng trùng; năm Giáp Thìn (1124), hạn, cầu mưa; năm
Bính Dần (1126), hạn từ tháng 6, sang tháng 7 càng hạn nặng, sau
lại mưa dầm phải cầu tạnh,…

Thời Lý, tình hình lũ lụt xảy ra khá thường xuyên. Thống kê từ
sử cũ cho biết, trong suốt thời kỳ tồn tại của nhà Lý đã xảy ra tổng
cộng 8 lần nước lớn. Cụ thể như sau:

Bảng 1. Tình hình lũ lụt thời Lý (1009 - 1225)1

Năm Sự kiện
1050 Mùa hạ, tháng 6, nước to.
1053 Mùa thu, từ tháng 7 đến tháng 8, nước to.
1102 Tháng 2, nước to. Sai Hoàng hậu và các phi tần trai giới lập đàn chay để cầu tự.
1121 Mùa hạ, tháng 5, nước to, tràn vào đến bên ngoài cửa Đại Hưng.
1155 Mùa thu, tháng 8, nước to.
1164 Mùa thu, tháng 7, nước to quá mức thường, lúa bị ngập hết.
1180 Mùa thu, tháng 8, nước to.
1199 Mùa thu, tháng 7, nước to, lúa mạ ngập hết.

Mùa thu năm Đinh Tỵ (1077), triều đình cho đắp đê ở sông
Như Nguyệt (sông Cầu) dài 67.380 bộ (khoảng 30km)2.

Năm Quý Mùi (1103), “vua xuống chiếu cho trong ngoài kinh
thành đều đắp đê”3.

Năm Mậu Tý (1108), tháng 2, triều đình tổ chức đắp đê Cơ Xá4.


Đê Cơ Xá là một công trình lớn kéo dài từ Nhật Tân - Yên Phụ đến
tận Yên Duyên, nhằm bảo vệ toàn kinh đô Thăng Long, bảo vệ
cả kinh thành lẫn phố chợ. Đoạn đê sông ở phường Cơ Xá, nay ở
khoảng gần cầu Long Biên, chạy dọc theo ven sông Hồng từ Yên
Phụ đến Lương Yên, Hà Nội - nay vẫn còn tên bãi Cơ Xá.
1
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 1, Sđd.
2
Việt sử lược, Bản dịch, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960, tr.112.
3
Việt sử lược, Sđd, tr.121.
4
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 1, Sđd, tr.285.

21
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Ngoài Thăng Long, đê điều các vùng khác cũng được người
dân địa phương tự đắp. Theo thần tích địa phương thì đê sông Chu
(Thanh Hoá) được đắp vào thời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127).
Thần tích địa phương còn cho biết năm Tân Tỵ (1101), Tô Hiến
Thành đã về làng Cổ Am (Hải Phòng) tổ chức đắp đê ngăn nước
mặn. Hiện nay con đê này vẫn còn và cách xa biển 5km.
Có thể thấy, việc sửa, đắp đê dưới triều Lý được quan tâm phát
triển, nên đã có hiệu quả bước đầu trong bảo vệ sản xuất và đời
sống. Nhưng, những con đê thời Lý có quy mô lớn do nhà nước tổ
chức xây dựng mới chỉ có đê Như Nguyệt, Cơ Xá, còn phần lớn đê
thời này chỉ có quy mô bảo vệ từng vùng hương ấp tự tổ chức đắp
đê. Tuy nhiên, lại thấy sách sử chép trong cuộc hỗn chiến giành
chính quyền giữa các thế lực cát cứ, việc phá đê được coi như là một
phương tiện tác chiến.
Việt sử lược chép: năm Tân Mùi (1211), Trần Tự Khánh sai tướng
đất Khoái (Hưng Yên) đi đánh Hồng Châu (Hải Dương, Bình Giang,
Ninh Giang), viên tướng ấy bị bắt, Tự Khánh cho phá hết đê cho
nước vào thôn ấy để trả thù.
Năm Mậu Dần (1218), Trần Thừa lĩnh binh đi đánh Nguyễn
Nộn ở Bắc Giang đã sai phá đê cho nước tràn vào các hương, ấp, rồi
theo thế nước mà tiến đánh.
Cuối thời Lý, triều đình rối ren, tranh giành quyền lực, không
chăm lo việc đê sông, thiên tai lũ lụt liên tiếp xảy ra, mất mùa đói
kém. Nông dân nổi dậy khắp nơi, nhà Lý suy vong, nhà Trần được
thành lập.

3. Thời Trần - Hồ (thế kỷ XIII - đầu thế kỷ XV)


Nhà Trần được thành lập trong hoàn cảnh thiên tai, loạn lạc.
Theo thống kê, trong suốt thời kỳ nhà Trần - Hồ, đã xảy ra 26 lần lũ
lụt, nước to, cụ thể như sau:

22
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bảng 2. Tình hình lũ lụt thời Trần (1226 - 1400)1

Năm Sự kiện
1236 Mùa hạ, tháng 6, nước to, vỡ tràn vào cung Lệ Thiên.
1238 Mùa thu, tháng 7, nước to, vỡ tràn vào cung Thưởng Xuân
1243 Mùa thu, tháng 8, nước to, vỡ thành Đại La
1245 Mùa thu, tháng 8, nước to, vỡ đê Thanh Đàm2.
1255 Mùa thu, tháng 8, nước to, vua ngự chơi Hồ Tây.
1265 Mùa thu, tháng 7, nước to, vỡ ở phường Cơ Xá. Người và súc vật bị chết đuối nhiều. Đại xá.
1268 Mùa thu, tháng 7, nước to.
1269 Tháng 8, nước to.
1270 Mùa thu, tháng 7, nước to. Các đường phố ở kinh đô phần nhiều phải đi lại bằng thuyền bè.
1274 Mùa thu, tháng 7, nước to.
1277 Tháng 5, nước to. Đất nứt sâu 7 trượng (chưa rõ chỗ nào), súc vật, tôm cá chết nhiều.
1307 Mùa thu, tháng 9, nước to, vỡ đê Đam Đam.
1310 Năm này nước to, đói.
1319 Nước to.
1320 Mùa hạ, tháng 6, nước to.
1336 Mùa thu, tháng 7, nước to.
1338 Mùa thu, tháng 8, nước to.
1348 Mùa thu, tháng 7, nước to.
1351 Mùa thu, tháng 7, nước to.
1360 Mùa thu, tháng 7, nước to.
1382 Mùa thu, tháng 7, nước to. Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu cho quân dân Nghệ An,
Diễn Châu đào các kênh ở Hải Tây.
1393 Tháng 8, động đất, nước to.
1407 Mùa thu, tháng 7, gió lớn nước to.

Bên cạnh đó cũng nhiều năm mà Đại Việt sử kí toàn thư và Khâm
định Việt sử thông giám cương mục cũng chép những năm có nạn thủy
tai xảy ra như các năm: 1269, 1274, 1277, 1307, 1320, 1333, 1336, 1338,
1348, 1351, 1355, 1360, 1378, 1382, 1392,...3 2

1
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd.
2
Đê Thanh Đàm: nay là đê Thanh Trì.
Xin xem thêm: Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd;
3

Quốc sử quán triềuNguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 1, Sđd.

23
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Cuối triều Lý, đê điều bị tàn phá hư hỏng nhiều, sản xuất nông
nghiệp đình đốn, mất mùa đói kém. Trong khi đó, cư dân Đại Việt
ngày càng đông lên gấp bội, đòi hỏi phải có nhiều đất canh tác và
cư trú. Trước tình hình đó, nhà Trần phải chú trọng xây dựng, phát
triển đê sông vững chắc hơn trước để phòng chống lũ lụt, bảo vệ
sản xuất và đời sống; nhất là phải chú trọng chăm lo phát triển sản
xuất nông nghiệp để ổn định cải thiện đời sống người dân, đảm bảo
các nguồn thu của nhà nước.
Trong phát triển nông nghiệp, nhà Trần cũng khuyến khích
quý tộc và nhân dân đẩy mạnh khai khẩn đất hoang hóa để gia tăng
diện tích đất canh tác và đất cư trú. Nhà Trần cho khai khẩn, lập
nhiều đồn điền. Lực lượng khai khẩn đất đai lập đồn điền gồm binh
lính và tù phạm. Các lộ đều đặt các chức quan Chánh, phó sứ quản
lý tổ chức lập đồn điền và trông coi, đôn đốc việc khai hoang của tư
nhân. Nhà nước chủ trương cho các vương hầu quý tộc khai khẩn
lập các điền trang thái ấp. Các vương hầu quý tộc nhà Trần đều tích
cực hưởng ứng tuyển mộ dân nghèo, nô tỳ khai khẩn đất hoang lập
nhiều điền trang thái ấp ở vùng ven biển. Diện tích đất canh tác và
cư trú gia tăng, cư dân sinh tụ, lập nghiệp đông đúc nhất là ở vùng
Đồng bằng Bắc Bộ, khiến “làng mạc nhiều như sao sa, như quân cờ
bày, chứ không giống ngày trước cứ tìm chỗ cao mà ở”.
Muốn thực hiện khai hoang, phục hóa, trước hết nhà nước và
người dân phải đẩy mạnh việc xây dựng các tuyến đê và đào sông
ngòi đáp ứng yêu cầu nước cho khai khẩn đất, cho canh tác và đời
sống. Do dân di cư tập trung cư trú ngày càng đông đúc ở những
vùng trũng thấp, như vùng đồng bằng, vùng hạ lưu các dòng sông
và ven biển. Vì vậy, hằng năm, vào mùa bão lũ, thường xảy ra tình
trạng lụt, úng ngập, khiến mùa màng thất bát. Mặt khác, những con
đê xây dựng thời Lý đã dần hư hỏng không còn đủ sức chống giữ
được với mực nước lũ ngày càng cao, dòng chảy xiết. Ngay cả đê Cơ
Xá cũng bị phá vỡ, nước lụt tràn ngập cả Kinh thành. Thời vua Trần
Thái Tông, có lần nước lụt tràn ngập cả cung điện, như: Năm Mậu
Tuất (1238), “mùa thu, tháng 7, nước to, vỡ tràn vào cung Thưởng
24
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Xuân”1; Năm Quý Mão (1243), “mùa thu, tháng 8, nước to, vỡ thành
Đại La”2.
Như vậy, đến thời Trần và thời Hồ, việc khai hoang, mở rộng
diện tích ở các vùng đất ven sông, đất thấp diễn ra phổ biến hơn. Lũ
lụt xảy ra tác hại nhiều hơn. Trước tình hình đó, triều Trần và triều
Hồ phải chăm lo và có kế hoạch tổ chức xây dựng đê một cách quy
mô trên các tuyến sông.
Năm Mậu Thân (1248), tháng 3, vua Trần Thái Tông “lệnh các
lộ đắp đê phòng lụt, gọi là đê quai vạc, từ đầu nguồn đến bờ biển,
để ngăn nước lũ tràn ngập”3. “Chỗ đắp thì đo xem mất bao nhiêu
ruộng đất của dân, theo giá trả lại tiền. Đắp đê quai vạc là bắt đầu
từ đó”4. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép thêm:
“Nhà vua hạ lệnh cho các lộ đắp đê tự đầu nguồn đến bãi biển, để
đề phòng nước sông lên to, gọi là đê Đỉnh Nhĩ;... Nếu có chỗ nào
đắp vào ruộng đất của dân, sẽ tính trả tiền lại. Việc đắp đê Đỉnh Nhĩ
bắt đầu từ đây”5.
Cùng năm này, vua Trần Thái Tông đặt cơ quan chuyên phụ
trách về đê điều gọi là Hà đê sứ “đặt chức Hà đê chánh sứ và phó sứ
để trông coi đốc thúc việc đắp đê”6, đứng đầu là Hà đê Chánh sứ.
Đây có lẽ là chức quan chuyên môn đầu tiên của nhà nước, cho thấy
tầm quan trọng của đê điều.
Đê được đắp quy mô suốt từ đầu nguồn các dòng sông cho đến
tận cửa biển.
Nhân lực đắp đê, hộ đê không kể giàu nghèo, sang hèn. Cao
Hùng Trưng viết: “Năm nào cũng vậy cứ đầu năm các quan coi đê
phải lo đốc thúc dân phụ cận, không kể sang hèn, già trẻ đều phải
1
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.17.
2
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.19.
3
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.21.
4
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.21.
5
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 1, Sđd.
6
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 1, Sđd.

25
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

tu đắp. Chỗ nào thấp thì gia cao lên, chỗ nào lở thì lo bồi bổ lại. Đến
mùa hè thì tất công. Đây là công việc làm hằng năm”. Binh lính
cũng là lực lượng chính tham gia việc đắp, hộ đê, đào sông, khơi
ngòi phòng chống lũ lụt. Việc đắp đê nếu phải sử dụng bao nhiêu
diện tích ruộng đất của dân đều được nhà nước theo giá trả tiền.
Đê Đỉnh Nhĩ bồi đắp ở trên các tuyến sông Bắc Bộ và cả ở vùng
Thanh Nghệ, như các sông Hồng, sông Cầu, sông Đáy, sông Hải
Triều (Khoái Châu, Hưng Yên), sông Bạch Hạc đến sông Lô, sông
Đà Lung, (mỗi bên đều đắp cao 3 thước (1,28m), chân rộng 5 trượng
(8,5 m))1, sông Mã (Thanh Hóa), sông Cả (Nghệ An).
Đê Đỉnh Nhĩ không phải là công trình mới hoàn toàn và cũng
không phải chỉ đắp một lần. Trên cơ sở những đoạn đê vùng có trước,
nhà Trần cho đắp nối lại thành tuyến từ đầu nguồn đến biển. Công
việc bấy giờ chủ yếu là đắp thêm các đoạn nối, tôn cao để chống lũ.
Công trình đê Đỉnh Nhĩ là một bước tiến vượt bậc, hiệu quả của nó so
với kiểu đê vùng trước kia. Trước kia đê vùng ngăn lũ lụt thì tác dụng
chỉ ở phạm vi vùng, thậm chí vùng này giữ được nước thì nơi khác lại
gặp khó khăn. Còn đê Đỉnh Nhĩ thì có tính chất toàn cục, thống nhất
các lợi ích, chủ động đối phó với nước cả dòng sông. Hoàn thành
đê Đỉnh Nhĩ chính là sự thành công trong việc tạo ra mối liên kết
chặt chẽ để huy động nhân lực và của cải nhằm giải quyết khó khăn
chung. Về kĩ thuật, đê Đỉnh Nhĩ cũng tạo cho thế nước chảy thuận
dòng hơn. Đê Đỉnh Nhĩ có tác dụng quan trọng trong việc phòng
chống lũ lụt, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp.
Việc đắp đê Đỉnh Nhĩ không chỉ được thực hiện riêng vùng
Đồng bằng sông Hồng mà còn thực hiện ở cả trong Thanh Hoá và
Nghệ An. Cho đến ngày nay, nhiều địa phương vẫn gọi đê sông
Hồng là đê quai vạc hay Đỉnh Nhĩ. Tại làng Quang, xã Thọ Vinh
(Kim Động, Hưng Yên) hiện có một cống gạch xây cuốn, dài khoảng
15m tại đầu đình làng xuyên qua đê sông Hồng cũ, nhân dân địa
phương vẫn gọi cống này là cống Đỉnh Nhĩ.
1
Sử dụng thang đo cổ của Việt Nam để chuyển đổi: 01 trượng = 04 thước; 01
thước » 0,425m.

26
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Ất Mão (1255), tháng 02, triều đình còn cử Lưu Miễn tổ
chức bồi đắp đê ở Thanh Hoá1.
Tháng 5 năm này, nhà nước chọn các tản quan làm Hà đê chánh,
phó sứ ở các lộ. Khi nào rỗi việc đồng ruộng thì đốc thúc quân lính
đắp đê, đào mương lạch để đề phòng lụt, hạn2.
Thời Trần xây dựng các đê sông ngăn lũ và đê biển ngăn mặn.
Khi đó, “đất Giao Chỉ dân cư trù mật, không đủ đất cày cấy, cho nên
người ta đắp đê cao ở hai bên bờ sông để phòng nước lụt. Còn khai
khẩn những đất thường bị nước mặn tràn vào thì các nhà quyền
quý muốn chiếm đất làm tư, tùy chỗ đắp đê ngăn nước mặn để cày
cấy, vừa giữ yên dân cư vừa dung hết địa lợi”.
Ngoài đê sông, thời Trần còn đắp đê biển ngăn nước mặn và thúc
đẩy khai hoang, mở mang diện tích cư trú và sản xuất. Xây dựng phát
triển đê biển được ghi trong lịch sử đầu tiên là vào cuối nhà Trần, Hồ
Quý Ly cải cách lại điền địa, quy định: “Đại vương và trưởng công
chúa thì số ruộng không hạn chế; đến thứ dân thì số ruộng là 10
mẫu”3. Lý giải điều này, Hồ Quý Ly giải thích: “Trước kia, các nhà tôn
thất thường sai nô tỳ của mình đắp đê bối ở bờ biển để ngăn nước
mặn, sau hai ba năm, khai khẩn thành ruộng, cho họ lấy lẫn nhau và
ở ngay đấy, lập ra nhiều ruộng đất tư trang, cho nên có lệnh này”4.
Trong lời giải thích của Hồ Quý Ly có nói đến đê ngăn nước mặn thời
Trần. Có thể thấy, quy mô đê ngăn mặn thời Trần chỉ nhằm bảo vệ
những điền trang biệt lập. Tuy nhiên, với kiểu tằm ăn dỗi, cuối đời
Trần các điền trang được mở mang mạnh mẽ, hình thành thêm nhiều
xóm làng ven biển và nhiều diện tích cày cấy,...
Ngoài việc đắp đê nhà Trần còn rất coi trọng công tác hộ đê
phòng chống lụt, đặt thành trách nhiệm của chính quyền các cấp.
“Năm nào cũng vậy, vào tháng sáu, tháng bảy (mùa lũ) các viên đê
sứ phải thân đi tuần hành, thấy chỗ nào non phải tu bổ ngay, hễ
1
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.25.
2
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.26.
3
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.192.
4
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.193.

27
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

biếng nhác không làm tròn phận sự để đến nỗi trôi dân cư, ngập lúa
mạ, sẽ tùy tội nặng nhẹ mà khiển phạt”.
Nhà Trần cũng rất coi trọng công việc bồi đắp, quản lý và hộ đê.
Việc hộ đê mùa nước lũ là nhiệm vụ của mọi người dân, binh lính kể
cả sĩ tử trường Quốc Tử Giám cũng không được miễn trừ. Nhà vua
cũng thường đi thị sát, hộ đê khi có sự cố. Sử cũ chép, năm Quý Sửu
(1313), mùa lũ nước sông lên to, vua Trần Minh Tông đã đi coi sóc việc
hộ đê, quan Ngự sử tâu rằng: “Bệ hạ nên chăm sửa đức chính, xem
làm gì việc đắp đê nhỏ nhặt”. Quan hành khiển Trần Khắc Chung đi
theo nhà vua đáp rằng: “Khi dân bị nạn lụt, người làm vua phải cứu
giúp tai họa khẩn cấp đó, sửa đức chính không gì lớn hơn việc đó, cần
gì phải ngồi thinh, tư lự rồi bảo là sửa đức chính?”1. Nhà vua đồng ý
cử Trần Khắc Chung và vẫn cứ đi hộ đê.
Thời Trần chú trọng kết hợp việc đắp đê với đào sông, khơi ngòi
để chia, giảm sức nước lũ ở các dòng sông lớn, chống vỡ đê. Các năm
Bính Thìn (1256), Giáp Thân (1284), khai thông sông Tô Lịch. Năm
Canh Dần (1290), đào sông Thiên Đức (tức sông Đuống), một công
trình rất quan trọng, nối sông Hồng và sông Thái Bình nhằm chia lũ,
giảm sức nước lũ chống vỡ đê sông Hồng. Đây là một thành quả vĩ
đại trong công cuộc trị thủy của nhà Trần.
Công cuộc đắp đê phòng chống lụt thời Trần tuy còn hạn chế
về kĩ thuật, điều kiện kinh tế, công cụ, nguyên vật liệu xây dựng,…
nhưng có tiến bộ và đạt được hiệu quả nhất định hơn thời kỳ trước
trong việc bảo vệ phát triển sản xuất và đời sống. Tuy vậy, hệ thống
đê điều thời Trần vẫn chưa đủ sức chống lũ lụt trong những năm
lũ nhiều, lũ lớn. Đê bị vỡ, ngập lụt, mùa màng thất bát vào các năm
1269, 1270, 1280, 1296, 1321,…

4. Thời Lê sơ (thế kỷ XV - XVI)


Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi hoàn toàn, Lê Lợi - thủ
lĩnh tối cao của cuộc khởi nghĩa lên ngôi, lập ra nhà Hậu Lê.
1
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.101.

28
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Buổi đầu, nhà Hậu Lê phải đối mặt với những khó khăn lớn:
chiến tranh tàn phá, sự áp bức, vơ vét, bóc lột tàn bạo của nhà
Minh khiến tiềm lực đất nước suy kiệt. Nông dân ly tán, đồng
ruộng bỏ hoang, đê điều hư hỏng nhiều. Ngay từ những năm
cuối của cuộc khởi nghĩa, giải phóng đến đâu, Lê Lợi có chính
sách khuyến khích nông dân trở về quê cũ vừa sản xuất, vừa
đánh giặc đến đó. Sau khi đất nước được giải phóng, nhà Lê đã
đề ra nhiều biện pháp tích cực để khôi phục và phát triển nền
kinh tế nông nghiệp.
Trước hết, nhà nước khôi phục lại diện tích cày cấy trồng trọt,
giải quyết tình trạng ruộng đất bị bỏ hoang hóa. Từ năm Đinh Mùi
(1427), trong vùng giải phóng Lê Lợi đã ra lệnh bắt nhân dân phiêu
tán phải trở về quê quán nhận ruộng đất cày cấy. Nếu để đồng
ruộng bỏ hoang thì bị trừng phạt. Trong thể lệ quân điền cũng như
trong Bộ luật Hồng Đức, nhà nước cấm nhân dân để ruộng đất
hoang phế và coi trách nhiệm đó là một pháp lệnh của nhà nước, ai
vi phạm bị trừng phạt. Do đó, diện tích cày cấy được mở rộng thêm
với những công trình khai hoang của nhà nước và tư nhân.
Nhà nước trực tiếp tổ chức cho binh lính, tù binh đi khai hoang lập
đồn điền. Nhà Lê đã lập được 43 sở đồn điền rải từ vùng quanh Thăng
Long vào đến Thuận Hóa, Quảng Nam. Nhà Lê nhiều lần ra lệnh cho
các phủ huyện kêu gọi nhân dân mở rộng công cuộc khẩn hoang và đề
ra phép “thông cáo” và “chiếm xạ”, tạo cơ sở pháp lý cho người khẩn
hoang. Đối với ruộng đất bỏ hoang hoá, những người không có hay có
ít ruộng đất được quyền dùng phép “thông cáo” hay “chiếm xạ” để cày
cấy, nộp thuế cho nhà nước. Nhà Lê còn khuyến khích mọi người, kể
cả quan lại và dân thường khai phá đất đai, thành lập trang trại, xóm
làng, nhất là những vùng đất bồi ven biển.
Hà Nam (Yên Hưng, Quảng Ninh) là vùng đất ven biển, bên
bờ sông Bạch Đằng và sông Chanh, nhân dân có truyền thống hằng
năm tổ chức lễ hội tôn vinh “Thập cửu Tiên công” - những người đã
có công khai hoang sáng lập ra những xã thôn vùng đất này từ thời
Lê. Công cuộc khai khẩn bắt đầu từ đời Thuận Thiên (1428 - 1433)
29
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

bằng cách quai đê ngăn mặn, lập nên các thôn Bồng Lưu, Trung
Bản, Yên Đông, Phong Cốc, Cẩm La, rồi phát triển lên thành các xã
Bồng Lưu (sau đổi là Phong Lưu), Vị Dương, Lương Quy.
Làng Cống Thuỷ thuộc tổng Yên Ninh (nay là huyện Yên
Khánh, tỉnh Ninh Bình) là một trong những làng thành lập do kết
quả của công cuộc khẩn hoang ở vùng ven biển vào cuối thế kỷ
XV. Năm Tân Mão (1471), ba người họ Trịnh ở Cốc Dương (Đại An,
Nghĩa Hưng, Nam Định), họ Bùi ở An Vân (Yên Mô, Ninh Bình), họ
Nguyễn ở Cao Lương (Thiên Bản, nay là Vụ Bản, Nam Định), tìm
đến vùng ven biển này, đắp đê quai vạc, khai phá đất bồi, lập làng
Cống Thủy gồm có ba xóm.
Thời Lê sơ, tình hình lũ lụt diễn ra nhiều.
Bảng 3. Tình hình lũ lụt thời Lê sơ (1428 - 1527)1

Năm Sự kiện
Lũ lụt úng ngập. Kinh thành ngập sâu dưới nước đến 3 thước. Mùa màng cả nước tổn hại
1445
đến 1/3.
Tháng 10, các phủ ven biển là Nam Sách, Giáp Sơn, Thái Bình, Kiến Xương nước biển lên
1467 to, đê ngăn bị vỡ, lúa má bị ngập, dân ven biển chết đói nhiều. Các huyện ở đầu nguồn và
ven biển, thuộc Nghệ An cũng bị thủy tai.
1475 Tháng 7, nước lũ, vỡ đê sông Tô Lịch ở phường Kim Cổ
1478 Mùa thu, tháng 8, nước to.
1489 Mùa thu, tháng 7, sai Chỉ huy hiệu uý hội đồng với ty Thừa tuyên khơi thông nước lụt.
1491 Mưa rất to suốt ngày đêm, nước lũ dâng tràn dữ dội.
1496 Tháng 8, mưa gió to, nước lũ lên mạnh, trôi hết sản nghiệp của dân.
1503 Năm nay, trước thì đại hạn, sau lại nước to, núi Tản Viên và núi Tam Đảo bị lở.
1506 Mưa to, nạn lụt xảy ra. Cùng năm này, nước lũ sông Mã đột ngột dâng cao, chảy xiết gây
ra liên tiếp 7 trận lụt lớn, mất mùa, đói kém tại Thanh Hóa rất trầm trọng.
1513 Tháng 6, nước lũ, vỡ đê phường Yên Hoa thông vào hồ Tây.
1514 Tháng 5, nước lũ rất lớn, hồ ao trong kinh thành có rắn lớn xuất hiện đến 20 ngày.
1515 Tháng 8, tháng 9, nước to.
1516 Tháng 3, nước to.

1
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, 3, Sđd.

30
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Các triều vua Lê quan tâm khôi phục, phát triển kinh tế - xã
hội, chăm lo nhiều đến việc sửa, đắp đê, xây dựng các cống dưới đê,
phòng chống lũ lụt, khuyến khích phát triển sản xuất và bảo vệ đời
sống nhân dân. Đất nước hưng thịnh, nhất là thời Hồng Đức. Nhà
Lê sơ cũng thi hành chính sách “ngụ binh ư nông”, sử dụng binh
lính, tù phạm khai phá đất đai, lập các đồn điền. Nhà nước khuyến
khích quan dân khai hoang, phục hóa, lập các đồn điền tư nhân.
Muốn khai hoang, phục hóa, lập đồn điền, mở rộng diện tích đất
canh tác và đất cư trú, triều đình đã quan tâm, chăm lo công việc
đắp đê, làm kè, cống, đào sông khơi ngòi phòng chống lũ lụt, điều
tiết nước phục vụ sản xuất, đời sống.
* Tổ chức quản lý đê
Nhà Lê sơ tiếp tục duy trì các tổ chức và chính sách trị thủy thời
Trần, như duy trì chức quan Hà đê sứ phụ trách việc đê điều. Đồng
thời, nhà Lê sơ cũng củng cố, bồi đắp cho đê cao hơn. Nhà nước đã
đặt riêng ngạch quan Hà đê chuyên trông nom về đê sông. Công
việc kiểm tra và sửa đắp đê được tiến hành thường xuyên hằng
năm. Mỗi khi đê vỡ, triều đình lập tức phái quan đi khám xét và hạ
lệnh cho nhân dân, có khi cả quân lính, công tượng (thợ thủ công
trong các công xưởng thủ công của triều đình) và cả sĩ tử trường
Quốc Tử Giám tu sửa ngay.
Năm Đinh Hợi (1467), vua Lê Thánh Tông đặt thêm ty Khuyến
nông để cùng phối hợp với Hà đê sứ đôn đốc phòng chống lụt với
khuyến nông, phục hồi sản xuất sau lũ lụt. Trách nhiệm kiểm tra
đôn đốc các quan hà đê và khuyến nông được giao cho chính quyền
các cấp tỉnh, huyện.
Năm Ất Mùi (1475), tiếp tục “đặt các chức quan Khuyến nông
và Hà đê”1, chuyên trách trông coi, đôn đốc các việc sửa, đắp đê,
đào khơi sông ngòi, phòng chống lũ lụt, hạn hán, giải quyết vấn đề
nước cho sản xuất và đời sống. Chính quyền thường xuyên kiểm
tra đôn đốc các quan chuyên trách hà đê, khuyến nông hoàn thành
chức trách được phân công.
1
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.466.

31
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

* Luật, lệ về đê

Triều Lê sơ đã ban hành các sắc chỉ, định các luật lệ chặt chẽ
về công việc liên quan đến đê, sông, xây dựng, phát triển nhiều
tuyến đê sông trong cả nước. Cũng trong năm Ất Mùi (1475), vua
Lê Thánh Tông ban sắc chỉ: Phần ruộng nào (sau khi lựa) có thể giữ
được nước lại để cày cấy các quan ấy (chỉ các quan thừa chính, hiến
sát phủ huyện) phải đôn đốc quan hà đê và quan khuyến nông đi
xem xét địa thế, đốc sức nhân dân bồi đắp bờ ruộng đề giữ lấy nước,
để có thể cày cấy kịp thời vụ. Đến năm Canh Tý (1480), vua định ra
luật lệ, các quan phủ, huyện, việc thuế khóa tuy làm xong mà việc
đê không chăm sóc lúc rỗi công việc nông, có hại cho thu hoạch lúa
thì đến kì khám xét sẽ không cho thực thụ (giáng chức), hoặc không
cho thăng cấp. Năm Mậu Ngọ (1498), vua ra sắc chỉ sai các quan
phủ, huyện phải tuân hành đôn đốc đắp đê phòng lụt và còn sai
triều thần đi khám xét việc đắp đê, khơi đào sông ở các địa phương.

Bộ luật Hồng Đức có những điều khoản quy định chặt chẽ về
việc đê, sông, bảo vệ, phát triển sản xuất nông nghiệp và tính mạng,
tài sản nhà nước, nhân dân. Thời Lê sơ, các làng xã cũng xây dựng
hương ước, khoán ước có những điều khoản quy định chặt chẽ về
bảo vệ phát triển sản xuất, bảo vệ nguồn nước, phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc trong việc đắp, hộ đê, phòng chống lũ lụt
ở các làng xã.

* Sửa, đắp đê

Đê sông

Thời Lê sơ có bước tiến mới về đê so với thời kỳ trước. Nhà


nước cho sửa chữa củng cố các tuyến đê Đỉnh Nhĩ. Nhà nước chú
trọng sửa, đắp đê ở các sông lớn (sông Cái) và còn đắp đê ở các
sông nhỏ, các chi lưu; đồng thời, phát triển các tuyến đê. Biên
niên sử chỉ ghi lại những sự kiện định ra luật lệ, và xây dựng
những công trình mới, hoặc những sự kiện huy động nhân lực
trên quy mô lớn.
32
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Đinh Mùi (1427), khi còn bao vây Đông Đô (Thăng Long),
Lê Lợi đang đêm sai quân lội qua sông chiếm lấy đê Vạn Xuân1,
“vua sai các tướng đắp đê Vạn Xuân để làm chiến lũy. Trước đây,
quân Minh đào mương nhỏ cạnh sông Cái ngoài thành để chứa
thuyền chiến và khí giới, lại đắp thêm thành phụ để cố thủ, mà đê
Vạn Xuân là lối đi lại cho quân do thám và người chăn ngựa, cắt cỏ
của giặc, ở trên đê cao này mà nhòm xuống thì rất tiện. Giặc cho thế
là đắc sách. Khi quan quân tiến đánh, quân Minh thường đặt mai
phục để tranh hơn. Vua hạ lệnh cho các tướng vượt sông, lừa lúc
giặc không ngờ, cướp lấy đê đắp thành chiến lũy, chỉ một đêm là
xong, toàn bộ quãng đê về ta”2. Việc đắp đê Vạn Xuân này có tính
chất quân sự nhiều hơn là sản xuất.
Năm Giáp Dần (1434), vua Lê Thái Tông ban chỉ dụ “cho các quan
văn võ từ lục phẩm trở lên mà coi việc quân dân và các quân phụ đạo,
thủ lĩnh ở các phiên trấn người nào còn có con cháu đích hoặc cùng
một tịch hay khác tịch thì đều được thu thuế và sai dịch. Nếu là việc
đắp đê quai vạc và các việc nguy cấp thì không được miễn”3.
Năm Ất Mùi (1475), nhà nước sắc cho “Hộ bộ khai mương, đắp
đập, không được để đồng ruộng úng ngập hay khô hạn”, đồng thời
“sai Hộ bộ gửi công văn cho thừa tuyên các xứ xét xem có ty Khuyến
nông và Hà đê xứ nào để lúa má úng ngập và còn ruộng thì tâu
lên”4. Nhà nước cũng ra sắc chỉ “cho cả nước sửa, đắp những chỗ đê
đập và đường sá”5.
Năm Canh Tý (1480), vua chuẩn y lời tâu của thượng thư Bộ
Hộ Lê Thùy Chi định lệ: “Các quan phủ huyện, việc thuế khóa tuy
làm xong mà việc đê không chăm trong lúc rỗi công việc nông, có
1
Vạn Xuân: nay thuộc phường Thanh Trì, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
Ở đây vẫn còn một đầm nước rộng mênh mông mang tên đầm Vạn Xuân.
2
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.274-275.
3
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.310.
4
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.426.
5
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.466.

33
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

hại cho thu hoạch lúa. Đến kì khảo xét sẽ không cho thực thụ (giáng
chức) hoặc không cho thăng cấp”1.
Năm Mậu Ngọ (1498), vừa mới lên ngôi, vua Lê Hiến Tông đã
ban sắc chỉ sai các quan tỉnh và huyện phải tuần hành, đôn đốc đắp
đê đề phòng lụt và còn sai triều thần đi khám xét “tự tay viết sắc
lệnh sai các quan thừa hiến, phủ, huyện đi tuần hành khuyên bảo
nhân dân đắp đê điều, đào ngòi lạch, khơi bờ ruộng, để phòng hạn,
lụt. Lại sai triều thần đi kiểm tra, xem xét những việc đó”2. Về đê
sông, triều Trần chỉ đắp ở những sông lớn, còn triều Lê bắt đầu đắp
đê trên một số sông nhánh.
Năm Quý Mão (1503), vua Lê Hiến Tông đã cho đào, đắp đê
sông Tô Lịch trên từ xã Trát Kiều xuống đến xã Cống Xuyên3 để
phòng lụt, hạn, làm lợi nghề nông4 theo lời tâu của Dương Trực
Nguyên Tả thị lang Bộ Lễ. Sông Tô Lịch vốn từng là một phân lưu
của sông Hồng, đưa nước từ thượng lưu ở sông Hồng sang sông
Nhuệ. Sông Nhuệ là một con sông nhỏ, phụ lưu của sông Đáy. Sông
Đáy thông với sông Hồng. Vì vậy, lũ có thể theo đó vào uy hiếp
vùng ngoại vi kinh thành.
Đê biển ngăn nước mặn
Ngoài hệ thống đê sông, đê ven biển ngăn nước mặn cho vùng
Đồng bằng sông Hồng, nhà Lê cũng cho xây đắp để ngăn nước mặn
và khai khẩn đất bồi ven biển. Từ năm Giáp Thân (1464), dưới triều
vua Lê Thánh Tông trở đi, sử sách mới nói đến đê điều mới được
đắp. Đê ngăn nước mặn lúc này bắt đầu được đắp quy mô.
Năm Giáp Thân (1464), tháng 10, Thái sư Trịnh Điểm sai Xá
nhân ty là Hoa Dương hầu (không rõ tên) thúc dân làng ở các phủ
Trường Yên (Ninh Bình), Thiên Quan (Nam Định) đắp đê.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr.1079.
2
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 3, Sđd, tr.9.
3
Xã Trát Kiều và xã Cống Xuyên ở huyện Thượng Phúc, nay thuộc huyện
Thường Tín, Hà Nội.
4
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 3, Sđd, tr.33.

34
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Đinh Hợi (1467), gió bão, nước biển dâng cao, đê biển
các vùng duyên hải Nam Sách, Thái Bình và Kiến Xương bị vỡ. Các
huyện ở đầu nguồn Nghệ An cũng vậy. Vua Lê Thánh Tông hạ lệnh
cho Ngự sử là Đinh Nhân Phu và Thiều Duy Trinh chia nhau đến
ba đạo: Đông, Tây, Nam ở ven biển để khám xét bờ đê, đốc thúc Ty
Thừa chính sở tại bồi đắp.
Dưới triều vua Lê Thánh Tông, việc đắp đê sông và đê biển
được tiến hành khẩn trương hơn trước. Đây là những đợt đắp đê
ngăn nước mặn do nhà nước chủ trương được ghi nhận đầu tiên
trong sử sách. Quy mô và tác dụng của chúng chắc cũng to lớn hơn
rất nhiều so với những đê ngăn nước mặn thời Trần. Đê biển đến
đời Hồng Đức được bồi trúc hoặc đắp bằng đất hoặc kè đá chân đê
khá kiên cố nên dân gian thường gọi là “đê Hồng Đức”.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục có viết về đê ven biển
như sau: “Ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, có con đê đắp bằng đá
từ phía bắc cửa Thần Phù đến bờ phía nam cửa Cờn và con đê đắp
bằng đất từ xã Côi Trì, huyện Yên Mô đến bờ phía Nam xã Bồng
Hải, huyện Yên Khánh. Tương truyền, Lê Thánh Tông cho đắp đê
chống nước mặn, vì thế nên gọi là đê Hồng Đức”1. Căn cứ vào hai
tấm bia hiện còn ở địa phương là Yên Mô xã bi kí và Đê lộ bi kí thì
đoạn đê ở xã Yên Mô được đắp vào năm Nhâm Thìn (1472); ở xã
Phù Sa, Nghĩa Hưng vào năm Giáp Ngọ (1474)2.
Đê Hồng Đức có thể coi là thành tựu nổi bật nhất của nhà Lê
sơ trong công cuộc trị thủy. Ngày nay, ở các địa phương phía nam
huyện Nghĩa Hưng và phía bắc huyện Hải Hậu vẫn còn khá rõ dấu
tích của con đê Hồng Đức xưa, dài khoảng 25km.
Có thể khẳng định, không phải chỉ đến thời Lê sơ việc đắp đê
ngăn nước mặn ven biển mới được tiến hành. Thời Trần, vùng ven
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 1, Sđd,
tr.1055.
2
Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI - XVIII, Tập 1, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1982, tr.43.

35
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

biển này là quê hương của các vương hầu quý tộc, một trong những
trung tâm điền trang, thái ấp, lại được khuyến khích bằng chính
sách của nhà nước, năm Bính Dần (1266), công cuộc đắp đê, khẩn
hoang lập xóm làng điền trang được tiến hành mạnh mẽ ở đây. Tuy
nhiên, do việc các nhà quý tộc “tùy tiện đắp đê bối ngăn nước mặn
rồi cày cấy” nên chắc chắn chỉ mới hình thành các đoạn đê vùng,
chưa thành hệ thống liên tục có quy mô lớn. Đến thời Lê sơ, do yêu
cầu phát triển của kinh tế nông nghiệp, do vị trí quan trọng về quân
sự… của khu vực này và trong điều kiện chính quyền trung ương
tập quyền vững mạnh, công cuộc đắp đê ngăn mặn ở vùng này
được chú ý quan tâm và đẩy lên một bước mới.
Công việc đắp đê ngăn mặn ở vùng này, nhất là ở vùng cửa
biển - trọng yếu như Thần Phù trên trục đường giao thông thủy Bắc
Nam - không phải chỉ còn là công việc của cấp phủ huyện mà do
chính một đại thần của triều đình là Lê Niệm trực tiếp chỉ đạo. Lê
Niệm trong những năm trước đó đã đảm nhiệm trọng trách quân
sự, dân sự ở vùng Đông Bắc (Hải Dương, Quảng Ninh ngày nay).
Do nhu cầu tăng cường vùng ven biển đầu mối giao thông, nhất là
nhu cầu xây dựng lực lượng quân sự, hậu cần chuẩn bị trực tiếp cho
lần đánh Chiêm Thành năm Tân Mão (1471) Lê Niệm được giao phụ
trách công việc đê ở vùng nam sông Hồng.
Nhà Lê sơ còn lệnh cho các phủ huyện của vùng Sơn Nam phải
đặc biệt lưu tâm tới việc đắp đê, khai thác đất đai vùng này. Trong
sắc dụ năm Tân Mão (1471), tháng 11, vua Lê Thánh Tông yêu cầu
các quan thừa tuyên phủ, huyện ở Sơn Nam “phải mau mau đi xét
các hạt núi chằm, bờ biển, chỗ nào có thể đào được… hạn trong trăm
ngày phải tâu rõ ràng lên; nếu để quá muộn sai vệ sĩ cẩm y đi xét hỏi
ra thì phủ huyện phải bãi chức sung quân vào Quảng Nam…”1.
Với sự quan tâm của trung ương và địa phương như vậy, công
cuộc đắp đê ngăn nước mặn ở đây đã được tiến hành với tốc độ nhanh,
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2,
Sđd, tr.1062.

36
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

quy mô lớn. Chỉ gần một năm sau sắc dụ Tân Mão (1471), đoạn đê ở
Yên Mô được hoàn thành, hai năm sau đoạn ở Phù Sa cũng đắp xong.
Những người đắp đê thuở đó đã tận dụng, khai thác ưu thế của
thiên nhiên địa hình và đầu tư rất nhiều công sức. Đoạn từ cửa Thần
Phù đến cửa Càn, dựa vào nguồn đá của dải Yên Duyên, đê được kè
đá vững chắc. Ở những đoạn khác, theo xác định của tài liệu địa chất,
qua những dấu tích còn lại, đê được bồi đắp trên gờ của bờ cát cổ do
sóng biển tạo thành. Theo dân gian truyền lại và cũng là cách làm của
dân vùng ven biển thời nay, những người đắp đê đã phải đào dải hào
sâu song song chân cồn cát, chuyển đất sét đào từ nơi khác dồn vào
lòng hào để làm chân đê, sau đó mới đắp dần lên.
Đi dọc theo dấu tích còn lại dải đê ngăn nước mặn này trải dài
gần 50km từ cửa Thần Phù, Phù Sa qua các xã Kinh Đào - Yên Mô
Càn, Cối Trì, Duyên Phúc - Cống Thủy, Nhuận Ốc vượt qua Quần
Anh về đến Hội Khê,… Đoạn đê đá, chắc chắn ở vùng cửa Thần
Phù đã trở thành lũy thành vững chãi bảo vệ cho cửa biển - cửa
khẩu quan trọng trên trục đường thủy Bắc - Nam mà những thế kỷ
XVI - XVIII vẫn còn nhắc tới. Dải đê này còn trở thành đường giao
thông thuận tiện trên hướng Tây Bắc - Đông Nam. Nhưng trước hết,
đê Hồng Đức là đê ngăn nước mặn, bảo vệ người dân, mở ra địa bàn
khẩn hoang vùng đồng bằng ven biển.
Năm Ất Mùi (1475), vua Lê Thánh Tông đặt chức quan Hà đê
để trông coi mọi việc đê điều1 và lệnh cho các quan thừa chính, hiến
sát và phủ huyện: “Phàm ruộng cấy lúa mùa nào có thể giữ được
nước lại để cấy lúa chiêm, thì sau mùa nước đã rút, các viên ấy trách
cứ quan hà đê và quan khuyến nông phải đi xem xét địa thế, đốc
sức nhân dân bồi đắp bờ ruộng giữ lấy nước, để nhân dân có thể cày
cấy được kịp thời vụ”2.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 1,
Sđd, tr.1130.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 1,
Sđd, tr.1130.

37
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Mậu Ngọ (1498), vua Lê Thánh Tông, trong một chiếu dụ,
nhắc nhở trách nhiệm của quan lại địa phương đối với nông nghiệp
“sai các quan phủ, huyện đi tuần hành khuyên bảo nhân dân đắp
đê ngăn nước, khơi thông lại những chỗ úng thủy, đắp bờ ruộng để
đề phòng hạn hán, thủy tai”1.
Năm Quý Hợi (1503), nhà vua sai các quan phải tu sửa đê điều
và khuyên dân làm xe tưới nước “đào cừ Yên Phúc xuống đến cừ
Thượng Phúc2 để tưới nước cho ruộng dân”3.
Năm Bính Tuất (1526), tháng 8, lệnh cho các phủ Thượng Hồng,
Hạ Hồng, Kinh Môn, Nam Sách, Thái Bình đắp đê. Có nghĩa là hầu
hết ven biển Bắc Bộ, đắp đê ngăn mặn, đê ấy gọi là đê Chân Kim.
Triều Lê sơ vẫn tiếp tục phát huy truyền thống đắp đê từ các thời
kỳ trước. Không những triều đình trực tiếp hạ lệnh cho lực lượng binh
lính và dân phu đào đắp những công trình lớn, mà còn trực tiếp đôn
đốc, kiểm tra việc đắp đê ở các địa phương. Với sức lao động cần cù,
dũng cảm, thông minh và sáng tạo của nông dân, với sự chú trọng tích
cực của nhà nước, hệ thống đê dưới triều Lê sơ đã có những tiến bộ
nhất định, cùng với kĩ thuật sản xuất đã hạn chế được một phần tác
hại của lũ lụt và tương đối đảm bảo được nền sản xuất nông nghiệp.

5. Thời Mạc (thế kỷ XVI)


Cuối thế kỷ XV, nhà Lê sơ suy vong. Năm Đinh Hợi (1527), triều
Mạc thành lập nhưng phải tiến hành chiến tranh đối phó với các thế
lực cát cứ trong nước và âm mưu xâm lược của quân Minh, không
chăm lo tổ chức đắp đê đập, khơi đào sông ngòi.
Vùng Đông Bắc Bắc Bộ - địa bàn căn bản của nhà Mạc được chú
trọng đặc biệt. Đến thời Mạc, đê vùng Cổ Trai, Nghi Dương – quê
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 1,
Sđd, tr.1194.
2
Cừ Yên Phúc: ở xã Yên Phúc; cừ Thượng Phúc ở xã Thượng Phúc. Hai xã này
thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội.
3
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 3, Sđd, tr.33.

38
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

hương của nhà Mạc, được nâng lên cấp độ cao hơn, thành Dương
Kinh. Vùng đất bản bộ này, trong những năm còn làm quan triều
Lê, Mạc Đăng Dung đã chăm lo xây dựng củng cố, thường xuyên về
đây để trù tính việc lớn về sau. Khi Đăng Dung lên ngôi, cùng lợi thế
tự nhiên cửa sông, ven biển thông thoáng giao thương, vùng Nghi
Dương càng có thêm điều kiện chính trị, kinh tế để triều đình Mạc
đầu tư thành một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa lớn ở ven biển.
Tại vùng Dương Kinh (Hải Phòng), nhà Mạc đã cho khai đào, nắn
uốn rất nhiều các dòng kênh để thuận tiện đi lại, đắp đê, đào sông,
dẫn nước vào đồng ruộng và khai hoang; đắp đê Chân Kim, đê Kinh
Điền, kênh triều Mạc (vùng Kiến Thụy, An Lão thuộc Hải Phòng).
Sự phát triển của vùng trung tâm Dương Kinh kéo theo sự
khởi sắc của các huyện xung quanh, như Tân Minh, Vĩnh Lại, Thủy
Đường (vùng Tiên Lãng, An Lão, Vĩnh Bảo, Thủy Nguyên thuộc
Hải Phòng), Thanh Lâm (Thanh Hà thuộc Hải Dương) với nhiều
công trình xây dựng, mở mang (ngày nay còn lại nhiều dấu tích
như thành lũy, kênh triều, bãi, đê, đường mang tên nhà Mạc ở vùng
An Lão, Thủy Nguyên thuộc Hải Phòng,…). Công trình quai đê lấn
biển khai hoang, lập làng thời Lê Thánh Tông ở đảo Hà Nam (Yên
Hưng, Quảng Ninh) vẫn được tiếp tục,...
Một trong những biện pháp quan trọng và được nhà Mạc
thực thi có hiệu quả là việc tổ chức nhân dân đắp đê chống lũ
lụt, đào kênh mương dẫn nước phục vụ tưới tiêu hoặc quai đê
lấn biến, khai phá những bãi bồi ven biển xứ Đông. Tên gọi
của những đoạn đê sông như đê Chân Kim, đê Kinh Điền (Hải
Phòng) hay đê Hà Nam (Yên Hưng, Quảng Ninh) vẫn được nhân
dân truyền gọi là đê nhà Mạc. Ngày nay, trên địa bàn Hải Phòng
(vùng Dương Kinh xưa) vẫn còn dấu vết của những dòng kênh
như kênh Voi ở An Lão, kênh Cái Riếc ở Vĩnh Bảo được khai đào
từ triều Mạc. Tư liệu dân gian cho biết, người đứng ra tổ chức
nhân dân đào các con kênh là Quận công Nguyễn Công Địch
người làng Phù Lưu (Bắc Ninh).
39
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Tuy nhiên, thời gian yên bình không kéo dài. Ngay từ khi ra
đời, nhà Mạc đã phải lo đối phó với thế lực Lê - Nguyễn Kim ở phía
Nam và từ những năm 40 của thế kỷ XVI bùng lên thành cuộc nội
chiến triền miên tàn phá nông nghiệp, kìm hãm sản xuất. Đời sống
của nông dân và nhân dân càng thêm khó khăn, đói khổ. Sử cũ đã
chép nhiều sự kiện thiên tai tác động đến sự phát triển của nông
nghiệp. Năm Nhâm Thìn (1592), triều Mạc sụp đổ.

6. Thời Lê Trung hưng (thế kỷ XVI - XVIII)


Năm Nhâm Thìn (1592), chiến tranh Lê - Mạc kết thúc không
được bao lâu, lại xảy ra chiến tranh kéo dài giữa các thế lực phong
kiến Lê - Trịnh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn (Đàng Trong). Trong
chiến tranh, để cung cấp nhiều lương thực, thực phẩm,… cho nhà
nước và binh lính, chính quyền phong kiến Đàng Trong và Đàng
Ngoài phải chăm lo vấn đề đê điều, sông ngòi, phòng chống lũ lụt,
quan tâm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp.

Đàng Ngoài
Trong các thế kỷ XVI, XVII, ở Đàng Ngoài vẫn tiếp tục xảy ra lũ
lụt. Sử cũ chép, có nhiều lần mưa lớn, nước lũ tràn ngập, đê điều bị
vỡ, trôi mất vài trăm nhà. Thống kê cụ thể như sau:
Bảng 4. Tình hình lũ lụt thời Lê Trung hưng (1533 - 1789)1

Năm Sự kiện
1577 Tháng 9, bấy giờ, ở Thanh Hoa mưa dầm nhiều, nước lụt đến 7 lần, lúa má bị hạn nhiều,
dân đói to.
1586 Tháng 9, ngày mồng 3, nước to, mưa dầm hàng tuần. Ngày mồng 9, lại nước to. Ngày 18,
mưa dứt. Năm ấy vùng Thanh Hoa mất mùa.
Tháng 10, trời lại mưa dầm suốt hơn hai tuần không ngớt, núi ở các huyện sụt lở lung
tung.
1589 Tháng 7, nước lụt.

1
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 3, Sđd; Quốc sử
quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2, Sđd.

40
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Sự kiện
1592 Tháng 7, thủy tai lớn. Bấy giờ nước lũ thình lình đổ đến, tràn ngập cả gò đống. Lúa má ở
Thanh Hoa bị mất mùa. Dân miền Tây Nam phần nhiều đói kém.
1600 Mùa hạ, tháng 5, nước to.
1612 Tháng 8, thủy tai lớn.
1617 Mùa thu, tháng 7, ngày 15, có bão lớn, nước lụt tràn ngập, thóc lúa mất hết.
1630 Tháng 6, nước to đổ về, sông Nhị đầy tràn, ngập vào đường phố. Cửa Nam nước chảy như
thác, phố phường nhiều người bị chết đuối. Lại đê điều ở các xã Yên Duyên, Khuyến Lương
huyện Thanh Trì bị vỡ, thóc lúa hao tổn, nhân dân đói kém.
1663 Thủy tai. Nước sông Nhị tràn ngập, ruộng lúa phần nhiều bị lụt, nhất là hai phủ Khoái Châu
và Thường Tín càng bị nước phá hại nhiều hơn.
Tháng 11, giảm xá tiền thuế đinh cho dân bốn trấn có mức độ khác nhau, vì nước lụt tổn
hại lúa má.
1667 Tháng 6, xứ Thanh Hoa vỡ đê, nước lũ tràn ngập đồng ruộng của dân.
1695 Tháng Giêng, Thanh Hoa có hạn thủy tai, dân bị đói.
Thanh Hoa nước ngập, dân bị đói, triều đình cho trích một vạn quan tiền ở kho An Trường
phát chẩn cho dân. Để cứu vớt dân, triều đình lại hạ lệnh cho các quan châm chước, bàn
định chính sách cứu đói: giảm nhẹ, thuế hộ, hoãn việc xây dựng sửa chữa.
1702 Tháng Giêng, Thanh Hoa có nạn thủy tai.
Nước sông lên cao, đê Thanh Hoa bị vỡ, dân đói. Triều đình cho trích một vạn quan tiền
trong kho nội phủ, chia làm hai phần: một phần chẩn cấp cho nơi nào thóc lúa bị tổn hại;
một phần chẩn cấp cho dân phu làm công việc hàn lấp khúc đê vỡ. Lại mở kho ở trấn lấy
thóc phát chẩn cho dân bị đói. Miễn các ngạch thuế đinh và hộ.
1713 Tháng 7, nước lớn, vỡ đê. Lúc ấy mưa dầm không ngớt, nước các sông tràn ngập, vỡ đê các
trấn Sơn Tây, Sơn Nam và Thanh Hoa, mấy vạn nhà bị nước cuốn đi mất, nhân dân bị đói.
1729 Tháng 7, có thủy tai lớn.
Nước sông Nhị tràn ngập, đường đê nhiều chỗ bị vỡ. Triều đình sai bọn Hồ Phi Tích đào
sông Nghĩa Trụ để cho thủy thế lưu thông. Một mặt mở kho thóc Vị Hoàng chẩn cấp cho
dân bị thủy tai. Những ruộng cấy lúa mùa, bị ngập lụt được cấp cho thóc giống. Lại sai
quan khuyến nông chia ra từng đạo đi khám xét, chia dân lưu vong làm 4 hạng, bàn định
thi hành việc cứu vớt.
1730 Nước lớn, vỡ đê Mạn Trù
1749 Tháng 3, có thủy tai lớn. Nước tràn ngập, đê bị vỡ. Triều đình hạ lệnh tạm bắt dân phu bồi
đắp, hoãn thu tiền gia tô.
1757 Tháng 7, có thủy tai lớn.

41
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Sự kiện
1760 Tháng 9, Thanh Hoa bị thủy tai.
1769 Tháng 8, Thanh Hoa có thủy tai lớn, đê Tây Hồ ở Lam Kinh bị vỡ.
1773 Tháng 7, thủy tai lớn, vỡ đê Đông Trạch.
Nước lớn, vỡ đê Đông Trạch, các lộ Thường Tín, Ứng Thiên và Lỵ Nhân, hơn một ngàn nhà
bị nước cuốn tan nát, thóc lúa bị ngập lụt.

Trước tình hình lũ lụt như trên, triều Lê Trung hưng phải đẩy
mạnh việc đắp đê. Tuy nhiên, do tình trạng nội chiến khó khăn,
nên mọi vùng miền của đất nước không cho phép đắp thêm đê
mới. Nhưng chắc chắn là nhân dân các địa phương làng xã vẫn tự
động bồi trúc đê để chống lũ. Nhờ đó mà chính quyền nhà Lê Trung
hưng và nhà Mạc mới có lương thực để tiến hành chiến tranh. Sau
khi đánh bại nhà Mạc, làm chủ vùng Bắc Bộ, chính quyền Lê - Trịnh
có nhiều cố gắng khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản
xuất nông nghiệp.
Năm Bính Thân (1596), tháng 4, vua Lê Thế Tông hạ lệnh cho
phủ, huyện, tổng, xã các xứ trong nước, nơi nào phải trải binh lửa,
nhân dân phiêu tán, thì cho về làm ăn, tha phu dịch 3 năm1. Năm
Đinh Hợi (1707), triều đình lại có lệnh: tha phu thuế và lao dịch cho
dân phiêu tán trong 3 năm, người trở về quá nghèo khổ cũng được
miễn thuế trong 3 năm. Năm Canh Tuất (1730), triều đình có lệnh:
các làng ly tán nếu trở về đông đủ đúng hạn sẽ được thưởng, nếu
không về đúng hạn sẽ bị phạt.
Đối với việc sửa, đắp đê, triều đình nhà Lê Trung hưng cũng
thường xuyên quan tâm. Khi thời tiết hạn hán nặng, triều đình cử
quan xuống các đạo xem xét và sai làm xe tát nước để chống hạn. Việc
tuần tra, sửa chữa đê và các công trình dưới đê cũng thực hiện thường
xuyên. Từ đầu thời Lê Trung hưng không đặt chức quan chuyên trách
đê điều như thời nhà Trần và thời Lê sơ. Mãi đến khi chúa Trịnh giúp
khôi phục nhà Lê, tiêu diệt hoàn toàn nhà Mạc, ổn định triều chính
một thời gian dài mới thấy sử sách nói đến việc đắp đê.
1
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 3, Sđd, tr.194.

42
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Tân Sửu (1601), tháng 5, cho đắp đê từ huyện Chương Đức
đến huyện Mỹ Lương1. Đê này là đê sông nhánh phía hữu ngạn sông
Hồng, vùng hữu ngạn sông Đáy. Nhà Lê Trung hưng cũng đồng thời
tiến hành một đợt bồi trúc toàn bộ hệ thống đê sông Hồng.
Năm Mậu Ngọ (1618), tháng 4, chia sai bồi đắp đê điều các xứ
để phòng nạn lụt2.
Năm Tân Mùi (1631), tháng 2, bồi đắp đê điều các xứ3.
Tổ chức và luật lệ về đê, phòng chống lũ lụt, đến thế kỷ XVI - XVII
cũng được bổ sung những quy định chặt chẽ hơn. Năm Giáp Thìn
(1664), vua Lê Huyền Tông ban hành điều lệ quy định kì hạn sửa đắp
đê điều: “Cứ tháng 10 hằng năm, Ty Thừa chính các xứ sắc cho các
huyện hạt đi khám đê. Những chỗ cần sửa đắp nếu là công trình nhỏ
thì chiếu cho xã nào thế nước (lụt) có thể lên đến thì cho dân xã ấy tự
làm công việc sửa đắp, việc sửa đắp này do huyện trông coi thúc giục,
nếu là công trình lớn thì hạ lệnh cho quan (tỉnh, huyện) đôn đốc. Hằng
năm cứ sơ tuần tháng Giêng khởi công, đến trung tuần tháng ba, công
việc phải làm xong. Thể lệ này đặt thành lâu dài”4.
Năm Mậu Tý (1708), tháng 8, vua Lê Dụ Tông: “hạ lệnh sửa đắp
đê sông Nhị. Hằng năm nước sông Nhị tràn ngập. Đê có nhiều chỗ
khuyết liệt. Triều đình bèn hạ lệnh sai hai ty Trần thủ (quân sự) và
thừa chính (hành chính) đốc thúc dân phu, tùy theo địa thế mà bồi
đắp sửa chữa có lợi cho dân”5. Như vậy, đến thế kỷ XVI, ở Đại Việt
hệ thống đê sông Cái (sông lớn) và sông nhánh (chi lưu), được hình
thành, củng cố. Đê biển được xây dựng thành các dải nối liền với đê
cửa sông, ngăn mặn và ngăn sóng biển cho nhiều vùng rộng lớn.
1
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 3, Sđd, tr.212.
2
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 3, Sđd, tr.218.
3
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 3, Sđd, tr.230.
4
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2,
Sđd, tr.310.
5
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2,
Sđd, tr.398.

43
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Tân Mão (1711), tháng Giêng, “bắt đầu sai quan trong
kinh đi đôn đốc việc đắp đê. Trước đây, việc đốc thúc dân đắp đê,
giao quyền cho viên quan ở trấn, phần nhiều chỉ làm cẩu thả cho
xong việc, nên mỗi năm đến mùa nước lũ, đê lại vỡ lở, dân vùng ven
sông luôn luôn bị tai hại. Đến nay mới hạ lệnh cho quan trong kinh
là bọn Lê Dị Tài và Trần Công Trụ chia nhau đi đôn đốc. Công việc
sửa đắp đê sau đây thêm bận rộn hơn, nhưng cũng không sao ngăn
ngừa được nạn nước lụt”1.

Năm Quý Tỵ (1713), tháng 7, vì nước lớn, vỡ đê, “triều đình hạ


lệnh cho các xã dân đều chiếu theo mẫu ruộng và suất đinh trong
hộ nộp tiền, để thuê người sửa đắp”2.

Về việc sửa đắp, hộ đê, năm Mậu Tuất (1718), nhà vua quy định
chặt chẽ hơn: “Hằng năm cứ đến mùa nước lụt phải sức cho các
quan huyện đi khám xét đê lớn, đê nhỏ trong huyện hạt mình, đoạn
đê nào xung yếu hoặc lún thấp thì phải kịp đốc thúc dân sở tại sắp
sẵn tre gỗ, dụng cụ. Lại cần thúc đẩy các xã gần kề xung quanh đem
đủ các thứ mai cuốc đến cùng làm tại chỗ ấy. Các quan lưu thủ, trấn
thủ và tham chính ty phải thân hành đi đốc thúc dân phu làm việc
sửa đê và hộ đê khi nước sông lên to”.

Năm Kỷ Hợi (1719), chúa Trịnh Cương định ra 5 điều nhằm ổn


định xã hội, trong đó có điều thứ ba quy định về “sửa đắp đê điều
đường sá”3.

Năm Ất Tỵ (1725), tháng 10, “sai bọn tham tụng Nguyễn Công
Hãng làm khuyến nông sứ… Lại xem xét rõ địa thế bắt dân đắp đê,
đắp đập, để theo thời tiết lấy nước vào ruộng hoặc tháo nước ra
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2,
Sđd, tr.395
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2,
Sđd, tr.403.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2,
Sđd, tr.414.

44
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

sông, phòng bị việc hạn hán hoặc ngập lụt”1.


Năm Canh Tuất (1730), tháng 4, nước lớn, vỡ đê Mạn Trù. Lúc này,
nhà nước đã đánh giá hiệu quả của việc sửa đắp đê điều như sau: “Về
việc sửa đắp đê, trước đây ủy thác cho viên quan ở trấn, công việc làm
phần nhiều không chu đáo, nên từ năm Bảo Thái thứ 7 (1726), triều
đình tự xuất tiền công trong kho để làm, và giao cho quan võ và nội
giám chia nhau đôn đốc công việc sửa đắp, nhưng bọn này lại đều làm
những việc: phần thì đục khoét thợ thổ đấu làm thuê, phần thì mưu
toan để lấy số tiền công còn thừa lại, thành ra công việc làm không
được vững bền chắc chắn. Năm nay nước sông Nhị tràn ngập, đê ở
Mạn Trù châu bị vỡ, lúa mạ của 8, 9 huyện đều bị tai hại”2.
Năm Canh Thân (1740), sau khi lên ngôi, chúa Trịnh Doanh đã
ban hành 15 điều dụ nhằm ổn định tình hình xã hội. Trong số đó,
điều dụ thứ 15 quy định: “Đê đường, giao cho viên quan ở trấn đốc
thúc sửa đắp, để việc làm ruộng được thuận tiện”3.
Năm Ất Hợi (1755), tháng 10, lại định rõ lệnh đắp đê, quy định:
“Phàm việc đê đường: nếu là công trình nhỏ thì bắt dân bồi đắp khi
việc làm ruộng đã được thư nhàn; nếu là công trình lớn thì trừ cho
dân tiền thuế điệu”4.
Năm Quý Tỵ (1773), tháng 3, bổ dụng Nguyễn Lệ, phó Đô ngự
sử, sung làm Đồn điền sứ ở phủ Trường An. Nhân đó, lệnh cho
Nguyễn Lệ xem xét địa thế, đắp đê ngăn nước mặn, mộ dân làm
đồn điền nộp thóc5.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2,
Sđd, tr.450.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2,
Sđd, tr.475.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2,
Sđd, tr.513.
4
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2,
Sđd, tr.629.
5
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2,
Sđd, tr.703.

45
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Cũng trong năm này, tháng 7, thủy tai lớn, vỡ đê Đông Trạch.
Lúc ấy, đê vỡ lỡ, việc sửa đắp đều khó nhọc, vừa phí tổn. Bầy tôi
bàn định, cho rằng: “Công việc phiền phức trọng đại, tất phải lấy
của, lấy sức ở dân, nhưng muốn lấy, cần phải có đạo lí. Vậy nay nên
dùng chức tước để chiêu mộ lấy của ở người giàu thì người giàu
không tiếc của, dùng tiền của để chiêu mộ lấy sức ở người nghèo,
thì người nghèo không tiếc sức, của cải sức lực đều đầy đủ, mới có
thể hoàn thành công việc được”. Chúa Trịnh Sâm theo lời, bèn hạ
lệnh lấy của nhà giàu nộp vào để mộ dân đắp đê1.
Như vậy, dưới triều Lê Trung hưng, về quy mô đã có hai hệ
thống đê sông và đê biển. Về đê sông đã đắp từ sông lớn đắp lên một
số chi lưu quan trọng, thiết yếu cho kinh tế và xã hội. Đê biển thì đã
phát triển thành từng dải nối liền các cửa sông, ngăn mặn cho từng
vùng rộng lớn. Nhiều nơi có kè đá phía ngoài để chống sóng biển,
đánh dấu một bước tiến bộ mới so với thời Trần.
Bên cạnh chú trọng bồi đắp đê để chống lũ lụt, bảo vệ mùa
màng sản xuất, thời Lê Trung hưng, việc khiển phạt được quy định
thành luật pháp. Khi đê vỡ, quan thừa ty (quan tỉnh) có thể bị tội đồ
(đày đi nơi xa), quan phủ huyện bị tội lưu (giam). Nhiều quan lại đã
bị xử phạt như vậy.
Năm Mậu Thân (1668), Tham chính xứ Sơn Tây bị bãi chức vì
đốc thúc việc đắp đê chậm kì và làm dối2.
Năm Canh Thân (1680), lại một tham chính khác của xứ Sơn
Tây bị giáng chức vì kê khai việc đắp đê chậm. Tất nhiên đó chỉ là
những vụ khiển phạt lớn ghi vào sử.
Năm Bính Thân (1716), vua Lê Dụ Tông bổ sung thêm vào
điều lệ sửa đắp đê điều: “Hằng năm sau khi nước lụt đã rút, truyền
bá cho các quan huyện đến đầu mùa xuân năm sau, hết thảy đều
phải đi khám xét đê ven sông thuộc địa hạt mình. Ở địa hạt nào có
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2,
Sđd, tr.708.
2
Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 3, Sđd, tr.279.

46
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

những chỗ sụt thấp thiếu khuyết, vỡ lở hoặc thẩm lậu thì phải đốc
thúc dân sở tại và dân một hai xã lân cận hợp sức nhau lại bồi đắp
như cũ. Đến kì tháng ba, triều đình sai đi cộng đồng khám lại nếu
có đoạn đê nào bồi đắp rồi mà không kiên cố thì đều có luật tùy tội
nặng nhẹ mà khiển phạt”.
Để có vốn đầu tư vào việc đắp đê, nhà Lê Trung hưng đã hạ
lệnh cho các xã dân phải chiếu theo số ruộng và số dân trong vùng
có đê mà nộp tiền. Công trình nhỏ thì bắt dân tự làm. Công trình
lớn thì nhà nước trả tiền thù lao, hoặc bắt dân làm rồi trừ vào thuế.
Việc phân cấp sửa đắp đó, phản ánh một thực tế là vào triều Lê, hệ
thống đê điều đã phát triển. Ngoài đê sông lớn còn có đê sông nhỏ,
buộc nhà nước phải phân cấp xây dựng và quản lý.
Có thể thấy, trong các thế kỷ XVII - XVIII, ở Đàng Ngoài, nhà
Lê Trung hưng có tổ chức chuyên trách đê, sông, khuyến nông ở
các cấp tỉnh đến huyện. Các cấp chính quyền tỉnh huyện phải chịu
trách nhiệm chính trong việc đê sông, khuyến nông. Triều đình đôi
khi cũng cử quan trong triều đi khám xét, kiểm tra. Các xã trưởng
do dân cử ra chăm lo việc đê sông, khuyến nông và các công việc
của xã. Chính quyền Lê - Trịnh cũng thi hành chính sách lấy sức
của dân và binh lính cho việc hà đê. Trường hợp khẩn cấp vua chúa
cũng đi đôn đốc kiểm tra việc hộ đê, chống lụt. Luật lệ về đê thưởng
phạt nghiêm và chặt chẽ hơn những thời trước. Nếu để đê vỡ, quan
thừa ty có thể bị tội đồ (làm việc khổ sai), quan huyện bị xử tội lưu
(giam cầm). Nhiều trường hợp quan lại đã bị xử như vậy.
Về vốn cho việc hà đê, triều đình lệnh cho các xã phải chiếu
theo số dân và số ruộng trong vùng có đê phải sửa đắp mà nộp tiền.
Nếu công trình hỏng thì xã dân phải tự làm. Công trình lớn thì nhà
nước trả tiền thù lao, hoặc bắt dân làm rồi trừ vào thuế của dân.

Đàng Trong
Trong các thế kỷ XVII - XVIII, các chúa Nguyễn khuyến khích
di dân vào khai phá vùng đất Thuận Quảng, sau tiếp tục di dân vào
vùng đất phía Nam còn rất hoang sơ, sình lầy (cây cối, cỏ rậm rạp,
47
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lau sậy lút đầu người, đầy rắn rết, muỗi, cá sấu, thú dữ), đẩy mạnh
việc đào sông, khơi ngòi, mở mang kênh rạch, đắp bờ bao, làm
đường giao thông, điều tiết nước, cải tạo đất, khai phá đất hoang,
gia tăng thêm diện tích canh tác, đất cư trú lập nhiều làng ấp, mở
rộng bờ cõi vương quốc Đàng Trong từ dãy Hoành Sơn trở vào đến
tận vùng đất Hà Tiên ngày nay. Sau cư dân Việt, có một số người
Hoa di cư tới khai khẩn, lập làng cư trú. Thế kỷ XVII vương quốc
Đàng Trong trở nên trù phú.

7. Thời Tây Sơn (cuối thế kỷ XVIII)


Phong trào Tây Sơn thắng lợi và đã tạo được một thời kỳ ổn
định tuy ngắn ngủi cho đất nước từ Phú Xuân (Huế) trở ra Bắc. Nhà
Tây Sơn lên nắm quyền, quản lý đất nước trong bối cảnh quá ngắn
ngủi, lúc này tình hình chính trị Bắc Hà phức tạp, phải lo củng cố
nội bộ, trấn áp nội phản, đặc biệt là chống nhà Nguyễn và chống
ngoại xâm nên công tác trị thủy không được chú trọng.
Sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Thanh, vua Quang Trung
đã ban bố chiếu khuyến nông, bắt dân phân tán phải trở về khai
khẩn đất đai để khôi phục sản xuất nông nghiệp. Mọi người dân
phải trở về làng xã nhận ruộng đất công để làm ăn sinh sống. Chính
sách quân điền được sửa đổi, nông dân có thêm khẩu phần đất
đủ sinh sống. Ruộng đất bỏ hoang quá hạn định được sung công
để chia cho người sản xuất. Trong hoàn cảnh thiên nhiên của Việt
Nam, kinh nghiệm lịch sử trước đó đã chứng minh rằng, muốn khôi
phục và phát triển nông nghiệp không thể không chú ý đến đê điều
trị thủy, phòng chống lũ lụt.
Các trận vỡ đê vào cuối thế kỷ XVIII ngày càng trầm trọng. Năm
Quý Tỵ (1773), thủy tai lớn vỡ đê Đông Trạch, các lộ Thường Tín,
Ứng Thiên và Lý Nhân hơn 1.000 nhà bị nước cuốn tan nát, thóc lúa
bị ngập lụt. Đặc biệt là trận vỡ đê ở trấn Sơn Nam thượng năm Giáp
Dần (1794). Theo Phan Huy Ích, hơn 20 huyện trông như biển, mênh
mông sông bạc, không bến bờ,… Nước ngập in ngấn lên lung mành,
cành cây một mầu đất cát ố, đồng ruộng lầy lội, không thu hoạch
48
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

được gì, dân bỏ cày cuốc để đi chài lưới và đơm cá,… Năm Ất Mão
(1795), Phan Huy Ích được trao nhiệm vụ đôn đốc các huyện khởi
công đắp 22 đoạn đê mới, dài 3.000 trượng (9,9km). Tuy nhiên, công
việc đắp đê tiến hành dưới thời kỳ chiến tranh giữa Nguyễn Ánh và
Tây Sơn chưa kết thúc, do đó, kết quả đạt được không có gì nhiều.
Sau khi lên ngôi thiết lập vương triều mới, bên cạnh chính sách
khuyến nông, vua Quang Trung cũng rất chú trọng chăm lo đê
điều. Tuy nhiên, triều đại Tây Sơn tồn tại quá ngắn ngủi, các sử liệu
lại bị triều Nguyễn làm cho mai một, vì vậy, đến nay chỉ còn biết
đến một sự kiện quan trọng là triều Tây Sơn đã có một lần (không rõ
năm nào) khởi công đắp đê sông Hồng.
Trong bản điều trần của Nguyễn Đăng Giai năm Đinh Mùi
(1847) thì phê phán nhà Tây Sơn biết có đê mà không biết có sông,
đem một dải Nhị Hà1 đại khởi công đắp đê, lấp hết các cửa cống, vì
thế mà nước không thoát được, vỡ đê: “Thời ngụy Tây Sơn chuyên
làm bạo nghịch, chỉ biết có đê, không biết đến sông. Dựa cả một dài
Nhị Hà khởi đại công đắp đê nhất thiết các cửa cống cửa sông nhỏ
đều lấp đi. Vì vậy thủy thế ngày càng tràn lan”2. Ý kiến trên của
Nguyễn Đăng Giai chưa chắc đã đúng. Chúng ta biết rằng, năm
Đinh Tỵ (1797), Nguyễn Công Thùy còn có tờ sức nói về việc đóng
mở cống Vĩnh Ninh ở huyện Thanh Trì.

1
Tên gọi trước đây của sông Hồng (cũng còn được gọi là Nhĩ Hà)
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
2007, tr.964.

49
Chương 2 :

ĐẮP ĐÊ, CẢI TẠO SÔNG NGÒI VÀ TRỊ THỦY


NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX (1802 - 1858)

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ


Năm Nhâm Tuất (1802), vương triều Nguyễn thành lập được
thừa hưởng những thành quả và kinh nghiệm hàng nghìn năm của
các thời đại trước. Quá trình lâu dài sửa, đắp đê, đào sông, khơi
ngòi, phòng chống lũ lụt, ngập úng đảm bảo nước cho sản xuất, đời
sống, đem lại nhiều mối lợi cho con người. Tuy nhiên, việc xây dựng
các hệ thống đê, khơi đào, cải tạo các dòng sông chưa có đủ hiểu
biết về quy luật tự nhiên, nên chưa giải quyết được những vấn đề
khoa học trị thủy mà thời Nguyễn bắt đầu ý thức được những vấn
đề phức tạp của công cuộc trị thủy cần lý giải.
Thế kỷ XIX, nhà Nguyễn quản lý một đất nước trải dài ba miền
địa hình với môi trường tự nhiên có quá trình kiến tạo khác nhau,
ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu và tác động của thiên nhiên khác
nhau. Trong đó, trước các thành quả của việc đắp đê từ nhiều thế kỷ
trước, công tác trị thủy dưới triều Nguyễn tập trung chủ yếu trên
địa bàn vùng Đồng bằng sông Hồng và ở mức độ nhất định là ở
đồng bằng duyên hải miền Trung.
Đồng bằng sông Hồng được khai thác từ rất sớm. Để chống lũ
trên các dòng sông và ngăn mặn từ biển nhằm phát triển sản xuất
nông nghiệp và bảo vệ dân cư ven sông, ven biển, ngay từ thời Lý -
Trần, ở vùng này nhà nước đã tiến hành đắp đê đỉnh nhĩ, đê quai vạc.
Nguyên nhân dẫn đến lũ lụt ở Đồng bằng sông Hồng là phải
đối mặt với lượng nước lũ, nước mưa rất lớn từ thượng nguồn các
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

dòng sông đổ về vào mùa bão lũ với lũ lớn và lưu lượng lớn chảy
xiết, trong khi đó mưa bão lớn thường diễn ra ở trung, hạ lưu. Sức
đê chưa đủ sức chống đỡ với những trận lũ lớn và mưa to kéo dài
nhiều ngày. Nước các dòng sông trên thoát nhanh hay chậm tuỳ
thuộc vào cửa biển gần hay xa, dòng sông cửa biển nông hay sâu.
Đất mới bồi ở cửa biển càng rộng thì dường như nước sông chảy
ra biển càng ngày càng xa. Nước lũ ứ đọng dâng lên ngày càng cao
gây ra vỡ đê, ngập lụt hằng năm. Vì vậy, triều Nguyễn phải lý giải
về việc đắp đê để phòng chống lụt, chống vỡ đê. Các ý kiến về đê
và chống vỡ đê lúc này là cần thiết, có ý nghĩa tích cực đối với việc
đắp đê phòng chống lụt.
Thượng thư bộ Hình nhà Nguyễn là Trần Bình trong bản tấu
gửi triều đình tháng 10 năm Ất Hợi (1875) đã nhận xét: “Đời trước
lòng sông còn sâu, đê điều đắp qua, tự ngăn được lụt. Về sau, đê
công, quai riêng đoạn ấy, đoạn khác ngăn lấp, nước mới không yên,
bỗng có vỡ lở, lại phải đắp đê mới khác (đắp quanh vào ruộng có
khi đến 1.000 - 2.000 trượng), đê đắp vòng quanh, nước cũng chảy
vòng quanh, bùn cát ứ đọng, để cho lòng sông ngày càng nông, cho
nên thế nước hằng năm tăng lên, không may mà vỡ lở, nhà dân,
đình chùa đều ngập mất cả, rất tốn của sức công, tư không tranh
được với nước”1.
Một nguyên nhân quan trọng nữa là vào cuối thế kỷ XVIII,
chiến tranh, loạn lạc liên miên, nông dân phải bỏ làng đi phiêu tán,
đê điều không được bảo vệ, chăm sóc thường xuyên, nạn vỡ đê vì
thế ngày càng trầm trọng hơn. Thống kê cho thấy, đến thế kỷ XIX,
tình hình thiên tai ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ cũng trở nên nghiêm
trọng hơn so với các thế kỷ trước (xem bảng 5).

1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 9, Sđd, tr.150.

51
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bảng 5. Thống kê tình hình lũ, lụt, vỡ đê ở Bắc Bộ (1803 - 1857)1

Năm Địa phương


1803 Bắc Thành vỡ đê nhiều chỗ
1804 Bắc Thành vỡ đê nhiều tỉnh
1806 Xã Công Luận (Văn Giang, Bắc Ninh (từ 1947 thuộc Hưng Yên)), xã Đạm Xuyên (Yên Lãng, Sơn
Tây), xã Thầm Quy (Phú Xuyên), xã Lục Tràng, Chân Cầu (Kim Bảng), Nga Sơn, Hồi Trung, Thụy
Lôi (Nam Sang, Sơn Nam thượng), xã Quan Khê, Lão Khê (Hưng Nhân, Sơn Nam hạ)
1807 Sơn Nam hạ
1809 Hải Dương, Quảng Yên, Sơn Nam hạ
1815 Sơn Tây và Sơn Nam thượng
1824 Bắc Thành
1825 Nam Định
1827 Sơn Tây, Sơn Nam, Nam Định
1828 Xã Kim Quan (Bắc Ninh), xã Thanh Nga (Nam Định), xã Phụng Nghĩa (Sơn Tây), xã Võng
Quan (Sơn Nam)
1829 Hưng Hóa, Ninh Bình.
1830 Xã Lưu Khê, huyện Thượng Phúc (Sơn Nam)
1831 Nam Định
1832 Đê Bạch Sam, Hòa Khê, huyện Duy Tiên (Hà Nam)
1833 Xã Sài Quất, Sài Thị, Nhuế Dương (Hưng Yên)
1837 - Đê Vân Trai (Sơn Tây) ngập 6 huyện: Tiên Phong, Phúc Tạo, Minh Nghĩa, Thạch Thất, An
Sơn, Mỹ Lương.
- Vỡ đê phủ Khoái Châu (Hưng Yên) ngập 5 huyện.
- Ninh Bình
1838 - Lụt ở các huyện phía hữu ngạn sông Cửu An (thuộc Hưng Yên).
- Ninh Bình
1839 - Từ Hà Tĩnh trở ra đến Lạng Sơn bị bão lụt.
1840 - Xã Du Lâm, Đông Xá (Bắc Ninh).
- Thanh Hóa, Ninh Bình, Sơn Tây, Nam Định.
1842 Hà Nội, Ninh Bình, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Dương bị mưa to úng lụt.
1843 Ninh Bình, Nam Định bị bão, nước biển tràn vào.

Tổng hợp từ: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, Sđd.
1

52
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Địa phương


1844 - Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương.
- Tỉnh Hải Dương có 9 huyện gồm 175 xã thôn. Tỉnh Sơn Tây có 9 huyện, 105 xã thôn không
cấy được, bị mất mùa.
1847 - Đê huyện Thanh Liêm, Thanh Oai, Phú Xuyên, Duy Tiên (Hà Nam); Đông Ngàn (Bắc Ninh),
Ninh Bình.
- Mỹ Lộc, Thư Trì (Nam Định).
1852 Xã Hùng Phú, Ngoại Khê (Hà Nội), An Thường (Bắc Ninh), Hoàn Lão (Hưng Yên).
1856 - Xã Phú Chử, huyện Thư Trì (Nam Định).
- Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên, Bắc Ninh,…
1857 - Huyện Vĩnh Thuận, Thượng Phúc, Duy Tiên (Hà Nam), Đông Ngàn, Tiên Du (Bắc Ninh), Thư Trì,
Giao Thủy, Ý Yên, Phong Doanh (Nam Định)
- Vỡ đê Quảng Bá (Hà Nội), Hà Lão (Hưng Yên).

Qua bảng thống kê trên, có thể thấy rằng, từ năm 1803 đến năm
1857, ở Bắc Bộ có 26 năm có thiên tai, trong đó có nhiều lần vỡ đê và
lụt. Đặc biệt, trong trận lụt năm Ất Hợi (1815), ở Sơn Tây và Sơn Nam
thượng có đến 214 thôn xã bị ảnh hưởng lớn1. Các địa phương có đê
sông Hồng từ Sơn Tây, Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định đều
đã có những trận vỡ đê ở những nơi xung yếu. Tình hình vỡ đê tập
trung chủ yếu ở vùng trung châu thổ gồm phía dưới thị xã Sơn Tây
xuống Hà Nội, Bắc Ninh và Hưng Yên. Trong đó, tập trung nhiều nhất
là ở vùng đê Văn Giang 10 năm vỡ đê liền (từ năm 1872 đến năm 1882)
dưới triều vua Tự Đức.
Từ những điều trình bày trên, có thể thấy, thế kỷ XIX, vấn đề trị
thủy đặt ra rất gay gắt, cấp thiết ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ.
Các công trình đê điều xây dựng từ trước có nhiều yếu kém,
lại bị hư hại nhiều do thiên tai, chiến tranh. Hơn nữa tình trạng gia
tăng dân số, diện tích ruộng đất công giảm sút nhiều đòi hỏi phải
đẩy mạnh sửa đắp đê, xây dựng các công trình dưới đê, phát triển hệ
thống thủy nông,… khai hoang gia tăng diện tích canh tác, ruộng đất
công và đất cư trú. Trong hoàn cảnh cấp bách đó buộc vương triều
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.906.

53
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Nguyễn phải quan tâm nhiều đến việc xây dựng, củng cố, phát triển
hệ thống đê sông, đê biển và thủy nông vừa phòng chống lũ lụt, vừa
đẩy mạnh khai hoang phục hóa, lập đồn điền, tăng diện tích canh tác
và đất cư trú.

II. THẢO LUẬN VỀ VIỆC BỎ ĐÊ HAY GIỮ ĐÊ Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ


1. Lý do có các cuộc thảo luận về đắp đê ở Đồng bằng Bắc Bộ
Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã gửi chiếu cho quan lại, nho sĩ,
thứ dân ở Bắc Thành, trong đó có đoạn: “… Những huyện ở ven sông
trong địa phương các ngươi từ trước đã lập đê điều để phòng nước lụt.
Song tuần đã lâu, hễ đến mùa lụt thì đê điều vỡ lở, lúa ruộng bị ngập,
người và súc vật bị hại. Bọn ngươi, người thì sinh ra ở nơi đó, người thì
từng làm việc ở nơi đó, thế đất tình người đã từng am thuộc. Vậy đắp
đê và bỏ đê, cách nào lợi, cách nào hại, cho được bày tỏ ý kiến”1.
Lời chiếu dụ trên cho thấy rõ ràng, vua Gia Long rất ý thức được
tầm quan trọng của việc trị thuỷ đối với sự phát triển của kinh tế đất
nước. Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra là: Tại sao đến thời Nguyễn,
mở đầu là vua Gia Long lại đặt vấn đề đắp đê hay bỏ đê? Có thể viện
dẫn mấy nguyên nhân dẫn tới các cuộc thảo luận về đắp đê hay bỏ đê
ở Đồng bằng Bắc Bộ dưới thời Nguyễn thế kỷ XIX như sau:
Thứ nhất, do đặc điểm tình hình đất nước sau khi thống nhất và
hoàn cảnh xuất thân của vua Gia Long.
Trước khi vương triều Nguyễn thành lập, các chúa Nguyễn chỉ
quản lý một vùng đất rộng lớn ở Đàng Trong (chủ yếu là vùng Nam
Trung Bộ và Nam Bộ). Cả đồng bằng miền Trung và Nam Bộ Đều có
điều kiện địa hình và khí hậu khác với Đồng bằng Bắc Bộ. Với địa
hình đặc thù, khí hậu khắc nghiệt, ít mưa, lại chịu ảnh hưởng của
gió Lào nên nạn thiếu nước diễn ra thường xuyên. Do đó, ở miền
Trung cần phải đào sông và kênh dẫn nước, đắp đập giữ nước để
tưới nước vào mùa khô chứ không phải đắp đê ngăn nước như ở
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.572-573.

54
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bắc Bộ. Khi các chúa Nguyễn trấn trị vùng Thuận - Quảng, công
việc đào kênh dẫn nước và xây đập được tiến hành thường xuyên
(các kênh Trung Đan, Mai Xá ở vùng Vũ Xương và Hải Lăng (Quảng
Trị) đào năm Tân Dậu (1861),… là ví dụ). Thế kỷ XIX, triều Nguyễn
vẫn tiếp tục cho đào nhiều kênh và đắp nhiều đập ở vùng Quảng
Trị, Phú Yên, Thừa Thiên,…
Sau khi làm chủ vùng Gia Định, nhà Nguyễn cũng giải quyết khá
thành công vấn đề trị thuỷ, thuỷ lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đó
là đào kênh và sông dẫn nước ngọt để thau chua, rửa mặn. Theo các
nhà địa chất: “Trong một thời gian lâu dài, đồng bằng sông Tây Nam
Bộ được phù sa của sông Cửu Long bồi đắp mà không có sự can thiệp
quá sớm và mau chóng của con người (như đắp đê, làm tăng cường
tính chất ô trũng và ngăn chặn sự bồi đắp liên tục của phù sa): sự điều
chỉnh tự nhiên của dòng nước lũ thông qua Biển Hồ (Campuchia) và
các kênh rạch làm cho nạn lụt không hề là một mối đe doạ hằng năm,
các cơn bão hung dữ từ Biển Đông đến thường không đụng chạm
đến vùng đất phì nhiêu đó”1. Như vậy, ở Nam Bộ không biết đến đắp
đê. Do đó, vua Gia Long và các cận thần của mình tất nhiên phải đặt
vấn đề tại sao lại phải đắp đê ở Đồng bằng Bắc Bộ? Tại sao không thể
để nước chảy tràn vào mùa lũ như ở Nam Bộ?
Thứ hai, sự thay đổi địa hình ở Đồng bằng Bắc Bộ, làm biến đổi
hệ sinh thái vùng châu thổ.
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, khi mà Đồng bằng Bắc Bộ đã
được khai thác hết, hệ thống đê điều tương đối hoàn chỉnh, thì các vấn
đề sinh thái vốn có từ trước mới nảy sinh. Theo thống kê của người
Pháp, đầu thế kỷ XIX, xứ Bắc Kỳ có tới 2.400km đê, tương ứng là 156
triệu m3 đất. Một phần lớn phù sa được đem phủ lên trên các bãi bồi và
doi cát ven sông ở ngoài đê lắng đọng làm nước sông dâng lên. Hằng
năm khi mùa lũ lên, nước sông chảy xiết, áp mạnh vào thân đê, đặc biệt
là nơi bờ lõm của các khúc song uốn cong. Những quãng đê đắp trên
nền các bãi bồi và đầm hồ như Khoái Châu thì có nguy cơ vỡ đê càng
1
Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, Nxb Khoa học kĩ thuật, Hà Nội, 1997, tr.46.

55
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lớn. Các học giả thế kỷ XIX cũng đề cập đến nguy cơ này. Chẳng hạn,
Nguyễn Văn Siêu viết: “Địa thế các tỉnh Bắc Kỳ, tỉnh nào gần sông và
ven biển đều ngoài cao, trong trũng như cái nồi lật ngửa”1.
Tiếp đó, Đặng Xuân Viện đã phân tích một cách chi tiết hơn:
“Có hai nguyên nhân gây ra thuỷ tai: một là, nước cống tiêu chóng
hay chậm là tuỳ theo cửa biển gần hay xa. Hễ đất mới bồi ở cửa biển
ngày càng rộng thì đường nước sông chảy ra biển ngày càng xa. Đời
Trần cửa biển còn ở Bố Hải (Vũ Thư, Thái Bình) và Đại Nha (Nam
Định), ngày nay cửa biển ở Trà Lân (thuộc Thái Bình), ở Ba Lạt và
Hà Lạn (thuộc Nam Định). Hai huyện Tiền Hải và Hải Hậu đã trở
thành cánh đồng bằng lớn, nhân dân trồng cấy và đắp đê, xây cống,
cửa biển do đó mà dần dần xa và hẹp, nước từ nguồn trên khó lòng
tiêu thoát được. Đó là một nguyên nhân là do sông tràn ngập.
Hai là, nước sông chảy xiết là tuỳ theo dòng sông rộng hay
hẹp đế dày lên hay rút lui. Cát sỏi mới bồi ở lòng sông ngày càng
tăng thêm thì nước từ nguồn đổ xuống ngày càng ứ đọng. Xem như
sông Đại Bi trước kia dòng nước chảy thẳng ra biển, từ khi sông bị
nghẽn lấp, đường nước phải quanh co… hoặc sông Cửu An đào
dưới thời Minh Mệnh để dẫn nước chảy về phía đông nhằm giảm
bớt sức nước, nhưng dòng sông ấy lâu ngày bị lấp, nước không chảy
về phía đông được, cũng như sông Luộc trước kia, các người nước
ngoài đến ta buôn bán, đều phải do sông này để đến Hiến Nam
(Hưng Yên) thì nay đã bị cát bồi lấp, không đi lại được”2.
Tổng đốc Hưng Yên đầu thế kỷ XX cũng nhận xét: “Sông
Hồng phù sa rất nhiều, khi đọng lại liền thành đất bãi, do thế mà
cửa Càn ở Hưng Yên mới chuyển thành Luộc, cửa Hoàng, cửa
Liêu. Phàm chuyển biến năm lần bảy lượt mà nay thành ra sông
1
Sự tích đê sông Hồng ở Bắc Kỳ, Thư viện Khoa học Xã hội, Bản dịch Ngô Linh
Ngọc, Thư viện Viện Sử học. Dẫn theo: Đỗ Đức Hùng, Vấn đề trị thuỷ ở Đồng
bằng Bắc Bộ dưới thời Nguyễn (thế kỷ XIX), Sđd, tr.35.
Đặng Xuân Viện, Hà phòng quản kiến, Nam phong số 109. Dẫn theo: Đỗ Đức Hùng,
2

Vấn đề trị thuỷ ở Đồng bằng Bắc Bộ dưới thời Nguyễn (thế kỷ XIX), Sđd, tr.35-36.

56
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Đài, đã nhập vào hải phận Thanh Hoá. Đến như cửa Thái Bình
trở về phía Tây, chảy phóng ra Nam Hải có đến 6 cửa bể, nước
triều lên còn có thể đi thuyền, mùa đông mùa xuân khô cạn, bãi
cát chen chúc, trông xa như ruộng phẳng; chỉ có cửa sông Đài có
thuyền buôn qua lại, nhưng tầu to cũng có lúc bị mắc cạn. Huống
chi cửa bể ngày càng xa, việc tiêu nước cũng không nhanh được,
thêm vào đó, dân ta sinh sản nhiều gấp năm sáu lần trước đây,
những người nhân lợi (sa bồi) mà dựng nhà cày cấy ở đấy, phù sa
bồi đến đâu, đắp đê ngăn nước mặn đến đấy, thậm chí đắp ngang
sông làm thành ruộng, như sông Quế Hải, sông Nhĩ huyện Hải
Hậu, sông Long Hầu, sông Mã Hầu, sông Ngô Đồng ở Tiền Hải,
các sông gần bể, đại khái đều như thế…”1.
Điều kiện tự nhiên của thế kỷ XIX không thay đổi mà tần số
những trận vỡ đê, lụt ngày càng lớn, đó là do sự thay đổi của điều
kiện sinh thái vùng Đồng bằng sông Hồng.
Thứ ba, tần suất của các lần vỡ đê, các trận lụt, ngập úng ở Đồng
bằng song Hồng trở nên thường xuyên hơn vào cuối thế kỷ XVIII.
Cuối thế kỷ XVIII, do chiến tranh, loạn lạc liên miên, nông dân
phải bỏ làng đi phiêu tán, đê điều không được bảo vệ chăm sóc
thường xuyên, nạn vỡ đê vì thế ngày càng trầm trọng hơn. Năm Giáp
Tuất (1754), vỡ đê ở xã Bộ Đầu và Võng Xuyên (vùng huyện Thường
Tín và Phúc Thọ, Hà Tây). Năm Bính Tuất (1766) vỡ đê ở các hạt thuộc
Kinh Bắc. Năm Quý Tỵ (1773), thuỷ tai lớn, vỡ đê ở Đông Trạch, các
lộ Thường Tín, Ứng Thiên và Lý Nhân hơn 1.000 nhà bị nước cuốn
tan nát, thóc lúa bị ngập lụt. Đặc biệt là trận vỡ đê ở trấn Sơn Nam
thượng năm Giáp Dần (1794) dưới thời Tây Sơn. Nước ngập in ngấn
lên lưng mành, cành cây một màu đất cát ố, đồng ruộng lầy lội, không
thu hoạch được gì, dân cày cuốc đi chài lưới và đơm cá2.
1
Sự tích đê sông Hồng ở Bắc Kỳ, Thư viện Khoa học Xã hội, Bản dịch Ngô Linh
Ngọc, Thư viện Viện Sử học. Dẫn theo: Đỗ Đức Hùng, Vấn đề trị thuỷ ở Đồng
bằng Bắc Bộ dưới thời Nguyễn (thế kỷ XIX), Sđd, tr.36-37.
2
Dẫn theo: Đỗ Đức Hùng, Vấn đề trị thuỷ ở Đồng bằng Bắc Bộ dưới thời Nguyễn (thế
kỷ XIX), Sđd, tr.37.

57
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Từ những nguyên nhân và biểu hiện như trên, có thể thấy, cho
đến thế kỷ XIX, vấn đề trị thuỷ ở vùng Đồng bằng sông Hồng được
đặt ra gay gắt hơn bao giờ hết. Các cuộc thảo luận về đắp đê hay bỏ
đê ở Đồng bằng sông Hồng cũng diễn ra sôi nổi hơn.

2. Nội dung các cuộc thảo luận đắp đê hay bỏ đê


Ngay đầu thời Gia Long (1802 - 1819), việc thảo luận về vấn đề
trị thuỷ ở Đồng bằng Bắc Bộ đã bắt đầu. Nội dung các cuộc thảo
luận chủ yếu tập trung vào vấn đề bỏ đê hay đắp đê.
Mở đầu cuộc thảo luận, vua Gia Long khi vua ban chiếu gửi
quan lại và nhân dân Bắc Thành nêu ra ý kiến về việc bỏ đê hay
đắp đê1.
Trả lời chiếu dụ của vua, nhiều ý kiến của quan lại đã được tâu
lên. Có người nói đắp đê thì lợi, người lại bảo bỏ đê thì lợi. Vua cho
rằng, dư luận còn phân vân nên vẫn tiếp tục cho đắp đê.
Thời kỳ vua Minh Mệnh, trong 13 năm đầu (1820 – 1833) đã
cố gắng giải quyết vấn đề trị thủy ở Bắc Bộ theo hướng vua Gia
Long đã làm. Vua cho thành lập riêng một cơ quan phụ trách đê
điều ở Bắc Kỳ. Một đợt đắp đê với quy mô lớn vào các năm Mậu
Tý (1828) và Kỷ Sửu được tổ chức (1829). Kết quả, mấy năm sau đó
(1829 - 1831) đê không bị vỡ.
Tuy nhiên, vì vua Minh Mệnh chỉ chú trọng đến việc củng cố
đê điều mà không chú ý đến một vấn đề cũng rất quan trọng là đào
sông thoát lũ chia lũ. Đến năm 1833, nhiều con đê ở khu vực xung
quanh Hà Nội, Bắc Ninh, Sơn Tây bị vỡ. Vua Minh Mệnh bày tỏ lo
lắng của mình nên lệnh cho các tổng đốc, tuần phủ xem tình hình
nước rút thế nào rồi tâu lên. Sau đó, vua lệnh cho các tỉnh ở trong
(kinh đô) và ở ngoài (các địa phương) điều trần về phương pháp đề
phòng chống nạn lụt. Các ý kiến thảo luận về vấn đề bỏ đê hay đắp
đê lại diễn ra sôi nổi.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.572-573.

58
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Trong cuộc thảo luận, bên cạnh những ý kiến ủng hộ việc tiếp
tục đắp đê, giữ đê đã bắt đầu xuất hiện ý kiến bỏ đê. Đại diện là
Tổng đốc Định - Yên Đặng Văn Thiêm và Tuần phủ Trịnh Quang
Khanh. Trong một tập tấu dài gửi triều đình, hai ông đã viết: “Các
đoạn đê bao ngoài huyện Đông An hiện nay bị thế nước ở phía hữu
sông Cái chảy xói vào, dù có đắp lại con đê công ở vòng trong chăng
nữa, thì đất mới đắp chưa hoàn thổ, mà nước mùa thu vụt tràn lên,
thiết tưởng cũng khó mà yên tâm được. Vả lại, những chỗ vỡ ở đê
Sài Thị và Sài Quất, dòng nước chảy qua các cánh đồng, mỗi nơi đều
thành một cái ngòi nhỏ, chảy qua các huyện Thiên Thi, Tiên Lữ và
Phù Dung, nay hỏi những kì lão và Tổng lý sở tại đều nói: sửa đắp
đê mới hay đê cũ, công trình nặng nhọc và phí tổn công khố cũng
nhiều, thế mà khó nói trước được rằng có giữ được chắc chắn hay
không. Nếu đổi ra làm việc khai sông thì nhân những đường nước
chảy ấy mà mở rộng thêm: bề ngang độ trên dưới 5, 6 thước, chỗ
nào cong queo thì đào cho thẳng, như vậy, không những bớt được
chút ít phí tổn, mà lại có thể phân được thế nước và bớt được sự xô
mạnh dồn xuống”1.
Những đình thần ủng hộ phương án lấy việc khai sông thay
cho đắp đê thường đề nghị đình hoãn tất cả những công việc tu sửa
đê công, đê tư ở vùng Hưng Yên “thử để vụ mưa lụt sang năm xem
tình hình ra sao?”.
Chấp nhận lời của đình thần và sở nguyện của dân nhưng nhà
vua vẫn sai Đặng Văn Thiêm và Trịnh Quang Khanh tuyên cáo rõ
ràng cho dân chúng biết, rằng: “Đình chỉ việc đắp đê, là thể theo dân
tỉnh, chứ triều đình vốn không phải không quan tâm đến dân sự”2.
Mùa thu năm Quý Tỵ (1833), khi nghe tấu báo nông dân trong
vùng Duy Tiên rằng bỏ đê được lợi nhiều, vua xuống dụ rằng:
“Người địa phương ấy nói ra, hoặc là nhìn theo một chiều, há nên
vội vã căn cứ nhẹ dạ tin ngay ư? Vả lại, việc đắp đê phòng lụt, có
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 3, Sđd, tr.940.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 3, Sđd, tr.941.

59
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

quan hệ đến nguồn sống của dân, lợi, hại không phải là nhỏ, mà
nên theo cũ hay nên đổi mới, cũng phải châm chước ý kiến mọi
người, mới mong được tốt đẹp”1. Tuy vậy, dân các huyện lân cận
như Kim Bảng, Chương Đức, Hoài An, Sơn Minh, Phú Xuyên và
Thượng Phúc cũng cho việc bỏ đê là lợi nên tiếp tục bỏ đê. Các
huyện Thanh Trì, Thanh Oai (Hà Nội) cũng lấy lý do “ở đó liên lạc
với các huyện Sơn Minh, Hoài An, Thượng Phước, Phú Xuyên, Duy
Tiên và Kim Bảng ở hạ lưu” mà “muốn thôi đắp một loạt, để cho sức
dân được thư thả và việc nông được tiện lợi”2.
Với những lời tâu bày trên, nhà vua phê chuẩn lời tâu xin có
phần mạnh bạo hơn: “Về việc đê điều có quan hệ đến sự lợi hại. Từ
trước đến nay không quản ngại đến khó nhọc và tốn kém về sự bồi
đắp, là chỉ vì hết sức mưu tính lợi ích cho nghề nông. Nếu nhà nước
không phải tốn kém, dân chúng không bị nhọc nhằn mà dân được
lợi, thì có đê không bằng không đê là tốt hơn. Làm một việc mà tiện
hai đường, còn lợi gì lớn hơn nữa? Sao lại năm này năm khác để phí
biết bao công của làm gì!”3.
Vua Minh Mệnh chủ động bàn với quần thần giải pháp vừa
khơi lòng sông, vừa lấy đất khơi sông để đắp những tiểu bồi: “Nay
muốn khơi sông, dẫn nước, mà đê cũng đắp nhỏ, đề phòng kì nước
tiết tiểu mãn, khiến cho lúa chiêm được gặt, dân khỏi đau khổ. Vậy
các ngươi nên bàn tính cho kĩ, nếu có thể được lợi cả đôi đường, thì
dẫu có tổn phí của kho, ta cũng không kể đến”4. Đó cũng là cơ sở
cho kế hoạch đào sông Cửu An tiến hành trong các năm 1835 - 1837
sau đó.
Tham gia cuộc thảo luận ở giai đoạn này phải kể đến ý kiến
của Nguyễn Công Trứ. Ông là người có kinh nghiệm thành công
trong việc đào sông, khai hoang ở vùng đất Nam Định từ những
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 3, Sđd, tr.794.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 4, Sđd, tr.403.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 4, Sđd, tr.404.
4
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 4, Sđd, tr.344.

60
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

năm 1828 - 1929. Thời kỳ này ông cũng được giao nhiệm vụ đi khám
đạc để thực thi công trình sông đào Cửu An. Ngoài những điều đã
trình bày trên, Nguyễn Công Trứ dâng một tập thỉnh bàn về vấn đề
trị thuỷ ở Bắc Thành và đưa ra cả hai phương án: bỏ đê và đắp đê.
Cả hai phương án này đều đòi hỏi thực hiện ở mức độ cao. Nguyễn
Công Trứ đã phân tích khá tỉ mỉ việc thực hiện phương án bỏ đê và
đắp đê. Ông cho rằng, nếu bỏ đê thì phải tiến hành di dân và khơi
một loạt sông. Nếu giữ đê thì phải củng cố đê cao và to rộng hơn.

Hình 1. Sông và đê Cửu An thời Nguyễn (từ Nghi Xuyên qua Mai Viên, Ba Đông)1
Vua Minh Mệnh không chấp nhận lời đề nghị của Nguyễn
Công Trứ và đặt nhiều hi vọng vào công trình sông Cửu An và cố
gắng bảo vệ kế hoạch này. Nhà vua dụ: “Chống lại với nước sông,
đã đành là sự tính lầm của người trước! Mà cái thuyết cho rằng sau
khi có đê, không thể bỏ đê được, chưa hẳn đã là không phải. Nay,
nếu muốn bỏ đê, mà di dân đi trước, thì sẽ nhốn nháo một phen,
chưa thấy có lợi, đã thấy có hại! ta đã nhiều lần suy nghĩ: đê, cũng
chưa nên vội bỏ. Huống chi chương trình đê điều đã định, các tỉnh
có đê, cứ nên tuân làm cho đê được bền vững. Nay lại khai đào sông
Cửu An để rút bớt sức nước sông Cái. Hạ lưu có chỗ để nước tiêu
thoát thì đê điều sở tại vẫn cứ đắp giữ như cũ cũng đủ bảo đảm,

1
Đỗ Đức Hùng, Vấn đề trị thủy ở Đồng bằng Bắc Bộ dưới triều Nguyễn (thế kỷ XIX),
Hà Nội, 1995

61
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

không có gì đáng lo. Vậy cần gì phải đắp thêm chân đê cho uổng
phí nhân công nữa!”1.
Như vậy, qua các cuộc thảo luận dưới thời vua Minh Mệnh, có
thể thấy, cả hai phái giữ đê và bỏ đê, dù nhấn mạnh các biện pháp
khác nhau: giữ và củng cố đê, hoặc phá bỏ toàn bộ đê, hoặc chỉ giữ
đê ở một số địa phương,… nhưng đều nhất trí đánh giá cao biện
pháp khai thông thoát lũ. Phái giữ đê (Lê Đại Cương) coi khai sông
là biện pháp hỗ trợ, còn phái bỏ đê (Đặng Văn Thiêm) lại coi khai
sông là biện pháp thay thế cho đắp đê.
Thời vua Thiệu Trị (1841 – 1847), ngay khi lên ngôi, năm Tân
Sửu (1841), theo lời xin của dân 3 huyện Kim Động, Tiên Lữ và Phù
Cừ xin đắp lấp sông Cửu An để tránh lụt cho 3 huyện Kim Động,
Phù Cừ và Tiên Lữ về phía hữu ngạn. Sau khi bàn bạc, vua lệnh
phải sửa chữa đê ở tỉnh Hưng Yên bên tả ngạn và đắp đê bên hữu
ngạn sông Cửu An. Kế hoạch này được giao cho đình thần Hà Thúc
Lương khởi công làm vào đông xuân năm 1841 – 1842.

Năm Nhâm Dần (1842), tháng 2, khi ngự giá ra Bắc Thành, vua lại
hỏi ý kiến của đại thần trong kinh và ngoài kinh về việc liệu tình việc
làm thuận tiện sông Cửu An. Đình thần và các quan địa phương sau
khi khám xét đều tâu rằng: “Nay muốn vét sông cho nước chảy thông
đồng, tất phải theo từ đầu chí cuối, nhân thế nước mà làm cho chảy
xuôi, mới chắc vĩnh viễn không có thuỷ tai được. Vậy, chẳng những chỉ
nên đem công sức làm ở một hạt Hưng Yên mà thôi”2. Trong lúc chờ
đợi cùng một loạt khơi đào các đường sông, họ xin “tạm đắp một cái
đập ngang ở cửa sông Cửu An để giữ cho lúa mạ mùa hạ”3.

Theo lời tâu xin của quan tỉnh Hưng Yên và các tỉnh Bắc Kỳ,
cuối cùng, vua buộc phải cho đắp con đập ngang cửa sông Cửu An
để lấp hẳn cửa sông.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 4, Sđd, tr.793-794.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.331.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.331.

62
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Cuối năm Bính Ngọ (1846), một số vùng trước kia xin bỏ đê
nay lại xin đắp lại. Tổng đốc Hà - Ninh Đặng Văn Thiêm - người đã
từng chủ trương bỏ đê ở 7 huyện Phú Xuyên, Thượng Phúc, Duy
Tiên, Kim Bảng, Sơn Minh, Chương Đức, Hoài An nay lại “xin cho
tuỳ nghi tu bổ lại”1.

Vua Thiệu Trị lúng túng không biết nên quyết định như thế nào
trước lời xin của tỉnh Hà Nội bèn ban chiếu dụ: “Cùng một nhân
dân ấy, trước thì xin bỏ đê, nay lại xin bồi đắp như cũ, trước sau
trái ngược, khiến cho người ta không thể hiểu được là thế nào. Việc
quan hệ đến lợi hại của dân sinh, chuẩn cho lại thân đến tận nơi mà
xét, rồi sẽ trù nghĩ tâu lên”2.

Hưởng ứng cuộc thảo luận này có bản điều trần của Quyền
Tổng đốc Hà - Ninh Nguyễn Đăng Giai. Ông là người đầu tiên trình
bày khá đầy đủ lý lẽ của phá bỏ đê dưới thời Nguyễn.
Năm Bính Ngọ (1846), Lĩnh đốc Hà Ninh Nguyễn Đăng Giai
dâng biểu điều trần xin hạn chế đê và đẩy mạnh khai sông. Ông cho
rằng, từ thời trước, nhà Lý chưa có đê mà không thấy sử ghi có nạn
lụt. Đắp đê bắt đầu có từ thời Trần, đó là theo ý kiến chủ quan riêng
của nhà Trần và đó là sai lầm:
“Trải từ đời Lạc Long đến đời nhà Lý trở về trước, có đến hàng
trăm nghìn năm, chưa có đê điều, mà xét trong quốc sử truyền lại,
chưa thấy có nạn sông làm lụt! Người nhà Trần chỉ lấy ý riêng xuyên
tạc, mới đắp đê Đỉnh Nhĩ, có đê là bắt đầu từ đấy. Nhưng, xét ra, đời
bấy giờ chỉ vì một việc vệ nông, đê không cao rộng gì mấy. Kế đó,
nhà Lê 300 năm, cứ nhân theo đó mà làm, cũng không bỏ đê được…
Nếu bàn bỏ đê, thì những nước ở thượng lưu các tỉnh tất lấy
các huyện ấy làm cái vực chứa nước; nếu cho là nên đắp đê, thì
đường sông các huyện chảy đi nhiều ngả, chỉ vài trăm trượng
đều đắp một con đê, sức dân đã không kham được, mà nước mưa
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.951.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.964.

63
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

ở thượng lưu cũng không đường tiêu thoát, đều là chưa tiện cả.
Muốn tính mưu kế cho các huyện nếu không khai các sông ở tả
ngạn Nhị Hà để cho nước đổ về phía đông, thì cũng không có
cách gì hơn nữa”1.
Đến thời Tây Sơn lại cho rằng: “Chỉ biết có đê mà không biết
có sông, đắp tất cả các đê điều suốt một dải sông Nhị Hà, tất cả các
cửa cổng ở sông nhỏ đem lấp đi hết”2, cho nên nước sông ngày một
đầy lên, đê ngày càng cao thì nước lại càng lên to. Từ đấy, thế nước
không đổ sang phía Đông được, chỉ theo sông Nhị Hà và sông Hát
Môn đổ cả về phía Nam. Dưới thời Minh Mệnh đã thử bỏ đê phía
Nam Hà Nội, khai đường sông Cửu An, để “bỏ cái việc trái lẽ đã vài
trăm năm, mà gây cái lợi trăm nghìn năm không cùng”3. Ông cũng
trình bày những điều bất tiện của việc đắp đê.
“Trộm xét: nguyên sông Nhị Hà: những sông về bên hữu
ngạn thì chia dòng đổ xuống nam; những sông bên tả ngạn thì
chia dòng đổ sang đông. Sông Nhị Hà chẳng qua là ở khoảng giữa
chứa nước rồi chia dòng đi mà thôi. Thế mà ngăn đường cũ trung
giang ở hạ lưu, lại đắp đê để ngăn thượng lưu đại hà, thì thế tất
không thể được. Nhân tâu bày việc đắp đê có 12 điều không tiện,
nếu đê ấy không bỏ đi, thì những dân có phần đê ở xứ Bắc Kỳ,
hằng năm khó nhọc, mong cho được lúa tốt, dân giàu, nước yên,
sóng lặng, ôi cũng khó lắm! Nay lấy một dòng sông nước Nhị Hà
chia đổ đi các tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dương, Hưng
Yên, Nam Định là những đất vuông đến nghìn dặm, cũng ví như
lấy 1 chén nước đổ lên 1 cái mâm, thì ở chén sâu mà ở mâm nông,
cái thế là như vậy. Huống chi nước ở thượng lưu đổ xuống hạ lưu,
đổ xuống đến đâu, tiêu ngay đến đấy, tất không như chén nước
đổ ra mặt mâm, tràn khắp cả đi. Lẽ ấy, rõ ràng lắm: thơ cổ có câu:
“Có đê, không bằng không đê thì lợi; đã có đê rồi, không thể bỏ”.
Ôi, đã nói rằng không đê lợi sao lại nói không thể không đê? Thực
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.964-965.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.964.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.965.

64
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

cũng chưa xét đến cái nguồn lợi hại, mà nói ra cái thuyết cứ để lần
lữa mà theo nguyên như thế mà thôi!”1.
Kế đó, Nguyễn Đăng Giai cũng đề xuất kế hoạch trị thủy,
phòng chống lụt: “Người khéo trị nước, không tranh đường với
nước, mà làm vào cái chỗ như là không có việc gì, thì công dễ
thành”2. Vì vậy, ông cho rằng phải khai một loạt đường sông cũ
phía Đông: sông Nguyệt Đức, Thiên Đức, Hàm Long, Nghĩa Trụ,
Văn Giang…: “Trước đem sông Nguyệt Đức, sông Thiên Đức và
các sông nhỏ như sông Hàm Long, sông Nghĩa Trụ, sông Văn
Giang, đều theo đường sông cũ, khởi công từ hạ lưu, chỗ nào
nông hẹp thì khai cho sâu rộng ra, chỗ nào bồi lấp thì nạo vét
đi, đem tất cả công việc đắp đê, để làm vào việc khơi sông cũ,
không cần phải thêm công của gì to tát, những đất cát khơi đào
lên, đều đổ rải ra hai bên bờ sông ngoài vài mươi trượng, để làm
cái đường vệ nông, hạn trong 2 năm, đoạn nào đã làm đường vệ
nông xong, thì đem những đê điều cũ về các phần sông, tuỳ từng
cửa sông mà khai phá đi, đến kì nước lũ, nước sông từ đấy dần
dần chảy rót về các cửa biển phía đông và phía nam, nếu nước lụt
có hơi to tràn ngập cả những đê vệ nông, chẳng qua chỉ 1 - 2 ngày
rồi cũng tự rút xuống như các hạt từ tỉnh Ninh Bình trở xuống
nam mà thôi. Trong khoảng vài năm, nước phù sa tràn khắp đi,
chỗ nào cao thì được màu mỡ, chỗ nào sâu thì bồi lên, có thể
thành ruộng, mà cửa biển ngày một sâu rộng ra dần dần. Như
thế đê không phải đắp mà làm ruộng được tiện lợi, nước không
phải phòng hộ mà dân được yên ở, bớt tốn của kho nhà nước, mà
thừa của cho dân, cái lợi đó nói không thể hết được”3.
Ông hi vọng, trong khoảng vài năm, nước phù sa sẽ tràn khắp
đi, chỗ nào cao thì được màu mỡ, chỗ nào sâu thì bồi lên, có thể
thành ruộng, mà cửa biển ngày một sâu rộng ra dần. Như thế, đê
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.965.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.965-966.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.966.

65
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

không phải đắp mà dân được yên ở, bất tốn của kho nhà nước, mà
thừa của cho dân…1
Vua Thiệu Trị cũng đồng ý với nguyên tắc trị thuỷ, chống vỡ đê,
lũ lụt mà Nguyễn Đăng Giai nêu ra dựa trên nguyên tắc triết học
phương Đông. Nhưng nhà vua lại cho rằng: “Đương lúc trước chưa
có đê, vẫn có thể không đê, từ sau khi đã có đê, nhân đó mà tu bổ
lên, là cái thế không thể không được”2. Nhà vua cũng bác bỏ thuyết
“chén nước đổ ra mâm” của Nguyễn Đăng Giai vì vua cho rằng,
đồng bằng hiện tại nhiều chỗ cao thấp rất khác nhau, nếu phá đê
đi chỗ cao thì đi thuyền, ở sàn, chỗ thấp thì làm cái hang nước. Vua
Thiệu Trị cũng tỏ ra nghi ngờ khả năng thoát lũ sang phía Đông khi
khơi các sông Hàm Long, Nghĩa Trụ, Thiên Đức,…
Quan trọng hơn, vua Thiệu Trị cho rằng: “Việc hà phòng đã
phụng thánh dụ, những đê điều nào nên bỏ, nên đắp, những đường
sông nào nên khai, nên lấp đã giảng thuyết chu tất cả rồi”3.
Điều trần của Nguyễn Đăng Giai đáng chú ý ở chỗ ông đã đặt
lại vấn đề một cách cơ bản: khẳng định sự lựa chọn của người Việt
dưới thời Trần là một sai lầm và rất cần sửa chữa. Những ý đồ của
ông mặc dù hợp logic nhưng lại phi thực tế: ở vào thế kỷ XIX, bỏ đê
đã là rất muộn rồi, không thể thực hiện được nữa. Vua Thiệu Trị đã
không đồng ý thực hiện theo bản điều trần của Nguyễn Đăng Giai.
Dưới thời vua Tự Đức (1848 – 1883), việc tranh luận về vấn đề
trị thuỷ thu hút được nhiều ý kiến nhất. Điều này cũng dễ hiểu, vì
trải qua gần 50 năm trực tiếp quản lý công việc trị thuỷ ở Đồng bằng
Bắc Bộ, những tri thức, kinh nghiệm đã được bổ sung thêm. Hơn
nữa, dưới thời Tự Đức, một số trí thức người Việt có dịp tiếp xúc với
thế giới bên ngoài (kể cả châu Âu). Do đó, những ý kiến về vấn đề
trị thuỷ cũng được mở mang hơn. Tiêu biểu là các bản điều trần của
Nguyễn Trường Tộ đưa ra nhiều lý lẽ quan trọng hơn, đa dạng hơn.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.966.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.967.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.966.

66
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Họ không chỉ bàn đến biện pháp đắp đê hay bỏ đê, đào sông… mà
có người còn bước đầu đề cập đến các biện pháp, kĩ thuật mới, tiên
tiến về trị thuỷ, phòng chống lũ lụt như: trồng rừng đầu nguồn, xây
dựng đập tràn, hồ chứa nước, dùng tàu đồng để nạo vét sông,…
Năm Nhâm Tý (1852), tháng 9, một cuộc trưng cầu dân ý về
vấn đề trị thuỷ lại được đặt ra. Vua Tự Đức ban chiếu dụ cho quan
lại, nho sĩ và thứ dân trong cả nước về trị thuỷ ở Bắc Thành - vừa có
tính chất sơ kết các cuộc thảo luận đã diễn ra từ trước, vừa đưa ra
những gợi ý của riêng mình.
Theo vua Tự Đức, nguyên nhân dẫn đến các ý kiến khác nhau
là do các ý kiến đó đều đại diện cho quyền lợi của mỗi vùng đất khác
nhau: các tỉnh ở chỗ cao được lợi có sông, ngòi chung quanh muốn đắp
đê. Những vùng đất trũng ở nhà sàn đi lại bằng thuyền lại nói thôi,…
Triều đình phân vân chưa có quyết định dứt khoát, đắp đê thì hằng
năm dù là đê công hay đê tư cũng phải phí tổn khó nhọc. Bỏ đê thì dân
có khi phải di dời đi chỗ khác, là một ý kiến mà ai cũng phải sợ nên
vua cho rằng: “Việc thiên hạ không có gì là toàn lợi, cũng không có gì
là toàn hại, việc làm đến chỗ chí lí, nên cân nhắc theo cái lợi nhiều hại
ít mà làm”1. Sau chiếu dụ của vua, các ý kiến thảo luận diễn ra sôi nổi.
Những người chủ trương giữ đê rất đông: Đặng Văn Hoà, Trương
Văn Uyển, Nguỵ Khắc Tuần, Nguyễn Quốc Hoan, Nguyễn Văn Siêu,
Bùi Quỹ, Nguyễn Tư Giản,…Trong đó, đáng chú ý có mấy ý kiến sau:
Trước hết, là ý kiến của Bùi Quỹ. Trong bản điều trần gửi lên
triều đình năm Nhâm Tý (1852), Bùi Quỹ đã nêu hai ý kiến:
1 - Theo thể lệ thời đầu Minh Mệnh, đặt lại Nha đê chính dùng
bậc trọng thần am hiểu công việc phụ trách. Phàm đê điều không kể
là đắp hay bỏ, hễ chỗ nào có quan hệ đến lợi hại của nghề nông thì
đều giữ làm đê của Nhà nước (đê công) vẫn sửa sang như cũ. Chỉ bỏ
đê ở huyện Nam Sang để cho giảm bớt thế nước Nhị Hà.
1
Dẫn theo: Đỗ Đức Hùng, Vấn đề trị thuỷ ở Đồng bằng Bắc Bộ dưới thời Nguyễn (thế
kỷ XIX), Sđd, tr.58.

67
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

2 - Cùng với việc đắp đê là phải khơi vét các mương, lạch, sông,
ngòi để tiêu thoát nước úng. Đặc biệt là ông đã nghĩ đến việc lợi
dụng những nước ứ tụ để xây dựng “thuỷ áp”, khi cần có thể phân
lũ, giữ nước tưới ruộng vào mùa khô.
Sau Bùi Quỹ, một bản điều trần khá đầy đủ, tiêu biểu cho phái
giữ đê là của Nguyễn Văn Siêu (1795 - 1872) cũng được gửi lên vua
Tự Đức vào năm Nhâm Tý (1852). Theo Nguyễn Văn Siêu, việc khơi
sông Cửu An thời vua Minh Mệnh không đem lại hiệu quả gì, trái
lại các địa phương thuộc tỉnh Hưng Yên liên tiếp bị mất mùa vì
nạn lụt. Năm Nhâm Dần (1842), vua Thiệu Trị cho tạm đắp ngang
sông một con đập để giữ nước lũ, đến lúc ông viết bản điều trần
thì dân tình vẫn muốn duy trì con đập ấy vì nhờ nó mà dân đỡ bị
lụt lội, mất mùa. Từ đó, ông kết luận, không thể bỏ đê được. Ông
cũng thừa nhận rằng, nếu để đê thì hằng năm công tư đều phí tổn.
Nhưng theo ông, việc thiên hạ không có việc gì bỏ đấy, không tu
sửa mà không hỏng. Nhờ có sự phí tổn mà 4, 5 tỉnh ở Bắc Kỳ sẽ được
yên ổn. Nếu nhỡ một nơi nào vỡ đê thì chỉ một địa phương bị hại
thôi, còn các nơi khác nhờ có đê mà vẫn cày cấy như thường.
Ông kết luận, trị thuỷ không thể bỏ đê, cái thuyết ấy đã nói nhiều,
chỉ có đê mà rút bớt nước công đi, cách ấy từ cổ vẫn là khó. Ông dẫn
ra từ những kinh nghiệm trị thuỷ của nhà Thanh nhằm nạo vét lòng
sông. Nguyễn Văn Siêu cho rằng, nên tăng cường khơi vét các cửa
sông phía hạ lưu. Đối với hai sông lớn bên tả là Nguyệt Đức và Thiên
Đức, ông chủ trương khai theo lối cũ, cần phải thuận theo thế tự nhiên
của núi sông, chớ muốn chóng xong mà đào thẳng mà “trái tính nước”.
Về ý kiến giữ đê, đáng lưu ý còn có bản điều trần của Nguyễn
Tư Giản năm Đinh Tỵ (1857). Nội dung của bản điều trần nêu 10
điều về phương pháp trị thuỷ:
1 - Xin đắp đê ở bờ biển để kìm giữ sức nước.
2 - Xin vét cửa biển để nạo bỏ những cát sỏi bồi đọng.
3 - Xin xây đập nước có cửa cống để phòng lúc nước lên to một
cách khác thường.
68
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

4 - Xin đóng sông nhánh để bảo vệ sông Cái.


5 - Xin khơi thông những đường chảy cũ để tiêu bớt thế lực của nước.
6 - Xin lấp các nguồn đục để giảm bớt chất bùn cát.
7 - Xin dự trữ tiền của để chi tiêu về đê điều.
8 - Xin mở rộng việc quyên góp tiền giúp đỡ vào công cuộc đào
đắp lớn hệ thống đê và sông.
9 - Xin ưu đãi về lương ăn cho những người làm việc đê và sông.
10 - Xin cắt đặt dân đinh chuyên làm đê điều để lo công việc
giữ đê chống lụt1.
So với những kiến nghị của phái giữ đê dưới thời Tự Đức cũng
như trong suốt thế kỷ XIX, ý kiến của Nguyễn Tư Giản có một số
điểm mới, có giá trị hiện đại, đó là việc xây dựng những hồ điều tiết
nước ở thượng nguồn (điều 3) và đặc biệt hơn Nguyễn Tư Giản đã
nghĩ đến các nguồn nước đục cần phải hạn chế, ngăn chặn. Ông
cũng nghĩ đến việc làm đường tràn để phân lũ (điều 4),…
Nguyễn Tư Giản còn đưa ra dự án thứ hai nhằm cải tạo triệt để
dòng sông Thiên Đức (sông Đuống) để phân lũ sông Hồng.
Những dự án đê sông trị thuỷ của Nguyễn Tư Giản tuy còn
những thiếu sót nhưng cũng có những đóng góp đáng kể như: kết
hợp sửa đắp đê với khơi đào sông ngòi, đắp đê sông ngăn lũ với đắp
đê biển ngăn mặn; đào hồ chứa nước; xây dựng đê tràn xả làm giảm
thế nước lũ, để chống vỡ đê; tổ chức lực lượng chuyên trách bảo vệ
đê; đồng thời, chú ý chăm lo đời sống, khuyến khích người đắp đê,
trông coi, hộ đê, người tham gia đào sông ngòi,…
Triều đình đánh giá rất cao bản điều trần của Nguyễn Tư Giản
và cử ông làm Hiệp lý đê chính sự vụ để ông được “thi thố tài năng”.
Ngoài ra, triều vua Tự Đức còn nhận nhiều bản tấu về kế hoạch
khai sông, đắp đê khá cụ thể từ khâu kĩ thuật, dự trù kinh phí, nhân
1
Quốc sử quán triều Nguyễn Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.527.

69
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

công của các quan lại và thân sĩ,… Trong đó, có một ý kiến khá quan
trọng là của Trương Đăng Quế. Ông được cử ra Bắc làm Kinh lý hà
đê chánh sứ cùng với Nguyễn Đăng Giai. Sau hơn 4 tháng trực tiếp
thị sát, điều tra tình hình đê điều phòng lụt ở Bắc Kỳ, trở về triều
đình, Trương Đăng Quế cũng đồng ý kết hợp cả hai biện pháp: đắp
đê và nạo vét song ngòi. Nhưng do kinh phí còn eo hẹp nên ưu tiên
đắp và củng cố đê trước.
Đối lập với phái chủ trương giữ đê, những người chủ trương
bỏ đê dưới thời vua Tự Đức cũng khá đông đảo: Nguyễn Duy Cẩn,
Nguyễn Soạn, Nguyễn Văn Tĩnh, Nguyễn Cần, Bạch Tự Cường,
Nguyễn Châu, Nguyễn Đăng Khải, Vũ Văn Bình,…
Nguyễn Duy Cẩn (thân sĩ Hà Nội) xin bỏ hết các đê sông con
và sông nhỡ, “chỉ bồi đắp đê các con sông lớn”. Tổng đốc Hà - Ninh
Nguyễn Đăng Khải xin giữ đê bên tả ngạn còn bên hữu ngạn sông
Nhị thì bỏ đê để chứa nước lụt. Lý do vì bên tả ngạn rất rộng, ruộng
đất nhiều còn bên hữu ngạn thì hẹp và ít ruộng. Các đoạn đê ở Hà
Nội xin cho làm đê tư, giao cho dân sở tại tự trông nom sửa đắp lấy.
Đặc biệt là ý kiến bỏ hết tất cả các đê công, tư của các tỉnh đồng bằng
sông Hồng, để cho nước chảy tràn lan, thuận dòng ra biển của Giám
sát ngự sử Vũ Văn Bình. Ông cho rằng, “bỏ đê đi dân được lợi rất
nhiều, mà để đê lại, dân bị hại rất lớn”1.
Những năm 1850 – 1870, có nhiều ý kiến đóng góp liên quan đến
kiến thức, kĩ thuật, phương pháp về đê sông, trị thuỷ và được tập hợp
trong các tập Hà đê tấu tập, Hà đê chính tập. Trong Đại Nam thực lục có
ghi, những năm 1850 – 1870, có khoảng 47 lần là các cá nhân hay tập
thể quan lại tâu bày về biện pháp đắp đê, cải tạo dòng sông, trị thuỷ.
Trong đó có 47 ý kiến cho trị thuỷ đồng bằng Bắc Bộ, 5 ý kiến cho trị
thuỷ đồng bằng Trung Bộ. Các ý kiến thảo luận về đê được tập hợp
trong các tập Hà đê tâu tập, Hà đê chính tập, Hà đê chính luận.
Trước việc có rất nhiều bản điều trần với các ý kiến của cả
hai phái giữ đê và bỏ đê, triều đình đã theo giải pháp của phái
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.730.

70
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

giữ đê, lập lại Nha đê chính ở Bắc Kỳ năm Đinh Tỵ (1857), cử Vũ
Trọng Ninh, Nguyễn Văn Vỹ và Nguyễn Tư Giản đảm nhiệm
công việc này.

III. CÔNG CUỘC ĐẮP ĐÊ VÀ CẢI TẠO SÔNG NGÒI


1. Thiết đặt cơ quan hành chính để quản lý đê điều
Để quản lý tốt các công trình đê điều, nhà Nguyễn chú tâm xây
dựng một hệ thống cơ quan hành chính chuyên lo về việc đê.
Năm Kỷ Tỵ niên hiệu Gia Long năm thứ 8 (1809), “đặt Nha Đê
chính Bắc Thành chuyên coi về đê điều Bắc Bộ. Đặt một viên Tổng
lý đê chính (Binh bộ Thượng thư Đặng Trần Thường) và một viên
Tham lý đê chính (Công bộ Nguyễn Khắc Thiệu) hiệp lực thừa hành
về tất cả công việc đê điều ở Bắc Thành”1. Như vậy, nhà Nguyễn đã
đặt nhiệm vụ trị thủy, đê điều ở Bắc Thành rất lớn, xét về phẩm cấp
quan lại cơ quan chuyên trách đê chính là ngang bộ.
Năm Mậu Tý (1828), theo lời bàn của đình thần cho rằng, các
điều khoản về đê chính đặt ra từ thời vua Gia Long vẫn rất đúng
và đáng lâu dài, nhưng chỉ vì lúc đầu làm, tiết mục chưa rõ ràng. Vì
vậy, vua đã đồng ý “đặt Nha môn đê chính, một tổ chức tại triều để
lo về đê điều gồm một quan văn nhị phẩm làm Tổng lý, một quan
võ tam phẩm làm Tham biện. Lại đặt một viên ngoại lang thanh cần
đê chính và chủ sự, tự vụ 2 người cửu phẩm thư lại điều 4 người,
thư lại vị nhập lưu điều 30 người, để sung làm việc”2.
Như vậy, đến năm 1828, lực lượng của cơ quan quản lí đê
điều đã lên tới 45 người (không kể hai đội binh). Hoạt động của
Nha môn đê chính được quy định trong mối quan hệ với các
quan trấn thành là: “Gặp sự thể quan trọng, viên đê chính sẽ
bàn định với viên đại thần Bắc Thành mà làm. Gặp việc cần tâu
báo thì đại viên thành ấy và viên đê chính đều kí tâu, vẫn dùng
1
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 13, Nxb Thuận Hóa,
Huế, 1993, tr.226-227.
2
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 13, Sđd, tr.226-227.

71
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

ấn triện tổng trấn, do thành phát đệ”1. Triều đình cũng “chuẩn y
lời nghị xin trích phái 2 xuất đội, 100 binh lính thuộc trong tỉnh
thành sai phái việc công”2.
Các tổ chức trên chứng tỏ nhà nước muốn nắm vững công tác
đê điều ở cấp trung ương. Tuy nhiên, đến tháng 4 năm Quý Tỵ
(1833), vua Minh Mệnh bãi bỏ Nha môn đê chính. Lý do được vua
Minh Mệnh giải thích rõ sau đó: “Trước kia đặt tổng chức đê chính
để có người chuyên trách công việc. Song các hạt đất rộng, sông
nhiều ngã ba mỗi khi đến kì nước lụt, thì nha viên ấy chỉ có thể
đến thực nơi xung yếu kiểm hộ mà thôi, còn như những chỗ thẩm
lậu tầm thường không có thể coi sóc chu đáo mọi phía được. Nay
chuyển uỷ cho đại viên tống đốc, tuần phủ đôn đốc giải quyết công
việc đê điều... Lại chuẩn y lời nghị rằng, việc đê lấy tổng đốc, tuần
phủ các tỉnh làm đốc tu, bố chính làm giám tu, phủ huyện và phái
viên của tỉnh làm chuyên biện”3.

Sau khi Nha môn đê chính bị bãi bỏ, công việc đê điều được
chuyển giao cho tổng đốc, tuần phủ các tỉnh làm. Tất cả các chương,
sớ, sổ sách, di văn, án tử liên quan của Nha môn đê chính đều giao
cho Hà Nội lưu trữ.

Đến thời vua Tự Đức, trước tình hình vỡ đê liên tiếp, việc khôi
phục cơ quan đê chính được đặt ra và năm Đinh Tỵ (1857), vua Tự
Đức cho lập lại Nha đê chính..

2. Chủ trương, chính sách của nhà Nguyễn đối với đê điều
* Thời vua Gia Long
Năm Kỷ Tỵ (1809), sau nhiều lần quan lại Bắc Thành bàn bạc
thống nhất, tham chước cả việc cũ tâu lên, vua Gia Long cho ban
hành “Điều lệ đê chính” giao cho Bắc Thành thực hiện.
1
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 13, Sđd, tr.227.
2
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 13, Sđd, tr.227.
3
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 13, Sđd, tr.227.

72
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Điều l và điều 2 đã thống kê lại đê điều, khám xét và phân loại


công trình cho có quy củ: “1. Làm sổ chung: phàm đê điều và sông
nước sở tại, quan trấn phải biên đủ sổ và làm ngạch nhất định; 2. Khám
xét: mỗi năm đến tháng 10, các quan phủ huyện đi khám đê, trình rõ
quan trấn khám lại rồi trình quan đê chính khám nghiệm, phân loại
công trình lớn nhỏ cần sửa, đắp để quan tổng trấn xét duyệt”1.
Ở điều 3, một hình thức mới được nhà Nguyễn áp dụng
trong công tác này đó là mộ phu làm khoán: “Công việc: phàm
đắp đê mới và sửa chữa đê cũ rộng 5 thước (1,65m) trở lên và làm
cống mới, là công trình lớn phải lượng tính nhân công, vật liệu
và tiền công nên chi bao nhiêu. Quan đê chính chép đưa quan
trấn, rồi sai các phủ huyện mộ dân làm khoán. Việc sửa đắp đê
cũ rộng 4 thước (1,3m) trở xuống tu bổ cống cũ, là loại công trình
nhỏ, chỉ sai dân chỗ đó làm hạn 1 tháng phải xong. Hằng năm,
cứ thượng tuần tháng tư là quan đê chính khám nghiệm. Nếu
có chỗ nào làm sơ lược không đúng cách thức thì tùy theo nặng
nhẹ mà kết tội, bắt phu khoán làm đền. Quan đê chính phải vẽ
bàn đồ và làm sổ, quan tổng trấn phải ghi những số tiền đã chi
tâu lên”2. Như vậy, các công trình nhỏ nhà nước giao cho địa
phương làm dưới sự chỉ đạo của nhà nước, các công trình lớn
thì mộ dân phiêu bạt, không có ruộng đất và những ai rỗi rảnh
việc nông làm. Việc này vừa tránh phiền nhiễu đến dân vừa có
thể làm trong bất kì lúc nào, không phải đợi lúc nhà nông rảnh
rỗi. Như vậy, công việc thực hiện sẽ nhanh gọn hơn. Bên cạnh
đó, nhà nước kiểm tra chặt chẽ việc chi tiêu sửa đắp, nghiệm thu
công trình, đặt lệ thường phạt hoặc bắt đền để tránh chuyện làm
dối. Đây là một chủ trương rất tiến bộ.
Điều 4 của quy định đã phân loại rõ quy mô và cách thức kĩ
thuật sửa đắp đê và cống: “Ở thượng, trung lưu sông cái, mặt đê
rộng 2 trượng (6,6m), chân 7 trượng (23,1m), cao 1 trượng 2 thước
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.764.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.764.

73
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

(3,96m), mỗi trượng 54 đống đất. Ở hạ lưu mặt đê rộng 1 trượng 6


thước (5,28m), chân rộng 5 trượng (16,5m), cao 1 trượng (3,3m), mỗi
trượng lấy 32 đống 5 thước đất làm hạn. Đê sông vừa, mặt đê rộng
1 trượng 2 thước (3,96m), chân rộng 1 trượng (3,3m), cao 1 trượng
(3,3m), mỗi trượng lấy đất 17 đống 5 thước làm hạn. Những sông
nhỏ, mặt đê rộng 3 thước (0,96m), chân đê rộng 3 trượng (9,9m), cao
9 thước (2,88m), mỗi trượng lấy đất chứa 17 đống 5 thước 5 tấc làm
hạn. Chỗ làm phải vét sâu từ 1 đến 4 thước, mỗi trượng dùng 46
cây gỗ, 6 cây tre tươi. Nếu bùn phải vét sâu 5 - 6 thước trở lên, mỗi
trượng dùng 73 cây gỗ, 6 cây tre tươi làm cọc cốt dỡ cánh phèn, cầu
dài cầu ngang cùng cừ sách gỗ lim hai bên, vét bùn đến đất chắc
mới cho đắp. Phàm đắp đê mới hay sửa đê cũ về công trình lớn thì
định đống đất 4 bề, mỗi bề dài 1 trượng sau 1 thước làm 1 đống.
Xem lấy đất gần xa để tính tiền công thuê: ngoài chân đê 5 trượng
hai bên có thể lấy đất được thì tiền công bớt đi, nếu chỉ lấy đất một
bên hay bị hồ ao gián cách thì tiền công tăng lên. Đê sông cái tính
để lại mỗi trượng 3 quan, đê sông nhỏ mỗi trượng 2 quan, đợi sau có
phải đắp đến hay không sẽ chiếu cố trả lại. Làm cống nước đào đất
cũ đi và lấy đất đắp đầy lên, mỗi đống đất cấp cho 6 tiền. Mua gỗ
lim cây dài 12 thước, ngang 1 thước trị tiền 22 quan, cát đá dăm mỗi
trăm căn giá 3 tiền, mây chảo mỗi trăm cân giá 4 tiền. Lấy sắt cồng
rèn đinh, nếu thiếu phải mua thêm mỗi trăm cân trị giá 12 quan,
than gỗ 100 cân trị giá 1 quan, cây gỗ làm chày hai đầu bịt sắt, mỗi
cây dài 4 thước 3 tấc, ngang 3 tấc, trị giá 1 tiền rưỡi. Tiền thuê thợ xây
công mỗi ngày 3 tiền rưỡi. Công đóng cọc mỗi ngày 2 tiền”1. Đáng
chú ý là quy định đê sông Cái cao nhất 1 trượng 2 thước (4m), trong
khi đó nước lũ ở Hà Nội rất cao, như thế không thể tránh khỏi việc
lũ lụt tràn ngập. Các vua đời sau đã tìm cách giải quyết vấn đề này
bằng biện pháp khai sông chia bớt thế nước (vì điều kiện bấy giờ
không cho phép đắp cao hơn hoặc có giải pháp khác khoa học hơn).
Ngoài ra, những quy định khác ở điều 5, 6, 7, còn quy định
về trách nhiệm của các quan lại liên quan: “Quan đê chính uỷ cho
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.764-765.

74
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

thuộc viên cùng với thuộc viên trấn chia nhau đi trông coi đốc
suất”1; về hạn bảo cố: “Đê và cống làm đều sai phu khoán hòng
giữ: đê hạn 3 năm, cống hạn 5 năm. Trong thời hạn ấy nếu có nứt
lở, đều phải làm đền, quan trấn và người đốc suất đều tùy thuộc
tội nặng nhẹ mà phạt. Nếu đê vỡ do thế nước lớn mạnh quá, sức
người không thể giữ được thì miễn tội”2; quy định về việc phòng
hộ đê “hằng năm cứ đến tháng 4 nước sông lên to quan trấn chia
nhau đi khám xét. Đoạn nào xung yếu khiến phu huyện bắt dân
đắp phụ ngay. Chỗ nào nước chảy mạnh quá thì đốc quan và
dân để sẵn nhiều sọt đất và cây gỗ để tuỳ thời chống giữ. Đoạn
nào thế nước khó giữ được thì báo ngay cho thành thần, để phái
thêm quan và binh để góp sức chống giữ. Ở ngoài chân các đê
sông lớn, cách 5 hoặc 7 trượng trồng 6 cây tre để chống sóng và
khi khuyết vỡ thì lấv mà chống chữa. Không quan hệ đến việc
chống, chữa đê thì cấm không cho ai được chặt tre ấy”3. Những
quy định này cho thấy, nhà Nguyễn hiểu khá rõ tình hình thực
tế, không áp đặt tiêu chí riêng mình vượt quá khá năng sức dân
nhưng cũng rất nghiêm ngặt trong việc quản lý.
Ở điều 8, “răn cấm”, nhà nước quy định rõ việc ngăn cấm các
tệ nạn phát sinh trong công tác đê điều của quan lại thừa hành như
tham nhũng, hạch sách dân: “Những quan lại, binh lính khám xét
trông coi việc đê điều, không được sách nhiễu tiền gạo của dân và
bắt dán khiêng chờ. Làm trái thì Thánh thần xét trị tội”4.
Có thể nói, bản điều lệ đê chính thời vua Gia Long tương đối
chi tiết, chặt chẽ và hoàn chỉnh hơn các triều đại trước. Những quy
định về kĩ thuật đào đắp đê và làm công, quy chuẩn hóa giá thành
thuê khoán và các vật liệu dùng vào việc đê và cống… chúng tỏ
nhà nước kiểm soát rất chặt công cuộc trị thủy ở Bắc Bộ. Điều luật
này là bước tiến lớn trong công tác đê điều thời phong kiến. Các
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.765.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.765.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.765.
4
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.765.

75
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

điều luật với những quy định cụ thể và chặt chẽ chứng tỏ nhà
Nguyễn đã đạt đến trình độ cao và ngày càng hoàn thiện về kĩ
thuật và quản lý đê điều.
* Thời vua Minh Mệnh
Các quy chế về đê điều tiếp tục được các vua đời sau bổ sung
ngày một chặt chẽ, quy củ.
Thứ nhất, ghi nhiệm mức nước, cho thiết lập cột ghi mực
nước ở thượng lưu, trung lưu, hạ lưu sông cái và sông nhỏ, sông
nhỏ. Cột bằng gỗ có khắc rõ thước tấc được sử dụng ở bến sông.
Mỗi kì nước lên, nước xuống đều ghi chỗ ngấn nước ngừng lại,
để nghiệm nước lụt lớn hay nhỏ. Lai so sánh ngấn nước với thân
đê để biết mức bình thường hay bất thường; chẳng hạn, thân đê
cao 1 trượng 2 thước mà nước lên đến 1 trượng 1 thước thì là bình
thường; nếu nước lên quá 1 trường 1 thước trở lên là quá mức
bình thường; ở nơi thân đê cao 1 trượng, nước lên đến 9 thước là
bình thường… Mỗi khi đến tiết nước lên, xuống thành ấy phải
phái nhân viên về báo và ghi sổ có lưu chiểu để phòng khi tra xét
và ngăn ngừa những mối tệ như: mong được bàn công, lẩn tránh
xét xử và đặt đệ báo càn.
Năm Quý Tỵ (1833) còn quy định chặt chẽ hơn: Tổng đốc, Tuần
phủ vào mùa nước lên phải theo dõi mức nước ghi hàng ngày là bao
nhiêu, ba ngày một lần tâu báo về triều. Các quan tỉnh có sông phải
khám thực đê điều trong hạt mình: đoạn nào ngấn nước cách mặt
đê mấy thước, đoạn nào nước tràn qua mặt đê bao nhiêu thước, tấc
phải ghi rõ ràng chính xác, tâu báo vào trung tuần tháng 8, để đợi
chỉ quyết định cách thức đắp cao thêm.
Năm Canh Tý (1840) còn ra chuẩn định đo từ mặt nước đến mặt
bùn lòng sông bao nhiêu thước tấc, lại đô từ mặt đê đến mặt ruộng
so sánh với mặt nước lòng sông cách nhau bao nhiêu thước, tấc, biên
chép lại báo lên để nghiệm xem năm sau lòng sông có bồi lên không.
Thứ hai, quy định về quy mô kích thước của đê, nên lấy mực
nước cao nhất làm chuẩn, tùy địa thế sông ngòi để thi công, làm
76
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

sao mặt đê nhất loại bằng phẳng. Năm Kỷ Sửu (1829), chuẩn cho
các đê đoạn còn thiếu từ 1, 2, 3, 4 thước đều cho bồi thêm như thể
thức; đoạn nào thiếu từ 6 thước đến 1, 2 trượng thì cho đắp rộng
5 thước và đắp cao thêm. Đến năm Đinh Dậu (1837), lại chuẩn cho
nâng cấp một lần nữa: Đê thượng lưu của sông lớn, đều gia cố cao
hơn ngấn nước 1 thước 5 tấc; hạ lưu và đê sông nhỡ cao thêm hơn
ngấn nước 1 thước.

Thứ ba, quy định về thưởng phạt đối với những quan lại viên
chức có trách nhiệm về việc đắp đê và hộ đê.

Bảng 6. Quy định về phạt

Loại Thế Tình


Thời hạn Người bị phạt Mức thưởng
đê nước lũ trạng đê
Đê mới Trong hạn Bình Đê bị xói - Quan phủ huyện thừa Cách chức
bảo cố 3 thường lở tu, Ty viên Đê chính. - Giáng 4 cấp
năm - Quan trấn giám tu - Giáng 3 cấp
- Quan Đê chính đốc tu Tất cả cho lưu nhiệm đắp
bồi thường.
Đã quá hạn Bình Đê xói lở - Quan phủ huyện thừa - Giáng 4 cấp
bảo cố 3 thường tu, Ty viên Đê chính. - Giáng 3 cấp
năm - Quan trấn giám tu - Giáng 2 cấp
- Quan Đê chính đốc tu Tất cả cho lưu nhiệm đắp
lại, không phải bồi thường.
Trong hạn Bình Vỡ 2 lần - Quan phủ huyện thừa - Cách chức
bảo cố thường tu, Ty viên Đê chính. - Cách chức
- Quan trấn giám tu - Cách chức
- Quan Đê chính đốc tu
Đê cũ Trong 2 năm Bình 2 lần vỡ - Quan phủ huyện thừa - Giáng 4 cấp
thường đê liên tu, Ty viên Đê chính. - Giáng 3 cấp
tục - Quan trấn giám tu - Giáng 2 cấp
- Quan Đê chính đốc tu Tất cả cho lưu nhiệm đắp
lại, không phải bồi thường.

77
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bảng 7. Quy định về phạt khi đắp đê

Loại đê Mức vi phạm Người bị phạt Mức phạt


Đê đang đắp Có một chỗ chày nên không chắc - Quan - Giáng 2 cấp
hoặc có 1 – 2 trượng đê đắp không - Lại - Đánh 80 trượng
đủ kích thước.
Nếu kiêm cả 2 tội - Quan - Giáng 3 cấp
- Lại - Đánh 90 trượng
Có 2 chỗ chày nện không chắc hoặc - Quan - Giáng 3 cấp
có 3 – 4 trượng đê đắp không đủ - Lại - Đánh 90 trượng
kích thước.
Nếu kiêm cả 2 tội - Quan - Giáng 4 cấp
- Lại - Đánh 100 trượng
Nếu quan đốc tu, giám tu có 1 nhân - Quan trấn - Phạt 1 năm lương
viên thừa hành vi phạm - Quan Đê chính - Phạt 9 tháng lương
Nếu có 2 viên chức dưới quyền bị - Quan trấn - Giáng 1 cấp, lưu nhiệm
tội về đê - Quan Đê chính - Giáng 2 cấp, lưu nhiệm
Nếu các quan tham hoặc nhân viên Miễn tội
dưới quyền

Bảng 8. Quy định về thưởng

Loại Tình trạng


Thời hạn Thế nước lũ Người nhận thưởng Mức thưởng
đê đê
Đê mới Trong Bình thường Bình thường Không bàn thưởng
đắp hạn bảo Nước sông Đê giữ vừng - Đê chính đốc tu - Thăng 1 cấp
cố 3 nămlên cao khác - Quan trấn giám tu - Thường 2 lần kỷ lục
thường
- Quan phủ huyện và Ty - Thưởng 1 lần kỷ lục
viên Đê chính
Đê cũ Quá hạn Nước sông Bình thường Không bàn thưởng
bảo cố 3 bình thường
năm Nước sông Đê giữ vững - Đê chính đốc tu - Thưởng 2 lần kỷ lục
bình thường - Quan trấn giám tu - Thưởng 1 lần kỷ lục
- Quan phủ huyện thừa tu - Thưởng 3 tháng lương
và ty viên Đê chính - Lập danh sách đề nghị
- Thư lại bát cửu phẩm, các thưởng.
nhân viên chưa vào ngạch,
dịch nha phủ huyện.

78
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Thứ tư, xét hỏi việc chi tiêu, giám sát việc hoàn thành. Sau khi
hoàn thành việc sửa đê cũ, đắp đê mới… trấn quan cùng quan Đê
chính phải thân hành đi khám xét, phát hiện chỗ nào chưa đủ quy
cách bắt phải làm lại. Quan Đê chính có nhiệm vụ kê khai số đất
đắp và các loại vật liệu đã dùng hết bao nhiêu (tiểu công trình mấy
chỗ, đại công trình bao nhiêu chỗ, tiền thuê và mua vật liệu hết bao
nhiêu tiền) khai thành 2 bản, 1 bản tường trình quan tổng trấn, 1
bản do quan trấn giữ. Quan Đê chính lại phải làm 1 bản tâu, 2 bức
họa đồ nộp lên triều đình. Triều đình sẽ cử quan từ kinh đô ra kiểm
tra xem số kê khai chi tiết có đúng với công việc không để xét việc
bắt bồi thường.
Năm Kỷ Sửu (1829), sau đợt tổng nâng cấp đê điều ở Bắc Thành,
triều đình chọn quan kinh tứ, ngũ phẩm 3 viên, tư vụ đến thư lại 10 viên
ra Bắc Thành xét việc chi tiêu về đê ở các phủ, huyện. Trong những lần
kiểm tra đó, người ta phát hiện ra nhiều nơi khai báo giả mạo hoặc đắp
đê sai quy cách, lạm chi công quỹ hàng trăm quan tiền. Nhà Nguyễn
quy trách nhiệm cho các quan chức phụ trách các công trình phải bồi
thường. Số tiền lạm chi chia thành 10 phần, thừa tu 7 phần, giám tu 2
phần, đốc tu 1 phần, phân biệt bắt bồi thường. Nguyên tắc này được
áp dụng cho đến những năm cuối thời vua Tự Đức.
Thứ năm, quy định về việc đền bù vào ruộng của dân. Dưới thời
vua Gia Long, năm Đinh Sửu (1817), nhà nước phê chuẩn cho ba trấn
Sơn Tây, Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ có đường đê mới đắp phạm
vào ruộng tư hơn 200 mẫu được miễn trừ theo mức sau: Ruộng mất
hẳn vào thân đê thì miễn thuế, ruộng bị lấy đất thành ao sâu thì miễn
thuế 3 năm. Sau khi hết hạn trên, lại đánh theo lệ thuế đất chằm
ao. Đến thời vua Minh Mệnh, năm Tân Tỵ (1821) vẫn thấy áp dụng
quy định trên. Đến năm Đinh Mão (1827) mới có quy định phân biệt
ruộng công và ruộng tư: Từ nay phàm mở vào ruộng đất công bao
nhiêu mẫu, sào, thước, tấc được đưa vào hạng miễn thuế; còn số
ruộng đất tư bao nhiêu nên theo giá cũ, chi tiền kho công cấp trả chủ
ruộng, việc làm xong làm sớ tâu về việc chi tiêu. Giá ruộng đền bù ở
Bắc Thành thế nào chưa có số liệu, chỉ thấy số liệu về giá ruộng đền
79
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

bù cho miền Trung qua trường hợp sông Vĩnh Điện (Quảng Nam):
triệt đời nhà dân 8 hộ, mở vào ruộng công 35 mẫu, ruộng tư 15 mẫu,
tiền đền bù 1.600 quan. Khi đào sông Vĩnh Định (Quảng Trị) giá đền
bù ruộng hạng 2 mỗi mẫu 150 quan, hạng 3 mẫu mỗi mẫu 10 quan.
Năm Quý Tỵ (1833), vua Minh Mệnh định lại Điều lệ chống
nước lụt ở Bắc Kỳ gồm 4 điều:
Điều 1, lệ sửa đê: Hằng năm cứ đến kì nước lên, tổng đốc tuần phủ
xét các bờ đê trong hạt nếu gặp việc hiểm hóc mà quân và dân trong
hạt sửa chữa không khắp, thì đều được phép phi báo cho hạt bên cạnh,
bắt lính và dân gấp đến hộ giúp. Nếu hạt bên cạnh phân biệt giới hạn
không giúp hoặc chỉ làm cho nhuế nhóa, tắc trách đến nỗi hỏng việc
thì chuẩn cho cứ thực tâu hoặc để truy cứu lý do rồi phân biệt xử tội.
Nếu công trình ở 2 hạt giáp nhau thì các tổng đốc, tuần phủ hội thương
cùng làm nếu sơ suất lầm lẫn thì phải liên đới chịu tội.
Điều 2, lệ giữ đê: Xét công và ban thưởng: phàm công việc đê
dùng tổng đốc tuần phủ làm đốc tu, bố chính làm giám tu. Thí dụ,
Tuần phủ Hưng Yên kiêm bố chính thì tổng đốc Định Yên làm đốc
tu. Các viên phủ, huyện và các nhân viên do tỉnh phái đi làm đê
điều là chuyên biện vẫn cứ theo chương trình trước mà ban thưởng.
Những viên đang được bàn định thăng thưởng, đều do tổng đốc,
tuần phủ cứ thực khai vào sổ sách do Bộ Đề tấu đợi chỉ; sau giao cho
Bộ Lại châm chước phân biệt bàn định thăng thưởng, cứ 3 năm 1 lần
làm danh sách các thuộc viên hàng tỉnh và nha dịch phủ huyện từ
bát, cửu phẩm trở xuống kể làm việc siêng năng được đợi ân thưởng,
tuần phủ tổng đốc kê danh sách xếp loại, ngoài ra đều theo lệ trước.
Điều 3, lệ xử phạt tội để vỡ đê: Theo công trình trước mà phân
xử đầu là chuyên biện, thứ đến giám tu là bố chính; lại thứ nữa đến
đốc tu là tổng đốc và tuần phủ. Những nhân viên đáng bị xử ấy đều
do đốc phủ kê vào sổ sách do Bộ Đề tâu đợi chỉ, sau giao cho Bộ Lại
châm chước phân biệt xét xử.
Điều 4, lệ xử việc đắp đê mới không kiên cố: Cứ theo công trình
trước, phàm đê đắp không kiên cố hợp thức về kích thước, số lượng
80
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

thì từ chuyên biện đến lao dịch căn cứ vào sự xét hỏi của đốc tu và
giám tu rồi do đốc phủ kê vào sổ sách1.
* Thời vua Tự Đức
Một chủ trương quan trọng khác của nhà Nguyễn về công tác
này là phân chia đê công, đê tư một cách chặt chẽ. Đê tư có từ thời
Trần - Lê nhưng đến nhà Nguyễn mới đi vào quy củ và được phân
định rõ dưới thời Tự Đức.
Năm Mậu Thân (1848), vua Tự Đức quy định về đê điều ở các
huyện của Bắc Thành: “Trừ đê tư dân gian tự sửa đắp, ngoài ra các
đê công… cứ giao cho dân xã sở tại trong đê chiếu theo địa phận
phòng giữ... quan địa phương và quan phủ huyện nơi ấy đều phải
đích thân đi dốc sức, không dược uỷ lại cho lính quèn, lại nhờ mượn
cớ được phái đi đôn đốc sinh sự nhiễu dân”2.
Đến năm Quý Sửu (1853), vua Tự Đức tiếp tục ban hành 5 điều
quy định về đê ở các sông, trong đó quy định cụ thể về đê công và
đê tư:
“Đê ở 4 huyện Thanh Trì, Thượng Phúc, Phú Xuyên, Thanh
Oai, thuộc thượng lưu sông lớn nhỏ gọi là đê công.
Đê ở 5 huyện: Từ Liêm, Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Thanh Liêm,
Bình Lục, thuộc trung lưu các sông lớn nhỏ vẫn là đê công.
Đê ở 6 huyện: Sơn Minh, Chương Đức, Hoài An, Kim Bảng,
Duy Tiên, Nam Xang thuộc hạ lưu các sông lớn nhỏ đổi thành đê tư.
Đê tư thì do phủ huyện đốc làm, đê công do tỉnh thần đốc làm.
Nhận việc trả tiền công đắp đê, thay cho việc phát chẩn lại cấp
thêm tiền cho đắp thổ đôi để làm ơn cho dân nghèo”3.
Tất cả những quy định này được tóm lược trong Đại Nam hội
điển hà phòng gồm 11 điều như sau:
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 3, Sđd, tr.579-580.
2
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 13, Sđd, tr.311.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.264.

81
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Điều 1. Đê chính thức chưởng (hệ thống tổ chức)


Năm Mậu Thìn (1808), đặt một Tổng lý đê chính, một viên tham
lý đê chính. Các quan trấn ở Bắc Kỳ khi có việc đê phải cùng hiệp
lực (với đê chính) thừa hành. Lại quy định năm nào đắp đê ở địa
phận xã nào bắt dân xã ấy phải bầu thủ lộ để canh giữ. Năm Đinh
Hợi (1827), lại cho mộ thêm 20 người vào ngạch Bắc Thành công
phòng (biên chế của đê chính Bắc Kỳ). Lại chọn người nhanh nhẹn
trong đó đặt ra bát phẩm một người, cửu phẩm 2 người khiến công
việc gọi đến phải theo trông nom làm việc đê.
Năm Mậu Tý (1828), lại cho trích ở trong thành suất đội 2 người,
binh lính 100 người để quan đê chính sai khiến. Lại cho đặt Nha
môn đê chính; một viên quan văn nhị phẩm làm quản lý, một viên
quan võ tam phẩm làm tham biện, và một viên ngoại lang.
Chủ sự tư vụ mỗi chức 2 người. Bát, cửu phẩm mỗi chức 4 viên,
thư lại 40 viên làm việc khi có việc quan trọng, quan đê chính cùng
các quan Bắc Thành bàn định xác đáng, lỗi do quan thành (chính
quyền) và quan Đê chính thảo tờ biểu tâu lên (vua) dùng ấn triện
Tổng trấn Phụng đê. Việc chi tiêu, giá cả do quan Đê chính phác họa
thảo ra, dùng ấn triện đê chính quan phòng, nhưng cũng do quan
Tổng trấn phụng đê (lên vua).
Năm Quý Tỵ (1833), đặt chức Đê chính nha viên do quan
Chuyên úy Đốc phủ đại viên, tùy nghi bổ dụng. Còn chức tư vụ trở
lên đều phải đưa về kinh do Bộ Công bổ dụng. Các chức bát, cửu
phẩm, thư lại giao cho Bắc Thành bổ đi các tỉnh làm việc đê. Công
việc đê ở các tỉnh giao cho quan Đốc phủ sung chức Đốc tu, quan
Bố chính sung chức Giám tu. Phủ huyện và các viên lại ở các tỉnh là
người chuyên làm mọi việc về đê.
Điều 2. Đê điều hợp tống
Năm Kỷ Sửu (1829), có lệnh cho phép chỗ nào gần bờ sông mà
thân đê vở lở không thể theo lối cũ mà tu bổ được, thì được chiếu
theo lệ đại công trình mà sửa đắp. Các đoạn đê từ triều Gia Long đến
giờ, đoạn nào vỡ lở thế nước xung khích phải bồi đắp lại. Đoạn nào
trước nay dân xã tự đắp, nay xã thuộc đại, trung giang hoặc là chỗ
82
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

quan yếu thì nên nhận lâm đê công mà đắp. Sức cho các trấn, phủ,
huyện đốc dân phu chỗ “thủy thế sở cấp” theo lệ tiểu giang công
trình mà tu bổ đê ngự hàm có ở Nam Định và Hải Dương tuy chỉ
phòng nước biển lên xuống mà thôi, nhưng nếu xét là quan yếu cần
đắp thì các trấn sức cho các phủ huyện sở tại đốc thúc dân phu bồi
bổ. Nếu bình thường cũng nên giao cho xã dân cam kết bảo thủ lấy.
Điều 3. Tấn hậu chi nghiêm
Năm Mậu Tý (1828), nghị đặt thủy chí. Chiểu theo đê sông đại
giang và trung, tiểu giang, dựng cây cột gỗ khắc rõ thước tấc, để
ghi mực nước đến chỗ nào là nước to hay nhỏ. Thí dụ thân đê cao 1
trượng 2 thước mà nước dâng đến 1 trượng 1 thước là bình thường,
qua 1 trượng 1 thước trở lên là bội thường. Thân đê cao 1 trượng
mà nước dâng 9 thước là bình thường. Qua 9 thước trở lên là bội
thường. Mỗi khi nước lên, nước xuống, quan thành phải phái người
xem xét để sau còn tra xét.
Năm Quý Tỵ (1833), có chỉ dụ cho các đốc phủ các tỉnh chiếu
theo thuỷ chí cứ 3 ngày 1 lần tâu lên (vua). Lại có dụ, đê điều trong
hạt, đoạn nào ngấn nước cách mặt đê mấy thước, đoạn nào nước
tràn qua đê mấy thước tấc, ghi chép lấy, cứ trung tuần tháng 8 tâu
lên để lượng tôn cao trong quy thức đê.
Năm Kỷ Hợi (1839), có dụ, hằng năm nước lớn phần nhiều vào tiết
mạt phục, phải ghi lấy, hằng năm sắp đến tiết mạt phục phải tâu trước.
Năm Canh Tý (1840), có chỉ dụ: Xứ Bắc Kỳ các địa hạt có đê,
không kể sông lớn sông nhỏ nước lên xuống. Cứ đo từ mặt nước
đến mặt bùn lòng sông sâu bao nhiêu thước tấc. Lại đo từ mặt đê
đến mặt ruộng so sánh với mặt nước lòng sông cao hạ khác nhau
bao nhiêu thước tấc, biên chép báo lên bộ để nghiệm xem năm sau
lòng sông có bồi nâng lên không.
Điều 4. Lý trúc trình thức
Năm Kỷ Tỵ (1809), có lệnh: Sông đại giang, đê thượng lưu và
trung lưu, mặt rộng 2 trượng, chân 7 trượng cao 1 trượng 2 thước.
83
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Đê hạ lưu bề mặt rộng 1 trượng 5 thước chân rộng 5 trượng. Sông


trung giang đê bề mặt rộng 1 trượng 2 thước chân 4 trượng, cao 1
trượng. Sông tiểu giang, bề mặt 9 thước, chân 3 trượng, cao 9 thước.
Đoạn nào bùn lầy sâu từ 1 đến 4 thước, dùng cọc gỗ, mỗi trượng
theo chiều dài đóng 46 cây cọc (dài 10 thước, khoát (đường kính) 2
tấc để làm nòng cốt cho đê, gỗ cọc và tre giằng dùng hết bao nhiêu
lấy tiền kho ra mua.
Những đoạn bùn lầy, bắt dân sở tại nạo bỏ hết bùn đến chỗ đất
chắc mới cho đắp lên. Đất đắp đê cũng phải đào lấy loại rắn chắc
không được lấy đất sa bồi. Chỗ lấy đất phải cách xa chân đê 5 thước.
Thân đê đắp hình tang trống (hình thang). Đắp được dăm ba ngày,
đem voi nhà nước ra cho giày đạp lên thật kĩ mới cho cấy cỏ lên. Lại
làm các cống tiêu nước, dùng gỗ lim làm thân cống. Công việc này
thuộc loại đại công trình, cho lấy tiền kho ra thuê đắp và sắm sửa.
Bồi đắp đê cũ bề mặt từ 4 thước trở xuống thuộc loại tiểu công trình,
bắt dân phải tự đắp.
Năm Đinh Hợi (1827), có lệnh, quy thức đê cứ theo mặt đê và
chỗ nước xói làm mực. Các đê tư nước tràn bị vỡ, dân không đủ sức
làm, được xuất tiền kho ra làm. Đắp xong, dân xã phải bỏ tiền trả lại.
Năm Kỷ Sửu (1829), có lệnh, phàm đê đại, trung giang đoạn
nào bề mặt và chân còn thiếu từ 1 đến 4 thước đều bồi thêm cho
đúng thức. Đoạn nào thiếu từ 6 thước đến 1 hoặc 2 trượng, đều đắp
rộng ra 5 thước làm mức.
Năm Đinh Dậu (1837), chuẩn cho sông đại giang, thượng và
trung lưu đê đắp cao hơn ngấn nước 1 thước 5 tấc. Đê hạ lưu đại
giang và đê trung giang đắp cao hơn ngấn nước 1 thước. Trên
thượng lưu, nơi nào ngấn nước cách mặt đê 1 thước thì tôn cao
thêm 5 tấc. Đoạn nào ngấn nước tràn qua mặt đê một thước thì đắp
bù 1 thước và làm cao thêm 1 thước 5 tấc. Đoạn nào ngấn nước thấp
hơn mặt đê 1 thước 5 tấc trở lên không nên đắp thêm. Đoạn nào
rộng từ 1 trượng 5 thước đến 2 trượng thì đắp mặt đê rút lại 5 thước.
Hai bên đều để lưu không mỗi bên 2 thước 5 tấc. Đoạn nào hiện
84
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

rộng 1 thước 4 tấc thì đắp rút vào 3 thước. Hai bên đi lưu không, mỗi
bên 1 thước 5 tấc. Còn như đắp dày ra thị do quan địa phương xét
đoạn nào xung yếu cho bồi đắp đoạn ấy.
Điều 5. Khám biên kì hạn
Năm Kỷ Tỵ (1809), định lệ, hằng năm cứ ngày 01 tháng 10, các
phủ huyện phải khám xét các đê công, đê tư và các cống (dưới đê).
Những chỗ thấp hoặc vỡ lở nếu là tiểu công trình thì khai vào sổ
nộp lên quan trấn xét, rồi đem báo quan Đê chính xét lại. Sức về các
quan phủ huyện lấy xã dân đắp, hạn 1 tháng phải xong, lại cũng dịp
ấy các quan phủ huyện đi khám đoạn đê nào gần sông nên làm đê
mới, đoạn nào đê cũ thì còn áp trúc được, lại đi khám cống các nơi,
nơi nào mục nát nên làm mới, hoặc sửa lại, hạn trong 10 ngày họa
thành đồ bản nộp lên trấn.
Ngày 11 tháng 10, quan trấn thân hành đi khám hạn trong 1
tháng làm thành sổ nộp lên quan Đê chính. Thượng tuần tháng 11
quan Đê chính đi khám lại. Trung tuần tháng 12 khám xong, phân
biệt ra đại hoặc tiểu công trình, khai trình lên quan Tổng trấn họp
bàn, đoạn nào nên áp trúc, chiều dài rộng bao nhiêu, lượng định ra
thổ đấu (mặt vuông mỗi bề 1 thước, sâu 1 thước là một đấu) tùy chỗ
giá thuê lấy đất khác nhau, rồi đưa xuống quan trấn, đưa về cho
phủ huyện mộ dân khoán đắp lại, chọn các cán viên đốc xuất. Đến
hạ tuần tháng Giêng hoặc thượng tuần tháng 2 năm sau khởi công.
Tiểu công trình hạn 1 tháng phải xong, đại công trình hạn 2 tháng
phải xong.
Quan Trấn cùng quan Đê chính thân hành đi khám. Tiểu công
trình đi khám vào thượng tuần tháng 3, đại công trình đi khám vào
thượng tuần tháng tư, Chỗ nào sơ xuất không làm hợp thức, theo
nặng nhẹ luận tội và bắt người thầu khoán đắp đền.
Quan Đê chính lại phải xét tiểu công trình mấy chỗ, mỗi chỗ
đắp bù dài rộng, cao dày bao nhiêu thước. Đại công trình mấy chỗ,
đắp đê mới bao nhiêu thước, cùng là cống mới mỗi chỗ bao nhiêu
tiền công, mua vật liệu bao nhiêu, lập thành sổ 2 bản. Một bản trình
85
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Tổng trấn làm bằng, một bản quan trấn giữ, Quan Đê chính lại còn
phải làm sớ tâu (vua), họa đồ bản 2 bức, một bức nộp cùng sổ đê,
một bức hữu quan trấn giữ làm bằng. Năm ấy làm đê, làm cống bao
nhiêu chỗ và dùng tiền hết bao nhiêu làm một tờ biểu trình nộp.
Năm Canh Ngọ (1810), có lệnh: Đoạn đê nào nguy hiểm xung
yếu, nên bỏ đá kè, nhưng trước hết phải trù hoạch và đặt giá rõ ràng
mới làm. Hằng năm, cuối mùa thu đầu mùa đông, quan Đê chính
phái hội đồng với quan trấn cùng các quan phù huyện đi khám các
đê, hễ phải làm đại công trình thì trù liệu vẽ bản đồ, hạn thượng
tuần tháng 12 phải tâu lên. Sau khi được lệnh chỉ, phái các ty viện
hiệp cùng phù huyện mà làm. Số tiền công chi ra thuê khoán dân sở
tại hoặc các xã lân cận, do quan Đê chính định liệu.
Đê mới đắp cứ thượng tuần tháng Giêng là phải khởi công, đại
công trình hạn trong 3 tháng phải xong, trừ đê đắp vào ruộng sâu
không có đất có châm chước. Đại công trình làm xong phải tâu (vua)
để khám xét trượng thước có đúng với giá đặt không. Nếu thấy việc
không đúng sự thực sẽ giao Bộ (công) nghị xử. Tiểu công trình làm
xong cũng phải tư (báo cáo) Bộ để phòng xét về sau.
Điều 6. Nhu dụng vật liệu
Năm Kỷ Tỵ (1809), có lệnh chuẩn cho gỗ lim mỗi cây dài 20
thước, khoát 1 thước, giá tiền 20 quan. Hễ dài hơn thì quy vào thước,
hoặc 2 cây quy thành 1 cây cũng được, còn bề rộng, bề dày thì cứ 1
thước không được giảm. Đá vụn cứ 100 cân giá 3 tiền, sắt cân giá 12
quan. Công thợ xây cống mỗi ngày 3 tiền 30 đồng, công người nện
đất mối này 2 tiền. Việc đào đất lấp đất mỗi đấu giá 6 tiền. Tre giằng
mỗi cây dài 25 thước, khoát 2 tấc giá 1 tiền 30 đồng. Gỗ mồi cây dài
10 thước khoát 4 tấc giá 2 tiền. Chày gồ (đế nện đắp mỗi cái dài 4
thước 3 tấc, khoát 3 tấc, đầu bịt sắt, giá 1 tiền 80 đồng).
Năm Quý Dậu (1813), lệnh cho từ đây về sau, việc khoán phụ
lãnh mua gỗ lim, chiều dài chiều ngang phải chiếu y như kích thước
khai sau đây, có thật tốt mới mua, có tỳ vết không lấy:
- Hạng dài 20 thước, chiều ngang 8 tấc.
86
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

- Hạng dài 15 thước, ngang 8 tấc.


- Hạng dài 10 thước ngang 8 tấc.
- Hạng dài 9 thước ngang 7 tấc.
Năm Mậu Tý (1828), lệnh đất đắp mỗi đấu chỗ rất khó (lấy đất)
giá 1 quan, chỗ khó vừa mỗi đấu giá 9 tiền. Mạn trong đê chỗ hơi
dễ và mạn ngoài đê chỗ hơi khó mồi đấu giá 8 tiền. Dốc một bên
mối đấu giá 8 tiền 30 đồng, chỗ hơi dễ mỗi đấu giá 7 tiền. Năm Đinh
Dậu (1837), lệnh cho các tỉnh Bắc Kỳ dùng nhân công vật liệu đắp
đê như sau:
- Sơn Tây chiếu theo lệ đắp đường quan lộ.
- Nam Định chiếu theo lệ đắp đê.
- Bắc Ninh chiếu theo lệ đắp đê, chỗ rất khó mỗi đống đạt giá 1
quan 1 tiền, chỗ dễ mỗi đống giá 7 tiền.
- Hưng Yên chiếu theo lệ đắp đê tiền bối, mỗi đống đất 4 công
cấp 3 tiền 12 đồng. Chứ không giống nhau, khó, dễ phân làm 2
hạng, chỗ khó định mỗi đống 7 tiền, chỗ dễ định mỗi đống 6 công.
Mỗi công cấp 40 đồng tiền và một bát gạo.
Năm Mậu Tuất (1838), lệnh chuẩn cho các cống nước thông vào
ruộng, dùng các ống sành bằng đất nung, dài 3 thước, đường kính
8 tấc dày 1 tấc 4 phân, trong hơi loe miệng tùy chân đê rộng hẹp mà
đặt, những chỗ tiếp nối dùng vôi mật nện kĩ.
Điều 7. Cấp hạn bảo cố
Năm Kỷ Tỵ (1809), khoán đắp đê, hạn phòng thủ 2 năm. Trong
hạn đó, bị vỡ lở đâu, người thầu phải đắp đền đấy. Số tiền thầu
cứ mỗi đoạn 10 thước được bao tiền phải trừ bớt lại. Đê đại giang
mỗi trượng để lại 3 quan, tiểu giang mỗi trượng để lại 2 quan hoặc
1 quan. Trong hạn 3 năm nếu người thầu phải bồi đắp lại thì đem
phát. Sau hạn 3 năm nếu không phải bồi đắp lại thì đem trả hết cho
người thầu, lại có lệnh cho người làm cống nước, khi xong phải bảo
hành 5 năm, mục nát hư hỏng, người làm cống phải bồi thường.
87
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bồi đắp đê không thật chắc chắn, thủy thế bình thường (như
tiêu chuẩn nói trên) mà cũng vỡ đê, thổ quan trấn và các tùy viên
đốc xuất đều phải tùy nặng nhẹ mà trị tội. Còn như nước lớn chảy
xung kích vỡ đê, sức người không sao cản được thì không kể.
Năm Canh Ngọ (1810), có lệnh, đê mới đắp mà bảo cố được
trong thời hạn 3 năm, quan đê chính được thăng 1 cấp, quan trấn
làm giám tu được thưởng kỷ lục 1 lần. Đê đã ngoài hạn 3 năm và
đê từ trước hiện có đều theo lệ cũ để mà xét. Năm nào thủy thế bội
thường đê cũ không việc gì, thì quan đốc tu được thưởng kỷ lục 2
lần, quan trấn được kỷ lục 1 lần, phủ huyện và các viên lại trong ty
đều được thưởng 8 tháng lương, còn các bát, cửu phẩm thư lại ở ty
đê chính và các nha dịch, phái viên ở các phủ huyện ai có năng lực
không kể làm đê mới hay đê cũ, lấy 3 năm làm hạn, quan đê chính
cùng quan trấn, hội đồng làm danh sách trình lên lượng thưởng.
Đê mới đắp không được kiên cố, cứ lệ xử vào vị quan thừa
hành việc đắp ấy. Một chỗ không đủ đầy (không đủ mặt cắt) hay
1 - 2 trượng không được đầy đủ phải giáng 2 cấp, thư lại phải đánh
80 trượng, vị quan kiểm tra bị giáng 3 cấp, thư lại giúp việc bị đánh
90 trượng. Hai chỗ không kiên cố hoặc 3 - 4 trượng không đầy đủ,
quan thừa hành việc đắp giáng 3 cấp, thư lại bị đánh 90 trượng.
Quan kiểm tra giáng 4 cấp, thư lại đánh 100 trượng, đều cho lưu
dụng. Ba chỗ không kiên cố hoặc 5 trượng không đầy đủ, quan thừa
hành giáng 4 cấp, thư lại đánh 100 trượng nhưng cho lưu dụng.
Riêng quan kiểm tra bị cách chức, thư lại đánh 100 trượng và cách
dịch. Tất cả đều phải đắp bồi thường.
Quan đốc tu, giám tu, địa hạt mình có đắp đê, mà đê không
kiên cố, không hợp thức thì xử phạt cắt lương, quan Trấn bị cắt 1
năm, quan đê chính 9 tháng. Nếu cả 2 quan cùng phạm tội thì quan
trấn giáng 1 cấp, quan đê chính giáng 2 cấp và phát đốc thúc bồi
đắp lại cho xong và hợp thức. Sau đó được quan Thành tâu lên có
thể được tha nhưng phải đợi sắc chỉ (của vua). Nếu quan đốc tu và
giám tu đem viên quan thừa hành đắp đê không kiên cố hợp thức
đó ra trình thì bản thân được miễn tội. Đê mới đắp còn trong hạn
88
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

bào cố 3 năm, thủy thế bình thường mà đê vỡ thì các quan phủ,
huyện và các ty viên đê chính đều bị cách chức, quan trấn giám tu
giáng 4 cấp, quan đê chính giáng 3 cấp đều cho lưu dụng. Nhưng
phải đem tiền riêng ra đền tội mà bồi đắp kiên cố chỗ vỡ. Tiền chi
hết bao nhiêu lập báo cáo do quan thành tâu lên, đợi lệnh chỉ giao
cho Bộ (công) thương nghị mức bồi thường.
Đê đã quá hạn 3 năm và đê cũ, thế nước bình thường mà đê
vỡ thì phủ, huyện và các thuộc viên trong ty đê chính giáng 4 cấp,
quan trấn giáng 3 cấp 1 quan. Đê chính giáng 2 cấp được lưu dụng,
cho trình tiền kho đem bồi đắp, tiền bồi thường sẽ xét sau.
Đê mới còn trong hạn 3 năm, bị vỡ đến 2 lần, không kể đoạn
nào, phủ, huyện, ty viên, trấn quan, đê chính đều cách chức, phí tổn
bao nhiêu phải truy thu. Đê cũ 2 năm 2 lần vỡ liên tiếp, phủ, huyện
và ty viên giáng 4 cấp, quan trấn giáng 3 cấp, quan đê chính giáng 2
cấp, được lưu dụng, không phải bồi thường. Trong khi đê vỡ, không
kể 1 hay 2 lần, đoạn mới hay đoạn cũ, lúc ấy để dân và súc vật bị chết
nhiều sẽ có sắc chỉ nghiêm phạt, quan Thành có trách nhiệm hệ trọng
nhất, không như một nha hay 1 chức sự địa phương. Năm Quý Hợi
(1823), có lệnh việc phòng sông và bảo cố đê lấy quan đốc phủ làm
đầu, đê chính làm thứ, phủ huyện và các phái viên của anh lại là thứ
nữa. Khi tuyển phái viên nào do đốc phủ cử, đều phải thực đăng vào
danh sách tâu lên đợi lệnh chi giao ra Bộ (công) bàn và xử trí. Danh
sách cứ 3 năm 1 lần, kê các viên tỉnh thuộc và nha dịch phủ huyện từ
bát, cửu phẩm trở xuống, ai là người cần mẫn để ban thưởng, cũng
do đốc phủ lấy công bằng lập danh sách phân xử việc vỡ đê lại lấy
phủ huyện và các phái viên làm đầu, đê chính làm thứ, đốc phủ lại là
thứ nữa. Khi cần phải phân xử các nhân viên (về đê) đều do quan đốc
phủ làm danh sách tâu lên, đợi lệnh chỉ giao Bộ Lại nghị xử.
Đê mới đắp không được kiên cố, xét hỏi vào người lai dịch và
chuyên biện. Đê đắp không kiên cố, không hợp thức, người bị phân
xử nhiều ít do quan đốc phủ, bố chính xét hỏi và tâu lên, đợi lệnh
chỉ giao Bộ Lại xử. Đê mới đắp không kiên cố, cần bắt bồi thường
đắp lại khi đắp xong, quan đốc phủ tâu lên, (triều đình) phái quan
kinh về khám thực tâu (vua) đợi lệnh chỉ định đoạt.
89
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Điều 8. Hạch tiêu khảo lệnh


Năm 1811, có lệnh chỉ giao đình thần chọn quan trong kinh, tứ
ngũ phẩm lấy 3 viên, tư vụ và thư lại 10 người ra Bắc Kỳ, kiểm tra
ngân sách chi tiêu việc đê ở các phủ, huyện, chiếu các công trình,
thân đến tận nơi khám xét. Đối chiếu số tiền đã tiêu cùng với thước
tấc công trình, bồi đắp, nếu hai bên phù hợp, cho hợp cộng các món
tiêu lại và tâu lên.
Điều 9. Tài thức cấm lệnh
Năm Kỷ Tỵ (1809), có lệnh, các đường đê ven sông mỗi khi bị
vỡ. Ở thành đã có lệnh truyền cho các trấn, các phủ, huyện chiếu
theo các đê công ven sông, đoạn nào chưa trồng cây lau đều phải
trồng cả. Giao cho dân, cứ theo chân đê cách ngoài 5 thước hoặc 7
thước trở ra đều tùy xa gần trồng cây lau, cứ mỗi trượng 3 chỗ, mỗi
chỗ trồng 2 cây để chống sóng vỗ vào thân đê. Lại có lệnh, khi đi
khám xét đê điều và đốc xuất bồi trúc, các quan lại nha dịch không
được lấy tiền của dân và không được bắt dân khiêng, gánh chuyên
chở cho mình, trái với điều cấm này, xã có thực phải trị tội. Lại có
lệnh, các bụi gai rậm ven chân đê, không phải là lúc hộ đê không
được chém, chặt đi.
Năm Mậu Tý (1828), có lệnh các chân đê mới, cũ, ngoài những
đoạn trồng tre đã tốt, còn những đoạn chưa trồng hoặc đã trồng nhưng
hãy còn thưa thớt, đều phải trồng thêm và giao cho dân bảo quản.
Lại có lệnh khi đã trồng tre, cấm không được thả trâu, bò, ngựa
vào và cấm trồng các loại cây khác. Lại có lệnh các cống nước dưới
đê mới làm xong, giao cho dân trông nom đóng cửa. Lúc cần dùng
được phép lên trình quan địa phương xét rồi chuyển báo lên quan
Đê chính cho mở để tiêu nước ứ đọng. Nếu cần, lỗi nhỏ không trình
báo quan trên, tự tiện mở cho nước phóng ra sẽ bị trừng phạt.
Lại có dụ khi đắp đê mới, không nên khoán cho cai thầu, nên
khoán cho dân sở tại hoặc dân bên cạnh làm. Công trình thổ đấu
lượng xem thực hết bao nhiêu, tâu trước để cấp tiền công chi. Các
quan địa phương, quan đê chính phải gia tâm đôn đốc, nghiêm cấm
90
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

các lại ty không được ăn bớt tiền đề binh tệ. Nếu sơ suất phải đem
người chuyên biện ra nghiêm phạt không tha.
Năm Canh Dần (1830), có dụ, khuyến khích trồng cây là việc
quốc kế dân sinh, thực có ích lợi cho dân, trạm đã bắt trong ngoại
kinh thành khắp mọi chỗ trồng cây ba la mật, cây nam mai là những
cây gỗ tốt, nay đã được nhiều gỗ tốt đề dùng. Nay truyền lệnh cho
các quan địa phương cho các binh lính, dân đinh khắp trong thành
và hai bên đường quan lộ trồng cây ba la mật lấy gỗ dùng vào việc
công, hạn trong 3 năm trồng được bao nhiêu phải làm sớ tâu lên.
Năm Quý Tỵ (1833), xét việc trồng tre rất lợi, chỉ vì đất ngoài đê
thấp nên tre không lên được. Nay cho phép chỗ nào hiện đã có tre
để lại che chở cho đê, còn chỗ khác có thề trồng tre hoặc lau lách,
cây cỏ mà trồng mới là đúng cách.
Năm Đinh Dậu (1837), có dụ: một hạt Hưng Yên năm ngoái
gặp phải thủy tai. Trẫm nghĩ đến dân, đã tìm nhiều phương pháp
xử trí. Nghĩ đến chỗ đê vỡ đắp lại rất khổ, phải khai sông để bớt
nước lụt cũng là cái thế bất đắc dĩ. Vậy có đào vào ruộng công thì
miễn thuế, đào vào ruộng tư thì chiếu giá bồi tiền, Lại nghĩ đến lúa
ruộng không khỏi bị hại, nên xuống dụ này, cứ mỗi mẫu cấp cho 20
hộc thóc. Chiểu dụ này, quan đốc phủ ngoài việc cấp thóc, còn phải
xem đến người dân bị lụt phải làm lều trú ngự nên cho làm trên các
thửa đất cao không cấy. Còn ruộng lúa của dân cấm không được
giày xéo lên. Nếu không nghiêm cấm được, các người quản đốc dân
phu và phủ, huyện phải chiếu giá tiền bồi thường.
Điều 10. Sang tu công trình
Năm Kỷ Tỵ (1809), có lệnh, sau khi đắp (đê) xong gấp phải kì
nước lụt, quan Trấn cùng các quan phủ huyện cần dốc sức các dân ra
giữ đê phòng lụt. Hằng năm tháng tư, sức cho các trấn hễ thấy nước
sông dâng lên, ngày đêm phải chia nhau đi khám xét. Đoạn nào xung
yếu phải đốc các phủ, huyện bắt các xã dân đem đủ sọt đựng đất, tre
gồ, tre giằng, mai cuốc để hộ đê. Có đoạn nào xét khó có thể giữ được
thì một mặt phòng hộ, một mặt phi báo lên tỉnh, phái ngay người và
binh lính đến nơi cùng phòng hộ, trái lệnh sẽ bị tội.
91
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Điều 11. Phòng hộ thưởng phạt


Năm Ất Mùi (1835), có chỉ dụ, tỉnh Hưng Yên do đường ngựa
phi báo đê công ở địa phận Sài Quất, Nhuệ Dương huyện Đông An
bị vỡ. Tỉnh này trước đã tâu đê nhiều chỗ nguy hiểm, (vua) đã phê
cho phải hết sức phòng giữ. Nay không giữ được, thực là bất lực mà
ra thế, chẳng còn đổ cho mưa gió làm ra hoặc chất đất không chắc
được nữa. Quan đốc phủ hộ đê giáng 4 cấp, quan án sát giáng 2 cấp,
được lưu dụng để xem sức sau này làm ra sao. Còn lãnh binh, Tri
phủ trước hết phải cách chức. Lập tức phái một viên thị vệ mang
theo một cái côn do đường trạm đem viên lãnh binh, tri phủ là người
hộ đê ra đánh mỗi người 20 trượng, nhưng cho ở lại công sở gắng
chuộc tội. Nếu trong tuần nhật tìm phương pháp đắp lấp được chỗ
vỡ sẽ lượng ân tha thứ cho. Bằng không xuất lục đắp lấp được đê vỡ
rộng sâu mãi ra làm hại dân, tất phải phạt nặng không tha.
Như vậy, theo quy định của nhà Nguyễn từ thời vua Gia Long
và Minh Mệnh, các công trình lớn nhà nước đài thọ hoàn toàn chi
phí sửa đắp, các công trình nhỏ giao cho tư nhân làm, nhà nước
vẫn quy định cách thức tiến hành, quản lý chặt chẽ và nguyên vật
liệu do nhà nước đài thọ. Đến thời vua Tự Đức, với các quy định
trên, việc phân cấp quản lý trong công tác đê điều trị thuỷ và thuỷ
lợi càng chặt chẽ. Tuy vậy việc phân cấp công trình giao cho địa
phương quản lý được nhà nước kiểm tra chặt chẽ chứ không khoán
trắng cho địa phương. Vì vậy, nhà nước mới kết hợp tốt giữa công
và tư, huy động được tối đa sức dân dưới sự quản lý của nhà nước
để công tác này đạt kết quả tốt. Các quy định về tổ chức quản lý
thực hiện cũng được nhà Nguyễn đề ra một cách chặt chẽ.
Thông qua những quy định ở các triều đại, có thể thấy, triều
Nguyễn đã xây dựng một quy chế khá hoàn chỉnh về đê điều.
Thứ nhất, quy định về ghi nghiệm mực nước.
Năm Mậu Tý (1828), vua Minh Mệnh cho dựng cột ghi nước tại
thượng, trung, hạ lưu sông cái và phần đê sông nhỡ, sông nhỏ dựng
cột gỗ khắc rõ thước tấc, mỗi kì nước lên xuống đều ghi rõ ngấn
mực nước dừng lại, so sánh mặt nước và ngăn chân đê để định ra
92
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

mực nước bình thường hay khác thường. Lấy mực nước từ chân đê
trở lên làm chuẩn. Thân đê cao 1 trượng 2 thước (3,96m) mà nước
lên đến 1 trượng 1 thước (3,63m) là bình thường, quá là bội thường,
thân đê cao 1 trượng (3,3m) mà nước lên đến 9 thước (2,97m) là bình
thường, quá 9 thước (2,97m) là bội thường... các quan lớn trong tỉnh
có sông phải khám thực, ghi rõ ràng đích xác và tâu lên trung tuần
tháng tám để đợi chỉ quyết định các thức đắp đê cao thêm1.
Thứ hai, về kĩ thuật bồi đắp.
Năm Kỷ Tỵ (1809), vua Gia Long đã định rõ trong luật về đê, sau
bổ sung thêm: Đoạn nào bùn lầy sâu từ 1 thước đến 4 thước thì dùng
gỗ cây, mỗi trượng 46 cây (mỗi cây dài 10 thước rộng 4 tấc), tre mỗi
trượng 6 cây (mỗi cây dài 25 thước). Đoạn nào sâu 5 - 6 thước trở lên,
còn các cây đóng cọc phên chắn, cần dài cần ngang và các loại cừ móc,
cừ cầm gỗ bè, đòn ống ở 2 bên, tre và gỗ dùng đến bao nhiêu chuẩn
chi tiền công mua dùng. Đoạn nào có bùn lầy, bắt dân sở tại đào đi,
đến đất chắc mới cho đắp đê được kiên cố. Việc đắp đê mới thì nên
lấy đất cũ cứng rắn để đào lấy, không được lấy đất cát mới bồi dễ lở
sụt đất phải lấy ngoài chân đê 5 thước. Thân đê đắp như hình trống.
Hễ đắp được 3 đến 5 ngày thì đưa voi công đến chà đạp cho mười
phần kiên cố. Đê thành rồi, khám thực và cho trồng cỏ.
Còn làm cống ngầm thì dùng gỗ lim đục làm thân cống, chèn
thêm sắt, đá vụn, dây mây và đất vào, dùng đinh sắt đóng vào các
thứ bằng gỗ trong cống,... làm cống xã nào bắt dân xã ấy làm lính
canh giữ... phục dịch ở sở làm cống để khiêng gánh, xây đắp tại vạc
(đê nhỏ 2 bên cửa cống để chống nước lụt tràn tới, tát nước gánh
bùn. Miễn trừ cho bọn ấy các công việc bồi phụ đê cống trong năm
ấy. Nếu đắp bồi đê cũ rộng ra từ 4 thước trở xuống là công trình
nhỏ, không cho chuẩn y chi tiền công, chỉ đốc dân xây đắp. Nếu
đắp đê mới và phụ đắp đê cũ rộng từ 5 thước trở lên là công trình
lớn, nhà nước chi tiền công.
Năm Đinh Hợi (1827), vua Minh Mệnh ban dụ rằng: “Lấy ngấn
nước mùa thu làm chuẩn để tôn cao đê. Đê ở thượng, trung lưu
1
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 13, Sđd, tr.238-239.

93
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

sông Cái đắp cao hơn ngấn nước 1,5 thước. Đê hạ lưu và đê sông
nhỏ đắp cao hơn 1 thước. Nếu thượng lưu sông Cái đoạn nào ngấn
nước còn cách mặt đê 1 thước thì cho đắp bù thêm 5 tấc, đoạn nào
nước tràn qua mặt đê 1 thước thì cho đắp bù thêm 1 thước 5 tấc, đất
cần để đắp có thể thu hẹp mặt đê để lấy, mặt đê hiện rộng 1 trượng
5 thước đến 2 trượng thì thu gọn lại 5 thước, hai bên đê khoảng 2
thước 5 tấc. Đoạn nào rộng 1 trượng 4 thước trở xuống thu gọn còn
3 thước, hai bên đê khoảng 1 thước 5 tấc”1.
Các quy định về cách thức bồi đắp thời Minh Mệnh đã bổ sung
hợp lý cho những thiếu sót trong các quy định về đê điều thời Gia
Long góp phần hạn chế lũ lụt.
Thứ ba, quy định về kì hạn khám xét đê điều.
Năm Kỷ Tỵ (1809), vua Gia Long chuẩn y lời nghị với nội dung:
Hằng năm cứ đến mồng 1 tháng 10, quan phủ, huyện phải theo lệ
thân đi khám xét đê điều và cống trong hạt. Nơi nào cần bồi đắp
hoặc làm đê mới, nơi nào cần sửa cống cũ hay làm cống mới phải kê
rõ kích thước, số lượng, hạn trong 10 ngày phải nộp sổ ở quan trấn.
Ngày 11 tháng ấy quan trấn lại đi khám thực, xong làm sổ nộp, quan
đê chính trong tháng ấy. Thượng tuần tháng 11, quan đê chính thân
đi khám lại cho đích xác, hạn trung tuần tháng 12, khám xong, phân
biệt công trình lớn, nhỏ. Khai sổ trình quan tổng trấn để cùng định
bàn công việc sửa đắp và vị chi tiền bạc. Quan đê chính căn cứ vào
đó, biên rõ gửi xuống quan trấn huyện truyền cho quan phủ huyện
chiêu mộ dân phu, đặt khoán đến trấn nhận đắp.
Đến hạ tuần tháng Giêng hoặc thượng tuần tháng 2 năm sau
khởi công. Công trình nhỏ hạn 1 tháng phải xong, quan đê chính
thân đi khám lại, hạn thượng tuần tháng 3 phải xong công trình lớn,
thượng tuần tháng 4 phải khám kĩ, nếu làm dối và không đúng quy
cách thi tuỳ nặng nhẹ mà luận tội, bắt phu khoán đắp đền. Song,
quan đê chính tổng kê chi phí, hạng mục công trình thành 2 bản sổ
sách, 1 bản trình quan tổng trấn lính giữ làm bằng, 1 bản quan tổng
trấn thu lưu. Quan đê chính làm lại sổ tâu rõ và vẽ rõ ràng tường tận
1
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 13, Sđd, tr.240-244

94
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

thêm hai bức họa đồ, 1 bức gộp cùng bản danh sách nộp lên, 1 bức
lưu chiểu ở thành, Tổng trấn cứ theo năm ấy xây đắp bao nhiêu đê,
cống, nơi nào chuẩn tiền công bao nhiêu, làm biểu tâu và nộp cả lên”1.
Thứ tư, quy định về khen thưởng, xử phạt trong công tác đê điều.
Bên cạnh các quy định khá cụ thể về việc sửa, đắp đê điều, nhà
Nguyễn cũng có những quy định cụ thể về việc khen thưởng, xử
phạt trong công tác đê điều.
Năm Nhâm Ngọ (1822), vua Minh Mệnh ban chỉ: “Phàm các
hạng mục công trình như đê đập hạn bảo cố là 3 năm. Nếu trong hạn
ấy mà sụp đổ nát hỏng, thì trách cứ viên đứng làm trước phải đền lại
để tỏ rõ sự răn đe trừng phạt. Chuẩn định cho làm lệ mãi mãi”2.
Thời vua Gia Long cũng ban hành quy định xử phạt về đào trộm
đê ngăn nước sông: “Phàm kè đào trộm đê ngăn giữ nước sông thì xử
phạt 100 trượng, đào trộm đập giữ nước, bờ ao chuôm (của dân) thì
xử phạt 80 trượng, nếu làm hại nhà cửa ruộng đồng, lúa má của cải,...
của người ta, tính giá các thứ bị thiệt hại ấy nặng hơn tội trượng thì
khép vào tội tang mà trị (cao nhất phạt 100 trượng, đồ 3 năm).
Nếu vì lợi riêng hoặc hiềm thù mà cố ý đào đê giữ nước sông thì
xử phạt 100 trượng, đồ 3 năm, cố ý đào đê đập tư, bờ ao chuôm, thì xử
giam kém 2 bậc; nếu bị trôi mất tang vật gì (tính giá vật ấy) mà nặng hơn
tội đồ thì khép vào tội “trộm cắp” mà xử (cao nhất phạt 1.000 trượng,
lưu 3.000 dặm, nhưng miễn thích chữ). Vì thế mà làm bị thương hoặc
chết người thì chiểu luật “cố ý giết người” mà xử (tội tử)”3.
Đến thời vua Minh Mệnh, bên cạnh việc duy trì những luật lệ
thưởng phạt về đê điều từ thời Gia Long để lại, nhà Nguyễn đã bổ
sung thêm những quy định chặt chẽ hơn. Nhiều quan lại các cấp đã
bị xử phạt.
Năm Đinh Hợi (1827), cách chức hiệp trấn Sơn Nam của Ngô
Huy Viện. Lý do của việc này là do trước đó trấn thủ cũ là Lê Công
1
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 13, Sđd, tr.244-247.
2
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 13, Sđd, tr.509.
3
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 13, Sđd, tr.559-560.

95
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Lý và tham hiệp trấn là Vũ Tiến Huân thuê dân đắp đê ở huyện Duy
Tiên, đã dời đống nọ, đổi đoạn kia không đúng thức. Ngô Huy Viện
tiếp tục công việc ấy, biết mà không tố cáo. Sau bị thuộc lại ở trấn phát
giác, Ngô Huy Viện bị cách chức, Vũ Tiến Huân bị đánh 100 trượng
và phát đi làm lĩnh cơ, Lê Công Lý tuy đã chết vẫn bị thu lại bằng sắc.
Năm Mậu Tý (1828), vua Minh Mệnh chuẩn y lời nghị với nội
dung: Hằng năm, cuối thu đầu đông, sau khi làm sổ ghi rõ bảng hỗ
giá số vật liệu cần dùng để làm bằng cứ tra xét về sau. Nếu có lòng
tham tăng lên, hoặc dự tính về phân phái chia nhau, sau này mới
dùng ít khai nhiều thì chiếu lệ “lừa dối, xén bớt tiền lương” mà xử tội.
Lại như đoạn đê mới đắp hoặc có chỗ nào nện chầy không chắc, hoặc
có một, hai trượng bồi đắp không đúng quv cách, thì các quan phủ
huyện, viên đê chính bị giáng hai cấp, phạt 80 trượng, đem thi hành
ngay. Nếu có 2 chỗ chầy nện không kĩ hoặc có 3, 4 trượng đất đắp
không đúng quy thức, quan phải giáng 4 cấp, xử phạt 100 trượng,
thi hành ngay, nhưng đều được lưu chức. Nếu có cả 2 lỗi nêu trên,
quan phải cách chức, phạt 100 trượng, phải cách dịch và bắt sửa đắp
đền lại. Quan đốc tu, giám tu trong hạt mình, nếu có một viên nào
nhân đắp đê không kiên cố hợp thức mà phải trừng phạt thì trấn
quan phải phạt lương 1 năm, quan đê chính phải phạt lương 1 năm.
Nếu có 2 viên phải trừng phạt, thì trấn quan phải giáng 1 cấp, quan
đê chính phải phạt lương 1 năm; có 3 viên phải trừng phạt trở lên thì
trấn quan phải giáng 3 cấp, quan đê chính 2 cấp, đều được lưu chức,
bắt phải đền cho xong, nếu làm tốt sẽ được phục chức.
Nếu đê trong hạn bảo cố, thế nước bình thường mà có chỗ vỡ
thì quan phủ huyện vâng lệnh đắp mới và viên chức ở ty đê chính
đều phái giáng 3 cấp lưu chức, cho lính của khoa ra sửa đắp cho bền
chặt, sau giao cho bộ phân biệt thứ bậc bắt phải bồi lại. Còn đê mới
đã ngoại hạn bảo cố và đê cũ nếu năm nào thế nước bình thường
mà vỡ thì các viên quan phủ huyện, nhân viên đê chính phải giáng
4 cấp, quan đê chính phải giáng 2 cấp, cho mang tội ấy lĩnh của kho
ra sửa đắp lại mà không phải đền bù. Nếu thế nước bình thường mà
đê đắp trong hạn bảo cố bị vỡ đến 2 lần, thì không kể vẫn đoạn ấy
hay đoạn khác, các quan phụ trách đều phải giáng chức, giao cho bộ
96
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

xét xem đã tiêu tốn hết bao nhiêu, phân biệt ra bắt phải bồi thường
cho đủ. Về đê cũ mà 2 năm vỡ liền 2 lần thì quan phủ huyện, nhân
viên ty đê chính vâng lệnh sửa đắp phải giáng 4 cấp, trấn quan coi
việc sửa đắp phải giáng 3 cấp, quan đê chính đốc suất việc sửa đắp
giáng 2 cấp, đều đổi đi nơi khác và miễn phải bồi thường1.
Các luật lệ khen thưởng, xử phạt nghiêm khắc: cao nhất là tử
hình, ngoài ra còn bắt bồi thường, phạt trượng kết hợp với những
quy định, chủ trương, điều lệ chặt chẽ của nhà Nguyễn đã hỗ trợ
đắc lực cho công tác đê điều, trị thủy. Nó chứng tỏ rằng, việc tổ chức
quản lý cũng như biện pháp kĩ thuật thực hiện công tác này thời
Nguyễn có nhiều tiến bộ so với các triều đại trước.
Như vậy, có thể thấy, thời Nguyễn, những quy định liên quan
đến công tác trị thủy, đặc biệt là sửa, đắp đê điều đã khá cụ thể,
hoàn chỉnh. Điều đó cho thấy sự quan tâm đặc biệt của nhà nước
đến công tác quản lý đê điều, hộ đê.

3. Công việc tu sửa, đắp đê và xây dựng các công trình dưới đê
Ngay sau khi triều Nguyễn được thành lập, vua Gia Long bắt
đầu quan tâm đến việc đê điều. Công việc đắp đê chủ yếu tập trung
ở vùng Đồng bằng sông Hồng.
Năm Quý Hợi (1803), sau khi nghe quan lại Bắc Thành tâu:
“Thế nước sông Nhị Hà rất mạnh, đê bên tả bên hữu ven sông thuộc
Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng, hạ nhiều chỗ vỡ lở, xin thuê
dân sửa đắp để chống lụt mùa thu. Lại thủy đạo các trấn nhiều nơi
ứ tắc, xin hạ lệnh cho trấn thần tùy thế khơi vét”. Vua theo lời tâu2.
Gia Long đã lệnh cho Bắc Thành tổ chức đắp 7 đoạn đê mới và
tu bổ một con đê cũ trên địa bàn Kinh Bắc và Sơn Nam hạ.
Một đoạn ở xã Nại Tử Châu, huyện Yên Lạc, trấn Sơn Tây, dài
hơn 220 trượng (726m), một đoạn ở xã Kim Xà, huyện Yên Lãng, dài
hơn 298 trượng, một đoạn ở xã Thổ Khối, huyện Gia Lâm, trấn Kinh
1
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 13, Sđd, tr.559-560.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.561.

97
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bắc, dài hơn 400 trượng (520m), một đoạn ở xã Tào Nha, huyện
Nam Xang, trấn Sơn Nam thượng, dài hơn 513 trượng (1,7km),
một đoạn ở thôn Ngọ Xá, huyện Sơn Minh, dài hơn 178 trượng
(587,4m), một đoạn ở xã Mễ Trường, huyện Thanh Liêm, dài 53
trượng (175m), một đoạn ở xã Lại Trì, huyện Thư Trì, trấn Sơn Nam
hạ, dài hơn 42 trượng (141,9m); lại bồi đắp một đoạn hưu đê cũ (ở
xã Vĩnh Thái huyện Phú Xuyên trấn Sơn Nam thượng, dài hơn 65
trượng (214,5m)). Chi tiền hơn 80.400 quan1.
Tiếp đó, năm Quý Hợi (1803), tháng 10, Gia Long lệnh cho các
quan ở Bắc Thành điều trần về lợi hại của đê: “Làm lợi, bỏ hại là
việc trước tiên của chính trị. Xét xưa sách nay phải sao cho đúng
lẽ. Những huyện ở ven sông trong địa phương các người từ trước
đã đắp đê phòng lụt. Song nhân tuần đã lâu, hễ đến mùa lụt thì đê
điều vỡ lở, lúa ruộng bị ngập, người và vật đều bị hại. Bọn người,
kẻ thì sinh ở đó, người thì làm ăn ở đó. Thế đất tình người đã từng
am thuộc. Vậy đắp đê hay bỏ đê, cách nào lợi, cách nào có hại, cho
được bày tỏ. Lời bàn mà có thể thực hành sẽ được nêu thưởng”2.
Mùa thu năm ấy vua Gia Long đi thăm đê tại xã Thanh Khúc
(huyện Thanh Trì, Hà Nội) quan dân đều dâng thư, có người bàn
đắp đê thì lợi, có người nói bỏ đê thì lợi. Vua cho rằng dư luận phân
vân chưa biết thế nào là đúng. Bèn sai Nguyễn Văn Khiêm: “Đi khắp
các đường đê xem dòng sông uốn khúc, thế nước phân hợp thế nào
vẽ thành bản đồ dâng lên”3.
Vua Gia Long vẫn lệnh cho đắp đê ở Bắc Thành.
Sau lần tổ chức đắp đê đầu tiên vào năm Quý Hợi (1803), từ
tháng 3 năm Giáp Tý (1804) đến tháng 12 năm Đinh Mão (1807), ở
Bắc Thành tổ chức 3 đợt đắp đê lớn, chi phí tổng cộng hết 268.200
quan tiền4. Trong đó, lớn nhất là vào năm 1806, nhà nước cho đắp
12 đoạn đê mới ở Bắc Thành. Cụ thể đắp được các đoạn như sau:
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.561.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.572-573.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.573.
4
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.593, 655, 713-714.

98
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

- Một đoạn ở xã Nhật Châu, huyện Bạch Hạc, trấn Sơn Tây, dài
766 trượng (2,53km); một đoạn ở xã Bồ Đầu, huyện Thượng Phúc,
trấn Sơn Nam thượng, dài hơn 97 trượng (320,1m); một đoạn ở xã Cao
Đà, huyện Nam Xang, dài 167 trượng (551,1m); một đoạn ở xã Cao
Đà, huyện Kim Đông dài hơn 138 trượng (455,4m); một đoạn ở xã Bài
Nhiễm, huyện Duy Tiên, dài hơn 167 trượng (551,1m); một đoạn ở hai
xã Bạch Sam và Hòa Khê, dài hơn 98 trượng (323,4m).
- Một đoạn ở xã Hòa Khê, dài 56 trượng (184,8m); một đoạn ở
xã Đường Ấm dài hơn 133 trượng (438,9m); một đoạn ở xã Bất Đoạt,
huyện Kim Bảng, dài hơn 19 trượng (62,7m); một đoạn ở xã Hồi
Trang, dài hơn 50 trượng (160m); một đoạn ở xã Hạ Ca, huyện Đại
An, dài hơn 279 trượng (920,7m).
Sau thành thần thuê dân làm việc, chi hơn 95.200 quan tiền1.
- Năm Đinh Mão (1807), tháng 12, nhà Nguyễn cho đắp thêm
10 đoạn đê mới ở Bắc Thành.
- Ở Sơn Nam thượng, một đoạn dài hơn 700 trượng (2,3km) ở xã
Nga Khê, huyện Nam Xang; một đoạn 49 trượng (161,7m) ở xã Xâm
Thi, huyện Thanh Trì; một đoạn hơn 100 trượng (330m) ở xã Văn
La, huyện Chương Đức; một đoạn hơn 100 trượng (330m) ở xã Hồi
Trang, huyện Kim Bảng; một đoạn hơn 230 trượng (759m) ở xã Lạc
Trường; một đoạn 33 trượng (105,6m) từ xã Mễ Trường, huyện Thanh
Liêm đến xã Châu Cầu.
- Ở Sơn Nam hạ, một đoạn hơn 70 trượng (231m) ở xã Đường
Lâm, huyện Chân Định; một đoạn hơn 300 trượng (990m) ở xã Sơn
Lâm, huyện Thượng Nguyên.
- Ở Kinh Bắc, một đoạn hơn 42 trượng (138,6m) ở xã Kim Quan,
huyện Gia Lâm; một đoạn hơn 86 trượng (283,8m) ở xã Phượng Công,
huyện Văn Giang.
Tổng tiền hết 84.000 quan2.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.655.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.749.

99
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Kỷ Tỵ (1809), theo lời tâu của Đô chính Bắc Thành là Đặng
Trần Thường và Nguyễn Khắc Thiệu, vua Gia Long chuẩn y cho
đắp thêm hai đoạn đê mới và tôn cao hai đoạn đê cũ.
Bảng 9: Một số cuộc đắp đê lớn ở Đồng bằng Bắc Bộ thời vua Gia Long (1802 - 1819)

Dài Chi phí


Năm Số đoạn Địa phương
(trượng) (quan)
1802 7 1.471 Nại Tử châu (Yên Lạc, Sơn Tây); Kim Xá (Yên Lãng); Thổ 80.400
Khối (Gia Lâm); Tảo Nha (Sơn Nam thượng), Mễ Trường
(Thanh Liêm), Thư Trì, Phú Xuyên (Sơn Nam thượng)1.
1804 8 1.728 Thượng Cát (Từ Liêm), Phú Xuyên (Tiên Phong), Phù Liệt 89.000
(Văn Giang), Đông Phù Liệt (Thanh Trì), Hà Lão (Hưng
Nhân), Đường Sâm (Chân Định), Trà Lý (Chân Định)2.
1806 12 2.366 Nhật Chiêu (Bạch Hạc), Nại Tử châu (Yên Lạc), Bộ Đầu 95.200
(Thượng Phúc), Cao Xá (Kim Động), Cao Đà (Nam Xang),
Bài Nhiễm (Duy Tiên), Bạch Sam, Hòa Khê, Đường Ám,
Bất Đoạn (Kim Bảng), Hồi Trung, Hạ Cơ (Đại An)3.
1807 10 2.570 Nga Khê (Nam Xang), Văn La (Chương Đức), Lạc Trường, 84.000
Mễ Trường (Thanh Liêm), Đường Sâm (Chân Định), Sơ
Lâm (Thượng Nguyên), Phụng Công (Văn Giang)4.
1809 5 2.750 An Lão thị (Yên Lãng), Đông Dư (Gia Lâm), Đội 87.000
Xuyên (Nam Xang), Nho Lâm (Kim Động), Quỳnh
Trân (Duy Tiên)5.

Trấn Sơn Tây đắp một đoạn tại xã An Lạc thị, dài 1.282 trượng 8
1

thước (4,23km). Trấn Kinh Bắc đắp một đoạn từ xã Đông Dư huyện
Gia Lâm đến xã Kim Quan dài 637 trượng 8 thước (2,1km). Trấn Sơn
Nam thượng đắp một đoạn từ xã Đội Xuyên Nam Xang đến xã Như
Trác dài 508 trượng 1 thước (1,7km). Còn đê cũ được đắp lại một
đoạn ở xã Nho Lâm huyện Kim Động dài 125 trượng (412,5m); một
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.561.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.593.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.655.
4
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.713-714.
5
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.749.

100
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

đoạn ở xã Quỳnh Trân huyện Duy Tiên dài 18 trượng (59,4m). Chi
phí hết 87.000 quan tiền1.

Từ những trình bày trên, có thể tổng hợp một số cuộc đắp đê
lớn ở Đồng bằng Bắc Bộ dưới thời vua Gia Long như tại bảng 9.

Kể từ khi Minh Mệnh lên ngôi, vua chủ trương tích cực đắp đê
và có lần dụ rằng: “Các bầy tôi ở trong và ngoài, lần lượt trình bày
phương pháp trị hà. Có người xin phá đê đi. Ta nghĩ kĩ, phá hết đê
đi, vị tất đã lợi cho dân, mà mùa cày bừa một khi đã gặp nước lụt
dẫy lên thì đã có hại ngay. Thế khác gì nhân nghẹn mà bỏ ăn? Vả,
dân cư Bắc Kỳ cách biển rất xa, vốn không có núi gì để nương tựa,
một khi đê vỡ, chỗ cao còn có thể sớm rút được, chỗ thấp tất phải ứ
nước hàng tuần, không tiện nhiều lắm”2.
Năm Canh Thìn (1820), nhà nước cho đắp 3 đoạn đê mới ở
vùng hạ du Mỹ Lộc, Chân Định, Hạ Du ở Sơn Nam hạ.
Năm Tân Tỵ (1821), nhà nước đã xuất kho 17.000 quan tiền để
thuê đắp hai con đê mới dài 770 trượng (2,5km) tại huyện Hưng
Nhân, trấn Sơn Nam hạ (Thái Bình) để thay con đê cũ đang bị xói
lở3. Năm đó, cũng đắp đê ở Phúc Lộc và Sơn Tây.
Năm Giáp Thân (1824), nhà nước cho đắp 5 đoạn đê mới và 2
đoạn đê cũ ở Bắc Kỳ dài tổng cộng 2.173 trượng (7,17km), chi tiêu hết
66.140 quan4.
Ở trấn Sơn Nam có hai đê mới được đắp. Một ở xã Lưu Khê đến
xã Bộ Đầu huyện Thượng Phước, một ở xã Đà Xuyên đến xã Bảo Đà
huyện Nam Xang. Trấn Nam Định, một đê mới ở các xã Mai Xá, Mỹ
Lộc huyện Mỹ Lộc. Ở trấn Sơn Tây có hai đê mới được đắp. Một ở
xã Đại Cát đến xã Mạc Xá huyện Từ Liêm, một ở xã Cam Giá thượng
huyện Phước Thọ, hai đoạn đê cũ ở các xã Hạ Trì, Thượng Cát, một
đoạn ở xã Thượng Cát.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.713-714.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 3, Sđd, tr.759-760.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.137.
4
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.358.

101
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Những đoạn đê mới đó thuộc các xã Bộ Đầu huyện Thượng


Phúc, xã Đà Xuyên huyện Nam Xang (trấn Sơn Nam); một đoạn ở
xã Mỹ Lộc huyện Mỹ Lộc (Nam Định); một đoạn Ở Đại Cát huyện
Từ Liêm, một đoạn ở xã Cam Giá huyện Phúc Thọ (trấn Sơn Tây).
Còn hai đoạn đê cũ đều thuộc xã Thượng Cát, huyện Từ Liêm. Năm
Bính Tuất (1826), lại đắp hai đê mới ở Sơn Tây.
Năm Mậu Tý (1828), xét thấy việc đắp đê từ trước đến lúc ấy
không có sổ sách để làm căn cứ, nay lấy công thức Gia Long quy
định mà so thì đê phần nhiều quá thấp. Nhưng nếu nhất loạt đắp
cho đúng thức thì không những phí tổn nhiều quá mà công trình to
lớn sợ không làm nổi, các quan xin lấy mức nước lụt năm Đinh Hợi
(1827) làm mức mà tính để đắp cao thêm. Các đoạn đê sụt lở thì bắt
dân sửa chữa. Nơi nào sức dân không sửa đắp nổi thì cũng xin lượng
cấp tiền để thuê làm. Xong việc mới giao cho dân sở tại trông giữ.
Vua Minh Mệnh dụ bảo: “Việc đê quan hệ với việc làm ruộng,
lợi hại không nhỏ. Công trình sửa đắp, triều đình vốn không tiếc
phí, làm không đúng cách thức là lỗi ở Hữu ty. Nay giao trách nhiệm
cho dân, há chẳng phiền nhiễu cho dân ư? Vậy có thể lấy tiền kho
thuê nhân công làm”. Lại thấy rằng từ trước đến nay phần nhiều
mộ những kẻ tay chơi làm khoán, làm sơ sài cho xong việc, nên
thường thường bị vỡ đê. Sắc cho từ nay thuê dân sở tại làm, không
được mộ khoán”1.
Vua Minh Mệnh còn dụ thêm rằng: “Đắp đê là để chống nước
lụt cho dân yên ở, quan hệ đến lợi hại không phải nhỏ. Năm trước
vỡ đê, đã dụ bảo sớm nên trù làm, mà hữu ty khinh thường không
khởi công, thành ra vừa sửa đắp xong thì nước lụt đến, đê điều lại vỡ.
Bởi vì kẻ thừa hành bất lực, há lại đổ được cho thế nước mạnh hơn
thường ư? Nếu không một phen đặt ra phép tắc nêu rõ khuyên răn,
thì cẩu thả chần chừ, ngày ấy ngày khác, đến lúc vỡ đê, dẫu đã có
người chịu tội, mà dân chịu hại cũng chẳng làm thế nào được? Nay
nên lập chương trình thế nào cho ổn thoả, nên bàn kĩ rồi tâu lên”2.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.702.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.769

102
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Cũng trong năm Đinh Hợi (1827), sau khi sai Lê Đại Cương
đi xem xét đê điều khắp các trấn, vua Minh Mệnh mở một chiến
dịch đắp đê lớn, trên 26 công trường được mở ra thuộc các trấn
Sơn Nam, Sơn Tây, Bắc Ninh, Nam Định ngoài ra còn cải tạo 7
đoạn đê cũ, chi phí 75.000 quan (trong đó lớn nhất là đê Kim Quan
ở Bắc Ninh dài 1.000 trượng (3,3km)). Trong số này, có một số đê
mới thuộc xã Kim Quan Bắc Ninh dài hơn 890 trượng (2,94km),
đất ruộng chiêm thấm ướt thi công rất khó khăn, xin khởi công
vào thượng tuần tháng 12. Còn lại xin theo lệ đến hạ tuần tháng
Giêng năm sau khởi công, gồm: 10 sở đê mới ở Hải Bối, Phụng
Nghĩa (Sơn Tây), Phú Thi, Nho Lâm, Viên Nội, Hào Châu, Lam
Điền (thuộc Sơn Nam), Tiên Lạt, Phấn Động (thuộc Bắc Ninh),
Thanh Nga (thuộc Nam Định) cộng dài 3.060 trượng (10km). Còn
bảy sở đê cũ là: Thu Ích, Hát Môn, Mạch Lùng, Đại Lộ, Thạch Thán
(thuộc Sơn Tây), Đại Yên trường Thuần Lễ (thuộc Sơn Nam) cộng
dài hơn 3.597 trượng (11,9km). Tổng chi phí hết 175.500 quan1.
Diễn trường đắp đê mở ra cả 2 phía tả ngạn, hữu ngạn sông
Hồng, cả trên nhánh và sông chính, từ thượng đến hạ châu thổ.
Toàn bộ các công trình trên thuộc đại công trình, nhà nước đầu tư
vốn và chỉ huy đào đắp. Kế hoạch này thực hiện kéo dài đến năm
Kỷ Sửu (1829), huy động hàng vạn binh lính tham gia.
Năm Kỷ Sửu (1829), vua Minh Mệnh sai Lê Đại Cương thống
kê toàn bộ đê điều ở Bắc Thành lúc đó: “Đê điều các trấn Sơn Tây,
Sơn Nam, Nam Định, Bắc Ninh, Hải Dương và phủ Hoài Đức thuộc
hạt thành, đoạn nào đắp tự năm nào, đời nào, đoạn nào ở địa phận
xã, thôn nào, cùng dạng thức cao rộng bao nhiêu, sổ sách không rõ,
từ trước đến nay người lãnh chức Đê chính phàm có sửa đắp, chỉ cứ
theo sở tại khai báo mà giao làm, đến khi làm xong, cũng chỉ tới chỗ
đê mới mà khám biện thôi. Từ khi Lê Đại Cương chuyên coi việc đê
mới đi khắp xem xét. Những chỗ đê gần sát bờ sông, thân đê sụt
nứt, chiếu lệ đại công trình mà đắp đê mới, tất cả 18 sở, ngoài ra các
đê mới, cũ đắp từ đời trước và từ năm Gia Long thứ 2 trở lại, nhiều
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.792-793

103
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lần sửa đắp, phàm chỗ thế nước chảy xói nên quý làm đê công, thì
theo lệ tiểu công trình mà sửa đắp, chỗ nào thế nước tầm thường
nên làm đê tư thì cho dân coi giữ, chỗ nào nên bỏ thì san đi. Đến
bấy giờ cứ các đê điều cho đến cống nước ở đê, họp làm sách tổng
kê để phòng xem đến”1.
Theo thống kê, tính đến năm Kỷ Sửu (1829), số đê nhà nước
có ở 742 xã thôn, trang, trại tất cả dài 239.933 trượng 9 thước 7 tấc
(800km). Trong đó, đê sông cái 78.712 trượng (260km), đê sông vừa
103.684 trượng 6 thước 5 tấc (379km), đê sông con 17.014 trượng 4
thước 5 tấc (57km). Cống ngầm công ở các trấn, huyện có 50 cửa.
Đê sông con đầu nguồn khe lạch và đê chống nước mặn tư, tất cả
dài 174.606 trượng 2 thước 6 tấc (583km)2. Kết quả cụ thể ở các địa
phương như sau:
- Trấn Sơn Tây: 8 huyện Tiên Phong, Phước Lộc, Đan Phượng,
Yên Sơn, Từ Liêm, Bạch Hạc, Yên Lạc, Yên Lãng, 212 xã thôn, trang
trại, đê công cũ, mới ở các sông lớn, sông vừa, sông nhỏ cộng 248
đoạn, dài suốt hơn 59.093 trượng (195km), đời trước đắp 45.136
trượng (144,44km), năm Gia Long thứ 2 đến nay đắp hơn 13.957
trượng (46km), và cống công 16 cửa. Đê tư sông nhỏ ở đầu nguồn
và dòng khe, dài suốt hơn 10.393 trượng (34,3km) và cống tư 16 cửa.
Hai huyện Vĩnh Thuận, Thọ Xương phủ Hoài Đức, 8 phường thôn,
2 đê công cũ ở sông lớn, dài suốt 1.272 trượng (4,07km), đắp từ đời
trước, lại 1 con đê bỏ, dài 102 trượng (336,6m).

- Trấn Sơn Nam: 16 huyện Thanh Trì, Thượng Phước, Phú


Xuyên, Đông An, Kim Động, Nam Xang, Tiên Lữ, Phù Dung, Thanh
Oai, Chương Đức, Sơn Minh, Hoài An, Kim Bảng, Duy Tiên, Bình
Lục, Thanh Liêm, 287 xã thôn, trang, đê công cũ, mới ở sông lớn,
sông vừa 368 đoạn, dài suốt hơn 88.363 trượng (291,6km), đời trước
đắp 73.683 trượng (243,2km), năm Gia Long thứ 2 đến nay đắp hơn
14.679 trượng (48,44km), và cống công 3 cửa.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Sđd, Tập 2, tr.899.
2
Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập 13, Sđd, tr.229.

104
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

- Trấn Bắc Ninh: 11 huyện Đông Ngàn, Gia Lâm, Văn Giang,
Tiên Du, Yên Phong, Thiên Phước, Việt Yên, Bảo Lộc, Phượng
Nhỡn, Yên Thế, Yên Dũng, 154 xã, đê công cũ, mới ở các sông
lớn, vừa, nhỏ 164 đoạn, dài suốt hơn 65.318 trượng (215,6km), đời
trước đắp hơn 53.358 trượng (176,08km), năm Gia Long thứ 2 đến
nay đắp hơn 1.959 trượng (6,46km), và cống công 31 cửa. Đê tư
sông nhỏ ở đầu nguồn và dòng khe, dài suốt hơn 45.705 trượng
(150,8km).
- Trấn Nam Định: 12 huyện Thượng Nguyên, Mỹ Lộc, Thiên
Bản, Hưng Nhân, Duyên Hà, Thư Trì, ý Yên, Vũ Tiên, Chân Định,
Thanh Quan, Đông Quan, Thuỵ Anh, 78 xã thôn trang tại, đê công
cũ, mới ở sông lớn, sông vừa dài suốt hơn 24.861 trượng (82km), đê
ngăn nước mặn hơn 9.804 trượng (32,4km), đời trước đắp hơn 19.132
trượng (63,14km), năm Gia Long thứ 2 đến nay đắp hơn 5.532 trượng
(18,3km). Đê tư sông nhỏ và dòng khe cùng là đê ngăn nước mặn, dài
suốt hơn 42.971 trượng (141,8km).
- Trấn Hải Dương: huyện Vĩnh Lại 3 xã, đê công cũ ở sông vừa
ngăn nước mặn dài suốt hơn 1.221 trượng (4,03km) đời trước đắp.
Đê tư ngăn nước mặn dài suốt hơn 75.432 trượng (249km)1.
Cũng trong năm 1829, triều Nguyễn còn cho đắp đê ngăn
mặn ở Kim Sơn - Ninh Bình. Đắp một đoạn nhỏ phía Tây dài 43
trượng, cao 3 thước (0,96m), mặt rộng 3 thước (0,96m); một đoạn
phía giữa dài 2.835 trượng (9,4km), mặt rộng 5 thước (1,65m), cao
4 thước “Kim Sơn tiếp giáp với bãi biển cho nên đắp đê ấy để che
chở nghề nông, cho dân đắp, cấp lương tiền 3 tháng. Đắp xong
cho làm đê tư, hằng năm do huyện sở tại đốc thúc tu bổ”2.
Ngoài ra ở Bắc Ninh còn đắp một đoạn đê mới từ xã Dầu Hàn, huyện
Yên Phong đến xã Cổ Mễ, huyện Võ Giàng dài 293 trượng (963,6m);
một đoạn từ xã Văn Lâm đến xã Kim Bảng, huyện Kim Bảng dài 879
trượng (2,9km) , một đoạn từ xã Quang Am đến xã Đường Ấm, huyện
Duy Tiên dài 310 trượng (1,02km), đều thuộc Sơn Nam.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.899-900.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.934

105
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bảng 10. Một số lần đắp đê lớn ở Đồng bằng Bắc Bộ thời vua Minh Mệnh1

Số Dài Chi phí


Năm Địa phương
đoạn (trượng) (quan)
1820 3 Kim Lũ, Tiên Liệt (Mỹ Lộc), Trà Lý, Lương Phú (Chân
Định), Sơ Lâm, Hàn Lâm (Thượng Nguyên)
1821 2 770 Phúc Lộc (Sơn Tây), Hưng Nhân (Sơn Nam) 17.000
1824 5 2.173 Lưu Khê, Bộ Đầu (Thượng Phúc), Đà Xuyên, Bảo Đà 66.140
(Nam Xang), Mai Xá, Mỹ Lộc (Mỹ Lộc), Đại Cát, Mạc Xá
(Từ Liêm), Cam Giá thượng (Phúc Thọ), Hạ Trì, Thượng
Cát (Từ Liêm)
1826 2 1.105 Tiên Phong, Yên Lãng (Sơn Tây)
1828 18 7.540 Hải Bối, Phụng Nghĩa (Sơn Tây), Phú Thị, Nho Lâm, Viên 175.500
Nội, Hào Châu, Lam Điền (Sơn Nam), Đồng Phấn (Bắc
Ninh), Thanh Nga (Nam Định), Thụ Ích, Hát Môn, Mạch
Lũng, Thạch Thán, Đại Độ (Sơn Tây), Đại Yên Trường,
Thuần Lễ (Sơn Nam)
1829 3 3.466 - Minh Sơn, Cổ Hào (Chương Đức), Thạch Nga, Phương
Khê (Yên Sơn), Đại An trường, Chúc Lý (Chương Đức)
3 982 - Đẩu Hàn (Yên Phong), Cô Mễ (Võ Giàng), Văn Lâm (Kim
Bảng), Quang Ấm, Đường Ấm (Duy Tiên)
1830 3 433 An Quán (Yên Sơn), Từ Dương (Sơn Minh), Lưu Khê 4.979
(Thượng Phúc)
1831 1 70 Đắp đê mới ở Lê Xá (Sơn Nam)
1832 2.740 Đắp đê ngăn mặn ở ba xã Lưu Khê, Vị Dương (Yên
Hưng) và An Phong (Hoa Phong)

Năm Canh Dần (1830), đê Sơn Nam bị vỡ nhiều chỗ nên cuối
năm đó vua xuống dụ: Đê đắp chưa thật cao thật dầy thì chưa khỏi
lo về sau. Vậy nên phái thêm 5.000 biền binh hợp với dân binh, góp
sức đắp thêm cho mười phần chắc chắn, dân phu thì chiếu cấp tiền
gạo, biền binh đều thưởng mỗi người một quan tiền. Vật liệu thì
theo giá trả tiền. Lại treo giải thưởng 100 lạng bạc. Vụ nước mùa thu
này nếu giữ được đê vững thì đem bạc ấy chiếu số dân binh đắp đê
mà chia đều nhau. Phàm cho những người bị án (do vỡ đê từ trước
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 3, 4, Sđd.

106
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

từ Tổng trấn, đê chính đến phủ huyện đều khôi phục). Nếu lại hỏng
việc thêm hại xóm làng thì tội trước chưa xong, tội sau lại tới.
Tháng Chạp năm đó lại cho đắp thêm một đoạn đê mới ở xã An
Quán (An Sơn - Sơn Tây) dài 217 trượng (716m), một đoạn từ xã Tư
Dương, huyện Sơn Minh dài 126 trượng (415,8m) và một đoạn từ xã
Liên Khê huyện Thượng Trúc dài 90 trượng (297m) đều thuộc trấn
Sơn Nam. Năm Tân Mão (1831), đắp đê ở huyện Thượng Phúc trấn
Sơn Nam Ở xã Lê Xã một đoạn 90 trượng (297m).
Tổng hợp một số lần đắp đê lớn dưới thời vua Minh Mệnh tại
Bảng 10.
Như vậy, từ năm 1820 đến 1832, hầu như năm nào vua Minh
Mệnh cũng tổ chức đắp đê ở Bắc Thành. Trong khoảng 3 năm
(1829 - 1831), ở Bắc Thành không xảy ra lũ lụt đã chứng minh cho
hiệu quả ban đầu của việc đắp đê, phòng chống lũ lụt. Tuy nhiên,
từ năm Nhâm Thìn (1832) trở đi, tình hình lũ lụt ở Bắc Thành
lại xảy ra trầm trọng. Đặc biệt, năm Quý Tỵ (1833) có hàng loạt
đê ở Hưng Yên, Bắc Ninh, Sơn Tây bị vỡ gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sản xuất và cuộc sống của người dân. Vấn đề đê điều
lúc này trở thành đề tài sôi nổi xung quanh việc bỏ đê hay giữ
đê. Những người chủ trương “có đê không lợi bằng không đê”
như Đặng Văn Thiêm, Trịnh Quang Khanh đều nghị phân lũ
bằng biện pháp nạo vét sông ngòi, kênh rạch, uốn nắn dòng chảy
và đào thêm sông mới để chia nước với sông chính. Còn Lê Đại
Cương, nguyên phụ trách Nha môn đê chính lại chủ trương giữ
đê và coi việc khai sông chỉ là biện pháp hỗ trợ. Chấp nhận ý kiến
của đình thần và theo sở nguyện của nhân dân, vua Minh Mệnh
đã đồng ý đình chỉ việc đắp đê.
Từ năm Quý Tỵ (1833) đến năm Canh Tý (1840) là thời kỳ vua
Minh Mệnh thử chọn giải pháp bỏ đê. Nha môn đê chính cũng bị
bãi bỏ, công việc trị thuỷ giao cho các quan sở tại đảm nhiệm. Tuy
nhiên, triều Minh Mệnh không chủ trương bỏ hết đê mà chỉ bỏ ở
vùng hạ lưu sông Hồng. Trong khoảng thời gian từ năm 1833 đến
năm 1840, công việc đắp đê, tu bổ đê vẫn được thực hiện, nhưng với
107
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

quy mô nhỏ. Thay vào việc bỏ đê, Minh Mệnh đặt rất nhiều hy vọng
vào việc khai đào sông Cửu An để chia sẻ bớt dòng lũ ở Nhị Hà.
Năm Bính Thân (l836), nhà nước cấp 3.000 quan tiền đã đắp đê
huyện Hưng Nhân (Thái Bình). Năm Đinh Dậu (l837), đắp đê ở xã
Kinh Khê - Điền Nhà dài 376 trượng (1,24km). Đắp đê sông Cửu An
(Hải Dương) từ Đồng Lý đến Bích Chàng dài 1.183 trượng 9 thước
(hơn 3.789m), từ Gia Lộc đến Hoàng Thư (Thanh Miện - Hải Dương)
dài 112 trượng (369,6m), thân đê cao 9 thước (gần 3m). Đắp riêng đê
mới ở Hưng Nhân từ Hà Lão qua An Triền, Mai Linh đến Nhật Tảo
dài 570 trượng (1.881m), mặt đê rộng 1 trượng 2 thước (3,96m), chân
đê rộng 4 trượng (13,2m), thân cao 1 trượng (3,3m).
Năm Mậu Tuất (1838), đắp đê ở Phúc Thọ (Sơn Tây). Ban đầu
định sửa đắp đoạn đê cũ từ Phù Nhì - Phù Xá. Nhưng tổng đốc
Nguyễn Công Do nhận thấy bờ sông bị sạt lở nên xin đắp một con
đê mới từ xã Mông Phụ qua các xã Phù Nhì - Phù Xá đến Thiều
Xuân dài 550 trượng (trên 1.800m) tâu xin theo cách đê thượng
lưu sông lớn (mặt đê rộng 2 trượng (6,6m), chân đê rộng 7 trượng
(23,1m), thân đê cao 1 trượng 2 thước (3,96m)) thuê dân các huyện
bị thế nước chỗ ấy đến được, khởi công làm, một tháng thì xong,
xin phái quan khám lại.

Ngoài ra còn cho xét ở Hải Dương để triệt dòng sông Tam Cửu
ở Dinh Linh, cho dân sở tại đắp xây đê đập, tất cả dài 35.118 trượng
6 thước 5 tấc.

Ngay sau khi lên ngôi, Thiệu Trị đã phải đối mặt với một khó
khăn lớn là tình hình ngập lụt hằng năm ở các địa phương ngoài
Bắc. Để giải quyết tình trạng thuỷ tai đang diễn ra trầm trọng,
thể theo lời xin của dân ba huyện Kim Động, Tiên Lữ và Phù Cừ,
tháng 02 năm Tân Sửu (1841), vua Thiệu Trị đã lệnh cho sửa chữa
đê bối ở Hưng Yên. Nhận thấy sông Cửu An không đem lại hiệu
quả trong việc thoát lũ, Tuần phủ Hưng Yên là Hà Thúc Lương
đề nghị xây dựng một đập chắn ngang sông Cửu An để bớt công
đắp đất. Việc này được đưa xuống đình nghị, đều cho là không
108
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

nên mà cần chọn giải pháp tiếp tục bồi đắp hệ thống đê cũ bên tả
ngạn, đồng thời xây dựng đê mới bên hữu ngạn và khơi đào, nạo
vét những đoạn nông hẹp. Công việc dự định tiến hành trong hai
năm 1841 - 1842, ước tính chi phí hết hơn 30 vạn quan tiền. Tuy
nhiên, sau nhiều lần suy tính, bàn định, Thiệu Trị cho rằng làm
như vậy sẽ khiến hao tổn sức dân. Ngay sau đó, quan tỉnh Hưng
Yên tâu xin đắp đập ngang ở cửa sông Cửu An, để lấp hẳn chỗ
cửa ấy, Thiệu Trị đồng ý. Từ đó dân ở hữu ngạn sông Cửu An mới
được yên ổn.

Năm Nhâm Dần (1842), cho đắp riêng ở Hà Nội 125 trượng
(412,5m) đê. Năm Quý Mão (1843), đắp thêm: 73 trượng (241m)
ở Nam Định. Năm Giáp Thìn (1844), hạ lệnh cho tỉnh Hưng Yên
đốc thúc dân sửa, đắp đê, kè, cống. Đê các xã Thiết Trụ, Bối Khê,
Kinh Khê, thuộc huyện Đông An, các xã Nho Lâm, Phục Lễ, Đức
Triêm thuộc huyện Kim Đông, xã Thiện Phiến thuộc huyện Tiên
Lữ. Các xã Ứng Lôi, thôn Ứng Lôi, xã An Xá, huyện Hưng Nhân
và hai bên bờ sông Cửu An lâu ngày dễ bị sụt lở cho nên nhân
xong mùa làm ruộng sửa đắp lại.

Năm Ất Tỵ (1845), đắp đê mới ở xã Bình Trung, Ngô Xá (Nam


Định), Ứng Lôi, Thiên Phước (Hưng Yên). Đê các xã này bị lở, sai
đắp đê tư mới để giữ đê tỉnh Nam Định dài 160 trượng (528m), đê
tỉnh Hưng Yên dài 868 trượng (2,87km). Lại sai sửa, đắp đê cũ, bỏ đê
tư ở Thanh Trì thành đê công.

Năm Bính Ngọ (1846), đắp đê thuộc xã Phục Lễ và xã Thiết Trụ


(thuộc tỉnh Hưng Yên), đê dài 221 trượng lẻ (729,3m), xã Thiết Trụ
thuộc huyện Đông Yên, đê dài 40 trượng (132m).

Triều Tự Đức vẫn tiếp tục đắp đê. Năm Mậu Thân (1848), sửa
đắp đê điều mới và cũ ở Hưng Yên, triều đình chi hết 25.437 quan và
8.053 phương gạo.

Năm Canh Tuất (1850), đắp 650 trượng (2,15km) đê ở Nam Định.

Năm Tân Hợi (1851), triều đình lại chi thêm 2.167 quan và 4.548
phương gạo cũng để đắp đê ở Hưng Yên.
109
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Quý Sửu (1853), đắp đê cái (đê lớn) ở xã An Lương, huyện
Thanh Trì để phòng nước lên làm vỡ đê.

Năm Giáp Dần (1854), triều đình cho đắp đường cái quan về
bên bờ tả sông Hát thuộc Hà Nội (sông Đáy) để thay đường đê.

Nhìn chung, từ năm Tân Sửu (1841) đến năm Mậu Ngọ
(1858), việc bồi đắp, tu sửa hệ thống đê điều ở Bắc Kỳ vẫn được
duy trì nhưng quy mô không lớn so với thời vua Gia Long và
Minh Mệnh.
Bảng 11. Một số cuộc đắp đê ở Đồng bằng Bắc Bộ
từ năm 1841 đến năm 18581

Năm Số đoạn Dài (trượng) Địa phương Chi phí (quan)


1841 Sửa chữa đê bối ở Hưng Yên 92.320
1945 2 646 Bình Trung, Ngô Xá (Nam Định), Ứng 14.420
Lôi, Thiện Phiến (Hưng Yên)
1846 2 261 Phục Lễ, Thiết Trụ (Kim Động) và 34.220
huyện Đông Yên
1848 Sửa đắp đê cũ và mới ở Hưng Yên 25.437
1851 Sửa đắp đê ở Hưng Yên 2.167
1857 1.766 Đê tư của huyện Hưng Nhân Cấp 592 phương gạo
1858 Khơi sông Thiên Đức và đắp đê 875.990 quan, gạo
277.540 phương,
85.380 dân phu

So với Bắc Kỳ, các địa phương Trung Kỳ ít chịu hậu quả lũ lụt.
Chính vì vậy, công cuộc trị thủy trên địa bàn này cũng phần nào
đơn giản và ít tốn kém hơn. Phần lớn các đê ở miền Trung là đê
ngăn mặn, việc tổ chức đào đắp, tu sửa đều do dân sở tại làm và
được nhà nước hỗ trợ phần nào kinh phí. Từ năm Nhâm Tuất (1802)
đến năm Mậu Ngọ (1858), trải các triều vua Gia Long, Minh Mệnh,
Thiệu Trị và thời kỳ đầu của vua Tự Đức, nhà Nguyễn cũng tổ chức
một số lần đắp đê ở Trung Kỳ.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, 7, Sđd.

110
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Mậu Thìn (1808), chi 1.000 quan để lấy dân Quảng Đức
(Quảng Trị) đi bồi đắp đê. Năm Kỷ Tỵ (1809), sai đắp đê ngăn mặn
Hà Trữ thuộc huyện Phú Lộc, Thừa Thiên. Bài Giám thành Phó sứ
Nguyễn Đức Số cùng với dinh thần (quan địa phương) Quảng Đức
đi xem xét đo đạc.

Năm Canh Ngọ (1810), nhà nước lại cho đắp đê ngăn mặn ở
hai xã Kim Đôi và Yên Xuân vào tháng 3, đến tháng 6 lại đắp đê
ngăn mặn tiếp ở hai xã Đường Vơ và Quy Lai thuộc mạn Thừa
Thiên. Ngoài ra, trong triều đại Gia Long còn nói đến sự kiện đắp
đê chống lụt ở vùng Thanh Hóa, đó là năm Bính Tý (1816) đắp đê
ở huyện Tống Sơn (Thanh Hóa): “Năm ngoái, vệ úy của Vệ tín úy
là đồn Thất Huy đắp đê bảo vệ nghề nông. Vua y lời xin. Đến nay
khởi công đắp, sai phát tiền 1.000 quan, gạo 5.000 phương”1.

Năm Ất Dậu (1825), cho đắp đê ngăn mặn ở huyện Quảng Điền
(Thừa Thiên) và đắp đê sông ở xã An Cựu, huyện Phú Vang.

Năm Bính Tuất (1826), lại cho đắp đê ở xã Hà Trung huyện Phú
Lộc và xã An Truyền, huyện Hương Trà (Thừa Thiên).

Năm Nhâm Thìn (1832), đắp 1 đoạn đê dài 541 trượng 5 thước
(hơn 2,2km) tại huyện Phú Vinh cũng thuộc Thừa Thiên.

Năm Kỷ Hợi (1839), đắp đê vòng cung ở bến Hương Giang


từ Ngự Kiều thẳng ra, hạn cho 10 trượng (33m), hai đầu trên dưới
vòng giáp bờ sông dài suốt 120 trượng (396m), mặt ngoài xây đá,
bờ phía Tây sông Hộ Thành đắp 1 đoạn dài 35 trượng (115,5m). Bắt
biển binh Thanh, Nghệ Tĩnh và Bắc Kỳ hơn 2.000 người đến kinh đô
(Huế) để đắp, sai Chưởng tả quân Phạm Văn Điểm trông coi.

Tổng hợp một số cuộc đắp đê trên địa bàn miền Trung (xem bảng 12).

1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.925.

111
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bảng 12. Một số cuộc đắp đê trên địa bàn miền Trung (1802 - 1858)1

Số Dài Chi phí


Năm Địa phương
đoạn (trượng) (quan)
1808 Đắp đập Hà Trữ ở dinh Quảng Đức
Đắp đê vệ nông ở hai xã Vĩnh Xương và Thủ Lễ hạt Tha lao dịch
1829
Thừa Thiên cho dân làm
Sửa đắp đê công Thuận Trực ở xã Hà Trung, huyện
1832 1 541
Phú Vinh, Thừa Thiên

1837 2 406 Tỉnh thành Phú Yên 1.000 dân làm

1844 Đắp đê Quy Lai (huyện Phú Vinh, Thừa Thiên)

Trong 30 năm đầu thời Nguyễn, công việc trị thủy được tăng
cường ở mức cao, theo hướng củng cố đê điều và cũng thu được
những kết quả nhất định.
Từ năm Nhâm Tuất (1802) trở về trước, các vương triều đã cho
đắp được tổng cộng 203.981 trượng lẻ (673,1km) đê sông và 1.221
trượng lẻ (4,03km) đê ngăn mặn và sông đầu nguồn.
Trong vòng 27 năm (1803 - 1829), dưới triều vua Gia Long và nửa
đầu triều vua Minh Mệnh, đã đắp được 36.127 trượng (119,22km) đê
công, 174.606 trượng (576,2km) đê tư (trong đó có hơn 75.432 trượng
(249km) đê ngăn mặn và 99.070 trượng (327km) đê sông nhỏ ở đầu
nguồn và khe lạch), 50 cống thoát nước công và 17 cống tư.
Các số liệu trên cũng cho thấy, dưới thời Nguyễn, đê sông nhỏ
đầu nguồn, khe lạch và đê ngăn mặn đặc biệt phát triển dưới hình thức
đê tư, quy mô lớn như đê công. Việc phân chia đê tư, đê công đã huy
động có hiệu quả sức đóng góp của nhân dân cùng nhà nước trong
công tác này, thể hiện qua số đê tư được nhà nước giao cho dân làm đạt
kết quả (174.606 trượng 2 thước 6 tấc gồm cả đê tư và đê công).
Từ năm Canh Dần (1830) triều vua Minh Mệnh đến năm Tân
Hợi (1851) triều vua Tự Đức, trong vòng 22 năm đã đắp thêm nhiều
đê sông mới thống kê là 303.616 trượng 1 thước 4 tấc (trong đó đê
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, 3, 5, 6, Sđd.

112
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

sông là 217.198 trượng 3 thước 5 tấc, đê ngăn mặn là 86.414 trượng


7 thước 9 tấc) ở các nơi.
Bảng 13. Chiều dài đê nhà Nguyễn đắp thêm từ năm 1830 - 1853

Số đê đắp thêm từ 1830 - 1853


Tên tỉnh
Đê sông (trượng) Đê ngăn mặn (trượng)
Hà Nội 84.393
Bắc Ninh 60.652
Hải Dương 35.118 70.653 (có lẻ)
Hưng Yên 16.787
Nam Định 7.167 9.804 (có lẻ)
Sơn Tây 14.078
217.198 trượng 86.414 trượng (có lẻ)
Tổng cộng
(717km) (285km)

Như vậy, trong vòng hơn 55 năm, nhà Nguyễn đã cho đắp
được một số lượng đê kỷ lục. Riêng đê sông các loại cả công và tư
đắp được 352.494 trượng lẻ (1.163km) và đê ngăn mặn cả công và tư
là 161.846 trượng lẻ (534km), phân bố như sau:
Bảng 14. Chiều dài đê phân bố theo địa phương thời Nguyễn 1803 - 1858

1803 - 1829 1830 - 1858


Tên trấn
(tỉnh) Đê công Đê sông Đê ngăn mặn
Đê tư (trượng)
(trượng) (trượng) (trượng)
Sơn Tây 13.597 10.393 13.078
Sơn Nam 16.676
Bắc Ninh 1.959 45.705 60.652
Nam Định 5.632 118.403 7.167 9.804
Đê sông nhỏ và
Hải Dương 35.118 70.653
đê ngăn mặn
Hưng Yên 16.787
Hà Nội 84.393 Một số đê tư
36.127 174.606 217.198 86.414
Cộng
(119km) (577km) (717km) (285km)

113
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Trong 55 năm đó, nhà Nguyễn đã làm được nhiều hơn tất cả các
triều đại trước trong vòng 8 thế kỉ.
Bảng 15. So sánh chiều dài đê đắp trước thế kỷ XIX và thế kỷ XIX

Tổng chiều dài Thế kỷ XI - XVIII 1803 - 1858


Phân loại Tỉ lệ (%) Tỉ lệ (%)
(trượng) (trượng) (trượng)
Đê sông 556.426 20.602 36,65% 352.445 63,35%
Đê ngăn mặn 163.067 163.067 0,75% 161.846 99,25%
Cộng 719.439 205.220 28,52% 514.921 71,47%
(2.374km) (677km) (1.699km)

Như vậy, trong hơn 55 năm (1803 - 1858), nhà Nguyễn đã đắp
được 71,47% tổng số đê nhà nước có từ thời Lý đến năm Mậu Ngọ
(1858), gấp 2,5 lần số đê các đời trước đã đắp trong gần 8 thế kỉ.
Nhìn lại, dưới triều vua Gia Long và vua Minh Mệnh, trong
chưa đầy 40 năm, Đồng bằng Bắc Bộ đã được đắp rất nhiều đê mới.
Chỉ riêng 80 năm đầu, theo thống kê của Lê Đại Cương, nhà Nguyễn
đã đắp 580km đê mới. Còn việc khơi sông thoát lũ, nếu như triều
Gia Long mới chỉ bắt đầu với cửa sông Đường, thì triều Minh Mệnh
đã đào hàng chục con sông, nhất là các con sông vùng Thái Bình hạ
du và vùng Bạch Hạc - Vĩnh Phúc thượng châu thổ,... nhằm san bớt
lũ sông Hồng sang sông Cầu, thoát nhanh ra biển.
Thời vua Gia Long (1802 - 1819), 18 năm chỉ có 4 năm vỡ đê.
Đáng chú ý là sau khi vua Gia Long đặt ra chức quan Đê chính cho
Bắc Thành và ban hành Điều lệ đê chính (1809), triều đình đã giữ
được 18 năm liền (1809 - 1826) không có vỡ đê.
Vua Minh Mệnh nối ngôi năm Canh Thìn (1820), đến 7 năm
sau, năm Đinh Hợi (1827) mới nghe tin Bắc Thành vỡ đê, đến nỗi
khiến cho vua Minh Mệnh phải thốt lên rằng: “Trẫm từ nối ngôi
đến giờ nước sông chảy thuận, đều vui sống êm. Vừa rồi chợt tiếp
tờ sớ Bắc Thành báo tin vỡ đê, lòng sợ, tay run, cơ hồ không phê
bảo được”1.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.648.

114
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Những trận vỡ đê dồn dập vào các năm Đinh Hợi (1827), Mậu
Tý (1828) lại càng ác liệt hơn và tập trung chủ yếu ở đồng bằng
châu thổ phía Nam Hà Nội thuộc Hưng Yên, Bắc Ninh, Thường
Tín, Chương Mỹ. Năm Mậu Tý (1828), riêng đê Kim Quan (từ xã
Bát Tràng đến xã Giang Cao, huyện Gia Lâm) vỡ 2 lần liền, các địa
phương thuộc Thuận An, Khoái Châu, Đường An, Đường Hào, lúa
má ngập hết. Người và súc vật bị chết trôi rất nhiều. Triều đình ra
lệnh cho Lê Đại Cương làm Quản lý Đê chính, đắp lại đê Kim Quan
(cao 1 trượng 6 thước (5,28m), rộng 5 trượng (1,65m)). Trời mưa tầm
tã, phu đắp đê bị đốc thúc rất ráo riết,... Vua dụ bảo Lê Đại Cương:
Đê còn, người còn, đê mất thì người mất1.
Sau đợt nâng cấp đê một cách chính quy vào các năm 1828 -
1829, thì cũng chỉ giữ được 3 năm không xảy ra các trận vỡ đê lớn.
Năm Quý Tỵ (1833), xã Quy Thâm, Quan Xuyên thuộc Hưng Yên
vỡ đê gây thiệt hại lớn cho cư dân các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương,
Bắc Ninh. Cũng năm đó, đê xã Hải Bố, tỉnh Sơn Tây cũng vỡ. Phủ
Quốc Oai lúc bị ngập hết, người và súc vật lên cả ngọn cây. Đường
cái quan từ Hoài Đức đến Lý Nhân đều ngập, trông xa nghìn dặm,
sóng nước lụt trời, không có thuyền không thể đi đâu được2.
Nếu như vào năm Bính Tuất (1826), quan Bắc Thành tâu rằng:
13 huyện thuộc Hải Dương (Đường An, Đường Hào, Cẩm Giàng,
Vĩnh Lại, Tứ Kì, Tiên Minh, Thanh Lâm, Kim Thành, Giáp Sơn,
Nghi Dương, An Dương, Đông Triều, An Lão) vì đói mà xiêu tán
đến 108 xã, đồng ruộng bị bỏ hoang đến hơn 12.700 mẫu3, thì
đến năm Quý Tỵ (1833), Thự Tổng đốc Hải Yên Nguyễn Công
Trứ đã phải kêu về triều rằng vì nạn lụt mà dân các tỉnh Hà Nội,
Nam Định, Hưng Yên kéo ra Hải Dương kiếm ăn đông đến 27.000
người, có nhiều người bị chết đói4.
1
Phan Thúc Trực, Quốc sử di biên, Sài Gòn, Tập 2, 1973, tr.99.
2
Phan Thúc Trực, Quốc sử di biên, Sài Gòn, Tập 2, 1973, tr.149.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.475-476.
4
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.489.

115
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

4. Cải tạo, khơi sông cũ, đào sông mới, phân lũ, thoát lũ
Cùng với việc cải tạo, sửa, đắp đê, xây cống, triều Nguyễn cũng
cho nắn thẳng dòng, nạo vét, khơi sông cũ, đào sông, kênh mới để
tăng thoát lũ, chứa lũ.
* Xây dựng cống, kè
Cống là loại công trình thường đi đôi với đê (cống dưới đê).
Khi đắp đê phải nghĩ đến việc xây cống để có thể tháo dẫn nước từ
sông tưới cho đồng ruộng trong những tháng mùa khô đồng cạn,
hoặc tiêu thoát nước vào mùa mưa khi lũ không lớn. Như vậy, cống
thường đảm bảo chức năng tưới và tiêu.
Cống qua đê gồm các loại với quy mô và cách thức khác
nhau. Loại đơn giản nhất thường dùng là các cây gỗ kè ghép lại
với nhau hoặc đục thành ống cống rồi lấp đất lên. Từ trước cho
đến năm Mậu Tý (1828), người ta thường dùng cống gỗ lim. Sau
vì thấy dùng gỗ ghép lại lâu ngày cũng bị mục nát, nhà nước cho
kinh phí tỉnh Bắc Ninh thuê thợ nung cống sành. Các cống sành
có chiều dài 3 thước, đường kính 8 tấc, dày 1 tấc. Bên cạnh đó,
còn có cống xây bằng gạch, đá có cánh cửa bằng gỗ lim, có thể
đóng mở dễ dàng, thuận lợi.
Nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX đã xây dựng một số công
trình cống sau: năm Tân Mùi (1811), nhà Nguyễn cho xây lại cống
Khe Ổi ở huyện Kim Bảng (Hà Nam) chi hết 6.000 quan tiền. Năm
Ất Hợi (1815), chi 6.000 quan để xây mỏ kè ở Hoài Đức và xây cống
ở xã Khê Ổi, huyện Kim Bảng (Sơn Nam). Cũng trong năm này,
nhà nước chi 6.000 quan để sửa cống nước ở xã Mạnh Khê và Cao
Đà (Nam Sang).
Dưới thời vua Minh Mệnh có sự kiện đáng chú ý là công
trình 2 cửa cống thuộc công trình đê Cửu An năm Bính Thân
(1836). Theo mô tả, các cống này có cánh cửa rộng 6, 7 thước
(2÷2,3m) thuyền có thể qua lại được, cửa cống làm bằng ván gỗ
lim có thể đóng mở chủ động, phía trên cửa cống có bắc cầu để
116
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

đi. Đến thời vua Tự Đức, loại cống có cánh cửa đã rất phổ biến.
Năm Ất Mão (1855), nhà nước cho xây 3 chiếc cống có cánh cửa
ở 3 sông đào: Thái Thường, Am Lộng, Tịnh Xuyên thuộc huyện
Diên Hà, Hưng Hà, tỉnh Hưng Yên.
Như vậy, bằng phương thức nhà nước và nhân dân cùng
làm, dọc theo các tuyến đê có hàng loạt các kè bảo vệ đê, cống
lấy và tiêu nước được xây dựng, tạo nên hệ thống đê điều ở Đồng
bằng Bắc Bộ.
Bảng 16. Sự phân bố của hệ thống kè, cống thời Nguyễn (1802 - 1858)1

Địa Số lượng
Vị trí Năm làm
phương Kè Cống
Hoài Đức, xã Khê Ôi (Kim Bảng). 1821
Xã Mạnh Khê, Cao Đà (huyện Nam Xang). 1816
Hà Nội 8 1
Xã Đỗ Xá (huyện Duy Tiên), xã Tuân Lộ, Mai Lĩnh, Đông
1816
Hoằng, Nga Mỹ, Mỹ Dương.
- Xã Phù Đổng, Phù Ninh, Cao Đường. 1804 - 1805
- Xã Bạch Vân (huyện Thiên Phúc), Lương Cầm, Đại
Lâm, Đẩu Hàn, Hộ Trung, Chân Bộ, Phấn Động (huyện
1804 - 1805
Yên Phong), Xuân Lôi (huyện Võ Giàng), Đông Xá,
Quảng Biểu (huyện Nam Ngạn).
- Xã Trung Sơn, Bảo Lộc (huyện Yên Thế), Đa Mai, Thanh
Bắc Ninh 31 Mai, Phụng Pháp, Mỗ Cầu, Bình Chương, Nội Hoàng,
Phấn Trì, Liên Đê, Khê Cầu (huyện Yên Dũng), Chương 1804 - 1805
Mỹ (huyện Bảo Lộc), Dĩnh Xuyên, Xuân Áng, Lãng Sơn,
Ngọc Sơn (huyện Phượng Nhãn).
- Xã Công Luận, Phụng Công (huyện Văn Giang (từ năm
Gia Long
1947 thuộc Hưng Yên).
- Xã Báo Đáp, Như Quỳnh, Nghĩa Trai (huyện Gia Lâm). Gia Long
- Thái Thường, Am Lộng, Tịnh Xuyên (huyện Diên Hà và
1805
Hưng Nhân).
Hưng Yên 7 - Xã Mai Xá, xã Thiện Phiến (huyện Tiên Lữ). 1836
- Thổ Khối, Thổ Quán, Phú Khê.
1881
- Ở phía tả thành Hưng Yên.
Cộng 46 1

1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, 2, 3, 4, 5, 6, Sđd.

117
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

* Khơi đào sông thoát lũ, chia lũ


Việc đào sông thoát lũ rất được nhà nước chú ý coi như một
biện pháp thay thế đê điều. Từ năm Nhâm Tuất (1802) đến năm
Mậu Ngọ (1858), nhà Nguyễn cũng tiến hành đào, vét sông ở
nhiều nơi.
Bắc Bộ và Trung Bộ
Về đào sông thoát lũ, sau năm Kỷ Sửu (1829), vua Minh Mệnh
cho khai một đoạn cửa sông Đuống từ xã Chiêm Trạch đến xã Du
Lâm dài 1.622 trượng (hơn 5.352m). Trên suốt chiều dài, lòng sông
Đuống nhiều chỗ cũng được đổi đào (đào đoạn mới để thay đoạn
cũ). Đó là các đoạn từ xã Phù Ninh đến xã Thịnh Lâm dài 1.525
trượng (5.031m), hai bên đều đắp đê để ngăn nước lụt; một đoạn
khác từ Du Lâm đến Phù Ninh dài 1.080 trượng (3.564m) hai bên
giữ nguyên đê cũ, chỉ đắp đúng thức (đúng quy định) những nơi
khó (xung yếu). Đoạn sông từ Thịnh Lâm đến Chi Nê sông hẹp
không đều thì tùy đoạn (hẹp) mà mở rộng, đê cũ cũng tùy thế mà
đắp thêm. Đoạn sông từ Ngô Xá đến Tri Nhi thế sông quanh co nên
đào thẳng một đoạn dài 545 trượng (1.799m). Đoạn này ở cuối sông
chưa có đê nên đào đường lạch ban đầu 6 trượng (19,8m) để sau
này nước lũ chảy mạnh, xới rộng ra đỡ tốn công sức. Tất cả những
đoạn sông khơi đào trên đều thuộc các huyện Đông Ngàn, Tiên Du
và Quế Dương tỉnh Bắc Ninh. Công việc to lớn, một mình hạt Bắc
Ninh không làm xuể nên phải “bắt dân phu ở các hạt khác sang làm
thêm mới xong”.
Sau đó, năm Canh Dần (1830), lại cho khơi đào cửa sông
Đuống, hạ lệnh đào rộng chừng 5 trượng (16,5m), sâu 1 trượng 2
thước (3,96m), dài hơn 100 trượng (330m). Phó tổng trấn Phan Văn
Thấy phái Thống chế trung quân Lê Văn Quý đôn đốc 1.000 binh
lính đào hơn 1 tháng thì xong. Vua thưởng cho 1.300 quan tiền.
Năm Nhâm Thìn (1832), nhà nước lại cho đào sông ở Nam
Định. Sử chép, sông Vị Hoàng thế nước quanh co chảy xói vào làm
cho bờ sông ngày càng vỡ lở. Vua cho đào một đoạn sông mới để
cho dòng nước chảy thẳng.
118
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Quý Tỵ (1833), lại đào một đoạn sông từ làng Thanh Hương
huyện Thanh Trì đến làng Dường Sâm, huyện Châu Đinh gồm 3 đoạn
dài 5.000 trượng (16,5km), công việc phải làm 3 năm mới xong, với
mục đích khơi cho bớt dòng nước khi lũ. Năm Giáp Ngọ (1834), lại
tiếp tục đào sông thoát lũ ở vùng Thái Bình, Hưng Yên, Nam Định.
Đào một nhánh từ xã Kinh Đào huyện Giao Thủy, qua Năm Châu,
Châm Ninh đến các xã thuộc Đại An. Một nhánh từ xã Cổ Quân,
huyện Thần Khê qua huyện Duyên Hà đến xã An Liêm, huyện Thư
Trì. Một nhánh nữa từ xã Bồng Khê đến xã Hương Cấp. Một nhánh từ
xã La Khê đến xã Nội Lăng đều thuộc huyện Thư Trì. Tại huyện Thần
Khê đào một nhánh từ thôn Thổ Khối đến thôn Phạm, một nhánh từ
thôn Thổ Khối đến thôn Thọ Vực. Ngoài ra còn đào thêm một chi từ
xã Phú La (Thần Khê) đến xã Hải An, huyện Quỳnh Côi.
Công việc đào sông đại quy mô này rất được lòng người. Các
dân sở tại đều tình nguyện, người giàu góp của, người nghèo xuất
công làm việc này.
Tháng Giêng năm Ất Mùi (1835), bắt đầu đào sông Cửu An.
Minh Mệnh sai Đặng Văn Thiêm và Trịnh Quang Khanh trực tiếp
trông coi, huy động khoảng 10.000 dân phu của 3 tỉnh Nam Định,
Hưng Yên và Hải Dương làm việc. Sau đó, vua lại sai Nguyễn Công
Trứ, Tổng đốc Hải - Yên hiệp đồng với Trịnh Quang Khanh, Hà
Thúc Lương thân hành kiểm tra, giám sát toàn bộ công trình. Do
công việc nặng nề, bề bộn, Nguyễn Công Trứ tâu xin điều động
20.000 dân phu làm việc, khối lượng khơi đào, nạo vét, uốn nắn
dòng chảy dự tính khoảng 13.000 trượng.
Sông Cửu An đoạn từ đầm sâu xã Sài Thị đến xã Vĩnh Đồng được
đào theo một lối khác để bớt công sức vì thẳng lối thay vì trước đây
định đào từ Sài Thị đến Ngô Xá, rồi từ Ngô Xá đến Vĩnh Đồng. Đoạn
sông đào mới này chỉ dài 875 trượng (2.888m) giảm được 246 trượng
(812m). Lòng sông phía trên mặt rộng 12 trượng (40m), đáy sâu 8
thước (2,6m). Hai bên lưu không rộng 3 trượng (9,9m). Đất đắp sang
2 bên có bề mặt rộng 5 trượng (16,5m). Ngoài ra từ Vinh Đồng đến xã
Mai Viên cùng đào một đoạn dài 824 trượng (2.719m). Phía địa phận
Hải Dương đào mở rộng một đoạn sông cũ dài 56 trượng (185m). Dân
119
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

phu thuê đào lấy ở Nam Định và Hưng Yên mỗi tỉnh 4.000 người, Hải
Dương lấy 2.000 người. Cuối năm còn khai đào thêm 7 đoạn đường
sông từ Sơn Tây xuống đến Hưng Yên, một đoạn từ Bạch Hạc nối từ
sông Đại Giang (sông Hồng) thẳng đến sông Hương Canh (Cà Lồ)
hợp với sông Nguyệt Đức (sông Cầu); một đoạn từ xã Kim Đã, huyện
Yên Lãng thông đến xã Kim Anh, huyện Kim Anh cũng đổ vào sông
Cầu; một đoạn từ quảng giữa sông Thiên Đức (sông Đuống). Khai
thông qua các xã Phù Đồng, Phù Ninh (Bắc Ninh) đổ vào sông Lục
Đầu. Từ bãi Tầm Xá (sông Hồng) cũng khơi thông một đoạn sông
thành Cổ Loa đổ đến sông Nguyệt Dục (sông Cầu); một đoạn từ xã
Bát Tràng thẳng đến Cầu Số - Cầu Dần; một đoạn từ Kinh Loát Phủ
Bình Giang thẳng đến huyện Thanh Hà.
Về hữu ngạn sông Hồng cũng khơi đào một đoạn từ xã Phú
Xuyên đến Phú Vạt. Nguyên tắc là: những nơi không có sông cũ
thì đào sông mới, những chỗ khuất khúc của hai sông Thiên Đức và
Nguyệt Đức thì nắn cho thẳng. Những khúc sông nông cạn, nghẽn
lấp thì nạo vét cho sâu. Khiến nước chảy thoát nhanh ra nhiều ngả.
Sau gần một năm thực hiện (từ tháng Giêng đến tháng Chạp),
thấy sức dân 6 huyện không thể đảm đương được, Minh Mệnh cho
tạm dừng công trình.
Năm Bính Thân (1836), tháng 2, công trình đào sông Cửu An tiếp
tục được triển khai. Một hệ thống đê bối sông Cửu An cũng được xây
đắp với khối lượng công trình rất lớn. Mặc dù công trình kéo dài hơn
2 năm (1835 - 1837), tiêu tốn hết 395.440 quan tiền, 22.750 phương gạo
và hàng chục vạn nhân công, nhưng tác dụng của sông Cửu An trong
việc chia nước, thoát lũ không hiệu quả. Liên tục từ năm Đinh Dậu
(1837) đến năm Tân Sửu (1841), hàng loạt đoạn đê bối sông Cửu An
bị vỡ, gây ngập lụt trầm trọng. Trận lụt khủng khiếp năm Giáp Thìn
(1844) do vỡ đê sông Cửu An đã gây thiệt hại mùa màng cho 175 xã
thuộc 9 huyện của tỉnh Hải Dương và 102 xã thuộc 9 huyện Sơn Tây.
Năm Nhâm Dần (1842), khơi sông Thiên Đức để chia nước
sông Nhĩ, thông qua Lục Đầu rồi chia chảy ra các cửa biển Đồ Sơn,
Bạch Đằng, Ngãi An, Thái Bình, nếu được một loạt lưu thông dồn

120
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

chảy sang phía Đông thì nước sông Nhĩ tất có thể chia bớt. Những
chỗ cửa sông ấy đã bị những cồn cát che ngăn, khơi rồi lấp, xin dời
chếch cửa sông sang xã Phương Trạch ở bờ bên Đông để thu hút
nước sông (dài 220 trượng) còn ở trong sông cũ, chỗ nào sông cong
queo thì dựa lưng đào cho thẳng (1 đoạn từ Phù Ninh đến Thịnh
Lân dài 1.400 trượng, 1 đoạn từ xã Cổ Thiết đến xã Lập Xí (dài 400
trượng). Chỗ nào nông hẹp thì khơi thêm, ước tính tiền thuê công
đến 30 vạn quan, xin lượng sai các tỉnh Sơn Tây, Hải Dương, Nam
Định, Hà Nội, Bắc Ninh phối hợp khai đào… xin phái quan to làm
đồng lý đôn đốc công việc. Hạn định là 2 năm. Vua chuẩn y.

Hình 2: Lược đồ chỉ dẫn công cuộc khơi đào sông ở Bắc Bộ của triều Nguyễn cuối thế kỷ XIX1
Năm Giáp Dần (1854), khơi vét sông Nguyệt Đức và đào sông
Kim Hương (Nam Định).
Đặc biệt năm Đinh Tỵ (1857), đào sông Nghĩa Trụ thông với
sông Đuống tại hai xã Cơ Xá và Quán Tĩnh, bạt đi 1 đoạn đê làm cửa
cho nước chảy ra, chia bớt nước sông Nhị Hà khi lũ lớn, phía bên
tả lấy đê sông Đuống làm đê, phía bên hữu đắp thêm 1 con đê mới.
Đây là biện pháp dùng 2 sông này làm đường phân lũ sông Hồng,
rất có kết quả.

OlivierTessier, Quy hoạch thủy lợi vùng Đồng bằng sông Hồng: nhìn nhận lịch sử về vai
1

trò của nhà nước phong kiến và nhà nước thuộc địa (thế kỷ XII đến nửa đầu thế kỷ XX), tr.57

121
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Các sử liệu cho thấy, thời Nguyễn, số sông ngòi được khai đào
rất lớn, hơn tất cả các biện pháp của các triều trước gộp lại, chứng
tỏ nhà Nguyễn xem biện pháp này rất quan trọng để trị thủy. Có
thể tóm lược những lần đào sông lớn ở Bắc Bộ dưới thời Nguyễn
như sau:
Bảng 17. Những lần đào, khơi sông thời Nguyễn (1802 - 1858)1

Năm Địa bàn Hình thức Tổ chức thực hiện


Huyện Duyên Hà Khơi sông Đình Ngọ thông với Thuê dân làm, chi tiêu
1809
(trấn Sơn Nam) sông Hưng Na, huyện Quỳnh Côi 37.900 quan
Miễn lao dịch cho dân 5
Vét kênh bị ùn tắc
Xã Kim Giao (huyện Đăng tháng
1824 Đào sông Vĩnh Điện dài 1.640
Xương, QuảngTrị) - Quảng Nam Sai Lê Đại Cương đốc suất
trượng
3.000 dân để đào đê
1825 Quảng Trị Đào sông Vĩnh Định Huy động 3.700 dân phu
Hai xã Thâm Trào, Hương Miễn lao dịch cho dân,
1828 Đào kênh
Liệu (Quảng Trị) thưởng tiền
Hai xã Phụ Long, Lương Xá
1832 Đào sông (dài hơn 528 trượng) Thuê dân làm
(Nam Định)
Người giàu xuất của, người
1834 Nam Định, Hưng Yên Đào các sông nhỏ gồm 5 nhánh
nghèo xuất công cùng làm
Khai lại ngòi từ sông Trinh Nữ,
1834 Huyện Kim Sơn (Ninh Bình) Dân sở tại làm
huyện Yên Mô
Đào sông Cửu An, tổng cộng dài
1835 Hưng Yên Huy động 10.000 dân
875 trượng
1836 Hưng Yên Tiếp tục đào sông Cửu An Nhà nước làm. Giao cho tỉnh
Xã Hạ Bái, huyện Duyên Hà
1842 Nạo vét sông
(Nam Định)
1847 Bắc Ninh Khơi sông Thiên Đức Giao cho tỉnh
1853 Bắc Ninh Khai vét sông Nguyệt Đức Giao cho tỉnh
Khơi sông ở bến Bồ Đề hạ. Khơi
1857 Bắc Ninh Giao cho tỉnh
sông Thiên Đức
Trước tình trạng lũ lụt, nhất là ở Bắc Kỳ xảy ra càng lớn và
nhiều, triều Nguyễn đã thấy rằng dường như những nỗ lực theo
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, Sđd.

122
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

hướng củng cố đê điều đã không đạt được hiệu quả. Nhà Nguyễn
bắt đầu nghĩ đến hướng “khai sông thay cho đắp đê”. Công trình
thử nghiệm theo hướng này là sông Cửu An. Mặc dù đã tiêu tốn
đến 395.440 quan tiền, 22.750 phương gạo và hàng vạn nhân công
làm dòng dã trong 3 mùa khô liền, cuối cùng công trình thoát lũ
Cửu An cũng thất bại. Đầu năm Đinh Dậu (1837), trong lúc triều
đình đang hân hoan khắc công trình vào Cửu Đỉnh, thì ngay tháng
6 âm lịch năm đó, hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương đã tâu về triều
đình lụt lội do sông Cửu An gây ra. Tình trạng lụt lội thường xuyên
và kéo dài ở phía Nam Hà Nội - Ninh Bình đã khiến Tổng đốc Hà
- Ninh Đặng Văn Hòa phải tâu về triều đình một thực tế vào mùa
lũ lụt, dân chết không có nơi chôn cất, phải chôn tạm ở bờ đê hoặc
đường cái quan, xin triều đình cho mỗi xã đắp lên một gò đất cao
dùng làm nơi chôn cất mỗi khi mùa lũ đến.
Sự kém hiệu quả của công trình thoát lũ sông Cửu An đã đưa
triều Minh Mệnh, tiếp đến là triều Thiệu Trị vào tình trạng lúng
túng và bị động. Mặc dù, đã tìm cách khắc phục nhưng không ngăn
nổi các trận lụt tràn vào Hưng Yên và các huyện phía Nam Hà Nội,
Hải Dương, Nam Định.
Năm Giáp Thìn (1844), nước lụt đã làm thiệt hại mùa màng của
175 xã thôn của 9 huyện thuộc Hải Dương và 102 xã thuộc 9 huyện
của Sơn Tây1. Năm Đinh Mùi (1847), vỡ đê từ Hà Nội đến Ninh Bình.
Nam Bộ
Do điều kiện tự nhiên nên Nam Bộ chỉ đào, khơi sông, kênh
rạch, không đắp đê. Công cuộc khởi đào và nạo vét sông ngòi, kênh
rạch ở các địa phương Nam Bộ được tổ chức vào cuối thời Gia Long.
Năm Đinh Sửu (1817), tháng 11, nhà nước tổ chức nạo vét sông
Tam Khê, cách trấn lị Vĩnh Thanh 214 dặm. Vua Gia Long sai Trấn
thủ Nguyễn Văn Thoại tổ chức việc sửa sang đường sông, nhà nước
cấp cho tiền gạo, lại nhân lối cũ mà đào rộng thêm. Công việc hoàn
thành sau hơn một tháng. Sông ngang hơn 10 trượng, sâu 18 thước,
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, Sđd, tr.662

123
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

tạo nên mối lợi lớn cho cả người Kinh và người Chân Lạp trong sản
xuất nông nghiệp và thuận tiện cho việc giao lưu giữa các vùng. Để
ghi công của Nguyễn Văn Thoại, Gia Long cho đặt tên sông là Thoại
Hà. Ở phía đông sông có núi Lạp Sơn, cũng đặt tên là Thoại Sơn,
cấm dân không được chặt cây cối1.
Năm Kỷ Mão (1819), tháng Giêng, vua Gia Long sai Phó tổng
trấn Gia Định là Hoàng Công Lý lấy dân Phiên An hơn 10.000
người, cấp cho tiền gạo tổ chức đào kênh Thông ở Phiên An đến
sông Mã Trường [sông Ruột Ngựa]. Khi công việc xong, cho tên là
sông An Thông. Sông An Thông ở phía Tây Nam trấn Gia Định,
trước có sông từ kênh Thông, qua Sài Gòn đến Lao Giang, xa xôi,
nhỏ hẹp, quanh co, nông cạn. Đến nay đổi đường cũ, đào kênh
mới, từ kênh Thông thẳng đến sông Mã Trường, dài hơn 9 dặm,
ngang 7 trượng 5 thước, sâu 9 thước. Đường sông đã thông, thuyền
bè đi lại ngày đêm nối nhau, bèn thành chỗ bến sông đô hội, người
ta đều khen là tiện lợi2.
Tiếp đó, vua Gia Long lại sai Trấn thủ Nguyễn Văn Phong tổ
chức binh lính đào sông Vũng Cù [Cù Áo] ở Định Tường thông với
sông Mỹ Tho, điều động hơn 9.000 dân làm việc, hàng tháng cấp
cho tiền gạo đầy đủ. Vài tháng công việc xong, đặt tên là sông Bảo
Định. Sông dài chừng 14 dặm, ngang 7 trượng 5 thước, sâu 9 thước,
việc đi lại trên sông rất tiện lợi3.
Một trong những công trình có quy mô lớn nhất Nam Bộ được
thực hiện đầu thời Nguyễn là công cuộc đào sông Vĩnh Tế.
Công trình bắt đầu khởi công từ tháng 12 năm Kỷ Mão (1819).
Xét thấy Vĩnh Thanh và Hà Tiên tiếp giáp với Chân Lạp, việc công,
tư đi lại, trước không có đường thủy, Gia Long bèn bàn với triều
thần muốn nhân sông Châu Đốc mà đào cho thông suốt. Nhân việc
Chiêu Thùy nước Chân Lạp là Đồng Phù đến chầu, Gia Long triệu
cho yết kiến hỏi han. Đồng Phù trả lời rằng: “Khai sông ấy thì dân
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr. 958-959
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr. 984.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr. 984.

124
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Chân Lạp xin được nhờ lợi, vua Phiên cũng muốn thế, không dám
xin mà thôi”1.
Vua Gia Long lệnh cho các quan viên ở Gia Định, đo từ phía Tây
đồn Châu Đốc qua cửa Ca Âm, Cây Báng đến sông cũ hơn 200 dặm,
tính công đào đất và lượng sức người. Sai Trấn thủ Vĩnh Thanh là
Nguyễn Văn Thoại và Chưởng cơ Phan Văn Tuyên đốc suất dân
phu 5.000 người và binh lính đồn Uy Viễn 500 người, Đồng Phù
quản suất dân Chân Lạp 5.000 người, đến tháng 12 khởi công đào.
Dân người Kinh cùng với binh đồn Uy Viễn thì mỗi tháng cấp cho
mỗi người 4 quan 5 tiền, 1 phương gạo.

Vua Gia Long cũng ban chiếu dụ cho người dân Vĩnh Thanh và
dân Chân Lạp tập trung sức cho công trình kênh Vĩnh Tế2.

Công việc đào sông bắt đầu từ năm Kỷ Mão (1819), đo từ hào
phía sau hữu đồn Châu Đốc sang phía Tây, qua Náo Khẩu Ca Âm
đến Chi Thụ dài 44.412 tầm, thành 205 dặm rưỡi, đặt tên sông là
Vĩnh Tế. Đến năm Canh Thìn (1820) dưới thời vua Minh Mệnh, mới
đào thành sông được 3.224 trượng. Tuy nhiên, vì công việc quá mệt
nhọc, do đó, vua Minh Mệnh muốn khoan thư sức dân, tạm hoãn
việc đào sông Vĩnh Tế lại.

Năm Nhâm Ngọ (1822), tháng 10, vua Minh Mệnh sai Tổng trấn
Gia Định là Lê Văn Duyệt chuẩn bị phương án điều động nhân lực
trực tiếp đào sông Vĩnh Tế. Trước đó, vua Chân Lạp cũng đưa thư
đến Gia Định xin đem dân binh nước ấy hợp sức tiếp tục đào đường
sông Vĩnh Tế. Lê Văn Duyệt đem việc tâu lên, vua Minh Mệnh khen
ngợi, sai Lê Văn Duyệt làm quy hoạch trước. Lê Văn Duyệt xin cho
hơn 39.000 dân binh ở thành và các trấn Vĩnh Thanh, Định Tường,
cùng đồn Uy Viễn, với hơn 16.000 dân binh nước Chân Lạp, chia
làm 3 phiên, dự định hạn khởi công là mùa xuân và kết thúc vào
mùa xuân năm Giáp Thân (1824).
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.997.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, Sđd, tr.989.

125
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Quý Mùi (1823), tháng 2, bắt đầu khởi công đào sông
Vĩnh Tế. Lê Văn Duyệt được giao trông coi công việc. Lê Văn Duyệt
xin phát hơn 35.000 binh dân ở thành và các trấn Vĩnh Thanh, Định
Tường, đồn Uy Viễn, cùng hơn 10.000 binh dân nước Chân Lạp ra
làm, mỗi tháng cấp tiền gạo đều như lệ năm Gia Long. Vua Minh
Mệnh cấp cho dân thành Gia Định mỗi tháng 6 quan tiền, 1 phương
gạo. Cứ 5.000 người đặt 150 người chức dịch, cấp tiền 1.000 quan, 150
phương gạo. Dân Chân Lạp mỗi tháng 4 quan 5 tiền, 1 phương gạo,
cứ 5.000 người đặt 100 đầu mục, cấp tiền 1.000 quan, 150 phương
gạo. Lê Văn Duyệt nhận nhiệm vụ chưa được bao lâu thì bệnh, sai
Phó Tổng trấn Trường Tiến Bửu làm thay1.
Việc đào sông gặp thời tiết mùa hè nên gặp nhiều khó khăn,
phải hoãn đi hoãn lại nhiều lần. Đến tháng 02 năm Giáp Thân
(1824), công việc mới được tiếp tục. Vua Minh Mệnh sai huy động
dân các trấn thuộc thành Gia Định và dân Chân Lạp hơn 24.700
người làm việc, chi cấp tiền như lệ. Vua Minh Mệnh dụ rằng:
“Việc đào sông Vĩnh Tế là vâng theo thánh toàn của Hoàng khảo
Thế tổ Cao hoàng đế ta mà làm, thực là quan yếu cho quốc kế
biên trù. Nhưng khai đào mới bắt đầu, công việc còn khó, trẫm
vâng theo trí trước, năm ngoái đã đào, còn lại hơn 1.700 trượng
(5,6km), ấy là còn thiếu cái công một sọt đất. Nay nước nhà nhàn
rỗi, chính nên kịp thời làm tiếp cho xong, để làm kế nhọc một
lần rồi mãi”2. Vua Minh Mệnh lệnh phát tiền kho 1.000 quan mua
trâu rượu khao người làm việc.
Công việc đào sông Vĩnh Tế đến tháng 5 năm Giáp Thân (1824)
thì hoàn tất. Sông Vĩnh Tế được xem như là một công trình kết hợp
thủy lợi, giao thông phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống dân
cư hai nước Việt Nam và Chân Lạp.
Năm Kỷ Sửu (1829), tháng 2, vua Minh Mệnh cử Lê Văn Duyệt
tổ chức dân binh hai trấn Phiên An và Định Tường 16.000 khởi vét
sông Tà Câu ở trấn Phiên An (thuộc huyện Thuận An, từ cửa sông
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.259-260.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.331.

126
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Thủ Đoàn đến Gò Dừa thôn Bình Ảnh, dài 1.220 trượng (4,03km),
rộng 9 trượng, sâu 1 trượng). Cấp cho mỗi người tháng được tiền
3 quan, gạo 1 phương, khoảng 1 tháng đào xong. Đường sông đã
thông, có lợi rất nhiều cho dân, vua Minh Mệnh sai đặt tên là sông
Lợi Tế1.
Trong suốt thời Nguyễn, An Giang và Hà Tiên là địa bàn được
coi là trọng yếu, là bức phên dậu phía Tây của Nam Bộ, do đó rất
được các vua triều Nguyễn quan tâm phát triển kinh tế cũng như
tổ chức bố phòng. Tại các địa phương này nhiều công trình thủy
lợi được xây dựng dưới triều Nguyễn và đã mang lại lợi ích kinh tế
đáng kể.
Năm Quý Tỵ (1833), tháng 5, theo đề nghị của Lê Đại Cương,
Tổng đốc An - Hà, Minh Mệnh cho tổ chức đào sông trên địa bàn An
Giang, đoạn giáp Hậu Giang dài hơn 1.050 trượng (3,5km)2.
Năm Kỷ Hợi (1839), tháng 5, Minh Mệnh quyết định cho khơi
vét đường sông An Giang. Bố chính Lê Quang Huyên điều động
2.000 dân của hạt làm trong nửa tháng thì xong. Đường sông dài tất
cả 6.935 trượng (22,2km), rộng hơn 4 trượng (13,2m), giữa lòng nước
sâu 2 thước (0,66m) 3.
Sang thời Thiệu Trị, nhà Nguyễn tiếp tục cho tổ chức đào sông
Tân Châu trên địa bàn tỉnh An Giang, nhưng vì xảy ra chiến sự
với ngươi Xiêm nên công việc phải hoãn nhiều lần. Mùa đông năm
Giáp Thìn (1844), bắt đầu đào sông từ cửa sông Chu Giang ngang
qua sông Tiền Giang, đồn Tân Châu (dài 3.695 trượng (11,82km)),
cuối năm thì nghỉ việc; mùa xuân năm Ất Tỵ (1845) tiếp tục thuê
nhân công làm việc này, cấp cho tiền và gạo. Đến cuối năm Ất Tỵ
(1845), công việc mới hoàn thành. Sông rộng trên 6 trượng, dưới
rộng 3 trượng, sâu trên dưới 9 thước. Dùng cọc tre 33.300 đoạn; tiền
thuê: 63.021 quan; gạo: 21.021 phương. Trước đặt tên là sông Long
An; đến đây đổi gọi là sông Tân Châu.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.825.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 3, Sđd, tr.583.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 5, Sđd, tr.507-508.

127
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Thời Tự Đức, việc tổ chức xây dựng các công trình thủy lợi
hoặc khơi đào, nạo vét hệ thống sông ngòi, kênh rạch trên địa bàn
Nam Bộ ít được chú ý. Duy nhất vào năm Đinh Tỵ (1857), Nguyễn
Tri Phương tổ chức khơi lại sông Thoại Hà thuộc tỉnh An Giang
nối thông với sông Kiên Giang tỉnh Hà Tiên. Sông này được đào
khoảng năm Thiệu Trị để thông đường vận tải của tỉnh An Giang,
Hà Tiên, lâu ngày bị lấp nông. Đến nay được khơi đào để giúp việc
chẹn chỗ hiểm yếu. Sau năm 1862, mặc dù quân Pháp chiếm đóng
ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, nhưng vua Tự Đức vẫn sai Nguyễn Tri
Phương đào kênh rạch, khai hoang vùng đất Hà Tiên để tăng thêm
diện tích canh tác là lập thêm nhiều làng, ấp.

128
PHẦN THỨ HAI:
ĐÊ ĐIỀU VÀ TRỊ THỦY TỪ
NĂM 1858 ĐẾN NĂM 1945
Chương 3 :

ĐẮP ĐÊ, PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT


TRONG NHỮNG NĂM CUỐI THẾ KỶ XIX

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ MỚI YÊU CẦU VỀ VIỆC ĐÊ, SÔNG VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT
Năm Mậu Ngọ (1858), thực dân Pháp đánh chiếm Đà Nẵng.
Sau đó (tháng 2/1859 - 1867), quân Pháp lần lượt đánh chiếm 6 tỉnh
Nam Kỳ. Năm 1873, chúng mở rộng chiến tranh xâm lược Bắc Kỳ,
buộc triều đình nhà Nguyễn kí các hàng ước 1883, 1884 và chiếm
Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Tổ quốc lâm nguy. Nhiệm vụ lịch sử cấp bách
đặt ra lúc này là chính quyền nhà Nguyễn và nhân dân Việt Nam
phải tập trung mọi nguồn lực tiến hành cuộc kháng chiến đánh
đuổi thực dân Pháp xâm lược, cứu nước, giữ vững nền độc lập, tự
chủ của Tổ quốc. Tuy nhiên, nửa cuối thế kỷ XIX, không chỉ phải
đối phó với địch họa mà Việt Nam còn phải tập trung nguồn lực
sửa đắp, củng cố hệ thống đê, đập, sông ngòi để phòng chống lũ
lụt với những diễn biến ngày càng phức tạp. Trải qua hàng nghìn
năm, các triều đại phong kiến tổ chức sửa, đắp hệ thống đê, đập,
sông ngòi đạt được những thành quả nhất định. Mặc dù vậy, việc
sửa đắp khơi đào hệ thống sông không có quy hoạch thống nhất,
đồng bộ nên hiệu quả thấp và làm thay đổi môi trường sinh thái.
Khí hậu, thời tiết thay đổi thất thường, phức tạp, thiên tai liên tiếp
xảy ra, nhất là ở Bắc Kỳ.
Xin tham khảo bảng thống kê tình hình thiên tai ở Bắc Kỳ nửa
sau thế kỷ XIX sau đây:
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bảng 18. Tình hình bão, lụt, vỡ đê ở Bắc Kỳ (1858 - 1883)

Thiên tai
Năm Địa phương
Bão Lụt Vỡ đê
1860 0 1 1 Đê sông Thiên Đức.
1861 0 1 1 Huyện Từ Sơn, Tiên Du (Bắc Ninh), Hà Nội, Sơn Tây.
1863 1 0 0 Quảng Yên, Ninh Bình, Nam Định, Hưng Yên.
1864 0 1 0 Ninh Bình, Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định mưa lớn
1866 1 1 1 Vỡ đê Hà Nội, Bắc Ninh.
Ninh Bình, Sơn Tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định,
1867 1 1 0
Hải Dương.
1868 1 1 1 Vỡ đê Bình Giang (Hải Dương).
1869 1 1 1 Vỡ đê Vân Trai (Sơn Tây).
- Các huyện Tiên Phong, Thạch Thất, Mỹ Lương, Yên Sơn,
1871 0 2 2 Vĩnh Tường, Phúc Thọ, Bất Bạt, Tùng Thiện.
- Hà Nội, Sơn Tây, Hưng Yên, Nam Định.
- Huyện Văn Giang (Bắc Ninh (từ 1947 thuộc Hưng Yên)).
1872 0 2 2
- Huyện Diên Hà (Hưng Yên)
1873 1 1 1 5 huyện Đông An, Kim Động, Phù Cừ, Ân Thi, Tiên Lữ (Hưng Yên).
1874 1 0 0 Bắc Kỳ
1875 0 1 1 Văn Giang (Bắc Ninh (từ 1947 thuộc Hưng Yên)).
Văn Giang, đê hữu sông Cửu An (Bắc Ninh (từ 1947 thuộc
1876 0 1 1
Hưng Yên)).
Hải Dương, Sơn Tây, Văn Giang (Bắc Ninh (từ 1947 thuộc
1879 1 1 1
Hưng Yên)).
Văn Giang (Bắc Ninh (từ 1947 thuộc Hưng Yên)), Khoái Châu,
1880 0 1 1
Kim Động, Phù Cừ, Tiên Lữ, Phượng Lâu, Hoàng Xá (Hưng Yên).
1881 0 1 1 Xã Nhạn Trạch (Hưng Yên).
1882 1 1 1 Hưng Yên, Văn Giang (Bắc Ninh (từ 1947 thuộc Hưng Yên)).
1883 1 1 0 Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên, Ninh Bình, Hưng Hóa.
Tổng 23 50 38

Nửa sau thế kỷ XIX, ở Bắc Kỳ có 23 trận bão, 50 trận lũ lụt và 38


lần vỡ đê được ghi nhận. Trong đó, các địa phương thường xuyên
xảy ra lũ lụt và vỡ đê là các tỉnh Đồng bằng sông Hồng, gồm Sơn
Tây, Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định. Các địa phương có
131
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

đê sông Hồng đều đã có những trận vỡ đê ở những nơi xung yếu.


Nhưng tình hình vỡ đê tập trung chủ yếu ở vùng trung châu thổ
gồm phía dưới thị xã Sơn Tây xuống Hà Nội, Bắc Ninh và Hưng
Yên. Trong đó, tập trung nhiều nhất là đê Văn Giang 10 năm (từ
năm Nhâm Thân (1872) đến Nhâm Ngọ (1882) dưới triều vua Tự
Đức) liên tiếp bị vỡ.
Thời kỳ này, do bão lụt thường xuyên xảy ra và việc khắc phục
hậu quả cũng không đủ sức, cho nên sản xuất nông nghiệp và trị
thủy chịu tác động rất lớn.
Năm Tân Mùi (1871), đê ở 5 tỉnh Bắc Kỳ (Hà Nội, Sơn Tây, Bắc
Ninh, Hưng Yên, Nam Định) bị vỡ. Từ đó cho đến năm Quý Mùi
(1883), hầu như năm nào cũng vỡ đê, lụt lội. Hàng vạn dân nghèo
phải bỏ làng đi phiêu tán, hàng vạn mẫu ruộng bị bỏ hoang. Sự phát
chẩn, cứu tế của nhà nước chỉ đỡ được phần nào khó khăn của dân.
Vì thế, cũng trong năm này, triều đình nhà Nguyễn lại tổ chức thảo
luận việc bỏ hay tiếp tục đắp đê. Bắt đầu là lời tâu của Quyền biện
các vụ Nguyễn Thành đề xuất bỏ hết tất cả các đê ở Bắc Kỳ.
Năm Nhâm Thân (1872), các tỉnh có đê ở Bắc Kỳ gồm Hà Nội,
Sơn Tây, Nam Định, Hưng Yên, Bắc Ninh, đem điều trần về việc đê
điều nhưng các ý kiến cũng không thống nhất. Trong số đó, bản tấu
đầy đủ nhất được triều đình chấp nhận là của tỉnh Bắc Ninh do Phạm
Thận Duật soạn thảo, đề xuất giữ đê và tiếp tục sửa chữa, bồi đắp đê
mới. Trên cơ sở khẳng định tác dụng tích cực của đê, Phạm Thận Duật
xin vẫn theo như cũ, tuỳ theo hình thế mà bồi đắp đê. Việc khai sông
thì nên khai ở vùng hạ lưu, chỗ nào úng tắc thì khơi vét theo dòng cũ,
khiến nước chảy nhanh, không nên đào thêm luồng mới nữa. Đây là
ý kiến tiêu biểu cho lập trường giữ đê ở nửa cuối thế kỷ XIX.
Năm Ất Hợi (1875), Thượng thư bộ Hình Trần Bình đã gửi bản
tấu lên triều đình đề nghị bỏ đê. Ông cho rằng: “Đắp thì hại, mà bỏ
thì lợi; huống chi nay nước chảy phần nhiều không phải dòng cũ,
càng nên nhân thế để cho thuận... Nay nếu nghĩ định là phải thôi
đắp đê, nên theo chỗ thấp làm việc phàm các sông ngòi gần cửa
132
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

biển đều cho khai vét cốt cho rộng sâu”1. Rồi ông đề nghị, đối với
các tỉnh có đê, “trước hết đem đê bối công tư phía dưới thuận dòng
nước, theo từng đoạn khai thông, không phải tốn sức làm cả. Phía
trên hãy theo như cũ chống đắp để giữ nước xói. Đến mùa hạ nước
lớn, thì dòng nước đã thuận, chảy ra biển tất chóng. Nếu phía trên
có vỡ đê thì nước tràn vào có chỗ tiêu ra, không đến nỗi ngâm lâu
hại lớn. Các chỗ khai thông, gián hoặc có ruộng sâu hơn sông, thì
bỏ cấy, đổi hạng, thế không thể không được, nhưng cũng không có
mấy. Huống chi chỗ bị nước đọng tuy tạm bỏ, nhưng đất sông bồi,
có thể ở và cày cấy. Lấy chỗ này đổi chỗ kia, công tư cũng không
thiệt lắm, đợi sau 1 - 2 năm, lòng người quen đi, đê bỏ dần, có thể
đem đến công hiệu tự nhiên”2.
Vua Tự Đức cho sao bản tấu của Trần Bình gửi đi các tỉnh có
đê hỏi ý kiến. Quan tỉnh Hải Dương, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên
cũng đồng loạt nói: “Nguyện xin bỏ đê nhưng hãy chống đắp như
cũ để ngăn nước xói, đương lúc của ít sức hết này thì không thể làm
khác được…”3.
Trước tình hình thiên tai ngày càng phức tạp, tháng 10 năm
Bính Tý (1876), vua cử Phạm Thận Duật đảm nhiệm chức Khâm
sai kinh lý Hà đê sứ. Trái ngược với Trần Bình, Phạm Thận Duật là
người kiên trì với chủ trương giữ đê. Sau khi nhận chức, ông tâu
bày 3 việc liên quan đến đê điều: 1 - Theo nhiều lần chuẩn cho khơi
vét các sông ở hạ lưu để giảm thế nước; 2 - Chỗ đê vỡ ở Văn Giang
tạm cho thông ra sông, tùy tiện đắp đường qua để giữ lúa chiêm;
3 - Cùng theo như trước làm việc, thu tiền điền mẫu để sung cấp
cho thuê làm4. Tiếp đó, Phạm Thận Duật cũng với các quan 4 tỉnh
có đê Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng Yên trù tình công việc.
Ông đưa ra kế hoạch khôi phục một số đê điều cũ và đắp một số
đường đê quai thuộc địa phận Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.150.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.150-151.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.151.
4
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.202.

133
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Mặc dù lúc này vấn đề trị thuỷ ở Đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt là đê
Văn Giang (Hưng Yên) đã rất phức tạp, nhưng Phạm Thận Duật
cùng các cộng sự kiên trì nguyên tắc giữ đê.
Năm Đinh Sửu (1877), tháng 11, Phạm Thận Duật dâng vua và
triều đình bản tấu về tình hình đê sông Cửu An và giải thích tại sao
đê Văn Giang thường xuyên bị vỡ “chỗ đê vỡ ở về huyện Văn Giang
và Đông An thế đã khó đắp, cũng không nên đắp, tuy các huyện hạt,
thế nước chảy đến không thể giữ được cả lúa mùa, nhưng khi nước
lụt xuống, lại cấy lúa chiêm thu lợi, không khác gì lúa mùa, huống
chi ruộng cấy mùa ít mà ruộng cấy chiêm nhiều thì đắp đê nhỏ để
chuyên giữ lúa chiêm, cũng có thể thu được hiệu quả, duy có địa thế
hơi khác, lòng dân lại không giống nhau”1. Ông cho rằng, kế hoạch
đào sông dưới thời vua Minh Mệnh “không có sách lược nào hay hơn
thế được”. Đê Văn Giang vỡ nhiều lần vì nguyên nhân cửa sông Cửu
An bị lấp. Cách khắc phục đối với các đoạn đê vỡ Văn Giang là chỉ
nên đắp các con đê nhỏ, thấp đủ bảo vệ vụ chiêm, khi nước lụt to có
thể để cho nước tràn qua, không cần đắp quá cao “những đê nhỏ ở
Điều Mễ, Ngoại Sa 2 huyện Văn Giang, Đông An thuộc tỉnh Bắc Ninh
và Hưng Yên (của dân xã đắp riêng) cũng vá những chỗ vỡ lở”2.
Thế nhưng, trước yêu cầu của địa phương và triều đình là phải
đắp đê Văn Giang để “bảo vệ hai vụ hè thu”, Phạm Thận Duật cùng
các quan dâng tấu trình bày lý do không thể thực hiện yêu cầu trên
do những khó khăn về kinh phí. Hơn nữa, ngay cả khi công việc
hoàn thành thì cũng không đảm bảo việc giữ đê không bị vỡ. Cuối
cùng, ông đề nghị một giải pháp trung hoà là đắp đê bối bảo vệ vụ
chiêm, còn vụ mùa thì không cấy nữa để cho nước ngập tràn lan.
Như vậy, dù rất tích cực ủng hộ việc giữ đê, đắp đê ở các tỉnh
Đồng bằng Bắc Bộ nhưng những khó khăn, phức tạp của công việc
đê sông đã khiến cho Phạm Thận Duật và Phạm Đăng Giảng phải
bất lực và thừa nhận: “Thần ngược xuôi bôn tẩu đã gần 2 năm mà
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.258.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.258.

134
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

chưa có chút kết quả nào”1 và xin triều đình cho nhận chức khác.
Năm Mậu Dần (1878), trước lời khiển trách của nhà vua, hai ông lại
một lần nữa thừa nhận sự thất bại của mình: “Thuỷ thế xứ Bắc Kỳ
khó giữ được toàn lợi, nên chọn lợi nhiều hại ít thì làm, nhưng xét
chỗ vỡ trước ở huyện Văn Giang, huyện Đông An trước khi chưa
vỡ, nước lũ sông Nhị Hà không chia chảy được, hằng năm chợt có
mực nước quá ngày thường lan đến 4 - 5 tỉnh (các tỉnh Sơn Tây, Hà
Nội, Nam Định, Ninh Bình bị lụt nhiều, Bắc Ninh, Hưng Yên đôi
khi cũng có bị lụt) khi vỡ, thế nước rất mạnh, hoặc nhà cửa trong
làng trôi đi, hoặc người và súc vật chết đuối, rất là thiệt hại”2. Phạm
Thận Duật và Phạm Đăng Giảng xin từ chức. Vua Tự Đức cũng bãi
bỏ chức Khâm sai kinh lý hà đê sứ, đem các tập tấu của hai ông giao
cho các tỉnh có sông khám xét và tự làm lấy3.
Năm Canh Thìn (1880), đê nhỏ bằng cát ở tỉnh Hưng Yên bị vỡ.
Các phủ huyện Khoái Châu, Kim Động, Phù Cừ, Tiên Lữ ngập mất
lúa chiêm và nước tràn ngập vào các tổng Phụng Công, Đa Ngưu,
Hòa Bình thuộc hạt Bắc Ninh. Phạm Thận Duật cho rằng: “Cái thế
sông Nhị Hà chảy xuống Biển Đông, thực không thể ngăn được, thì
cái đê nhỏ bằng cát thường vỡ ấy không thể lấp cưỡng được. Nghĩ
nên bỏ mặc, cho đường nước chảy được rộng…Như thế thì nước
sông Nhị Hà có chỗ chảy chia đi, có thể không ngại lắm”4.
Vua Tự Đức đồng ý với ý kiến của Phạm Thận Duật và giao cho
bộ Công cùng 3 tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh phải cùng
lòng bàn tính5.
Như vậy, đến lúc này, triều đình lúng túng, bất lực và phó mặc
cho các địa phương tự lo liệu lấy.
Năm 1883, vua Tự Đức qua đời, sau đó, Bắc Kỳ thuộc chế độ
1
Phan Thúc Trực, Quốc sử di biên, Sài Gòn, Tập 2, 1973, tr.265.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.299.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.299.
4
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.417.
5
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.417-418.

135
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

bảo hộ của người Pháp theo Hiệp ước Hácmăng (1883) và Patơnốt
(1884). Vấn đề trị thuỷ ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ do chính quyền bảo
hộ Pháp đảm nhận.

II. CÔNG CUỘC ĐẮP ĐÊ, TRỊ THỦY CỦA TRIỀU NGUYỄN (1858 - 1883)
1. Tổ chức và quản lý công việc trị thủy
* Lập lại Nha đê chính (1857 - 1862)
Năm Đinh Tỵ (1857), trước tình hình vỡ đê liên tiếp, vua Tự
Đức dụ rằng: “Hà Nội, Bắc Ninh đê vỡ mấy năm liền, tuy là nước
to hơn mức thường, cố nhiên là cái số hoặc có như thế, những công
việc đại đoạn, bởi tự người làm cũng có chỗ chưa hết sức. Bàn dụ sai
các đình thần hết lòng bàn tính, nên làm thế nào để cho sông được
sóng êm, nhân dân yên ở để ta đỡ lo về miền Bắc”1.
Nguyễn Tri Phương cùng các đình thần đề xuất: “Hiện nay việc
phòng giữ nước sông, trừ phi lại sửa đắp đê điều, thực chưa có
kế sách gì khác cả. Xin tham xét lệ về khoản năm Gia Long, Minh
Mệnh đặt riêng sở Đê chính chuyên nha làm việc, để chuyên trách
có thành hiệu mới được”2. Các quan lại khác như Phạm Chi Hương,
Vũ Đức Nhu cũng cho rằng: “phép trị thuỷ, khai sông, đắp đê nên
phải đều làm cả hai”3.
Vua Tự Đức cho thiết lập lại Nha đê chính và dụ rằng: “Việc
trị thuỷ rất khó có người, tất phải là người chăm chỉ được việc mà
am hiểu, mới xứng với chức kén chọn ấy”4. Nguyên tắc tuyển chọn
người vào cơ quan này là: có tài, chăm chỉ làm việc, có hiểu biết
tình hình đê sông ở Bắc Kỳ và đặc biệt là phải có tâm huyết và tự
nguyện ứng cử. Cuối cùng, triều Nguyễn đã chọn được quan đứng
đầu Nha đê chính là Vũ Trọng Bình làm Quản lý đê chính sự vụ,
Nguyễn Tư Giản làm Hiệp lý đê chính, Nguyễn Văn Vỹ làm Tham
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.511.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.511.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.511.
4
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.511

136
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

biện đê chính. Theo đề nghị của Vũ Trọng Bình, công việc đê sông
rất nhiều, Nha đê chính xin bổ sung người, vua chuẩn cho chiếu
theo lệ năm Mậu Tý (1828) đặt 1 viên ngoại lang, 2 chủ sự, 2 tư vụ,
bát, cửu phẩm thư lại 4 người1. Nha đê chính được thành lập lại vào
năm Đinh Tỵ (1857) nhưng ngay năm sau, người đứng đầu là Vũ
Trọng Bình bị điều đi làm quyền hộ đốc An – Tĩnh. Công việc ở Nha
đê chính trao lại cho Nguyễn Tư Giản và Nguyễn Văn Vỹ.
Nguyễn Tư Giản là người đặc biệt quan tâm đến công việc trị thủy
ở Đồng bằng sông Hồng. Ông đã bỏ nhiều công sức để xem xét kế hoạch
đắp đê, đào sông, xây cống,… đặc biệt là dự án đào sông Thiên Đức.
Nguyễn Tư Giản gửi một bản điều trần tương đối toàn diện
được vua Tự Đức đánh giá cao. Bản điều trần của ông đại lược nêu
bỏ đê thì có 6 điều hại: “Địa thế các tỉnh Bắc Kỳ, phàm những tỉnh
gần sông và ven biển đều ngoài cao trong trũng, như hình cái nồi
để ngửa. Nếu bạt cả đi mà không có đê ngăn nước thì nước cứ việc
chảy tràn, hết phó cho dòng nước buông trôi, thì trong nước không
có sự súc tích được một năm nữa. Vậy lấy đâu được vài mươi vạn
hộc thóc ở Bắc để cho đủ số lương thực vận chuyển bằng đường
thuỷ mà tiếp tế cho nhà nước”2.
Nguyễn Tư Giản nêu lên 10 biện pháp trị thuỷ: “Xin đắp đê ở
bờ biển để dồn thế nước. Xin xây cống có cánh ở đập giữ nước đê để
phòng khi nước lên to quá. Xin đóng lấp sông nhánh để giữ dòng
sông chính. Xin khơi dòng sông cũ để tiêu bớt thế nước. Xin lấp các
nguồn nước đục, để đỡ đóng bùn. Xin chứa sẵn [tiền gạo] để làm
chi phí. Xin trả hậu tiền công để giúp đỡ dân mỏi mệt. Xin mở rộng
việc cho quyên nộp tiền, gạo để giúp công việc lớn. Xin đặt phu coi
đê để chuyên việc coi giữ”3.
Vua Tự Đức theo lời đề nghị của Nguyễn Tư Giản để thực hiện
công cuộc trị thủy ở Đồng bằng Bắc Bộ. Tuy nhiên, kế hoạch của ông
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.511.
2 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.527.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.527.

137
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

vạch ra mới chỉ thực hiện dang dở và chưa đồng bộ vì một phần do
thiếu kinh phí và triều đình đang phải lo đối phó với cuộc xâm lược
của Pháp,… Năm Nhâm Tuất (1862), Nguyễn Tư Giản cũng bị đổi
ra làm Tham biện quân vụ Hải Yên, một lần nữa Nha đê chính lại bị
bãi bỏ. Công trình lớn nhất mà Nha đê chính lần này thực hiện là cải
tạo và chuyển dịch cửa sông Thiên Đức và dòng chảy của sông bị bỏ
dở. Năm 1866, các quan Nội các bàn nên tiếp tục công trình, xin sắc
hỏi Vũ Trọng Bình xem có thể tiếp tục được không thì vua Tự Đức
gạt đi mà bảo rằng: “Nhầm một lần đã nhọc người tốn không biết
bao nhiêu tiền của, không nên lại sinh sự”1.
Không những vậy, Nguyễn Tư Giản, Vũ Trọng Bình, Nguyễn Văn
Vỹ xếp đặt công việc mấy năm không được, tiêu tốn nhiều tiền của nhà
nước, nên phải “chiếu theo luật làm việc lâu nay chóng nghị xử…”2.
Trong bản án năm Giáp Tuất (1874) khẳng định: “Trước đây
Nha đê chính coi giữ nước sông, đã lâu không có công trạng gì,
các hạng của công chi ra đã chuẩn cho bắt bồi”3. Dù vua Tự Đức có
thanh minh: “Năm thứ 14 bãi nha ấy, sau năm thứ 19 mới vỡ, thì
không làm xong việc đã mưu tính, đều có thể tha thứ, nhưng làm
thử đã 3 - 4 năm mà không thành công, cũng khó khỏi lỗi không
có tài năng”4. Và “Nay còn phải bồi bao nhiêu, lại miễn cho 5 thành
(tiền hơn 154.582 quan, gạo hơn 50.850 phương), còn 5 thành chiểu
theo năm tháng lâu chóng chia nhau phải bồi”5. Các quan Nha đê
chính phải bồi thường một số tiền lớn đã chi phí trong suốt thời
gian họ làm việc ở Nha đê chính. Tiền, gạo công tư đã chi đến hơn
trăm vạn, trừ đã được khoan tha ra, còn bắt bồi là 309.165 quan tiền,
101.709 phương gạo. Những người phải bồi thường gồm: Nguyễn
Tư Giản, Nguyễn Văn Vỹ, Hà Văn Trung, Hoàng Tạo (đã mất), Trần
Đức Phác (đã mất), Nguyễn Định Cát (đã mất), Lê Đản (đã mất),
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.1005.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.1005.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.38.
4
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.38.
5
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.38.

138
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Tống Hữu Trí. Người đã mất thì vợ con phải bồi thường. Trong số
đó có Hoàng Tạo, Đức Phác đã mất vì việc quân nên được miễn1.
Đáng chú ý những năm 70 – 80 của thế kỷ XIX, một số quan
lại, trí thức Việt Nam tiếp xúc với phương Tây, tiêu biểu là Nguyễn
Trường Tộ đã có những bản điều trần đề cập đến những biện pháp,
kĩ thuật hiện đại trong việc đắp đê, phòng chống lũ lụt, như trồng
rừng đầu nguồn, sử dụng tàu đồng (tày cuốc), nạo vét sông.
* Khâm sai kinh lý Hà đê sứ (1876 - 1878)
Năm Bính Tý (1876), trước tình trạng đê ở Bắc Kỳ thường xuyên
vỡ. Vua Tự Đức sai các quan đều tâu bày công việc trị thủy. Vua cho
đặt chức quan Khâm sai kinh lý Hà đê sứ và bàn về biện pháp củng
cố đê ở Bắc Kỳ. Phạm Thận Duật được cử đảm nhiệm chức này cùng
với Tham biện Vũ Văn Báo và Thương biện đê vụ Phạm Đăng Giảng.
Sau khi nhậm chức, Phạm Thận Duật cùng với quan 4 tỉnh có
đê trù tính công việc. Quan điểm của Phạm Thận Duật và các quan
đầu tỉnh có đê đều khẳng định về nguyên tắc là phải giữ đê. Ông
đưa ra kế hoạch khôi phục một số đê điều cũ và đắp mới một số
đường đê quai thuộc địa phận Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh:
“Tỉnh Hưng Yên thì tạm trước hết ở hữu ngạn sông Cửu An đến
Biện Tân, tỉnh Hải Dương thì tạm ở bờ sông Nghĩa Trụ đến Bảo Cố,
Thượng Đồng đều nhân đê điều cũ mà đắp. Lại từ xã Phụng Công,
tỉnh Bắc Ninh đến Từ Hồ, qua Thanh Nga đến Sài Trang, đắp lên
đường quai mới. Còn 2 bên tả, hữu sông Nghĩa Trụ đều đắp đường
quai nhỏ. Từ xã Nhị Mễ, tỉnh Hưng Yên đi qua các xã Bình Phú đến
Điêu Nha lại đắp một dải đường quai”2.
Tuy nhiên, ở vào thời điểm Phạm Thận Duật nhậm chức, vấn
đề trị thủy ở Đồng bằng Bắc Bộ trở nên phức tạp, đặc biệt là đê Văn
Giang. Vì vậy, năm Mậu Dần (1878), khi vua Tự Đức yêu cầu: “Chưa
thấy được việc hoàn toàn, lại bảo phải khám xét cho kĩ càng và trù
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.38.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.202.

139
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

liệu xem thế nào”1, Phạm Thận Duật cùng các cộng sự đã tâu bày:
“Chúng thần từ khi phụng phái đến nay, công việc ở các tỉnh, tính
suốt số tiền chi cấp là hơn 170.000 quan, mà lúa chiêm vẫn chưa
được toàn thu, nay nếu muốn đắp đê nhỏ mà tất giữ vững được lâu,
các tỉnh ở Bắc Kỳ vụ chiêm, vụ mùa đều giữ được, tất được toàn lợi
mà không hại đến dân địa phương ấy, tự liệu thế không thể làm cho
xứng chức được”2. Vua Tự Đức đồng ý bãi bỏ chức Khâm sai kinh
lý Hà đê sứ, cho Phạm Thận Duật về triều đình đổi bổ Tả phó Đô
Ngự sử viện Đô sát. Hoạt động của chức Khâm sai kinh lý Hà đê sứ
chấm dứt ở đây.

2. Đắp đê, xây dựng cống, đào sông thoát nước


* Đắp đê
Nửa sau thế kỷ XIX, số lượng và khối lượng đắp đê ít, bắt đầu
giảm dần. Khoảng 26 năm từ năm Mậu Ngọ (1858) đến năm Giáp
Thân (1884), triều Nguyễn tổ chức 12 cuộc đắp đê lớn vào các năm:
1859, 1862, 1870, 1872, 1873, 1875, 1876, 1877, 1878, 1881, 1882, 1883.
Trong đó, có một số lần đắp đê với quy mô lớn, chi phí cao.
Tháng Giêng năm Kỷ Mùi (1859), đào sông Thiên Đức (sông
Đuống) ở địa phận các tỉnh Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, miễn
tiền thu thêm từng mẫu ruộng cho 25 huyện phải đi đào sông, tổng
chi phí là 1.500.000 quan3.
Năm Nhâm Tuất (1862), tháng 3, dời đắp đê xã Quảng Lãm (Bắc
Ninh) ra chỗ khác. Đê dài 73 trượng (240m), tiền thuê đất đấu 3.500
quan, chi tiền tre gỗ 720 quan, tổng cộng là 4.220 quan4.
Năm Bính Tý (1876), tháng 3, đắp đê ngăn nước mặn ở huyện
Giao Thủy (thuộc Nam Định) dài hơn 3.000 trượng5.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.299.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.299.
3
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.594.
4
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.765.
5
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.166.

140
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm Đinh Sửu (1877), tháng Giêng, tu sửa đê 4 tỉnh Hải Dương,
Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng Yên. Tổng chi phí cho công làm và vật liệu
thành tiền là hơn 50.900 quan1.
Năm Mậu Dần (1878), tháng Giêng, đắp lại đê sông ở phủ Bình
Giang thuộc tỉnh Hải Dương; dời đắp chỗ đê vỡ tiếp giáp huyện
Kim Bảng và xã Mễ Tráng, huyện Thanh Liêm, thuộc phủ Lý Nhân
một đoạn dài 3.000 trượng2.
Đến cuối thế kỷ XIX, hệ thống đê sông dọc theo các sông lớn,
sông vừa và nhỏ đã khá hoàn chỉnh cùng với hệ thống đê biển. Đại
Nam nhất thống chí chép chi tiết về các sông và hệ thống đê điều ở
Bắc Bộ phân bố theo các tỉnh, như sau:
Bảng 19. Hệ thống đê ở các sông cuối thế kỷ XIX3
Đắp trước Đắp thời
Cộng
Tên đê thời Nguyễn Nguyễn Đê đắp qua các địa phương
(trượng)
(trượng) (trượng)
Tiên Phong, Phúc Thọ, Đan Phượng,
Đê sông Hạc 13.095 8.705 21.800
Yên Lạc, Yên Lãng
Từ Liêm, Vĩnh Thuận, Thọ Xương,
Thanh Trì, Thượng Phúc, Phú Xuyên
Đê sông Nhị 31.029 8.402 39.491
(Hà Nội), Văn Giang, Đông Ngàn, Gia
Lâm (Bắc Ninh)
Đông Ngàn, Gia Lâm, Tiên Du (Bắc
Đê sông Thiên Đức 15.175 1.989 17.164
Ninh)
Từ Liêm, Thanh Oai, Chương Đức,
Đê sông Hát 42.750 2.336 43.086 Sơn Minh, Hoài An, Kim Bảng,
Thanh Liêm (Hà Nội)
Lý Nhân, Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh
Đê sông Châu 5.805 5.805
Liêm
Gia Ninh, Tiên Du, Quế Dương, Siêu
Đê tư ngăn mặn 13.976 13.976
Loại
Yên Phong, Hiệp Hòa, Thiên Phúc,
Đê sông Nguyệt Đức 17.726 2.639 20.365
Việt Yên

1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.228.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.274-275.
3
Dẫn theo: Đỗ Đức Hùng, Vấn đề trị thủy ở Đồng bằng Bắc Bộ dưới thời Nguyễn (thế
kỷ XIX), Luận án Tiến sĩ Sử học, Viện Sử học Việt Nam, 1995, tr.127-129.

141
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Đắp trước Đắp thời


Cộng
Tên đê thời Nguyễn Nguyễn Đê đắp qua các địa phương
(trượng)
(trượng) (trượng)
Đê sông ngăn mạn 16.702 16.702 Võ Giàng, Hiệp Hòa, Việt Yên
Đông Ngàn, Yên Phong, Yên Dũng,
Đê tư ngăn mặn 12.986 12.986
Hiệp Hòa, Kim Anh, Thiên Phúc
Đê sông Nguyệt Đức 25.319 50 25.369 Yên Thế, Yên Dũng, Bảo Lộc
Đê tư chống mặn 2.040 2.040 Yên Thế, Phượng Nhãn
Đê sông Phó Đáy 2.876 2.876 Tam Dương, Bạch Hạc
Đê sông Tích 3.245 3.245 Thạch Thất, Yên Sơn
Đông Yên, Kim Động, Tiên Lữ, Duyên
Đê sông Xích Đằng 9.332 4.050 13.282
Hà, Hưng Nhân
Thượng Nguyên, Mỹ Lộc, Thiên Bản,
Đê sông Cái 2.954 4.209 7.763
Thư Trì
Đê sông Luộc 5.010 3.447 8.457 Tiên Lữ, Hưng Nhân, Phù Cừ
Đê tư chống mặn 8.921 8.921 Mỹ Lộc, Thiên Bản, Thượng Nguyên
Vũ Tiên, Chân Ninh, Thanh Quan,
Đê sông ngăn mặn 9.811 2.403 12.214 Đông Quan, Quỳnh Côi, Thụy Anh,
Giao Thủy
Vũ Tiên, Chân Định, Thanh Quan,
Đê tư chống mặn 35.130 35.130 Đông Quan, Quỳnh Côi, Thụy Anh,
Đại An
Dưỡng Yên, Đường Hào, Thanh
Đê tư chống mặn 26.830 26.830
Miện, Vĩnh Lại, Gia Lộc
Vĩnh Bảo, Vĩnh Lại, Tứ Kì, Tiêu Minh,
Đê tư chống mặn 78.925 78.925 Thủy Đường, Thanh Hà, Giáp Sơn,
Đông Triều, An Dương, An Lão.
Đê Hồng Ân 3.375 3.375 Kim Sơn, Yên Mô
Yên Hưng, Nghiêm Phong (Quảng
Đê tư ngăn mặn 2.740 2.740
Yên)
Tổng 315.232 106.810 422.042

* Xây cống
Dưới thời vua Tự Đức, nhà nước đã cho xây các loại cống có
cánh cửa đã rất phổ biến. Các cống được xây bằng gạch, đá có cửa
gỗ không chỉ được nhà nước mà các địa phương, làng xã cũng tự
xây dựng sau khi được phép của nhà nước. Tiêu biểu là vào năm
Mậu Ngọ (1858), Lý dịch của các xã Cổ Ngói, Hiệp Thuận, Tảo Hạ,
Hoành Tảo, Hương Tảo thuộc tỉnh Sơn Tây và các Tuân Lộ, Mai
142
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Lĩnh, Đồng Hoằng, Nga My, Mỹ Dương thuộc tỉnh Hà Nội đều xin
những chỗ đê đào ra để lấy nước khi trước ở địa phận xã mình, nay
xin xây cống, tự lo liệu lấy gạch đá để xây, tùy thời đóng mở cho tiện
việc làm ruộng. Sau khi quan tỉnh và các quan Đê chính đã trực tiếp
khám xét và tâu báo, vua chuẩn y cho xây1.
Việc xây cống vẫn tiếp tục cho đến những năm cuối đời vua Tự
Đức. Năm 1881, nhà nước cho xây hai cống lớn ở tổng Thổ Khối và
3 tổng Cổ Quán, Phú Khê, Thọ Thành thuộc Hưng Yên “theo thời
chứa nước, tháo nước lợi cho việc nông”2.
* Đào sông thoát lũ
Một trong những công trình đào sông thoát lũ lớn nhất dưới
thời Nguyễn là sông Thiên Đức. Sông Thiên Đức (sông Đuống)
chảy qua các địa phận huyện Đông Anh, Gia Lâm đến huyện Siêu
Loại, Quế Dương (Bắc Ninh) hợp với hai sông Nhật Đức và Nguyệt
Đức chảy vào sông Lục Đầu.
Việc nạo vét cửa sông và lòng sông Thiên Đức đã được các triều
đại tiến hành từ rất sớm: Lý (1108), Trần (1390) và Lê sơ (1435). Đến
thời Nguyễn, dưới triều vua Gia Long, Minh Mệnh đã nhiều lần tổ
chức nạo vét sông này vào các năm Kỷ Tỵ (1809), Canh Ngọ (1810),
Tân Mùi (1811) và Canh Dần (1830),... Tuy nhiên, chỉ sau một thời
gian, phù sa lại bồi đắp lên như cũ. Một phương án cải tạo lại cửa
sông Thiên Đức biến sông này thành đường phân lũ chính về phía
Đông Bắc cho sông Hồng thì phải đến thời vua Minh Mệnh mới
được đặt ra. Người đầu tiên đưa ra dự án cải tạo sông Thiên Đức
trong kế hoạch trị thủy ở Đồng bằng Bắc Bộ theo chủ trương kết
hợp cả đắp đê với đào sông thoát lũ là quan Đê chính Lê Đại Cương
và Hoàng Quýnh vào năm Kỷ Sửu (1829). Nguyên nhân cửa sông
Thiên Đức bị bồi lắp là do cửa sông nằm vuông góc với sông Nhị
Hà. Nay nên dời cửa sông lên phía trên để có thể tạo thế hút nước
sông ở sông Nhị Hà. Ở phía dưới thì tùy thế mở rộng ra và nắn lại
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, Sđd, tr.544-545.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, Sđd, tr.457.

143
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

khiến nước sông chảy thoát nhanh ra biển Đông, không đe dọa vỡ
đê vào thành Hà Nội1. Vua Minh Mệnh đồng ý dự án trên và sai Hộ
thành binh mã phó sứ Đỗ Phúc Thịnh ra Bắc cùng với các quan đê
chính để tiến hành đo đạc, vẽ bản đồ, trù tính công việc cụ thể. Kế
hoạch đã được bàn định tỉ mỉ, công phu, nhưng rồi vẫn không thực
hiện được, vì đình thần cho rằng, việc đắp đê ở các địa phương và
công trình kè đá ở Hoài Đức rất bận rộn, sức lực của dân và kinh phí
chưa đủ để làm.
Năm Canh Dần (1830), vua Minh Mệnh sai Tổng trấn Phan Văn
Thúy và Lê Văn Quý đem 1.000 biền binh nạo vét cửa sông cũ trong
1 tháng, thưởng 1.300 quan tiền2.
Dự án cải tạo sông Thiên Đức được Nguyễn Công Trứ đánh giá
rất cao. Ông cho rằng, thoát lũ qua sông Thiên Đức sẽ giải quyết lụt
lội cho 6 tỉnh, trong khi cửa sông Cửu An chỉ là lợi ích của 11 huyện
ở Hải Hưng mà thôi.
Năm Đinh Dậu (1837), cùng với Quyền lãnh Tổng đốc Tôn
Thất Bật, Nguyễn Công Trứ đã kiến nghị đào lại cửa sông Thiên
Đức nhưng không được chấp thuận.
Năm Kỷ Hợi (1839), Ngự sử Mai Khắc Mẫn lại xin đào lại cửa sông
Thiên Đức từ Cơ Xá đến xã Thịnh Lâu cũng không được thực hiện.
Năm Nhâm Dần (1842), các tổng đốc 6 tỉnh (Sơn Tây, Hà - Ninh,
Ninh - Thái, Hải - An, Định - An) cùng đệ trình lời thỉnh cầu khai
cửa sông Thiên Đức. Vua Thiệu Trị có cử một quan văn (nhị phẩm)
và một quan võ (tam phẩm) ra Bắc khám xét, làm tờ trình lên, nhưng
rồi lại bỏ không làm.
Đến năm Đinh Tỵ (1857), đê các tỉnh Sơn Tây, Hà Nội, Bắc Ninh,
Nam Định lại bị vỡ nhiều nơi, vấn đề khơi vét sông Thiên Đức lại
được đặt ra cấp bách hơn. Tổng đốc Bình - Phú Phạm Khôi xin đào
hai con sông Nghĩa Trụ và Thiên Đức để chia bớt thế nước sông Nhị.
1
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, Sđd, tr.893.
2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 3, Sđd, tr.13.

144
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Ông cho rằng, ở hai xã Cơ Xá và Quán Tình (Gia Lâm) đều nên bạt đi
mỗi xã một đoạn đê công để làm lối cho nước chảy ra. Một bên lấy đê
cũ sông Thiên Đức làm bờ ngăn lũ, bên bờ hữu đắp một con đê mới.
Nước sông những lúc bình thường vẫn chảy theo dòng sông cũ, khi
nước lên thì theo hai con sông Thiên Đức và Nghĩa Trụ tiêu thoát đi.
Vua Tự Đức cho rằng đã cần phải xem xét việc đào cửa sông Thiên
Đức vì ngay cả Khâm sai Trương Đăng Quế sau lần ra Bắc kinh lý việc
đê về triều cũng thừa nhận phương án thoát lũ qua sông Thiên Đức.
Cùng năm Đinh Tỵ (1857), vừa nhận chức Quản lý đê chính sự
vụ, Vũ Trọng Bình đưa ra dự án khơi vét sông Thiên Đức. Bản dự
án của Vũ Trọng Bình cho biết công trình phải đào đắp hơn 795.070
đấu đất, tiêu hết 1.563.030 quan. Giữa lúc Tự Đức còn đang phân
vân vì công trình quá lớn, chi phí quá nhiều, sai đình thần và quan
Đê chính xem xét tính lại thì tháng 11 năm Mậu Ngọ (1858), Nguyễn
Tư Giản và Nguyễn Văn Vỹ đưa ra một kế hoạch tối ưu. Theo kế
hoạch này, số tiền chỉ phải chi là 100.000 quan và chỉ phải đào hơn
50.000 thổ đấu. Vua Tự Đức chấp thuận phương án của Nguyễn Tư
Giản và Nguyễn Văn Vỹ.
Tháng Giêng năm Kỷ Mùi (1859), công trình đào sông Thiên
Đức bắt đầu, dân công 25 huyện trong vùng được huy động. Những
huyện có tham gia đào sông thì được miễn tiền thu thêm vào ruộng,
còn những nơi không phải tham gia công trình thì thu 4 tiền/1 mẫu
để chi cho việc đào sông.
Công trình đang được tiến hành trong hai mùa khô 1859 - 1860
nhưng đình thần đã muốn cho dừng lại. Nguyễn Tư Giản làm Hiệp
lý đê chính muốn xin tiếp tục ở lại khơi sông Thiên Đức cho thẳng
lại ở các xã Phúc Lai đến Tư Cương nhưng quan Khâm sai là Phạm
Chi Hương và quan tỉnh Bắc Ninh là Nguyễn Văn Phong đã xin thôi
không làm tiếp nữa. Mặc cho lời can của đình thần và lời xin của hai
viên quan kia, vua Tự Đức vẫn cho Nguyễn Tư Giản được trình bày
lại rồi theo kế hoạch ấy mà tiếp tục công việc khác. Các xã trong đê
nay lại ở ngoài đê do sự di chuyển của cửa sông thì lại được chuyển
theo phương thức đổi đất.
145
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Công trình cải tạo cửa sông Thiên Đức được thực hiện trong
3 mùa khô của các năm Kỷ Mùi (1859), Canh Thân (1860), Tân Dậu
(1861). Kể từ những ý tưởng đầu tiên vào năm Kỷ Sửu (1829), đến khi
công trình được thực hiện cũng phải mất 30 năm. Hầu hết các quan
lại và những người am hiểu đều thừa nhận sự cần thiết phải đào, sửa
cửa sông Thiên Đức. Bởi vì, nó không chỉ là công trình thoát lũ ra phía
Đông Bắc mà các cửa sông ở phía này ít bị sa bồi và có khả năng thoát
lũ nhanh. Đây cũng đánh dấu một tiến bộ đáng kể trong nhận thức
và kinh nghiệm trị thủy của người Việt ở thế kỷ XIX.
Tuy vậy, công trình to lớn này đã vượt quá tiềm lực kinh tế và
kĩ thuật lạc hậu của Việt Nam thời đó. Ngoài ra, việc chuyển dịch
một con sông còn đặt ra một loạt các vấn đề xã hội và phong tục tập
quán phải giải quyết cho dân trong vùng có liên quan. Ngoài việc
miễn thuế công thổ, gò, ao, đất bãi và đền bù theo thời giá cho đất
tư, ruộng tư, nhà nước còn phải chi phí cho việc cải táng 4.580 ngôi
mộ (với giá cho một ngôi mộ có chủ là 3 quan, vô chủ là 2 quan).
Sự thiếu hụt ngân sách khiến cho triều đình nhà Nguyễn
không đủ quyết tâm làm công trình cho đến khi hoàn thành công
trình theo dự định. Đê mới đắp trên nền đất trũng, không chịu nổi
trận lụt tháng 6 năm Tân Dậu (1861) nên bị vỡ nhiều nơi. Các huyện
thuộc Từ Sơn, Tiên Du (Bắc Ninh) và một số địa phương khác bị
lụt sâu trên 6 thước, nhà dân ngập tràn, lúa ruộng bị hư hại nhiều.
Những năm sau đó, triều đình nhà Nguyễn đã không còn đủ sức để
khắc phục những hậu quả của công trình đê sông Thiên Đức. Nước
theo cửa sông mới tràn vào uy hiếp các tỉnh thành Bắc Ninh, Hưng
Yên, Hải Dương. Năm Nhâm Thìn (1892), sau khi đánh chiếm Bắc
Kỳ, chính quyền thực dân Pháp đã phải thực hiện cải tạo sông và đê
ở Đồng bằng sông Hồng.
Như vậy, công trình đào sông lớn nhất thời vua Tự Đức là sông
Thiên Đức đã được đình thần, tỉnh thần và các quan Đê chính bàn
bạc rất kĩ sau nhiều năm mới thi hành, nhưng do không đủ kinh
phí và nhân lực để thực hiện. Hơn nữa, vào lúc này, triều Nguyễn
đang phải lo đối phó với cuộc xâm lược của Pháp ở Nam Kỳ. Những
146
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

biện pháp đưa ra sau đó chỉ còn là bị động và chắp vá. Năm 1862,
Nguyễn Tư Giản vẫn muốn tiếp tục công việc khai sông nhưng đã
bị vua Tự Đức bác bỏ với lý do: “Lúc này tiền túng thiếu, công việc
nhiều, không nên làm mệt sức dân” rồi cho Nguyễn Tư Giản làm
Tham biện quân vụ Hải Yên và bãi bỏ Nha đê chính.

III. CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP ĐẮP ĐÊ CỦA CHÍNH QUYỀN PHÁP Ở VIỆT NAM (1884 - 1896)
1. Cuộc tranh luận quyết liệt không hồi kết giữ đê hay bỏ đê ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ,
những nỗ lực bước đầu và sự lúng túng của chính quyền Pháp
Trong những thập kỷ đầu của thời kỳ thuộc địa, chính quyền
thực dân Pháp chưa hiểu và chưa đánh giá đúng tầm quan trọng
của đê đối với sự phát triển kinh tế, bảo vệ sản xuất và đảm bảo an
toàn cuộc sống của người dân. Mặc dù trên thực tế, chính quyền
thuộc địa thường xuyên đối mặt với nạn lũ lụt và những hậu quả
nặng nề do vỡ đê gây ra. Họ nghi ngờ về vai trò, sức chịu đựng của
đê trước sức tàn phá của lũ, lụt. Chính vì thế, chính quyền thuộc địa
và một số kĩ sư công chính Pháp đề xuất nên bỏ đê. Họ nghiên cứu
các phương án thoát lũ, thay vì chống lũ bằng đê. Có nhiều ý kiến,
nhưng tiêu biểu là các ý kiến sau:
- Theo Bayon, giao thông đường thủy nội địa ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ
rất thuận lợi và năng động nhờ vào hệ thống sông ngòi dày đặc, đặc
biệt là hai con sông lớn sông Hồng và Mê Kông. Tuy nhiên, những
dòng sông này cũng gây nhiều trở ngại, đặc biệt là nguy cơ lụt, lũ
dâng cao, đôi khi nó vượt quá 11m ở Hà Nội1. Bayon tự hỏi, để chống
lại lũ lụt của các con sông người Việt đã làm gì? Từ nhiều thế kỉ, người
Việt đã đắp những con đê để chống lại lũ bên dưới và để đảm bảo
cho việc di chuyển chắc chắn trên đê. Bayon chỉ ra rằng, những con
đê được ví như những bức tường thành này thường xuyên bị những
xoáy nước làm vỡ. Đê được xây dựng từ thời Nguyễn hay thời Pháp
do thấp và nhỏ nên không chống được lũ lớn và bị vỡ. Sau mỗi lần đê
vỡ lại phải tu sửa, đắp đê, gây nhiều tốn kém. Bayon đặt ra câu hỏi,
1
Albert Maybon, L’Indochine, Larose, Paris, 1931, tr.84

147
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

tại sao lại không để dòng nước của những con sông kia chảy tự do
như là dòng Mê Kông hay sông Nin? Và khẳng định, người Pháp đã
muốn thế. Tuy nhiên, người Việt thì phản đối việc bỏ đê vì họ không
muốn mất thành quả của việc cày cấy1.
- Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier chia sẻ quan điểm này
và cho rằng, đê là một công trình bảo vệ, nhưng đôi khi nó cũng là
những nguyên nhân của những hiểm họa khôn lường. Vào mùa
đỉnh lũ, mức nước sông Hồng có thể cao tới 7 mét. Khối nước lũ này
dâng lên và như một cỗ máy phá thành khổng lồ gây sức ép lên đê.
Ở Hà Nội, đôi khi lũ lớn sông Hồng có thể đạt tới +11, +12m. Nó có
thể cuốn trôi tất cả. Thử hỏi xem, có một sức mạnh nào có thể chống
chọi lại được mức nước cao như thế?2.
Trong khi chính quyền thuộc địa Pháp còn bàn cãi việc nên đắp
đê hay bỏ đê, thì trong những năm cuối thế kỷ XIX, tình trạng lũ lụt,
hạn hán ở Bắc Kỳ xảy ra liên tiếp, gây nhiều khó khăn cho đời sống
của người dân, ảnh hưởng tới nguồn thu của chính quyền thuộc địa
và trật tự xã hội. Trên thực tế, ngay năm 1883, sau khi chiếm được
Bắc Kỳ, một trận lũ lớn đã làm vỡ nhiều tuyến đê, gây lụt lội và mất
mùa. Năm 1893, mưa lớn, lũ dâng cao tới +13m ở Hà Nội, trong khi
đó đê sông Hồng mới chỉ chịu được mức nước +9m. Nhiều tuyến
đê bị vỡ, lũ lụt nhấn chìm nhiều vùng thuộc các tỉnh Đồng bằng
sông Hồng, đặc biệt là sông Thái Bình.
Từ thực tế đó, chính quyền thực dân Pháp nhận thấy rằng,
vấn đề quan trọng nhất của trị thủy ở Bắc Kỳ là cải tạo, đắp đê
ngăn lũ và xây dựng hệ thống thủy nông cung cấp nước tưới. Thứ
nhất, vì địa hình ở Bắc Kỳ rất phức tạp và có sự khác biệt lớn giữa
các vùng, cho nên vấn đề thủy lợi ở Bắc Kỳ cũng phức tạp hơn
Nam Kỳ. Vấn đề không chỉ cần tưới nước mà còn cần thoát nước
1
Albert Maybon, L’Indochine, Larose, Paris, 1931, tr.84
2
Pierre Pasquier, l’Annam d’autrefois: essai sur la constitution de l’Annam avant
l’intervention française, Société d’Editions géographiques, maritimes et coloniales,
Paris, 1930, tr. 302.

148
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

ở những vùng thấp, phòng và chống lũ vào mùa mưa. Thứ hai,
những nỗ lực trị thủy của nhà Nguyễn chủ yếu ở Đồng bằng sông
Hồng, tuy nhiên nhiều công trình xuống cấp, đê, kè, cống bị hư
hỏng, sạt lở ở nhiều nơi. Nguyên nhân chủ yếu do trình độ khoa
học, kĩ thuật, vật liệu xây dựng công trình hạn chế, chủ yếu là sử
dụng vôi, cát, đất, tre và gỗ.
Từ năm 1887, chính quyền Pháp bắt đầu nắm quyền điều hành,
giải quyết các vấn đề trị thủy ở Bắc Kỳ. Nhưng các Công sứ người
Pháp lại phải dựa vào một số quan lại Nam triều có hiểu biết và kinh
nghiệm về việc trị thủy, thủy nông, để khảo sát thực tế, lập ra kế
hoạch khơi đào sông ngòi, đắp đê, xây dựng cống đập, chống lũ lụt,
hạn hán. Năm 1887, Pháp đã cho đắp 2km đê ở xã Do Đạo, huyện
Duyên Hà (Thái Bình)1. Năm 1899, chính quyền thuộc địa cho một
số kĩ sư Pháp bắt đầu nghiên cứu về hệ thống đê, đập ở Bắc Kỳ. Họ
đã lập nhiều thống kê, nghiên cứu hệ thống thủy văn, lịch sử đắp
đê và các biện pháp cần thiết để phòng, chống lũ lụt ở Đồng bằng
sông Hồng.
Sau khi Liên bang Đông Dương được thành lập vào năm 1887,
một số cơ quan chuyên môn cũng được thành lập như Sở Công
chính, Sở Thủy lợi và Ủy ban Đê điều để phụ trách việc đắp đê, trị
thủy. Ngày 6 tháng 12 năm 1892, Toàn quyền Đông Dương khi đó
là De Lanessan đã ban bố Nghị định thành lập Ủy ban Nghiên cứu
nguyên nhân vỡ đê sông Đuống, gồm 4 thành viên do Bonnaire (Tư
lệnh hải quân) làm Chủ tịch. Ba ủy viên gồm: Lion (kĩ sư cầu cống),
Baille (Công sứ Bắc Ninh) và Sallenave (Giám đốc Công chính Đông
Dương)2. Ủy ban này đã đề xuất các phương án giảm lũ cho sông
Đuống, như xây đập Vĩnh Yên, lấp cửa sông Đuống.
Sau thất bại của các phương án do Ủy ban Nghiên cứu
nguyên nhân vỡ đê sông Đuống đề xuất, ngày 28 tháng 6 năm
1
Nguyễn Văn Am, Thủy lợi Thái Bình 1883-1945,…sđd, tr.49.
2
Bulletin officiel de l’Indochine francaise, deuxieme part: Annam et Tonkin, no 12,
decembre 1892, tr.839-840.

149
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

1895, Toàn quyền Đông Dương Armand Rousseau ban hành Nghị
định thành lập Ủy ban tối cao về đê điều do Thư kí của Toàn
quyền làm Chủ tịch. Các thành viên gồm: Kinh lược sứ của triều
Nguyễn ở Bắc Kỳ, Giám đốc công việc dân sự Bắc Kỳ, Giám đốc
Công chính Đông Dương, Công sứ đại diện cho một tỉnh, một kĩ
sư Công chính, một đại diện cho Tư lệnh các lực lượng quân đội
Pháp ở Đông Dương, Tư lệnh hải quân. Nhiệm vụ của Ủy ban
này là nghiên cứu về hệ thống đê ở Bắc Kỳ, đệ trình lên Toàn
quyền tất cả các kế hoạch hữu dụng liên quan tới quy định về kĩ
thuật, hành chính liên quan tới đê điều. Nghị định yêu cầu Ủy
ban cần gửi báo cáo tổng thể về hệ thống đê ở Bắc Kỳ cho Toàn
quyền trước ngày 31 tháng 10 năm 18951.
Cơ quan quản lý chuyên môn cao nhất về công chính nói chung,
đê điều nói riêng ở Việt Nam thời thuộc địa là Sở Công chính Đông
Dương thành lập theo Nghị định ngày 9 tháng 9 năm 1898 của Toàn
quyền Paul Doumer.
Tuy nhiên, trong thời gian đầu, hoạt động của cơ quan này còn
rất hạn chế. Chính quyền Pháp cũng chưa đưa ra kế hoạch đắp đê
lớn nào. Công việc chủ yếu là sửa chữa, củng cố những đoạn đê bị
vỡ sau mỗi trận bão và lũ lụt. Toàn quyền Đông Dương De Lanessan
thừa nhận rằng, sau khi chiếm được Bắc Kỳ, các tuyến đê không
được quan tâm vì sự bất ổn thường trực của tình hình chính trị - xã
hội. Vào năm 1890, đó là năm đầu tiên chính quyền Pháp mới bắt
đầu quan tâm tới vấn đề đê điều. Nhưng phải đến năm 1892, 1893,
việc củng cố đê cũ, đắp đê mới bắt đầu được thực hiện quy mô,
những chủ yếu là đê sông Hồng2.
Để bảo vệ các trung tâm chính trị, kinh tế quan trọng của Pháp,
nơi tập trung đông nhân viên và binh lính Pháp, chính qyền thuộc
1
Bulletin officiel de l’Indochine francaise, deuxieme part: Annam et Tonkin, no 6,
juin 1895, tr.850.
2
Jean Louis de Lanessan, La colonisation francaise en Indochine, Felix Alcan, Editeur,
Paris, 1895, tr.302.

150
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

địa cho gia cố một số đoạn đê La Thành bao quanh Hà Nội, đê


bao quanh thành phố Nam Định, đê tả ngạn sông Hồng ở Hưng
Yên. Trong năm 1892 và 1893, chính quyền thuộc địa cho tu bổ được
300km đê cũ1. Tổng khối lượng đào đắp những đoạn đê này khoảng
12 triệu m3. Cùng với củng cố đê cũ, trong hai năm 1892-1893, chính
quyền Pháp đã huy động lao dịch đắp được hơn 100km đê mới2.
Trong số các đoạn đê được củng cố, đắp mới, có những đoạn chân
đê rộng 40m, mặt đê rộng từ 10 đến 12m, cao từ 4 đến 5m. Chi phí
cho đắp đê mới trong 2 năm này khoảng 290.000 đồng bạc Đông
Dương và 208.000 đồng bạc Đông Dương cho củng cố đê cũ3.
De Lanessan khẳng định, chống lụt có tầm quan trọng đặc biệt
rất lớn đối với Đồng bằng sông Hồng, trong đó đê giữ vai trò quan
trọng, nhưng hạn chế là đê chủ yếu chỉ được đắp trong các tỉnh
trung tâm của đồng bằng, phía hạ lưu gần biển thì chưa có đê. Mặt
khác, việc tiêu lũ từ sông Hồng và các chi lưu của nó chưa hiệu quả,
chính vì thế đê không chống chịu nổi lũ lớn vào tháng 7 và tháng 8.
De Lanessan đề xuất đào một số kênh chạy dọc sông Hồng và các
chi lưu của nó để thoát nước thật nhanh ra biển. Bằng biện pháp
này thì không cần duy trì và củng cố các tuyến đê hiện có khi đó.
Một số kĩ sư công chính Pháp cũng bắt đầu nghiên cứu phương
án làm giảm độ cao của lũ ở hạ du đồng bằng Bắc Kỳ. Phương án
được tính đến đầu tiên là phân lũ sông Hồng và sông Đuống nhằm
giảm áp lực lũ cho hệ thống đê ở phần trung và hạ lưu. Ý tưởng
này được đề xuất bởi Peytavin, một chuyên gia trị thủy người Pháp
ở Bắc Kỳ. Peytavin đưa ra hai phương án: một là phân lũ từ sông
Hồng qua sông Đuống; hai là lấp cửa sông Đuống dồn toàn bộ lũ
qua sông Hồng, dồn sức củng cố, nâng cao toàn bộ đê sông Hồng
để đủ sức chống chọi với lũ lớn.
1
Olivier Tessier, Quy hoạch thủy lợi vùng Đồng bằng sông Hồng: nhìn nhận lịch
sử về vai trò của nhà nước phong kiến và nhà nước thuộc địa (thế kỷ XII đến
nửa đầu thế kỷ XX), Tài liệu khóa học Tam Đảo, tháng 7/2013.
2
Phan Khánh (Cb), Lịch sử Thủy lợi Việt Nam, Nxb thời đại, 2014, tr.202.
3
Jean Louis de Lanessan, La colonisation francaise en Indochine,…sđd, tr.303.

151
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hai phương án trên đã được các kĩ sư công chính Pháp và


chính quyền thuộc địa thảo luận. Cuối cùng, chính quyền thuộc
địa đã thông qua phương án hai là lấp cửa sông Đuống. Vì thứ
nhất, theo đánh giá của các kĩ sư Pháp, việc phân lũ qua sông
Đuống khó có thể thực hiện được do điều kiện thủy chế và thủy
lực. Thứ hai, chi phí cho phương án lấp cửa sông Đuống phân lũ
sang sông Hồng sẽ rẻ hơn, vì chỉ cần tập trung củng cố và nâng
cao đê sông Hồng. Còn nếu thực hiện phân lũ qua sông Đuống thì
chi phí sẽ rất lớn vì phải củng cố, nâng cao cả hai hệ thống đê sông
Hồng và sông Đuống.
Cuối năm 1892, chính quyền Pháp đã cho đổ đất, đá xây dựng
một con đập chặn cửa sông Đuống đoạn thông với sông Hồng.
Tuy nhiên, đập mới được xây dựng đã bị trận lũ năm 1893 cuốn
trôi, kế hoạch lấp sông Đuống thất bại. Vì đặt quá nhiều hy vọng
vào việc phân lũ qua sông Hồng bằng việc lấp cửa sông Đuống mà
không chú ý củng cố đê sông Đuống, nên trận lũ năm 1893 đã gây
vỡ nhiều đoạn đê sông Đuống, nhấn chìm nhiều làng mạc, ruộng
vườn. Chính quyền thuộc địa Pháp tỏ ra rất lúng túng.
Trong bối cảnh ấy, người Pháp lại đề ra một phương án khác là
không ngăn được lũ thì tìm cách giảm và làm chậm lũ. Năm 1895,
chính quyền Pháp đầu tư xây dựng đập tràn Vĩnh Yên. Đập này có 18
cửa, được thiết kế đóng, mở bằng cửa van, mỗi cửa sộng 10m, nhằm
giảm lũ cho sông Hồng. Công trình được hoàn thành và bắt đầu hoạt
động vào năm 1899. Tuy nhiên, trong đợt lũ năm 1899 và các năm sau
đó, đập tràn Vĩnh Yên hoạt động không hiệu quả. Mặt tràn đập bị lũ
làm xói lở nghiêm trọng và không giảm được lũ cho hạ du. Kết quả
đê vẫn bị vỡ nhiều nơi, như đê sông Đuống ở Bắc Ninh, đê sông Phủ
Lý ở Cổ Liêu, đê sông Hồng ở Hào Châu, Xương Hậu,...
Đê vỡ, một số vùng, như Đông Anh, Phúc Yên, Bắc Ninh, Nam
Định, Hà Nam, Ninh Bình bị ngập lụt, nhiều diện tích lúa và hoa
màu bị mất trắng. Lợi bất cập hại, việc xây đập tràn Vĩnh Yên còn
gây ngập lụt cho cả vùng phân lũ, vùng trũng thuộc tỉnh Phúc Yên,
Vĩnh Yên, gây thiệt hại nhiều người và của. Nhân dân vùng phân
152
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lũ phản đối kịch liệt1. Năm 1900, chính quyền thuộc địa cho chặn
cửa sông Cà Lồ nhằm hạn chế lũ và xây cống Vực Dê để tiêu lũ cho
Phúc Yên và Vĩnh Yên. Tuy nhiên, việc này cũng không mang lại
kết quả đáng kể.
Những năm sau đó, mặc dù lũ lớn, nhưng chính quyền thuộc
địa không dám tiếp tục mở cửa đập tràn Vĩnh Yên vì sợ người dân
phẫn nộ, phản kháng. Chính quyền thuộc địa buộc phải ngưng hoạt
động đập tràn Vĩnh Yên2. Peytavin xác nhận rằng: “Đập tràn Vĩnh
Yên đã ngưng hoạt động hoàn toàn từ năm 1905, vì chính quyền
sợ rằng lũ lụt tiếp tục gây tổn hại tới mùa màng và sự phản đối của
người dân”3. Như vậy, phương án chậm lũ ở đồng bằng sông Hồng
của người Pháp thất bại.

2. Khơi đào kênh rạch kết hợp đắp đê và phát triển giao thông, quan điểm và
biện pháp thoát lũ nhất quán từ đầu của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ
Mục đích thực dân Pháp xâm lược và biến Việt Nam thành thuộc
địa nhằm khai thác tài nguyên, đặc biệt là nguồn lợi từ các sản phẩm
nông nghiệp để làm giàu cho các tập đoàn tư bản và nền kinh tế
Pháp. Nên chính quyền Pháp cho rằng: việc xây dựng các công trình
trị thủy, thủy lợi tạo động lực cho mở rộng diện tích, tăng năng suất,
sản lượng cây trồng là một trong những biện pháp quan trọng và cần
thiết đối với một xứ nông nghiệp như Việt Nam. Nhưng, các công
trình đó ở những vùng khác nhau không có chung đặc điểm.
Đối với Nam Kỳ, theo kĩ sư công chính Pháp A.A. Poyanne, đất
đai ở Nam Kỳ được người dân bản địa khai thác là nhờ vào việc đào
vô số các kênh, rạch. Chúng không chỉ là những tuyến giao thông
quan trọng mà còn để tháo nước thường xuyên. Từ những kinh
nghiệm thu thập được và những nghiên cứu, chính quyền Pháp
chủ trương, đối với Nam Kỳ phải tập trung nguồn lực cho việc đào,
1
Pétayvin, La crue du fleuve Rouge et les inondations du Tonkin en 1915, Imprimerie
d’Extrême-Orient, Hanoi, 1916, tr. 55.
2
Phan Khánh (Cb), Lịch sử Thủy lợi Việt Nam,…sđd, tr.204.
3
Pétayvin, La crue du fleuve Rouge et les inondations du Tonkin en 1915…sđd, tr. 56.

153
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

nạo vét kênh rạch ở Đồng bằng sông Cửu Long, nơi người Pháp
thường gọi là Tây Nam Kỳ.
Người Pháp cho rằng, nếu như “Ai Cập là tặng phẩm của sông
Nin, thì Nam Kỳ là tặng phẩm của dòng Mê Kông”. Sự giàu có về
sản vật, đất đai màu mỡ là do phù sa của sông Mê Kông bồi đắp qua
mỗi mùa lũ. Chính vì thế, về cơ bản người Pháp không chủ trương
ngăn lũ, mà chỉ tìm cách thoát lũ cho các vùng trũng bằng cách đào,
nạo vét sông, kênh, rạch. Tổng thanh tra Công chính Đông Dương,
Pouyanne chỉ ra rằng: vấn đề quan trọng nhất của thủy lợi Nam Kỳ
là thoát nước. Biện pháp quan trọng nhất để thoát nước là đào và
nạo vét kênh1. Quá trình đào, nạo vét kênh đã tạo nên những tuyến
giao thông đường bộ quan trọng, đồng thời cũng là các tuyến đê
chạy dọc theo hai bờ sông, kênh rạch.
Công cuộc nạo vét, đào kênh của chính quyền thuộc địa Pháp
ở Nam Kỳ có thể chia thành ba giai đoạn chính: 1862 - 1896; 1897
- 1929 và 1930 - 1945. Bắt đầu từ 1890, chính quyền thuộc địa Pháp
mới đưa ra một chương trình đào mới hệ thống kênh lớn ở Đồng
bằng sông Cửu Long. Từ năm 1894, một số công ty tàu cuốc của
Pháp đã tới Nam Kỳ để đào kênh theo hợp đồng đấu thầu với chính
quyền thuộc địa. Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp
phần thúc đẩy việc đào và nạo vét kênh rạch ở Nam Kỳ phát triển
hơn trước. Từ năm 1894, việc đào và nạo vét kênh rạch lớn ở Nam
Kỳ do công ty tàu cuốc Montvenoux của Pháp thực hiện. Đến năm
1904 chỉ có hai kênh lớn được đào mới là kênh Trà Ót và Saintnoy2.
Bên cạnh đó, chính quyền thuộc địa Pháp bắt dân phu người Việt
đào, nạo vét nhiều kênh, rạch vừa và nhỏ, như: kênh Ba Rinh, An
Tập, Tiếp Nhật ở Sóc Trăng. Tổng khối lượng đào, nạo vét kênh rạch
trong giai đoạn 1894 - 1897 đạt khoảng 480.000m3, trung bình mỗi
năm đào được 120.000m3.
1
A. A. Pouyanne, Le Bilan des travaux publics de l’Indochine, Revue économique
d’Extrême-Orient, N0 8, 20 avril 1926, tr. 121-124.
2
Phan Khánh, Nam Bộ 300 năm làm thủy lợi, Nxb Nông nghiệp, 2005, tr 108.

154
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Nhìn chung, trong những năm cuối thế kỷ XIX, chính quyền
thực dân Pháp chưa quan tâm nhiều tới phát triển đê điều, thủy lợi
vì chúng còn phải tập trung vào đàn áp các cuộc khởi nghĩa chống
Pháp của nhân dân Việt Nam. Vốn đầu tư cho nông nghiệp, trong
đó có đê điều còn rất hạn chế, khoảng 10% tổng số vốn đầu tư vào
Đông Dương trong giai đoạn từ 1859 đến 19021. Ở Bắc Kỳ và Trung
Kỳ, chưa có kế hoạch đắp đê quy mô lớn nào được triển khai. Việc
sửa chữa, bồi trúc một số đoạn đê chỉ được làm theo từng vụ lũ, quy
mô, khối lượng còn rất nhỏ. Nguồn lực chủ yếu lấy từ tiền thuế thu
được của người dân, lực lượng lao động chính là dân phu người
Việt do Pháp trưng tập theo chế độ lao dịch, lao động hoàn toàn thủ
công. Chính vì vậy, đê điều trong những năm cuối thế kỷ XIX chưa
có gì chuyển biến hơn so với thời Nguyễn. Đê sông Hồng tại Hà Nội
mới chỉ đảm bảo chống lũ ở mức +9m. Tình hình đó dẫn đến lũ lụt,
vỡ đê liên tiếp xảy ra, tàn phá mùa màng, tài sản, gây ra cảnh điêu
đứng, đói khổ cho người dân.

1
Jean Pierre Aumiphin, La présence financière et économique Française en Indochine
(1859-1939), Maison des Statiques du Viet Nam, 1996, tr.83.

155
Chương 4 :

GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN CÁC DỰ ÁN ĐẮP ĐÊ QUY MÔ LỚN ...

Ở VIỆT NAM TRONG 30 NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ


Năm 1897, về cơ bản thực dân Pháp đàn áp được các cuộc khởi
nghĩa vũ trang của nhân Việt Nam, quá trình bình định quân sự cơ
bản hoàn thành. Từ đó chính quyền thuộc địa Pháp triển khai các
chương trình khai thác thuộc địa đại quy mô: lần thứ nhất (1897 - 1914)
và lần thứ hai (1919 - 1929).
Trong hai cuộc khai thác thuộc địa đại quy mô này, cùng với
đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, xây dựng các công trình công
cộng thì chính quyền thuộc địa, tư bản tư nhân Pháp tăng cường
đầu tư xây dựng nhiều trung tâm công nghiệp, khu đồn điền nông
nghiệp, đô thị hiện đại. Số lượng người Pháp ở Việt Nam ngày
càng đông đảo, như ở Hà Nội, Nam Định, Bắc Ninh.... Ở Đồng
bằng sông Hồng, nhiều đồn điền của người Pháp được thiết lập,
như đồn điền trồng lúa ở Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam, Thái
Nguyên, Bắc Giang, Yên Bái, Phúc Yên; đồn điền chè ở Thanh
Hóa, Nghệ An, Phú Thọ.
Đây là những khu vực luôn đối mặt với tình trạng lũ lụt. Để bảo
vệ các cơ sở kinh tế của người Pháp, trung tâm đô thị quan trọng,
đảm bảo sự phát triển kinh tế, duy trì ổn định xã hội, chính quyền
Pháp đã tăng cường đầu tư, đẩy mạnh đắp đê, phòng chống lũ lụt
ở đồng bằng Bắc Kỳ.
Đây cũng là giai đoạn đường lối cai trị của Pháp có sự thay đổi
về nhận thức, từ quan điểm khai thác, bóc lột triệt để sang cai trị
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

khôn khéo bằng chính sách cộng tác với chính quyền và nhân dân
bản xứ. Ngay khi tới Việt Nam, Toàn quyền Đông Dương Albert
Sarraut tuyên bố:
“Đông Dương là đứa con gái của Pháp ở Châu Á. Pháp sẽ tăng
cường sức mạnh bảo vệ về vật chất, phẩm giá cho Đông Dương.
Pháp sẽ cho người dân Đông Dương sự an toàn, hạnh phúc, công
bằng, phát triển tri thức, bảo vệ sức khỏe cho họ. Pháp sẽ cộng tác
tự do với họ vì lợi ích chung”1.
Mục đích của tư tưởng cai trị này là xoa dịu sự phản kháng của
người dân Việt Nam bằng việc mở mang giáo dục, xây dựng các
công trình công cộng, đê, kè, cống, thủy lợi để bảo vệ, phát triển sản
xuất và đời sống của người dân, ổn định xã hội, đảm bảo nguồn thu
và sự thống trị lâu dài của Pháp.
Trên cơ sở đường lối cai trị, nhu cầu phát triển kinh tế, bảo vệ
các trung tâm đô thị, khu công nghiệp, vùng đồn điền có nhiều
người Pháp sinh sống và các khu vực đông dân cư, chính quyền
thuộc địa Pháp đã triển khai nhiều chương trình đắp đê, đào, nạo
vét kênh rạch quy mô lớn, có thể nói là lớn nhất trong hơn 80 năm
thống trị của Pháp ở Việt Nam.

II. DUY TRÌ, CỦNG CỐ ĐÊ - BIỆN PHÁP QUAN TRỌNG NHẤT ĐỂ CHỐNG LỤT, SỰ THAY
ĐỔI NHẬN THỨC VÀ NHỮNG DỰ ÁN ĐẮP ĐÊ QUY MÔ LỚN Ở BẮC KỲ
Người ta nói, nhận thức là một quá trình, tuy nhiên chính
quyền thuộc địa và các chuyên gia chống lụt của Pháp đã dành
quá nhiều thời gian để nhận thức về tầm quan trọng của các tuyến
đê trong việc phòng, chống lũ lụt, bảo vệ sản xuất và tính mạng
của người dân. Điều mà ông cha ta đã có hàng trăm năm, thậm chỉ
cả nghìn năm kinh nghiệm, trao truyền qua nhiều thế hệ. Nhưng
người Pháp thì không tin hoặc không muốn tin vào điều đó, mặc
cho dư luận người dân phản đối việc bỏ đê ở Bắc Kỳ.
1
Patrice Morlat, Indochine années vingt: le balcon de la France sur le Pacifique (1918-
1928). Une page de l’histoire de France en Extrême-Orient, Les Indes savantes, tr.45.

157
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Sau những tranh cãi trong những năm cuối thế kỷ XIX và gần
hai thập kỷ đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa và các chuyên
gia trị thủy của Pháp vẫn còn bàn lui, tính tới việc bỏ đê hay giữ
đê. Chính cuộc bàn cãi không có hồi kết này đã không tạo ra được
sự thống nhất trong quan điểm chỉ đạo của chính quyền thuộc
địa trong việc đắp đê. Và vì thế, từ năm 1897 đến năm 1915, chính
quyền thuộc địa chỉ thực hiện được một vài phương án trị thủy,
như: sửa chữa, bồi trúc đê, phân lũ, nhưng còn nhỏ giọt, bị động và
tỏ ra lúng túng. Công việc chủ yếu là đắp, gia cố theo mùa lũ, chưa
có quy hoạch cụ thể và chưa có một chương trình đắp đê nào quy
mô lớn. Gautier - Giám đốc Sở Thủy lợi Đông Dương thừa nhận:
“Trước năm 1915, không có bất cứ một dự án đắp đê nào lớn được
thực hiện ở Bắc Kỳ”1.
Thực tế đó khiến phần lớn các tuyến đê ở đồng bằng Bắc Kỳ
khá thấp, yếu và không có khả năng chống được lũ lớn. Nạn vỡ đê,
lụt lội vì thế liên tiếp xảy ra. Theo thống kê, từ năm 1909 đến năm
1930 có 30 trận bão lớn đổ bộ vào Bắc Kỳ, gây mưa lớn và ngập lụt
trên phạm vi rộng. Đặc biệt là các trận bão, lũ năm 1909, 1911, 1913,
1915, 1926 và 1929. Năm 1913, mưa lớn, lũ lên cao, đê sông Đuống,
sông Hồng, sông Đáy bị vỡ, gây thiệt hại lớn gấp nhiều lần trận lũ
năm 1911, hơn 100.000ha lúa mất trắng, nhà cửa, ruộng vườn, tài
sản của người dân bị lũ cuốn trôi.
Tháng 7 năm 1915, mưa lớn dài ngày gây ra trận lũ kinh hoàng,
nhiều tuyến đê sông Hồng, sông Cầu, sông Đuống, sông Cà Lồ,
sông Trà Lý bị tràn và vỡ. Riêng đê sông Hồng bị vỡ 48 đoạn, với
tổng chiều dài đê bị vỡ lên tới 4,2km, nặng nhất là đoạn vỡ ở Xâm
Thị 650m, Liên Mạc 550m, Việt Trì 720m2. Nước lũ cuốn trôi nhà cửa,
tàn phá mùa màng, hơn 200 người bị chết đuối, 221.000ha lúa bị mất
trắng, gây ra cảnh đói kém, bệnh dịch. Thiệt hại ước tính lên tới 7
triệu đồng bạc Đông Dương. Một bộ phận lớn dân cư các tỉnh đồng
1
J. Gauthier, Digues du Tonkin, Imprimerie d’Exmtrême-Orient, Hanoi, 1930, tr.59.
2
Pétayvin, La crue du fleuve Rouge et les inondations du Tonkin en 1915,…sđd, tr. 19.

158
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

bằng Bắc Kỳ, đặc biệt là các tỉnh Hà Nội, Hà Đông, Ninh Bình và
Nam Định, Thái Bình phải phiêu dạt khắp nơi.
Trận lụt gây vỡ đê và hậu quả thảm hại của nó xảy ra năm 1915
làm cho chính quyền thuộc địa và các nhà chuyên môn của Pháp
hoang mang, lúng túng. Người đứng đầu chính quyền Liên bang
Đông Dương và xứ Bắc Kỳ phải triệu tập các chuyên gia công chính,
trị thủy để bàn cách giải quyết vấn đề chống lụt ở Bắc Kỳ.
Về cơ quan quản lý và chỉ đạo xây dựng đê điều, năm 1905, Toàn
quyền Đông Dương cho thành lập Tổng Nha Công chính Đông
Dương (Direction générale des Travaux publics de l’Indochine), trụ
sở đặt tại phố Hàng Tre (Hà Nội). Năm 1911, chính quyền Đông
Dương cho thành lập Ban Tổng Thanh tra Công chính Đông Dương
(Inspection générale des Travaux publics de l’Indochine) để thay thế
cho Tổng Nha Công chính Đông Dương. Cơ quan này có chức năng
quản lý và phân bổ vốn xây dựng, phê duyệt kế hoạch liên quan tới
giao thông, đê điều, thủy lợi. Năm 1915, Toàn quyền Đông Dương
cho thành lập Hội đồng tư vấn Thủy nông và Chống lụt ở Bắc Kỳ
(Commission consultative pour l’Hydraulique agricole et la Défense du
Tonkin contre les inondations) nhằm đẩy mạnh quy hoạch, nghiên
cứu tìm ra các giải pháp cho việc đắp đê, trị thủy, phòng chống lũ,
lụt. Ủy ban này tập hợp nhiều kĩ sư công chính, chuyên gia trị thủy
trong chính quyền thuộc địa.
Việc thiết lập các cơ quan chuyên môn chuyên trách việc đê
sông đóng vai trò quan trọng, góp phần thúc đẩy nghiên cứu, tìm
phương án chống lũ, triển khai các đợt đắp đê quy mô lớn vào năm
1924, 1926 - 1927. Từ sau năm 1915, việc đầu tư vốn cho đắp đê, xây
kè, đập và cống được ưu tiên hơn trước. Hằng năm, trong ngân sách
Liên bang, ngân sách cấp xứ và tỉnh đều có khoản dành cho thủy
nông và đắp đê, kè, cống. Các khoản ngân sách này một phần trích
ra từ các loại thuế thu được của người dân, từ các khoản vay lãi của
Chính phủ Pháp. Việc đầu tư vốn góp phần quan trọng tạo bước
phát triển mới cho tu bổ, đắp, nâng cấp, củng cố đê, kè, cống ở thời
kỳ thuộc địa.
159
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Sau trận vỡ đê gây lũ lụt diện rộng, các chuyên gia trị thủy
Pháp đề xuất nhiều phương án chống lụt ở Bắc Kỳ. Theo Peytavin,
để trị thủy ở đồng bằng Bắc Kỳ cần thực hiện kết hợp nhiều biện
pháp, như trồng và duy trì tình trạng tốt của rừng ở thượng nguồn;
xây dựng hồ chứa ở thượng lưu những con sông lớn để tích nước,
cắt lũ; tiêu một phần lũ từ sông Đà sang sông Mã; tôn cao các tuyến
đê chính để có thể chống chịu được những trận lũ cao bất thường;
khơi sâu, mở rộng lòng sông; xây dựng các đập có cửa đóng mở để
điều tiết lũ cho vùng hạ du; mở rộng cửa sông để thoát lũ nhanh1.
Có thể nói, phương án đề xuất của Peytavin khá toàn diện và có
cơ sở khoa học, nhưng đáng tiếc đề xuất này bị chính quyền thuộc
địa bác bỏ với lý do điều kiện phương tiện kĩ thuật không cho phép,
chi phí xây dựng vượt quá khả năng ngân sách của chính quyền
thuộc địa.
Theo lý giải của Gautier, việc đắp đập, xây hồ chứa trong
những thung lũng ở vùng thượng lưu sông Đà, sông Hồng, sông
Lô có thể thực hiện được. Hồ chứa là công cụ điều hòa nguồn nước
và điều tiết lưu lượng lũ vào mùa mưa. Tuy nhiên, để xây dựng hệ
thống hồ chứa phải cần một nguồn tài chính rất lớn. Bên cạnh đó,
việc xây dựng các đập ngăn sông ở vùng thượng du là vô cùng khó
khăn, vì nước lớn lại chảy xiết và lũ thì thường kéo dài2. Gautier
tính toán rằng:
“Để giảm một mét nước lũ trên sông Hồng ở Hà Nội trong
sáu ngày cần tích 1,7 tỷ m3 nước ở thượng lưu. Để tích được khối
lượng nước này, số lượng và quy mô các đập cần xây dựng sẽ lớn
gấp hơn tất cả những công trình hiện có. Chi phí để xây dựng nó
là vô cùng lớn”3.
Về phương án xây dựng đập ngăn sông để điều tiết lũ, chính
quyền thuộc địa đã cho thử nghiệm phương án này từ năm 1895,
1
Peytavin, La crue du fleuve Rouge et les inondations du Tonkin en 1915,… sđd, tr. 43.
2
J. Gauthier, Digues du Tonkin,… sđd, tr.31.
3
J. Gauthier, Digues du Tonkin,… sđd, tr.31.

160
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

trên sông Cà Lồ, nhưng thất bại. Cửa sông Cà Lồ bị lấp năm 1900 để
giảm lũ cho vùng trũng thuộc Vĩnh Yên, Phúc Yên, nhưng việc lấp
cửa sông Cà Lồ lại làm tăng lưu lượng nước sông và làm tăng thêm
gánh nặng cho đê sông Hồng. Năm 1916, cửa sông Cà Lồ được mở
lại, người Pháp đã cho xây dựng ở vị trí đó một đập với hơn 20 cửa
để điều tiết lũ cho vùng hạ du. Tuy nhiên, đập này sau đó đã không
chịu nổi sức mạnh của lũ, và bị lũ cuốn trôi.

Hình 3. Đập trên sông Cà Lồ có chức năng điều tiết giảm lũ cho hạ du1
Sau thất bại của kế hoạch do Peytavin đề xuất, năm 1917, kĩ
sư trưởng của Sở Công chính Đông Dương khi đó là Normandin
đã yêu cầu chính quyền thuộc địa cho phép xây dựng một số khu
chứa nước làm chậm lũ ở Phú Thọ, Sơn Tây, Phúc Yên. Đặc biệt, ông
ta đề xuất phương án xây dựng hồ sông Năng và một đập điều tiết
lũ ở cửa sông Đáy. Tổng kinh phí dự tính cho các công trình này là
khoảng 8 triệu đồng bạc Đông Dương.
Một vài thử nghiệm ban đầu theo kế hoạch của Normandin
cuối cùng cũng thất bại. Chính quyền thuộc địa khi đó tỏ ra lúng
túng và thực sự không tìm ra được một biện pháp hiệu quả để
giải quyết nạn vỡ đê, lũ lụt ở đồng bằng Bắc Kỳ. Chính vì thế, từ
năm 1915 đến năm 1923, trên thực tế không có một kế hoạch đắp

1
J. Gauthier, Digues du Tonkin, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1930, tr.34

161
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

đê lớn nào được thực hiện. Công việc chủ yếu vẫn là đối phó bị
động, sửa chữa, tu bổ đê theo mùa lũ. Phần lớn hệ thống đê ở
Bắc Kỳ còn yếu và thấp, không có khả năng ngăn được lũ lớn, lũ
bất thường.
Tháng 7 năm 1924, mưa lớn, nước các sông ở Bắc Kỳ lên cao,
mặc dù không lớn nhưng cũng làm vỡ nhiều đoạn đê sông Hồng
ở Phú Thọ, Phi Liệt (Hưng Yên), đê sông Đuống ở Kinh Phố (Bắc
Ninh), đê sông Luộc ở Hải Dương, thiệt hại ước tính khoảng 9
triệu đồng bạc Đông Dương1. Sau nhiều đề xuất các biện pháp
tổng thể mà không thể thực hiện được từ sau năm 1915, đến năm
1924 người Pháp tin vào một giải pháp duy nhất để chống lũ lụt
cho đồng bằng Bắc Kỳ là tôn cao, đắp dày, gia cố vững chắc hệ
thống đê, cải tạo hệ thống cống dưới đê. Mục đích của việc này là
làm sao đê không bị tràn và vỡ. Nhận thức đúng đắn về tầm quan
trọng của đê đưa đến các đợt đắp đê quy mô lớn vào năm 1924,
đặc biệt là năm 1926, 1927.
Ngay sau mùa lũ năm 1924, một kế hoạch nâng cấp hệ thống
đê chính ở Bắc Kỳ được thông qua, mục tiêu của chương trình này
tăng cường năng lực chống lũ của hệ thống đê bằng cách tôn cao
mặt đê thêm 1 m, để có thể chống chịu hiệu quả mực lũ 12,50m ở
Hà Nội. Củng cố chân đê, chiều rộng mặt đê cần đạt 5m. Mái đê
cần phải phủ đất sét dày 1m để chống thấm nước và xói mòn. Chỉ
tính riêng trong năm 1924, khối lượng đất đá đào đắp cải tạo đê ở
Bắc Kỳ đạt 4,5 triệu m3.
Năm 1926, bão gây mưa lớn, lũ lên cao tới 11,92m ở Hà Nội. Đây
là mực lũ cao nhất kể từ trước đến năm 1926. Hầu hết các tuyến đê
chính ở Bắc Kỳ đều bị tràn hoặc vỡ: đê sông Hồng vỡ ở Gia Quất, Ái
Mộ và Lâm Du (Hà Nội); đê sông Luộc vỡ ở Hạ Lao, Vàm Quán (Thái
Bình), Đô Dương (Hải Dương); đê sông Tiên Lãnh vỡ ở Tuy Lai, An
Xá. Gần như các tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ bị nhấn chìm trong nước lũ,
nhiều tuyến đường sắt và giao thông huyết mạch bị sạt lở, phần lớn
1
Phan Khánh (Cb), Lịch sử Thủy lợi Việt Nam,…sđd, tr.228.

162
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

diện tích lúa và hòa màu bị mất trắng. Thiệt hại ước tính do lũ lụt và
vỡ đê gây ra năm 1926 khoảng 20 triệu đồng bạc Đông Dương.

Hình 4. Chính quyền Pháp chỉ đạo đắp đê con trạch trên đê sông Hồng ngăn lụt
ở Hà Nội năm 19261

Hình 5. Công trường đắp đê hữu ngạn sông Hồng bị vỡ ở Gia Quất
do lũ năm 19262

1
J. Gauthier, Digues du Tonkin, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1930, tr.111.
2
J. Gauthier, Digues du Tonkin, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1930, tr.48

163
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Để giải quyết hậu quả trước mắt và phòng chống lũ lụt lâu dài,
Thống sứ Bắc Kỳ đã yêu cầu Pouyanne (Tổng thanh tra Công chính
Đông Dương) cần thực hiện hai nhiệm vụ. Trước tiên cần đắp lại
những đoạn đê bị vỡ trong thời gian ngắn nhất. Thứ hai cần xây dựng
một chương trình đắp đê dài hạn khắp Bắc Kỳ1. Tiếp đó, tháng 8 năm
1926, Thống sứ Bắc Kỳ triệu tập một cuộc họp bàn cùng các kĩ sư công
chính phụ trách đê điều để nghe trình bày chương trình đắp đê mới.

Hình 6. Mực nước xấp xỉ mặt đê hữu sông Hồng tại Hà Nội
trong trận lũ tháng 7 năm 19262

Hình 7. Một đoạn đê sông Hồng trong trận lũ tháng 7 năm 19263

1
J. Gauthier, Digues du Tonkin,… sđd, tr.63.
2
J. Gauthier, Digues du Tonkin, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1930, tr.18
3
J. Gauthier, Digues du Tonkin, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1930, tr.21

164
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Trên cơ sở mức lũ đạt đỉnh tháng 7 năm 1926, Lemai (kĩ sư trưởng)
và Auphelle (Giám đốc sở Công chính) đã đề xuất một chương trình
đắp đê mới với quy mô lớn hơn chương trình đắp đê năm 1924. Vấn
đề quan trọng nhất được đưa ra là phải tôn cao đê hơn mức yêu cầu
của chương trình năm 1924 để có khả năng chống chọi được lũ lớn.
Việc tôn cao phụ thuộc vào vai trò, tầm quan trọng của từng tuyến đê.
Theo thống kê của chính quyền thuộc địa, ở Bắc Kỳ khi đó có
bảy hệ thống đê sông chính: sông Hồng, sông Đuống, sông Đáy,
sông Phó Đáy, sông Luộc, sông Trà Lý và sông đào Nam Định. Đê
sông ở Bắc Kỳ được chia thành hai hạng: đê hạng I có chiều cao từ
4m đến 8m, bảo vệ những vùng rộng lớn; Đê hạng II có chiều cao
từ 2,5m đến 4m, bảo vệ những khu vực hẹp hơn. Theo đánh giá
của các kĩ sư Pháp thì có 840km đê cần cải tạo, tôn cao, trong đó có
434,7km đê hạng một và 404,6km đê hạng hai1.

Hình 8. Thay đổi độ cao, chiều rộng của đê sông Hồng qua các chương trình củng cố đê của
chính quyền thuộc địa từ năm 1883 đến năm 19302
Từ việc đánh giá tầm quan trọng của mỗi tuyến đê, trên cơ sở mực
lũ tháng 7 năm 1926, chính quyền thuộc địa đã đưa ra một chương
trình cải tạo đê với quy mô lớn, mục tiêu quan trọng nhất là tôn cao đê

1
J. Gauthier, Digues du Tonkin,… sđd, tr.66.
2
J. Gauthier, Digues du Tonkin, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1930, tr.72.

165
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

sông Hồng thêm 1,3 m, để có thể chống chịu được với lũ cao 13,30m ở
Hà Nội. Các tuyến đê sông nhánh của sông Hồng phải được tôn cao
thêm 0,6m. Bên cạnh đó, các kĩ sư trị thủy Pháp còn đề xuất tiếp tục mở
rộng đê để tăng cường sự vững chắc và chống nước tràn qua đê. Về cơ
bản, đê sông Hồng đã được mở rộng và đạt 7m, mái đê được đắp dày
thêm 2m, phủ đất sét, đầm chắc để chống xói lở, thấm nước.
Chương trình đắp đê 1926 – 1927, người Pháp chia đê làm hai
hạng: hạng I là đê sông cái, lớn; hạng II là đê sông chi lưu, sông nhỏ
để tổ chức sửa đắp. Từ năm 1926, một số máy móc đầm, nén và lu đã
được sử dụng vào việc cải tạo đê, đặc biệt là máy lu chạy bằng hơi
nước và bằng xăng được sử dụng để gia cố mặt đê, phủ nén một lớp
đất sét dày trên mái đê nhằm bảo vệ đê không bị xói mòn và chống
thấm nước. Số máy lu tăng từ 20 máy lên 53 máy vào năm 1927.
Chỉ tính riêng việc tôn cao và đắp dày thêm mái đê năm 1926, khối
lượng đào đắp lên tới 21,5 triệu m3, với tổng chiều dài là 520km. Chi
phí cho cải tạo, tôn cao đê lên tới 22,7 triệu đồng bạc Đông Dương1.

Hình 9. Sử dụng máy lu gia cố mặt đê trong giai đoạn 1927 -19282
Trong quá trình nâng cấp, tôn cao hệ thống đê sông chính,
người Pháp nhận thấy cần gia cố đê sông Hồng ở những đoạn cua

1
J. Gauthier, Digues du Tonkin,… sđd, tr.64.
2
J. Gauthier. J, Digues du Tonkin, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1930, tr.75.

166
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

bằng việc kè đá. Vì tại những điểm này, đê thường bị lũ xói vuông
góc, tiềm ẩn nhiều nguy cơ bị rò rỉ, xói mòn và vỡ, như đoạn cua ở
Phương Trà, Như Trác (Hà Nam), Cổ Liêu, Vĩnh Xuân ở Phú Xuyên
(Hà Đông, nay thuộc Hà Nội). Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa
đã cho kè đá tại những điểm cua xung yếu để bảo vệ chân đê.
Từ năm 1929, chính quyền Pháp còn cho đắp một số đê mới
đằng sau đê cũ để bảo vệ sự an toàn cho vùng trong đê trong trường
hợp khẩn cấp. Theo chương trình năm 1929, chính quyền thông qua
khoản ngân sách 2,7 triệu đồng bạc để đắp mới 30km đê. Nhưng,
ngay trong năm đó, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra, ngân
sách của chính quyền thuộc địa Pháp gặp nhiều khó khăn.
Do ngân sách bị cắt giảm so với ban đầu nên trên thực tế chỉ có
ba đoạn đê được đắp mới ở Như Trác, Phương Trà và Vũ Điện (Hà
Nam) với tổng chiều dài 9km1. Hệ thống cống dưới đê cũng được
đầu tư nâng cấp hoặc xây mới, tuy nhiên cũng mới chỉ xây được một
vài cống. Phần lớn các cống dưới đê xây dựng từ thời Nguyễn hoặc
đầu thời kỳ thuộc địa bị xuống cấp nghiêm trọng nhưng chưa được
sửa chữa, nâng cấp, tiềm ẩn nhiều nguy hiểm.

Hình 10. Xây lại một cống dưới đê hữu sông Trà Lý (Thái Bình)

1
J. Gauthier, Digues du Tonkin,… sđd, tr.85.

167
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Nhìn một cách tổng thể, từ năm 1915, việc đắp, cải tạo, nâng
cấp đê, đặc biệt là đê thuộc hệ thống sông Hồng được chính quyền
thuộc địa quan tâm đầu tư. Điều này thể hiện rõ nhất qua tổng khối
lượng đất, đá đào đắp và kè. Nếu như trước năm 1915, khối lượng
đất đá đào đắp trung bình chỉ khoảng hơn 20 triệu m3/năm, thì từ
năm 1915, khối lượng đào đắp đã tăng đều đặn qua các năm, đặc
biệt tăng nhanh chóng từ năm 1926 với chương trình nâng cấp, tôn
cao mặt đê, đắp dày thân đê, mở rộng mái đê trên các tuyến đê
chính thuộc hệ thống sông Hồng. Vào năm 1928, tổng khối lượng
đào đắp đạt 63,2 triệu m3, gấp 2 lần khối lượng năm 1915. Tổng khối
lượng đào đắp trong vòng 15 năm từ 1916 đến 1930 đạt xấp xỉ 700
triệu m3. Đây thực sự là khối lượng công việc rất lớn.
Biểu đồ 1. Khối lượng đất đá đào đắp, cải tạo đê thuộc hệ thống
sông Hồng (1914 - 1930)

[Nguồn: J. Gauthier, Digues du Tonkin,… sđd, tr.110].

Những nỗ lực của chính quyền thuộc địa Pháp đã góp phần
quan trọng củng cố vững chắc đê hệ thống sông Hồng, nâng cao
hiệu quả trong phòng và chống lũ. Trên thực tế, đê sông Hồng đã
chống chọi hiệu quả các trận lũ năm 1928, 1929, đặc biệt là năm 1932,
khi lũ lên tới 11,9 m, chỉ thấp hơn lũ năm 1926 đúng 2cm nhưng
toàn bộ hệ thống đê sông Hồng vẫn an toàn. Đây thực sự là thành
công của người Pháp trong việc đắp đê sông Hồng trong thời kỳ
thuộc địa từ sau năm 1926.

168
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Tuy nhiên, trong khi đê sông Hồng được củng cố vững chắc thì
đê hệ thống sông Thái Bình lại không được đầu tư và chú ý đúng
mức. Nguyên nhân có thể do đánh giá hệ thống đê sông Thái Bình
không quan trọng bằng đê sông Hồng. Trên thực tế, trong 840km đê
sông cần cải tạo, tôn cao theo chương trình công bố năm 1926, thì
không có đê thuộc hệ thống sông Thái Bình.

Hình 11. Bản đồ hệ thống đê chính ở Bắc Kỳ năm 19301

Đối với đê sông Thái Bình, chính quyền thuộc địa chỉ thực hiện
một số công việc lẻ tẻ, như bồi trúc, tôn cao, hoặc sửa chữa những
đoạn vỡ bằng ngân sách cấp tỉnh. Việc cải tạo cũng chủ yếu được
thực hiện ở những đoạn đê quan trọng nhằm bảo vệ khu vực đặt sở
lỵ của chính quyền cai trị hoặc một số vùng có nhiều đồn điền của
người Pháp, như đê sông Thương ở Phủ Lạng Thương, đê sông Cầu

1
Gauthier. J, Digues du Tonkin, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1930, tr.113.

169
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

ở Thái Nguyên, Bắc Ninh, đê sông Lục Nam. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân khiến đê hệ thống sông Thái Bình nhiều năm
bị vỡ, gây thiệt hại lớn về người và tài sản của nhân dân.

III. NHỮNG DỰ ÁN ĐÀO, NẠO VÉT KÊNH TIÊU ÚNG, THOÁT LŨ QUY MÔ LỚN Ở NAM KỲ
Bước vào đầu thế kỷ XX, nhu cầu đất nhượng của tư bản Pháp
không ngừng tăng nhanh do kinh doanh đồn điền nông nghiệp, đặc
biệt là từ những năm 1920 trở đi, mang lại nguồn lợi lớn cho tư bản
Pháp và tư sản người Việt. Cùng với đó, chính sách di dân từ Bắc Kỳ
và Trung Kỳ vào Nam Kỳ được đẩy mạnh, nhu cầu mở rộng diện tích
canh tác vì thế cũng tăng hơn trước. Kinh tế phát triển, nhu cầu kết
nối giữa các vùng, vận chuyển nông sản, đặc biệt là lúa gạo được đặt
ra cấp thiết hơn trước. Chính vì thế, để đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội ở Nam Kỳ, vấn đề đào, nạo vét kênh rạch ở Nam Kỳ
được chính quyền thuộc địa Pháp coi là công việc “thượng khẩn”.
Tháng 11 năm 1900, chính quyền Pháp đã thông qua chương
trình đào kênh lớn cho toàn Đồng bằng sông Cửu Long. Kế hoạch
này dự kiến thực hiện trong 10 năm, từ 1904 đến 1913, kinh phí đầu
tư mỗi năm gần 2,3 triệu francs. Qua đấu thầu, Công ty Kĩ nghệ
Pháp ở Viễn Đông (Sau đổi tên là Công ty nạo vét và công chính
Pháp) được phép thi công tất cả các công trình nạo vét và đào kênh
ở Nam Kỳ. Việc quy hoạch đào và nạo vét kênh ở Nam Kỳ được
thực hiện phối hợp giữa Sở Công chính và Sở Địa lí. Kế hoạch tập
trung chủ yếu ở các tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng,
Long Xuyên, vì đây là vùng đất đai phì nhiêu, dân cư đông đúc, rất
thuận lợi cho tư bản Pháp lập đồn điền và tuyển mộ nhân công.
Chương trình đào kênh từ 1904 đến 1913 được triển khai qua
bốn giai đoạn chính: Giai đoạn 1904 - 1906, đào kênh Cổ Chiên, Lấp
Vò, cải tạo kênh Măng Thít (gòn gọi là Mân Thít, Mang Thít) và
kênh Ba Xuyên - Thạch Lợi; Giai đoạn 1906 - 1908, đào kênh Hậu
Giang - Long Mỹ, mở rộng kênh Saintnoy; Giai đoạn 1908 - 1910,
đào kênh Phụng Hiệp, Phổ Dương, Ba Rinh, Cái Lớn và một số
kênh khác; Giai 1911 đến 1913, chính quyền thực dân chủ yếu cho
170
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

cải tạo, nạo vét một số kênh, như : Bassắc - Long Mỹ, Sóc Trăng -
Phụng Hiệp, Ba Xuyên - Ô Môn, Hậu Giang - Long Mỹ và đào mới
duy nhất kênh Mỏ Cày ở Bến Tre1. Ngoài sử dụng lao động người
Việt qua chế độ lao dịch, Công ty Pháp còn sử dụng một số máy
móc, tàu cuốc hiện đại mang từ Pháp sang. Tổng khối lượng đào
đắp bằng tàu cuốc trong giai đoạn này lên tới 37,5 triệu m3.
Kết quả đào kênh mới, nạo vét kênh cũ của chính quyền Pháp
trong giai đoạn này góp phần quan trọng thu hút một bộ phận lớn
dân cư từ nơi khác tới vùng này sinh sống, nhiều viên chức và tư
bản Pháp cũng bỏ vốn đầu tư mua đất nhượng lập đồn điền trồng
lúa xuất khẩu. Tuy nhiên, việc đào và nạo vét kênh của chính quyền
Pháp trong giai đoạn này vẫn chỉ tập trung trong những vùng giao
thông thuận lợi, đất đai phì nhiêu, thi công không gặp quá nhiều
trở ngại. Phần lớn những vùng sình lầy, ngập úng, chua, phèn vẫn
chưa được quan tâm cải tạo. Việc đào kênh chưa đáp ứng được nhu
cầu khai hoang, mở rộng diện tích, đặc biệt là nhu cầu đất nhượng
ngày càng tăng của tư bản Pháp.
Năm 1913, chính quyền thuộc địa Pháp triển khai một dự án
đào, nạo vét kênh mới do Công ty Kĩ nghệ Pháp ở Viễn Đông đảm
trách (Société francaise industrielle d’Extrême-Orient). Dự án này
được đề xuất và thông qua trên cơ sở đánh giá tiềm năng khai thác
đất trồng ở các tỉnh miền Tây Nam Kỳ (Đồng bằng sông Cửu Long).
Theo đánh giá của chính quyền Pháp, diện tích lúa có thể tăng từ
1,2 triệu ha lên 2 triệu ha nếu thiết lập và sử dụng hiệu quả các công
trình thủy lợi để tháo nước và làm khô ráo những vùng đất rộng lớn
thường xuyên bị ngập lụt, đặc biệt là vùng sình lầy ở Cà Mau, Đồng
Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên.
Dự án đào kênh mới này được triển khai qua hai giai đoạn: 1914
- 1913 và 1914 - 19222. Tổng kinh phí đầu tư trung bình mỗi năm trong
giai đoạn 1 khoảng 3,2 triệu francs. Từ năm 1914, đầu tư vốn và việc triển
1
Phan Khánh, Nam Bộ 300 năm làm thủy lợi,…sđd, tr 110.
2
L. Constantin, L’hydraulique agricole en Cochinchine, Éveil économique, N0 70,
12 octobre 1918, tr 10.

171
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

khai đào, nạo vét kênh bị giảm sút và chậm lại do cuộc Chiến tranh thế
giới lần thứ Nhất bùng nổ và kéo dài mãi tới năm 1918, một phần nhân
lực và vật lực của Việt Nam bị chính quyền Pháp huy động cho nước
Pháp. Mặc dù vậy, đến năm 1918, việc đào, nạo vét kênh của Pháp ở
Nam Kỳ cũng đã đạt được một số kết quả quan trọng. Tính riêng khối
lượng nạo, vét kênh đến 1918 đạt 75 triệu m3, với tổng chi phí lên tới 40
triệu francs. Chính quyền Pháp đã nạo vét (không tính đào mới) được
453km kênh chính (rộng hơn 40m), 1.620km kênh hạng hai (rộng từ 18
đến 20m)1. Tính chung cả nạo vét và đào mới, khối lượng trung bình mỗi
năm tăng lên nhanh chóng, từ 824.000m3 giai trong đoạn 1890 - 1900 lên
2.750.000m3 trong giai đoạn 1900 - 1910 và 6.610.000m3 trong giai đoạn
1910 - 19202. Một số kênh quan trọng được đào mới, cải tạo trong giai
đoạn 1913 - 1918, như: kênh Sóc Trăng - Bố Thảo (1914 - 1915), kênh Bảo
Định (1915), rạch Ba Rai (1917), kênh Ô Môn - Thị Đôi (1917 - 1918), kênh
Phổ Dương, Trà Long (1917), kênh Sóc Trăng - Phụng Hiệp (1917), kênh
Kế Sách - Phụng Hiệp, kênh Tổng đốc Lộc (1918)3.
Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất kết thúc, đặc biệt là
từ năm 1924, kinh tế các nước tư bản và kinh tế Pháp được phục
hồi và phát triển nhanh chóng. Trên thị trường thế giới, giá nông
sản, đặc biệt là lúa gạo và cao su tăng nhanh. Khai thác nông
nghiệp chính vì thế hứa hẹn nhiều tiềm năng. Tư bản Pháp, địa
chủ và tư sản Việt Nam đổ xô đầu tư vào nông nghiệp, mua đất
lập đồn điền. Nhu cầu về đất nhượng vì thế tăng lên chóng mặt,
tạo ra một cơn sốt đất nhượng ở Nam Kỳ. Việc phát triển hạ tầng
giao thông, đặc biệt là thủy lợi, trong đó có việc đào, nạo vét kênh
rạch, khơi dòng thoát lũ, mở rộng diện tích đất canh tác được đặt
ra bức thiết ở Nam Kỳ.
Năm 1924, Thống đốc Nam Kỳ chỉ ra rằng, việc mở rộng diện
tích canh tác ở Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có thể được đảm bảo
khi mà hệ thống kênh cấp một được kết nối với hệ thống kênh cấp
1
L. Constantin, L’hydraulique agricole en Cochinchine,...sđd, tr. 11.
2
P. Cordemoy, L’aménagement hydraulique de la Cochinchine, Bulletin de
l’Agence économique de l’Indochine, N0 51, mars 1932, tr. 86.
3
Phan Khánh, Nam Bộ 300 năm làm thủy lợi,…sđd, tr. 110, 113 và 117.

172
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

hai và cấp ba để thoát nước, tiêu chua, rửa phèn ở những vùng đất
bị úng lụt, nhiễm chua phèn. Chính quyền Nam Kỳ xác định, đó là
biện pháp quan trọng hàng đầu “giúp Nam Kỳ sẽ có bước nhảy vọt về
kinh tế, sự giàu có sẽ tăng gấp đôi”1.
Từ năm 1924, chính quyền thuộc địa tập trung đào mới, nạo vét
kênh cũ ở vùng miền Tây sông Hậu, từ Châu Đốc đến Long Xuyên;
vùng Rạch Giá - Hà Tiên; vùng giữa hai sông Tiền và sông Hậu.
Đây là những vùng đất đai rộng lớn, có nhiều tiềm năng phát triển
nông nghiệp, nhưng thường xuyên bị ngập lụt do lũ từ sông Hậu
tràn xuống, đặc biệt là tình trạng nhiễm mặn, chua, phèn. Việc đào
mới, nạo vét kênh, rạch cũ được đánh giá là phương án tối ưu nhằm
thoát lũ một cách nhanh nhất từ các vùng này ra biển Hà Tiên, đồng
thời kết hợp chức năng tưới và giao thông thủy.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ Nhất (1918) đến năm 1930 là
giai đoạn chính quyền Pháp đầu tư, triển khai đào và nạo vét kênh
có quy mô lớn nhất ở Nam Kỳ trong suốt hơn 80 năm thống trị, khối
lượng đào đắp bằng tàu cuốc trung bình mỗi năm đạt gần 7,3 triệu
m3, gấp 2,5 lần trung bình năm giai đoạn 1900 - 1910 và tăng 600
nghìn m3 so với trung bình mỗi năm của giai đoạn 1910 - 1920. Một
số kênh được nạo vét, cải tạo trong giai đoạn này, như: kênh Sóc
Trăng - Phụng Hiệp (1921, 1924, 1928), kênh Tiếp Nhật, Ông Ray,
Ô Môn, Xẻo Vọng (1923 - 1931), kênh Tổng đốc Lộc (1921 - 1924),...
Về kênh được đào mới trong giai đoạn này phải kể tới kênh Cái
Lớn (1925 - 1926), kênh Ba Rinh (1925) và đặc biệt quan trọng nhất là
kênh Rạch Giá - Hà Tiên. Hệ thống kênh Rạch Giá - Hà Tiên chính
thức được khởi công xây dựng vào đầu năm 1926. Việc thi công tiến
hành trong điều kiện khó khăn về giao thông, thiếu nước uống,
muỗi và rắn độc đe dọa. Kênh chính chạy song song với bờ biển Tây
dài 81km, sâu từ 3,5 đến 3,8m. Tổng khối lượng đào đắp kênh chính
lên tới 7,2 triệu m3.
1
Gouvernement de la Cochinchine, Discours prononcé par Blanchard de la Brosse
(Gouverneur de la Cochinchine), à l’ouverture de la session ordinaire du Conseil colonial,
16 aout 1927, Saigon, 1928, tr.27.

173
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Từ kênh chính, người Pháp cho đào bốn kênh nhánh, gồm:
kênh Bà Thê, Tri Tôn, Hà Giang và kênh Tám Ngàn. Bốn kênh này
có chức năng tháo nước ở vùng trũng ra biển, đồng thời lấy nước
từ sông Hậu và kênh Vĩnh Tế để thau chua, rửa phèn và cung cấp
nước tưới vào mùa khô, chia lũ sông Hậu vào mùa mưa. Những
kênh nhánh này rộng từ 26 đến 28m, sâu từ 2,5 đến 3,8m, trong đó
kênh Bà Thê dài 40km, kênh Tri Tôn dài 31km1. Tổng khối lượng
đào đắp kênh nhánh lên tới 22 triệu m3.
Hệ thống kênh Rạch Giá - Hà Tiên về cơ bản được hoàn thành
vào năm 1930, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc thoát
lũ, thau chua, rửa phèn, mở rộng diện tích canh tác và kết nối giao
thông thủy ở vùng Tứ giác Long Xuyên. Sau khi kênh được hoàn
thành, cư dân kéo đến sinh sống và định cư hai bên bờ kênh ngày
một đông đúc, việc vận chuyển hàng hóa, buôn bán thuận lợi hơn
trước, đặc biệt là giao thông thủy từ vịnh Thái Lan về Sài Gòn và
ngược lại được đảm bảo thông suốt.
Đến năm 1930, tổng chiều dài kênh chính, kênh cấp hai và cấp
3 ở Nam Kỳ đạt 1.790km2, phần lớn được đào trong giai đoạn 1918
- 1930. Người Pháp đánh giá, chỉ tính riêng khối lượng bùn đất nạo
vét kênh đã gấp nhiều lần khối lượng đào đắp kênh đào Suez3.
Biểu đồ 2. Chiều dài kênh chính, kênh cấp hai và cấp ba ở Nam Kỳ (1880 - 1930)

[Nguồn: P. Cordemoy, L’aménagement hydraulique de la Cochinchine,


Bulletin de l’Agence économique de l’Indochine, N0 51, mars 1932, tr. 87].

1
Phan Khánh, Nam Bộ 300 năm làm thủy lợi,…sđd, tr 111.
2
P. Cordemoy, L’aménagement hydraulique de la Cochinchine,..sđd, tr. 87.
L’équipement de l’Indochine, Revue La Renaissance, N0 27, 27 septembre 1930, tr. 5-7
3

174
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Công cuộc đào và nạo vét kênh, rạch của chính quyền Pháp ở
Nam Kỳ đã tạo ra hệ thống kênh, rạch và đê bao vừa có chức năng
chia lũ, tiêu, thoát lũ, một số kênh rạch còn phục vụ tưới, hoặc tưới
tiêu kết hợp. Hệ thống kênh vừa là mạng lưới giao thông bộ thuận
lợi, thủy bộ kết hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển và
chuyên chở lúa gạo, nông sản của người dân. Đặc biệt, việc đầu tư
phát triển hệ thống kênh rạch đã góp phần quan trọng mở rộng
diện tích canh tác ở Nam Kỳ, tuy nhiên mới thích ứng cho việc mở
rộng và canh tác một vụ lúa mùa, lúa nổi.
Theo Tổng thanh tra Công chính Đông Dương, từ 1886 đến
1925, việc đào và nạo vét kênh rạch đã góp phần trực tiếp mở rộng
được 1,2 triệu ha. Tổng diện tích canh tác ở Đồng bằng sông Cửu
Long vào năm 1929 đạt 2,4 triệu ha, tăng 400.000ha so với năm 1918.
Số diện tích canh tác được mở rộng mỗi năm sản xuất ra khoảng
800.000 tấn thóc, mang lại 80 triệu đồng bạc Đông Dương1. Xuất
khẩu gạo ở Nam Kỳ tăng trung bình mỗi năm 20.000 tấn, tương
đương 2 triệu đồng bạc Đông Dương/năm. Đây thực sự là mối lợi
vô cùng lớn của việc đào và nạo vét kênh ở Nam Kỳ. Các kĩ sư công
chính Pháp thừa nhận rằng: “Công cuộc đào, nạo vét kênh ở Nam
Kỳ đã trực tiếp mang tới nguồn lợi vô cùng to lớn cho ngân sách
thuộc địa”2.

1
Đồng bạc Đông Dương tiếng Pháp là piastre do ngân hàng Đông Dương độc
quyền phát hành. Ngân hàng này thành lập từ năm 1875, là một liên minh tài
chính ngân hàng của tư bản tài chính Pháp ở Paris. Từ thời Toàn quyền Paul
Doumer, chính quyền thuộc địa thực hiện thống nhất đơn vị đo lường diện tích
là héc ta, đồng thời thống nhất tiền tệ, mọi khoản thu thuế, chi tiêu ngân sách
của chính quyền đều tính ra đồng bạc Đông Dương.
2
L’Indochine francaise…sđd, tr.228.

175
Chương 5 :

ĐẮP ĐÊ VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT


TỪ NĂM 1930 ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
...

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ


Đây là giai đoạn công cuộc đắp đê, đào kênh, xây kè, làm cống
của chính quyền thuộc địa Pháp gặp nhiều khó khăn so với giai
đoạn trước đó do những tác động của cuộc đại khủng hoảng kinh
tế thế giới và những biến động chính trị - xã hội ở Việt Nam.
Sau giai đoạn phát triển mạnh mẽ, kinh tế các nước tư bản bắt
đầu rơi vào khủng hoảng trầm trọng từ năm 1929 và kéo dài tới
năm 1933. Cuộc đại khủng hoảng thừa này đã tác động tiêu cực tới
Việt Nam, một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Giá nông
sản, đặc biệt lúa gạo giảm từ 10 đồng/tạ năm 1928 xuống còn từ 3,22
đồng vào năm 1932, 2,30 đồng vào năm 1933 và 1,88 đồng vào năm
19341. Giá cao su xuất khẩu cũng giảm xuống mức chưa từng được
ghi nhận trước đó, từ 1 đồng bạc/kg năm 1928 xuống còn 0,5 đồng/
kg năm 1930 và chạm đáy 0,22 đồng/kg vào năm 19322.
Do nông sản mất giá, hầu hết các điền chủ Pháp phải sản xuất
cầm chừng, thậm chí bỏ hoang ruộng đất, giảm lương, sa thải công
nhân. Nhiều điền chủ cả Pháp và Việt phải bán, cầm cố ruộng đất vì
không có khả năng trả nợ ngân hàng và thuế đất cho chính quyền.
Nhu cầu nhượng đất lập đồn điền của tư bản Pháp cũng vì thế giảm
sút nhanh chóng.
1
Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại Pháp, phông FM, mã hồ sơ NF998: Société de crédit et
situation financière en Indochine.
2
Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại Pháp, phông FM, mã hồ sơ NF997: La situation des
principaux produits d’exportation de l’Indochine.
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Kinh tế khủng hoảng, điền chủ gặp khó khăn, nhiều tư bản
Pháp làm ăn thua lỗ, phá sản đã ảnh hưởng lớn tới nguồn thu của
chính quyền thuộc địa, ngân sách Liên bang và ngân sách các xứ
đều bị cắt giảm. Ngân sách chi cho toàn Đông Dương giảm từ 96,3
triệu đồng bạc Đông Dương năm 1930 xuống còn 58,6 triệu đồng
bạc Đông Dương vào năm 19341. Ngân sách bị cắt giảm đồng nghĩa
với việc đầu tư cho thủy lợi, đê điều cũng giảm.
Vì khủng hoảng kinh tế, việc làm ăn, kinh doanh của điền chủ
và tư bản Pháp bị ngưng trệ, họ không còn “khát” ruộng đất như
trước nữa. Cơn sốt đất nhượng trong những năm 1925-1929 kết
thúc, giá bất động sản lao dốc. Áp lực về phát triển thủy lợi, đắp
đê, khai hoang mở rộng diện tích canh tác của chính quyền thuộc
địa Pháp không còn lớn như trước nữa, điều này đặc biệt đúng với
Nam Kỳ. Trên thực tế, trong những năm 1932 - 1935, hầu như không
có tư bản Pháp nào yêu cầu xin cấp đất nhượng.
Để có thêm nguồn thu ngân sách, chính quyền thuộc địa đã
tăng cường bóc lột, tăng thuế, bắt phu, bắt lính, đàn áp nhân dân.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã lãnh đạo
quần chúng nhân dân đấu tranh chống Pháp mạnh mẽ khắp cả
nước. Phong trào cách mạng 1930 – 1931 phát triển mạnh mẽ nhất ở
các tỉnh Trung Kỳ, đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh trong
những năm 1930 - 1931.
Trước áp lực đấu tranh của nhân dân Việt Nam, chính quyền
thuộc địa một mặt thẳng tay đàn áp, mặt khác cũng cho đắp đê, xây
kè, làm cống, xây dựng một số công trình thủy lợi để phát triển kinh
tế, ổn định xã hội, xoa dịu sự phản kháng của người dân. Điều này
lý giải tại sao, mặc dù trong hoàn cảnh kinh tế, ngân sách gặp nhiều
khó khăn, nhưng chính quyền thuộc địa vẫn cố gắng đầu tư củng
cố đê điều, phát triển thủy lợi, đặc biệt là tập trung ở một số tỉnh,
nơi có phong trào cách mạng bùng nổ mạnh mẽ, quyết liệt.
1
Pagès, La situation économique de la Cochinchine, Bulletin de l’Agence économique
de l’Indochine, N0 83, novembre 1934, tr. 415.

177
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Theo Đạo luật ngày 22 tháng 01 năm 1931, chính quyền thực
dân Pháp đầu tư cho công chính ở Đông Dương tổng số tiền 42,062
triệu đồng bạc Đông Dương, trong đó 9,6 triệu đồng bạc chi cho việc
đắp gia cố đê, kè, cống ở Bắc Kỳ. Còn lại chi cho xây dựng các mạng
lưới thủy nông, như: Kẻ Sặt – Hưng Yên – Nam Bắc Ninh, Bắc Nam
Định và Hà Đông – Phủ Lý, Sơn Tây, Sông Cầu. Ở Bắc Trung Kỳ,
chính quyền thuộc địa đầu tư 8,059 triệu đồng bạc cho cho hệ thống
thủy nông Nam – Bắc Vinh (Nghệ An), 1,639 triệu đồng bạc cho Hà
Tĩnh, 363 nghìn đồng bạc cho hệ thống Sông Chu (Thanh Hóa)1.
Từ năm 1939, tình hình chính trị - xã hội ở Việt Nam luôn trong
trình trạng bất ổn do tác động từ cuộc Chiến tranh thế giới lần Hai
và việc Nhật Bản tiến hành xâm lược Việt Nam từ năm 1940. Ngày 9
tháng 3 năm 1945, quân Nhật làm đảo chính lật đổ Pháp, độc chiếm
cai trị Việt Nam. Từ năm 1939, cao trào cách mạng của nhân dân Việt
Nam dâng cao mạnh mẽ chống lại ách thống trị của Pháp - Nhật.
Trong bối cảnh đó, cả Pháp và Nhật chỉ tập trung vào bóc lột kinh
tế phục vụ cho chiến tranh và tăng cường đàn áp phong trào cách
mạng của nhân dân ta. Việc đầu tư xây dựng và công tác củng cố đê
điều không được quan tâm đầu tư lớn như trước.

II. NÂNG CẤP HỆ THỐNG ĐÊ SÔNG THÁI BÌNH Ở BẮC KỲ, MỘT SỐ ĐÊ SÔNG Ở TRUNG KỲ
(BẮC TRUNG BỘ HIỆN NAY) VÀ HÌNH THÀNH ĐÊ BIỂN Ở NAM KỲ
1. Nâng cấp hệ thống đê sông Thái Bình ở Bắc Kỳ
Ở Bắc Kỳ, sau chương trình đắp đê quy mô lớn trong hai năm
1926 và 1927, đê sông Hồng đã chống chọi hiệu quả với các trận lũ
năm 1928, 1929. Trong khi đê sông Hồng được củng cố tương đối
vững chắc, thì đê sông Thái Bình ít được đầu tư nâng cấp và gia cố.
Đây là nguyên nhân chính khiến đê thuộc hệ thống sông Thái
Bình thường xuyên bị tràn và vỡ, đặc biệt là năm 1929, 1936 và 1937.
Năm 1929, lũ lên cao, nhiều tuyến đê sông Thương, sông Cầu bị vỡ.
1
Congrès de l’outillage public et privé, la France d’outre – mer, Paris, Larosse –
éditeurs, 1937, tr. 308.

178
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Nước lũ nhấn chìm nhiều nhà cửa, 126.000ha lúa mất trắng. Chính
sách cai trị, bóc lột của chính quyền Pháp cùng với nạn vỡ đê, lụt lội,
mất mùa khiến đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã vùng dậy
khởi nghĩa. Năm 1930, quần chúng nhân dân, nông dân huyện Tiền
Hải khởi nghĩa, tấn công chính quyền Pháp và tay sai. Ở Trung Kỳ,
phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh bùng nổ trong năm 1931 - 1931 làm
tê liệt chính quyền cai trị, khiến thực dân Pháp vô cùng lo sợ.
Mặc dù trong bối cảnh khó khăn về tài chính nhưng để xoa dịu
sự phản kháng của nhân dân ta, ổn định tình hình xã hội, chính
quyền Pháp đã quyết định đầu tư một khoản ngân sách tương đối
lớn cho việc xây dựng một số công trình cống, kè, đê ở những vùng
thường chịu thiệt hại lớn do thiên tai, lũ lụt. Ngân sách đầu tư cho
củng cố đê ở Bắc Kỳ tăng từ 1,3 triệu đồng bạc Đông Dương năm 1931
lên 1,5 triệu đồng bạc Đông Dương vào năm 1932. Dự toán chi cho
củng cố đê tiếp tục tăng lên 1,8 triệu đồng bạc Đông Dương vào năm
19331. Tuy nhiên, phần lớn số tiền này chi cho việc củng cố đê thuộc
hệ thống sông Hồng. Trong khi đó, hệ thống đê, cống dưới đê thuộc
sông Thái Bình ngày càng xuống cấp không có khả năng chống chịu
được lũ lớn, các cống dưới đê quá bé để có thể đảm bảo được việc tiêu
thoát lũ nhanh, nguy cơ vỡ đê, lũ lụt luôn thường trực.
Năm 1937, mưa lớn gây ra trận lũ rất lớn và được đánh giá là
lớn nhất kể từ năm 1926 xảy ra trên hệ thống sông Thái Bình. Mực
lũ đo được trên sông Thái Bình cao hơn mực lũ năm 1926 là 0,98cm.
Nhiều tuyến đê thuộc sông Thương, sông Lục Nam và cả sông
Đuống bị vỡ, gây thiệt hại nghiêm trọng. Dư luận Bắc Kỳ khi đó đã
trì trích gay gắt sự sự buông lỏng của chính quyền và Ủy ban Đê
điều và Chống lụt Bắc Kỳ vì đã để xảy ra sự cố vỡ đê. Người đứng
đầu cơ quan phụ trách đê điều Bắc Kỳ phân trần rằng, việc chỉ trích
này thực sự không công bằng với tất cả nỗ lực hết mình của cá nhân
ông ta và chính quyền trong việc đắp đê và chống lụt.

André Touzet, L’économie indochinoise et la grande crise universelle, Paris, 1934, tr. 249
1

179
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

“Trong những giờ phút kinh hoàng và đau đớn của lũ, tôi đã
huy động tất cả các công sứ, quan lại, kĩ sư và nhân viên của Sở
Công chính, lính gác người bản xứ, nhân viên Sở thuế quan, chánh,
phó tổng, chính quyền làng xã, các chủ ruộng và nhân dân, tập hợp
tất cả lực lượng để chống lụt. Họ đã rất dũng cảm, mạnh mẽ”1.
Trong kì họp của Viện Dân biểu Bắc Kỳ năm 1937, vấn đề đê
điều được đưa ra bàn thảo, hai vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất là tại
sao đê thuộc hệ thống sông Thái Bình bị vỡ? Giải pháp nào để ngăn
được nạn vỡ đê, lụt lội?
Về nguyên nhân đê bị vỡ, Simonet, Kĩ sư trưởng của Sở công chính
Bắc Kỳ chỉ ra hai nguyên nhân: thứ nhất, đê sông Thái bình không đủ
độ cao; thứ hai, lũ năm 1937 trên hệ thống sông Thái Bình vượt quá tất
cả mực lũ trên hệ thống sông này được ghi nhận trong lịch sử.
Đại biểu tỉnh Bắc Ninh là Vũ Văn An chỉ trích chính quyền Bắc
Kỳ chỉ quan tâm đầu tư củng cố đê cấp 1, nhưng không mấy quan
tâm tới đê cấp 2, đây là nguyên nhân trong mấy năm vừa rồi, đê
sông Cầu, sông Đuống liên tiếp bị vỡ. Lý do thứ hai, theo Vũ Văn
An, các công trình bảo vệ đê thì chính quyền giao cho hương chức
làng xã gần bờ sông quản lý, việc kiểm tra đê thì giao cho các quan
lại, nhưng phần lớn họ còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, không biết cụ
thể về các tuyến đê2.
Nguyễn Duy Hy, Đại biểu tỉnh Ninh Bình, cho rằng: nguyên
nhân vỡ đê là do sự cẩu thả của các công ty thầu việc đắp đê. Ông
tố cáo: “Tất cả các công ty chịu trách nhiệm xây dựng, củng cố đê
không cẩn thận, nó có quá nhiều chỗ hỏng, đây là nguyên nhân gây
vỡ đê thường xuyên. Đê Văn Hai là một ví dụ. Người ta đã trộn rơm
vào đất đắp talus”3.

Chambre des Représentant du Peuple du Tonkin, Compte rendu des travaux de la


1

session ordinaire de l’annéé 1937, Résidence supérieure au Tonkin, Hanoi, 1937, tr.33.
2
Chambre des Représentant du Peuple du Tonkin, Compte rendu des travaux de la
session ordinaire de l’annéé 1937…sđd, tr.85.
3
Chambre des Représentant du Peuple du Tonkin, Compte rendu des travaux de la
session ordinaire de l’annéé 1937…sđd, tr.87.

180
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Về phương án khắc phục sự yếu kém của hệ thống đê sông Thái


Bình và tình trạng lũ lụt ở Bắc Kỳ, Kĩ sư trưởng của Sở công chính
Bắc Kỳ để xuất: giải pháp duy nhất là cần duy trì và củng cố đê, nâng
cao hiệu quả chống chịu của đê, đồng thời nâng độ cao tất cả các cầu
đường bộ, đường sắt bắc qua sông để tạo dòng chảy được dễ dàng,
nhanh chóng thoát lũ ra biển. Vũ Văn An đưa ra 2 giải pháp: Thứ nhất,
cần củng cố tất cả các đê trước mùa lũ của năm 1938. Thứ hai, cần dự
chi ngân sách cho bảo vệ đê. Nguồn chi này sử dụng trong trường hợp
cần thiết: trả cho phu lao dịch và phương tiện để củng cố đê.
Tháng 11 năm 1937, Ủy ban Đê điều và Chống lụt Bắc Kỳ đề
xuất 7 giải pháp:
- Củng cố, tôn cao đê đê hạng 2 thành đê lớn hạng 1 như sông Hồng.
- Kiểm tra tất cả các đoạn cua của đê để đạt được sự lưu thông
lũ nhanh nhất.
- Nạo vét lòng sông để tạo điều kiện thuận lợi thoát lũ được dễ dàng.
- Mở thêm các các cửa sông mới và mở rộng các cửa sông hiện
có rộng nhất có thể.
- Thực hiện chương trình cải tạo lòng sông Thái Bình, sông
Kinh Thầy, sông Kinh Môn.
- Mở rộng, nâng cao cầu đường sắt ở Hải Dương và ở Lai Khê
để thoát nhanh.
- Nghiên cứu phương án đào kênh tháo nước từ bờ Tả của sông
Thương qua Yên Mô (huyện Chí Linh) để nối sông Mạc Thôn đổ
vào sông Kinh Thầy1.
Một số đại biểu các tỉnh bị lụt thì đồng loạt yêu cầu chính quyền
thuộc địa cần giảm thuế từ 3 năm, thậm chí 10 năm cho người dân
các vùng chịu thiệt hại do vỡ đê, lụt lội gây ra. Đồng thời họ yêu
cầu, chính quyền cần gấp rút nghiên cứu, khẩn trương xây dựng
đập Đáy để điều tiết lũ.
1
Chambre des Représentant du Peuple du Tonkin, Compte rendu des travaux de la
session ordinaire de l’annéé 1937,…sđd, tr.82.

181
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Từ các sự cố vỡ đê thuộc hệ thống sông Thái Bình và những


giải pháp được đề xuất, chính quyền Pháp đã quyết định đầu tư
một khoản ngân sách tương đối lớn cho việc nâng cấp các tuyến
đê sông Thái Bình, nạo vét sông, kênh, cải tạo cống cũ, xây cống
mới và kết hớp với việc triển khai, hoàn thành nhanh quy hoạch,
xây dựng ngăn thủy lợi Nam và Bắc Thái Bình để bảo vệ sản xuất,
mở rộng diện tích canh tác. Chương trình này bắt đầu được triển
khai từ năm 1937.
Do sông Trà Lý chia đôi tỉnh Thái Bình thành hai khu vực có
những đặc điểm và yêu cầu chống lũ, thủy lợi khác nhau, nên các
kĩ sư Pháp của Hạt Công chính và Sở Thủy nông Bắc Kỳ đã thiết kế
xây dựng ở Thái Bình thành hai ngăn khác nhau: phía Bắc sông Trà
Lý gọi là hệ thống thủy nông Bắc Thái Bình, phía Nam Trà Lý là hệ
thống thủy nông Nam Thái Bình. Theo thiết kế, hai hệ thống thủy
nông này có chức năng tưới, tiêu, ngăn mặn, giữ ngọt cho 113.000
ha, đồng thời tạo điều kiện cải tạo đất, mở rộng diện tích canh tác
khu vực bãi bồi. Kinh phí dự tính cho toàn bộ hai hệ thống đến
khi hoàn thành khoảng 1,8 triệu đồng bạc Đông Dương1. Trên thực
tế, chính quyền chỉ đầu tư một phần từ nguồn vốn vay của chính
phủ Pháp, còn lại lấy từ ngân sách tỉnh và huy động đóng góp của
nhân dân.
Theo thiết kế, hệ thống Bắc Thái Bình gồm các hạng mục: nạo
vét, đào sâu, nắn dòng sông, kênh, xây dựng hệ thống cống, âu
thuyền và đắp đê phục vụ tưới, tiêu, chống lũ cho 8 phủ, huyện. Đối
với hệ thống Nam Thái Bình, do vùng này có nhiều diện tích trũng,
thấp dưới mực nước biển, nên việc tiêu, thoát nước gặp nhiều khó
khăn. Chính vì thế, mục tiêu chính của hệ thống Nam Thái Bình tập
trung vào tiêu và thoát lũ cho khoảng 46.000 ha. Hạng mục chính
gồm hệ thống cống tiêu lớn, âu thuyền và đắp đê.
Đối với cả hai hệ thống, chính quyền thuộc địa chịu trách
nhiệm xây dựng một số hạng mục lớn và quan trọng. Việc đắp đê,
khơi ngòi, nạo vét kênh nội đồng thì chính quyền địa phương huy
1
Nguyễn Văn Am, Thủy lợi Thái Bình 1883-1945,…sđd, tr. 110.

182
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

động nhân dân đóng góp tự làm. Từ năm 1933 đến năm 1942, khu
Bắc Thái Bình đã xây dựng được một hệ thống cống lớn, như các
cống Nhâm Lang, Bến Hiệp, Lưu Xá, Đại Nẫm,…trong đó lớn nhất
là cống Thuyền Quang xây dựng năm 1938 và đặc biệt là cống Trà
Linh khởi công năm 1939, hoàn thành năm 1942, chi phí hết 275.000
đồng bạc 1. Cống Trà Linh gần cửa Diêm Hộ thuộc huyện Thụy Anh
rộng 40m có âu thuyền 6,5m, vừa có chức năng ngăn mặn, giữ ngọt,
tiêu úng vừa đảm bảo nước tưới vào mùa khô cho hàng chục vạn ha
và tạo thuận lợi cho giao thông thủy thuận tiện2.
Ở khu Nam Thái Bình, từ năm 1931 đến 1934, xây dựng xong
các cống ngăn mặn, tiêu úng, như Dương Liễu, Quán Trạch, Hoàng
Môn, Nho Lâm và cống Cự Lâm ở đầu nguồn sông Trà Lý thuộc
huyện Thư Trì để lấy nước ngọt và phù sa. Trong số các cống được
xây dựng thì cống âu thuyền Dực Dương ở Kiến Xương và Nguyệt
Lâm ở Vũ Tiên là lớn nhất, có chức năng tiêu úng3.
Về củng cố hệ thống đê, theo kế hoạch phân bổ ngân sách
năm 1937 từ khoản vay của chính phủ Pháp, chính quyền thuộc địa
Pháp chỉ dành một khoản vốn rất nhỏ, 215.000 francs cho việc củng
cố đê và quy hoạch thủy nông Nam Thái Bình trong tổng số 1,8
triệu francs chi cho đê điều, thủy lợi Bắc Kỳ trong năm này. Trong
đó, 98.070 francs cho củng cố đê và 116.780 francs cho quy hoạch
thủy lợi Nam Thái Bình4. Vì nguồn vốn hạn hẹp, chính quyền thuộc
địa chỉ tập trung chủ yếu vào củng cố hệ thống đê biển nhằm bảo
vệ khu vực bãi bồi, mở rộng diện tích canh tác. Đã có bốn tuyến đê
biển được củng cố, nâng cấp với tổng chiều dài hơn 100km, cùng hệ
1
Nguyễn Văn Am, Thủy lợi Thái Bình 1883-1945,…sđd, tr. 115.
2
Trung tâm lưu trữ Quốc gia I, phông Thủy lợi: Documentations relatives à
l’hydrautalique agricole du casier Nord, du casier Sud et de la région maritime
de Thai Binh, carton 370-395,dẫn theo Nguyễn Văn Am, Thủy lợi Thái Bình 1883-
1945…sđd, tr. 115.
3
Nguyễn Văn Am, Thủy lợi Thái Bình 1883-1945,…sđd, tr. 111.
4
Gouvernement général de l’Indochine, Budget spécial des grands travaux et
dépenses sanitaires sur fonds d’emprunt (exercice 1937), Imprimerie d’Extrême-
Orient, Hanoi, 1937, tr. 7.

183
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

thống cống, kè, đập, bao gồm đê số 5, số 6 ở huyện Tiền Hải, đê số


7 ở phủ Thái Ninh, đê số 8 ở huyện Thụy Anh1.
Mặc dù được nghiên cứu, khảo sát kĩ thuật kĩ lưỡng và đầu tư
lớn, nhưng hệ thống Nam và Bắc Thái Bình còn nhiều hạn chế, việc
thi công chậm và kéo dài do thiếu vốn. Một số hạng mục chưa hoàn
thành đồng bộ dẫn tới hiệu quả công trình thấp. Trên thực tế, việc
ngăn mặn, giữ ngọt, tiêu úng chưa được đảm bảo chắc chắn. Kết
quả củng cố đê sông thuộc hệ thống sông Thái Bình thì gặp nhiều
khó khăn về tài chính. Mặc dù chính quyền thuộc địa Pháp đã huy
động ngân sách của tỉnh, đóng góp của nhân dân nhưng vẫn không
đủ để thực hiện chương trình củng cố đê đề ra, kết quả đạt được vì
thế rất hạn chế.

2. Nâng cấp một số đê sông ở Trung Kỳ (Bắc Trung Bộ hiện nay)


Ở Trung Kỳ, trong các giai đoạn trước công trình đê, kè, đập hầu
như chưa được chính quyền thuộc địa quan tâm. Trong giai đoạn từ
năm 1930 đến 1940, chính quyền thuộc địa đã cho đầu tư xây dựng
một số hệ thống thủy nông lớn và củng cố đê sông ở các tỉnh Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi,
trong đó lớn nhất là hai hệ thống Nam và Bắc Nghệ An.
Hệ thống Bắc Nghệ An khởi công năm 1932. Đây là công trình
có quy mô lớn nhất Trung Kỳ trong giai đoạn này với số vốn đầu tư
dự kiến lên tới 4,5 triệu đồng bạc. Quan trọng nhất trong hệ thống
này là đập Đô Lương và các cống Mụ Bà, Hiệp Hòa. Đập Đô Lương
được xây dựng theo kiểu đập tràn bằng bê tông cốt thép dài 345m,
chặn dòng sông Cả. Đập có 12 cửa, mỗi cửa rộng 23 m2. Công trình
hoàn thành cơ bản vào năm 1937 và được đánh giá là là một trong
những đập lớn nhất được xây dựng ở Việt Nam trong những thập
niên đầu thế kỷ XX.
1
Nguyễn Văn Am, Thủy lợi Thái Bình 1883-1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2000, tr. 107.
2
Hội Thủy lợi Nghệ An, 65 năm thủy lợi Nghệ An những chặng đường phát triển
(1945-2010), Nxb Nghệ An, 2010, tr.91.

184
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hệ thống Nam Nghệ An khởi công năm 1931 gồm hệ thống


kênh, cống, đập có chức năng cung cấp nước tưới, ngăn mặn, giữ
ngọt, tiêu úng cho 17.300 ha. Ngoài hệ thống kênh, quan trọng nhất
trong hệ thống Nam Nghệ An là cống Nam Đàn có chức năng lấy
nước tưới và cống Bến Thủy có chức năng ngăn mặn1.

Về củng cố đê sông ở Trung Kỳ, do nguồn kinh phí không đủ,


nên chính quyền thuộc địa Pháp phải huy động thêm ngân sách
của các tỉnh và sự đóng góp của người dân. Từ năm 1932 đến năm
1942, chính quyền Pháp cho đắp đê tả ngạn sông Lam, dài gần 30km
và đắp hai đoạn đê ở Nam Đàn (Nghệ An). Từ năm 1939 đến năm
1941 đắp 19km đê sông La. Hầu hết các tuyến đê khác không được
quan tâm bồi trúc, sửa chữa. Do không được quan tâm gia cố, sửa
chữa thường xuyên, nên hệ thống đê bị xuống cấp, hư hỏng. Đây là
một trong những nguyên nhân gây ra nạn vỡ đê, lụt lội triền miên.
Các năm 1941, 1944 đê sông La, sông Mã bị vỡ, gây lụt lội, mất mùa,
nhân dân đói kém, cực khổ trăm bề2.

3. Hình thành đê biển ở Nam Kỳ3


Từ đầu thế kỷ 20, nhiều khu vực ven biển đã bắt đầu được khai
thác. Ban đầu, đê biển được đắp tạm bợ thấp và nhỏ. Qua quá trình
chống chọi với thiên nhiên, ảnh hưởng của thủy triều, một số tuyến
đê biển cũng được bồi đắp, tu bổ, ổn định dần.
Đầu năm 1940, tuyến đê ngăn mặn bảo vệ vùng đất ven
biển tỉnh Bạc Liêu từ thị xã Bạc Liêu đến cửa sông Gành Hào
được đắp dài 51 km, là một trong những trục giao thông ven
biển quan trọng.
Trong giai đoạn này, tuyến đê An Minh, An Biên tỉnh Rạch Giá
(tỉnh Kiên Giang ngày nay) được xây dựng, ngăn mặn từ biển Tây
vào khu vực An Minh, An Biên.
1
André Touzet, L’économie indochinoise et la grande crise universelle,... sđd, tr. 244.
2
Phan Khánh (Cb), Lịch sử Thủy lợi Việt Nam,…sđd, tr. 236.
3
Trần Như Hối. Đê biển Nam Bộ, 2003.

185
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

III. XÂY DỰNG ĐẬP ĐÁY ĐIỀU TIẾT LŨ SÔNG HỒNG KẾT HỢP VỚI QUY HOẠCH LƯU
VỰC SÔNG ĐÁY
Trong khoảng 15 năm, từ năm 1930 đến khi Nhật đảo chính
Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945), chính quyền thuộc địa Pháp tiếp
tục ưu tiên đầu tư ngân sách để cải tạo, sửa chữa, tu bổ hằng năm và
bảo vệ nghiêm ngặt các tuyến đê thuộc hệ thống sông Hồng. Điều
này dễ hiểu vì đê sông Hồng thực sự vô cùng quan trọng trong việc
bảo vệ Hà Nội, trung tâm chính trị, hành chính quan trọng nhất của
Pháp không chỉ ở Việt Nam mà của toàn Đông Dương.
Từ năm 1937 đến năm 1944, chính quyền thuộc địa đã đầu tư
16,5 triệu đồng bạc Đông Dương cho việc gia cố, nâng cấp và xây
mới đê sông Hồng, tổng khối lượng đào đắp lên tới 43 triệu m3. Nhờ
thế mà trong vòng hơn 18 năm kể từ năm 1926, đê sông Hồng luôn
an toàn trước các đợt lũ lớn và tiếp tục phát huy hiệu quả cao trong
việc phòng, chống lũ1. Năm 1932, mặc dù lũ sông Hồng ở Hà Nội
lên cao 11,9 m, nhưng toàn bộ đê vẫn an toàn. Đây thực sự là thành
công của chính quyền thuộc địa trong việc đắp đê, trị thủy ở Bắc Kỳ.
Cùng với thường xuyên đầu tư củng cố đê, các kĩ sư công chính
Pháp đã đề xuất trong giai đoạn này việc xây dựng đập Đáy để điều
tiết lũ sông Hồng, đảm bảo an toàn cho các tuyến đê. Đây là trong
những công trình phòng chống lũ quan trọng nhất mà chính quyền
thuộc địa Pháp xây dựng ở Đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn này.
Sông Đáy là một chi lưu của sông Hồng và đóng vai trò rất
quan trọng trong việc phân lũ cho sông Hồng. Tuy nhiên, mỗi khi
lũ sông Hồng được phân qua sông Đáy lại gây nhiều khó khăn, thiệt
hại cho các vùng thuộc lưu vực sông Đáy, hàng chục vạn ha đất
canh tác thuộc các tỉnh Hà Đông, Hà Nam và Ninh Bình không thể
sản xuất vì thường xuyên bị ngập úng.
Chính vì thế, ngay từ năm 1917, kĩ sư trưởng của Nha Công
chính Đông Dương đã đề xuất xây dựng trên sông Đáy một con đập
1
Phan Khánh (Cb), Lịch sử Thủy lợi Việt Nam,…sđd, tr. 232.

186
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

có chức năng vừa đảm bảo điều tiết lũ, phân lũ cho sông Hồng, vừa
điều tiết, giảm úng ngập cho các vùng ven sông Đáy vào mùa mưa,
cung cấp nước tưới vào mùa khô. Vào mùa mưa, đập chỉ được mở
khi lũ sông Hồng lên cao quá mức chịu đựng của đê, còn không sẽ
đóng để đảm bảo sản xuất cho các vùng lưu vực sông Đáy. Vào mùa
khô, mực nước sông Đáy thường xuống rất thấp so với đồng ruộng
ven sông, gây khó khăn về nguồn nước tưới. Theo đánh giá của các
kĩ sư Pháp, đập Đáy được xây dựng có khả năng đảm bảo việc trồng
lúa trên hầu hết hiện tích lưu vực sông Đáy thuộc các tỉnh Hà Đông,
Hà Nam và phía Bắc của Nam Định, Ninh Bình1.
Về vị trí xây dựng đập Đáy, lúc đầu người Pháp định xây ở đầu
nguồn, đoạn nối với sông Hồng. Tuy nhiên, sau khi khảo sát địa
chất, chính quyền Pháp đã quyết định xây đập dưới hạ lưu, gần cầu
Phùng cũ, thuộc huyện Đan Phượng (Hà Nội ngày nay). Cầu này
bị đánh sập trong giai đoạn chiến tranh chống Pháp. Từ năm 1933
đến đầu 1934, chính quyền thuộc địa tổ chức xét duyệt các phương
án thiết kế và thi công do các công ty của Pháp tham gia dự thầu đề
xuất. Giữa năm 1934, việc thi công đập Đáy được chính quyền thuộc
địa giao cho một công ty của Pháp có tên là Công ty Nạo vét sông
và Công chính2. Công trình chính thức khởi công vào cuối năm 1934
đến đầu năm 1937 thì hoàn thành.
Đập Đáy có bảy cửa van mái nhà vận hành theo nguyên lý thủy
lực, mỗi cửa rộng 33,75 m, có trụ pin ngăn cách, mỗi trụ rộng 3 m.
Sau khi xây dựng, công trình đi vào vận hành thử nghiệm từ năm
1939. Năm 1940, lần đầu tiên đập Đáy được mở van để phân lũ, tuy
nhiên việc vận hành gặp một vài sự cố: cửa van không mở được
hết cỡ, một số cửa bị hỏng hóc và bung ra. Việc mở cửa phân lũ thử
nghiệm tiếp tục được thực hiện vào các năm 1941 và 1942, nhưng
đều gặp sự cố và hư hỏng. Cho tới cách mạng tháng Tám năm 1945,
1
René Dumont, La culture du riz dans le delta du Tonkin, Éditions de la Maison des
sciences de l’homme, Paris, 1995, tr. 80.
2
Phan Khánh (Cb), Lịch sử Thủy lợi Việt Nam,…sđd, tr. 235.

187
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

về cơ bản chính quyền thuộc địa không đưa ra được phương án nào
để khắc phục sự cố cửa van của đập Đáy.
Cùng với việc xây dựng đập Đáy, chính quyền thuộc địa đầu tư 1,6
triệu francs cho quy hoạch chống lũ, thủy lợi các vùng thuộc lưu vực
sông Đáy trong tổng số 1,8 triệu francs chi cho chống lũ, thủy lợi Bắc Kỳ
năm 1937. Việc quy hoạch lưu vực sông Đáy được khởi động từ năm
1932, nhưng với một ngân sách đầu tư vô cùng ít ỏi, vỏn vẹn 21.500 đồng
bạc Đông Dương, sau tăng lên 850.000 đồng bạc Đông Dương vào năm
1933 và 1.553.000 đồng bạc Đông Dương vào năm 19341.
Trên cơ sở nghiên cứu quy hoạch, từ năm 1932, chính quyền
Pháp cho triển khai xây dựng hệ thống thủy nông sông Đáy (còn
gọi là hệ thống sông Nhuệ), gồm hệ thống kênh, cống dẫn nước,
tiêu úng cho 110.000ha thuộc các tỉnh Hà Đông, Hà Nam, Bắc Nam
Định và Ninh Bình. Trong hệ thống này, quan trọng nhất là cống
Liên Mạc và hệ thống kênh chính từ Hà Đông đến Phủ Lý và các
kênh ở Vân Đình (nay thuộc Ứng Hòa, Hà Nội) và kênh La Khê ở
Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Tuy nhiên, cho tới năm 1940, mới chỉ
có cống Liên Mạc được hoàn thành, việc đào kênh bị chậm tiến độ2.
Từ năm 1940, đặc biệt là từ tháng 3 năm 1945, sau khi Nhật đảo
chính Pháp, ở Bắc Kỳ, đê điều và các công trình phòng chống lũ lụt
không được đầu tư và không có dự án mới nào được triển khai. Hệ
thống đê, đập, cống không được quan tâm sửa chữa, nâng cấp, nên
bị hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng. Đây là một trong nguyên nhân
chính gây vỡ đê, lụt lội ở một số tỉnh Bắc Kỳ vào tháng 8 năm 1945.

IV. CHUYỂN ĐỔI TỪ ĐÀO, NẠO VÉT KÊNH TRÊN DIỆN RỘNG SANG ĐẦU TƯ CÓ TRỌNG
ĐIỂM Ở NAM KỲ

Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, áp lực trước nhu
cầu đất nhượng giảm, cùng với đó là ngân sách dành cho chống lũ,

André Touzet, L’économie indochinoise et la grande crise universelle, Paris, 1934, tr. 249.
1

2
André Touzet, L’économie indochinoise et la grande crise universelle,…sđd, tr. 244

188
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

phát triển thủy lợi ở Nam Kỳ cũng giảm khiến chính quyền thuộc
địa Nam Kỳ phải điều chỉnh chính sách đào, nạo vét kênh với đắp
đê để phù hợp với thực tiễn và nguồn ngân sách eo hẹp.

Năm 1930, Thống đốc Nam Kỳ Pagès đã đưa ra một chương


trình tổng thể về đào kênh kết hợp đắp đê ở Nam Kỳ. Theo đó, việc
đào, nạo vét kênh kết hợp lấy đất đắp đê chỉ tập trung cho những
vùng đất đai phì nhiêu hoặc vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp
đã cấy được hai vụ để đảm bảo duy trì, phát triển sản xuất. Còn các
vùng khác, tạm thời duy trì tình trạng cấy một vụ hoặc cấy lúa nổi.
Trọng tâm của chương trình này là nạo vét kênh, đắp đê ở Bến Tre,
các tỉnh miền Tây sông Hậu, Cao Lãnh, kênh và đê Tiếp Nhật để
thâm nhập vào vùng Đông Nam tỉnh Sóc Trăng, đào kênh đắp đê
Xẻo Sao, Câu Nhiêm, nối kênh Vàm Bi với kênh Ô Môn ở Cần Thơ1.

Chương trình này cho mãi tới năm 1934, khi mà những khó
khăn do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra phần nào
được giải quyết, thì chính quyền thuộc địa Nam Kỳ mới bắt đầu
triển khai xây dựng mới một số công trình thủy lợi kết hợp với đắp
đê, xây cống, như: An Trường (1934), Gò Công (1937), Tiếp Nhật,
Bang Cung (1938)2. Hệ thống thủy nông An Trường gồm hệ thống
kênh dài 25,5km, 87 cống, 81km đê bao với nhiệm vụ ngăn lũ, tưới,
tiêu, thau chua và rửa phèn cho gần 11.000ha thuộc tỉnh Vĩnh Long.
Hệ thống thủy nông Gò Công, Bang Cung có quy mô tương đương
với An Trường, gồm hệ thống đê bao, kênh và cống tưới tiêu, ngăn
mặn cho 11.000ha3.

Đối với vùng thường xuyên bị ngập lũ, như Rạch Giá, Hà Tiên,
Châu Đốc, Long Xuyên, sau trận lũ lớn năm 1937, chính quyền
thuộc địa giao cho Nha Thủy nông và Giao thông thủy Nam Đông
Dương nghiên cứu phương án giải quyết. Trước đó, khi đào kênh
1
Pagès, La situation économique de la Cochinchine…sđd, tr. 415.
2
Phan Khánh, Nam Bộ 300 năm làm thủy lợi…sđd, tr. 126-127.
3
Phan Khánh, Nam Bộ 300 năm làm thủy lợi…sđd, tr. 128.

189
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

kết hợp đắp đê Rạch Giá - Hà Tiên, chính quyền Pháp hy vọng rất
nhiều vào vai trò giảm lũ sông Hậu của công trình này. Tuy nhiên,
kết quả không như kì vọng, các kênh nhánh nối sông Hậu với kênh
Rạch Giá - Hà Tiên không phát huy được hiệu quả thoát lũ vì kênh
quá nhỏ và nông, đê thấp. Chính vì thế, năm 1937, Nha Thủy nông
và Giao thông thủy Nam Đông Dương đã đề xuất chương trình
nghiên cứu quy hoạch thoát lũ ở Nam Kỳ bằng nguồn vốn vay của
chính phủ Pháp được phê duyệt từ năm 1931.
Theo Nghị định ngày 21tháng 9 năm 1937 của Toàn quyền
Đông Dương về việc phân bổ vốn vay, chính quyền Liên bang dành
18,7 triệu francs cho đào kênh và đắp đê ở Nam Kỳ, gồm: đào kênh
dẫn nước ngọt, thoát nước ở vùng trũng thường bị ngập lụt, đắp đê,
đập phân vùng và cải tạo hệ thống giao thông thủy nội địa1. Nguồn
vốn này tập trung đầu tư cho việc thoát lũ ở vùng Châu Đốc, Long
Xuyên và Hà Tiên.
Theo đánh giá của các kĩ sư Pháp, việc thoát và ngăn lũ bằng hệ
thống kênh kết hợp đắp đê ở vùng này có thể tăng diện tích canh
tác lên khoảng 300.000 ha. Để thoát lũ, đã có một số phương án khác
nhau được đưa ra. Theo phòng Nông nghiệp Nam Kỳ, cần đào tiếp
một con kênh mới nối sông Hậu ra vịnh Thái Lan để thoát lũ ra biển.
Tuy nhiên, kế hoạch này bị phản đối, vì phần lớn cho rằng,
khoảng cách từ sông Hậu ra vịnh Thái Lan quá xa, khoảng 60km,
chi phí tốn kém. Mặt khác, lũ khó có thể thoát nhanh chóng từ vùng
sông Hậu ra biển Rạch Giá, vì gần như địa hình vùng ven biển Rạch
Giá cao hơn địa hình ven sông Hậu. Một số khác thì đề xuất nên đào
kênh từ vùng Châu Đốc, Tà Keo kết hợp đắp đê để dẫn nước xuống
đồng bằng thấp và vùng ven biển Hà Tiên.
Tuy nhiên, kế hoạch này cũng bị phản đối vì thực sự nguy
hiểm nếu hai bờ đê chạy dọc theo kênh bị vỡ. Một số ý kiến khác
thì cho rằng nên chuyển đường bờ kênh Tri Tôn - Long Xuyên
1
Aménagements hydrauliques pour la mise en valeur de la Cochinchine,…sđd.

190
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

thành đập để ngăn lũ, bằng cách nâng cấp, đắp cao đê dạy dọc
theo kênh. Người bàn ra, kẻ tán vào, mỗi người một phương án,
cuối cùng dự án quy hoạch thoát lũ vùng Châu Đốc, Long Xuyên
và Hà Tiên chỉ được triển khai một vài hạng mục nhỏ, như nạo
vét kênh Tri Tôn và đắp một đoạn đê ngăn lũ nhưng phải bỏ dở
vì phát xít Nhật xâm lược Đông Dương năm 1940 và đánh chiếm
Nam Kỳ một năm sau đó.
Từ năm 1940, Pháp cấu kết với Nhật thống trị, bóc lột nhân Việt
Nam. Chính quyền thuộc địa gần như không triển khai thêm được
chương trình đào kênh, đắp đê lớn nào ở Nam Kỳ, ngoài nạo vét
lẻ tẻ, quy mô nhỏ, không đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế.
Chính vì thế, giới tư bản và điền chủ Pháp đã gây áp lực với chính
quyền thuộc địa Nam Kỳ và yêu cầu chính quyền Liên bang can
thiệp để đẩy mạnh hơn đào kênh và đắp đê. Theo chỉ thị của Toàn
quyền Đông Dương, cuối năm 1944, chính quyền thuộc địa Nam Kỳ
triệu tập một hội nghị bàn về vấn đề đào, nạo vét kênh và đắp đê
dưới sự chủ trì của Thống đốc Nam Kỳ. Tham dự có đại diện của các
cơ quan chuyên môn, giới điền chủ, phòng Canh nông, Công chính
và Tài chính của Nam Kỳ.
Trong hội nghị này, giới điền chủ yêu cầu chính quyền đầu tư
xây dựng hệ thống kênh tưới và tiêu riêng biệt kết hợp lên đê thay
vì tưới tiêu hết hợp, vì như thế sẽ phát huy hiệu quả cao dẫn nước
tưới mùa khô, thoát lũ, tiêu chua, rửa phèn nhanh hơn. Hệ thống
cống cũng cần được bổ sung trên các kênh ở vùng Tứ giác Long
Xuyên và một phần vùng bán đảo Cà Mau. Vì đây là hai vùng chịu
ảnh hưởng nặng nề của lũ, triều cường và thiếu nước tưới. Theo
họ, hệ thống cống đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nước
tưới, ngăn mặn, giữ ngọt, ngăn và thoát lũ. Ở phần còn lại của bán
đảo Cà Mau, người ta đề xuất đào hai kênh trục lớn lấy nước từ
sông Hậu qua hệ thống kênh cấp hai cung cấp nước tưới cho vùng.
Ở vùng Đồng Tháp Mười, giám đốc Nha Thủy nông và Giao thông
thủy Nam Đông Dương đề xuất phương án đắp đê sông Tiền từ
191
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Mỹ Tho đến biên giới Campuchia để ngăn lũ, đồng thời đào mới hệ
thống kênh, đắp đê để thoát lũ.

Đề xuất xây dựng hệ thống kênh tưới tiêu riêng biệt kết hợp
đắp đê của giới điền chủ đã gây ra những tranh cãi kịch liệt. Cuối
cùng, chính quyền và một số kĩ sư công chính Pháp kết luận rằng,
việc tách biệt kênh tưới và tiêu là không cần thiết. Đối với Đồng
Tháp Mười, theo quan điểm của Thống đốc Nam Kỳ, việc đào các
kênh trục lớn kết hợp đắp đê và đắp đê ngăn lũ dọc sông Tiền cho
tới biên giới Campuchia đòi hỏi nguồn vốn lớn, rất tốn kém và
chưa chắc đã mang lại hiệu quả cao. Cho nên, chính quyền Nam Kỳ
quyết định không thông qua đề xuất này mà chỉ tập trung vào một
số vùng cần kíp và có hiệu quả cao.

Theo đó, chính quyền thuộc địa Nam Kỳ thống nhất với giới
điền chủ là cải tạo hệ thống kênh rạch vùng giữa sông Tiền và sông
Hậu bồi trúc các tuyến đê kênh đã có nhằm giải quyết vấn đề tưới,
thoát lũ. Cùng với đó là củng cố, bổ sung thêm hệ thống cống trên
kênh, dưới đê, đắp đập ở vùng Tứ giác Long Xuyên, Cần Thơ, Bạc
Liêu và Rạch Giá. Tuy nhiên, kế hoạch này đã không được thực hiện
vì ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính lật đổ Pháp độc chiếm
Đông Dương.

V. CƠ QUAN QUẢN LÝ, TRÌNH ĐỘ KHOA HỌC - KĨ THUẬT VÀ NHÂN LỰC TRONG XÂY
DỰNG VÀ QUẢN LÝ ĐÊ ĐIỀU DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC

Cơ quan quản lý chuyên môn cao nhất về công chính nói chung,
đê điều nói riêng ở Việt Nam thời thuộc địa là Sở Công chính Đông
Dương thành lập theo Nghị định ngày 9 tháng 9 năm 1898 của Toàn
quyền Paul Doumer. Cơ quan này chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Toàn
quyền và Ban tổng thanh tra Công chính thành lập vào năm 1911.

Từ sau năm 1931, Sở Công chính Đông Dương gồm bốn Nha
Công chính: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Nha thủy nông và Giao
thông thủy Nam Đông Dương. Trong đó, Nha Công chính Bắc Kỳ
192
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

có 5 sở, trong đó sở phụ trách đê điều là Sở Trị thủy. Nha Công chính
Trung Kỳ có 4 sở, trong đó có 2 Sở Thủy nông. Nha Thủy nông và
Giao thông thủy Nam Đông Dương phụ trách nghiên cứu xây dựng
thủy nông, giao thông đường sông, quản lý giao thông biển1. Ở một
số tỉnh, chính quyền Pháp cho thành lập Ty Công chính và Ty Thủy
nông, như Nam Định, Thái Bình.
Toàn quyền Đông Dương cho thành lập Ủy ban Nghiên cứu
nguyên nhân vỡ đê sông Đuống, đề xuất các phương án giảm lũ, bảo vệ
đê sông Đuống bằng việc cho xây đập Vĩnh Yên, lấp cửa sông Đuống.
Sau thất bại của các phương án do Ủy ban này đề xuất, ngày 28
tháng 6 năm 1895, Toàn quyền Đông Dương cho thành lập Ủy ban
Tối cao về đê điều do Thư ký của Toàn quyền làm Chủ tịch, nghiên
cứu về hệ thống đê ở Bắc Kỳ, đệ trình lên Toàn quyền tất cả các kế
hoạch hữu dụng liên quan tới quy định về kĩ thuật, hành chính,
phương án liên quan tới đê điều ở Bắc Kỳ.
Sau trận lũ năm 1915, chính quyền thuộc địa Pháp đã thành
lập Hội đồng Tư vấn thủy nông và chống lụt ở Bắc Kỳ nhằm đẩy
mạnh quy hoạch, nghiên cứu tìm ra các giải pháp cho việc đắp đê,
trị thủy, phòng chống lũ lụt. Ủy ban này tập hợp nhiều kĩ sư công
chính, chuyên gia trị thủy trong chính quyền thuộc địa. Việc thiết
lập các cơ quan chuyên môn chuyên trách công tác đê điều đóng vai
trò quan trọng, thúc đẩy nghiên cứu, tìm phương án chống lũ, triển
khai các đợt đắp đê quy mô vào năm 1924, 1926 - 1927.
Bên cạnh các cơ quan chuyên môn, chính quyền hành chính
các cấp, đặc biệt chính quyền các tỉnh có đê chịu trách nhiệm quản
lý, chỉ đạo, giám sát việc xây dựng, quản lý, bảo vệ đê điều. Trong
hệ thống chính quyền hành chính, chính quyền cơ sở làng xã đóng
vai trò vô cùng quan trọng, trong việc trực tiếp giám sát, bảo vệ,
huy động nhân lực, vật lực trong việc đắp, gia cố và hộ đê. Điều này
được ghi rõ trong hương ước của các làng.
1
Phan Khánh (Cb), Lịch sử Thủy lợi Việt Nam,…sđd, tr. 197.

193
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Để bảo vệ đê và các công trình dưới đê, chính quyền thuộc


địa cũng ban hành các quy định tại Nghị định ngày 1 tháng 7
năm 1917 và Thông tri ngày 9 tháng 12 năm 1924. Theo quy định,
không được phép trồng cây trong phạm vi 10m tính từ chân đê.
Không được đào hố trong phạm vi 20m tính từ chân đê, cấm
đóng cọc vào thân đê. Cấm không được chăn trâu, bò trên mặt
và sườn đê.
Đối với đê biển, để bảo vệ an toàn cho đê, chính quyền thuộc
địa cho trồng đước, vẹt và tre ở ngoài và sườn đê. Việc bắt cá, cua,
ốc, sò trong khu vực rừng chắn sóng cũng bị cấm. Luật thuộc địa
quy định, tất cả người dân phải có trách nhiệm bảo vệ các công trình
đê điều. Tất cả các cá nhân vi phạm những điều cấm đều bị xử phạt,
nếu là người Việt thì bị xử phạt theo điều 286 và 323 luật hình sự áp
dụng đối với người Việt, nếu là người Pháp thì theo điều 435, 437,
479 luật hình sự áp dụng đối với người Pháp1.
Việc gia cố, bồi trúc đê được thực hiện hằng năm sau vụ thu
hoạch, vào tháng 5 và tháng 10, đó là lúc nông nhàn, việc huy động
dân phu dễ dàng hơn và không ảnh hưởng tới sản xuất của người
dân. Chi phí cho việc cải tạo, tu sửa đê lấy từ ngân sách tỉnh, làng
nếu quy mô không lớn.
Các tuyến đê bắt buộc phải thiết lập các điếm canh đê. Mỗi
ki-lô-mét đê phải có một điếm canh đê. Đê thuộc làng nào thì làng
đó có trách nhiệm lập điếm canh. Điếm canh đê phải được làm ở
ngoài chân đê, mỗi điếm canh phải dự trữ thúng, xẻng, cuốc, đóm,
rơm, trống canh và có người túc trực. Trong mùa mưa lũ, lý trưởng
phải cử người canh đê thường xuyên. Nếu phát hiện đê có nguy
cơ bị sạt lở, người canh điếm phải đánh 5 hồi trống báo hiệu và cử
người đi báo cho lý trưởng. Nhận được tin, lý trưởng, chánh tổng
và quan phủ huyện phải có mặt tại hiện trường, dân làng phải có
mặt ứng cứu.

1
Bulletin administratif du Tonkin, N0 14/1942, tr. 462-467.

194
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hình 12. Điếm canh đê thời Pháp thuộc trên đê sông Luộc, Thái Bình (bên trái)
và đê sông Hồng, Hà Nội (bên phải)1
Quy định của chính quyền thuộc địa nhấn mạnh rằng: “Vỡ
đê là một cái tai biến ghê gớm hại chung cho cả nhân dân [...]. Việc
canh đê là cần thiết mọi lúc, nếu sơ xuất thì rất tai hại. Nếu trái quy
định và không coi sóc đê thường xuyên là phạm phải trọng tội và bị
đem ra tòa xét xử”2.
Về nhân lực đắp đê, dưới thời Pháp thuộc, việc huy động nhân
lực đắp đê của chính quyền thuộc địa dựa vào chế độ lao dịch có từ
thời phong kiến. Trong những năm cuối thế kỷ XIX, tất cả nam giới
từ 18 đến 55 tuổi, sau tăng lên 60 tuổi đều phải chịu nghĩa vụ lao
dịch 48 ngày, sau giảm xuống còn 30 ngày. Người chịu lao dịch buộc
phải chuộc tiền 20/30 ngày lao dịch, 10 ngày còn lại phải đi lao động
không công cho chính quyền, như làm đường, xây cầu, đắp đê. Căn
cứ vào quy mô, kế hoạch đắp đê, chính quyền cấp tỉnh phân bổ số
dân phu cho từng phủ, huyện, sau đó huyện phân bổ về từng làng
xã. Căn cứ vào sổ đinh từng làng, chính quyền làng xã trực tiếp bắt
phu lao dịch hằng năm.
Theo cách thức này, trong đợt đắp đê năm 1892 - 1893, chính
quyền thuộc địa đã huy động 9,5 triệu ngày công dân phu, trong
đó, 5,5 triệu ngày công cho đắp đê mới và 4 triệu ngày công cho
củng cố đê cũ3. Năm 1926, sau trận lụt, chính quyền Bắc Kỳ đã huy
1
J. Gauthier, Digues du Tonkin, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1930, tr.109.
2
Pierre Grossin, Việc quản trị chốn hương thôn, Nguyễn Văn Nghị dịch, Viễn Đông
Ấn quán, Hà Nội, 1926, tr.84 - 85.
3
Jean Louis de Lanessan, La colonisation francaise en Indochine,…sđd, tr.303.

195
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

động 6 vạn dân phu đi đắp đê chống lụt. Năm 1928, tổng số dân
phu bị huy động đi đắp đê, đào kênh, làm kè, xây cống lên tới 50.800
người, trong đó 40.000 người ở Bắc Kỳ, 9.000 ở Trung Kỳ và 1.800
người ở Nam Kỳ1.
Việc huy động dân phu đi đắp đê, đào kênh, xây kè, làm cống
theo chế độ lao dịch cưỡng bức đã giúp chính quyền thực dân Pháp
tiết kiệm được chi phí, đồng thời khai thác triệt để sức lực, kinh nghiệm
của người dân Việt Nam. Nhận xét về dân phu người Việt trong việc
đào đất đắp đê, Toàn quyền Đông Dương de Lanessan viết:
“Trong việc đắp đê, chính quyền đã sử dụng lực lượng lao động
theo chế độ lao dịch người bản xứ. Người Việt là những người thợ
đào đắp đất cừ khôi. Chỉ với các dụng cụ thô sơ, xảo, quang gánh,
họ lao động với số đông và hoàn thành một khối lượng công việc rất
lớn trong một khoảng thời gian ngắn”2.
Về trình độ khoa học - kĩ thuật trong xây dựng đê điều, trước
khi người Pháp thống trị Việt Nam, các triều đại phong kiến, đặc
biệt là triều Nguyễn đã rất nỗ lực trong việc đắp đê, tạo ra một hệ
thống đê lớn ở Đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh ở miền Trung.
Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả của đê và hệ thống cống dưới đê
còn nhiều hạn chế, hiệu quả chống lũ thấp. Nguyên nhân là do hạn
chế về khoa học trị thủy, khoa học kĩ thuật, phương tiện và vật liệu
xây dựng. Những hạn chế đó được người Pháp chỉ ra như sau:
- Thứ nhất, thiếu sự phát triển hợp lý trên cơ sở một kế hoạch
tổng thể, hệ thống đê điều tạo thành một mê cung phức tạp gồm
các công trình có đường đi thường quanh co và gấp khúc khiến
nước lũ không thể chảy đều gây tăng mực nước.
- Thứ hai, đê không đủ cao, vào cuối thế kỷ XIX, đê chỉ có độ
cao 9m trong khi mực nước sông dâng lên có thể đạt gần 12m theo
những hình ảnh về lũ năm 1926. Ở một số điểm, dòng lũ chảy vuông
1
G.F. Gérard, Finances et grands travaux en Indochine, Le courrier colonial illustré,
15 décembre 1928.
2
Jean Louis de Lanessan, La colonisation francaise en Indochine,…sđd, tr.303.

196
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

góc với đê nên lũ không thể thoát nhanh và dễ gây xói lở chân đê
và vỡ đê.
- Thứ ba, cấu tạo tại nhiều điểm dọc đê không phù hợp để có
thể chống chọi với dòng chảy hung hãn: độ dốc mái taluy lớn, đất
sử dụng không đủ chống thấm và không được nén chặt theo như
yêu cầu.
- Thứ tư, các tuyến đê bao quanh sông đôi khi nằm quá gần
vùng bãi sông khiến cho độ cao và vận tốc dòng chảy tăng lên dẫn
đến tăng nguy cơ vỡ đê, nhất là các bờ lõm, hay nguy cơ thủy triều
vượt lên đỉnh đê, đê lúc này lại có tác dụng như một con đập tràn.
Hậu quả xảy ra tức thời và nghiêm trọng đến mức làm cho lòng
sông không được cố định.
- Thứ năm, hạn chế về tổ chức. Triều Nguyễn liên tục có các cải
cách về quản lý đê điều không đồng bộ khiến không hình thành
được thói quen quản lý các công trình đê điều và thói quen canh lũ.
Năm 1833, vua Minh Mạng đã yêu cầu giao toàn quyền quản lý đê
cho quan lại cấp tỉnh. Việc chia trách nhiệm quản lý này chắc chắn
gây cản trở đến việc lập dự án tổng thể các công trình cần thực hiện1.
- Thứ sáu, phần lớn các cống dưới đê và nhiều điểm xung yếu
được xây dựng bằng những vật liệu thô sơ, vôi, cát, tre, nứa, không
có khả năng chịu lực và chống chọi được những trận lũ lớn gây xói
lở và vỡ đê. Cống nhỏ không có khả năng thoát nước tốt vào mùa
lũ, đôi khi đặt cao hơn mực nước vào mùa kiệt, không có khả năng
lấy nước.
Dưới thời thuộc địa, chính quyền Pháp cũng cho du nhập và áp
dụng một số ứng dụng khoa học, phương tiện máy móc, nguyên vật
liệu của phương Tây vào xây dựng và quản lý đê điều. Điều đầu tiên
phải nói tới là đội ngũ kĩ sư công chính được đào tạo bài bản ở Pháp
và ở Việt Nam. Họ có kiến thức khoa học và xây dựng hiện đại.
1
Olivier Tessier, Quy hoạch thủy lợi vùng Đồng bằng sông Hồng: nhìn nhận lịch
sử về vai trò của nhà nước phong kiến và nhà nước thuộc địa (thế kỷ XII đến
nửa đầu thế kỷ XX), Tài liệu khóa học Tam Đảo, tháng 7/2013.

197
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Ngoài các kĩ sư từ Pháp sang, năm 1906, chính quyền thuộc địa cho
thành lập Trường Đại học Đông Dương để đào tạo các ngành, trong đó
có công chính, đê điều. Tới năm 1917, trường gồm 6 trường thành viên,
trong đó có Trường Công chính (École des Travaux publics). Đến năm
1925, đã có 358 người Việt tốt nghiệp ngành công chính, trình độ công
nhân kĩ thuật, hoặc tham sự công chính1. Đến năm 1943, chính quyền
Pháp tổ chức đào tạo và thi lấy bằng kĩ sư công chính ở Việt Nam.
Trong khóa thi này có 58 người tham dự, trong đó có 23 người đỗ và
được cấp bằng kĩ sư công chính Đông Dương.
Sự phát triển các nhà máy xi măng ở Việt Nam, việc nhập khẩu
sắt thép, máy đầm, nén từ Pháp sang được sử dụng trong xây dựng
đê điều, kè, cống đã tạo ra sự vững chắc cho nhiều tuyến đê. Việc
xây dựng các công trình lớn và quan trọng đều được chính quyền
thực hiện qua đấu thầu, Sở Công chính Đông Dương và trực tiếp
Toàn quyền Đông Dương quyết định vấn đề này. Các công ty của
Pháp đã mang sang Việt Nam đội ngũ kĩ sư cùng nhiều máy móc
hiện đại, đặc biệt là tàu cuốc sử dụng trong đào và nạo vét kênh,
máy đầm, nén mái đê, mặt đê, thân đê chạy bằng dầu hoặc hơi
nước. Việc xây dựng bản đồ hệ thống đê điều, đặc biệt là sử dụng
máy bay quan sát, chụp ảnh, đo đạc góp phần quan trọng tạo điều
kiện cho quy hoạch, xây dựng và quản lý đê điều.
Cho tới năm 1945, trên cả nước có khoảng 3.000km đê các loại,
chủ yếu là đê sông. Theo Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier,
khi Pháp xâm lược Việt Nam thì ở Đồng bằng sông Hồng đã xây
dựng được 2.400km đê các loại. Như vậy, trong suốt thời kỳ thuộc
địa, chính quyền Pháp đã cho đắp mới được 600km đê, còn lại tập
trung nguồn lực, ưu tiên gia cố hệ thống đê đã được xây dựng từ
trước đó. Từ năm 1926 đến năm 1930, tôn cao được 800km đê, xây kè
đá bảo vệ đê, sửa chữa, xây mới 170 cống dưới đê. Tính tổng trong
thời kỳ thuộc địa, chính quyền Pháp đã cho gia cố 1.500km đê, tổng
1
Gouvernement général de l’Indochine, Rapports au Conseil de gouvernement
(tome 2), Hamoi, 1925, tr. 71.

198
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

khối lượng đào đắp đạt 300 triệu m3, tổng chi phí lên tới 25 triệu
đồng bạc Đông Dương.
Các tuyến đê sông Hồng luôn được chính quyền quan tâm đầu
tư xây dựng và củng cố nhất. Người Pháp tỏ ra hãnh diện về những
nỗ lực của họ trong việc xây dựng và củng cố đê điều ở Việt Nam,
trong đó đê sông Hồng được họ ca ngợi rằng “Đê sông Hồng có thể
sánh ngang với những hệ thống đê tốt nhất trên thế giới”1. Từ sau
năm 1930, cùng với việc củng cố các tuyến đê hiện có, chính quyền
Pháp tập trung vào xây dựng hệ thống đê quai, tuy nhiên vì khó
khăn về tài chính, chỉ một số đoạn đê quai được xây dựng, như:
Vĩnh Xuân (Hà Đông), Như Trác (Hà Nam).
Việc đắp mới nhiều tuyến đê, kè, cống, cải tạo, tôn cao, bồi trúc
đê cũ cùng với việc đào, nạo vét kênh rạch dưới thời Pháp có tác
động tích cực quan trọng trong việc bảo vệ, phát triển sản xuất và
đời sống dân cư. Về điều này, Toàn quyền Đông Dương, Pasquier
đánh giá: “Các tuyến đê chính là đỉnh cao nhất của vùng trung châu
đồng bằng, bảo vệ các loại cây trồng, làng mạc. Đê cũng được sử
dụng như những tuyến giao thông tuyệt vời, nhờ độ rộng, ô tô có
thể di chuyển dễ dàng trên đê”2.
Không thể phủ nhận những nỗ lực của chính quyền Pháp
trong việc đắp đê, đào kênh, khơi sông thoát lũ ở Việt Nam. Tuy
nhiên, cần phải thấy rằng, việc xây dựng các công trình đê, kè,
cống cùng các công trình khác của chính quyền thực dân Pháp
chủ yếu phục vụ cho mục đích chính trị, cai trị và bóc lột kinh
tế và bảo vệ các trung tâm chính trị - hành chính, kinh tế quan
trọng của người Pháp, đồng thời nhằm xoa dịu sự phản kháng,
đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống lại chính quyền thực
dân Pháp.
1
J. Gauthier, Digues du Tonkin,…sđd, tr.80.
2
Pierre Pasquier, l’Annam d’autrefois: essai sur la constitution de l’Annam avant
l’intervention française, Société d’Éditions géographiques, maritimes et coloniales,
Paris, 1930, tr. 301.

199
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Việc đắp đê, xây kè, làm cống của chính quyền thuộc địa Pháp
trong giai đoạn đầu cai trị chưa được đầu tư nhiều vốn và kĩ thuật,
vì thế kết quả rất hạn chế. Chỉ từ sau trận lụt kinh hoàng năm 1926,
việc đắp đê mới được đầu tư nhiều hơn trước về vốn, kĩ thuật mới
và triển khai mạnh mẽ. Tuy nhiên, từ khi Chiến tranh thế giới lần
thứ Hai bùng nổ, công việc đê, sông gần như bị đình trệ. Đây là một
trong những nguyên nhân khiến hệ thống đê bị xuống cấp và dẫn
tới trận lụt lịch sử vào năm 1945.
Thực tế một số một số tuyến đê, kè, cống, đập cũng bắt đầu
được xây dựng kiên cố, có ít nhiều hiệu quả. Cũng dễ nhận thấy,
mỗi khi chính quyền thực dân Pháp đầu tư nhiều vốn, kĩ thuật cho
việc đắp, củng cố đê, sông thì ít vỡ đê, sản lượng, năng suất lúa được
nâng lên (tuy không ổn định và còn bấp bênh); hạn chế được nhiều
hậu quả do thiên tai, lũ lụt, hạn hán gây ra. Kết quả đó một phần
do sự đầu tư vốn, kĩ thuật của chính quyền Pháp, nhưng phần lớn
là do sự đóng góp tiền của, sức lao động của nhân dân Việt Nam.
Việc đắp đê, xây kè, xây cống chủ yếu tập trung ở Đồng bằng
sông Hồng và chỉ tập trung vào đê sông, chủ yếu là đê sông Hồng
để bảo vệ vùng trung châu, nơi có nhiều cơ sở kinh tế, sở lỵ quan
trọng về chính trị, hành chính của chính quyền thuộc địa. Hệ thống
các đê sông khác, đặc biệt là đê sông ở Trung Kỳ và Nam Kỳ chưa
được đầu tư xây dựng nhiều. Hệ thống bậc thang hồ chứa ở thượng
du để điều tiết lũ, bảo vệ đê ở hạ du bước đầu được nghiên cứu,
nhưng chưa được thực hiện. Đê biển và các công trình bảo vệ bờ
biển, ngăn mặn hầu như chưa thực hiện được gì nhiều.

200
PHẦN THỨ BA
ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT
TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
ĐẾN NĂM 2020
Chương 6 :

ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT


TRONG GIAI ĐOẠN KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954)
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên
ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra
kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập dân tộc và
đi lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước được độc lập là yếu tố thuận lợi
quan trọng nhất đối với công tác xây dựng củng cố đê điều, phòng
chống lũ lụt của Việt Nam.

Tuy nhiên, trong năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, đất nước
đối mặt với muôn vàn khó khăn: kinh tế nông nghiệp nghèo nàn lạc
hậu, tài chính kiệt quệ, hạn hán, lũ lụt, nạn đói hoành hành. Từ khi
Nhật vào Đông Dương, sau nhiều năm không được quan tâm coi sóc,
bảo vệ nên hầu hết các tuyến đê, kè, cống ở Bắc Bộ xuống cấp trầm
trọng. Chính sách tàn bạo của phát xít Nhật bắt nhân dân ta nhổ lúa
trồng đay cùng với mất mùa do lũ lụt đã khiến hơn 2 triệu đồng bào
ta chết đói từ vụ mùa cuối năm 1944 đến vụ chiêm năm 1945.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra giữa lúc lũ các sông ở
Bắc Bộ lên cao. Ngày 17 tháng 8 năm 1945, mức lũ sông Hồng ở Hà
Nội dâng cao đến mức nguy kịch, đe dọa Thủ đô và các vùng phụ
cận. Trong những ngày sục sôi của cách mạng, chính quyền cách
mạng đã huy động các nhà chuyên môn và quản lý vận hành công
trình phân lũ đập Đáy.

Tuy nhiên, do đập Đáy gặp sự cố nên mục tiêu phân lũ không
thành. Đến ngày 20 tháng 8 năm 1945, tình thế trở nên nguy nan khi
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

mức lũ sông Hồng đo được tại Hà Nội lên tới đỉnh điểm +12,68m1.
Đây là mức lũ lớn nhất từ trước tới thời điểm đó khiến một số tuyến đê
thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bị vỡ tại 79 vị trí. Đê sông
Hồng bị vỡ nhiều đoạn thuộc phủ Lâm Thao và Hạc Trì (Phú Thọ), ở
Quảng Cư (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc), Hưng Nhân (Thái Bình)2, Mỹ Lộc
(Thư Trì, Thái Bình). Đê sông Phó Đáy bị vỡ ở Diêm Xuân (Vĩnh Tường,
Vĩnh Phúc); đê sông Cầu vỡ ở Lương Phúc (Đa Phúc, Phúc Yên), Bắc
Ninh. Đê sông Đáy vỡ ở Đông Lao (Hà Đông). Đê sông Bo vỡ ở Bất Bạt
(Sơn Tây). Đê sông Kinh Thầy vỡ ở Chí Linh (Hải Dương),...
“Ngày 17 tháng 8 năm 1945, khi mức nước lũ ở Hà Nội chưa
đến mức cao nhất [...] chính quyền mới đã cho mở đập Đáy để phân
lũ. Thao tác mở bắt đầu lúc 13 giờ cùng ngày. Mực nước thượng
lưu đập lúc ấy là +13,5m tương ứng với Hà Nội +11,86m. Bảy cửa
được mở từ từ trong 7 giờ liền từ +12,50m đến +11,50m [...]. Các
nhà chuyên môn được chính quyền cho phép, dự định tiếp tục mở
hết cỡ, đưa mặt cửa xuống đến +7,00m như thiết kế. Nhưng đến
+10,50m thì tất cả các cửa không hạ xuống được nữa [...]. Sáng ngày
19 tháng 8, cửa số 1 phía Sơn Tây thình lình sập như sự cố năm
1940 [...]. Do không phân lũ được qua đập Đáy, ngày 20 tháng 8
năm 1945, đê trên hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bị
vỡ nhiều chỗ. Vụ lũ năm 1945 đã khẳng định hệ thống đê Bắc Bộ
không chống nổi với mức nước trên +12,00m tại Hà Nội”3.
Đê bị vỡ gây ngập lụt hầu hết các tỉnh Đồng bằng sông Hồng,
nhấn chìm nhiều nhà cửa, ruộng vườn, cuốn trôi hoa màu, mùa màng,
312.000ha canh tác bị ngập sâu4, trong đó có 260.000ha lúa bị mất trắng.
1
Nguyễn Ty Niên, Chống giặc lũ trong những ngày cách mạng tháng 8 năm
1945, Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, số tháng 8 năm 2005, tr. 18 - 19.
2
Nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình
3
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Sơ thảo lịch sử đê điều Việt Nam, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội, 1995, tr. 147 – 148.
4
Ban chỉ huy phòng chống lụt bão Trung ương, Báo cáo của Bộ trưởng Nguyễn
Cảnh Dinh tại lễ kỷ niệm 40 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh 70, thành lập
Ủy ban Trung ương hộ đê, Hà Nội, 1996, tr.7.

203
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Đê vỡ, mùa màng bị mất trắng, cuộc sống của người dân vốn đã cực
khổ do hậu quả bóc lột của Pháp - Nhật, càng thêm khốn đốn.
Ở Trung Bộ, hệ thống đê, đặc biệt là đê biển chưa được xây dựng
đầy đủ. Ở Nam Bộ, phần lớn diện tích vẫn phụ thuộc vào thiên
nhiên, bị ngập úng, nhiễm phèn, nhiễm mặn do thiếu công trình đê
điều, kè, cống. Hằng năm, có lúc diện tích bị ngập lụt, nhiễm mặn,
nhiễm phèn lên tới hơn 3 triệu ha1. Trong các vùng thuộc bán đảo
Cà Mau, Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười, diện tích canh
tác mới chỉ đạt khoảng 10% diện tích đất.
Ngay sau khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng quân đồng minh,
thực dân Pháp đã có những âm mưu và hành động quay trở lại xâm
lược Việt Nam. Ngày 22 tháng 8 năm 1945, quân Pháp nhảy dù xuống
Tây Ninh mở đầu cho quá trình trở lại xâm lược Việt Nam, bắt đầu
từ đánh chiếm Nam Bộ. Tiếp đó, ngày 02 tháng 9 năm 1945, trong
khi hàng vạn nhân dân Sài Gòn đang tổ chức mít tinh chào mừng
ngày quốc khánh đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì
quân Pháp đã nổ súng bắn vào đoàn người tham gia làm 47 người
chết. Cùng lúc đó, ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng kéo vào nước
ta dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật,
nhưng kì thực là âm mưu chiếm đóng nước ta. Ở Bắc Bộ, hơn 20 vạn
quân Tưởng theo chân là các tổ chức phản cách mạng tràn qua biên
giới vào nước ta. Sau hiệp ước Pháp-Hoa được kí kết ngày 28 tháng
02 năm 1946, Pháp đưa quân đánh chiếm các tỉnh Bắc Bộ.
Để có thời gian chuẩn bị, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Chính phủ đã từng bước phải nhân nhượng với quân Tưởng để
đánh Pháp, rồi lần lượt ký với Pháp Hiệp ước Sơ bộ ngày 6 tháng 3
năm 1946, Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946.
Tuy nhiên, với dã tâm “quyết xâm lược nước ta một lần nữa”,
thực dân Pháp tìm cách phá hoại các điều ước đã ký, tiếp tục gây hấn
và chuẩn bị tấn công khắp nơi. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, hiệu triệu toàn

Nguyễn Cảnh Dinh, 50 năm thủy lợi-những chặng đường, in trong Bộ Thủy Lợi,
1

50 năm thủy lợi những chặng đường, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.13.

204
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

dân đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Từ năm 1945 đến
năm 1954, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp trong
hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Cùng với việc mở các chiến dịch quân
sự, thực dân Pháp còn thực hiện đánh phá hậu phương của ta, phá
hủy đê điều hòng phá hoại sản xuất.
Trong hoàn cảnh khó khăn ấy, Đảng, Chính phủ đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt, huy động
sức dân, chỉ đạo, ban hành các chính sách, biện pháp hiệu quả, kịp
thời đối với công tác đê điều, phòng chống lũ lụt.

II. THÀNH LẬP CƠ QUAN PHỤ TRÁCH ĐÊ ĐIỀU ĐẦU TIÊN VÀ CHÍNH SÁCH ĐẮP ĐÊ
PHÒNG LỤT CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA (1945 - 1946)
Trong hoàn cảnh khó khăn “ngàn cân treo sợi tóc” phải đối mặt
với nhiều thứ giặc: ngoại xâm, nội phản, giặc đói, giặc dốt, giặc lụt
và tình trạng tài chính kiệt quệ, Đảng và Nhà nước, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước đề ra những biện pháp trước
mắt và lâu dài để giải quyết khó khăn. Đối với nạn vỡ đê và giặc lụt,
chính quyền cách mạng non trẻ đã huy động sức dân khắc phục
hậu quả, gia cố đê điều, khôi phục và phát triển sản xuất, củng cố
bộ máy chính quyền từ Trung ương tới địa phương trong đó có việc
thành lập cơ quan phụ trách đê điều.
Ngày 3 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Chỉ
thị về những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước. Trong bài “Nhân tài
và kiến quốc” Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: cần kiến thiết ngoại giao,
kiến thiết kinh tế, kiến thiết quân sự và kiến thiết giáo dục. Trong
kiến thiết kinh tế, để giải quyết nạn đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu
gọi nhân dân thực kiện khẩu hiệu “tấc đất, tấc vàng” và “tăng gia
sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa”. Phát triển
sản xuất để diệt giặc đói và để “thực túc, binh cường”1. Người chỉ ra
rằng, muốn tăng gia sản xuất, diệt giặc đói cần tập trung khắc phục
hậu quả lũ lụt, tăng cường công tác đắp đê, trị thủy: “Vừa rồi nạn
1
Gửi nông gia Việt Nam, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4 (1945-1946), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995, trang 114-115.

205
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lụt đã phá hoại tám tỉnh sản xuất lúa gạo. Điều đó càng làm cho tình
hình trầm trọng hơn. Những người thoát chết đói nay cũng bị đói.
Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống?”1.
Làm gì để người dân khỏi chết đói? Câu hỏi thể hiện sự khắc
khoải và trách nhiệm to lớn của người đứng đầu Nhà nước cách
mạng đối với cuộc sống của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh, nếu đất nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc
tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Trên tinh thần đó, cùng
với thực hiện nhiều công việc quan trọng khác, Chính phủ đã thành
lập các cơ quan chuyên môn để tổ chức, lãnh đạo nhân dân hàn
khẩu những đoạn đê bị vỡ, khắc phục hậu quả lũ lụt, khôi phục và
đẩy mạnh sản xuất.
Ngày 28 tháng 8 năm 1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra Tuyên cáo chính thức về việc thành lập Chính
phủ lâm thời. Bản Tuyên cáo chỉ rõ:
“Hỡi quốc dân đồng bào! Toàn quốc đại biểu họp ngày 16, 17
tháng 8 năm 1945 cử ra Ủy ban dân tộc Giải phóng Việt Nam tức
là Chính phủ Nhân dân lâm thời Việt Nam để lãnh đạo nhân dân
tranh đấu quyền độc lập [...], tuân theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Ủy ban Dân tộc giải phóng đã quyết định tự cải tổ, mời
thêm một số nhân sĩ tham gia Chính phủ đặng cùng nhau gánh vác
nhiệm vụ nặng nề mà quốc dân đã giao phó cho”2.
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gồm 14
bộ do Hồ Chí Minh đứng đầu. Cùng với việc thành lập các Bộ: Quốc
phòng, Nội vụ, Tài chính, Kinh tế, Tư pháp,… trong Chính phủ lâm
thời khi đó có Bộ Giao thông Công chính phụ trách các vấn đề liên
quan tới xây dựng, quản lý công trình đê điều, thủy lợi và giao thông
do ông Đào Trọng Kim làm Bộ trưởng3. Ông Đào Trọng Kim giữ chức
1
Những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 4 (1945-1946), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.
Tuyên cáo ngày 28 tháng 9 năm 1945 về việc thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam
2

Dan chủ Cộng hòa, Việt Nam Quốc dân Công báo, số 1 ngày 29 tháng 9 năm 1945.
3
Tuyên cáo ngày 28 tháng 9 năm 1945 về việc thành lập Chính phủ lâm thời Việt

206
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bộ trưởng từ ngày 28 tháng 8 năm 1945 cho đến ngày 02 tháng 3 năm
1946. Ông không chỉ được coi là Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Thủy lợi
mà cũng là Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Giao thông Vận tải.
Cùng với việc thành lập Bộ Giao thông Công chính, ngày 03
tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh 41/SL giao cho
Bộ Giao thông Công chính tiếp quản các cơ quan công chính thuộc
Phủ toàn quyền Đông Dương, gồm các Sở: Hỏa xa, Vô tuyến điện,
Hải chính, Bưu điện, đặc biệt là Ban Tổng thanh tra Công chính
Đông Dương là cơ quan có chức năng quản lý đê điều.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu
tiên trong cả nước được tiến hành là thắng lợi quan trọng trong việc
củng cố chính quyền cách mạng. Trong khóa họp đầu tiên ngày 2
tháng 3 năm 1946, Quốc hội đã bầu ra Chính phủ Liên hiệp kháng
chiến gồm 10 bộ, trong đó có Bộ Giao thông Công chính. Tổ chức các
cơ quan thuộc Bộ Giao thông Công chính khi đó gồm: Văn phòng,
Ty Tố tụng và Pháp chế, Ty Chuyên môn công chính, Ty Giao thông,
Ty Kiến thiết đô thị và Kiến trúc,… Trong đó Ty Chuyên môn công
chính có chức năng và nhiệm vụ là nghiên cứu các công tác tân tạo:
đê điều, công trình thủy nông, đường xe lửa và xe điện, đường điện
tín và điện thoại1. Ngày 03 tháng 11 năm 1950, Ty Chuyên môn công
chính được tổ chức lại thành Nha Công chính2.
Ông Trần Đăng Khoa khi đó là Phó Tổng thư kí Đảng Dân
Chủ Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra giữ cương vị Bộ
trưởng Bộ Giao thông Công chính cho tới năm 1955. Bộ trưởng Trần

Nam Dan chủ Cộng hòa,...đã dẫn.


1
Nghị định ngày 26 tháng 02 năm 1946 tổ chức Bộ Giao thông công chính; Sắc
lệnh số 50 ngày 13 tháng 4 năm 1946 về tổ chức bộ máy và nhiệm vụ các cơ quan
trực thuộc Bộ Giao thông công chính; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
70 năm nông nghiệp Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội, 2015, tr.65.
2
Sắc lệnh số 162/SL ngày 17 tháng 11 năm 1950 thành lập Nha Công chính thuộc
Bộ Giao thông công chính; Sắc lệnh số 29/SL ngày 12 tháng 6 năm 1951 tạm thời
hợp Nha Công chính và Nha Hỏa xa thuộc Bộ Giao thông công chính thành
Nha Công chính - Hỏa xa; Sắc lệnh số 156/SL ngày 30 tháng 4 năm 1953 về
thành lập Nha Giao thông và Nha Công chính thuộc Bộ Giao thông công chính

207
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Đăng Khoa được nhận xét là người giản dị, có phong cách làm việc
khoa học, đúng giờ. Ông từng học Trường Cao đẳng Công chính ở
Hà Nội và lấy bằng Kĩ sư công chính vào năm 1932. Bộ trưởng Trần
Đăng Khoa thông thạo tiếng Hán và tiếng Pháp, là người có nhiều
đóng góp cho công tác đê điều Việt Nam trong những năm tháng
đầy khó khăn, thử thách của cuộc kháng chiến chống Pháp và giai
đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Đặc biệt, ngày 22 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký Sắc lệnh số 70-SL thành lập Ủy ban Trung ương Hộ đê. Ủy ban
này có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất kế hoạch chống lụt và kiểm
soát việc bảo vệ đê điều. Chủ tịch Ủy ban Trung ương Hộ đê được
giao cho ông Nguyễn Xiển, khi đó là Chủ tịch Ủy ban hành chính
Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Nha Khí tượng1. Sắc lệnh 70-SL là văn kiện
cơ bản đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy
định, phân định việc quản lý đê điều từ Trung ương tới địa phương,
đặt nền móng đầu tiên về tổ chức quản lý đê điều, phòng và chống
lụt, bão. Ngày ban hành Sắc lệnh 70-SL thành lập Ủy ban Trung
ương hộ đê trở thành Ngày truyền thống phòng, chống thiên tai
của Việt Nam theo Quyết định số 89/HĐBT ngày 21 tháng 3 năm
1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
Theo Sắc lệnh 70-SL ngày 22 tháng 5 năm 1946, chính quyền các
cấp và toàn thể nhân dân phải có trách nhiệm hộ đê, phòng chống
lũ lụt. Chính phủ khuyến khích toàn dân tham gia hộ đê, cá nhân,
tổ chức có công trong việc hộ đê, bảo vệ đê điều sẽ được thưởng từ
50 đến 100 đồng2. Đơn vị hành chính các cấp phải cắt cử người hộ
đê. Cán bộ hộ đê không làm hết trách nhiệm, tự bỏ quãng đê được
cắt cử trông coi thì bị phạt từ 6 ngày đến 1 năm tù. Đối với viên
chức, nếu không hoàn thành trách nhiệm hoặc vi phạm sẽ bị giáng
chức, cách chức hoặc bị phạt tù tùy theo mức độ.
Theo Sắc lệnh, trong trường hợp khẩn cấp, chính quyền các
cấp có quyền trưng thu, trưng dụng, trưng tập vật liệu, dụng cụ cần
1
Ủy ban hành chính Bắc Bộ, Chống nạn hồng thủy ở Bắc Bộ: chương trình hộ đê và
cẩm nang sách hộ đê, Nhà in Rạng Đông, Hà Nội, 1948, tr.4.
2
Ủy ban hành chính Bắc Bộ, Chống nạn hồng thủy ở Bắc Bộ,..sđd, tr.10.

208
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

thiết của người dân cho việc hộ đê. Tất cả người dân, không phân
biệt nam hay nữ từ 18 đến 55 tuổi đều có nghĩa vụ tham gia hộ đê
trong trường hợp nguy cấp nếu được chính quyền trưng tập. Nếu
ai ngăn cản, chống đối hoặc trốn tránh không tham gia sẽ bị phạt1.
Năm 1946, Chính phủ ban hành chương trình hộ đê, quy định
rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chuyên trách các cấp. Theo
đó, Ủy ban Trung ương hộ đê chịu trách nhiệm xây dựng chương
trình hộ đê, kế hoạch thực hiện, dự trù kinh phí, cung cấp vật liệu,
dụng cụ cần thiết, phát lệnh báo động, kiểm soát việc sửa chữa đê
và đóng mở cống. Cấp tỉnh có nhiệm vụ ấn định chương trình hộ đê
trong tỉnh, tuyển lựa, tổ chức tập huấn cho cán bộ hộ đê, kiểm soát
hệ thống đê trong tỉnh, quyết định việc đóng, mở cống. Cấp phủ và
huyện tổ chức khám đê hai ngày một lần, kiểm tra vật liệu, dụng cụ,
huy động, chỉ đạo nhân dân hộ đê trong trường hợp khẩn cấp và
báo cáo hàng ngày cho chính quyền cấp tỉnh.
Về đội ngũ cán bộ hộ đê ở cấp phủ và huyện do chính quyền cử
ra và phải có sức khỏe tốt, tốt nhất là nhà gần đê, có xe đạp và được
nhân dân tín nhiệm. Sau khi được lựa chọn, cán bộ hộ đê phải trải
qua một lớp tập huấn ở tỉnh ít nhất trong vòng mười ngày. Mỗi cán
bộ hộ đê phụ trách khoảng 20km đê. Nhiệm vụ của cán bộ hộ đê
là theo dõi, giám sát đê, chỉ đạo công nhân tuần phòng, đánh dấu
những chỗ hư hỏng, tiến hành chỉ đạo tu bổ, sửa chữa hoặc báo cáo
cấp trên trong trường hợp khẩn cấp. Cấp xã phối hợp với cấp trên
trong việc huy động nhân lực, vật liệu, dụng cụ hộ đê. Bình thường
thì đi khám đê hai ngày một lần, nếu báo động cấp hai thì mỗi ngày
khám đê một lần. Nếu phát hiện đê hư hỏng phải báo cáo cho cán
bộ hộ đê và chính quyền hành chính cấp phủ và huyện.
Chương trình hộ đê năm 1946 cũng quy định chế độ trợ cấp,
thưởng, phạt đối với nhân dân và cán bộ hộ đê. Mỗi cán bộ phụ trách
20km đê được hưởng 150 đồng/tháng. Người dân tham gia hộ đê
hưởng số tiền tương đương giá 1kg gạo/ngày (cấp 10 ngày một lần)2.
1
Ủy ban hành chính Bắc Bộ, Chống nạn hồng thủy ở Bắc Bộ,..sđd, tr.12.
2
Ủy ban hành chính Bắc Bộ, Chống nạn hồng thủy ở Bắc Bộ,..sđd, tr.14.

209
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Những ai được phân công hộ đê mà tự ý bỏ việc hoặc không tuân theo


lệnh trưng dụng vật liệu, dụng cụ cho việc hộ đê sẽ bị phạt tù1. Chương
trình hộ đê là bản kế hoạch, văn bản chỉ đạo quan trọng của Nhà nước
đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng quản lý, tu bổ và bảo vệ
đê điều. Đặc biệt, qua văn bản này, Nhà nước đã gắn trách nhiệm của
cán bộ, nhân dân với quyền lợi của bản thân, lợi ích của đất nước, thúc
đẩy công tác đắp đê, phòng chống lụt bão phát triển.
Cùng với đó, Đảng, Nhà nước đã tuyên truyền, phổ biến tác hại
của lũ, lụt,lợi ích của việc đắp đê, kêu gọi toàn dân ra sức phòng, chống
và diệt giặc lụt. Trong bài nói chuyện với nông dân và điền chủ Hưng
Yên ngày 10 tháng 01 năm 1946, Chủ tịch Hồ chí Minh chỉ rõ, cần chăm
lo công việc đắp đê để phòng nạn lụt vì nếu đê vỡ ruộng đất sẽ mất,
dân nghèo sẽ đói, điền chủ mất thóc, thương gia cũng ít phát tài. Người
kêu gọi tất cả người dân đều phải hăng hái góp sức vào việc đắp đê,
thân hào thì góp tiền, thóc để cho nhân dân đi đắp đê.

Hình 13. Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm nhân dân Hưng Yên
đắp đê phòng lụt tháng 01 năm 1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh ví việc đắp đê, phòng, chống lũ lụt như
việc uống thuốc phòng bệnh, phải chủ động làm trước, làm tốt

1
Ủy ban hành chính Bắc Bộ, Chống nạn hồng thủy ở Bắc Bộ,..sđd.

210
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

trước khi có lũ, không nên đợi ốm rồi mới uống thuốc1. Quốc lệnh
của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban bố ngày 26 tháng
1 năm 1946 chỉ rõ, Nhà nước khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân
góp công, góp của vào việc đắp đê, xây dựng cầu, cống. Ai bỏ tiền ra
đắp đê, xây dựng cầu, cống sẽ được thưởng (Điều 7). Ngược lại, ai
tự ý phá hoại sẽ bị phạt tù, thậm chí là tử hình2.
Sau ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 20 tháng 12
năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh xóa bỏ các đơn vị hành
chính cũ, chia cả nước thành 16 khu, sau đó sáp nhập một số khu
thành liên khu theo Sắc lệnh 120-SL ngày 25 tháng 01 năm 1948. Để
phù hợp với đơn vị hành chính mới cũng như tình hình chiến sự,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 194-SL ngày 28 tháng
5 năm 1948 bãi bỏ Ủy ban Trung ương hộ đê, thành lập Ủy ban Bảo
vệ đê điều các cấp liên khu, tỉnh, huyện và xã. Theo đó, Chủ tịch Ủy
ban bảo vệ đê điều các cấp liên khu, tỉnh, huyện, xã là Chủ tịch Ủy
ban Kháng chiến hành chính các cấp tương đương. Phó chủ tịch Ủy
ban Bảo vệ đê điều cấp liên khu là Giám đốc Công chính liên khu,
cấp tỉnh là Trưởng ty Công chính tỉnh, đối với cấp huyện và xã là
nhân viên Công chính.
Cùng với việc thành lập, kiện toàn tổ chức quản lý đê điều các
cấp, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc
đào tạo đội ngũ cán bộ đê điều. Ngày 15 tháng 10 năm 1945, Chính
phủ cho thành lập Trường Cao đẳng Kĩ thuật công chính để đào
tạo cán bộ, công nhân xây dựng giao thông, đê điều, thủy lợi. Trong
khóa đầu tiên, trường đã tuyển 44 học sinh theo học. Từ năm 1945
đến 1954, Trường đã đào tạo được 389 cán bộ có trình độ cao đẳng
và trung cấp, trong đó có cán bộ quản lý, xây dựng đê điều3. Đây
1
Nói chuyện với nông dân và điền chủ Hưng Yên, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4
(1945-1946), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, trang 154.
2
Quốc Lệnh ngày 26 tháng 01 năm 1946, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4 (1945-1946),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, trang 164.
3
Nguyễn Xuân Bảo, Sự nghiệp giáo dục và đào tạo của ngành thủy lợi trong 50
năm qua, in trong Bộ Thủy Lợi, 50 năm thủy lợi những chặng đường,… sđd, tr.108.

211
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

là đội ngũ cán bộ được đào tạo đầu tiên dưới chế độ giáo dục mới
của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cùng với đó, Chủ tịch
Hồ Chí Minh kêu gọi nhân sĩ, trí thức người Việt được đào tạo dưới
chế độ thuộc địa ở Việt Nam và đang định cư ở Pháp về nước giúp
Chính phủ kiến thiết, phát triển đê điều. Đã có một số kĩ sư, công
nhân kĩ thuật theo tiếng gọi của non sông trở về cống hiến cho sự
nghiệp phát triển đê điều, phòng chống lụt bão.
Công tác hàn khẩu những đoạn đê vỡ, sửa chữa, củng cố các
tuyến đê là một vấn đề quan trọng được bàn thảo trong các cuộc
họp của Chính phủ. Trong cuộc họp Hội đồng Chính phủ ngày 11
tháng 10 năm 1945 và ngày 29 tháng 10 năm 1945, thay mặt Chính
phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo cần dốc kinh phí và phân bổ
kinh phí nhà nước hợp lý, đồng thời kêu gọi sự đóng góp của nhân
dân để khẩn cấp sửa chữa các đoạn đê vỡ và củng cố các tuyến
đê xung yếu. Mặc dù trong hoàn cảnh rất khó khăn về tài chính,
nhưng trong năm đầu sau cách mạng, Chính phủ đã bố trí 38 triệu
đồng cho sửa chữa và gia cố đê điều1. Đây là số tiền rất lớn trong
hoàn cảnh khó khăn lúc đó, riêng hàn khẩu những đoạn đê vỡ chi
phí lên tới 2 triệu đồng bạc Đông Dương, bằng toàn bộ số tiền trong
kho bạc Nhà nước có lúc đó2. Điều này thể hiện sự quan tâm đầu tư
của Chính phủ và vị trí, vai trò của đê đối với sự nghiệp kháng chiến
và kiến quốc của dân tộc.
Ngày 26 tháng 11 năm 1945, Chủ tịch Ủy ban hành chính
Bắc Bộ Nguyễn Xiển kí ban hành Thông tư số 105-PI gửi các tỉnh
về kế hoạch đắp lại những đoạn đê bị vỡ do trận lũ tháng 8 năm
1945 gây ra. Thông tư chỉ rõ đắp đê có quan hệ tới đời sống của
đồng bào và phải trông cậy vào sự đoàn kết, giúp sức của toàn
thể quốc dân. Ai không thực hiện sẽ có tội với quốc dân và có tội
với lịch sử. Đắp đê thì cần có tiền và thóc gạo. Chính phủ cấp 6
1
Nguyễn Ty Niên, Chống giặc lũ trong những ngày cách mạng tháng 8 năm
1945,…sđd.
2
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Sơ thảo lịch sử đê điều Việt Nam,...sđd,
tr. 148.

212
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

triệu đồng cho chương trình đắp đê cuối năm 1945. Còn thóc thì
kêu gọi, yêu cầu nhân dân đóng góp, không phân biệt dân tỉnh
có đê hay dân tỉnh không có đê. Theo đó, mỗi điền chủ sở hữu
dưới 3 mẫu ruộng thì góp mỗi mẫu 1 kg thóc; điền chủ sở hữu từ
3 đến 10 mẫu thì góp mỗi mẫu 2kg; điền chủ có từ 10 mẫu ruộng
trở lên thì góp mỗi mẫu 3kg thóc.
Trong hoàn cảnh đất nước khó khăn, ông Nguyễn Xiển đề xuất
với Chủ tịch Hồ Chí Minh huy động sự trợ giúp của những thầu
khoán cho việc đắp đê. Nghe xong Bác cười và nói “Thầu khoán
giúp dân chống lụt lúc này là yêu nước”. Trong thời gian này, đích
thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ trưởng Bộ Giao thông Công
chính đi kiểm tra, đôn đốc công tác đắp đê ở các tỉnh Hưng Yên,
Nam Định, Hà Nam và Thái Bình1.
Nhờ chỉ đạo, động viên to lớn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và đầu tư của Nhà nước, cùng sự tham gia, đóng góp của
nhân dân nên đến cuối năm 1946, về cơ bản việc hàn gắn các đoạn
đê bị vỡ đã hoàn thành. Nhân dân đóng góp hàng triệu ngày công,
tổng khối lượng đào đắp đạt gần 4 triệu m3, trong đó 2,8 triệu m3
đất ở Bắc Bộ và hơn 1 triệu m3 ở Trung Bộ. Hệ thống đê điều đã
được củng cố vững chắc hơn trước, đập Đáy được sửa chữa hoàn
thành như nguyên trạng.
Việc hàn gắn các đoạn đê bị vỡ, khắc phục nhanh chóng hậu
quả hậu quả do trận lụt tháng 8 năm 1945 thể hiện vai trò to lớn của
chính quyền cách mạng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong
việc chỉ đạo, tổ chức huy động lực lượng toàn dân tham gia sửa
chữa, củng cố đê điều. Sau khi lũ rút, để giải quyết nạn đói, Chính
phủ đã chỉ đạo các cấp cùng nhân dân cấy tái giá và trồng rau màu
thay thế diện tích lúa bị hỏng. Kết quả là, hơn 40% diện tích lúa bị
hỏng đã được cấy tái giá và trồng rau màu. Những diện tích bị ngập
lụt được Chính phủ miễn thuế hoàn toàn. Nhờ thế mà đến giữa

Nguyễn Ty Niên, Chống giặc lũ trong những ngày cách mạng tháng 8 năm
1

1945,…sđd.

213
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

năm 1946 nạn đói về cơ bản đã được giải quyết, tạo tiền đề cơ sở
vững chắc cho cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kì.

III. CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, GIA CỐ ĐÊ, KÈ, CỐNG TRƯỚC ÂM MƯU PHÁ HOẠI CỦA THỰC
DÂN PHÁP (1946 - 1954)
Sau ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ, toàn bộ cơ quan
Trung ương, trong đó có Bộ Giao thông Công chính và các cơ
quan, cơ sở giáo dục trực thuộc đã di chuyển lên vùng tự do. Để
cản đường quân Pháp tiến công và không cho chúng lợi dụng cơ
sở hạ tầng giao thông, cầu cống tiến đánh quân ta, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ trương tiêu thổ kháng chiến, phá bỏ một
số cầu, cống.
Trong lời kêu gọi phá hoại kinh tế địch để kháng chiến, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, “Vì sao ta phải kháng chiến? Vì Pháp muốn
cướp nước ta một lần nữa […]. Ta phải giữ gìn non sông đất nước
cho nên ta phải đánh bọn thực dân Pháp. Đánh thì ta phải phá
hoại […]. Nếu ta không phá đường, phá cống, lấp sông, lấp ngòi
thì Pháp sẽ đem tàu thủy, xe tăng đến đánh ta”1. Người khẳng định
và hứa với nhân dân, kháng chiến thắng lợi, Đảng và Nhà nước sẽ
cùng nhân dân tu bổ, làm lại đường xá, cầu, cống tốt hơn. Công tác
tiêu thổ kháng chiến trong những vùng Pháp tạm chiếm nhằm mục
đích không cho địch thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến
tranh”. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước cũng chỉ rõ:
“Đối với kho tàng, nhà máy, cầu, cống, […] chủ trương của ta
là: Những cái gì có quan hệ trực tiếp đến quân sự, đến chiến tranh,
thì phá, nhưng phải cân nhắc lợi hại. Nếu hại cho địch nhiều, mà
không hại đến nhân dân, đến cơ sở thì phá. Nếu chưa có điều kiện
phá hoại to thì phá hoại thường xuyên để gây thiệt hại cho địch”2.
1
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, 1947-1949, (xuất bản lần thứ hai), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.25.
2
Kinh tế Việt Nam từ cách mạng tháng Tám tới kháng chiến thắng lợi (1945 -1954), Nxb
khoa học, 1966, tr.421

214
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Trong giai đoạn này, công tác đê điều, phòng chống lụt bão gặp
rất nhiều khó khăn do tình hình chiến sự diễn ra ác liệt, thiếu thốn
trang thiết bị, vật tư. Sau khi chiếm được các đô thị lớn, thực dân
Pháp một mặt mở các chiến dịch quân sự đánh lên Việt Bắc hòng
tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến. Mặt khác, Pháp âm mưu
phá hoại kinh tế, hậu phương, đặc biệt là phá hoại các công trình
đê điều, thủy lợi, bao vây, cô lập Việt Bắc bằng hệ thống vành đai
trắng, chia cắt Việt Bắc với vùng đồng bằng. Pháp coi việc phá hoại
các công trình đê điều, thủy lợi là hành động chiến tranh cần thiết
để phá hoại kinh tế và hậu phương kháng chiến của Việt Nam.
Ở Bắc Bộ, năm 1947, Pháp cho lấp cửa cống Liên Mạc, gây thiếu
nước trầm trọng cho 45.000 ha. Sau thất bại trong chiến dịch Việt Bắc,
từ năm 1948, quân Pháp ngày càng tăng cường đánh phá vào các
công trình đê điều, thủy lợi. Năm 1949, 1950, Pháp cho quân phá
đường khuyến nông, đập Nẹt, sáu lần đặt mìn phá đê sông Đuống
ở Bắc Ninh1. Năm 1951, 1952, Pháp phá đập Thác Huống, cống Vạn
Già, phá đê Kim Đôi ở Bắc Ninh, phá kè Thác Oánh ở Bắc Giang, lấp
cống Trà Linh ở Thái Bình. Ngày 12 tháng 8 năm 1952, thực dân Pháp
huy động 40 máy bay ném bom bắn phá vùng tự do Việt Bắc, đặc biệt
là hệ thống giao thông, đê điều, thủy lợi. Hệ thống thủy nông sông
Cầu bị quân Pháp bắn phá dữ dội và hỏng gần như hoàn toàn. Tháng
1 năm 1953, máy bay Pháp tiếp tục dội 64 quả bom xuống đập Thác
Huống, cống Vạn Già bị phá hủy, toàn bộ nước từ hệ thống thủy
nông rốc kiệt ra sông Cầu, làm hơn 20.000ha ruộng không có nước để
sản xuất, việc di chuyển bằng đường thủy bị ngưng trệ2.
Ở Trung Bộ, Pháp cho phá các đập An Trạch ở Quảng Nam,
đập Thanh Đề, Cẩm Thạch, Phước Hòa ở Quảng Ngãi, Bình Định,
đặt mìn phá vỡ đập Đồng Cam gây ngập lụt và sau đó là hạn hán,
hơn 30.000 mẫu lúa không có nước tưới. Tháng 6 năm 1952, Pháp
1
Ban liên lạc nông dân toàn quốc, Vài kinh nghiệm thi đua sản xuất, Bộ Canh nông
xuất bản, 1952, tr.23.
2
Phục hồi hệ thống nông giang sông Cầu, Tạp chí Thủy lợi và Kiến trúc, số 39 ngày
20 tháng 8 năm 1958.

215
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

cho ném bom, bắn phá hệ thống thủy nông sông Chu, đập Bái
Thượng, cống Phong Lạc, Bàn Thạch và hệ thống kênh mương.
Hầu như các công trình này đều bị hư hỏng nặng, hơn 50.000ha
lúa bị thiệt hại vì thiếu nước. Tiếp đó, Pháp ném bom phá hoại
hệ thống thủy nông Nam và Bắc Nghệ An, đập Đô Lương bị tàn
phá nặng nề.
Cho đến năm 1953, hầu hết các công trình thủy lợi quan trọng
đều bị quân Pháp phá hủy, nhiều tuyến đê, kè, đập bị hư hỏng
nặng, nhiều cống bị đánh sập, gây nhiều khó khăn cho phát triển
kinh tế và cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Trong những
năm 1952-1954, âm mưu phá hoại của Pháp đã gây ra tình trạng lụt
lội, hạn hán, ngập mặn, làm thiệt hại từ 30% đến 90% mùa1.
Cái khó trong giai đoạn 1945-1954 là phần lớn hệ thống đê điều
nằm trong các vùng do quân Pháp kiểm soát. Trong tình hình đó,
trước âm mưu và hành động phá hoại các công trình đê, kè, cống
của Pháp, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã tìm ra
phương thức quản lý và chỉ đạo phù hợp đối với công tác đắp đê,
phòng, chống lũ lụt.
Đối với thân hào, địa chủ, quan lại chế độ cũ, Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ và Chính phủ chỉ đạo chính quyền địa phương khéo léo
sử dụng, lôi kéo họ về phía cách mạng, vận động họ phản đối chính
sách phá hoại đê, kè, cống của thực dân Pháp. Cán bộ kháng chiến cần
giúp đỡ, bảo vệ nhân dân, cùng với nhân dân bảo vệ sản xuất, sửa đắp
đê điều, giúp dân cày cấy, gặt hái, thu hoạch mùa màng.
Đối với nhân dân, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên
chỉ đạo cán bộ vận động nhân dân trong các vùng tự do chăm lo
việc sửa, đắp, hộ đê, phòng chống lụt. Ở các vùng bị địch chiếm
đóng, đẩy mạnh việc tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân
đấu tranh, gây sức ép buộc chính quyền Pháp và tay sai tổ chức đắp
đê, bảo vệ mùa màng.
1
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 70 năm nông nghiệp Việt Nam,…sđd,
tr.119.

216
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hằng năm, trước mùa mưa lũ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư
nhắc nhở, động viên và kêu gọi nhân dân, chỉ đạo cán bộ tích cực bảo
vệ đê, phòng chống lụt. Hồ Chủ tịch nhắc nhở, phải coi lũ lụt là một
thứ giặc cần phòng, chống và đánh lui như đánh lui giặc ngoại xâm.
Trong thư gửi cán bộ và nhân dân các tỉnh có đê năm 1947, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh, lũ lụt cũng là một thứ giặc ghê gớm. Vậy nên
cần phải ra sức phòng, chống lũ lụt như chống giặc ngoại xâm:
“Tôi tha thiết kêu gọi đồng bào bất kì già trẻ, trai gái, mọi người
đều phải coi việc canh đê, phòng lụt là việc thiết thân của mình”1.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lý giải “lụt thì lụt cả làng, muốn cho khỏi lụt
thiếp chàng cùng lo”2.
Người nhấn mạnh việc đắp đê, phòng lụt là vô cùng quan trọng,
thắng được giặc lụt sẽ bảo vệ cuộc sống của người dân, phát triển
kinh tế, góp phần đánh thắng giặc Pháp3. Việc phòng chống lũ lụt
phải chủ động, đi trước, không để nước đến chân mới nhảy. Mọi
người phải nêu cao cảnh giác, ai cũng phải canh đê, sửa đê, chỗ nào
sạt lở, tất cả dân làng nơi có đê và nhân quân gần đó phải tới giúp sức,
đoàn kết thực hiện. Người chỉ rõ, bảo vệ, giữ vững đê điều cũng là
kháng chiến, thế nên toàn dân trong vùng tạm chiếm, tiền tuyến hay
hậu phương cần huy động nhân lực, vật lực để giữ vững đê điều4.
Đối với âm mưu và hành động phá hoại đê điều, cống, kè của
thực dân Pháp, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã kịp thời
chỉ đạo các ngành các cấp cùng nhân dân phải tỉnh táo, cảnh giác đề
phòng, đối phó với âm mưu phá hoại công trình đê điều, thủy nông
của quân Pháp. Cán bộ và nhân dân phải kết hợp chặt chẽ giữa giữ,
bảo vệ công trình với tăng gia sản xuất và đánh giặc ngoại xâm. Đánh
giặc để giữ làng, giữ nước, giữ đê để bảo vệ mùa màng, phát triển sản
1
Thư gửi đồng bào trung du và hạ du chống lụt tháng 6 năm 1947, Bác Hồ với
thủy lợi,… sđd, tr. 23.
Thư gửi đồng bào các tỉnh có đê tháng 6 năm 1948, Bác Hồ với thủy lợi,… sđd, tr. 27.
2

3
Thư gửi đồng bào trung du và hạ du chống lụt tháng 6 năm 1947, Bác Hồ với
thủy lợi,… sđd, tr. 25.
Thư gửi đồng bào các tỉnh có đê tháng 6 năm 1948, Bác Hồ với thủy lợi,… sđd, tr. 27.
4

217
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

xuất. Để làm tốt được điều đó, cần phải theo dõi sát tình hình chiến sự,
tình hình địa phương, lập kế hoạch, phối hợp chặt chẽ giữa cán bộ với
quân đội và nhân dân, thống nhất thực hiện và đối phó1.
Trong hoàn cảnh đất nước còn rất nhiều khó khăn, lại phải vừa
chống chọi với thiên tai, vừa phải chống địch họa, từ năm 1946 đến
năm 1949, ở Bắc Bộ, hệ thống đê tiếp tục được củng cố, nên không
xảy ra vỡ đê, bước đầu chiến thắng được giặc lụt. Chỉ tính riêng các
tỉnh thuộc Bắc liên khu IV, năm 1947 đã đào đắp được 405.000m3 đất
củng cố hệ thống đê.
Năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết và đánh giá:
“Mấy năm liền ta đã tránh được nạn lụt, do đó mà tránh được khỏi
nạn đói. Thành công đó là nhờ sự cố gắng chung của toàn thể đồng
bào, nhờ các cụ phụ lão, các đoàn thể, cơ quan hành chính, chuyên
môn, bộ đội và toàn dân đồng tâm hiệp lực, xuất của, xuất công”2.
Từ sau năm 1950, cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai
đoạn cam go, quyết liệt. Quân Pháp tăng cường càn quét, đánh phá
hậu phương, phá hoại đê, cống, đập. Cùng với đó, tình hình lũ lụt
diễn biến phức tạp hơn, công tác đắp đê, phòng lụt vì thế gặp nhiều
khó khăn hơn trước. Năm 1950, mưa lớn, lũ ở các tỉnh miền Trung
lên cao, nhiều tuyến đê sông Mã, sông Cả và sông La bị vỡ, gây
nhiều thiệt hại. Năm 1952, bão đổ bộ vào Bắc Bộ gây mưa to, nước
biển dâng gây vỡ đê biển ở Nam Định làm ngập lụt hàng vạn ha
lúa ở Hải Hậu, Ninh Cơ. Cùng năm này, lũ lớn cũng xảy ra ở Nam
Trung Bộ cuốn trôi nhiều nhà cửa, ruộng vườn, sản lượng lúa bị
thiệt hại từ 30 đến 90%3.
Đầu năm 1954, ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, có 66.000ha ruộng
không thể cày cấy vì thiếu nước. Tiếp đó, giữa năm 1954, mưa lớn
kéo dài, mặc dù đê không vỡ nhưng do nhiều công trình cống, đập,
1
Thư gửi đồng bào các tỉnh có đê ngày 02 tháng 6 năm 1952, Bác Hồ với thủy lợi,…
Sđd, tr. 35.
Kêu gọi đồng bào giữ đê ngày 14 tháng 6 năm 1949, Bác Hồ với thủy lợi,… sđd, tr. 29.
2

3
Phan Khánh (Cb), Lịch sử thủy lợi Việt Nam, sđd,…tr.262.

218
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

kè bị quân Pháp phá hỏng, nên gây ngập lụt lớn ở Bắc Bộ và Trung
Bộ. Ở Bắc Bộ có 100.464ha lúa và hoa màu bị mất trắng; ở Bắc Trung
Bộ, có 40.051ha bị ngập và mất trắng (Thanh Hóa: 8.051ha, Nghệ
An: 20.000ha, Hà Tĩnh: 12.000ha), hàng nghìn nhà cửa bị cuốn trôi
và rất nhiều người bị chết đuối, thiệt hại là vô cùng lớn1.
Có thể nói giai đoạn 1946 - 1954 là những năm tháng đầy khó
khăn và thử thách đối với sự nghiệp cách mạng đấu tranh giải phóng
dân tộc nói chung và công tác đắp đê, phòng, chống lũ lụt nói riêng
của Việt Nam. Trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, Đảng, Nhà
nước và nhân dân Việt Nam vừa phải dồn sức cho cuộc kháng chiến
chống Pháp, vừa phải đấu tranh chống thiên tai, lũ lụt và âm mưu
phá hoại đê điều của quân Pháp. Vượt qua mọi khó khăn, Nhà nước
đã cùng với nhân dân đánh thắng được giặc lụt, tổng khối lượng
đào, đắp đê đạt gần 5 triệu m3. Kể từ sau năm 1945 đến đầu năm
1954 không có sự cố vỡ đê nào lớn xảy ra2.
Thành tựu này góp phần quan trọng vào việc bảo vệ, phát triển
sản xuất, cung cấp đủ lương thực cho chiến trường, làm nên thắng
lợi Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ của dân tộc. Đó là
tiền đề cho công tác đê điều, phòng chống lũ lụt bước vào giai đoạn
mới phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất
nước nhà (1954 - 1975).

1
Phan Khánh (Cb), Lịch sử thủy lợi Việt Nam, sđd,…tr.262-263.
2
Thống kê khối lượng, kinh phí xây dựng cơ bản đê điều đã thực hiện trong 50
năm 1946 - 1995 (Tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp).

219
Chương 7 :

ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT ...

TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 - 1975)

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐÊ
ĐIỀU, PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT TRONG GIAI ĐOẠN 1954 - 1957
Sau khi Hiệp định Genève được kí kết, ngày 01 tháng 01 năm
1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ về thủ
đô Hà Nội trong tiếng reo hò, hân hoan của hơn 25 vạn quần chúng.
Ngày 16 tháng 5 năm 1955, toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hải
Phòng. Miền Bắc được giải phóng là một thắng lợi to lớn của cách
mạng Việt Nam, tạo cơ sở cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Từ năm 1950, đặc biệt là sau năm 1954, Việt Nam nhận được
sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, nhất là của các nước
xã hội chủ nghĩa, như Trung Quốc, Liên Xô, Triều Tiên, Tiệp Khắc,
Rumani,… Không chỉ ủng hộ về ngoại giao, các nước xã hội chủ
nghĩa còn giúp đỡ Việt Nam khôi phục, phát triển kinh tế, trong
đó có việc nghiên cứu trị thủy, cung cấp trang thiết bị, vật tư, máy
móc, đào tạo cán bộ, công nhân kĩ thuật đê điều, thủy lợi. Cùng
với sự kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm, truyền thống
đắp đê từ trước, sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa là một trong những nhân tố thuận lợi cho công cuộc phát
triển đê điều ở miền Bắc.
Thực tế, sau khi miền Bắc được giải phóng, công cuộc xây dựng
xã hội chủ nghĩa nói chung và công tác đê điều nói riêng đối mặt
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

với nhiều khó khăn và thách thức. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ lập
ra chính quyền tay sai, âm mưu xâm lược và biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới. Ở miền Bắc, trong quá trình rút quân, Pháp thực
hiện chính sách phá hoại nhiều cơ sở kinh tế, cầu cống, đường xá,
nhà máy điện, tháo dỡ thiết bị, máy móc hòng gây khó khăn cho ta.
Pháp lợi dụng lòng tin của nhân dân, tuyên truyền, tung tin, dụ dỗ
đồng bào công giáo, mua chuộc, lôi kéo chuyên gia di cư vào miền
Nam để gây rối loạn chính trị-xã hội. Đất nước cùng một lúc phải
thực hiện hai nhiệm vụ: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Tuy chiến tranh tạm thời chấm dứt, nhưng miền Bắc gánh chịu
nhiều hậu quả nặng nề. Hầu hết các công trình thủy nông, cầu,
cống, đê, kè bị hư hỏng nặng. Trong 13 hệ thủy nông lớn được Pháp
xây dựng trước đó thì có 9 công trình gần như bị phá hủy hoàn toàn,
chỉ đảm bảo tưới tiêu cho 26.200ha1. Nhiều công trình đê, kè cống,
đập bị hư hỏng nặng. Một số tuyến đê sông chính không đảm bảo
được khả năng chống lũ cao 12m trên sông Hồng tại Hà Nội và mức
lũ 5,6m trên sông Thái Bình tại Phả Lại.
Trong khi đó, tình trạng thiếu kinh phí, khan hiếm thiết bị vật
tư, đặc biệt là xi măng, sắt thép và thiếu lực lượng cán bộ chuyên
môn gây nhiều khó khăn cho công tác sửa chữa, khôi phục công
trình.. Ngoài ra, phần lớn hồ sơ các công trình bị Pháp chuyển về
chính quốc, phần khác thì bị thất lạc, hư hỏng do chiến tranh nên
việc sửa chữa, cải tạo các công trình đê điều, thủy lợi lại càng khó
khăn, nhất là đối với các cống lớn có kĩ thuật phức tạp.
Để đánh giá tình hình, xác định nhiệm vụ, mục tiêu và chính
sách phát triển kinh tế đất nước trong hoàn cảnh mới, Bộ Chính
đã trị họp từ ngày 05 đến ngày 07 tháng 9 năm 1954 và nhấn
mạnh: nhiệm vụ quan trọng nhất của đất nước sau khi hòa bình
lập lại là hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước phục hồi
1
Nguyễn Cảnh Dinh, 50 năm thủy lợi-những chặng đường, in trong Bộ Thủy
Lợi, 50 năm thủy lợi những chặng đường,… sđd, tr.18.

221
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

kinh tế quốc dân bằng mức trước chiến tranh, tạo cơ sở tiếp tục
nâng cao và phát triển sản xuất1. Tiếp đó, Ban chấp hành Trung
ương Đảng họp ngày 07 tháng 3 năm 1955 đề ra kế hoạch và mục
tiêu chính của ba năm khôi phục kinh tế 1955 - 1957 là khôi phục
mức sản xuất ngang mức năm 1939. Trong đó, khôi phục sản xuất
nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm vì nông nghiệp là yếu tố
quan trọng đảm bảo đời sống nhân dân và là cơ sở để phục hồi
các lĩnh vực kinh tế khác.
Trong nông nghiệp, Đảng và Nhà nước chủ trương giải quyết
ba vấn đề quan trọng trước mắt: tiếp tục thực hiện cải cách ruộng
đất, bước đầu thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp và khôi phục
sản xuất. Để đảm bảo và tạo động lực cho phát triển nông nghiệp,
một trong những vấn đề trọng tâm là khẩn trương sửa chữa, cải
tạo, củng cố các tuyến đê, kè, cống, đập. Do nhiều tuyến đê bị
hư hỏng và xuống cấp, một số tuyến đê còn thấp chưa đảm bảo
khả năng chống lũ, nên nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch 3 năm
1955 - 1957 là sửa chữa, nâng cao, gia cố tất cả các tuyến đê để
đảm bảo khả năng chống lũ, đặc biệt là các tuyến đê xung yếu
và quan trọng. Công việc ưu tiên là đắp cao đê chống tràn, tiếp
đến là đắp mở rộng thân đê, làm kè đá ở những đoạn xung yếu
có nguy cơ bị sạt lở2.

II. KIỆN TOÀN CƠ QUAN QUẢN LÝ VÀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ CHUYÊN MÔN ĐÊ ĐIỀU, PHÒNG
CHỐNG LŨ LỤT (1954 - 1957)

Mặc dù thành lập từ năm 1945, nhưng đến năm 1954 trong Bộ
Giao thông Công chính chưa có cơ quan chuyên ngành riêng để
phụ trách công tác đê điều, thủy nông. Sau khi hòa bình lập lại, để
kiện toàn công tác quản lý, phát triển đê điều, thủy nông ở miền
Bắc, ngày 06 tháng 4 năm 1955, Hội đồng Chính phủ ban hành
Nghị định số 507-TTg thành lập Nha Thuỷ lợi trực thuộc Bộ Giao
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15, Hà Nội, 2001, tr. 288.
2
Phan Khánh (Chủ biên), Lịch sử thủy lợi Việt Nam, Nxb Thời đại, 2014, tr.227.

222
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

thông Công chính. Một tuần sau đó, ngày 13 tháng 4 năm 1955, Bộ
trưởng Bộ Giao thông Công chính ban hành Nghị định số 164-NĐ
quy định chức năng, nhiệm vụ của ngành thủy lợi và Nha Thủy lợi.
Theo đó, ngành thủy lợi có nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng và quản
lý các công trình trị thủy, đặc biệt là đê điều, các công trình đại và
trung thủy nông, chỉ đạo kĩ thuật nghiệp vụ, đào tạo cán bộ đê điều,
thủy lợi… Nha Thủy lợi khi đó gồm sáu phòng, gồm: Kế hoạch tài
vụ, Thiết kế đo đạc, Công trình, Quản lý công trình, Cán bộ tổ chức,
Hành chính quản trị1.
Nhận thấy cần thiết phải có cơ quan quản lý Trung ương đủ
mạnh nhằm đáp ứng đòi hỏi của quá trình xây dựng phát triển
cơ sở hạ tầng của đất nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Trong kì họp thứ 5 diễn ra từ ngày 15 đến ngày 20 tháng
9 năm 1955, Quốc hội quyết định thành lập Bộ Thủy lợi và Kiến
trúc. Ngày 20 tháng 9 tháng 1955, Hội đồng Chính phủ ban hành
Nghị định tách Bộ Giao thông Công chính thành hai bộ: Bộ Giao
thông và Bưu điện, Bộ Thủy lợi và Kiến trúc. Sau khi chia tách,
ông Trần Đăng Khoa tiếp tục được Đảng và Nhà nước tín nhiệm
giao đảm trách vị trí Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và Kiến trúc cho tới
năm 1958. Ở địa phương, bộ máy quản lý cũng được tổ chức
tương tự: cấp liên khu có Sở Thủy lợi và Kiến trúc, cấp tỉnh có Ty
Thủy lợi và Kiến trúc.
Một số cơ quan chuyên môn theo đó cũng được thành lập. Ở
cấp Bộ có Cục Công trình thủy lợi (gồm cả đê điều, thủy nông) và
Cục Thiết kế thủy lợi. Ngày 29 tháng 9 năm 1955, Phòng Quản lý
công trình trực thuộc Nha Thủy lợi của Bộ Giao thông Công chính
trước đây được nâng cấp lên thành Cục Công trình thủy lợi trực
thuộc Bộ Thủy lợi và Kiến trúc. Năm 1958, khi Bộ Thủy lợi và Kiến
trúc chia tách thành hai bộ, Cục Đê điều được thành lập trực thuộc
1
Hội đồng Chính phủ, Nghị định số 164-NĐ ngày 13 tháng 4 năm 1955 của Bộ
trưởng Bộ Giao thông công chính quy định nhiệm vụ của ngành thủy lợi, Công
báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa số 1 năm 1955, dẫn theo Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, 70 năm nông nghiệp Việt Nam,…sđd, tr.161-162.

223
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bộ Thủy lợi. Ở các tỉnh, Ty Thủy lợi cũng được thành lập, gồm các
phòng ban kĩ thuật, nghiệp vụ, nhờ thế mà công tác đê điều từng
bước được đẩy mạnh hơn trước1.
Bên cạnh đó, Ban Chỉ huy chống lụt Trung ương được thành
lập theo Nghị định số 546-TTg ngày 4 tháng 6 năm 1955 của Hội
đồng Chính phủ. Trưởng ban là Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Phó
Trưởng ban là Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và Kiến trúc Trần Đăng Khoa.
Cục Đê điều có chức năng kiêm nhiệm Văn phòng Ban Chỉ huy
chống lụt Trung ương. Một năm sau đó, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Nghị định số 759-TTg ngày 2 tháng 5 năm 1956, thành lập
hệ thống Ban chỉ huy chống lụt các cấp từ Trung ương tới cấp xã.
Đến ngày 16 tháng 5 năm 1957, theo Nghị định số 208-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, Ban Chỉ huy chống lụt Trung ương đổi tên thành
Ban chỉ huy chống lụt, chống bão Trung ương2.
Cùng với kiện toàn, phát triển cơ quan quản lý Nhà nước, công
tác phát triển đội ngũ cán bộ chuyên môn đê điều cũng có bước
phát triển mới. Ngoài đội ngũ cán bộ kĩ thuật, kĩ sư được đào tạo từ
giai đoạn trước, năm 1956, một bộ phận của Trường Cao đẳng Giao
thông công chính thành lập từ 1945 đã tách ra thành lập Trường
Trung học Kiến trúc và Thủy lợi. Cùng năm này, Trường đại học
Bách khoa Hà Nội được thành lập có khoa Xây dựng đào tạo kĩ sư
xây dựng công trình trên sông và trên biển. Năm 1956, Bộ Thủy lợi
cũng thành lập Trường Nghiệp vụ đào tào cán bộ, công nhân máy
bơm và công nhân cơ giới; từ 1956 - 1964, trường đã đào tạo được
4.882 cán bộ, công nhân kĩ thuật3. Tiếp đó, vào năm 1958, Trường
Trung cấp Thủy lợi được thành lập, trụ sở đặt tại Hà Đông (trên cơ
sở tách ra từ trường Trung cấp Thủy lợi và Kiến trúc).
1
Nguyễn Cảnh Dinh, 50 năm thủy lợi-những chặng đường,… sđd, tr.19.
2
Ban chỉ huy phòng chống lụt bão Trung ương, Báo cáo của Bộ trưởng Nguyễn
Cảnh Dinh tại lễ kỷ niệm 40 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh 70, thành lập
Ủy ban Trung ương hộ đê, Hà Nội 1996, tr.8.
3
Nguyễn Xuân Bảo, Sự nghiệp giáo dục và đào tạo của ngành Thủy lợi trong 50
năm qua, 50 năm Thủy lợi những chặng đường,… sđd, tr.105-122.

224
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Việc nâng cấp từ Phòng Đê điều thành Cục Đê điều và thành


lập Ban Chỉ huy chống lụt từ Trung ương đến cấp xã đánh dấu sự
phát triển quan trọng về tổ chức quản lý Nhà nước đối với công
tác đê điều, phòng chống lụt bão. Điều này thể hiện sự quan tâm,
chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước đối với công tác đê
điều, phòng chống lụt bão trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, phát triển kinh tế, bảo vệ tài sản, tính mạng của Nhà nước và
nhân dân. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ chuyên môn đê điều được
đào tạo trong giai đoạn này góp phần quan trọng, tạo động lực to
lớn cho sự phát triển của công tác quản lý, xây dựng đê điều, phòng
chống lũ lụt.

III. KHÔI PHỤC, PHÁT TRIỂN ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT TRONG GIAI ĐOẠN
1954 - 1957
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nhưng do thiên tai, địch họa
tàn phá, nên các tuyến đê, kè, cống bị xuống cấp, hư hỏng nhiều.
Phần lớn đê còn thấp và yếu. Đê sông Hồng mới đảm bảo mức
chống lũ +12m tại Hà Nội, đê sông Thái Bình chỉ đảm bảo chống
lũ ở mức +5,60m tại Phả Lại. Các tuyến đê thuộc Liên khu IV chưa
đảm bảo với mức lũ năm 19501. Chính vì thế, trong ba năm đầu sau
khi miền Bắc được giải phóng, công tác sửa chữa, khôi phục, củng
cố các tuyến đê, kè, cống được Đảng và Nhà nước xác định là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu để bảo vệ và phát triển sản xuất, ổn định
đời sống nhân dân. Trước hết là ưu tiên sửa chữa các đoạn đê bị hư
hỏng do chiến tranh, gia cố các đoạn đê xung yếu nhất.
Trong ba năm 1955 - 1957, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng
Chính phủ đã đầu tư gần 38 triệu đồng cho đắp đê (năm 1955:
11,660 triệu; năm 1956: 15,989 triệu; năm 1957: 10,133 triệu)2. Từ cuối
năm 1954 đến đầu năm 1955, công tác khôi phục, sửa chữa đê điều,
cống, đập đạt được một số kết quả quan trọng. Toàn miền Bắc đã
1
Phan Khánh (Chủ biên), Lịch sử thủy lợi Việt Nam, Nxb Thời đại, 2014, tr.276.
2
Tổng hợp khối lượng và kinh phí xây dựng cơ bản đê điều đã thực hiện trong
50 năm 1946 - 1995 (Tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp).

225
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

huy động gần 10,5 triệu ngày công, sửa đắp được 2.743km đê, tổng
khối lượng đào đắp đạt hơn 7 triệu m3 (6.945.00m3 đất và 131.790m3
đá hộc)1.
Đầu năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân thi
đua sản xuất, thực hành tiết kiệm. Trong lời kêu gọi, Người nhắc nhở:
Công trình đê điều, thủy lợi bị hư hỏng chưa được sửa chữa hoàn
toàn. Vì thế, nạn lũ lụt, hạn hán vẫn đe dọa. Người kêu gọi, toàn dân
thi đua sản xuất, khôi phục, củng cố đê điều, phòng lụt, chống hạn2.
Ngày 3 tháng 6 năm 1955, trước mùa mưa bão, Chủ tịch Hồ Chí
Minh tiếp tục kêu gọi: cán bộ, nhân dân phải luôn chủ động, cảnh
giác đắp đê, phòng lụt. Người nhắc lại, tư tưởng chủ quan trong
trận lụt năm 1954 đã gây ra rất nhiều khó khăn cho Chính phủ và
nhân dân, là bài học đau xót về công tác đắp đê, phòng, chống lũ
lụt3. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định tình hình lũ lụt và nhắc nhở
cán bộ, nhân dân:
“Mùa mưa sắp đến, lâu ngày hạn hán, năm nay có thể lụt to.
Chúng ta phải ra sức đắp và giữ đê, phòng lụt và chống lụt để bảo
vệ mùa màng và tài sản của nhân dân […]. Tôi tha thiết kêu gọi
đồng bào và cán bộ ra sức đắp đê cho thật vững chắc”4.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo dù nước to đến đâu, đê vẫn
phải giữ vững. Đúng như nhận định của Người, tháng 09 năm 1955,
một cơn bão lớn đổ bộ vào các tỉnh Hải Phòng, Quảng Ninh, gây
mưa lớn cho các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ, nước biển dâng cao làm
vỡ nhiều tuyến đê biển. Tổng cộng có 31km đê biển bị vỡ và sạt lở,
24.000ha lúa và hoa màu bị mất trắng, 7.535 nhà bị cuốn trôi, 634
người bị chết đuối. Chính phủ phải huy động quân đội và các lực
1
Nguyễn Phong (Chủ biên), Lịch sử kinh tế Việt Nam 1955-1975, tập 2,…sđd, tr.269.
2
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7 (1953-1955),… sđd, tr.461.
3
Thư gửi đồng bào các tỉnh có đê ngày 03 tháng 6 năm 1955, Bác Hồ với thủy lợi,…
sđd, tr. 36.
4
Thư gửi đồng bào các tỉnh có đê ngày 03 tháng 6 năm 1955, Hồ Chí Minh toàn
tập, tập 7, 1953-1955 (tái bản lần thứ hai),… sđd, tr. 559.

226
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lượng tham gia cứu hộ, khắc phục hậu quả vỡ đê, lũ lụt. Lực lượng
cứu hộ đã cứu được 4.538 người và 55 tàu thuyền cùng nhiều tài sản
khác của nhân dân. Cùng với công tác cứu hộ, cứu nạn, việc khôi
phục, hàn khẩu những đoạn đê bị vỡ, rửa mặn cải tạo đất được tiến
hành khẩn trương. Nhờ thế đời sống người dân được ổn định trở
lại, sản xuất được phục hồi1.
Cuối năm 1955, Bộ Thủy lợi và Kiến trúc chỉ đạo các cấp và
nhân dân tăng cường công tác bảo vệ đê điều, cảnh giác chống
lại âm mưu phá hoại đê của địa chủ phản động và tay sai của đế
quốc. Đi đôi với bảo vệ, cần tăng cường công tác đắp đê, phòng lụt:
“Phương châm là dựa vào lực lượng của nhân dân là chính trong
công tác đắp đê cũng như hộ đê, lãnh đạo thống nhất, tập trung,
chặt chẽ, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ”2.
Năm 1956, mùa mưa lũ đến sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi
toàn dân, toàn quân quyết tâm bảo vệ và giữ vững đê, không được
để nạn lụt xảy ra, phải coi đắp đê, phòng, chống lụt như một chiến
dịch lớn và lâu dài. Đối với cán bộ, Người nhấn mạnh: cần có tinh
thần trách nhiệm, có kế hoạch cụ thể, bám sát quần chúng, kết hợp
giữ đê, phòng lụt với chống lụt và cải cách ruộng đất.
Sau trận lụt, vỡ đê năm 1955, việc củng cố hệ thống đê biển ở
Bắc Bộ được chú trọng. Đầu năm 1956, ở Hải Phòng bắt đầu khởi
công xây dựng hệ thống thủy nông Thủy Nguyên - Phong Cốc,
gồm hệ thống đê và cống ngăn mặn. Khu Phong Cốc ngăn mặn cho
3.000ha ở phía Nam thị trấn Quảng Yên. Khu Thủy Nguyên ngăn
mặn và tưới cho 4.820ha. Ở Hải Dương xây dựng hệ thống Nam
Sách - Chí Linh, trong đó đào kênh và xây cống Ngọc Trì, Thượng
Liệt. Ở Bắc Ninh, xây dựng hệ thống Ngũ Huyện Khê, trong đó
quan trọng nhất là cống Mai Lâm dưới đê tả sông Đuống3.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 70 năm nông nghiệp Việt Nam,…sđd, tr. 252.
1

2
Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, mã hồ sơ
2119, Báo cáo tổng hợp, tổng kết của Bộ Thủy lợi và Kiến Trúc, Ban Chỉ huy phòng
chống lụt bão Trung ương về tình hình đê điều chống lụt bão năm 1955.
3
Phan Khánh (Chủ biên), Lịch sử thủy lợi Việt Nam,...sđd, tr.227.

227
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Ở Trung Bộ, tiến hành nghiên cứu, cải tạo sửa chữa cống Nam
Đàn, Bến Thủy. Năm 1955, toàn miền Bắc đã huy động được gần
20 triệu ngày công cho đắp đê, đào đắp được 13.880.000m3 đất, kè
228.600m3 đá. Tính chung năm 1955 và 1956, khối lượng đào, đắp đê
ở Bắc Bộ và Liên khu IV đạt 30 triệu m3 đất và 3 triệu m3 đá1.
Bước sang năm 1957, trước mùa mưa bão, ngày 3 tháng 6 năm
1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho toàn thể nhân dân, cán bộ
và bộ đội để nhắc nhở việc chủ động phòng, chống lụt, bão. Người
dự báo, năm 1957 khả năng lụt to, bão lớn vì thời tiết thay đổi khác
thường. Vì vậy, Người yêu cầu toàn thể nhân dân, cán bộ và bộ đội
phải chủ động đề phòng, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống và
nhấn mạnh: “Công việc giữ đê, phòng lụt, chống lụt, phòng bão,
chống bão là nhiệm vụ cực kì quan trọng, đặc biệt là ở các tỉnh có đê
sông và đê biển”2.
Bộ Thủy lợi và Kiến trúc, Cục Đê điều ra công văn yêu cầu các
địa phương đẩy mạnh công tác phòng, chống lụt bão. Công văn
nhấn mạnh, bão, lụt là loại thiên tai nguy hiểm nhất, gây nhiều thiệt
hại cho tính mạng, tài sản của nhân dân, cho nên phòng và chống
lụt bão phải đặt lên trên hết. Các địa phương cần huy động nhân
dân hoàn thành nhanh chóng các cống tiêu nước, gia cố các đoạn
đê xung yếu, tổ chức lực lượng quần chúng tham gia canh, hộ đê,
chuẩn bị đầy đủ dụng cụ, vật liệu cần thiết cho việc hộ đê3.
Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
người dân về tầm quan trọng của đê điều, vai trò của việc đắp đê,
phòng lụt đối với đời sống, sản xuất của người dân và sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn này cũng được quan tâm.
Việc tuyên truyền được thực hiện dưới nhiều hình thức, như: tranh
1
Phan Khánh (Chủ biên), Lịch sử thủy lợi Việt Nam,...sđd, tr.227.
2
Thư của Hồ Chủ tịch gửi toàn thể đồng bào, bộ đội và cán bộ, Tạp chí Thủy lợi và
Kiến trúc, số 2, ngày 15 tháng 6 năm 1957.
3
Đẩy mạnh công tác phòng chống lụt, bão, Tạp chí Thủy lợi và Kiến trúc, số 2, ngày
15 tháng 6 năm 1957.

228
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

cổ động, thơ, ca dao, đặc biệt các bài xã luận hướng dẫn cách diệt
mối, hộ đê.
“Đê điều là dậu, là rào
Xung quanh giặc nước định vào hại ta
Muốn cho yên ổn cửa nhà
Đắp đê cho chắc, mới là phòng thân”1.
Trong năm 1957, công việc đắp đê có thể nói đã huy động được
mọi nguồn lực, mọi thành phần, giai cấp tham gia: nông dân, quân
đội, cán bộ địa phương và các cơ quan Trung ương, học sinh các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp. Chỉ tính riêng ngày 23 tháng 6
năm 1957, đã có 3.000 cán bộ thuộc các cơ quan Trung ương, trong
đó có cả Bộ trưởng và Thứ trưởng Bộ Thủy lợi và Kiến trúc tham
gia đắp đê sông Hồng đoạn từ bệnh viện Hồng Thập Tự đến phà
Đen. Ở Kiến An, 500 cán bộ quân, dân, chính, đảng tham gia đắp
đê, phòng lụt2. Nhiều địa phương đã có nhiều sáng kiến thành lập
các đội xung kích đắp đê, phòng lụt, như: Hưng Yên, Hải Dương,…
Năm 1957, tỉnh Hải Dương đã thành lập được 40 đội xung kích đắp
đê, chống lụt gồm 591 người, 13 đội dự bị gồm 500 người3.
Do hệ thống đê sông ở miền Bắc không ngừng được củng cố
nên mặc dù lũ các năm 1955, 1956 lên cao nhưng không có sự cố vỡ
đê nào xảy ra. Tuy nhiên, tháng 7 năm 1957, mặc dù lũ không quá
cao nhưng lại xảy ra sự cố vỡ đê Mai Lâm (tuyến tả Đuống) gây thiệt
hại nghiêm trọng và bộc lộ một số thiếu sót, hạn chế trong công tác
xây dựng, quản lý và bảo vệ đê điều.
Đê Mai Lâm có cống Mai Lâm thuộc thệ thống thủy nông Ngũ
Huyện Khê được hoàn thành vào tháng 5 tháng 1957. Tuy nhiên, do
có sai sót trong quá trình thiết kế, thi công nên sau khi hoàn thành,
1
Quang Đa, Đắp đê phòng lụt, Tạp chí Thủy lợi và Kiến trúc, số 2, ngày 15 tháng 6
năm 1957.
2
Đắp đê phòng lụt, Tạp chí Thủy lợi và Kiến trúc, số 4 ngày 05 tháng 7 năm 1957.
3
Tin chống bão, lụt, Tạp chí Thủy lợi và Kiến trúc, số 2, ngày 15 tháng 6 năm 1957.

229
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

cống Mai Lâm bị sự cố nước thấm mạnh qua nền móng. Trong khi
do chủ quan không theo dõi sát sao và xử lý kịp thời nên đến đầu
tháng 7 năm 1957, mưa lớn, nước sông dâng cao, sự cố cống Mai
Lâm trở nên ngày càng nghiêm trọng.
Rạng sáng ngày 11 tháng 7 năm 1957, mặc dù mực nước trên
sông Đuống mới chỉ ở mức +8,50m chưa đến mức báo động, trong
khi cao trình đỉnh đê là +14,20m, nhưng sự cố thấm, rò rỉ qua đáy
móng khiến nước lũ khoét sâu làm trôi cống và gây vỡ đoạn đê
dài 150m. Đê vỡ, nước lũ gây ngập lụt gần như toàn bộ huyện Yên
Phong, một phần Từ Sơn và 5 xã thuộc huyện Đông Anh. Sau đó
nước lũ tràn qua đường xe lửa Yên Viên - Bắc Ninh gây ngập lụt
huyện Tiên Du, Quế Dương và Võ Giàng. Một số nơi, nước lũ ngập
gần tới nóc nhà, gây thiệt hại lớn về tài sản và hoa màu của nhân
dân1. Ước tính có tới hơn 10.000ha lúa bị mất trắng, hàng nghìn nhà
cửa bị cuốn trôi và sập, hàng chục người bị chết đuối2.
Ngay khi đê Mai Lâm bị vỡ, Đảng, Nhà nước, Bộ Thủy lợi và
Kiến trúc, Cục Đê điều đã huy động hơn 20.000 người, lúc cao nhất
lên tới 30.000 người tham gia ứng cứu đê. Lực lượng bao gồm nhiều
đơn vị bộ đội, cán bộ, nhân viên các cơ quan Trung ương, nhân dân
Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Đông3. Cùng với nhân lực, các cơ quan đơn
vị bộ đội, Cục Xây dựng, Cục Cơ khí Điện nước đã điều tới Mai
Lâm nhiều phương tiện cơ giới, trang thiết bị, vật liệu. Nhiều tàu,
thuyền, ca nô và 21 xe tải hoạt động suốt ngày đêm chở đá từ Ninh
Bình, Sơn Tây, Việt Bắc về Mai Lâm. Vì nước chảy xiết, nên lực lượng
ứng cứu phải bắc hai cầu phao qua đoạn đê vỡ để bỏ kè. Lực lượng
quân đội dưới sự chỉ huy trực tiếp của thiếu tướng Hoàng Văn Thái,
ngâm mình trong nước lũ đóng cọc, bỏ rọ đá. Công nhân và cán
1
Cần rút ngay kinh nghiệm ở Mai Lâm, Tạp chí Thủy lợi và Kiến trúc, số 6, ngày 29
tháng 7 năm 1957.
2
Phan Khánh (Chủ biên), Lịch sử thủy lợi Việt Nam,...sđd, tr.278.
3
Trương Liên, Hơn hai mươi nghìn bộ đội, nhân dân, cán bộ và công nhân ra sức
thi đua hàn quãng đê Mai Lâm, Tạp chí Thủy lợi và Kiến trúc, số 6, ngày 29 tháng
7 năm 1957.

230
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

bộ, dân công được huy động vận chuyển gỗ, tre, đá với tinh thần
“quyết tâm chặn dòng nước dữ, quyết tâm cứu đê, phải cố gắng,
khẩn trương”.
Trong quá trình ứng cứu đê Mai Lâm, đại diện Ban chấp hành
Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Quốc phòng trực tiếp đến thị sát,
kiểm tra và chỉ đạo, trong đó có Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trường Chinh. Khi nghe tin đê
Mai Lâm bị vỡ, lúc này Chủ tịch Hồ Chí Minh đang có chuyến thăm
Liên Xô, Người đã đề xuất phía Liên Xô chi viện, giúp Việt Nam
khắc phục hậu quả vỡ đê. Khi về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trực tiếp tới hiện trường kiểm tra, chỉ đạo khắc phục hậu quả. Bác
đã phê bình nghiêm khắc lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh vì để xảy ra sự cố
vỡ đê gây thiệt hại lớn đối với tài sản của nhân dân.

Hình 14. Chủ tịch Hồ Chí Minh kiểm tra, chỉ đạo khắc phục hậu quả sự cố vỡ đê Mai Lâm
(ngày 05 tháng 9 năm 1957)
Trong quá trình khắc phục sự cố vỡ đê Mai Lâm, cũng có sự
giúp đỡ của các chuyên gia Trung Quốc. Ngày 14 tháng 7 năm 1957,
ba ngày sau khi đê Mai Lâm bị vỡ, đoàn chuyên gia của Viện Khoa

231
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

học Thủy lợi Trung Quốc gồm ba người đáp máy bay đến Hà Nội,
sau đó đến công trường cùng với cán bộ kĩ thuật của Bộ Thủy lợi
và Kiến trúc, Cục Đê điều tiến hành khảo sát, bàn phương án đắp,
giám sát kĩ thuật cho tới khi đê Mai Lâm được hàn khẩu.
Sau nhiều ngày lao động với tinh thần cao nhất, chiến đấu với
dòng nước lũ hung dữ, rạng sáng ngày 31 tháng 7 năm 1957, những
rọ đá cuối cùng nặng hơn 3 tấn đã chặn được đoạn đê vỡ. Hàng nghìn
người có mặt trên công trường vỗ tay hò reo1. Ngày 11 tháng 8 năm
1957, Bộ Thủy lợi và Kiến trúc làm lễ hàn khẩu đê Mai Lâm, tới dự có
Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bộ trưởng Trần Đăng Khoa cùng hàng
chục nghìn người tham gia sửa đắp, hàn khẩu đoạn đê vỡ và nhân
dân quanh vùng. Việc đắp đê Mai Lâm bị vỡ thể hiện sự chỉ đạo kịp
thời của Đảng và Nhà nước, sức mạnh và vai trò to lớn của nhân dân,
tình đoàn kết, hiệp đồng của các lực lượng quân, dân:
“Ai về qua đất Bắc Ninh,
Đắp đê sông Đuống thắm tình quân dân”.
Đê Mai Lâm bị vỡ trước hết là do chất lượng công trình không
đảm bảo, khi xảy ra sự cố ban đầu lại không được xử lý kịp thời,
công tác chuẩn bị vật liệu, dụng cụ ứng cứu bị xem nhẹ, một số cán
bộ lãnh đạo có tư tưởng chủ quan, quan liêu, vô trách nhiệm. Sự cố
vỡ đê Mai Lâm để lại “nhiều bài học xương máu về tổ chức, về lề lối
làm việc, tinh thần trách nhiệm và cơ bản là coi trọng đúng mức các
biện pháp kĩ thuật”2.
Bộ trưởng Trần Đăng Khoa thừa nhận rằng, đê Mai Lâm bị vỡ
gây nhiều hậu quả nặng nề là một bài học trong công tác quản lý đê,
hộ đê. Đó là tư tưởng chủ quan, chưa theo dõi sát những đoạn đê,
kè, cống mới đắp, vì cho rằng đê đã được đắp cao, to có thể chống
được lũ lớn, bài học về kĩ thuật, tổ chức và lề lối làm việc chuyên
1
Đặng Đình, Trên bờ đê sông Đuống (Phóng sự đê Mai Lâm), Tạp chí Thủy lợi và
Kiến trúc, số 7, ngày 10 tháng 8 năm 1957.
2
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1995, tr.163.

232
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

ngành: “Vỡ đê Mai Lâm đã gây thiệt hại cho nhân dân và Chính
phủ. Nó để lại một bài học lớn, không những đối với ngành thủy lợi
mà cả các ngành khác”1.
Tính chung trong giai đoạn 1955 - 1957, công tác đắp đê, phòng
chống lũ lụt đã đạt được một số kết quả quan trọng, tổng khối lượng
đào đắp được gần 38 triệu m3 đất, kè 638.800m3 đá và 22.500m3 bê
tông (năm 1955: 14,995 triệu m3 đất, 256.800m3 đá, 5.300m3 bê tông;
năm 1956: 18,820 triệu m3 đất, 220.000m3 đá, 7.500m3 bê tông; năm
1957: 4,122 triệu m3 đất, 162.000m3 đá và 10.000m3 bê tông)2. Chỉ tính
riêng khối lượng đất đào đắp đê trong 3 năm này đã gấp gần 8 lần
so với giai đoạn 1946 - 1954.
Hệ thống đê được củng cố vững chắc hơn, hệ thống cống dưới
đê, kè, đập cũng được sửa chữa, cải tạo. Trong đó đã sửa chữa 400
cống cũ, xây mới 150 cống ; nhiều tuyến kè được nâng cấp, như kè
Vạn Hà dài 400m trên sông Hồng, kè Phù Long3. Hiệu quả phòng
và chống lũ của các tuyến đê đã được nâng cao rõ rệt. Cùng với sự
phát triển của thủy lợi, cải tiến kĩ thuật sản xuất, lai tạo một số giống
mới, nhập khẩu phân bón, công tác đê điều và phòng chống lụt bão
đã góp phần to lớn vào mở rộng diện tích canh tác, bảo vệ sản xuất,
ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân. Năm 1957, diện tích lúa
miền Bắc đạt 2,2 triệu ha, tăng 380.000ha so với năm 1939. Năng suất
tăng từ 13tạ/ha vào năm 1939 lên 17,6 tạ/ha vào năm 1957. Sản lượng
cũng tăng từ 2,4 triệu tấn lên 3,85 triệu tấn4.
Tuy nhiên, công tác đắp đê, phòng chống lũ lụt trong thời gian
này còn hạn chế. Những hạn chế này được Bộ trưởng Trần Đăng
Khoa chỉ ra gồm: tiến độ chậm, huy động dân công gặp nhiều khó
1
Trần Đăng Khoa, Tóm tắt bài nói chuyện của Bộ trưởng Trần Đăng Khoa với cán
bộ, nhân viên Bộ Thủy lợi và Kiến Trúc, Tạp chí Thủy lợi và Kiến trúc, số đặc bệt,
ngày 2 tháng 9 năm 1957.
2
Thống kê khối lượng, kinh phí xây dựng cơ bản đê điều đã thực hiện trong 50
năm 1945 - 1995 (Tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp).
3
Tin đắp đê, Tạp chí Thủy lợi và Kiến trúc, số 02, ngày 5 tháng 6 năm 1957
4
Nguyễn Phong (Chủ biên), “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1955-1975”,… sđd, tr.171.

233
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

khăn, dụng cụ thiếu, năng suất lao động thấp, đặc biệt là tư tưởng
chủ quan trong công tác thi công, giám sát. Điều này đã gây ra một
số hậu quả đáng tiếc, đặc biệt là sự cố vỡ đê Mai Lâm năm 1957.

IV. CỦNG CỐ, PHÁT TRIỂN ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT TRONG GIAI ĐOẠN 1958 - 1960
Sau khi hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước có bước
phát triển hơn trước. Nhiều nhà máy điện, xi măng, cơ khí được khôi
phục sản xuất và xây mới, như xi măng Hải Phòng, cơ khí Trần Hưng
Đạo, Gia Lâm. Từ năm 1957 đến năm 1960, sản lượng xi măng miền Bắc
tăng từ 165.100 tấn lên 408.000 tấn1. Đây là điều kiện thuận lợi cung cấp
nguyên vật liệu, thực hiện cơ giới hóa trong đắp đê, xây kè, làm cống.
Đầu năm 1958, Đảng và Nhà nước đề ra kế hoạch cải tạo xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc (1958 - 1960) và bước vào giai đoạn phát triển
kinh tế có kế hoạch, xóa bỏ chế độ tư hữu, củng cố miền Bắc, đưa
miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, cải thiện một bước đời sống
dân sinh, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước2.
Về công tác thủy lợi, đê điều và phòng chống lụt bão, năm 1958, Bộ
Chính trị ban hành Nghị quyết 63, trong đó xác định đây là một bộ phận
trọng yếu của sức sản xuất, phát triển theo bước tiến của cách mạng,
phục vụ nhiệm vụ chính trị, kinh tế của đất nước. Cần không ngừng
phát triển thủy lợi, phải thắng được lụt lớn, mở rộng diện tích được tưới
nước, thu hẹp diện tích cấy nhờ trời, thúc đẩy và phục vụ cho hợp tác
hóa nông nghiệp, đặt cơ sở vững chắc tiến lên thủy lợi hóa3.
Tiếp đó, tháng 10 năm 1958, Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa II ban hành Nghị quyết 14 về kế hoạch 3 năm (1958 - 1960),
trong đó xác định: “Nước là vấn đề quan trọng bậc nhất. Phải đảm
bảo chống hạn hán, úng thủy, chống bão và ngăn mặn”4. Mặc dù

Nguyễn Phong (Chủ biên), Lịch sử kinh tế Việt Nam 1955-1975, tập 2,…sđd, tr. 196.
1

2
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9 (1958-1959),… sđd, tr.3.
3
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 70 năm nông nghiệp Việt Nam,…sđd, tr.
252-253.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 70 năm nông nghiệp Việt Nam,…sđd, tr. 253.
4

234
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

thực hiện kết hợp ba phương châm: giữ nước là chính, thủy lợi nhỏ
là chính và nhân dân làm là chính, nhưng Nhà nước đầu tư xây
dựng một số công trình lớn, cấp thiết và cần kíp.

Đây là giai đoạn nạn hán hán diễn ra gay gắt ở Bắc Bộ và Trung
Bộ, chính vì thế thủy lợi trong giai đoạn này vừa tập trung phát
triển các công trình chống hạn vừa phải tập trung củng cố đê điều,
xây dựng các công trình phòng chống lũ lụt, ngăn mặn, giữ ngọt.
Đầu năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Muốn sản xuất tốt,
phải chú ý trước tiên đến nước, chú ý đến nước trước hết là đúng,
nước ta năm nào cũng bị hạn, bị lụt, vì vậy chúng ta phải bắt buộc
nước phục vụ nông nghiệp1.

Tại Hội nghị thủy lợi toàn miền Bắc diễn ra vào ngày 14 tháng
9 năm 1959 tại Bắc Ninh, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh
vai trò và tác hại của nước:

“Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất


nước; có đất và có nước thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì
dân giàu, nước mạnh. Nước có thể làm lợi nhưng cũng có thể làm
hại, nhiều nước quá thì úng lụt, ít nước quá thì hạn hán. Nhiệm vụ
của chúng ta là làm cho đất với nước điều hòa với nhau để nâng cao
đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội”2.

Đó là một minh triết về tầm quan trọng của nước, về hai thuộc tính
đối nghịch của nước (cái lợi và cái hại của nước) cũng như về nhiệm
vụ của ngành đê điều, thủy lợi trong việc “làm cho đất với nước điều
hòa với nhau” để đem lại lợi ích cho nhân dân. Lời dạy đó của Chủ tịch
Hồ Chí Minh còn là lời hiệu triệu đối với những người làm công tác đê
điều, thủy lợi và toàn thể nhân dân trong việc điều hòa nước.
1
Trích lời nói chuyện của Bác Hồ tại Đại hội chiến sĩ thi đua nông nghiệp toàn
quốc lần thứ 3, ngày 23 tháng 5 năm 1958, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9 (1958-
1959),…sđd, tr. 182.
2
Huấn thị của Bác Hồ tại Hội nghị thủy lợi toàn miền Bắc ngày 14 tháng 9 năm
1959, Bác Hồ với thủy lợi, sđd,… tr. 7.

235
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hình 15. Chủ tịch Hồ Chí Minh kiểm tra công tác phòng, chống lụt bão tại kè Cổ Đô
thuộc đê hữu Hồng ở Sơn Tây (ngày 8/7/1958)1
Dù bận nhiều việc, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự
quan tâm, chỉ đạo đặc biệt đối với công tác đắp đê, phòng lụt. Ngày
8 tháng 7 năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân đi kiểm tra kè
Cổ Đô, Vũ Chư và công tác diễn tập hộ đê chống lụt của nhân dân
Sơn Tây tổ chức ở đê Cam Thượng, Viên Sơn. Gần hai tuần sau đó,
ngày 20 tháng 7 năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên Phú Thọ kiểm
tra đê điều và công tác diễn tập chống lụt. Tại đây Người nhắc nhở:
công tác phòng chống lụt của Phú Thọ còn nhiều thiếu sót, nhiều
quãng đê chưa được đắp đúng mức. Việc canh gác, bảo vệ đê còn
kém, vật liệu và dụng cụ chưa đầy đủ. Cán bộ và nhân dân còn xem
nhẹ việc phòng lụt, hộ đê2.
Cùng với sự quan tâm, chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong
giai đoạn này Nhà nước tiếp tục dành nguồn vốn quan trọng cho
xây dựng, củng cố đê, kè, cống, đập. Tổng kinh phí đầu tư cho xây

1
Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, phông Bộ Thủy lợi, số hồ sơ 17-Bh-285.
2
Bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhân dân tỉnh Phú Thọ ngày
20 tháng 7 năm 1958, tài liệu lưu trữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, dẫn theo Phan
Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử), Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội, 1995, tr.165.

236
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

dựng cơ bản đê điều trong 3 năm 1958 - 1960 đạt 37,525 triệu đồng
(trong đó năm 1958: 18,223 triệu đồng; năm 1959: 10,078 triệu đồng;
năm 1960: 9,224 triệu đồng)1.
Thực hiện sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Nhà nước, từ cuối năm 1957, Cục Đê điều cùng các cơ
quan liên quan đã tập trung nguồn lực để nghiên cứu và thực hiện
các biện pháp kĩ thuật trong quản lý, xây dựng, bảo vệ đê điều,
phòng, chống lụt bão mà trước đây chưa được quan tâm đúng
mức. Một loạt các phương án được triển khai, như tính toán về độ
an toàn của các tuyến đê với các mức lũ lớn nhất đã xảy ra, quy
định về mặt cắt đê để đảm bảo chống rò rỉ, chống thẩm lậu, chống
sạt lở. Đặc biệt đối với các đoạn đê xung yếu do tác động nguy
hiểm của dòng chảy, hệ thống kè, cống lớn qua đê đều được khảo
sát, kiểm tra lại. Cục Đê điều đã cử nhiều cán bộ có chuyên môn
giỏi, như kĩ sư Nguyễn Gia Quang, Nguyễn Văn Trọng,... tham gia
điều tra, khảo sát, nghiên cứu thực địa, làm căn cứ cho việc tính
toán khối lượng đắp đê hằng năm.
Từ năm 1958, cùng với việc củng cố một số tuyến đê xung yếu,
đã triển khai đào, nạo vét sông, xây mới, cải tạo hệ thống cống dưới
đê, như cống Lực Điền trên sông Kim Ngưu, cống Quế trên đê tả
Đáy; nạo vét cống Văn Giang, ngòi Triều Dương (Hưng Yên); nạo
vét kênh An Dương - Kim Thành, mương Quán Cháy, vét cửa cống
Trọi, hoành triệt 100 cống ở hạ lưu để ngăn mặn, giữ ngọt (Kiến An,
Hải Phòng)2.
Một trong những bước tiến quan trọng trong công tác phòng
chống lũ lụt giai đoạn này là bước đầu xây dựng được một số hồ
chứa nước, như hồ Suối Hai (Sơn Tây), hồ Khuôn Thần (Bắc Giang),
chuẩn bị xây dựng hồ Thác Bà (Yên Bái). Hồ Suối Hai được khởi
1
Tổng hợp khối lượng và kinh phí xây dựng cơ bản đê điều đã thực hiện trong
50 năm 1946 - 1995 (Tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp).
2
Tỉnh Kiến An đã đào được 108.000m3 kênh, ngòi, Tạp chí Thủy lợi và Kiến trúc, số
2, ngày 10 tháng 01 năm 1958.

237
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

công xây dựng đợt một vào tháng 12 năm 1958, khi đó nằm trên
địa bàn ba thôn Yên Khoái, Vô Khuy (Bất Bạt) và An Phong (Quảng
Oai). Trong giai đoạn đầu, 420.000 ngày công đã được huy động,
đào đắp được 39.1000m3 đất, 8.268m3 đá và đổ được 1.368m3 bê tông.
Đến tháng 10 năm 1960, công trình hồ Suối Hai cơ bản hoàn thành
giai đoạn một, một con đập dài gần 500m, cao 22,5m, ngăn sông
Tích, trữ được 9 triệu m3 nước. Hồ Suối Hai đóng vai trò quan trọng
cung cấp nước tưới cho 2.500 mẫu, đồng thời giảm lũ, hạn chế úng
lụt cho hàng nghìn mẫu của các xã ven sông Tích1.
Công tác đắp đê và phòng chống lụt bão trong ba năm 1958
- 1960 tiếp tục được quan tâm đầu tư, củng cố, tuy nhiên, quy mô
đầu tư và khối lượng đào đắp chưa có bước phát triển so với giai
đoạn trước. Công tác đắp đê chủ yếu quy mô nhỏ là chính, dân
làm là chính. Tổng khối lượng đào đắp trong giai đoạn này đạt
31,7 triệu m3 đất, 535 nghìn m3 đá, đổ gần 10 nghìn m3 bê tông2.
Trong giai đoạn từ 1955 đến 1960, nhà nước đã đầu tư cho xây
dựng đê điều 75,3 triệu đồng, tổng khối lượng đào đắp đạt 75,4 triệu
m3 đất, 1,173 triệu m3 đá, đổ 32.100m3 bê tông . Đến năm 1960, các
tuyến đê được củng cố thêm một bước, về cơ bản không có sự cố đê
điều nào trầm trọng xảy ra. Tuy nhiên, khả năng chống lũ của các
tuyến đê còn thấp, mặc dù không có lũ lớn, nhưng một số tuyến đê
đã bị tràn, như sự cố tràn đê sông Cầu năm 1959, tràn đê sông La,
sông Lam năm 1960.

V. ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT TRONG NHỮNG NĂM THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 5
NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 - 1965)
1. Chủ trương xây dựng đê điều, phòng chống lụt bão của Đảng và Nhà nước
Sau khi hoàn thành kế hoạch khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ
sản xuất, miền Bắc bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
1
Ty Văn hóa Sơn Tây, Hồ nước Suối Hai, 1964, tr.10.
2
Tổng hợp khối lượng và kinh phí xây dựng cơ bản đê điều đã thực hiện trong
50 năm 1946 - 1995 (Tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp).

238
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

1961 - 1965, xây dựng cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa, bước đầu thực
hiện công nghiệp hóa, phát triển nông nghiệp toàn diện, vững chắc,
giải quyết tốt vấn đề lương thực, thực phẩm, nguyên liệu, thực hiện
hợp tác hóa nông nghiệp tạo điều kiện chuyển từ nền nông nghiệp
lạc hậu lên sản xuất lớn và hiện đại.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III diễn ra vào tháng 9 năm 1960
xác định: thủy lợi là một trong những biện pháp hàng đầu, thủy lợi
hóa là điều kiện then chốt. Đại hội III đã đề ra nhiệm vụ và mục tiêu
cụ thể trong giai đoạn 1961 - 1965 như sau: Tiếp tục củng cố đê sông,
kè, cống, phấn đấu đê sông Hồng đảm bảo chống lũ an toàn ở mức
+13m tại Hà Nội, đê sông Thái Bình đảm bảo chống lũ an toàn ở mức
+6,3m ở Phả Lại. Hệ thống đê sông phải đảm bảo việc bảo vệ an toàn
cho hai khu công nghiệp Việt Trì và Thái Nguyên. Đối với các đê sông
ở Trung Bộ, các đê sông Mã (Thanh Hóa), sông Cả (Nghệ An) phải
đảm bảo mức chống lũ cao nhất1.
Về đê điều và phòng, chống lụt bão, Nghị quyết hội nghị lần
thứ 5 (tháng 9 năm 1961) Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa III
cũng nhấn mạnh: cần xúc tiến việc trị thủy, khai thác sông Hồng và
các dòng sông lớn, nhằm trị tận gốc lũ sông Hồng. Bước đầu là xây
dựng một số công trình cần thiết, củng cố đê sông, đê biển, khơi vét
lòng sông, xây kè, cống. Tăng cường phòng chống lụt bão, củng cố
đê sông, đê biển, nạo vét sông, kênh rạch. Cần phát triển thủy lợi
nhanh, mạnh gắn liền với hợp tác hóa nông nghiệp2.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã dành nguồn
vốn ngân sách lớn để đầu tư phát triển thủy lợi, đê điều và phòng
chống lụt bão. Trong giai đoạn 1961-1965, nguồn vốn Nhà nước
đầu tư cho thủy lợi luôn chiếm từ 45 đến 66% tổng số vốn đầu tư
cho nông nghiệp. Đặc biệt từ cuối năm 1963, Hội đồng Chính phủ
đã phát động phong trào thi đua làm thủy lợi trong hai năm 1964
1
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1995, tr.167.
2
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 tháng 7 năm 1961 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa III, về vấn đề phát triển nông nghiệp 1961-1965.

239
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

- 1965, huy động toàn dân tham gia sửa, đắp đê, đào kênh, khơi
sông. Vốn đầu tư cho thủy lợi, đê điều trong hai năm này cũng
tăng hơn trước. Chỉ tính riêng các công trình lớn do Trung ương
quản lý, số vốn đầu tư lên tới 118 triệu đồng, tăng 130% so với vốn
đầu tư của ba năm 1961 - 1963. Vốn đầu tư xây dựng các công trình
vừa và nhỏ do địa phương quản lý cũng tăng 148% so với ba năm
trước đó1. Riêng việc xây kè, cống trong giai đoạn này được đầu tư
40 triệu đồng2.

2. Sắp xếp lại cơ quan quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn đê điều
Từ chủ trương coi điện khí hóa là động lực quan trọng cho
công nghiệp hóa và cơ giới hóa sản xuất, năm 1960, Nhà nước
thành lập Bộ Thủy lợi và Điện lực thay cho Bộ Thủy lợi. Ông
Dương Quốc Chính được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và
Điện lực thay cho ông Trần Đăng Khoa. Theo Nghị định số 138-CP
ngày 29 tháng 9 năm 1961 của Hội đồng Chính phủ, Bộ Thủy lợi
và Điện lực là cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm
quản lý công tác thủy lợi và điện lực theo đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước, diệt hạn, đắp đê, chống úng, lụt, cải tạo
đất để phục vụ cho phát triển sản xuất nông nghiệp một cách toàn
diện và mạnh mẽ.
Bộ có cũng trách nhiệm xây dựng và phát triển các công trình
điện lực đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân và phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Về cơ cấu tổ chức, Bộ Thủy lợi và Điện lực gồm
có: Văn phòng, Ban Thanh tra, 5 vụ, 5 cục, Viện Thiết kế thủy lợi và
Điện lực, Học viện Thủy lợi - Điện lực, Tổng cục Điện lực và các xí
nghiệp, đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ3.
Thời gian này, Cục Đê điều trực thuộc Bộ Thủy lợi và Điện lực,
Cục trưởng là ông Nguyễn Văn Nhiên. Ông Nhiên giữ cương vị

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 70 năm nông nghiệp Việt Nam,…sđd, tr. 263.
1

2
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1995, tr.168.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 70 năm nông nghiệp Việt Nam,…sđd, tr. 164.
3

240
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Cục trưởng từ năm 1958, thay cho ông Nguyễn Văn Sáng. Trước
đó, ông Nhiên từng là cán bộ tỉnh ủy Nghệ An, Chánh văn phòng
Bộ Thủy lợi. Cục phó Cục Đê điều giai đoạn 1958 - 1965 có ông
Nguyễn Trọng Tám. Ngày 28 tháng 12 năm 1962, Hội đồng Chính
phủ có Quyết định 218-CP tách Tổng cục Điện lực ra khỏi Bộ Thủy
lợi và Điện lực và chuyển sang Bộ Công nghiệp nặng và tái thành
lập Bộ Thủy lợi. Từ tháng 01 năm 1963, ông Hà Kế Tấn được cử làm
Bộ trưởng Bộ Thủy lợi thay cho ông Dương Quốc Chính. Cục Đê
điều lúc này trực thuộc Bộ Thủy lợi. Năm 1964, Cục trưởng Nguyễn
Văn Nhiên qua đời, ông Trần Quốc Thái được giao trọng trách Cục
trưởng Cục Đê điều từ 1964 đến 19671.
Cơ quan chỉ đạo phòng, chống lụt bão là Ban Chỉ huy chống
lụt, chống bão Trung ương tiếp tục được duy trì và giữ vai trò quan
trọng trong chỉ đạo công tác phòng chống bão lụt. Trong giai đoạn
1960 - 1962, Trưởng ban là Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Hùng,
Phó ban là ông Dương Quốc Chính (Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và Điện
lực). Từ năm 1963 đến năm 1964, ông Trần Hữu Dực, Chủ nhiệm
Văn phòng Nông nghiệp Phủ Thủ tướng là Trưởng ban, Phó ban là
ông Hà Kế Tấn (Bộ trưởng Bộ Thủy lợi).
Cùng với việc kiện toàn lại bộ máy quản lý, các cơ sở đào tạo
cũng được chia tách và thành lập thêm một số trường mới nhằm
tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, kĩ sư, công nhân kĩ
thuật thủy lợi, đê điều. Sau khi tách bộ phận điện lực chuyển sang
Bộ Công nghiệp nặng, tái thành lập Bộ Thủy lợi vào năm 1962, Học
viện Thủy lợi và Điện lực cũng chia tách để thành lập Trường Trung
cấp điện, Trường Trung cấp Thủy lợi Trung ương, Trường Đại học
Thủy lợi và Viện Nghiên cứu khoa học Thủy lợi (tiền thân của Viện
Khoa học Thủy lợi Việt Nam ngày nay). Vào thời điểm trước khi
chia tách, Học viện Thủy lợi và Điện lực có tổng cộng 3.200 sinh viên
và 500 cán bộ, giảng viên2.

Nguyễn Trọng Tám, Hồi ký về công tác đê diều, phòng chống bão lụt (bản chép tay), tr.10.
1

2
guyễn Xuân Bảo, Sự nghiệp giáo dục và đào tạo của ngành thủy lợi trong 50
năm qua, in trong Bộ Thủy Lợi, 50 năm thủy lợi những chặng đường,,…sđd, tr.109.

241
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Cũng trong giai đoạn này, khoa Xây dựng của Trường Đại học
Bách khoa hằng năm đào tạo từ 40 đến 60 sinh viên ngành thủy lợi1.
Ở một số tỉnh, trường Trung cấp, Sơ cấp Thủy lợi cũng được thành
lập để đảm bảo nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thủy lợi cho địa
phương. Tháng 5 năm 1963, Trường Trung cấp thủy lợi Nghệ An
được thành lập. Ngay khóa đầu tiên đã đào tạo được 147 cán bộ,
công nhân kĩ thuật thủy lợi và đê điều2. Năm 1963, toàn miền Bắc
có 17 trường trung cấp chuyên nghiệp đào tào cán bộ chuyên môn
thủy lợi, đê điều. Các cơ sở đào tạo địa phương góp phần quan
trọng trong việc xây dựng lực lượng, nâng cao trình độ chuyên môn
cán bộ thủy lợi, đê điều tại chỗ.
Trong giai đoạn này, nhiều cán bộ đê điều cũng được sang nghiên
cứu thực địa, thăm quan, học tập kinh nghiệm làm đắp đê, chống lũ ở
Liên Xô và Trung Quốc, như: Ủy ban sông Hoàng Hà, Trường Giang,
Châu Giang. Đội ngũ cán bộ, kĩ sư và kĩ thuật viên được đào tạo, học
tập ở Liên Xô, Trung Quốc đã bổ sung thêm cho ngành đê điều, thủy
lợi một đội ngũ cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ cao, góp phần to
lớn đẩy mạnh phát triển đê điều, thủy lợi trong cả nước.
Đến cuối năm 1965, đội ngũ cán bộ ngành thủy lợi, trong đó
có cán bộ đê điều, được đào tạo và có trình độ chuyên môn kĩ
thuật tăng lên nhanh chóng, gồm 1.118 có trình độ đại học, 4.000
cán bộ có trình độ trung cấp, 2.500 công nhân kĩ thuật. Vấn đề cơ
giới hóa, hiện đại hóa trong quản lý, xây dựng, bảo vệ đê điều,
phòng chống lũ lụt có sự phát triển hơn trước. Đặc biệt là việc Bộ
Thủy lợi cho thành lập Công ty Tàu cuốc và Tổng đội công trình
với nhiều thiết bị cơ giới hiện đại, như: tàu cuốc, máy cạp, máy ủi,
máy đầm để đắp, đầm đê, đập. Điều này đã góp phần to lớn vào
việc nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng của việc đắp đê,
đập, xây kè, làm cống.
1
Nguyễn Xuân Bảo, Sự nghiệp giáo dục và đào tạo của ngành Thủy lợi trong 50
năm qua),…sđd.
2
Hội Thủy lợi Nghệ An, 65 năm thủy lợi Nghệ An những chặng đường phát triển
(1945-2010),…sđd, tr.57.

242
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

3. Quy hoạch trị thủy và khai thác sông Hồng: Một bước phát triển vượt bậc về
đường lối, tầm nhìn và thực tiễn của công tác bảo vệ đê điều, phòng chống lụt bão
Từ năm 1956, Bộ Thủy lợi có sự giúp đỡ của các chuyên gia
thủy lợi Trung Quốc đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu bước đầu
về trị thủy và khai thác sông Hồng. Tháng 3 năm 1959, Bộ trưởng
Trần Đăng Khoa trình Hội đồng Chính phủ kế hoạch nghiên cứu
và quy hoạch sông Hồng. Kế hoạch này nhận được sự nhất trí ủng
hộ rất lớn của Đảng và Nhà nước. Ngày 28 tháng 9 năm 1959, Ban
Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 164-CT/TW về trị
thủy và khai thác sông Hồng. Chỉ thị nêu rõ vai trò, nhiệm vụ và
mục tiêu cốt yếu là:
- Trị thủy và khai thác sông Hồng là một vấn đề rất trọng yếu,
có vị trí then chốt trong việc đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc. Không những diệt trừ tận gốc nạn lụt ở hạ
du, mà còn tạo ra những khả năng lớn về vận tải thủy, phát điện,
tưới nước, thúc đẩy công cuộc khai thác các hầm mỏ, đất khoáng,
lâm sản, trồng cây gây rừng, chăn nuôi,... Trị thủy và khai thác tổng
hợp là hai mặt của vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau [...]. Riêng
đối với hạ du, nhiệm vụ phòng lụt rất quan trọng.
- Trị thủy và khai thác sông Hồng là một yêu cầu cấp bách,
nhưng là một vấn đề chính trị, kinh tế, khoa học [...], vì vậy một mặt
cần tiến hành khẩn trương, tích cực, nhưng mặt khác thì không thể
nóng vội.
- Trị thủy và khai thác sông Hồng là một vấn đề to lớn và
lâu dài, cần phải quy hoạch toàn bộ và toàn diện, vẫn phải tiến
hành qua nhiều đợt và nhiều năm, vì vậy cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa quy hoạch hệ thống sông Hồng với kế hoạch
dài hạn chung và kế hoạch dài hạn của các ngành và các địa
phương, cũng cần có sự phối hợp giữa Việt Nam và Trung Quốc
trong việc xây dựng quy hoạch, cần có sự giúp đỡ của Liên Xô
và các nước anh em khác 1.
1
Phan Khánh (Cb), Lịch sử thủy lợi Việt Nam,… sđd, tr.296- 297.

243
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Chỉ thị số 164-CT/TW là bước chuyển hướng tư duy chiến


lược đúng đắn và lâu dài của Đảng đối với công tác thủy lợi và
công cuộc phòng chống lụt, thực hiện trọn vẹn ước mơ ngàn đời
của cha ông ta.
Để chuẩn bị cho việc thành lập Ban Trị thủy và Khai thác sông
Hồng, một Ban chỉ đạo được thành lập, gồm: ông Hà Kế Tấn, Thứ
trưởng Bộ Thủy lợi (Trưởng ban), các ủy viên gồm ông Nguyễn Văn
Nhiên (Cục trưởng Cục khảo sát thiết kế thủy lợi) và ông Đinh Gia
Khánh (Trưởng ban Tuyên huấn công trường Bắc - Hưng - Hải).
Giúp việc cho Ban chỉ đạo là Phòng sông Hồng gồm các kĩ sư và cán
bộ kĩ thuật có nhiều kinh nghiệm1.
Ngày 16 tháng 01 năm 1961, Ủy ban Trị thủy và Khai thác sông
Hồng, gọi tắt là Ủy ban sông Hồng chính thức được thành lập theo
Nghị định số 02-CP của Hội đồng Chính phủ, gồm có: Phó Thủ
tướng Nguyễn Duy Trinh (Chủ nhiệm Ủy ban), ông Hà Kế Tấn (Phó
Chủ nhiệm thường trực Ủy ban) và 10 ủy viên Ủy ban đại diện của
các cơ quan, ban ngành Trung ương và địa phương. Cơ quan giúp
việc trực tiếp cho Ủy ban sông Hồng là Văn phòng sông Hồng.
Sự ra đời của Ủy ban sông Hồng thể hiện chủ trương, chính sách,
sự quyết tâm của Đảng và Chính phủ về công tác đê điều, phòng chống
lũ lụt, thủy lợi. Ủy ban sông Hồng đặt cơ sở nền móng, là tổ chức tiền
thân cho sự ra đời của Viện Quy hoạch Thủy lợi sau này.
Việc nghiên cứu quy hoạch sông Hồng tập trung vào các vấn
đề chính là phòng, chống lũ, cấp, thoát nước, vận tải thủy, thủy điện
và sơ đồ khai thác bậc thang hồ chứa ở thượng nguồn2. Trong năm
1961, Ủy ban sông Hồng đã lập hai đoàn quy hoạch Tả ngạn và Hữu
ngạn sông Hồng. Các cán bộ, kĩ sư của Ủy ban cùng với sự giúp đỡ
1
Đinh Gia Khánh, Nhớ lại quá trình làm quy hoạch trị thủy và khai thác sông
Hồng, in trong Viện Quy hoạch Thủy lợi, 55 năm (1961-2016): Đơn vị anh hùng
lao động, Nxb Khoa học Kĩ thuật, Hà Nội, 2016, tr.20
2
Nguyễn Đình Thịnh, Năm mươi năm quy hoạch thủy lợi, in trong Bộ Thủy Lợi,
50 năm thủy lợi những chặng đường, …sđd, tr.55.

244
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

của một số chuyên gia Trung Quốc tiến hành khảo sát, nghiên cứu
địa hình, thủy văn trên sông Đà, sông Lô, sông Phó Đáy, tiếp đến
là sông Thương, sông Cầu, sông Lục Nam và sông Hoàng Long, hệ
thống đê, các vùng chậm lũ, phân lũ, úng, mặn nghiêm trọng và các
tuyến vận tải thủy trên các sông chính1.
Năm 1962, Ủy ban sông Hồng báo cáo trước Bộ Chính trị phương
hướng quy hoạch trị thủy và khai thác hệ thống sông Hồng. Báo cáo
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị thảo luận, đánh giá
cao và thông qua. Năm 1963, một đoàn cán bộ thủy lợi Việt Nam do
ông Đinh Gia Khánh làm trưởng đoàn sang Liên Xô học hỏi kinh
nghiệm xây dựng bậc thang hồ chứa ở thượng nguồn kết hợp thủy
lợi, điều tiết lũ với phát triển thủy điện, đặc biệt là đề xuất, trao đổi
và đề nghị Liên Xô hỗ trợ nghiên cứu, thiết kế xây dựng hồ Hòa
Bình trên sông Đà. Cùng năm này, Bộ trưởng Hà Kế Tấn dẫn đầu
đoàn chuyên gia thủy lợi, đê điều Việt Nam sang trao đổi với các
chuyên gia thủy lợi Trung Quốc tại Bắc Kinh về các phương án trị
thủy và khai thác sông Hồng. Qua đó, các chuyên gia Việt Nam rút
ra được nhiều bài học kinh nghiệm và phương án để triển khai kế
hoạch trị thủy và khai thác hệ thống sông Hồng2.
Đến năm 1964, việc nghiên cứu, khảo sát quy hoạch trị thủy và
khai thác hệ thống sông Hồng về cơ bản đã hoàn thành bước đầu.
Luận chứng khoa học trị thủy và khai thác hệ thống sông Hồng
được đưa ra, trọng tâm gồm:
- Xây dựng bậc thang hồ chứa ở thượng du, trồng và bảo vệ
rừng, củng cố hệ thống đê, phân lũ qua đập Đáy. Xây dựng các công
trình phòng, chống lũ kết hợp với công trình cấp, thoát nước. Trong
đó, việc xây dựng hồ chứa ở thượng du là biện pháp quan trọng vừa
làm chậm lũ, vừa đảm bảo nước tưới, tiêu cho các vùng sản xuất ở
thượng du và hạ du vào mùa nước kiệt.
1
Đinh Gia Khánh, Nhớ lại quá trình làm quy hoạch trị thủy và khai thác sông
Hồng, …sđd, tr.20
2
Đinh Gia Khánh, Nhớ lại quá trình làm quy hoạch trị thủy và khai thác sông Hồng, …
sđd, tr.24.

245
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

- Việc quy hoạch tưới, tiêu cần dựa theo đặc điểm địa hình,
mạng lưới sông ngòi của từng vùng, tùy theo vùng mà có biện pháp
công trình tưới, tiêu cho thích hợp, như xây cống, đập là chính hay
trạm bơm hoặc tự chảy1.
Quy hoạch trị thủy sông Hồng là bước phát triển lịch sử về
đường lối và tầm nhìn toàn diện về khoa học, bước đi và hiệu quả
thực tiễn, trong đó có chỉnh trị sông Hồng đưa về thế ổn định như
ngày nay. Quy hoạch trị thủy sông Hồng tạo cơ sở luận chứng khoa
để triển khai một số công trình vừa có nhiệm vụ cung cấp nước tưới
vào mùa kiệt, vừa có nhiệm vụ cắt lũ từ đầu nguồn, phân và giảm
nhẹ lũ cho hạ du vào mùa mưa lũ, như các hồ chứa: Thác Bà (Yên
Bái), Khuôn Thần (Bắc Giang).
Cùng với phương án trị thủy và khai thác sông Hồng, trong
giai đoạn này, công tác củng cố các tuyến đê, nâng cấp, phát triển hệ
thống cống, kè và xây dựng một số khu chậm lũ được triển khai và
đạt được một số kết quả quan trọng. Trong hai năm 1961 - 1962, bên
cạnh việc củng cố các tuyến đê, hoàn thiện và mở rộng hệ thống Bắc
- Hưng - Hải, một số cống mới được xây dựng, đặc biệt là cống Phủ
Lý và cống Vĩnh Trị. Cống Phủ Lý có nhiệm vụ tưới, tiêu kết hợp:
tiêu úng cho 16.200ha thuộc Hà Đông và Hà Nam, đồng thời chống
lụt khi phân lũ qua đập Đáy; ngăn nước sông Châu Giang, cung
cấp nước tưới cho 5.000ha của hai huyện Thanh Liêm và Bình Lục
của tỉnh Hà Nam. Cống Vĩnh Trị có nhiệm vụ tiêu úng cho 25.000ha
thuộc huyện Ý Yên (Nam Định)2.
Tuy nhiên, trong năm 1961 - 1962 công tác củng cố đê, kè, cống
còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chậm tiến độ, không hoàn thành kế
hoạch đề ra. Giữa năm 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê bình
nghiêm khắc các tỉnh đắp đê chậm, không hoàn thành kế hoạch.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do việc huy
động nhân lực đắp đê theo kiểu “cắt phiên gọi lượt” không hiệu
quả, năng suất lao động thấp.
1
Nguyễn Đình Thịnh, Năm mươi năm quy hoạch thủy lợi, …sđd, tr.60.
2
Phan Khánh (Cb), Lịch sử thủy lợi Việt Nam,… sđd, tr.309.

246
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Trước thực trạng đó, đầu năm 1963, Ban chấp hành Trung ương
Đảng ban hành Nghị quyết số 65-NQ/TW chủ trương đẩy mạnh
hơn công tác đắp đê và phòng chống lụt ở Bắc Bộ trong 10 năm
(1963 - 1973). Nghị quyết đề ra các nhiệm vụ cụ thể, gồm: tăng cường
công tác đắp đê để đảm bảo chống được mức lũ +13,30m ở Hà Nội;
xây dựng một số khu chậm lũ để bảo vệ đê (khu Tam Nông, Thanh
Thủy thuộc tỉnh Phú Thọ, Vân Cốc thuộc tỉnh Hà Tây); bảo vệ và
trồng rừng để giữ đất, giữ nước; xây dựng các hồ chứa nước vừa và
nhỏ; từng bước thau chua, rửa mặn, xây dựng các cống, trạm bơm
để tưới và tiêu úng và xây dựng đê bối để chống lụt nhỏ cho các
bãi ngoài đê1. Nghị quyết số 65 – NQ/TW thể hiện chủ trương lớn,
quyết tâm của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về quy
hoạch trị thủy và khai thác sông Hồng, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ
về công tác đê điều, phòng chống lũ lụt trong giai đoạn này.
Cuối năm 1963, Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng
chủ trương phát động phong trào làm thủy lợi trong hai năm 1964 -
1965. Đầu năm 1964, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 34-TTg ngày
21 tháng 4 năm 1964 về đẩy mạnh phong trào làm thủy lợi, Chỉ thị
số 72-TTg về chỉ đạo ngành thủy lợi các cấp tập trung lực lượng và
nguồn lực để phát triển thủy lợi, củng cố đê điều2.
Trong hai năm 1964 – 1965, thực hiện chủ trương của Đảng và
Chỉ thị của Chính phủ, công tác đắp, củng cố đê, đập và phòng
chống lụt bão có bước phát triển mạnh mẽ. Ở Đồng bằng sông
Hồng, năm 1963 bắt đầu khởi công xây dựng hai khu chậm lũ:
Tam Nông - Thanh Thủy và Vân Cốc. Ở khu chậm lũ Tam Nông
- Thanh Thủy, một con đê tràn được xây dựng để ngăn và chứa
được 200 triệu m3 nước. Khu chậm lũ Vân Cốc gồm một tuyến
đê chắn ngang cửa sông Đáy và một cống dẫn lũ bằng bê tông
cốt thép. Hai quãng đê tả, hữu sông Đáy (từ cửa sông đến đập
1
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1995, tr.168 - 169.
2
Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, mã hồ sơ 1404, Về phong
trào làm thủy lợi trong 2 năm 1964-1965.

247
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Đáy) được tôn cao, cùng với đóng kín đập Đáy tạo thành một
khu chứa khoảng 700 triệu m3 nước. Hai công trình chậm lũ Tam
Nông - Thanh Thủy và Vân Cốc về cơ bản hoàn thành vào năm
1965, có vai trò hạn chế lưu lượng lũ phân qua đập Đáy, bảo
vệ cho hàng trăm nghìn ha ruộng đất canh tác1. Ngoài ra trong
giai đoạn này, một số trạm bơm chống úng lụt có công suất lớn,
cống tiêu cũng được xây dựng, như: các trạm bơm Cốc Thành, Cổ
Đam, Ngoại Độ, Hữu Bị và cống Ngoại Độ.
Ở các tỉnh Trung Bộ, từ tháng 8 năm 1964, do tình hình
căng thẳng sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ nên công tác sửa, đắp đê,
phòng chống lụt bão có nhiều khó khăn và không thực hiện
được nhiều. Quan trọng nhất là việc xây dựng cống âu thuyền
Bến Ngự ở Thanh Hóa, đảm bảo chống úng cho 32.567ha thuộc
huyện Đông Sơn.

4. Ban hành Điều lệ bảo vệ đê điều và quy định về chế độ dân công trong đắp đê
a) Ban hành Điều lệ bảo vệ đê điều
Cùng với xây dựng, củng cố và phát triển, để tăng cường công
tác quản lý, bảo vệ đê điều, ngày 21 tháng 11 năm 1963, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng thay mặt Hội đồng Chính phủ kí ban hành Nghị
định số 173-CP về Điều lệ bảo vệ đê điều. Ngày 29 tháng 9 năm
1964, Thứ trưởng Bộ Thủy lợi, ông Trần Qúy Kiên đã ký ban hành
Thông tư số 28-TL/ĐĐ hướng dẫn thi hành Điều lệ bảo vệ đê điều.
Thông tư khẳng định:

“Với tinh thần quyết tâm phấn đấu chống lụt bão [...] các tỉnh có đê
và các ngành có liên quan ra sức thực hiện đầy đủ Điều lệ và Thông tư
này tạo một chuyển biến mạnh mẽ trong công tác bảo vệ đê, kè, cống,
góp phần tích cực bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”2.
1
Phan Khánh (Cb), Lịch sử thủy lợi Việt Nam,… sđd, tr.311- 312.
2
Bộ Thủy lợi, Thông tư số 28 -TL/ĐĐ ngày 29 tháng 9 năm 1964 giải thích và
hướng dẫn thi hành Nghị định số số 173-CP ngày 21 tháng 11 năm 1963 của
Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ bảo vệ đê điều, in trong Điều lệ bảo vệ
đê điều, Nxb Nông thôn, 1972, tr.71.

248
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Điều lệ bảo vệ đê điều ban hành năm 1963 gồm 3 chương:


Chương 1 và 2, nêu rõ mục đích, ý nghĩa của đê và việc bảo vệ đê,
quy định trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc bảo vệ đê
điều; Chương 3, quy định chế độ khen thưởng và kỷ luật đối với các
tổ chức, cá nhân trong bảo vệ đê điều.

Điều lệ khẳng định, đê điều có vai trò vô cùng quan trọng đối
với việc phòng, chống lũ, ngăn nước mặn. Mặc dù đã được cải tạo,
bồi trúc, tôn cao nhưng hệ thống đê còn nhiều yếu kém: nền đê
nhiều chỗ yếu, thân đê có nhiều tổ mối, hang hốc, kè bị xói lở, cống
bé, ngắn và yếu. Vì thế cho nên, việc bảo vệ đê, phòng, chống lụt
bão càng quan trọng hơn.

Điều lệ bảo vệ đê điều áp dụng cho tất cả các đê, kè, cống qua
đê do Trung ương và địa phương quản lý. Phạm vi bảo vệ đê được
ấn định mỗi phía là 20m đối với đê sông chính, 10m đối với đê sông
nhánh và 5m đối với đê bao thành phố. Đối với kè, phạm vi bảo vệ
là 100m, đối với cống là 50m. Điều lệ cấm trồng các loại cây trên mặt,
mái, cơ đê và trong phạm vi bảo vệ đê. Cấm không được nhổ cây
chắn sóng, ngăn gió, vạc cỏ trên mặt, thân đê, mái kè và bờ cống.
Việc chăn thả gia súc trên đê cũng bị cấm1.

Điều lệ cũng nêu rõ, bảo vệ đê điều là nhiệm vụ của cán bộ


các ngành, các cấp và toàn thể nhân dân. Ai làm tốt sẽ được khen
thưởng, những đơn vị, cá nhân vi phạm chế độ bảo vệ đê điều nhẹ
thì bị xử phạt, làm hại đê, kè, cống mà gây tổn thất lớn đến tính
mạng, tài sản của nhân dân và nhà nước sẽ bị truy tố trước tòa án2.
Kể từ sau năm 1945, việc bảo vệ đê điều đã được thể hiện trong
Sắc lệnh số 70 - SL ngày 22 tháng 5 năm 1946 về thành lập Ủy ban
Trung ương hộ đê, chương trình hộ đê năm 1946, Sắc lệnh số 194 -

Điều lệ bảo vệ đê điều ban hành kèm theo Nghị định số 173-CP ngày 21 tháng 11
1

năm 1963, in trong Điều lệ bảo vệ đê điều, Nxb Nông thôn, 1972, tr.19-20, 24-25.
2
Điều lệ bảo vệ đê điều ban hành kèm theo Nghị định số 173-CP ngày 21 tháng
11 năm 1963,…sđd, tr.35.

249
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

SL ngày 28 tháng 5 năm 1948 về thành lập Ủy ban Bảo vệ đê điều


các cấp và Sắc lệnh số 68 - SL ngày 18 tháng 6 năm 1949 về Thể lệ
bảo vệ các công trình thủy nông. Nhưng Nghị định số 173-CP là lần
đầu tiên trong lịch sử kể từ sau năm 1945, Chính phủ ban hành văn
bản pháp quy riêng biệt đầu tiên về bảo vệ đê điều.
Văn bản này tiếp tục khẳng định rõ hơn vai trò quan trọng của
đê điều, bảo vệ đê điều và phòng chống lụt bão trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước. Nó thể hiện sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước đối với công tác đê điều, đánh dấu bước phát triển mới về
phương diện lập pháp, tạo cơ sở pháp lý quan trọng, nâng cao hiệu
quả trong xây dựng, quản lý, bảo vệ đê điều và phòng chống lũ lụt.
b) Quy định về chế độ dân công trong đắp đê
Từ thực tế lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc,
với quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân”,
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã vận dụng thành
công trong đắp đê, phòng chống lũ lụt. Từ năm 1957, Chính phủ đã
ban hành Điều lệ tạm thời về huy động và sử dụng dân công trong
thời bình. Theo đó, tất cả nam giới từ 18 đến 50 tuổi và nữ giới từ 18
đến 40 tuổi đều phải có nghĩa vụ đi dân công 30 ngày để xây dựng
các công trình đại, trung thủy nông, sửa chữa công trình thủy lợi hư
hỏng lớn, đặc biệt là xây dựng và sửa chữa đê điều. Mỗi dân công
tham gia đắp đê, làm thủy lợi được hưởng thù lao từ 600 đến 1.000
đồng/ngày công, tùy thuộc vào tính chất công việc thực hiện. Điều
lệ quy định về huy động dân công đã góp phần to lớn trong việc
huy động sức dân hoàn thành thắng lợi công tác khôi phục, củng
cố đê điều.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách dân công, một
số địa phương huy động mỗi người dân vượt quá số ngày quy định,
một số nơi không trả trợ cấp cho dân công, hoặc trả nhưng ít hơn
theo quy định, hoặc có người trả có người không. Điều này khiến
nhân dân ở một số địa phương phản ứng, gây nhiều khó khăn cho
việc huy động dân công đi đắp đê.
250
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Để khắc phục thực trạng này, ngày 18 tháng 1 năm 1960, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 23-TTvề việc thi hành chế
độ dân công trong đắp đê. Để tăng năng suất lao động và thực hiện
công bằng trong huy động dân công đi đắp đê, việc trả trợ cấp cho
dân công được tính theo khối lượng công việc thực hiện (làm khoán),
từ 4 đến 5 hào cho 1 m3 đào đắp, tùy theo loại đất khó hay dễ đào,
đắp. Giá trợ cấp cho mỗi mét khối phải được thông báo công khai
trên công trường cho dân công được biết. Ngày 16 tháng 7 năm 1962,
Chính phủ ban hành Nghị định số 81-CP quy định đối với xã viên
hợp tác xã. Theo đó, nghĩa vụ dân công trong đắp đê, làm thủy lợi là
nghĩa vụ tập thể của hợp tác xã. Trong quá trình thực hiện, nhiều hợp
tác xã đã có những sáng kiến thành lập các đội chuyên môn làm thủy
lợi, đắp đê, tạo bước phát triển quan trọng trong việc nâng cao năng
suất, chất lượng và hiệu quả công việc. Hai tỉnh đầu tiên thành lập
được các đội chuyên môn thủy lợi, đắp đê là Hải Dương và Nghệ An,
tiêu biểu nhất là hợp tác xã Hồng Thái, tỉnh Hải Dương.
Thực hiện chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong
trào xây dựng mô hình đội thủy lợi đã được nhân rộng và phát triển
mạnh mẽ trong các hợp tác xã ở miền Bắc. Đến cuối năm 1963, toàn
miền Bắc đã tổ chức được hơn 3.000 đội chuyên môn làm thủy lợi,
đặc biệt phát triển mạnh ở các tỉnh: Hải Dương, Nam Định, Hà Đông.
Đến cuối năm 1964, toàn miền Bắc đã có 17.000 đội chuyên môn làm
thủy lợi với 33 vạn người, tăng 14.000 đội so với cuối năm 19631.
Đội thủy lợi đóng vai trò quan trọng trong việc chuyên môn
hóa, tạo bước đột phá trong việc đắp đê, đào sông, xây kè, làm cống,
bảo vệ và phát triển sản xuất ở các địa phương.
Trong 5 năm 1961 - 1965, đầu tư kinh phí cho xây dựng cơ bản
đê điều của Nhà nước giảm hơn giai đoạn trước, 41,26 triệu đồng so
với 75,3 triệu đồng trong giai đoạn 1955 - 1960. Các đợt đắp đê chủ
yếu quy mô nhỏ, dựa vào lao động thủ công của dân là chính, nòng
cốt là lực lượng dân công, các đội thủy lợi của hợp tác xã. Tổng khối
1
Củng cố và phát triển tốt hơn nữa các đội thủy lợi, đăng trên báo nhân dân số
3926, ngày 30 tháng 12 năm 1964, Bác Hồ với thủy lợi, …sđd, tr. 75.

251
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lượng đắp trong 5 năm 1961 - 1965 đạt gần 28,6 triệu m3 đất, 352
nghìn m3 đá, đổ gần 16 nghìn m3 bê tông. Cụ thể khối lượng đào,
đắp hằng năm như sau:
Bảng 20. Khối lượng, kinh phí xây dựng đê điều giai đoạn 1961 – 1965

Năm Đất (triệu m3) Đá (m3) Bê tông (m3) Kinh phí (triệu đồng)
1961 9,069 103.000 2.717 9,455
1962 5,117 43.135 3.743 6,298
1963 3,586 58.850 2.136 6,402
1964 4,830 69.931 3.075 9,500
1965 5,991 76.700 3.850 9,605
Tổng 28,593 351.616 15.521 41,26
[Nguồn: Thống kê khối lượng, kinh phí xây dựng cơ bản đê điều đã thực
hiện trong 50 năm 1946 - 1995, tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp].

Nhờ quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và đầu tư của Nhà nước, hệ thống đê được củng cố vững chắc hơn
trước. Về cơ bản đến năm 1965, hệ thống đê sông Hồng đảm bảo
chống được mức lũ 13,30m tại Hà Nội, đê sông Thái Bình đảm bảo
chống được lũ 6,50m tại Phả Lại. Các tuyến đê sông ở Trung Bộ đảm
bảo chống được mức lũ của năm 1962, không có sự cố đê, kè, cống
nào xảy ra.
Thành tựu nổi bật trong giai đoạn này là việc triển khai nghiên
cứu quy hoạch trị thủy, khai thác sông Hồng. Cơ quan quản lý Nhà
nước về đê điều, phòng chống lụt bão được củng cố. Lần đầu tiên
trong lịch sử kể từ sau năm 1945 có văn bản pháp quy riêng về bảo
vệ đê điều.
Đây thực sự là một thành tựu to lớn trong công tác đê điều,
phòng chống lụt bão, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tài sản, tính
mạng của nhân dân, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Diện
tích, năng suất và sản lượng cây trồng đều tăng so với trước. Năm
1965, sản lượng lương thực quy thóc toàn miền Bắc đạt gần 5,6 triệu
tấn, năng suất lúa đạt 3,9 tấn/ha, nhiều huyện đạt 5 tấn thóc/ha, đời
sống của người dân được cải thiện.
252
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Tuy nhiên, hệ thống đê điều vẫn còn nhiều hạn chế. Tình trạng
lũ lụt, ngập úng vẫn chưa được giải quyết ở hầu hết các vùng thuộc
Đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. Diện tích cấy được hai vụ ở miền
Bắc mới chỉ đạt 25% tổng diện tích canh tác. Cho nên, củng cố đê
điều, từng bước giải quyết triệt để lũ lụt, đặc biệt là các điểm úng lụt
thường xuyên ở Đồng bằng sông Hồng, bảo vệ, mở rộng phát triển
sản xuất là nhiệm vụ quan trọng, nặng nề những năm sau đó, đặc
biệt là trong tình hình đế quốc Mỹ leo thang bắn phá dữ dội miền
Bắc từ năm 1965.

VI. ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT TRONG GIAI ĐOẠN ĐẾ QUỐC MỸ TIẾN HÀNH
CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI MIỀN BẮC (1965 - 1975)
1. Đế quốc Mỹ điên cuồng đánh phá các tuyến đê, kè, cống, đập và chỉ đạo của
Đảng, Nhà nước đối với công tác đê điều
Trước nguy cơ thất bại trong Chiến lược Chiến tranh Đặc biệt
ở miền Nam (1961 - 1965), tháng 8 năm 1964, Mỹ dựng lên sự kiện
Vịnh Bắc Bộ và tiến hành chiến tranh leo thang ra miền Bắc. Tháng
02 năm 1965, không quân Mỹ ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới
và đảo Cồn Cỏ, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ
nhất nhằm phá hoại kinh tế, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương
miền Bắc cho miền Nam, làm lung lạc ý chí chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân Việt Nam. Các công trình thủy lợi, các tuyến đê, cống,
đập, kè đều là những mục tiêu đánh phá ác liệt nhất máy bay Mỹ và
gây ra nhiều hậu quả nặng nề đối với miền Bắc.
Ở Trung Bộ, trong ba năm 1965 - 1966, máy bay Mỹ đã đánh
phá 180 vị trí các công trình thủy lợi ở Nghệ An, ác liệt nhất là đánh
vào đập Đô Lương, cống Nam Đàn, cống Bến Thủy và các tuyến đê
Phượng Kỉ, Hưng Hòa. Trong năm 1965, đập Bàn Thạch bị đánh phá
11 trận. Ngày 13 tháng 6 năm 1965, cống Nam Đàn bị máy bay Mỹ
ném bom bảy lần. Ngày 3 tháng 11 năm 1965, cống Bến Thủy phải
hứng chịu bốn lần oanh tạc của bom Mỹ1.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 70 năm nông nghiệp Việt Nam,…sđd, tr.265.
1

253
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hai năm 1966-1967, máy bay Mỹ đánh phá các công trình thủy
lợi, đê điều ngày càng ác liệt với tần suất ngày càng tăng. Tháng 6
năm 1966, đập Đô Lương ở Nghệ An bị đánh phá 34 trận. Trong
tháng 7 năm 1966, máy bay Mỹ đánh 650 trận vào 100 công trình
thủy lợi lớn nhỏ và các tuyến đê, kè, cống. Dã man nhất là hai trận
ném bom của máy bay Mỹ vào đoàn cán bộ và nhân dân đang đắp
đê 42 ở Nghệ An (đê tả sông Lam) và đê sông Mã ở Thanh Hóa.
Ở Bắc Bộ, máy bay Mỹ điên cuồng ném bom gây hư hỏng nặng
cho nhiều tuyến đê, kè, cống và các công trình thủy lợi khác.
Đầu năm 1972, trước nguy cơ thất bại của Chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh” ở miền Nam, để tạo thế cho thương lượng ngoại
giao, Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã ra lệnh cho không quân và
hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai. Từ
tháng 4 đến tháng 8 năm 1972, máy bay Mỹ đã đánh phá 198 lần vào
các công trình thủy lợi. Đặc biệt vào giữa tháng 8 năm 1972, máy bay
Mỹ đánh phá 28 lần vào các tuyến đê sông Hồng, sông Đuống ở Hà
Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Thái Bình,… làm cho hàng nghìn mét đê
xung yếu bị sạt lở, nhiều cống ngăn mặn ở các tỉnh ven biển bị hư
hỏng nặng1. Trầm trọng nhất là cống Lân ở Thái Bình bị bom, tên
lửa Mỹ đánh sập, nước biển tràn vào gây hậu quả vô cùng to lớn về
người và tài sản của nhân dân.
Cuộc chiến tranh leo thang phá hoại của Mỹ gây ra rất nhiều
thiệt hại, khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung, công
tác xây dựng đê điều, phòng chống lũ lụt nói riêng. Thêm vào đó,
trong giai đoạn 1965 - 1975, tình hình mưa lũ diễn biến bất thường
cũng gây ra rất nhiều khó khăn và thử thách đối với hệ thống đê,
đập, kè, cống. Từ năm 1966, lũ sông Hồng thường lên cao gây nhiều
khó khăn cho công tác cứu hộ, bảo vệ và sửa đắp đê.
Trước âm mưu và hành động chiến tranh phá hoại miền Bắc
của Mỹ, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã kịp thời chỉ
đạo chuyển mọi hoạt động ở miền Bắc sang thời chiến, với khẩu
1
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 70 năm nông nghiệp Việt Nam,…sđd, tr.265.

254
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

hiệu “Vừa chiến đấu vừa sản xuất, Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược !”. Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ chí Minh ra lời
kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược:
“…Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu
hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có
thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có
gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây
dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.
Về công tác đê điều, thủy lợi, ngay năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu cán bộ và nhân dân phải cảnh giác với âm mưu đánh
phá hệ thống đê điều và công trình thủy lợi của Mỹ. Người chỉ rõ,
việc bảo vệ đê điều và các công trình thủy lợi có vai trò vô cùng
quan trọng vì nó liên quan tới tài sản của Nhà nước, tính mạng và
tài sản của nhân dân và cũng liên quan trực tiếp tới cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Vì thế cho nên, việc bảo vệ đê điều và
các công trình thủy lợi, phải chuẩn bị sẵn sàng, chu đáo, kiên quyết
đập tan âm mưu của giặc Mỹ1. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn
dân quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, giặc hạn và giặc lụt.
Ngày 02 tháng 02 năm 1966, Ban Bí Thư Trung ương Đảng và
Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về công tác thủy lợi.
Nghị quyết chỉ rõ, từ Thanh Hóa trở vào, do bị không quân và hải
quân Mỹ đánh phá ác liệt nên tạm dừng xây dựng các công trình
mới và lớn. Tập trung ngụy trang, bảo vệ, sửa chữa công trình đê
điều, cống, kè, đập bị hư hỏng. Đối với vùng khác, Đảng và Nhà
nước chỉ đạo tiếp tục xây dựng thêm công trình lớn và vừa cần thiết,
đặc biệt là trong những vùng trọng điểm sản xuất nhằm thâm canh,
tăng năng suất. Mục tiêu là nâng năng lực tưới, tiêu chủ động thực
tế lên 1,618 triệu ha2. Nhà nước tiếp tục tăng ngân sách đầu tư cho
1
Kiên quyết đập tan âm mưu của giặc Mỹ đăng trên báo Nhân dân ngày 29
tháng 6 năm 1966, theo Bác Hồ với thủy lợi, Nxb Nông Thôn, 1970, tr. 46.
2
Nguyễn Cảnh Dinh, 50 năm thủy lợi, những chặng đường, in trong Bộ Thủy
Lợi, 50 năm thủy lợi những chặng đường, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995, tr.26.

255
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

thủy lợi, đê điều. So với giai đoạn 1955 - 1957, vốn đầu tư tăng 404%
trong giai đoạn 1966 - 1972 và 606,5% trong giai đoạn 1972 - 19751.
Về chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với cơ quan chỉ
đạo phòng chống lụt bão và bảo vệ, quản lý đê điều, từ năm 1965,
Chính phủ giao cho Bộ trưởng Bộ Thủy lợi trực tiếp đảm trách
cương vị Trưởng ban Ban Chỉ huy phòng chống lụt bão Trung
ương. Từ năm 1965 đến năm 1973, Bộ trưởng Hà Kế Tấn giữ cương
vị Trưởng ban. Năm 1973, ông Nguyễn Thanh Bình được bổ nhiệm
giữ cương bị Bộ trưởng Bộ Thủy lợi thay cho ông Hà Kế Tấn, đồng
thời là Trưởng ban Ban Chỉ huy phòng chống lụt bão Trung ương
đến năm 19812. Trước trận lụt năm 1971, Ban Chỉ huy phòng chống
lụt bão Trung ương chỉ có một Phó Trưởng ban, sau trận lũ lụt và
vỡ đê năm 1971, bắt đầu từ năm 1972, Chính phủ cho phép có ba
Phó Trưởng ban để tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo công tác
đê điều, phòng chống lụt bão3.
Trong giai đoạn này, Cục Đê điều - cơ quan quản lý Nhà nước
về đê điều tiếp tục được duy trì ổn định và không có gì thay đổi. Từ
năm 1964 đến năm 1967, ông Trần Quốc Thái là Cục trưởng. Từ năm
1967 đến năm 1976, ông Dương Ngọc Võ là Cục trưởng. Các Phó
1
Đặng Phong (cb), Lịch sử kinh tế Việt Nam (1945-2000),…sđd, tr. 294.
2
Ban Chỉ huy Chống lụt bão Trung ương, Danh sách Trưởng ban và Phó trưởng
Ban chỉ huy chống lụt chống bão Trung ương 1946 -1986, in trong 40 năm phòng
chống lụt bão (Đặc san kỷ niệm 40 năm Hồ chủ tịch ký sắc lệnh thành lập Ủy ban Trung
ương hộ đê), Lưu hành nội bộ, Hà Nội, 1986, tr.26.
3
Các Phó Ban dưới thời Bộ trưởng Hà Kế Tấn, gồm các ông: Trần Mạnh Quỳ
(1965 - 1966), Phó Chủ nhiệm Văn phòng nông nghiệp Phủ Thủ tướng; Nguyễn
Quang Xá (1967 - 1971), Phó Chủ nhiệm Văn phòng nông nghiệp Phủ Thủ
tướng. Từ năm 1972, ba Phó trưởng ban, gồm các ông: Nguyễn Quang Xá (Phó
Chủ nhiệm Văn phòng nông nghiệp Phủ Thủ tướng), Lê Trung Đình (Uỷ viên
Ủy ban Nông nghiệp Trung ương) và ông Phùng Thế Tài (Phó Tổng Tham mưu
trưởng Quân đội Nhân dân). Trong giai đoạn 1973 - 1975, Phó trưởng ban gồm
các ông: Phùng Thế Tài (Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân),
Lê Xuân Tại (Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp), Lê Tính (Thứ trưởng Bộ Thủy lợi).
Năm 1975, ông Vũ Khắc Mẫn (Thứ trưởng Bộ Thủy lợi) thay cho ông Lê Tính.

256
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Cục trưởng gồm các ông Nguyễn Trọng Tám, Nguyễn Văn Châu
(1968 - 1975). Trong giai đoạn này, ngoài những cán bộ có nhiều kinh
nghiệm lâu năm, Cục Đê điều còn được bổ sung thêm đội ngũ kĩ
sư, cán bộ kĩ thuật được đào tạo ở trong nước và nước ngoài (Trung
Quốc, Liên Xô), như kĩ sư Phạm Đăng Ấp, Trương Nhật Thanh, Phó
Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ) Lê Văn Kiến,...1.

2. Cuộc chiến cam go chống lại thiên tai và địch họa để bảo vệ, sửa chữa, củng
cố đê điều
Từ năm 1965 đến năm 1975, lực lượng cán bộ thủy lợi, đê điều
cùng với quân và nhân dân miền Bắc cùng một lúc vừa phải chống
lại thiên tai, vừa phải trực tiếp chống lại “địch họa” để bảo vệ, sửa
chữa kịp thời các công trình đê, kè, cống, đập bị bom Mỹ đánh phá.
Từ năm 1966, công tác đắp đê, phòng chống lũ, lụt gặp nhiều khó
khăn, một phần do đế quốc Mỹ tăng cường ném bom đánh phá ác
liệt, phần khác do tình hình lũ lụt diễn biến bất thường. Những
năm 1966, 1968, 1969, 1970, đặc biệt năm 1971, lũ sông Hồng thường
lên cao trên +12 m, thậm chí +13 m.
a) Chống địch họa
Để đối phó với các cuộc không kích của đế quốc Mỹ, Đảng,
Nhà nước, Bộ Thủy lợi và Cục Đê điều đã chỉ đạo cán bộ và nhân
dân phối hợp với lực lượng quân đội tiến hành ngụy trang, tổ
chức trận địa phòng không để bảo vệ các công trình đê, kè, cống
quan trọng.
Với tinh tinh thần “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”,
“Địch đánh ngày ta làm đêm” cán bộ đê điều cùng với chính
quyền và nhân dân các địa phương đã vượt qua mọi khó khăn,
quyết tâm bảo vệ, sửa chữa, đắp lại kịp thời những đoạn đê bị
bom Mỹ phá hỏng.
Để theo dõi sát sao, phối hợp với các lực lượng địa phương
trong việc bảo vệ, sửa chữa kịp thời đê, kè, cống trước sự đánh
1
Nguyễn Trọng Tám, Hồi ký về công tác đê diều, phòng chống bão lụt (bản chép tay),
tr.10 - 11.

257
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

phá ác liệt của máy bay Mỹ, Cục Đê điều đã cử cán bộ chuyên
trách nằm vùng ở các tỉnh, đặc biệt là ở các tỉnh Trung Bộ là địa
bàn không quân Mỹ đánh phá ác liệt nhất. Trong giai đoạn này,
các cán bộ của Cục Đê điều, như các ông: Nguyễn Trọng Tám,
Trần Huy, Đỗ Uy Liêm,... đã lăn lộn ở khắp các chiến trường ác
liệt khu IV, kiểm tra các tuyến đê thuộc tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình và Đặc khu Vĩnh Linh (Quảng Trị), chỉ đạo, phối
hợp với chính quyền, nhân dân địa phương xử lý kịp thời các sự
cố về đê điều.
Trong mưa bom bão đạn của đế quốc Mỹ ngày càng ác liệt, cán
bộ thủy lợi, đê điều cùng quân và dân đã không sợ hy sinh tính
mạng để bảo vệ, sửa chữa kịp thời các đoạn đê, kè, cống bị bom Mỹ
phá hỏng. Nhiều người trong số họ đã anh dũng hy sinh, mãi mãi
được ghi sâu trong lịch sử dân tộc và lịch sử thủy lợi, đê điều.
Ở Trung Bộ, năm 1967, cống Nam Đàn và đê tả Lam bị bom
Mỹ đánh phá và gây hư hỏng nặng, chính quyền và nhân dân địa
phương đã tập trung lực lượng tại chỗ sửa chữa. Trong lúc đang
sửa chữa cống Nam Đàn và trạm bơm Nam Đông (Nghệ An), bất
ngờ máy bay Mỹ lao tới dội bom khiến kĩ sư Trần Văn An và công
nhân kĩ thuật bơm Lê Văn Đồng hi sinh1. Ngày 27 tháng 8 năm
1967, trong khi hàng nghìn người đang tham gia tu sửa, gia cố đê
tả Lam, xã Hưng Khánh, huyện Hưng Nguyên (Nghệ An), máy
bay Mỹ bất ngờ nhào tới ném bom dữ dội, giết hại 17 người và làm
bị thương hàng trăm người. Ngày 27 tháng 8 năm 1967 được coi là
ngày giỗ chung của nhân dân xã Hưng Khánh. Để ghi nhớ sự hi
sinh của cán bộ và nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đê điều, chính quyền địa phương đã cho xây dựng một đài tượng
niệm ở đê tả sông Lam.

1
Hội Thủy lợi Nghệ An, 65 năm thủy lợi Nghệ An những chặng đường phát triển
(1945-2010),…sđd, tr.97.

258
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hình 16. Lược đồ hệ thống đê, cống ở miền Bắc bị máy bay Mỹ đánh phá năm 19721
Năm 1972, trước nguy cơ thất bại quân sự ở miền Nam và để
tạo thế mặc cả với ta ở hội nghị Paris, Mỹ đã huy động một lực
lượng lớn máy bay đánh phá miền Bắc lần thứ hai. Tháng 6 năm
1972, bị bom Mỹ đánh phá, đê sông Mã đoạn Nam Ngạn, cách cầu
Hàm Rồng chừng 1km về phía hạ lưu bị hư hỏng nặng. Trong khi
đó, mưa lớn, nước sông Mã dâng cao, gây nguy cơ vỡ đê. Trước
tình hình khẩn cấp, chính quyền địa phương đã huy động hơn
2.000 người (phần lớn là giáo viên, học sinh, dân quân tự vệ và

Yves La Coste, Enquête sur le bombardement des digues du fleuve Rouge (Vietnam, été
1

1972): Méthode d’analyse et réflexions d’ensemble, Revue Hérodote, N0 1/1976, tr.86-118.

259
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

thanh niên) tới Nam Ngạn để gia cố đoạn đê bị bom mỹ đánh


phá. Sáng ngày 14 tháng 6 năm 1972, máy bay Mỹ bất ngờ ném
bom dữ dội xuống cầu Hàm Rồng và lực lượng đang tham gia
đắp đê khiến 64 người hy sinh, hàng trăm người bị thương. Sau
này, chính quyền địa phương đã cho xây dựng một tấm bia trên
đê Nam Ngạn để ghi danh, tưởng nhớ và ghi nhận công lao của
những người hy sinh cho sự nghiệp bảo vệ đê điều.
Trong đợt Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc lần
thứ hai, Bộ Thủy lợi, Cục Đê điều đã phối hợp với quân đội, chính
quyền và nhân dân địa phương theo dõi sát sao, chỉ đạo, tổ chức
trận địa ngụy trang, theo dõi, bảo vệ, sửa chữa kịp thời các tuyến đê,
kè, cống bị bom Mỹ làm hư hỏng. Cục Đê điều cử hai cán bộ là ông
Nguyễn Văn Lễ và ông Dương Văn Phú đảm nhận nhiệm vụ theo
dõi, cập nhật thông tin đế quốc Mỹ ném bom đánh phá hệ thống
đê, kè, cống; các số liệu về số vụ ném bom, vị trí đê, kè, cống bị ném
bom, số bom đã nổ, số bom chưa nổ. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng
để phối hợp với quân đội, chính quyền và nhân dân địa phương
nhanh chóng khắc phục, đảm bảo an toàn, hiệu quả trong sửa chữa
các sự cố đê, kè, cống do bom Mỹ phá hoại.
b) Xây dựng, tu bổ, bảo vệ đê
Ở Bắc Bộ, trong hai năm 1965 - 1966, một số công trình thoát
lũ, phân lũ, như công trình Lương Phú, cống và đê bao Vân Cốc và
khu chậm lũ Tam Nông tiếp tục được xây dựng. Bộ Thủy lợi tiếp tục
chỉ đạo, tổ chức nghiên cứu quy hoạch trị thủy những dòng sông
lớn, đặc biệt là đẩy mạnh xây dựng hồ đập ở thượng lưu, chứa nước
phục vụ phát triển kinh tế miền núi và trung du, cắt, giảm lũ cho
đồng bằng và hạ du.
Đề phòng máy bay Mỹ phát hiện ném bom, việc thi công các
công trình như hồ Suối Hai, Nậm Rốm, Thác Bà,... phải chuyển sang
làm đêm để đảm bảo an toàn cho cán bộ, công nhân và đảm bảo
tiến độ công trình. Ở công trường Nậm Rốm, trong khi hàng trăm
người đang thi công, máy bay Mỹ bất ngờ dội bom khiến 18 cán bộ

260
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

và thanh niên xung phong hy sinh. Trung tuần tháng 9 năm 1965,
máy bay Mỹ quần thảo 30 lần và dội hơn 300 quả bom xuống các
công trình thuộc hồ Suối Hai. Trong bối cảnh đó, Chính phủ chỉ đạo
tạm dừng xây dựng một số công trình lớn, tiến hành ngụy trang và
các biện pháp bảo vệ công trình.
Năm 1968, mưa lớn, lũ sông Hồng lên cao. Mặc dù đã phân
lũ vào khu Vân Cốc nhưng mức lũ đo được ở Hà Nội vẫn lên
tới +12,23 m. Năm 1969, lũ sông Hồng lớn bất thường, lớn nhất
trong lịch sử tính đến thời điểm đó. Ngày 18/8/1969, đỉnh lũ đo
được tại Hà Nội là +13,22 m, cao hơn mức báo động ba là 1,72m,
cao hơn mức lũ năm 1945 là 0,54m (đỉnh lũ năm 1945 đo được ở
Hà Nội là +12,68m) và xấp xỉ mức lũ thiết kế +13,50m. Cùng với
lũ sông Hồng lên cao, lũ sông Đà, sông Lô, sông Thao cũng rất
lớn, uy hiếp toàn bộ các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và một số
tỉnh trung du Bắc Bộ1.
Trong hoàn cảnh lũ dâng cao, tính mạng và tài sản của nhân
dân bị đe dọa, mặc dù đang bệnh nặng nhưng Chủ tịch Hồ Chí
Minh vẫn thường xuyên theo dõi nắm bắt thông tin, yêu cầu Chính
phủ chỉ đạo sát sao các cơ quan chuyên môn thủy lợi, đê điều phải
đánh thắng giặc lụt. Trước nguy cơ đê sông Hồng có thể vỡ, để
đảm bảo an toàn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số vị lãnh đạo đã
khuyên Người đi sơ tán, nhưng Người nói: “Bác không đi đâu, Bác
ở với dân, các chú đừng để lụt, đừng để vỡ đê”2.
“Đừng để lụt, đừng để vỡ đê”, đó không chỉ là lời nhắn nhủ
mà còn là mệnh lệnh của người đứng đầu đất nước, là trọng trách
và nhiệm vụ mà Bác giao phó cho Chính phủ, Bộ Thủy lợi và Cục
Đê điều trong cuộc chiến chống lại giặc lụt. Trước tình thế khẩn
cấp, Chính phủ đã nhanh chóng chỉ đạo Ban Chỉ huy chống lụt bão
Trung ương, Bộ Thủy lợi huy động mọi nguồn lực, phối hợp với lực

Nguyễn Trọng Tám, Hồi ký về công tác đê diều, phòng chống bão lụt (bản chép tay), tr.12.
1

2
Ngành Thủy lợi đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại, Tập san Thủy lợi số tháng 10 năm
1969, dẫn theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 70 năm nông nghiệp Việt
Nam,…sđd, tr.270.

261
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lượng quân đội, chính quyền và nhân dân các địa phương thực hiện
các biện pháp bảo vệ, gia cố đê, kè, cống.
Đảng, Nhà nước đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn huy động
mọi nguồn lực, phối hợp với lực lượng quân đội, chính quyền và
nhân dân các địa phương thực hiện các biện pháp bảo vệ, gia cố
đê, kè, cống. Để giảm lũ sông Hồng, Chính phủ, Bộ Thủy lợi và
Cục Đê điều đã quyết định thực hiện phương án phân lũ vào khu
chậm lũ Tam Nông, Vân Cốc và qua đập Đáy. Trong quá trình mở
đập Đáy, đích thân Phó Thủ tướng Đỗ Mười đã đến thị sát chỉ đạo.
Cục phó phụ trách kĩ thuật Cục Đê điều Nguyễn Trọng Tám, cùng
với lãnh đạo tỉnh Hà Sơn Bình, huyện Đan Phượng, Phúc Thọ trực
tiếp có mặt theo dõi, kiểm tra vận hành, chỉ đạo sơ tán nhân dân
khỏi vùng phân lũ. Sau khi thực hiện phương án phân lũ, lũ sông
Hồng bắt đầu giảm, đê sông Hồng và các đê sông lớn khác ở Bắc
Bộ được bảo vệ an toàn.

Tuy nhiên, trận lũ năm 1969 vẫn gây ra một số sự cố về đê, kè,
cống. Đê sông Phó Đáy và đê sông Kinh Môn bị vỡ một số vị trí,
nhưng do cảnh giác, kịp thời xử lý nên thiệt hại không đáng kể1. Sự
cố nghiêm trọng nhất là kè Quang Lãng thuộc huyện Phú Xuyên,
tỉnh Hà - Sơn - Bình (nay thuộc Hà Nội) bị sạt lở hơn 10m.

Để xử lý kè Quang Lãng bị sạt lở, Bộ Thủy lợi, Cục Đê điều đã


kịp thời điều động cán bộ kĩ thuật có kinh nghiệm cắm chốt tại hiện
trường, phối hợp với chính quyền tỉnh, huyện cùng với lực lượng
bộ đội thuộc Bộ Tư lệnh Công binh chỉ đạo, huy động phương tiện,
vật tư cùng với nhân dân ứng cứu, khắc phục sự cố. Hàng ngàn cây
tre, cọc gỗ, rào tre và hơn 5.000m3 đá nhanh chóng được tập kết để
kè lại đoạn bị sạt lở. Tuy nhiên, do nước chảy xiết, thân đê tiếp tục bị
nước lũ khoét sâu. Trước tình hình đó, các lực lượng ứng cứu phải
dùng nhiều rọ, sọt đá và thuyền chất đầy đá đánh đắm để lấp chân
1
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),...
sđd, tr.173.

262
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

đê bị sạt. Nhưng do kè quá sâu, hơn 50m nước, trong khi nươc lũ
chảy xiết, nên các rọ đá khi thả xuống đều bị nước lũ cuốn trôi, gây
tổn thất nghiêm trọng. Hơn chục người, trong đó có một số chiến
sĩ thuộc Bộ Tư lệnh Công binh và cán bộ hộ đê bị nước lũ cuốn trôi
và hy sinh1.

Trước tình thế ngày càng nghiêm trọng, Trung ương Đảng,
Chính phủ, Bộ Thủy lợi và Cục Đê điều chỉ đạo phải bảo vệ đê,
kè Quang Lãng bằng được. Cán bộ kĩ thuật của Cục Đê điều
cùng lực lượng ứng cứu đã quyết định dùng vật liệu liên kết thả
phía trên đoạn kè bị sạt lở để nắn dòng lũ ra khỏi chân kè. Hàng
nghìn mét khối đá hộc cùng rào tre, sọt tre, rọ sắt được tạo thành
những khối liên kết dài tới 10m thả xuống chân đê cách kè chừng
100m. Phương pháp này đã mang lại hiệu quả rõ rệt, cho phép
đẩy dòng chảy của lũ ra xa chân kè, tạo điều kiện cho lực lượng
gia cố thành công đoạn chân kè Quang Lãng bị sạt lở vào ngày 2
tháng 9 năm 1969.

Cuối năm 1969, để củng cố, nâng cấp những tuyến đê bị hư


hỏng, xuống cấp do trận lũ năm 1968 và 1969 gây ra, Bộ Thủy lợi
đã huy động hàng vạn cán bộ nhà nước, sinh viên các trường đại
học, trung cấp chuyên nghiệp và quân đội mở chiến dịch đắp đê
quy mô lớn ở Bắc Bộ. Tham gia chiến dịch có khoảng 100 sinh
viên thuộc hai lớp chuyên tu 5C và 5T của Trường Đại học Thủy
lợi. Lực lượng này được Cục Đê điều giao nhiệm vụ giám sát kỹ
thuật thi công và tiến độ đắp đê. Trong quá trình đắp đê tả sông
Thái Bình thuộc huyện Nam Sách (Hải Dương), mặc dù lực lượng
thi công thực hiện đúng quy trình kỹ thuật, nhưng khi kiểm tra
thì dung trọng lớp đất đắp không đạt quy định của đồ án thiết
kế. Theo ông Nguyễn Văn Lễ (người trực tiếp giám sát kỹ thuật,
nguyên Phó cục trưởng Cục Phòng chống lụt bão và Quản lý đê
điều), nguyên nhân là do đất sử dụng đắp đê có tỷ lệ mùn giun

Nguyễn Trọng Tám, Hồi ký về công tác đê diều, phòng chống bão lụt (bản chép tay), tr.13.
1

263
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

quá cao, nên khi đầm nén các viên đất không xâm nhập được vào
các khe rỗng, dẫn tới dung trọng lớp đất đắp không đạt yêu cầu.
Vấn đề được khắc phục khi lực lượng thi công tiến hành loại bỏ
loại đất này và đắp gia cố bằng đất mới. Đây được xem là một bài
học kinh nghiệm quý chưa hề có trong lý thuyết cũng như trong
thực tiễn về đắp đất bằng phương pháp đầm nén trong thi công
đắp đê mới cũng như gia cố tu bổ đê1.
Từ năm 1966 đến năm 1970, đầu tư kinh phí và khối lượng đào
đắp đê có gia tăng hơn nhiều so với các giai đoạn trước nhằm củng
cố, sửa chữa các tuyến đê bị hư hỏng do bom Mỹ đánh phá và lũ
lụt gây ra. Trong 5 năm này, kinh phí đầu tư cho xây dựng đê điều
đạt 69,677 triệu đồng, tăng 1,7 lần so với giai đoạn 1961 - 1965. Tổng
khối lượng đào đắp đạt 36,571 triệu m3 đất, 377.325 m3 đá, đổ 5.769
m3 bê tông. Cụ thể kinh phí đầu tư và khối lượng đào đắp hằng năm
như sau:
Bảng 21. Khối lượng, kinh phí xây dựng đê điều giai đoạn 1966 – 1970

Kinh phí
Năm Đất (triệu m3) Đá (m3) Bê tông (m3)
(triệu đồng)
1966 9,507 58.478 2.100 11,500
1967 5,200 45.000 1.060 11,750
1968 5,170 48.000 720 13,000
1969 8,200 100.000 1.200 13,000
1970 8,494 125.847 689 20,427
Tổng 36,571 377.325 5.769 69,677
[Nguồn: Thống kê khối lượng, kinh phí xây dựng cơ bản đê điều đã thực
hiện trong 50 năm 1946 - 1995, tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp].

Kinh phí đầu tư và khối lượng đào đắp đặc biệt tăng nhanh
trong hai năm 1969 và 1970. Lý do là năm 1968, Mỹ tuyên bố ngừng
ném bom miền Bắc, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng
1
Nguyễn Văn Lễ, Ký ức về một số sự kiện đê điều, phòng chống lụt, bão đáng nhớ thời
kỳ 1970-2000 (trích hồi ký), tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp, tr. 1.

264
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

cường củng cố, tu sửa những tuyến đê, kè, cống bị bom Mỹ phá
hoại. Mặt khác, trận lũ lụt năm 1969 gây hư hỏng một số tuyến đê,
kè, cống, cho nên từ cuối năm 1969 và năm 1970, Nhà nước đã tăng
kinh phí đầu tư, ngành thủy lợi, đê điều cùng với nhân dân tập
trung khắc phục các sự cố. Quy mô, khối lượng đào đắp đê trong
hai năm này vì thế tăng nhanh.
Trong những năm 1971 – 1975, sau khi xảy ra trận lũ lịch sử
năm 1971 (xem chi tiết dưới đây), Nhà nước đầu tư kinh phí rất
lớn và là lớn nhất so với các giai đoạn trước đó kể từ sau năm 1945.
Trong 5 năm này, kinh phí đầu tư cho xây dựng đê điều đạt 191,81
triệu đồng, gấp 2,5 lần giai đoạn 1955 - 1960, 4,6 lần giai đoạn 1961
- 1965 và gấp gần 3 lần giai đoạn 1966 - 1970. Tổng khối lượng đào
đắp đạt 55.678.000m3 đất, 634.132m3 đá, đổ 13.419m3 bê tông. Cụ thể
từng năm như sau:
Bảng 22. Khối lượng, kinh phí xây dựng đê điều giai đoạn 1971 - 1975

Năm Đất (triệu m3) Đá (m3) Bê tông (m3) Kinh phí (triệu đồng)
1971 6,649 101.382 2.178 20,721
1972 19,200 155.900 2.500 50,669
1973 10,810 120.000 2.571 33,000
1974 9,209 100.450 4.370 44,420
1975 9,810 156.400 1.800 43,000
Tổng 55,678 634.132 13.419 191,81
[Nguồn: Thống kê khối lượng, kinh phí xây dựng cơ bản đê điều đã thực
hiện trong 50 năm 1946 - 1995, tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp].

Tổng khối lượng đất đào đắp giai đoạn 1971 - 1975 gấp gần
2 lần giai đoạn 1961 - 1965 và gấp 1,5 lần giai đoạn 1966 - 1970.
Trong giai đoạn này, kinh phí đầu tư và khối lượng đất đào đắp
đê đều đạt cao nhất vào năm 1972 với 50,669 triệu đồng và 19,2
triệu m3 đất. Đây là năm ngành đê điều và nhân dân tập trung nỗ
lực cao cho sửa đắp các tuyến đê, kè, cống bị hư hỏng do trận lụt
năm 1971 gây ra và do máy bay Mỹ đánh phá năm 1972. Mặc dù
kinh phí đầu tư, khối lượng đào đắp hằng năm từ 1973 đến 1975
265
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

có giảm hơn so với năm 1972, nhưng vẫn cao hơn rất nhiều so với
các năm trước 1972.
Đến năm 1975, vượt qua mọi khó khăn thử thách, ngành thủy
lợi nói chung, đê điều nói riêng cùng với chính quyền, nhân dân
cả nước không những đánh thắng được giặc lụt mà còn thắng
được cả giặc Mỹ. Hệ thống đê sông chính đã được củng cố vững
chắc hơn trước.

3. Trận lũ lịch sử gây vỡ đê năm 1971, bài học thực tiễn và yêu cầu chuyển biến
trong quản lý, bảo vệ đê điều, phòng chống lũ lụt
Trong kí ức của những người cao tuổi ở Bắc Bộ vẫn hằn sâu nỗi
kinh hoàng về sức tàn phá ghê gớm và những hậu quả nặng nề do
trận lũ năm 1971 gây ra. Do tác động của giải hội tụ nhiệt đới kết
hợp với rãnh thấp nóng phía Tây và hoàn lưu của một cơn bão đổ
bộ vào miền Nam Trung Quốc, gây ra mưa to đến rất to và liên tục
trong 12 ngày (từ 12 đến ngày 23 tháng 8 năm 1971) ở Bắc Bộ. Lượng
mưa đo được ở các tỉnh Đồng bằng sông Hồng lên tới hơn 200mm,
các tỉnh trung du miền núi phía Bắc hơn 100mm, đặc biệt có nơi lên
tới trên hơn 300 mm, như Lào Cai 386mm, Sìn Hồ 454mm.
Mưa lớn, lũ các sông ở Bắc Bộ dâng nhanh và ở mức cao chưa
từng có trong lịch sử, mức lũ vượt quá khả năng chống chịu của các
tuyến đê. Nhiều nơi, mức nước lũ trên sông cao hơn mặt đất phía
đồng ruộng từ 5 đến 10m. Theo đánh giá của Cơ quan Hải dương
và Khí tượng Mỹ, trận lũ năm 1971 là một trong những trận lũ lớn
nhất thế kỷ XX, ở Việt Nam đó là trận lũ lớn nhất trong vòng hơn
200 năm tính đến năm 1971.

266
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hình 17. Khu vực cầu Long Biên, thành phố Hà Nội ngập lũ tháng 8 năm 19711
Trước tình thế nguy hiểm do lũ dâng cao, Thủ tướng Phạm
Văn Đồng, thay mặt Chính phủ, cùng đại diện Ban Chỉ huy Phòng
chống lụt bão Trung ương, Bộ Thủy lợi và Cục Đê điều đã trực tiếp
thị sát các tuyến đê bằng máy bay trực thăng để có phương án chỉ
đạo cấp thiết. Theo ông Nguyễn Trọng Tám, khi đó là Cục phó Cục
Đê điều, người trực tiếp đi thị sát cùng Thủ tướng Phạm Văn Đồng:
“Tôi thấy hai tuyến đê hai bên sông Hồng như hai sợi chỉ mỏng
manh bọc những giải nước đỏ ngòm, rộng mênh mông... Tình hình
cực kỳ nguy ngập, mức nước lũ đã vượt mức thiết kế của đê khá xa
mà vẫn còn lên”2.
Ông Nguyễn Văn Lễ nhớ lại: “Mức lũ trên sông Đuống dâng
cao đến mức tràn qua mặt cầu khiến cho bản thân cầu sắt có nguy
cơ bị chuyển dịch về hạ lưu. Nhà chức trách đã phải huy động một
đoàn tầu hỏa chất đầy đá đỗ ngay trên đường sắt suốt chiều dài cầu
để giữ cho cầu được ổn định. Lũ trên sông Phó Đáy lên cao đến nỗi
không nhìn thấy đâu là dòng sông nữa mà chỉ là một biển nước đầy
ắp, rộng mênh mông như một biển hồ”3.

1
Trung tâm lưu trữ Quốc gia
Nguyễn Trọng Tám, Hồi ký về công tác đê diều, phòng chống bão lụt (bản chép tay), tr.18.
2

3
Nguyễn Văn Lễ, Ký ức về một số sự kiện đê điều, phòng chống lụt, bão đáng nhớ thời
kỳ 1970-2000,…Sđd, tr. 2.

267
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hình 18. Cầu Đuống bị sập một phần do lũ tháng 8 năm 1971 (hình ảnh sau lũ)
Lũ lên cao khiến đê tả sông Phó Đáy oằn mình chống chọi, nguy
cơ vỡ đê rình rập: Hàng loạt cung trượt sâu ở mái đê, thậm chí có chỗ
đỉnh cung trượt lấn sâu đến 1/3 mặt đê. Ở khu vực Đầm Lươn phía hạ
lưu, do mức nước ngoài sông và trong đồng chênh nhau đến 7- 8m
nên hàng loạt bãi sủi nước đục liên tục đùn cát đen lên trông như nồi
cơm đang sôi. Nhìn toàn cảnh tuyến đê lúc này thấy chỉ nhỏ như sợi
chỉ đang bị cơn đại hồng thủy uy hiếp phá vỡ bất kỳ lúc nào, ai cũng
cảm thấy rõ tình trạng “ngàn cân treo trên sợi tóc”1.
Khi hiểm họa lũ dâng cao, nguy cơ đê vỡ có thể xảy ra bất cứ
lúc nào, Chính phủ cùng Bộ Thủy lợi đã chỉ đạo Cục Đê điều, cán bộ
nhà nước, quân đội, chính quyền và nhân dân địa phương khẩn cấp
tham gia bảo vệ, gia cố, cứu hộ đê. Trước tính mạng của hàng chục
vạn người bị đe dọa nếu đê vỡ, “tất cả mọi ngươi tham gia hộ đê từ
cán bộ chỉ huy các cấp đến bộ đội, công an, lực lượng xung kích hộ đê
đều không sợ hy sinh tính mạng, quyết bám trụ hiện trường, làm việc
cật lực theo sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật […]. Công cuộc hộ đê
ở mặt trận này diễn ra khẩn trương, quyết liệt và liên tục suốt ngày,
đêm”2. Cuộc chiến chống giặc lụt, bảo vệ đê tả sông Phó Đáy diễn ra
1
Nguyễn Văn Lễ, Ký ức về một số sự kiện đê điều, phòng chống lụt, bão đáng nhớ thời
kỳ 1970-2000,…Sđd, tr. 3.
2
Nguyễn Văn Lễ, Ký ức về một số sự kiện đê điều, phòng chống lụt, bão đáng nhớ thời
kỳ 1970-2000,…Sđd, tr. 3.

268
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

trong suốt một tuần, mặc dù bị hư hỏng nặng, nhưng thảm họa vỡ
đê đã không xảy ra.
Trên tuyến đê, kè Văn Quán thuộc đê tả sông Hồng (huyện Mê
Linh), lũ lên cao khiến mái đê trượt dài hơn 500m, đỉnh cung trượt
lấn vào gần 1/3 mặt đê. Trước nguy cơ đê vỡ, ông Hồ Ngọc Thu (Phó
Chủ tịch tỉnh Vĩnh Phú), trực tiếp chỉ huy lực lượng ứng cứu. Người
dân kể lại rằng, trước nguy cơ đê vỡ, lực lượng hộ đê định bỏ chạy,
ông Hồ Ngọc Thu kêu gọi mọi người bình tĩnh, phải cứu đê đến
cùng. Ông giải thích, nếu bỏ chạy thì sẽ không có ai đến cứu đê, tôi
còn thì đê còn. Đồng thời, ông kiên quyết ra lệnh, nếu ai bỏ chạy lúc
này tôi sẽ bắn bỏ. Nhờ tinh thần chỉ đạo kiên quyết, dũng cảm của
người chỉ huy, nên lực lượng cứu hộ đê đã kiên trì, đoàn kết cùng
nhau cứu được đê Văn Quán khỏi bị vỡ.
Thực tế hộ đê Văn Quán năm 1971 để lại bài học quý báu, có
giá trị phổ quát và lâu dài là: “Chỉ huy tại chỗ là điều kiện cần, còn
điều kiện đủ là người chỉ huy đó phải có bản lĩnh vững vàng, có
khả năng thuyết phục, quy tụ lực lượng tại chỗ dám quên mình lao
vào cứu hộ đê đến cùng […], đồng thời sẵn sàng trừng phạt nghiêm
khắc những ai dám bỏ chạy để cầu an”1.
Song song với chỉ đạo, huy động lực lượng ứng cứu đê,
Chính phủ cùng Bộ Thủy lợi chỉ đạo thực hiện phương án phân
lũ vào các khu chậm lũ Tam Nông, Vân Cốc và qua đập Đáy để
giảm lũ trên các sông, giảm áp lực cho các tuyến đê. Tuy nhiên, lũ
tiếp tục dâng cao, khiến hàng loạt các tuyến đê bị vỡ, như: đê Vân
Cốc; đê Khê Thượng bờ hữu sông Đà thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà
Tây (nay thuộc Hà Nội); đê tả Thao tỉnh Phú Thọ; đê Nhất Trai
trên tuyến hữu sông Thái Bình, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh;
đê tả sông Đuống tại Cống Thôn (Gia Lâm). Nhiều đoạn đê dưới
cấp 3 và đê bối ở các tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Hồng
cũng bị tràn và vỡ.
1
Nguyễn Văn Lễ, Ký ức về một số sự kiện đê điều, phòng chống lụt, bão đáng nhớ thời
kỳ 1970-2000,…Sđd, tr. 5.

269
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hình 19. Vận hành cống Vân Cốc để phân lũ vào sông Đáy

Sau khi đê vỡ, ngày 20 tháng 8 năm 1971 mực nước lũ thực đo
tại trạm thủy văn Long Biên trên sông Hồng thuộc địa bàn Hà Nội
là 14,13m, vượt báo động 3 là 2,6m và vượt mức thiết kế đê gần 1m.
Mức lũ đo được ở Phả Lại là 7,2m, vượt báo động 3 là 1,7m. Đê vỡ
gây ra trận lụt kinh hoàng trên diện rộng các tỉnh Bắc Bộ1, cuốn trôi
nhiều kho tàng, nhà cửa, công trình giao thông, nhấn chìm nhiều
làng mạc, ruộng vườn. Hàng triệu người dân phải sống trong cảnh
màn trời chiếu đất. Thiệt hại về người và tài sản rất lớn, ước tính 70
triệu đồng (tương đương 430 triệu đô la Mỹ thời giá hiện nay).
Trong và sau lũ, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo, trực tiếp Phó
Thủ tướng Đỗ Mười cùng với Bộ Thủy lợi, Cục Đê điều cho tập
trung lực lượng, huy động quân đội và nhân dân ứng cứu, hộ đê,
hàn khẩu những đoạn đê vỡ, khắc phục hậu quả, củng cố, tôn cao
các tuyến đê, khôi phục sản xuất, sớm ổn định cuộc sống. Chịu trách
nhiệm hàn khẩu đoạn đê vỡ ở Khê Thượng do Công ty thi công cơ
giới Bộ Thủy lợi phụ trách; Ông Vũ Khắc Mẫn (Thứ trưởng Bộ Thủy
lợi) chỉ đạo trực tiếp tại công trường hàn khẩu đê ở Cống Thôn;
Các ông Nguyễn Trọng Tám (Cục phó Cục Đê điều), Phan Mỹ (Thứ
trưởng Bộ Thủy lợi) phụ trách chỉ đạo hàn khẩu đê vỡ ở Nhất Trai.

1
Nguyễn Cảnh Dinh, 50 năm thủy lợi, những chặng đường, in trong Bộ Thủy Lợi,
50 năm thủy lợi những chặng đường, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.28.

270
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hình 20. Phó Thủ tướng Đỗ Mười chỉ đạo công tác hộ đê, chống lũ tháng 8 năm 1971.
Việc hàn khẩu những đoạn đê vỡ gặp rất nhiều khó khăn và
thiếu thốn, đặc biệt là tình trạng giao thông sau lũ di chuyển rất khó
khăn, tiếp đó là đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc lần thứ
hai, tăng cường ném bom điên cuồng vào các tuyến đê, kè, cống,
đập. Tuy nhiên, vượt qua mọi khó khăn, công tác hàn khẩu, bồi trúc,
củng cố các tuyến đê sau trận lũ năm 1971 được đẩy mạnh và đạt
được những kết quả quan trọng.
Theo hồi ký của ông Nguyễn Trọng Tám, công tác hàn khẩu
đê Nhất Trai diễn ra liên tục trong 7 ngày 7 đêm thì hoàn thành,
với sự tham gia của nhiều lực lượng, trong đó có sự hỗ trợ, ứng cứu
của Cục Đường biển. Tuy nhiên, sau khi hàn khẩu thành công, ông
Nguyễn Trọng Tám đã cẩn thận kiểm tra toàn bộ tuyến đê mới hàn
khẩu thì phát hiện một lỗ rò rỉ lớn. Ngay lập tức, lực lượng tham gia
được huy động trở lại để khắc phục sự cố. Theo ông Tám, đây là bài
học kinh nghiệm lớn trong việc hàn khẩu đê, cũng như thi công,
sửa chữa những công trình lớn trong thời gian cấp tốc. Công trình
cần có thời gian thử thách để đảm bảo sự chắc chắn, cán bộ chỉ huy,
lực lượng tham gia hàn khẩu đê cần đề cao cảnh giác, kiểm tra mọi
diễn biến trong thời gian công trình mới hoàn thành1.

Nguyễn Trọng Tám, Hồi ký về công tác đê diều, phòng chống bão lụt (bản chép tay), tr.20.
1

271
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

“Hậu quả của nó (lụt và vỡ đê năm 1971) còn nhiều mặt phải
tiếp tục giải quyết trong một thời gian nữa. Nhưng cuộc chiến đấu
anh dũng để chiến thắng lũ lụt càng làm sáng tỏ tính ưu việt và sức
mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, sức sáng tạo và lòng dũng cảm
vô hạn của quần chúng”1.
Trận lụt lịch sử năm 1971 gây vỡ nhiều tuyến đê làm bộc lộ nhiều
tồn tại, hạn chế, rút ra được nhiều bài học xương máu trong công tác
quy hoạch, xây dựng công trình phân lũ, chậm lũ, thoát lũ, xây dựng,
quản lý và bảo vệ đê điều, đặc biệt là hiệu quả chống lũ cao và bất
thường của các tuyến đê. Trong báo cáo tổng kết thủy lợi năm 1971, Bộ
Thủy lợi thừa nhận những tồn tại và hạn chế, gồm: công tác quản lý và
tổ chức hộ đê, bảo vệ đê còn kém, đặc biệt là công tác canh gác, hộ đê,
không xử lý kịp thời khi sự cố xảy ra (sự cố đê Cống Thôn), trong quá
trình xử lý sự cố thì có sai sót kĩ thuật (sự cố đê Nhất Trai). Cán bộ chỉ
huy thiếu tinh thần trách nhiệm, cán bộ và lực lượng tham gia bảo vệ,
ứng cứu, hộ đê chấp hành không nghiêm mệnh lệnh. Trong chỉ đạo
còn chủ quan, đánh giá không đúng khả năng chống chịu của đê2.

Hình 21. Vỡ đê Nhất Trai, tuyến hữu Thái Bình, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh

1
Thuyết trình của Uỷ ban Kế hoạch và Ngân sách của quốc hội về dự án kế
hoạch nhà nước và dự án ngân sách nhà nước năm 1972 tại kỳ họp thứ 2, Quốc
hội khoá IV, ngày 23 tháng 3 năm 1972.
2
Bộ Thủy lợi, Báo cáo tổng kết công tác thủy lợi năm 1971, dẫn theo Phan Khánh,
Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử), Nxb Nông
Nghiệp, Hà Nội, 1995, tr. 176.

272
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

“Lũ lụt năm 1971 là lũ lụt lớn nhất chưa từng có, nó không
những chỉ gây thiệt hại cho nông nghiệp, mà còn gây thiệt hại cho
nhiều ngành hoạt động khác và cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân
[…], mặt khác cũng cho ta rút ra được những bài học và những kinh
nghiệm quý báu về việc hiểu đúng các điều kiện và quy luật thiên
nhiên của đất nước và lợi dụng nó vào việc chế ngự thiên tai”1.
Sau trận lụt lịch sử năm 1971, từ thực tiễn công tác quản lý đê,
tổ chức hộ đê và xử lý các sự cố về đê, Chính phủ, Bộ Thủy lợi, Cục
Đê điều đã triển khai nhiều biện pháp và phương án đồng bộ hơn
để nâng cao hiệu quả xây dựng, quản lý, bảo vệ đê.
Chính phủ quyết định cho tổ chức lực lượng chuyên trách quản
lý đê, bố trí nguồn lực vật tư dự trữ cho phòng, chống lụt, bão. Từ
thực tế trận lụt và vỡ đê năm 1971, phương châm “Bốn tại chỗ” trong
phòng, chống lụt bão ra đời. Lực lượng chuyên trách quản lý đê được
thành lập năm 1972 với hơn 600 cán bộ được bố trí trực tiếp tại các đội
quản lý đê. Các đội quản lý đê có trụ sở đặt tại các tuyến đê từ cấp III
đến cấp đặc biệt, dưới sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp của Sở Thủy lợi
các tỉnh và thành phố có đê. Phần lớn các cán bộ chuyên trách quản
lý đê được lựa chọn từ đội ngũ cán bộ có chuyên môn được đào tào
ở các trường Cao đẳng, Đại học và Trung học chuyên nghiệp và một
số có trình độ sơ cấp kĩ thuật. Nguồn vật tư dự trữ cho phòng, chống
lụt, bão cũng được bố trí tại các kho, bãi được thiếp lập trên các tuyến
đê để sẵn sàng cho việc xử lý các sự cố công trình.
Cục Đê điều hướng dẫn cụ thể các địa phương lập lý lịch gốc
của đê, kè, cống đối với các tuyến đê từ cấp 3 đến cấp đặc biệt theo
mẫu do Cục Đê điều ban hành. Lần đầu tiên, hệ thống đê, kè, cống
ở Việt Nam có lý lịch gốc. Lý lịch này được các đội quản lý đê điều
bổ sung hằng năm về diễn biến, tình trạng hư hỏng và việc gia cố
đê thuộc phạm vi đội quản lý. Điều này góp phần quan trọng tạo cơ
sở cho cải tạo, củng cố và bảo vệ đê, kè, cống và phòng chống lũ lụt.

1
Thuyết trình của Uỷ ban Kế hoạch và Ngân sách của quốc hội về dự án kế
hoạch nhà nước và dự án ngân sách nhà nước năm 1972 tại kỳ họp thứ 2, Quốc
hội khoá IV, ngày 23 tháng 3 năm 1972.

273
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Năm 1972, Cục Đê điều tổ chức biên soạn và phát hành cuốn
“Kĩ thuật giữ đê phòng lụt”. Cuốn sách được sử dụng rộng rãi, là
cẩm nang hộ đê, có tác dụng thiết thực đối với công tác quản lý, bảo
vệ và hộ đê ở các địa phương có đê.
Để loại bỏ nguy cơ rò rỉ, thẩm lậu và các sự cố đê do mối gây ra,
Bộ Thủy lợi, Cục Đê điều đã có nhiều nghiên cứu, sáng kiến kĩ thuật
quan trọng trong việc phát hiện, xử lý tổ mối trong thân đê.
“Bộ Trưởng Hà Kế Tấn [...] suy nghĩ lý giải các hiện tượng bằng
thực nghiệm. Chính ông Hà Kế Tấn đã cho quay các phim để minh
họa sự nguy hiểm các tổ mối và cách xử lý các hầm tổ mối trong đê”1.
Trong lĩnh vực này, Cục Đê điều có nhiều cán bộ giỏi, có nhiều
năm kinh nghiệm lăn lộn nghiên cứu ở các tuyến đê, tìm ra nhiều
biện pháp để diệt mối, như: kĩ sư Nguyễn Văn Lễ, Phạm Đăng Ấp,
Trần Huy, Nguyễn Phùng,... Trong đó kĩ sư Hoàng Thanh Bôi (Đội
trưởng Đội quản lý đê Yên Lạc) và kĩ sư Nguyễn Bá Chấp (Đội trưởng
Đội quản lý đê Gia - Thuận) là những chuyên gia có nhiều công lao
đóng góp về phương pháp phát hiện và xử lý tổ mối trong thân đê.
Các cán bộ, kĩ sư đê điều đã áp dụng nhiều giải pháp diệt mối
và ấu trùng mối để bảo vệ an toàn cho đê, như: đào bắt mối chúa,
mối quân, rắc thuốc, hun khói để diệt mối. Đặc biệt, trong giai đoạn
này, cán bộ của Cục Đê điều còn nghiên cứu và áp dụng thành công
phương pháp khoan phụt vữa trộn với thuốc diệt mối vào các tổ
mối, lỗ hổng trong thân đê. Giải pháp này vừa diệt được mối vừa
góp phần bịt được các lỗ hổng để bảo vệ thân đê, lại vừa tiết kiệm
được thời gian. Từ kinh nghiệm thực tiễn, Cục Đê điều đã cho phát
hành cuốn sách “Kĩ thuật tìm diệt và xử lý mối trong thân đê”. Đây
là cẩm nang quan trọng giúp cán bộ quản lý đê và nhân dân các địa
phương có đê xử lý các tổ mối, bảo vệ an toàn cho đê. Mỗi năm lực
lượng quản lý đê chuyên trách và nhân dân ven đê đã phát hiện và
xử lý hàng chục ngàn tổ mối ở đê, góp phần loại trừ đáng kể hiểm
họa sự cố sập đê bất ngờ do mối gây ra trong mùa lũ2.

Nguyễn Trọng Tám, Hồi ký về công tác đê diều, phòng chống bão lụt (bản chép tay), tr.21.
1

2
Nguyễn Văn Lễ, Ký ức về một số sự kiện đê điều, phòng chống lụt, bão đáng nhớ thời
kỳ 1970-2000,…Sđd, tr. 10 - 11.

274
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Từ sau năm 1971, việc nghiên cứu phát hiện ẩn họa trong thân
đê bằng phương pháp địa vật lý bắt đầu được thử nghiệm. Năm
1972, Cục Đê điều phối hợp với Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội
đã tiến hành nghiên cứu phương pháp này trên đê sông Đuống
thuộc Gia Lâm (Hà Nội).
Từ thực tế trận lũ lụt năm 1971, để giải quyết triệt để từng bước
tình trạng lũ trên các sông lớn, nâng cao hiệu quả chống lũ của các
tuyến đê, ngày 23 tháng 4 năm 1972, Chính phủ ban hành Nghị
quyết số 55-CP về những việc cần làm trước mắt và lâu dài đối với
công tác đê điều, phòng chống lụt bão. Trước mắt là hoàn thành tu
sửa, đắp lại những đoạn đê bị vỡ, gia cố, tôn cao các tuyến đê xung
yếu, tăng cường công tác phòng, chống lụt bão. Mục tiêu là đảm bảo
các tuyến đê ở Bắc Bộ có thể chống được mức lũ thực đo năm 1971,
các tuyến đê ở khu IV phải chống được mức lũ cao nhất. Về lâu dài,
cần đẩy mạnh nghiên cứu, thiết kế, xây dựng bậc thang các hồ chứa
trên thượng nguồn các sông, cải tạo lại công trình phân lũ sông Đáy.
Từ thực tế lũ năm 1969 và 1971, khu chậm lũ Vân Cốc không
đáp ứng được khả năng và hiệu quả phân lũ, do dung tích quá nhỏ
so với tổng lượng và cường suất của các trận lũ lớn. Việc cải tạo lại
công trình phân lũ sông Đáy được đặt ra nhằm tăng thêm lưu lượng
lũ qua đập Đáy, đảm bảo an toàn cho đê sông Hồng trong trường
hợp có lũ lớn và bất thường như năm 1971. Ngày 21 tháng 1 năm
1974, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 14-CP, giao cho Bộ Thủy
lợi thực hiện hai nhiệm vụ lớn: Thứ nhất, cần khảo sát, thiết kế lại
công trình phân lũ sông Hồng vào sông Đáy để tăng cường khả
năng, hiệu quả phân lũ song song với tôn cao đê, giải phóng lòng
sông Đáy; Thứ hai, cần xúc tiến nhanh việc thiết kế xây dựng hồ
Hòa Bình để cắt, giảm lũ cho hạ du1.
Về khảo sát, thiết kế lại công trình phân lũ sông Đáy, mục tiêu
thiết kế lại công trình phân lũ là tăng lưu lượng phân lũ từ sông
1
Nguyễn Thanh Bình, Những chặng đường đáng nhớ, (Hồi ký), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 140.

275
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hồng vào sông Đáy qua cống Vân Cốc và đập Đáy, đảm bảo lưu
lượng khoảng 4.000 - 5.000m3/giây. Chính phủ đã cho thành lập
Tiểu ban giải phóng lòng sông Đáy, do Bộ trưởng Bộ Thủy lợi làm
Trưởng ban. Nhiều hội nghị được tổ chức để tìm ra các phương án
tối ưu. Có một số ý kiến cho rằng, chỉ nên để một công trình trong
hệ thống phân lũ sông Đáy nhằm tăng lưu lượng phân lũ, cho nên
cần phá bỏ cống và đê Vân Cốc hoặc phá bỏ đập Đáy.
Sau nhiều hội nghị nghiên cứu, bàn thảo với sự tham gia của
nhiều cơ quan chuyên môn và nhiều cán bộ, kĩ sư, như của Cục đê
điều, Ủy ban sông Hồng, Viện Thiết kế, Viện Nghiên cứu khoa học
thủy lợi,... Giải pháp cuối cùng đã nhận được sự đồng thuận cao là
xây dựng một cống lớn nhiều cửa dễ đóng mở ở Vân Cốc để điều
tiết lũ sông Hồng vào sông Đáy. Mặt khác, tiến hành cải tạo các cửa
phao mái nhà của đập Đáy thành các cửa van cung. Cửa này có ưu
điểm là dễ đóng, mở nhanh và chính xác hơn các cửa cũ.
Tháng 12 năm 1974, công trình cải tạo khu đầu mối đập Đáy
chính thức được khởi công, mục tiêu là hoàn thành trong sáu tháng,
trước mùa mưa lũ. Năm 1975, việc cải tạo, nâng cấp đập Đáy cơ bản
hoàn thành. Cống Vân Cốc được xây dựng trên truyến đê Vân Cốc
- Hát Môn. Tuyến đê này có chiều dài 10km. Cống Vân Cốc có quy
mô lớn với 26 cửa, chiều dài toàn bộ cống là 390m. Cống Vân Cốc
có chức năng đưa nước từ sông Hồng vào khu chứa trước khi vận
hành xả lũ qua đập Đáy khi mực nước lũ sông Hồng lên cao. Cống
Vân Cốc được xây dựng kết hợp với việc cải tạo cửa đập Đáy là giải
pháp tối ưu, hiệu quả trong việc phân lũ hoặc chậm lũ, hoặc kết hợp
cả phân lũ và chậm lũ cho sông Hồng.
Sau sự kiện lũ lụt và vỡ đê năm 1971, quy hoạch khai thác sông
Hồng là một trong những vấn đề quan trọng nhằm tạo luận chứng
khoa học - kĩ thuật cho xây dựng hệ thống bậc thang hồ chứa ở
thượng du nhằm giải quyết từng bước tận gốc lũ trên hệ thống sông
Hồng. Việc khảo sát, tính toán kĩ thuật, lập kế hoạch xây dựng hồ
Hòa Bình trên sông Đà được xúc tiến tập trung hơn. Trước đó, năm
1970, một đoàn chuyên gia thủy lợi - thủy điện của Liên Xô sang
276
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

giúp ngành thủy lợi Việt Nam nghiên cứu thực địa trên hệ thống
sông Hồng, đặc biệt là hệ thống đê sông Hồng, sông Đà và các công
trình phân lũ ở hạ du. Đoàn chuyên gia Liên Xô đánh giá cao đề
xuất của ngành thủy lợi Việt Nam về việc xây dựng bậc thang các
hồ chứa nước ở thượng nguồn sông Đà và sông Chảy để tích nước
kết hợp thủy lợi với phát triển thủy điện, cắt, giảm và điều tiết lũ
cho hạ du.
Chính phủ Liên Xô đồng ý hỗ trợ Việt Nam nghiên cứu xây
dựng thủy điện Hòa Bình qua thỏa thuận kí kết giữa Ủy ban sông
Hồng, đại diện là ông Đinh Gia Khánh (Chánh Văn phòng sông
Hồng) và ông Malưsev (Phó Viện trưởng Viện Thiết kế Năng lượng
Matxcơva)1. Cuối năm 1972, đoàn chuyên gia Liên Xô đã nghiên
cứu và soạn thảo xong luận chứng kinh tế - kĩ thuật việc xây dựng
thủy điện Hòa Bình. Luận chứng này nhiều chuyên gia thủy lợi Việt
Nam bàn thảo, đánh giá cao và được Ủy ban Khoa học - Kĩ thuật
nhà nước thông qua.
Cùng với việc nghiên cứu quy hoạch, lập luận chứng khoa học
tạo cơ sở cho xây dựng hồ Hòa Bình, trong giai đoạn này nhiều hồ
chứa đã được xây dựng, như: hồ Tà Keo ở Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn
(1967 - 1972), hồ Pa Khoang - Nậm Rốm tỉnh Điện Biên (1963 - 1969),
hồ Cấm Sơn ở Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang (1966 - 1974), hồ Đồng Mô
- Ngải Sơn ở Sơn Tây (1969 - 1974), đặc biệt là hồ Thác Bà (Yên Bái).
Hồ Thác Bà nằm trên địa bàn huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái,
là công trình thủy lợi kết hợp phát triển thủy điện, đồng thời là
công trình có vai trò to lớn trong phòng, chống lũ. Công trình khởi
công năm 1964 và hoàn thành năm 1972, gồm đập chính chặn dòng
sông Chảy, hệ thống kênh, cống dẫn nước. Hồ có dung tích 2,5 tỷ
m3 phục vụ phát điện, cắt lũ từ đầu nguồn, phân và giảm nhẹ lũ
cho vùng hạ du vào mùa mưa lũ. Hồ Đồng Mô - Ngải Sơn có dung
tích 80 triệu m3 được xây dựng có nhiệm vụ cắt lũ, giảm ngập úng
1
Đinh Gia Khánh, Nhớ lại quá trình làm quy hoạch trị thủy và khai thác sông Hồng,…
sđd,, tr.25.

277
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

cho 3.500 ha, tưới cho 14.100ha thuộc các huyện Tùng Thiện, Thạch
Thất, Quốc Oai và Chương Mỹ1.
Việc xây dựng hệ thống bậc thang hồ chứa ở thượng nguồn
các con sông lớn không chỉ có vai trò kết hợp thủy lợi với phát triển
thủy điện mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc cắt, giảm lũ,
bảo vệ đê điều, góp phần quan trọng vào công tác phòng, chống lũ
lụt, giảm nhẹ thiên tai.
*
* *
Sau 20 năm, kể từ năm 1954 khi miền Bắc được giải phóng, công
tác xây dựng, quản lý, bảo vệ đê điều và phòng chống lũ lụt của Việt
Nam đã tiến những bước dài về tổ chức, trình độ quy hoạch, kĩ
thuật thiết kế thi công, xây dựng và quản lý các công trình phòng,
chống lũ lụt, hạn, mặn. Từ năm 1954 đến 1974, khối lượng đào đắp
đê ở miền Bắc đạt 196,2 triệu m3 đất, thả gần 2,3 triệu m3 đá kè2.
Hệ thống các tuyến đê sông lớn do Trung ương quản lý tương
đối hoàn chỉnh với tổng chiều dài 2.838km3. Trong đó, đê sông Hồng
dài 1.266km, đê sông Thái Bình dài 763km, đê các sông lớn ở khu IV
dài 420km. Ngoài ra còn có khoảng 2.034km đê sông nhỏ và đê bối
và 388km đê biển4.
Chất lượng, hiệu quả các tuyến đê sông lớn trong việc phòng
chống lũ lụt có bước phát triển to lớn. Đến năm 1975, trên các tuyến
đê sông Hồng và sông Thái Bình, các đoạn đê bị bom Mỹ đánh phá
hư hỏng hoặc vỡ, xuống cấp do trận lũ năm 1971 gây ra đã được tu
bổ, đắp đủ chiều cao, bề dày và độ rộng, có thể đảm bảo chống được

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 70 năm nông nghiệp Việt Nam,…sđd, tr.266.
1

2
Thống kê khối lượng, kinh phí xây dựng cơ bản đê điều đã thực hiện trong 50
năm 1946 - 1995 (Tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp).
Nguyễn Cảnh Dinh, 50 năm thủy lợi, những chặng đường, in trong Bộ Thủy Lợi,
3

50 năm thủy lợi những chặng đường, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.28.
4
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1995, tr. 179.

278
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

mức lũ thực đo năm 1971. Biện pháp giải quyết lũ tận gốc từng bước
được thực hiện và đạt được thành quả quan trọng với sự ra đời của
nhiều hồ chứa ở thượng du.
Cơ quan chỉ đạo phòng chống lụt bão từ Trung ương tới địa
phương và cơ quan quản lý Nhà nước về đê điều tiếp tục được duy trì
ổn định, đội ngũ cán bộ chuyên môn quản lý đê điều phát triển hơn
trước cả về số lượng và chất lượng. Hành lang pháp lý bảo vệ đê điều
từng bước được ban hành. Chế độ chính sách đối với cán bộ, nhân
viên và nhân dân tham gia công tác đê điều từng bước được cải thiện.
Những thành tựu đạt được trong công tác xây dựng, củng cố,
bảo vệ đê, kè, cống có vai trò quan trọng trong mở rộng diện tích
canh tác, phát triển sản xuất, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân
và nhà nước, góp phần to lớn chi viện cho miền Nam, đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, cho đến năm
1975 công tác quản lý, xây dựng, bảo vệ đê điều và phòng chống lụt
bão vẫn còn những tồn tại và hạn chế:
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng, quản
lý, bảo vệ đê điều và phòng chống lụt chưa được quan tâm đúng
mức. Trong nhiều thập kỉ, cơ sở pháp lý để thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước về đê điều là Điều lệ bảo vệ đê điều được ban
hành kèm theo Nghị định số 173 - CP ngày 21 tháng 11 năm 1963
của Hội đồng Chính phủ. Đây là văn bản có giá trị pháp lý còn hạn
hẹp, vì vậy hiệu quả hoạt động và hiệu lực quản lý về lĩnh vực đê
điều, phòng chống lũ lụt còn những hạn chế.
Phần lớn chân đê thuộc đê sông Hồng và sông Thái Bình còn
yếu. Nền móng đê, kè chân đê chưa đảm bảo vững chắc, đặc biệt
một số nơi xuống cấp, hư hỏng không đảm bảo yêu cầu chống lũ
từ báo động 3 trở lên, nguy cơ sạt lở chân đê, kè và tràn, vỡ đê vẫn
hiện hữu.
Đối với các tuyến đê sông nhánh, như: đê sông Đuống, sông
Luộc, sông Đáy, sông Trà Lý, sông Ninh Cơ,... thân đê còn nhỏ, chân
279
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

đê có nhiều hồ, ao. Đặc biệt nền đê sông Đuống yếu chưa được gia
cố, đê sông Trà Lý thì còn thấp và nhỏ. Ở Khu IV, đê sông Mã, sông
Cả, sông Chu, sông La có nhiều đoạn còn thấp, mặt đê hư hỏng, có
chỗ thân đê còn nhỏ và thấp, chưa đảm bảo được khả năng chống
lũ cao nhất.

Đê biển, đặc biệt là kè đê biển vẫn chưa được quan tâm đầu tư,
chưa có quy hoạch thống nhất giữa đê ngăn mặn, đê đồng cói và đê
đồng muối. Phần lớn đê biển chưa đủ độ cao, độ dày và chưa được
kiên cố hóa1. Chính vì thế chưa đủ khả năng đảm bảo chống được
bão cấp 9, cấp 10. Một số điểm nóng về úng lụt vẫn chưa được giải
quyết, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Hồng.

Nhiều hệ thống công trình kết hợp thủy lợi với phòng chống lũ
lụt không đảm bảo được hiệu quả tưới, tiêu như thiết kế. Việc quy
hoạch thiếu đồng bộ khiến một số công trình đã xây dựng nhưng
phải phá đi, làm lại, gây lãng phí ngân sách, vật tư của Nhà nước,
sức lực của nhân dân. Đánh giá về tình hình thủy lợi, đê điều và
phòng chống lụt bão trong 20 năm (1954 - 1975), cố Tổng Bí thư Lê
Duẩn cho rằng:

“Tuy có khuyết điểm, công tác thủy lợi cũng đã thu được thành
tích quan trọng là đã tạo nên những cơ sở vật chất kĩ thuật đáng kể
cho nền nông nghiệp nước nhà. Do đó, đã hạn chế được nhiều tác
hại của thiên tai, đưa các vụ sản xuất đi dần vào thế ổn định và góp
phần đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất và tăng vụ trên nhiều
vùng rộng lớn”2.

1
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),…
sđd, tr. 179 - 180.
2
Lê Duẩn, Một số ý kiến về công tác thủy lợi, Kỷ yếu Bộ Thủy lợi xuất bản năm
1974, dẫn theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 70 năm nông nghiệp Việt
Nam,…sđd, tr.272.

280
Chương 8 :

ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT TỪ SAU NGÀY ĐẤT NƯỚC ...

THỐNG NHẤT ĐẾN NĂM 1995

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐÊ
ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng
đánh dấu bước ngoặt to lớn trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân
tộc của Việt Nam, miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về
một mối, đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội, phát triển thủy lợi, xây dựng, củng cố đê điều, phòng chống lũ
lụt. Tuy nhiên, sau năm 1975, công tác đê điều, phòng chống lụt bão
phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách.
Ngay sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước lại phải
đối mặt với hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên
giới phía Bắc. Ở biên giới Tây Nam, từ năm 1975, quân Pôn Pốt
đã tiến hành quấy phá, đánh chiếm một số nơi và mở rộng thành
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam từ năm 1978 đến năm 1979.
Chúng đã đánh chiếm, giết hại đồng bào và gây ra nhiều tội ác đối
với nhân dân các tỉnh dọc biên giới, gây nhiều khó khăn cho phát
triển kinh tế cũng như xây dựng đê điều, thủy lợi, phòng chống
lũ lụt ở Nam Bộ.
Tiếp đó, đầu năm 1979, Trung Quốc huy động lực lượng lớn
quân đội tiến hành xâm lược nước ta ở biên giới phía Bắc. Đảng,
Nhà nước buộc phải huy động lực lượng, lãnh đạo quân và dân ta
chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược. Cùng với việc đưa quân xâm
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lược, Trung Quốc cắt đứt quan hệ ngoại giao, kinh tế với Việt Nam,
gây nhiều khó khăn đối với phát triển kinh tế nói chung, đê điều nói
riêng của Việt Nam.
Đồng thời, sau năm 1975, Mỹ thực hiện chính sách bao vây, cấm
vận ngoại giao, kinh tế đối với Việt Nam, gây nhiều khó khăn cho
phát triển kinh tế. Quan hệ giữa Việt Nam và các nước đồng minh
của Mỹ, đặc biệt là một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á tiếp
tục căng thẳng do trước đó họ đã điều quân xâm lược Việt Nam và
sự hiểu lầm của các nước về vấn đề Việt Nam giúp Campuchia giải
phóng đất nước khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt. Vấn đề này phần nào
gây khó khăn cho việc hợp tác phát triển kinh tế, xây dựng đê điều,
phòng chống thiên tai của Việt Nam với các nước trong khu vực.
Từ năm 1985 trở đi, các nước thuộc Liên bang Xô Viết lâm vào
khủng hoảng và sụp đổ đã khiến quan hệ kinh tế suy giảm, nguồn
viện trợ vốn, trang thiết bị, vật tư, máy móc của Liên Xô cho Việt
Nam vì thế cũng bị giảm sút và ngưng trệ. Việc đào tạo cán bộ đê
điều, thủy lợi ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng
bị ảnh hưởng.
Trong mười năm sau khi đất nước thống nhất, bên cạnh những
thành tựu đạt được, Việt Nam bộc lộ một số yếu kém trong chỉ đạo,
quản lý và vận hành nền kinh tế. Đó là một trong những nguyên
nhân chính khiến nền kinh tế Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng,
lạm phát trầm trọng, hàng hóa khan hiếm, thiếu lương thực, đời
sống nhân dân, trong đó có cán bộ, công nhân, viên chức đê điều
gặp nhiều khó khăn. Vật tư, thiết bị, vốn đầu tư cho xây dựng đê
điều, phòng chống lũ lụt cũng giảm sút.
Sau năm 1975, hệ thống đê, kè, cống, đập đã bị tàn phá, xuống
cấp, gây rất nhiều khó khăn cho việc phòng, chống thiên tai, bảo vệ,
phát triển sản xuất. Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, hệ thống đê điều, cống,
kè bị hư hỏng nặng chưa được khôi phục, sửa chữa hoàn toàn. Ở
Nam Bộ, khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, phần lớn ruộng
đất bị bỏ hoang. Tình trạng ô nhiễm bom mìn rất trầm trọng. Các
thế lực phản động tìm cách lôi kéo người dân chống phá cách mạng.
282
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Ở Đồng bằng sông Cửu Long, diện tích bị ngập lũ, nhiễm mặn,
nhiễm phèn rất lớn.
Trong khi đó, tình hình bão lũ tiếp tục diễn biến phức. Năm
1978, lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long rất lớn, đỉnh lũ đo được ở Tân
Châu là +4,94 m, ở Châu Đốc là +4,49 m. Lũ gây ngập lụt diện rộng,
thiệt hại nặng nề. Năm 1986, bão số 5 đổ bộ vào các tỉnh ven biển
và Đồng bằng sông Hồng, mưa lớn gây ngập lụt diện rộng, làm 417
người chết, 2.515 người bị thương, 35 người mất tích. Tháng 10 năm
1989, ba cơn bão liên tiếp đổ bộ vào các tỉnh miền Trung, gây ngập
lụt và thiệt hại lớn về người và của1.
Tuy khó khăn rất nhiều, nhưng trong giai đoạn này công tác đê
điều, phòng chống lũ lụt cũng có những yếu tố thuận lợi:
- Sau ngày đất nước thống nhất, những thành tựu đạt được
cùng những bài học kinh nghiệm thực tiễn hàng nghìn năm của
các thế hệ trước để lại là những di sản quý giá đối với công tác xây
dựng, quản lý, bảo vệ đê điều, phòng chống lũ lụt. Công tác đê
điều từ sau năm 1975 còn được kế thừa và bổ sung đội ngũ cán bộ
chuyên môn, các kĩ sư, công nhân kĩ thuật có kinh nghiệm, chuyên
môn giỏi, tạo cơ sở, nền tảng, động lực và sức mạnh nội lực cho
công tác đê điều, phòng chống lũ lụt.
- Đất nước từng bước phá thế bao vây cấm vận, cô lập của Mỹ,
bước đầu thiết lập quan hệ hợp tác với một số các nước ngoài hệ thống
xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, năm 1977, Việt Nam chính thức trở thành
thành viên của Liên hợp quốc. Quan hệ ngoại giao được mở rộng hơn
trước tạo cơ hội cho đất nước bước đầu nhận được nhiều sự hỗ trợ,
viện trợ về vốn và kĩ thuật từ các tổ chức quốc tế và quốc gia trên thế
giới cho xây dựng, quản lý đê điều, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai.
- Đảng và Nhà nước tiếp tục luôn quan tâm chỉ đạo, ưu tiên
nguồn vốn ngân sách đầu tư cho xây dựng đê điều và các công
1
Diễn văn của Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Nguyễn Cảnh Dinh tại lễ ra mắt Ủy ban Quốc
gia của Việt Nam về thập kỷ quốc tế giảm nhẹ thiên tai, Tạp chí Phòng chống lụt bão
giảm nhẹ thiên tai, số 1, tháng 4 năm 1991, tr.6-7.

283
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

trình phòng chống lũ lụt. Từ năm 1976 đến năm 1985, Đảng và
Nhà nước đã triển khai thực hiện bốn kế hoạch 5 năm phát triển
kinh tế - xã hội: 1976 - 1980; 1981 - 1985; 1986 - 1990 và 1991 - 1995.
Trong mỗi kế hoạch 5 năm, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã
đề ra các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, trong đó
nông nghiệp luôn được xác định là mặt trận hàng đầu kết hợp với
phát triển công thương nghiệp. Vì thế, xây dựng và củng cố đê
điều, phòng chống lũ lụt cũng được xác định là một trong những
biện pháp then chốt.
Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 17 tháng 12 năm 1985 Hội nghị
lần thứ 9, khóa V Ban chấp hành Trung ương Đảng tiếp tục khẳng
định: cần tiếp tục đẩy mạnh công tác thủy lợi, đê điều, nhất là đối
với Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng. Tập trung
khôi phục, phát triển hệ thống kênh mương, đê, đập và các công
trình tưới tiêu ở các vùng bị bão lụt để bảo vệ và phát triển sản xuất,
phấn đấu đạt cho được 20 triệu tấn lương thực trong năm 19861.
Tháng 12 năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI mở
đầu cho thời kỳ đổi mới tiếp tục khẳng định về vai trò của đê điều
và phòng chống lũ lụt: “Ở Đồng bằng Bắc Bộ, chú trọng củng cố
hệ thống đê, kè, cống, thu hẹp một phần diện tích thường bị ngập
úng của lúa mùa. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, mở rộng diện tích
được tưới, tiêu chủ động, trước hết ở các vùng lúa cao sản. Công tác
phòng, chống bão lụt cần được đặc biệt chú ý, để hạn chế các thiệt
hại, bảo vệ tốt tính mạng và tài sản của nhân dân”2.

II. KIỆN TOÀN CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT
Để đáp ứng tình hình, yêu cầu nhiệm vụ mới, ngày 6 tháng 3
năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 88-CP quy
định tổ chức và hoạt động của Bộ Thủy lợi để thống nhất quản lý
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn hiện Đảng toàn tập, tập 46 (1985), Nxb Chính trị
Quốc gia, 2006, tr.622.
2
Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm
1981-1985 tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, tháng 3 năm 1982.

284
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Nhà nước về thủy lợi, đê điều trong phạm vi cả nước. Nghị định
xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức cấp
bộ và các cấp địa phương. Theo đó, chức năng và nhiệm vụ chung
của Bộ Thủy lợi là cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ chịu trách
nhiệm thống nhất quản lý Nhà nước toàn ngành thủy lợi, đê điều
trong phạm vi cả nước theo đường lối chính sách của Đảng và luật
pháp của Nhà nước trong đó có nhiệm vụ xây dựng, quản lý đê
điều, phòng chống lũ lụt và quản lý dòng sông. Trong giai đoạn này,
ông Nguyễn Thanh Bình tiếp tục đảm trách cương vị Bộ trưởng. Từ
năm 1981, ông Nguyễn Cảnh Dinh đảm trách cương vị Bộ trưởng
cho đến năm 1995, khi Bộ Thủy lợi sáp nhập để thành lập Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn.
Đối với công tác xây dựng, bảo vệ, quản lý đê điều, phòng
chống lũ lụt và quản lý dòng sông, Bộ Thủy lợi có nhiệm vụ: (1)
Lập và thực hiện quy hoạch toàn diện về công tác phòng, chống lũ
lụt; (2) Tổ chức quản lý và chỉ đạo các công tác bảo vệ, tu bổ các hệ
thống đê sông, đê biển và các công trình phòng, chống lũ lụt khác;
Quản lý dòng sông nhằm mục đích thoát lũ; Lập và thực hiện các
phương án phòng, chống lũ lụt ở các lưu vực sông, các phương án
ngăn nước mặn ở vùng ven biển, các biện pháp kĩ thuật xử lý công
trình đê, kè, cống bị hư hỏng và những trường hợp bất trắc xảy
ra; Kiểm tra công tác phòng, chống lũ lụt; (3) Xây dựng và trình
Hội đồng Chính phủ ban hành hoặc tự mình ban hành, theo sự ủy
nhiệm của Hội đồng Chính phủ, điều lệ và các quy định về quản lý,
bảo vệ công trình phòng, chống lũ lụt; (4) Chỉ đạo các địa phương
tổ chức và trang bị cho các lực lượng làm công tác hộ đê, tổ chức
lực lượng và chuẩn bị phương tiện hộ đê (kể cả đê biển) khi xảy ra
bão, lũ lớn; (5) Dưới sự chỉ đạo của Ban chỉ huy chống bão lụt Trung
ương, Bộ tổ chức và hướng dẫn mọi hoạt động văn phòng thường
trực của Ban1.
1
Nghị định số 88 - CP ngày 06 tháng 3 năm 1979 của Hội đồng Chính phủ ban
hành về tổ chức và hoạt động của Bộ Thủy lợi.

285
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Về cơ quan trực tiếp quản lý đê điều trực thuộc Bộ Thủy lợi,


theo Nghị định số 88-CP ngày 6 tháng 3 năm 1979 của Hội đồng
Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Bộ Thuỷ lợi, Vụ
Phòng chống lũ lụt và Quản lý đê điều được thành lập thay cho Cục
Đê điều. Đây là cơ quan có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng
quản lý trực tiếp các vấn đề liên quan tới xây dựng, quản lý, bảo vệ
đê điều và phòng chống lũ lụt. Ở cấp địa phương, có Ty, Sở Thủy
lợi (cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương); Ban Thủy lợi (cấp
quận, huyện và thị xã). Thủy lợi ở cấp xã do Ủy ban nhân dân cấp xã
phụ trách. Các cơ quan quản lý thủy lợi ở địa phương chịu sự lãnh
đạo của Ủy ban nhân dân tương ứng và sự chỉ đạo thống nhất về
chuyên môn của cơ quan thủy lợi, đê điều cấp trên.
Trước khi Cục Đê điều đổi tên thành Vụ Phòng chống lũ lụt
và Quản lý đê điều, Cục trưởng Cục Đê điều là ông Nguyễn Trọng
Tám (1976 - 1980), Phó Cục trưởng là ông Trần Ích Châm (1975 -
1980). Từ năm 1980 đến năm 1991, ông Trần Ích Châm đảm trách
cương vị Vụ trưởng Vụ Phòng chống lũ lụt và Quản lý đê điều.
Phó Vụ trưởng có các ông: Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang và Nguyễn
Ngọc Khuê. Tháng 02 năm 1991, ông Từ Mạo được đề bạt giữ chức
Vụ trưởng cho đến năm 1996.
Từ 1986, Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện cải cách hành
chính, trước hết là sắp xếp lại tổ chức các bộ và cơ quan ngang bộ,
nhằm tinh gọn bộ máy, giảm bớt sự chồng chéo, chia cắt giữa các
bộ, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Từ ngày 03 tháng 10
đến ngày 28 tháng 10 năm 1995, tại kì họp khóa 8, Quốc hội khóa IX
đã thông qua Nghị quyết thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn trên cơ sở sáp nhập 03 bộ: Bộ Thủy lợi (thành lập năm
1958), Bộ Lâm nghiệp (thành lập năm 1976), Bộ Nông nghiệp và
Công nghiệp Thực phẩm (thành lập năm 1987).
Theo Nghị định số 73-CP ngày 01 tháng 11 năm 1995 của Chính
phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan của Chính
phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về nông nghiệp, lâm
nghiệp, thủy lợi và phát triển nông thôn. Trong lĩnh vực thủy lợi,
286
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có nhiệm vụ và quyền hạn


sau: trình Chính phủ dự luật, pháp lệnh, chiến lược quy hoạch tổng
thể, dài hạn, trung hạn và tổ chức hướng dẫn thực hiện khi được
phê duyệt; quản lý tài nguyên nước, quản lý xây dựng, khai thác
công trình thủy lợi, phòng, chống lụt bão, bảo vệ đê điều, quản lý,
khai thác và phát triển các dòng sông,…
Việc sát nhập Bộ Thủy lợi để thành lập “siêu Bộ” Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
nhằm thành lập một Bộ quản lý đa ngành, thu gọn đầu mối, tinh gọn
bộ máy quản lý nhà nước, đảm bảo hội nhập quốc tế và khu vực.
Tuy nhiên, việc này cũng làm nảy sinh nhiều ý kiến trái chiều. Nhiều
chuyên gia thủy lợi cho rằng việc sát nhập Bộ Thủy lợi là chưa phù
hợp. Ban cán sự Đảng của Bộ Thủy lợi cũng đã họp và đưa ra ý kiến
thống nhất là không đồng tình việc sáp nhập Bộ. Bộ trưởng Nguyễn
Cảnh Dinh đã bày tỏ quan điểm này với Tổng Bí thư Đỗ Mười, và
trình bày ý kiến trong Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII và
nhiều hội nghị quan trọng khác của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên,
chủ trương sát nhập Bộ Thủy lợi sau đó vẫn được tiến hành.
Sau khi thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
ngoài cơ quan văn phòng, thanh tra, cơ cấu tổ chức của Bộ gồm 7
vụ, 9 cục. Cơ quan quản lý Nhà nước về đê điều và phòng chống lũ
lụt trước đây là Vụ Phòng chống lụt bão và Quản lý đê điều được
đổi thành Cục Phòng chống lụt bão và Quản lý đê điều, kiêm Văn
phòng Ban chỉ huy chống lụt bão Trung ương.
Trong giai đoạn này Ban chỉ huy chống lụt, bão Trung ương
thành lập từ năm 1956 tiếp tục được duy trì. Bộ trưởng Bộ Thủy lợi
đồng thời đảm trách cương vị Trưởng ban.
Từ 1974 đến 1980, Trưởng ban là Bộ trưởng Nguyễn Thanh
Bình, Phó ban gồm các ông: Phùng Thế Tài (Phó Tổng tham mưu
trưởng Quân đội Nhân dân), Lê Xuân Tại (Thứ trưởng Bộ Nông
nghiệp), Vũ Khắc Mẫn (1975 - 1976), Đinh Gia Khánh (1977 - 1980).
Từ năm 1978 đến 1980 còn có các ông: Nguyễn Hồng Kỳ (Phó chủ
287
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

nhiệm Văn phòng phủ Thủ tướng), Đặng Kinh (Phó Tổng tham
mưu trưởng Quân đội Nhân dân).
Từ năm 1981 đến 1995, Trưởng ban là ông Nguyễn Cảnh Dinh
(Bộ trưởng cuối cùng của Bộ Thủy lợi). Phó Trưởng ban từ năm 1981
đến năm 1983 gồm các ông: Nguyễn Hồng Kỳ, Phùng Thế Tài, Đinh
Gia Khánh và ông Lê Tính (từ năm 1982). Từ năm 1984 đến 1986 có
các ông: Nguyễn Hồng Kỳ, Đặng Kinh, Lê Tính (1984 - 1985). Năm
1986, ông Đinh Gia Khánh thay cho ông Lê Tính.

III. NHỮNG THÀNH TỰU NỔI BẬT VỀ XÂY DỰNG, QUẢN LÝ ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG
LŨ LỤT TRONG GIAI ĐOẠN 1975 - 1995
Sau 20 năm từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước
chung một dải, non sông thu về một mối, cùng với những bước
thăng trầm và muôn vàn khó khăn, công tác xây dựng, quản lý, bảo
vệ đê điều và phòng chống lũ lụt đã đạt được những thành tựu
quan trọng.

1. Ban hành Pháp lệnh về đê điều và Pháp lệnh Phòng chống lụt bão
Từ năm 1986, trong các kì Đại hội VI, VII, VIII và các Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương, Đảng và Nhà nước khẳng định cùng
với đổi mới kinh tế đáp ứng đòi hỏi cấp bách của đời sống nhân
dân, cần từng bước đổi mới về chính trị, đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị. Trong
đổi mới chính trị, cần tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, cải cách thể chế pháp lý, cải cách tổ chức bộ máy hành chính
và cơ quan quản lý Nhà nước theo hướng gọn nhẹ, tinh giảm, nhằm
nâng cao hiêu quả vận hành, quản lý Nhà nước.
Trong lĩnh vực đê điều, Bộ Thủy lợi tập trung xây dựng và đề
xuất với Chính phủ ban hành Pháp lệnh về đê điều, tạo hành lang
pháp lí, nâng cao công tác quản lý, bảo vệ, xây dựng và tu bổ đê
điều. Ngày 9 tháng 11 năm 1989, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ
Chí Công kí ban hành Pháp lệnh về đê điều. Đây là văn bản pháp
luật đầu tiên được ban hành đối với ngành đê điều, Pháp lệnh là cơ
288
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

sở pháp lý quan trọng giúp nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu lực
quản lý đối với lĩnh vực đê điều. Pháp lệnh gồm 7 chương, 34 điều.
Phần mở đầu của Pháp lệnh chỉ rõ: đê điều có vai trò quan trọng
trong việc ngăn nước lũ, nước biển, bảo vệ tính mạng của nhân dân,
bảo vệ sản xuất, bảo vệ tài sản của Nhà nước và nhân dân. Việc ban
hành Pháp lệnh về đê điều nhằm nâng cao trách nhiệm của chính
quyền các cấp và nhân dân trong việc xây dựng, tu bổ, bảo vệ, sử
dụng và hộ đê1.
Theo Pháp lệnh, việc xây dựng mới và tu bổ đê điều và các
công trình liên quan (kè, cống dưới đê) phải được thực hiện theo
quy hoạch, theo tiêu chuẩn kĩ thuật bảo vệ đê điều và phải được
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Tất cả các tổ chức, cá
nhân phải có nghĩa vụ bảo vệ đê (điều 5). Mọi hành vi đe dọa và gây
nguy hại đến an toàn đê (như cuốc, rẫy cỏ, chèn, đóng mở cống trái
phép,…) đều bị nghiêm cấm. Nếu vi phạm sẽ bị xử phạt tùy theo
mức độ và tính chất nặng, nhẹ (điều 8, 9, 10, 32). Cá nhân và tổ chức
có thành tích trong xây dựng, bảo vệ, tu bổ đê sẽ được khen thưởng.
Việc hộ đê phải được tiến hành kịp thời, thường xuyên và là
trách nhiệm của chính quyền các cấp, từ tỉnh, thành phố đến xã,
phường. Hội đồng Bộ trưởng thực hiện quyền quản lý Nhà nước
đối với hệ thống đê điều trong cả nước: quy hoạch xây dựng đê,
tiêu chuẩn đê, đầu tư vốn, ban hành chính sách đối với cán bộ quản
lý đê, kiểm tra, thanh tra việc quản lý, sử dụng và hộ đê (điều 25).
Pháp lệnh cũng quy định trách nhiệm của Bộ Thủy lợi, các cơ quan,
ban ngành Trung ương và địa phương trong việc quản lý đê2.
Trên cơ sở Pháp lệnh về đê điều, ngày 15 tháng 12 năm 1990,
Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt kí ban hành Nghị
định số 429-HĐBT quy định việc thi hành Pháp lệnh về đê điều.
Nghị định giao cho Bộ trưởng Bộ Thủy lợi chịu trách nhiệm các
1
Pháp lệnh đê điều ngày 09 tháng 11 năm 1989, in trong Tạp chí Phòng chống lụt
bão giảm nhẹ thiên tai, số 9, tháng 1, 2 và 3 năm 1993, tr.5-7.
2
Pháp lệnh về đê điều ngày 09 tháng 11 năm 1989,…sđd.

289
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

việc liên quan tới phê duyệt quy hoạch, quản lý thống nhất về tiêu
chuẩn kĩ thuật, thiết kế, thi công đê và các công trình liên quan. Đặc
biệt, căn cứ vào vùng bảo vệ của đê, Nghị định đã quy định việc
phân cấp hệ thống đê thành các cấp đê khác nhau: cấp đặc biệt, cấp
I, II, III và cấp IV. Phạm vi, giới hạn bảo vệ đê, kè, cống cũng được
quy định một cách cụ thể và chi tiết. Đây chính là cơ sở pháp lý
quan trọng để bảo vệ an toàn đê, cũng như xử lý các hành vi đe dọa
hoặc gây hại đến an toàn đê1.
Về cán bộ quản lý đê, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Thủy
lợi, ngày 14 tháng 11 năm 1990, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Đồng Sỹ Nguyên kí ban hành Quyết định số 398-HĐBT quy định
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của đội chuyên trách quản lý
đê. Theo đó, đội chuyên trách quản lý đê có chức năng quản lý và
bảo vệ các tuyến đê từ cấp III đến cấp đặc biệt. Cán bộ quản lý đê có
nhiệm vụ: hoàn thiện hồ sơ đê, kè, cống; kiểm tra, giám sát việc thi
hành Pháp lệnh đê điều; ngăn chặn, phát hiện kịp thời tình trạng
hư hỏng, đề xuất phương án sửa chữa đê.
Cán bộ chuyên trách của các đội quản lý đê thuộc biên chế Nhà
nước, được hưởng lương và các chế độ do ngân sách tỉnh và thành
phố cấp. Lần đầu tiên Việt Nam có lực lượng cán bộ kĩ thuật trực
tiếp quản lý các tuyến đê quan trọng. Các đội chuyên trách quản lý
đê điều ở địa phương được quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và các chế độ chính sách được hưởng. Đối với các
tuyến đê dưới cấp III, chính quyền địa phương có đê chịu trách
nhiệm tổ chức lực lượng quản lý đê nhân dân. Tuy nhiên, lực lượng
này không thuộc biên chế Nhà nước.
Việc ban hành Pháp lệnh về đê điều cùng các văn bản hướng
dẫn thi hành có tác dụng bước đầu trong việc nâng cao trách nhiệm
của chính quyền các cấp và nhân dân trong việc quản lý, tu bổ, bảo
vệ và hộ đê là bước phát triển mới của Việt Nam trong lĩnh vực luật
1
Nghị định số 492-HĐBT ngày 15 tháng 12 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng
quy định việc thi hành Pháp lệnh về đê điều.

290
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

pháp về đê điều. Tuy nhiên, qua ba năm thi hành Pháp lệnh về đê
điều đã cho thấy còn nhiều thiết sót, hạn chế, đặc biệt là tình trạng
vi phạm đê điều nhưng không được xử lý hoặc xử lý chưa nghiêm
và kịp thời.
Theo thống kê của Vụ Phòng chống lũ lụt và Quản lý đê điều,
từ 1990 đến 1992, trong cả nước có 42.189 vụ vi phạm Pháp lệnh về
đê điều, trong đó có 11.435 vụ nghiêm trọng (đào giếng, ao sát đê,
làm nhà, lều quán trên đê). Trong khi đó, chỉ có 246 vụ được giải
quyết. Số vụ vi phạm Pháp lệnh về đê điều đặc biệt cao ở Nghệ An
(29.460 vụ), Hà Nội (3.405 vụ)1.
Trong số các vụ xâm phạm đê điều trong giai đoạn này nghiêm
trọng nhất là hành vi lấn chiếm, xâm phạm đê Yên Phụ - Nhật Tân ở
Hà Nội năm 1994-1995. Đây được coi là “Vụ vỡ đê pháp luật” vì một số
người dân coi thường Pháp lệnh về đê điều, lấn chiếm, xây dựng nhà
cửa, hàng quán trong hành lang bảo vệ đê và thân đê. Nhiều người có
tiền, có thế lực đến đây mua lại nhà cũ của dân với giá cao rồi phá đi
xây biệt thự, nhà hàng cao cấp lấn sát vào tận chân đê, thậm chí một số
nhà còn làm cầu từ tầng 2 nối vào mặt đê. Lều quán bán hàng mọc lên
như nấm ở khắp nơi, một số người ngang nhiên dựng lều quán ngay
trên mặt đê2. Vụ việc đã được báo, đài đưa tin rầm rộ liên tục.
Trước sự việc trên, Chính phủ đã yêu cầu Bộ Thủy lợi, Ủy ban
Nhân dân thành phố Hà Nội kiểm tra báo cáo. Đầu năm 1995, sau
khi nghe báo cáo tình hình, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Thủy
lợi và các cơ quan liên quan đình chỉ công tác các cán bộ có liên quan
tới quản lý. Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra lệnh bắt tạm giam một số
cán bộ có trách nhiệm trong quản lý đê điều, gồm các ông: Từ Mạo
(Vụ trưởng Vụ Phòng chống lũ lụt và QLĐĐ), Nguyễn Quốc Trung
(Giám đốc Sở Thủy lợi Hà Nội), Trịnh Hồng Triển (Phó Giám đốc Sở
1
Từ Mạo, Báo cáo sơ kết 3 năm thi hành Pháp lệnh về đê điều, in trong Tạp chí
Phòng chống lụt bão giảm nhẹ thiên tai, số 10, tháng 4, 5 và 6 năm 1993, tr.4.
2
Nguyễn Văn Lễ, Ký ức về một số sự kiện đê điều, phòng chống lụt, bão đáng nhớ thời
kỳ 1970-2000,…Sđd, tr. 30.

291
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Xây dựng thành phố Hà Nội), Trần Văn Lục (Đội trưởng Đội quản lý
đê nội thành) và Nguyễn Sơn Đông (Đội trưởng Đội quản lý đê Từ
Liêm). Bộ trưởng Nguyễn Cảnh Dinh và Thứ trưởng Trần Nhơn bị
kỷ luật bằng hình thức khiển trách. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội Lê Ất Hợi và hai ông Trương Tùng và Lê Sinh Tăng -
Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố cũng bị liên đới
về trách nhiệm quản lý nhà nước của chính quyền địa phương.
Sau báo cáo giải trình của Bộ Thủy lợi trước Quốc hội, nhiều
đại biểu Quốc hội cho rằng, việc phát hiện, xử lý các hành vi vi
phạm Pháp lệnh về Đê điều là trách nhiệm của chính quyền ở địa
phương. Vụ án được khép lại, các cán bộ bị bắt tạm giam được trả tự
do, được khôi phục lại chức vụ1.
Cùng với việc kỷ luật, xử lý cán bộ Nhà nước, Chính phủ và
thành phố Hà Nội đã phải chi hàng tỉ đồng để xử lý các hộ dân vi
phạm tại đê Yên Phụ - Nhật Tân. Vụ án khép lại như một bài học
sâu sắc cho các cơ quan quản lý Nhà nước và Bộ Thủy lợi về việc
tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân tôn trọng và giữ gìn kỷ
cương phép nước trong bảo vệ đê điều. Nguyên nhân và cũng là bài
học sâu sắc nhất trong vụ xâm phạm đê Yên Phụ là việc thiếu quyết
liệt trong hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, ngăn chặn, xử lý vi phạm
của bộ, ban, ngành và chính quyền địa phương liên quan. Chính vì
thế, tình trạng vi phạm đã không được chặn đứng kịp thời.
Năm 1991, Bộ Thủy lợi đề xuất với Chính phủ và Quốc hội
nghiên cứu xây dựng và ban hành Pháp lệnh Phòng chống lụt bão.
Giữa năm 1991, Ủy ban Quốc gia Việt Nam về thập kỷ quốc tế giảm
nhẹ thiên tai (viết tắt là IDNDR) phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức
hai cuộc hội thảo về Pháp lệnh Phòng, chống lụt bão. Các cơ quan
phòng, chống lụt bão Trung ương đã nhận được nhiều ý kiến đóng
góp về tầm quan trọng cũng như dự thảo quy định về phòng, chống
lụt bão.
1
Tài liệu do ông Nguyễn Cảnh Dinh (Bộ trưởng Bộ Thủy lợi giai đoạn 1981-1995)
cung cấp cho nhóm tác giả.

292
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Cuối năm 1991, dự thảo Pháp lệnh Phòng, chống lụt bão được
trình Quốc hội và Hội đồng Bộ trưởng xem xét. Trong phiên họp
ngày 8 tháng 3 năm 1993, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận
lần cuối và thông qua Pháp lệnh Phòng, chống lụt bão. Ngày 20
tháng 3 năm 1993, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã kí Lệnh số 89-L/
CTN, công bố Pháp lệnh Phòng, chống lụt bão.
Pháp lệnh gồm 8 chương, 42 điều quy định trách nhiệm của
Nhà nước, cán bộ, nhân dân và các cơ quan, ban, ngành trong việc
phòng ngừa, chống, khắc phục hậu quả lụt, bão. Pháp lệnh cũng
quy định về nguồn tài chính, quản lý Nhà nước về phòng, chống lụt
bão; việc khen thưởng và xử phạt các tổ chức, cá nhân trong công
tác phòng, chống lụt bão. Pháp lệnh quy định rõ, Chính phủ thống
nhất quản lý Nhà nước về công tác phòng, chống lụt, bão và khắc
phục hậu quả lụt, bão trong phạm vi cả nước. Bộ Thuỷ lợi là cơ quan
thường trực của Ban chỉ đạo phòng, chống lụt, bão trung ương có
trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan theo các chức năng
chuyên ngành giúp Chính phủ quản lý Nhà nước trong công tác
phòng chống lụt bão. Ở Trung ương, Ban chỉ đạo Phòng, chống lụt,
bão Trung ương do Thủ tướng Chính phủ thành lập; Ban chỉ huy
phòng, chống lụt, bão của bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ do
thủ trưởng bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ thành lập. Ở địa
phương, Ban chỉ huy phòng, chống lụt, bão các cấp ở địa phương
do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp thành lập..

2. Công tác đắp đê, phòng chống lũ lụt ở Bắc Bộ


Trong ba năm 1975 - 1977, Chính phủ tăng cường chỉ đạo, đầu tư
nhân lực, vật lực để hoàn thành việc tu bổ, sửa chữa, hàn khẩu những
đoạn đê vỡ do hậu quả trận lụt năm 1971 và do cuộc chiến tranh phá
hoại của Mỹ gây ra. Công tác cải tạo công trình phân lũ qua đập Đáy
tiếp tục được đẩy nhanh tiến độ, đồng thời triển khai công tác hoàn
chỉnh quy hoạch đê điều, đặc biệt đối với các tuyến đê sông chính.
Từ năm 1975 đến năm 1977, một chiến dịch lớn đắp đê sông Đáy,
sông Tích, sông Hoàng Long và một số tuyến đê khác được triển khai
293
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

rầm rộ ở Bắc Bộ. Trong nửa đầu năm 1975, đã có 111.639 người được
huy động, tổng nhân lực đắp đê ở các tỉnh có lúc lên tới 50.560 người,
gồm: Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ và Vĩnh Phúc), Hà Bắc (nay là Bắc
Giang và Bắc Ninh), Hải Hưng (nay là Hải Dương và Hưng Yên), Hà
Nội, Hà Tây (nay sát nhập vào Hà Nội), Nam Hà (nay là Hà Nam và
Nam Định), Thái Bình, Hải Phòng và Ninh Bình. Tổng khối lượng
đất đào đắp trong năm 1974 - 1975 đạt 3,9 triệu m3(1).
Trong hai năm 1976 - 1977, tổng khối lượng đào đắp đê đạt
2.981.000m3. Tính chung trong cả chiến dịch đắp đê sông Đáy, sông
Tích, sông Hoàng Long từ cuối năm 1974 đến năm 1977, đã có 410km
đê được gia cố, tôn cao, tổng khối lượng đào đắp sấp xỉ 7 triệu m3. Đây
là chiến dịch đắp đê lớn nhất ở Bắc Bộ tính đến thời điểm năm 19772.
Để nâng cao hiệu quả điều tiết lũ, năm 1976, Bộ Thủy lợi đề
xuất phương án sử dụng hồ Thác Bà để chống lũ cho hạ du, đồng
thời xúc tiến nghiên cứu, triển khai xây dựng bậc thang hồ chứa trên
thượng nguồn một số dòng sông lớn để điều tiết lũ, kết hợp phát
triển thủy lợi với thủy điện, như: sông Đà, Lô, Gâm. Việc giải tỏa lòng
sông Đáy cũng được thực hiện để đảm bảo phân và thoát lũ hiệu
quả. Tuy nhiên, tiến độ di dời các hộ dân và các cơ quan, ban ngành
địa phương gặp nhiều khó khăn dẫn tới chậm chạp. Trong những
năm tiếp theo, công tác củng cố đê điều tiếp tục được đẩy mạnh hơn.
Trong năm 1979, 1980, không có sự cố đê sông nào xảy ra.
Đối với đê biển, năm 1978, lũ lớn cùng với triều cường đã gây
sạt lở nghiêm trọng các tuyến đê biển và kè đê biển từ Thanh Hóa
trở ra. Năm 1981, Bắc Bộ có bão lớn, lũ lên cao. Nhiều tuyến đê biển
từ Thanh Hóa trở ra Bắc Bộ phần lớn bị sạt lở nghiêm trọng.
Năm 1982, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ V đã thảo
luận và có những chủ trương, biện pháp chỉ đạo giải quyết công tác
củng cố đê điều, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai trong những
1
Phan Khánh (Cb), Lịch sử thủy lợi Việt Nam,… sđd, tr.402.
2
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),...
sđd, tr.185 - 186.

294
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

năm thực hiện kế hoạch 5 năm (1981 - 1985). Về đê điều và phòng


chống lũ lụt ở Bắc Bộ, trong báo cáo trình bày tại tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ V, ngày 26 tháng 3 năm 1982, Bộ trưởng Nguyễn
Cảnh Dinh cho rằng, về công tác phòng chống lụt bão, cần thực
hiện có hiệu quả phương châm bốn tại chỗ: chỉ đạo tại chỗ; lực
lượng ứng cứu tại chỗ; dùng vật tư tại chỗ; dùng phương tiện tại
chỗ. Thực hiện sáu biện pháp chủ yếu, gồm: trồng rừng và bảo vệ
rừng đầu nguồn; xây dựng nhiều hồ chứa; quản lý tốt các hồ chứa
đã có; tăng cường và củng cố đê điều; giải phóng lòng sông; giảm
bớt lũ sông chính; tăng cường và ổn định lòng sông.
Nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 đối với
đê điều ở Bắc Bộ là: “Tăng cường, củng cố đê điều và ổn định lòng
sông ở những nơi có đê có tầm quan trọng đặc biệt để ứng phó với
những trận lũ lớn lịch sử. Cần luôn quan tâm củng cố chất lượng
đê điều, loại trừ các ẩn họa trong thân đê, củng cố các kè, mỏ hàn.
Thường xuyên chăm lo, tăng cường các lực lượng tu sửa đê, kè, hộ
đê, phòng lũ thật chặt chẽ”1.
Sau chiến dịch đắp đê với quy mô lớn năm 1975 - 1977, từ năm
1978 trở đi mặc dù hoàn cảnh kinh tế đất nước gặp rất nhiều khó
khăn, nhưng Nhà nước vẫn dành ưu tiên kinh phí đầu tư cho xây
dựng, củng cố đê điều. Từ năm 1976 đến năm 1985, kinh phí cho xây
dựng cơ bản đê điều, chủ yếu là cho Bắc Bộ, đạt 741,3 triệu đồng,
tăng 1,8 lần so với 10 năm trước đó (1961 - 1975). Đã huy động gần
89 triệu ngày công tham gia củng cố, tu sửa đê, tổng khối lượng đào
đắp đạt 34,500 triệu m3 đất, 1,323 triệu m3 đá, đổ gần 33 nghìn m3 bê
tông. Cụ thể khối lượng đào đắp, kinh phí đầu tư và số ngày công
huy động đắp đê hằng năm như tại Bảng 23.

1
Nguyễn Cảnh Dinh, Tham luận về công tác thủy lợi giai đoạn 1981-1985, trình
bày tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, ngày 26 tháng 3 năm 1982 (Tài liệu do
ông Nguyễn Cảnh Dinh cung cấp), tr.5.

295
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bảng 23. Khối lượng, kinh phí xây dựng đê điều giai đoạn 1976 - 1985

Đất Kinh phí Ngày công


Năm Đá (m3) Bê tông (m3)
(triệu m3) (triệu đồng) (triệu ngày)
1976 3,519 120.800 2.937 24,881 8,095
1977 5,089 68.000 3.210 27,021 12,082
1978 4,500 135.000 1.200 27,000 12,046
1979 2,136 86.600 3.800 19,360 5,319
1980 3,146 404.480 2.572 23,500 7,620
1981 4,500 123.000 2.500 31,300 11,783
1982 2,710 96.000 2.600 108,400 7,070
1983 2,900 100.000 5.700 147,700 7,648
1984 3,500 103.000 5.300 223,779 9,259
1985 2,500 86.000 2.600 108,400 7,277
Tổng 34,500 1.322.880 32.419 741,341 88,199
[Nguồn: Thống kê khối lượng, kinh phí xây dựng đê điều đã thực hiện
trong 50 năm 1946 - 1995, tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp].

Tuy nhiên, trong những năm 1976 - 1981, kinh phí đầu tư
hằng năm cho xây dựng, củng cố đê, kè, cống giảm sút nhanh
chóng so với 5 năm 1971 - 1975. Từ năm 1982, kinh phí đầu tư cho
xây dựng cơ bản đê điều tăng nhanh, nhưng hiệu quả thực tế lại
không tương xứng do lạm phát leo thang, tiền mất giá. Chính vì
thế, quy mô khối lượng đắp đê hằng năm từ năm 1983 đến năm
1985 không những không tăng mà còn giảm so với các năm trước.
Trên thực tế, khối lượng đất đào, đắp đê trong 10 năm 1976 - 1985
chỉ bằng 62% khối lượng đào, đắp của 5 năm 1971 - 1975 (34,5 triệu
m3 so với 55,678 triệu m3). Vì vậy, hệ thống đê, kè, cống bị hư hỏng,
xuống cấp nhiều nhưng không được sửa, đắp kịp thời. Trong khi
đó, năm 1985, tình hình bão lũ lại có phần ác liệt, phức tạp hơn,
dẫn tới nhiều sự cố về đê, kè, cống xảy ra.
Trong báo cáo trình bày tại tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
V, ngày 26 tháng 3 năm 1982, Bộ trưởng Nguyễn Cảnh Dinh thừa
nhận sự khó khăn về kinh phí không đáp ứng được nhu cầu cấp
bách củng cố, tu sửa đê điều:
296
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

“Về ngân sách quả là rất khó khăn. Chống lũ ở miền Bắc vẫn rất
cấp bách do tình hình lòng lạch bị tắc ách mà không có kinh phí để
khơi thông, do đê điều bị nứt nẻ nghiêm trọng, những vùng đê biển
bị triều, bão phá hoại nghiêm trọng như đê Hải Hậu, đê Thái Bình,
Thanh Hóa,… cũng không đủ điều kiện để củng cố”1.
Năm 1985, mưa lũ ở Bắc Bộ khá lớn, mức lũ sông Hồng và sông
Thái Bình đo được tại Hà Nội và Phả Lại đều vượt báo động 3. Lũ năm
1985 gây ra hai sự cố vỡ đê: sự cố thứ nhất là đê sông Hoàng Long bị
vỡ; sự cố thứ hai là vỡ đê quai cống Biểu Thượng đang xây dựng trên
đê tả Đáy, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam Ninh (nay thuộc Nam Định) 2.
Đê Biểu Thượng vỡ khiến 8 xã bị ngập lụt, mặc dù không có thiệt hại
về người, nhưng thiệt hại về sản xuất và tài sản của nhân dân tương
đối lớn. Vụ vỡ đê quai cống Biểu Thượng một phần do khó khăn về
vốn và cung ứng xi măng, khiến công trình không kịp hoàn thành
trước khi có lũ lớn trên sông Đáy. Tuy nhiên, nguyên nhân cũng còn
xuất phát từ việc Ban Chỉ huy công trường có lập và duyệt phương
án cứu hộ đê quai nhưng không tập dượt, không chuẩn bị đầy đủ lực
lượng, vật tư, trang thiết bị hộ đê... theo phương châm “4 tại chỗ”; có
đá hộc dự trữ cho phòng chống lụt ở gần công trường nhưng lãnh
đạo Sở Thủy lợi không ra lệnh xuất để cứu hộ đê (vì cho rằng đó là
vật tư dự trữ chống lụt của Trung ương, tỉnh không có thẩm quyền);
chưa có quy định về huy động lực lượng bộ đội tham gia cứu hộ đê
là một khoảng trống của pháp luật,…3.
Năm 1986, lũ trên các hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình
lên cao. Mức lũ đo được trên sông Đà tại Hòa Bình là +23,45 m,
1
Báo cáo tham luận của ông Nguyễn Cảnh Dinh (Ủy viên Dự khuyết Ban chấp
hànhTrung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi) tại Hội nghị Trung ương về
Khoa học kĩ thuật và xã hội, ngày 08 tháng 12 năm 1982 (Tài liệu do ông Nguyễn
Cảnh Dinh cung cấp), tr. 2-3.
2
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),...
sđd, tr. 191.
3
Nguyễn Văn Lễ, Ký ức về một số sự kiện đê điều, phòng chống lụt, bão đáng nhớ thời
kỳ 1970-2000, … Sđd, tr. 22.

297
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

trên sông Hồng tại Hà Nội là +12,36 m, đây là mức lũ cao nhất kể
từ năm 1972, trên sông Lô tại Tuyên Quang là +29,72 m, trên sông
Thái Bình tại Phả lại là +6,95 m1. Lũ mặc dù chưa quá lớn so với
năm 1971, nhưng đã gây ra hơn 500 sự cố lớn nhỏ, trong đó 149
đoạn có mạch sủi, 95 chỗ bị sủi đục, 25 bãi sủi lớn2, có bãi sủi rộng
hàng trăm m2.
Lũ trên sông Hồng đo được tại Hà Nội vượt báo động 3 trong
vòng 181 giờ, gây ra hàng trăm sự cố đê, đặc biệt là các sự cố xói
ngầm nền đê. Nghiêm trọng nhất là ở đê hữu Hồng tại Sen Chiểu,
Phúc Thọ; đê tả Hồng ở Chu Phan (Mê Linh); đê sông Hồng thuộc
địa phận Hà - Nam - Ninh xảy ra hàng chục sự cố, chủ yếu là thẩm
lậu, rò rỉ thân đê, với tổng chiều dài 2km; đê bối Vĩnh Lạc bị vỡ,
nhiều đoạn đê bị nứt toác; đê sông Đuống ở Cáp Thủy - Cáp Điền
bị sập 38m3.
Trong các sự cố đê điều năm 1986, có ba sự cố nghiêm trọng
xảy ra: vỡ đê Vân Cốc tuyến ngoài; sập cống Nội Doi huyện Quế
Võ, tỉnh Hà Bắc (nay thuộc Bắc Ninh); sự cố cống Số 1 trên đê hữu
sông Cầu thuộc địa bàn huyện Phổ Yên, tỉnh Bắc Thái (nay thuộc
Thái Nguyên).
Cuối tháng 7 năm 1986, đê Vân Cốc tuyến ngoài bị vỡ gây ngập
lụt cả một vùng 7.000ha thuộc huyện Phúc Thọ và Đan Phượng,
tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Cống Nội Doi trên đê hữu sông
Cầu thuộc địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc (nay thuộc Bắc Ninh)
bị sập vòm cống, nước lũ tràn vào đồng ruộng, gây thiệt hại lớn cho
tài sản, mùa màng của nhân dân. Nguyên nhân là do cống bị xuống
cấp, con toán bằng gỗ bị mục nhưng không phát hiện được, vòm
cống bị nứt. Khi sự cố xảy ra, Bộ Thủy lợi, Ban Chỉ huy phòng, chống
1
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),...
sđd, tr. 191.
2
Bộ Thủy lợi, Hội thảo về chất lượng nền đê tháng 10/1986, Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội, 1987, tr. 16.
3
Bộ Thủy lợi, Hội thảo về chất lượng nền đê tháng 10/1986,…sđd, tr. 29, tr. 54 - 55.

298
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lụt bão Trung ương và địa phương đã phối hợp chỉ đạo, huy động
nhân lực, vật lực xử lý. Trực tiếp chỉ đạo tại hiện trường là ông Trần
Nhơn (Thứ trưởng Bộ Thủy lợi), Bộ Giao thông vận tải, Bộ Quốc
phòng cũng điều sà lan, lực lượng công binh tới ứng cứu. Nhiều
cán bộ giàu kinh nghiệm của Vụ Phòng chống lũ lụt và QLĐĐ được
điều động tới hiện trường xử lý cống Nọi Doi, như Phạm Đăng Ấp,
Nguyễn Chí Hưng, Nguyễn Phùng.
Trong quá trình xử lý, các lực lượng ứng cứu gặp rất nhiều khó
khăn do lúc đầu chưa phát hiện ra ngyên nhân sự cố. Trước sự cố
phức tạp và nguy cơ thảm họa có thể xảy ra đối với các tỉnh Hà
Bắc (nay là Bắc Ninh và Bắc Giang), Hà Nội và Hải Hưng (nay là
Hải Dương và Hưng Yên), đích thân Chủ tịch Hội đồng Nhà nước
Võ Chí Công và Phó Tổng tham mưu trưởng Lê Ngọc Hiền đã tới
hiện trường cống Nội Doi để thị sát tình hình, chỉ đạo, động viên
lực lượng có mặt. Chủ tịch Võ Chí Công yêu cầu “Dù khó khăn phức
tạp đến mấy, bằng mọi giá, quyết không được để vỡ đê”. Thực hiện mệnh
lệnh đó, các lực lượng tham gia hộ đê đã làm việc quên mình, không
kể ngày đêm, phải mất nhiều ngày cuối cùng đã khắc phục được sự
cố và đê không bị vỡ.
Ngay khi các sự cố xảy ra, Bộ Thủy lợi đã đánh giá, chỉ ra những
hạn chế, thiếu sót và tìm cách khắc phục: Thứ nhất, hệ thống đê ngày
càng xuống cấp, hư hỏng nhiều, sửa chữa ít, vi phạm Điều lệ bảo vệ đê
điều ngày càng tăng và nghiêm trọng; Thứ hai, công tác chỉ đạo phòng,
chống lụt bão của các ngành, các cấp thiếu chủ động và tích cực; Thứ
ba, chưa đánh giá đúng tình trạng của đê, kè, cống về hiện trạng và
chất lượng; Thứ tư, công tác chuẩn bị vật tư, thiết bị và phương châm
bốn tại chỗ khi lũ lụt và có sự cố đê điều xảy ra còn kém1.
Tháng 10 năm 1986, Bộ Thủy lợi tổ chức cuộc Hội thảo về chất
lượng nền đê. Tham gia hội thảo có ông Chu Thường Dân (đại diện
cho Ủy ban Khoa học - kĩ thuật Nhà nước), ông Từ Mạo (Vụ trưởng
1
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),...
sđd, tr. 192 - 193.

299
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Vụ Phòng chống lụt bão và Quản lý đê điều), ông Lê Văn Hợp (Vụ
trưởng Vụ quản lý Khoa học kĩ thuật - Bộ Thủy lợi), các nhà khoa học
và các đại biểu đại diện cho các cơ quan chuyên môn, cơ quan quản
lý ở Trung ương và phòng Đê điều các địa phương.
Các tham luận trong hội thảo tập trung chỉ ra những tồn tại,
hạn chế, nguyên nhân của các sự cố về đê, kè cống. Theo đó, nguyên
nhân chính gây ra các sự cố đê điều năm 1986 là do nền đê yếu,
trong thân đê có nhiều khuyết tật, nhiều cống dưới đê xây dựng từ
thời Pháp thuộc đã bị hư hỏng nặng chưa lấp bỏ hoặc chưa được
xây mới thay thế. Dọc các tuyến đê tồn tại quá nhiều thùng đấu, ao,
hồ1. Biện pháp cấp bách trước mắt để khắc phục là tiến hành khảo
sát các tuyến đê, củng cố, tu bổ đê, kè, cống:
“Chúng ta cần phải có biện pháp nhanh và có hiệu quả để khảo
sát nghiên cứu nền đê, nhưng trước mắt chúng ta không thể tiến
hành khảo sát đồng loạt 7.000km đê mà cần tập trung nghiên cứu
khả năng thiết bị hiện có của chúng ta, đảm bảo tính chính xác để
sớm có tài liệu cơ bản”2.
Từ cuối năm 1986 và năm 1987, Chính phủ chỉ đạo Bộ Thủy
lợi, Vụ Phòng chống lụt bão và Quản lý đê điều phối hợp với các
địa phương tiến hành rà soát lại toàn bộ các tuyến đê, kè, cống; tiến
hành gia cố các tuyến đê sông chính, sửa chữa, thay thế các cống cũ
bị nứt rạn và kè bị sạt lở; đồng thời tăng cường các biện pháp tìm,
diệt tổ mối để bảo vệ đê. Đến cuối năm 1987, có 85 cống được sửa
chữa và xây mới, tổng khối lượng đào đắp đạt 4,3 triệu m3 đất, kè
157 nghìn m3 đá, xử lý hơn 9.500 tổ mối3. Từ năm 1987 đến năm 1995,
công tác củng cố đê sông ở Bắc Bộ tiếp tục được đẩy mạnh. Năm
1989, phương án sử dụng hồ Hòa Bình để tiều tiết lũ sông Hồng
được thực hiện.
1
Bộ Thủy lợi, Hội thảo về chất lượng nền đê tháng 10 năm 1986, Nxb Nông nghiệp,…
sđd, tr. 29.
2
Bộ Thủy lợi, Hội thảo về chất lượng nền đê tháng 10 năm 1986,… sđd, tr. 148.
3
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),...
sđd, tr. 193.

300
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Trong khi đê sông được đầu tư gia cố, nâng cấp thì hệ thống
đê biển ở Bắc Bộ còn tồn tại nhiều yếu kém. Trong báo cáo tổng kết
công tác phòng chống lũ lụt ngày 15 tháng 12 năm 1989, Bộ Thủy lợi
chỉ ra rằng: Việc đầu tư xây dựng hệ thống đê biển không được coi
trọng, chủ yếu do địa phương tự lo liệu là chính. Đê biển chủ yếu
còn thiếu kiên cố1.
Sau khi hoàn thành dự án PAM - 4617 do Chương trình lương
thực thế giới của Liên hợp quốc (Programme Alimentaire Mondial,
gọi tắt PAM) viện trợ nâng cấp đê biển thuộc 7 tỉnh miền Trung, Bộ
Thủy lợi đề xuất với Liên hợp quốc và PAM tại Hà Nội giúp Việt
Nam khôi phục và nâng cấp hệ thống đê biển 5 tỉnh ở Bắc Bộ, từ
Quảng Ninh đến Ninh Bình.
Năm 1994, Bộ Thủy lợi đã chủ trì tổ chức nhiều hội nghị chuyên
đề về đê biển miền Bắc và đê biển miền Nam. Cuối năm 1994, đại
diện PAM tại Hà nội đã có kết luận và đánh giá thuận lợi về dự án
nâng cấp đê biển miền Bắc. Theo đó, PAM giúp Việt Nam triển khai
dự án PAM-5325 khôi phục và nâng cấp 361,5km đê biển thuộc 5
tỉnh: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Hà và Ninh Bình.
Sau khi kí kết, dự án PAM-5325 được triển khai thực hiện trong giai
đoạn 1996-2000. Liên hợp quốc còn giúp Việt Nam thực hiện một số
dự án khác, như VIE/92/023 hỗ trợ kĩ thuật đê biển.

3. Xây dựng hệ thống đê bao, bờ bao, đê biển ở Đồng bằng sông Cửu Long
a) Đê bao, bờ bao
Ở Nam Bộ, sau nhiều năm chiến tranh, phần lớn các công
trình thủy lợi bị hư hỏng, hệ thống kênh, rạch bị bồi tụ, nhiều vùng
không có công trình thủy lợi, đê bao gần như chưa có, cơ sở vật chất
kĩ thuật nghèo nàn. Tình trạng xâm nhập mặn, lũ lụt, ngập úng xảy
ra thường xuyên, kéo dài, gây nhiều khó khăn cho sản xuất và đời
1
Báo cáo tổng kết phòng chống lụt bão ngày 15 tháng 12 năm 1989, tài liệu lưu
trữ tại Bộ Thủy lợi, dẫn theo Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều
Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),...sđd, tr. 195.

301
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

sống nhân dân. Năm 1975, ở Đồng bằng sông Cửu Long có tới 1,4
triệu ha bị ngập lũ từ tháng 8 đến tháng 11, trong đó có 700.000ha
bị ngập sâu. Diện tích chua phèn tính cả thành phố Hồ Chí Minh
lên tới 1,8 triệu ha. Từ thành phố Hồ Chí Minh trở vào tới Cà Mau,
diện tích bị mặn uy hiếp lên tới từ 1,7 đến 2,1 triệu ha. Đặc biệt tình
trạng chua, phèn, mặn nặng ở khu vực Đồng Tháp Mười, Tứ giác
Long Xuyên, Cà Mau, ven sông Hậu, sông Tiền và thành phố Hồ
Chí Minh. Chỉ tính riêng Đồng Tháp Mười, năm 1976, trong tổng
số 630.000ha canh tác thì chỉ gieo cấy được 54.000ha lúa hai vụ và
177.000ha một vụ lúa nổi1. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn,
đặc biệt là tình trạng thiếu lương thực. Đánh giá về thuận lợi và khó
khăn của thủy lợi Đồng bằng sông Cửu Long sau năm 1975, nguyên
Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Nguyễn Cảnh Dinh cho rằng:
“Khó khăn trong công tác thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long
sau năm 1975 thì rất nhiều, tuy nhiên chúng ta cũng có nhiều thuận
lợi, đó là khí thế, tinh thần nhiệt tình cách mạng của chính quyền,
nhân dân và đội ngũ cán bộ thủy lợi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
ngành Thủy lợi đã gắn bó với nhân dân, phối hợp với chính quyền,
tham mưu kịp thời cho Đảng và Nhà nước, tổ chức thực hiện các
chiến lược, kế hoạch trước mắt và lâu dài cho thủy lợi ở Đồng bằng
sông Cửu Long”2.
Để giải quyết những khó khăn về thủy lợi ở Nam Bộ, tháng 9
năm 1975, Chính phủ đã thành lập và cử 2 đoàn khảo sát thiết kế và
4 đoàn quy hoạch vào miền Nam để triển khai công tác thủy lợi. Hai
đoàn khảo sát thiết kế gồm: một đoàn đảm trách từ Đà Nẵng trở vào
do ông Phan Sĩ Kỳ phụ trách; một đoàn đảm trách khu vực Nam Bộ
do ông Lê Văn Hợp phụ trách. Bốn đoàn quy hoạch được cử đến 4
vùng: Tây Nguyên do ông Trần Bân phụ trách; Duyên hải miền Trung
1
Nguyễn Thanh Bình, Những chặng đường đáng nhớ, (Hồi ký), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 163.
2
Nguyễn Cảnh Dinh, Một số nhận thức về công tác thủy lợi đồng bằng Đồng bằng
sông Cửu Long 1975 - 1995, tham luận tại Hội thảo thủy lợi Đồng bằng sông Cửu
Long năm 2005 (tài liệu do ông Nguyễn Cảnh Dinh cung cấp).

302
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

do ông Trần Đức Khâm phụ trách; Đông Nam Bộ do ông Nguyễn
Văn Sáng phụ trách; Đồng bằng sông Cửu Long do ông Lê Đôi phụ
trách1. Trong các đoàn quy hoạch, khảo sát thiết kế của của Bộ Thủy
lợi điều vào Nam Bộ khi đó có một số kĩ sư dày dạn kinh nghiệm của
Cục Đê điều, như các ông: Nguyễn Ngọc Đông, Trần Hữu Phúc,...
Hai tháng sau đó, tháng 11 năm 1975, Bộ Thủy lợi cử một đoàn
chuyên gia vào Nam Bộ do Thứ trưởng Vũ Khắc Mẫn dẫn đầu để chỉ
đạo và phối hợp với các đoàn quy hoạch, khảo sát thiết kế tập hợp số
liệu khoa học, nghiên cứu đề xuất xây dựng các công trình thủy lợi,
đê điều ở Nam Bộ nhằm giải quyết tình trạng chua, phèn, úng ngập
góp phần mở rộng diện tích canh tác, tăng vụ. Trong đó, việc nghiên
cứu quy hoạch và xây dựng hệ thống kênh tiêu thoát lũ, đắp đê bao
chống lũ, xây kè, cống ngăn mặn được coi là vấn đề then chốt.
Để tăng cường công tác thủy lợi cho Nam Bộ, đầu năm 1976,
Bộ Thủy lợi đã điều vào Nam Bộ một số đơn vị thi công cùng lực
lượng kĩ sư, công nhân tinh nhuệ và máy móc hiện đại. Trong năm
1975 - 1976, một số đơn vị thi công, nghiên cứu mới được thành lập
ở Nam Bộ, như: Công ty tàu cuốc 2, Công ty 9 (ở Sài Gòn), Công ty
10 (ở Sóc Trăng),... Phân viện Nghiên cứu khoa học thủy lợi Nam
Bộ, Phân viện Quy hoạch Thủy lợi Nam Bộ (trên cơ sở sáp nhập hai
đoàn quy hoạch miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long)
và Phân viện Khảo sát thiết kế Nam Bộ (trên cơ sở đoàn khảo sát
thiết kế khu vực Nam Bộ). Cùng với đó, Phân ban Đê điều, phòng
chống lụt bão Nam Bộ cũng được thành lập, trụ sở đặt tại thành phố
Hồ Chí Minh do kĩ sư Đinh Công Kỳ phụ trách.
Trong mười năm đầu sau giải phóng 1975 - 1985, công tác đắp
đê, đào, nạo vét kênh, xây dựng các công trình ngăn lũ, tiêu chua,
rửa phèn ở Nam Bộ, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long gặp
phải vô vàn khó khăn, thử thách trong cuộc chiến đấu chống thiên
tai, đồng thời cũng là cuộc “chiến về quan điểm”, đó là điều mà ông
Nguyễn Thanh Bình và ông Nguyễn Cảnh Dinh, nguyên Bộ trưởng
1
Nguyễn Thanh Bình, Những chặng đường đáng nhớ, (Hồi ký),...sđd, tr.148 - 149.

303
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bộ Thủy lợi đã thừa nhận. Ông Nguyễn Thanh Bình nhớ lại, trong
giai đoạn đầu sau giải phóng, khi đó chưa tuyên chiến với lũ mà
tập trung dẫn nước ngọt kết hợp với đắp đê ngăn mặn để rửa mặn,
rửa phèn và ém phèn. Muốn dẫn ngọt thì phải đào, nạo vét các trục
kênh lớn. Đối với vùng ngập nông thì đắp bờ bao, đồng thời dịch
chuyển thời vụ để tránh lũ1.
Tuy nhiên, một số chuyên gia thủy lợi và chính quyền một số địa
phương ở Nam Bộ khi đó cho rằng, phương án đắp đê, dẫn ngọt rửa
phèn lợi bất cập hại, không những không rửa được phèn mà còn làm
cho phèn lan rộng gây hậu quả trầm trọng hơn. Theo ông Nguyễn
Cảnh Dinh: “Khi đó các nhà khoa học rất ngại động đến đất chua
phèn. Làm không cẩn thận sẽ hỏng cả đất, nước xanh lè hoặc đỏ quạch
không có con gì cây gì mọc được”2. Phương án đào kênh dẫn nước kết
hợp đắp đê ngăn lũ không chỉ tạo điều kiện cải tạo đất phèn mà còn có
tác dụng cung cấp nước tưới cho vùng cao, thoát lũ vùng trũng.
Về vấn đề đắp đê ngăn lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long, bên
cạnh một số mặt lợi, hằng năm lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long gây
nhiều khó khăn, trở ngại và thiệt hại cho sản xuất và đời sống sinh
hoạt của người dân. Hằng năm, lũ gây ngập lụt từ 0,5 đến 4m cho
một vùng rộng lớn với diện tích gần 2 triệu ha, thời gian ngập lâu từ 4
đến 6 tháng. Vùng ngập lũ thuộc địa phận các tỉnh: Đồng Tháp, Long
An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang,
và Kiên Giang. Do địa hình thấp và bằng phằng, từ +0,5 đến +3m,
trong đó, phần lớn địa hình khu vực này chỉ có độ cao dưới 1m so với
mực nước biển. Lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long kéo dài từ tháng 7
đến tháng 12 hằng năm: lũ sớm từ tháng 7 đến tháng 8; lũ chính từ
tháng 9 đến tháng 10 và lũ muộn từ tháng 11 đến tháng 12. Lũ làm
ngập lụt gây nhiều khó khăn cho việc mở rộng diện tích canh tác,
tăng vụ, năng suất và sản lượng cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là thâm
canh, tăng vụ, môi sinh và đời sống sinh hoạt của người dân.
1
Nguyễn Thanh Bình, Những chặng đường đáng nhớ, (Hồi ký),...sđd, tr.162.
2
Tài liệu do ông Nguyễn Cảnh Dinh (nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy lợi giai đoạn
1981-1995) cung cấp.

304
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Để giải quyết những khó khăn do lũ gây ra, Bộ Thủy lợi đã chủ
trương đắp bờ bao ngăn lũ bảo vệ những vùng bị ngập. Tuy nhiên,
chủ trương này cũng bị nhiều ý kiến phản đối vì cho rằng bờ bao sẽ
ảnh hưởng tới sinh kế của người dân vùng ngập lũ, chuyển đổi mùa
vụ và làm mất truyền thống sản xuất lúa nổi của người dân. Sau
rất nhiều hội nghị bàn thảo, các cuộc tranh luận, phản bác trên báo
chí, cuối cùng phương án đào kênh, đắp đê được Chính phủ đồng
thuận, phê duyệt và triển khai ở Nam Bộ.
“Để giải quyết vấn đề ngập lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long,
Bộ Thủy lợi đã nghiên cứu, đề xuất và bước đầu triển khai thực hiện
phương án chống lũ triệt để vùng ngập nông, né tránh lũ chính
vụ, đắp bờ bao chống lũ nhỏ bảo vệ chắc vụ đông xuân và hè thu ở
vùng ngập sâu, bảo vệ các vùng dân cư tập trung”1.
Trên thực tế, từ thập niên 60 và 70 của thế kỷ XX, nhân dân
vùng ngập lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long đắp đê bao để bảo vệ
đồng ruộng, làng mạc và phát triển sản xuất, như ở Cái Bè, Cai
Lậy (Tiền Giang), Chợ Mới (An Giang), Vĩnh Long và Cần Thơ. Các
vùng có đê bao đã sản xuất được 2 hoặc 3 vụ lúa. Tuy nhiên, việc
đắp đê bao trong những năm này chủ yếu mang tính tự phát, lẻ tẻ,
chưa có quy hoạch. Năm 1978, lũ về sớm và lớn, mức lũ đo được tại
Tân Châu ngày 22 tháng 8 năm 1978 đạt 3,94m, làm ngập sâu hầu
hết diện tích lúa Hè - Thu trong vùng. Trong khi đó, khoảng vài
chục ha thuộc huyện Chợ Mới (An Giang) do có đê bao bảo vệ nên
không bị ngập úng. Từ thực tiễn, các nhà khoa học và cơ quan quản
lý thủy lợi đã nghiên cứu và triển khai xây dựng đê bao, bờ bao ở
một số vùng ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, do cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ nên
việc xây dựng đê bao, bờ bao ở Đồng bằng sông Cửu Long chưa đạt
được nhiều kết quả. Phần lớn diện tích mới chỉ cấy được một vụ,
đất hoang còn nhiều chưa được khai phá, diện tích ngập lụt gần 1,4
1
Nguyễn Cảnh Dinh, Một số nhận thức về công tác thủy lợi đồng bằng Đồng bằng
sông Cửu Long 1975 - 1995, tham luận tại Hội thảo thủy lợi Đồng bằng sông Cửu
Long năm 2005 (tài liệu do ông Nguyễn Cảnh Dinh cung cấp).

305
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

triệu ha, hơn 1,4 triệu ha nhiễm phèn, gần 1,3 triệu ha nhiễm mặn1.
Đó là những vấn đề nan giải nhất nhưng chưa có phương án giải
quyết chắc chắn.
Để giải quyết vấn đề lũ, ngập lụt, mở rộng diện tích sản xuất,
tăng vụ, bài toán đặt ra là ngoài hệ thống kênh cấp nước ngọt để
tiêu chua, xổ phèn thì cần phải có hệ thống bờ bao để bảo vệ lúa Hè
Thu và dùng  bơm vợi để tiếp tục xạ lúa vụ Đông Xuân. Tháng 12
năm 1981, Bộ Thủy lợi tổ chức Hội nghị thủy lợi toàn Đồng bằng sông
Cửu Long tại Hậu Giang, tham dự có đại diện Ty Thủy lợi các tỉnh, các
nhà khoa học. Tại Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Cảnh Dinh cho rằng,
muốn tăng diện tích cây trồng hằng năm lên hai hoặc ba vụ thì nhiệm
vụ trước mắt và lâu dài cần phải đẩy mạnh công tác thủy lợi, đê điều:
“Phải đào thêm trục kênh lớn để dẫn ngọt, tiêu thoát nước; xây
dựng hệ thống bờ bao vững chắc và các công trình để tiêu úng, ngăn
mặn, giữ ngọt, dẫn ngọt, ngăn triều phục vụ phát triển sản xuất nông
nghiệp […]. Đan dày kênh nội đồng kết hợp làm bờ bao thích hợp,
làm cống bọng để tiêu thoát lũ2.
Nhiệm vụ và mục tiêu của công tác đê điều, phòng chống lụt
bão ở Đồng bằng sông Cửu Long trong những năm 1981 - 1985 là:
“Tập trung chống lũ đầu mùa để bảo vệ sản xuất, đây là nhiệm vụ
thường xuyên hằng năm phải làm. Biện pháp trước mắt là đắp bờ
bao ngăn lũ sớm, chống lũ muộn, đảm bảo cho sản xuất hai vụ, tăng
năng suất trên phần lớn diện tích”3.
Để đảm bảo sản xuất, tăng vụ, tăng năng xuất, thực hiện mục
tiêu đạt 17 triệu tấn lương thực năm 1983, cuối năm 1982, Bộ Thủy

Phát biểu của ông Nguyễn Cảnh Dinh (Bộ trưởng Bộ Thủy lợi) tại Hội nghị thủy
1

lợi Đồng bằng sông Cửu Long, diễn ra từ ngày 01 tháng 12 đến ngày 04 tháng 12
năm 1981 tại Hậu Giang (tài liệu do ông Nguyễn Cảnh Dinh cung cấp), tr.5.
Phát biểu của ông Nguyễn Cảnh Dinh (Bộ trưởng Bộ Thủy lợi) tại Hội nghị thủy
2

lợi Đồng bằng sông Cửu Long, diễn ra từ ngày 01 tháng 12 đến ngày 04 tháng 12
năm 1981 tại Hậu Giang (tài liệu do ông Nguyễn Cảnh Dinh cung cấp), tr.6.
3
Nguyễn Cảnh Dinh, Tham luận về công tác thủy lợi giai đoạn 1981-1985, trình
bày tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, ngày 26 tháng 3 năm 1982 (Tài liệu do
ông Nguyễn Cảnh Dinh cung cấp), tr.5.

306
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lợi tiếp tục chỉ đạo các địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long
đẩy mạnh đắp bờ bao, đào kênh tiêu nội đồng. Trong hoàn cảnh đất
nước gặp nhiều khó khăn về ngân sách, Bộ Thủy lợi yêu cầu các địa
phương trước mắt làm cống bọng bằng thân cây để tiêu úng tạm,
tiến tới làm cống bằng bê tông cốt thép kiên cố hóa từng bước1.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Thủy lợi, trong giai đoạn 1981 - 1985,
việc đào, nạo vét kênh kết hợp với đắp đê bao, bờ bao ngăn lũ được
tiến hành và đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng:
- Vùng Tứ giác Long Xuyên và bán đảo Cà Mau tiến hành nạo
vét kênh Vĩnh Tế, hình thành tuyến ngăn lũ tràn biên giới. Tuy
nhiên, năm 1977 việc thi công phải tạm ngừng vì chiến tranh biên
giới Tây Nam nổ ra. Việc thi công bắt đầu lại vào năm 1980 và hoàn
thành vào năm 1985, với tổng chiều dài nạo vét được 70km. Ở Sóc
Trăng tiến hành đào các kênh Long Phú - Lịch Hội Thượng, Cái Xe
- Hợp Thành, Phụng Hiệp - Sóc Trăng, Phú Lộc - Ngã Năm. Vùng
giữa hai sông Tiền và sông Hậu, nhiều kênh cũ được cải tạo, nạo
vét, như: kênh Tầm Vu, Tư Tải, Tổng Hưng,… Đào và xây mới một
số kênh, cống ngăn mặn, tiêu úng, như kênh 19 tháng 5, cống La
Ban, Vàm Đồn. Đến năm 1985, tổng chiều dài kênh trục chính được
nạo vét, đào mới ở Đồng bằng sông Cửu Long đạt 6.700km. Ngoài
ra còn đào, nạo vét được 3.200km kênh ngang nối các kênh trục
chính với nhau để tưới, tiêu. Việc đào, nạo vét kênh kết hợp lên đất
đắp bờ kênh góp phần hình thành hệ thống đê bao ngăn lũ.
Hệ thống đê bao, bờ bao được hình thành ở Đồng bằng sông
Cửu Long đã góp phần tích cực trong kiểm soát lũ, mở rộng diện
tích canh tác, phát triển, bảo vệ sản xuất và đời sống người dân, một
số vùng đã cấy được 2 hoặc 3 vụ, một số cụm, tuyến dân cư được
hình thành. Ở An Giang, việc đắp bờ bao chống lũ sớm, ngăn lũ
1
Báo cáo tham luận của ông Nguyễn Cảnh Dinh (Ủy viên Dự khuyết Ban chấp
hànhTrung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi) tại Hội nghị Trung ương về
Khoa học kĩ thuật và xã hội, ngày 08 tháng 12 năm 1982 (Tài liệu do ông Nguyễn
Cảnh Dinh cung cấp), tr. 2-3.

307
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

muộn kết hợp với chuyển đổi mùa vụ, giống lúa đã gieo cấy được
2 vụ Đông Xuân và Hè Thu, sản lượng lúa của An Giang năm 1984
tăng gấp đôi so với năm 1976. Ở Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long
Xuyên, một số nơi đã cấy được 2 vụ. Ở Đồng Tháp Mười, sau khi
kênh Hồng Ngự hoàn thành, đến năm 1984 người dân kéo đến sinh
sống lập nghiệp đông đúc, đặc biệt ở 7km đầu kênh1. Sản lượng lúa
ở đồng bằng sông Cửu Long tăng hơn trước, từ 4,6 triệu tấn năm
1975 lên 6,8 triệu tấn vào năm 1985.
Tuy nhiên, đến năm 1985, đê bao mới chỉ đắp ở một số nơi, chủ
yếu là đắp tạm thời, chưa phát huy được nhiều hiệu quả. Kênh vẫn
còn hẹp và nông, hệ thống cống dưới đê, đập còn thiếu và nhỏ nên
chưa phát huy tác dụng nhiều trong việc ngăn mặn, giữ ngọt và tiêu
úng. Trên thực tế, đến năm 1980, hơn 2 triệu ha bị ngập lụt và chua
phèn vẫn chưa được giải quyết. Đồng bằng sông Cửu Long vẫn
thường xuyên phải đối mặt với lũ lụt, sạt lở, xâm nhập mặn, nhiễm
phèn, đặc biệt là vùng Tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười và các
vùng cửa sông, ven biển. Thực trạng này gây nhiều khó khăn cho
sản xuất và đời sống người dân. Ở Kiên Giang, Hà Tiên nhiều vùng
ngập nông, một số nơi ở An Giang vẫn chủ yếu làm được một vụ,
người dân vẫn còn thiếu gạo, đời sống còn khó khăn2.
Từ năm 1986, thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước về
chương trình mục tiêu lương thực, thực phẩm, đảm bảo sản xuất ở
các vùng trọng điểm sản xuất lương thực, đặc biệt là Đồng bằng sông
Cửu Long, Chính phủ đã dành một phần lớn ngân sách và xây dựng
kế hoạch phát triển thủy lợi ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trọng
tâm là Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên. Trong 5 năm 1986 -
1990, vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản thủy lợi đạt 814,349 triệu đồng,
1
Báo cáo của Bộ trường Bộ Thủy lợi Nguyễn Cảnh Dinh tại Hội nghị Trung ương
7, khóa V tháng 12 năm 1984 về kế hoạch năm 1985 (tài liệu do ông Nguyễn
Cảnh Dinh cung cấp).
2
Báo cáo của Bộ trường Bộ Thủy lợi Nguyễn Cảnh Dinh tại Hội nghị Trung ương
7, khóa V tháng 12 năm 1984 về kế hoạch năm 1985 (tài liệu do ông Nguyễn
Cảnh Dinh cung cấp).

308
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

trong đó có 161 triệu đồng đầu tư cho thủy lợi Đồng bằng sông Cửu
Long, trong đó có đào kênh, đắp đê bao và bờ bao1.
Từ 1986 đến 1995, ở Đồng bằng sông Cửu Long tiến hành đào
33 kênh trục chính, đồng thời nạo vét kênh cấp I, cấp II kết hợp
lên đê bao, bờ bao. Các tuyến đê bao, bờ bao được tôn cao, bồi trúc
và phát triển hơn trước. Chỉ tính riêng ở Đồng Tháp đã đào đắp
851km kênh và đê bao, ở Long An 475km, ở Tiền Giang 800km.
Các tuyến kênh và đê bao góp phần quan trọng mở rộng diện tích
canh tác, tạo thành các tuyến dân cư đông đúc. Riêng vùng Đồng
Tháp Mười, đến năm 1994, đã thành lập thêm được 6 huyện, 20 xã
và 5 thị trấn. Nhờ hệ thống kênh tưới, tiêu và hệ thống đê bao, bờ
bao ngăn lũ, nhiều nơi đã cấy được 2 vụ, thậm chí 3 vụ. Sản lượng
lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long đã tăng nhanh qua các năm, từ
4,6 triệu tấn năm 1974 lên 13,7 triệu tấn năm 19942, góp phần quan
trọng giải quyết được nhu cầu lương thực cho nhân dân và phục
vụ xuất khẩu.
Tuy nhiên, hệ thống đê bao, bờ bao ở Đồng bằng sông Cửu
Long vẫn còn một số tồn tại và chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế. Việc xây dựng đê bao, bờ bao chưa được quy hoạch
tổng thể toàn vùng và theo đặc điểm từng vùng. Đê bao, bờ bao còn
thiếu và thấp, chưa khép kín. Vì vậy, phần lớn diện tích đã canh tác
mới chỉ cấy được một vụ, tình trạng ngập lụt, xâm nhập mặn, nhiễm
chua phèn mới chỉ giải quyết được ở một số nơi.
Năm 1994, diện tích vùng ngập lũ còn chiếm tới 47% diện tích
canh tác với diện tích lên tới 1,828 triệu ha, trong đó gần 60% diện
tích bị ngập sâu từ 1 đến 4 m. Lũ lụt hằng năm gây thiệt hại rất lớn
đến tính mạng và tài sản của nhân dân. Lũ năm 1994 tuy không quá
lớn, nhưng làm chết 407 người, thiệt hại tài sản ước tính 2.248 tỷ
đồng. Lũ lụt gây cản trở tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hạn
1
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Át lát công trình thủy lợi tiêu biểu ở
Việt Nam, …sđd, tr. 548.
2
Lê Sâm, Thủy nông ở Đồng bằng sông Cửu Long,...sđd, tr.77.

309
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

chế sử dụng tối đa tài nguyên đất đai, mở mang dân trí và việc xây
dựng một xã hội văn minh ở Đồng bằng sông Cửu Long1.
Để giải quyết tỉnh trạng lũ lụt, cuối năm 1994, Bộ trưởng Nguyễn
Cảnh Dinh hai lần vào thị sát ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
để khảo sát thực địa, tìm phương án trước mắt và biện pháp lâu dài
cho phòng, chống lũ và ngập úng. Bộ Thủy lợi đã quyết định điều
chuyển 6 tỷ đồng vốn từ các công trình thủy lợi khác hỗ trợ các tỉnh
Đồng bằng sông Cửu Long khắc phục khó khăn sau lũ. Chính phủ
cũng hỗ trợ 15 tỷ đồng cho các tỉnh chịu ảnh hưởng nặng nề do lũ gây
ra. Về phương án dài hạn, Chính phủ giao cho Bộ Thủy lợi, cụ thể là
Phân Viện Quy hoạch Thủy lợi Nam Bộ nghiên cứu quy hoạch và đề
xuất phương án phòng, chống lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, ngày 16 tháng 11 năm 1994, Bộ
Thủy lợi đã ban hành Chỉ thị số 07 về việc lập quy hoạch phòng, chống
lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long và phòng, chống lũ trên sông Tiền
và sông Hậu. Phân Viện Quy hoạch thủy lợi Nam Bộ và Viện Nghiên
cứu khoa học Thủy lợi Nam Bộ được Bộ Thủy lợi giao trách nhiệm lập
quy hoạch, dự án phòng, chống lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long và lũ
trên sông Tiền, sông Hậu. Xây dựng quy hoạch tổng thể là một trong
những động lực, cơ sở tạo bước phát triển quan trọng trong xây dựng
đê bao, bờ bao ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn sau.
b) Đê biển2
Đến trước năm 1975, các tuyến đê biển Đồng bằng sông Cửu
Long đã hình thành với chiều dài khoảng 75km ở các tỉnh Bạc Liêu
và Kiên Giang. Trong giai đoạn 1975 - 1995 này, một số tuyến đê biển
ở các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà
Mau, Kiên Giang tiếp tục được hình thành từng đoạn, tuyến nhưng
cơ bản chưa đồng bộ.
1
Tờ trình số 1122 ngày 05 tháng 7 năm 1995 của Bộ Thủy lợi gửi Thủ tướng
Chính phủ xin duyệt định hướng quy hoạch lũ Đồng bằng sông Cửu Long (Tài
liệu do ông Nguyễn Cảnh Dinh cung cấp).
2
Trần Như Hối. Đê biển Nam Bộ, 2003.

310
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Đê biển Minh Hải có tổng chiều dài 151,5km (58km thuộc tỉnh
Bạc Liêu và 93,5km thuộc tỉnh Cà Mau hiện nay) cùng hệ thống cống
dưới đê nhằm ngăn mặn, tiêu úng, xổ phèn cho gần 300.000ha thuộc
các huyện U Minh, Phú Tân, Trần Văn Thời, Giá Rai và Vĩnh Lợi.
Hệ thống đê biển Gò Công, tỉnh Tiền Giang được xây dựng
từ 1976 đến 1985, cơ bản hoàn chỉnh với chiều dài 21,22km, cao
trình +3,5m, mặt rộng 4-5m. Hệ thống đê biển Vĩnh Châu, tỉnh Sóc
Trăng được xây dựng vào những năm 1994-1995, dài 43km, cao trình
+2,8m, mặt rộng 4m; xây dựng cống dưới đê có quy mô vừa và nhỏ
1 đến 2 cửa, mỗi cửa rộng 1,8m. Hai hệ thống đê biển này có thể
đánh giá là tương đối kiên cố và đồng bộ.

4. Sửa chữa, khôi phục và xây dựng đê điều, phòng chống lụt bão ở Trung Bộ
Trung Bộ là vùng thường xuyên hứng chịu hàng chục trận bão
mỗi năm, thiên tai gây nhiều thiệt hại và khó khăn cho sản xuất và
đời sống của người dân. Năm 1978 bão số 7, 8 và 9 đổ bộ vào miền
Trung gây mưa lớn kéo dài, làm tràn và vỡ nhiều tuyến đê và đập:
đê sông Lam, sông La vỡ 397 vị trí với tổng chiều dài 29,4km; đê
sông Cả vỡ 125 vị trí1. Khoảng 223 hồ chứa bị tràn, vỡ và trôi. Nhiều
nhà cửa, làng mạc bị nhấn chìm, hơn 100.000ha đất canh tác bị ngập
sâu2. Riêng ở Nghệ An, trận lũ năm 1978 làm 148 người chết, 5.574
nhà bị trôi3.
Đích thân ông Nguyễn Thanh Bình (Bộ trưởng Bộ Thủy lợi –
Trưởng Ban chỉ huy phòng, chống lụt, bão Trung ương) cùng với
ông Đinh Gia Khánh (Thứ trưởng Bộ Thủy lợi), ông Nguyễn Tế
(Trưởng phòng Tham mưu – Cục Tác chiến) và ông Nguyễn Văn Lễ
(Cục Đê điều), đã đáp máy bay vào Trung Bộ, chỉ đạo, phối hợp với
1
Nguyễn Văn Lễ, Ký ức về một số sự kiện đê điều, phòng chống lụt, bão đáng nhớ thời
kỳ 1970-2000,…Sđd, tr. 14.
2
Hội Thủy lợi Nghệ An, 65 năm thủy lợi Nghệ An những chặng đường phát triển
(1945-2010),…sđd, tr.73.
3
Hội Thủy lợi Nghệ An, 65 năm thủy lợi Nghệ An những chặng đường phát triển
(1945-2010), sđd.

311
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

chính quyền và nhân dân địa phương tổ chức cứu hộ và khắc phục
sự cố đê. Ông Lễ nhớ lại:
“Quan sát từ trên máy bay, chúng tôi thấy cảnh tượng thật đau lòng:
nhiều đọạn đê bị vỡ, nhiều làng mạc bị ngập sâu, đồng ruộng mênh mông
như biển nước, có đến hàng chục ngàn người dân chạy lụt lên mặt đê sống
cảnh “màn trời, chiếu đất”1.
Năm 1983, cơn bão số 9 gây lụt lội ở Trung Bộ, làm chết hơn
200 người. Năm 1985, bão số 8 gây mưa lớn, nước biển dâng và làm
ngập lụt hầu hết các vùng ven biển thuộc các tỉnh Quảng Bình,
Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, hơn 900 người thiệt mạng2. Các trận,
bão, lũ không chỉ gây thiệt hại về người và tài sản, mà còn làm cho
các tuyến đê ở Trung Bộ vốn chưa được sửa chữa, củng cố hoàn
toàn sau chiến tranh lại càng thêm hư hỏng, xuống cấp.
Chính vì vậy, nhiệm vụ trọng tâm của công tác đê điều, phòng
chống lũ lụt ở Trung Bộ sau năm 1975 là phải nhanh chóng khôi
phục, sửa chữa các tuyến đê, kè, cống bị hư hỏng trong chiến
tranh, bước đầu triển khai xây dựng mới các công trình vượt lũ,
tiêu úng, ngăn mặn. Riêng khu vực Tây Nguyên tập trung chủ yếu
xây dựng các hồ chứa nước đảm bảo nước tưới, nước sinh hoạt,
phát điện và có nhiệm vụ cắt, giảm lũ. Để chỉ đạo sát sao công tác
phòng chống lụt bão ở khu vực Trung Bộ, năm 1975, Bộ Thủy lợi
cho thành lập Phân ban chống lụt bão có trụ sở ở Đà Nẵng, đây là
bộ phận thường trực chỉ đạo công tác đê điều và phòng chống lụt
bão ở Trung Bộ.
Cùng với việc củng cố hệ thống đê sông, kè, cống, đập, hồ chứa,
trong giai đoạn này các tỉnh miền Trung triển khai một số dự án cải tạo,
nâng cấp hệ thống đê biển theo thỏa thuận hợp tác giữa Chính phủ
1
Nguyễn Văn Lễ, Ký ức về một số sự kiện đê điều, phòng chống lụt, bão đáng nhớ thời
kỳ 1970-2000,…Sđd, tr. 14.
2
Diễn văn của Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Nguyễn Cảnh Dinh tại lễ ra mắt Ủy ban
Quốc gia của Việt Nam về thập kỷ quốc tế giảm nhẹ thiên tai, Tạp chí Phòng
chống lụt bão giảm nhẹ thiên tai, số 1, tháng 4 năm 1991, tr.6-7.

312
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Việt Nam và Chương trình lương thực thế giới của Liên hợp quốc. Từ
năm 1991, Cục Quản lý đê điều đã tiến hành điều tra, thống kê và báo
cáo tổng quan về tình trạng đê biển. Năm 1993, Việt Nam có 2.500km
đê biển đã được xây dựng từ trước đó, nhưng phần lớn, đặc biệt là
những tuyến đê xung yếu vẫn còn thấp, nhỏ và xuống cấp, hiệu quả
chống bão, lũ và xâm nhập mặn thấp. Nhiều tuyến đê biển thường,
đặc biệt ở các tỉnh Trung Bộ, thường xuyên bị xói lở, gây nhiều thiệt hại
và khó khăn cho phát triển kinh tế và đời sống của người dân.
Chỉ tính riêng ở Thừa Thiên Huế, từ năm 1973 đến 1999, bờ biển
Hải Dương và Thuận An trung bình mỗi năm bị xói lở từ 6 đến 8m,
làm mất 110ha đất canh tác1. Năm 1978, mưa lũ kết hợp với triều
cường khiến nhiều đoạn đê biển thuộc Thanh Hóa, Nghệ An bị sạt
lở nghiêm trọng. Năm 1984, mưa lũ làm vỡ nhiều tuyến đê biển, kè
biển ở Bình Trị Thiên. Năm 1993, lũ lụt làm 294 người chết, 22.551 nhà
bị sập ở Bình Trị Thiên. Ở Thuận Hải (Ninh Thuận và Bình Thuận),
120.000 nhà bị đổ, hàng trăm người chết. Một trong những nguyên
nhân các tỉnh duyên hải miền Trung bị thiệt hại lớn do bão, lũ là do
đê biển, các kè đê biển đã bị xuống cấp nghiêm trọng và thấp không
chống chịu được bão cấp 9 và sóng biển mỗi khi có bão lớn.
Sau khi khảo sát, nghiên cứu và thiết kế, tháng 5 năm 1992 dự
án khôi phục và nâng cấp đê biển 7 tỉnh miền Trung được được
Chính phủ phê duyệt, do Chương trình lương thực thế giới của
Liên hợp quốc (PAM) viện trợ cho Việt Nam. Khi đó, các tỉnh ven
biển miền Trung được đánh giá là nghèo nhất của Việt Nam vì luôn
phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do bão, lũ lụt gây ra. Trong
thư gửi Bộ trưởng Nguyễn Cảnh Dinh, Giám đốc PAM nêu rõ, các
tỉnh miền Trung của Việt Nam thường phải đương đầu với những
tổn thất do bão, lũ gây ra. Chính vì thế, việc khôi phục và nâng cấp
hệ thống đê biển sẽ góp phần giúp đỡ cho khoảng 350.000 hộ gia
đình nông dân cực kì nghèo khổ và thiếu lương thực trầm trọng.

Trịnh Việt An, Lương Phương Hậu, Xói lở bờ biển Thuận An-Hòa Duân tỉnh thừa thiên
1

Huế và các giải pháp công trình chỉnh trị tổng thể, in trong Viện Khoa học Thủy lợi,
Tuyển tập kết quả khoa học và công nghệ 2003-2005, Nxb Nông nghiệp, 2006, tr.57.

313
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Mục tiêu dự án nâng cấp đê biển 7 tỉnh miền Trung (tên dự án


PAM-4617) là khôi phục và nâng cấp 454km đê biển thuộc địa bàn
28 huyện thuộc 7 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Quảng Nam Đà Nẵng, nhằm giảm
xâm nhập mặn, tăng diện tích cấy 2 vụ, mở rộng khai hoang lấn biển
và giảm thiểu thiệt hại do bão lũ gây ra. Tổng kinh phí đầu tư cho dự
án lên tới 22 triệu USD. Ngày 10 tháng 3 năm 1993, dự án PAM-4617
chính thức được khởi công. Dự án này thực hiện trong giai đoạn 1993
- 1997, có tới 21 triệu ngày công được huy động, đào đắp, kè hàng
triệu m3 đất, đá và bê tông1. Dự án PAM-4617 được quốc tế đánh giá
là thành công nhất trong các dự án PAM.

5. Bước đầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực đê điều, phòng chống thiên tai
Cùng với đổi mới về kinh tế, đổi mới về chính trị, ngoại giao,
Đảng và Nhà nước lãnh đạo đổi mới đưa đê điều, phòng chống
thiên tai Việt Nam từng bước hội nhập quốc tế. Đây là yếu tố quan
trọng tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận được nguồn vốn, kinh
nghiệm, khoa học kĩ thuật của các tổ chức quốc tế và quốc gia trên
thế giới. Sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế hỗ trợ Việt Nam làm
giảm một phần khó khăn, thiệt hại do thiên tai, bão lũ gây ra.
Hằng năm, Việt Nam thường chịu tổn thất nặng nề và phải chi
hàng nghìn tỉ đồng cho công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả
bão lũ. Từ năm 1971 đến năm 1990, riêng bão lũ đã gây thiệt hại cho
Việt Nam khoảng 650 triệu USD, làm chết 4.600 người2. Hội nhập
quốc tế cũng thể hiện trách nhiệm của Việt Nam trong việc chia sẻ
kinh nghiệm, góp phần giải quyết những vấn đề chung của khu vực
và thế giới do lũ, lụt và thiên tai gây ra.
Trước những thảm họa và tàn phá nặng nề của thiên tai, năm
1987, Đại hội đồng Liên hợp quốc ban hành Nghị quyết lấy thập
1
Về dự án đê biển PAM-4617 do Chương trình lương thực thế giới tài trợ 7 tỉnh
miền Trung, Tạp chí Phòng chống lụt bão giảm nhẹ thiên tai, số 9, tháng 1, 2 và 3
năm 1993, tr.28.
2
Nguyễn Cảnh Dinh, 50 năm thủy lợi-những chặng đường,…sđd, tr.12.

314
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

kỷ 90 là Thập kỷ quốc tế giảm nhẹ thiên tai. Liên hợp quốc kêu
gọi các quốc gia trên thế giới chung tay cùng nhau hành động
nhằm phòng, chống và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra.
Sáng kiến của Liên hợp quốc đã nhận được sự ủng hộ của các
quốc gia thành viên. Với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc
và cũng là một quốc gia thường xuyên hứng chịu những hậu quả
nặng nề do thiên tai gây ra, đặc biệt là lũ lụt và hạn hán, Việt
Nam đã chủ động, tích cực tham gia đóng góp vào chương trình
này của Liên hợp quốc.
Năm 1988, Ban Chỉ huy phòng, chống lụt bão Trung ương, Bộ
Thủy lợi cùng các cơ quan liên quan đã có những bước chuẩn bị đầu
tiên về tổ chức, kế hoạch và nội dung nhằm hưởng ứng Nghị quyết
của Liên hợp quốc. Ngày 07 tháng 01 năm 1991, Phó Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã kí ban hành Quyết định số 11-CT,
thành lập Ủy ban Quốc gia của Việt Nam về thập kỷ quốc tế giảm
nhẹ thiên tai (The National Committee of Vietnam for Intenational
Decade for Natural Disaster Reduction). Ngày 9 tháng 4 năm 1991,
Ban Chỉ huy phòng, chống lụt bão Trung ương tổ chức lễ thành lập
và ra mắt Ủy ban tại Hà Nội.
Theo Quyết định số 11-CT, ông Nguyễn Cảnh Dinh (Bộ trưởng
Bộ Thủy lợi, Trưởng ban Ban Chỉ huy phòng, chống lụt bão Trung
ương) được bổ nhiệm làm chủ tịch Ủy ban Quốc gia của Việt Nam về
thập kỷ quốc tế giảm nhẹ thiên tai. Năm Phó chủ tịch gồm các ông:
Trần Nhơn (Thứ trưởng Bộ Thủy lợi), Huỳnh Ngọc Lang (Phó Chủ
nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng), Nguyễn Chơn (Phó Tổng
tham mưu trưởng Quân đội nhân dân), Vũ Khoan (Thứ trưởng Bộ
Ngoại giao) và Lê Quý An (Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà
nước). Ngoài ra còn có 19 ủy viên là đại diện các bộ, ban, ngành của
Chính phủ Việt Nam.
Trong lễ ra mắt Ủy ban, Bộ trưởng Nguyễn Cảnh Dinh nêu rõ,
Việt Nam là quốc gia thường xuyên đối diện với nhiều thiên tai, đặc
biệt là bão, lũ, lụt và hạn hán. Chính vì thế, việc thành lập Ủy ban
315
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

thể hiện quyết tâm cao của Việt Nam trong công cuộc phòng tránh
và hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra. Đó là quốc sách mà Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã thực hiện từ sau khi giành được độc lập vào
năm 1945. Đó cũng là sự chia sẻ trách nhiệm của Việt Nam cùng với
cộng đồng quốc tế trong việc chung tay phòng, chống và giảm nhẹ
thiên tai, giảm thiểu nỗi đau và những hậu quả nặng nề do thiên
tai gây ra. Bộ trưởng Nguyễn Cảnh Dinh cũng nhấn mạnh rằng,
Việt Nam cần tăng cường hợp tác, phối hợp với Liên hợp quốc, các
tổ chức quốc tế và các quốc gia nhằm chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ
trong việc tuyên truyền, nghiên cứu khoa học, xây dựng các công
trình phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.
Bộ trưởng, Chủ tịch Nguyễn Cảnh Dinh thay mặt Ủy ban công
bố mục tiêu của Thập kỷ quốc tế giảm nhẹ thiên tai ở Việt Nam giai
đoạn 1990 - 2000 là giảm tổn thất về người, giảm tổn thất về tài sản
và giảm sự ngưng trệ các hoạt động kinh tế - xã hội do thiên tai gây
ra. Để đạt được những mục tiêu ấy, một chương trình hành động
được vạch ra gồm: xây dựng chiến lược quốc gia về giảm nhẹ thiên
tai; xây dựng pháp luật về giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường;
tăng cường nghiên cứu khoa học và các biện pháp phòng, chống và
giảm nhẹ thiên tai; tăng cường mạng lưới thông tin dự báo, cảnh
báo, báo động, tuyên truyền về thiên tai.
Cùng với thành lập Ủy ban Quốc gia của Việt Nam về Thập
kỷ quốc tế giảm nhẹ thiên tai, hệ thống tổ chức các cơ quan phòng,
chống lụt bão được tổ chức thành mạng lưới thống nhất từ Trung
ương tưới tới địa phương. Các cơ quan chỉ đạo Trung ương gồm:
Bộ Thủy lợi, Ban Chỉ huy phòng, chống lụt bão Trung ương. Các
cơ quan này đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội đồng Bộ trưởng,
chịu trách nhiệm trực tiếp xây dựng kế hoạch, chỉ đạo, tổ chức, phối
hợp với các bộ, ngành liên quan trong công tác phòng chống lũ, lụt,
giảm nhẹ thiên tai. Ở địa phương, cấp tỉnh và thành phố có Sở thủy
lợi. Cấp huyện có Phòng thủy lợi. Cấp xã, phường có Ban thủy lợi.
Bên cạnh đó là Ban Chỉ huy phòng, chống lụt bão được tổ chức từ
cấp tỉnh tới cấp xã, phường. Các cơ quan này đặt dưới sự chỉ đạo
316
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

trực tiếp của Ủy ban nhân dân các cấp tương đương và các cơ quan
chuyên môn cấp trên.
Trong năm 1991, Bộ Thủy lợi đã phối hợp cùng các cơ quan
ban ngành Trung ương triển khai nhiều phương án phòng,
chống lũ, lụt. Đặc biệt, Bộ Thủy lợi đề xuất với Chính phủ sử
dụng hồ Hòa Bình tham gia vào việc cắt, giảm lũ sông Đà, đảm
bảo an toàn cho hệ thống đê ở hạ du. Đề xuất đã được Hội đồng
Bộ trưởng phê duyệt theo Quyết định số 148-CTDL-100, ngày 3
tháng 5 năm 1991.
Trên cơ sở quyết định này, Bộ Thủy lợi đã ban hành quy trình
vận hành hồ Hòa Bình theo hướng điều tiết lũ. Việc nghiên cứu
khoa học, đào tạo chuyên gia cũng được Bộ Thủy lợi, Ủy ban Quốc
gia của Việt Nam về Thập kỷ quốc tế giảm nhẹ thiên tai, Ban Chỉ
huy phòng, chống lụt bão Trung ương phối hợp tổ chức chỉ đạo
và đạt được một số kết quả quan trọng. Trong số các chương trình
nghiên cứu khoa học được triển khai về lĩnh vực phòng, chống
lũ, lụt, phải kể tới chương trình 06 B gồm 9 đề tài, do ông Từ Mạo
chủ trì, khi đó là Vụ trưởng Vụ Phòng, chống lũ lụt và Quản lý
đê điều thuộc Bộ Thủy lợi. Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học
quan trọng để Đảng, Nhà nước, Bộ Thủy lợi và các cơ quan phòng,
chống lụt bão triển khai các chương trình xây dựng, gia cố các
công trình phòng, chống lũ.
Từ năm 1991, đoàn đại biểu Ủy ban Quốc gia của Việt Nam về
thập kỷ quốc tế giảm nhẹ thiên tai tham gia nhiều Hội thảo khoa
học về phòng, chống lũ, lụt và giảm nhẹ thiên ở khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương do Liên hợp quốc tổ chức. Tháng 6 năm 1992, lần
đầu tiên Việt Nam tổ chức Hội thảo quốc tế về phòng, chống lũ,
lụt, ứng phó khẩn cấp với thiên tai ở Việt Nam. Tham dự Hội thảo
có đại diện của Liên hợp quốc, các chuyên gia hàng đầu thế giới về
phòng chống lũ lụt, các nhà khoa học, quản lý quốc tế và Việt Nam.
Qua hội thảo, Việt Nam đã thu được nhiều kinh nghiệm và bài học
quý báu. Nhiều đoàn cán bộ của Việt Nam được cử đi tập huấn, bồi
dưỡng về phòng, chống thiên tai ở Thái Lan do Trung tâm phòng
chống thiên tai Châu Á tổ chức.
317
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Bộ Thủy lợi và Ủy ban Quốc gia của Việt Nam về Thập kỷ quốc
tế giảm nhẹ thiên tai cũng mở nhiều khóa bồi dưỡng, tập huấn cho
cán bộ quản lý đê các cấp. Đầu năm 1991 đã có hơn 100 cán bộ là
Đội trưởng và Đội phó, Trưởng và Phó trưởng Ban quản lý đê các
tỉnh được tập huấn, nâng cao trình độ về công tác đê điều, phòng,
chống lũ lụt. Từ quan hệ, hợp tác với Liên hợp quốc, hai dự án lớn
cải tạo, nâng cấp đê biển 7 tỉnh miền Trung và 5 tỉnh Đồng bằng Bắc
Bộ đã được triển khai, góp phần quan trọng nâng cao hiệu phòng
chống lũ lụt.

6. Huy động các nguồn lực xã hội cho xây dựng đê điều, phòng chống lụt bão,
giảm nhẹ thiên tai
Đảng, Nhà nước xác định sự nghiệp đê điều và phòng, chống
lụt bão phải dựa vào ba nguồn chính: ngân sách nhà nước, huy động
đóng góp của nhân dân và tranh thủ viện trợ quốc tế. Trong hoàn
cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, để tăng cường đầu tư cho nghiên
cứu, xây dựng đê điều và các công trình phòng, chống lụt bão, ngày 6
tháng 5 năm 1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Chỉ thị số
149-CT về việc lập quỹ phòng chống lụt bão ở các địa phương. Theo
đó, tất cả các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương cần lập
quỹ phòng, chống lụt bão của địa phương mình nhằm huy động sức
dân bổ sung cho ngân sách địa phương trong việc tu bổ, xây dựng đê,
kè, cống và các nhu cầu khác trong việc phòng, chống lụt bão, giảm
nhẹ thiên tai.

Về hình thức, mức thu và phân bổ quản lý quỹ, theo hướng


dẫn của Ban Chỉ đạo phòng, chống lụt bão Trung ương, hình thức
thu do địa phương quyết định, có thể thu theo nhân khẩu hoặc hộ
gia đình. Đối với hộ nông dân thu 2.000 đồng, hộ buôn bán và làm
nghề thủ công thu từ 20.000 đến 100.000 đồng, cán bộ nhà nước
thu ít nhất 1 ngày lương. Đối với những hộ thiếu đói có thể miễn.
Quỹ do địa phương thu và quản lý. Việc sử dụng quỹ được phân
bổ theo tỉ lệ như sau: cấp xã, phường, thị trấn giữ lại 10%; cấp
318
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

quận, huyện, thị xã giữ lại 40%; cấp tỉnh, thành phố và đặc khu sẽ
giữ 50% tổng số tiền quỹ thu được1.

Trong thời gian đầu, việc lập quỹ gặp một số khó khăn, vướng
mắc vì một số địa phương cho rằng, người dân đã đóng thủy lợi
phí, tham gia lao động công ích, đóng thuế thì không cần đóng
quỹ nữa. Để giải quyết những vướng mắc này, đầu năm 1993,
Ban chỉ huy Phòng, chống lụt bão Trung ương đã có công văn số
09-PCLBTW ngày 06 tháng 02 năm 1993 gửi các địa phương để
giải thích những thắc mắc, phân biệt các loại nghĩa vụ của người
dân trong công tác phòng, chống lũ lụt. Ngành thủy lợi và chính
quyền các cấp tăng cường tuyên truyền vận động nhân dân tham
gia đóng quỹ. Nhờ thế mà việc thành lập quỹ bước đầu đã đạt
được những kết quả quan trọng.
Đến cuối năm 1992, trên cả nước có 25/53 tỉnh, thành phố ban
hành việc thành lập quỹ phòng, chống lụt bão. Ba tỉnh Sơn La,
Hà Bắc và Vĩnh Phú là địa phương đầu tiên thành lập quỹ. Tính
đến ngày 30 tháng 11 năm 1992, tổng số tiền quỹ thu được của các
địa phương đạt gần 3 tỷ đồng. Đến tháng 6 năm 1993, đã có 40/53
tỉnh, thành phố đã lập quỹ. Đến cuối năm 1993, số tỉnh lập quỹ
phòng, chống lụt bão tăng lên 52/53 tỉnh. Ngày 15 tháng 7 năm
1994, An Giang là tỉnh cuối cùng thành lập quỹ phòng, chống lụt
bão. Như vậy đến năm 1994, 53/53 tỉnh, thành phố đã thành lập
được quỹ phòng, chống lụt bão. Tổng số tiền quỹ thu được của các
địa phương đã tăng nhanh từ 4,5 tỷ đồng năm 1992 lên 10,5 tỷ năm
1993 và 13 tỷ năm 19942.
Việc ban hành quy định và lập quỹ phòng, chống lụt bão là một
sáng kiến và một quyết định mang tính chất đột phá của Nhà nước
1
Thông báo ngày 25 tháng 7 năm 1991 của Ban chỉ huy Phòng chống lụt bão Trung
ương hướng dẫn thi hành Chỉ thị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng số 149-CT
ngày 06 tháng 5 năm 1991 về việc lập quỹ phòng chống lụt bão ở các địa phương,
Tạp chí Phòng chống lụt bão giảm nhẹ thiên tai, số 3, tháng 7, 8 và 9 năm 1991, tr.31-33.
2
Sơ kết năm năm của thập kỷ phòng chống và giảm nhẹ thiên tai ở Việt Nam,
Tạp chí Phòng chống lụt bão giảm nhẹ thiên tai, số 17, tháng 1, 2 và 3 năm 1995, tr.17.

319
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

nhằm huy động các nguồn lực từ địa phương cho việc củng cố đê,
kè, cống và cứu trợ trong tình huống thiên tai xảy ra. Đây là nguồn
kinh phí quan trọng để các địa phương đầu tư cho công tác phòng,
chống lụt bão, đặc biệt là nâng cấp, gia cố, bảo vệ đê, kè, cống và
cứu trợ người dân trong mùa mưa lũ. Điều này thể hiện sự đồng
thuận, ủng hộ của các cấp địa phương và nhân dân, góp phần quan
trọng giải quyết khó khăn về tài chính, nâng cao hiệu quả và năng
lực phòng, chống lũ lụt, giảm nhẹ thiên tai.
Cùng với nguồn lực trong nước, trong giai đoạn này, đê điều và
phòng chống lụt bão Việt Nam đã tiếp cận được nguồn viện trợ của
Liên hợp quốc qua triển khai các dự án nâng cấp đê biển, đê sông.
Theo thỏa thuận kí kết thực hiện dự án PAM-4617, Tổ chức Chương
trình lương thực thế giới của Liên hợp quốc viện trợ cho Việt Nam
13,2 triệu USD thực hiện dự án nâng cấp đê biển thuộc 7 tỉnh miền
Trung. Tiếp đó, ngày 30 tháng 10 năm 1993, Ngân hàng phát triển
Châu Á (ADB) kí thỏa thuận cho Việt Nam vay vốn để nâng cấp hệ
thống đê hữu sông Hồng đoạn Hà Nội-Hà Tây. Khi thực hiện dự án
VIE/92/023, ngoài việc Liên hợp quốc hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý
đê điều, chuyển giao kĩ thuật, thì Chính phủ Úc cũng viện trợ không
hoàn lại cho Việt Nam 280.000 USD1.
*
* *
Sau 20 năm kể từ năm 1975, đây là giai đoạn đất nước gặp nhiều
khó khăn, nhưng công tác đê điều, phòng chống lụt bão đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Từ năm 1976 đến năm 1995, kinh phí
dành cho xây dựng cơ bản đê điều đạt gần 353 triệu đồng, trong đó
giai đoạn 1986 - 1995 là 265 triệu đồng. Kinh phí dành cho xây dựng
đê điều đặc biệt tăng nhanh từ năm 1993, một phần do đất nước dần
thoát khỏi những khó khăn, mặt khác do sự hỗ trợ của cộng đồng
quốc tế. Chỉ tính riêng ba năm 1993 - 1995, kinh phí dành cho xây
1
Tổng hợp từ, Tạp chí Phòng chống lụt bão giảm nhẹ thiên tai, số 3, tháng 7, 8 và 9
năm 1991, tr.31-33.

320
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

dựng đê điều chiếm 168 triệu đồng. Tổng khối lượng đào, đắp đê
trong 20 năm 1976 - 1995, đạt gần 59 triệu m3 đất, 2,8 triệu m3 đá1.
Vào thời điểm năm 1995, cả nước có 7.700km đê, trong đó
5.700km đê sông, 2.000km đê biển, 590 tuyến mỏ kè và có gần
3.000km đê bao ngăn lũ đầu vụ (lũ tháng 8). Hệ thống đê sông ở Bắc
Bộ và Trung Bộ đã được tôn cao, đắp dày. Một số tuyến đê, kè, cống
được bê tông hóa và kiên cố hóa. Về cơ bản hệ thống đê sông ở Bắc
Bộ và Trung Bộ đã bảo đảm chống được lũ lớn. Đê sông Hồng có
thể chống lũ với mức +13,60m tại Hà Nội, đê sông Thái Bình có thể
chống được lũ với mức +7m tại Phả Lại2. Kể từ sau năm 1986, ở Bắc
Bộ không có sự cố vỡ đê nghiêm trọng nào xảy ra.
Ở Nam Bộ, một số tuyến đê bao, hệ thống bờ bao bước đầu
được hình thành, cùng với hệ thống kênh trục, kênh nhánh đã góp
phần quan trọng trong việc ngăn lũ, thau chua, rửa phèn cho một
số khu vực. Đê biển, kè bờ biển được chú ý đầu tư, bước đầu được
nâng cấp, cải tạo và củng cố vững chắc hơn trước.
Công tác xây dựng, quản lý, bảo vệ, hộ đê bước đầu có sự hội
nhập, hợp tác với một số quốc gia và tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên
hợp quốc. Bộ Thủy lợi, Cục Phòng chống lụt bão và Quản lý đê điều
đề xuất, tư vấn và góp phần to lớn trong việc soạn thảo, góp ý đưa
tới sự ra đời của Pháp lệnh về đê điều và Pháp lệnh Phòng chống
lụt bão, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ đê
điều và công tác phòng chống lũ lụt.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, nên
đầu tư cho xây dựng đê điều còn hạn chế, một số tuyến đê sông
chưa đạt tiêu chuẩn về độ cao, mái đê và cơ đê. Hệ thống cống, kè
bảo vệ đê xuống cấp chưa đảm bảo ngăn lũ3. Mặc dù các tuyến đê
1
Tổng hợp khối lượng và kinh phí cơ bản xây dựng đê điều đã thực hiện trong
50 năm 1946 - 1995 (Tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp).
2
Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử),...
sđd, tr. 214.
3
Hoàng Văn Xô, Đầu tư xây dựng và khai thác các công trình thủy lợi ở Đồng bằng
sông Hồng, sđd, tr.74.

321
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

thuộc hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình đã được Nhà nước đầu
tư liên tục, nhưng những ẩn họa và tai biến bất ngờ vẫn luôn rình
rập trong mùa mưa lũ1.
Đê biển chưa được đầu tư nhiều, hầu hết đê biển còn thấp, yếu,
mới chỉ đảm bảo chống được bão và triều cường nhất định, chưa
đảm bảo chống được sóng biển lớn. Điều này dẫn tới tình trạng sạt
lở kè, đê biển thường xuyên xảy ra, đặc biệt là ở các tỉnh ven biển
thuộc Đồng bằng sông Cửu Long. Tăng cường công tác củng cố đê
biển, chống xói lở bờ biển để bảo vệ dân cư và các vùng sản xuất vì
vậy tiếp tục là nhiệm vụ cấp bách2. Tình trạng lấn chiếm hành lang
an toàn đê, vi phạm pháp luật về đê điều còn nhiều và phức tạp
nhưng chưa được giải quyết triệt để, kịp thời.

1
Bài phát biểu của ông Nguyễn Cảnh Dinh (Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ
trưởng Bộ Thủy lợi) tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 5 (Khóa VII), diễn ra
từ ngày 03 đến ngày 16 tháng 6 năm 1993 (Tài liệu do ông Nguyễn Cảnh Dinh
cung cấp).
2
Bài phát biểu của ông Nguyễn Cảnh Dinh (Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ
trưởng Bộ Thủy lợi) tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 5 (Khóa VII), diễn ra
từ ngày 03 đến ngày 16 tháng 6 năm 1993 (Tài liệu do ông Nguyễn Cảnh Dinh
cung cấp).

322
Chương 9 :

ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG, GIẢM NHẸ THIÊN TAI


TRONG GIAI ĐOẠN 1996 - 2020

I. ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG, GIẢM NHẸ THIÊN TAI TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU ĐẨY
MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC (1996 - 2005)

1. Tình hình đất nước và chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với đê điều, phòng
chống lũ lụt
Sau một thập kỷ đầu tiến hành đổi mới, về cơ bản đất nước đã
thoát khỏi khủng hoảng, nền kinh tế tăng trưởng ổn định, lạm phát
giảm còn 12,7% vào năm 1995, bước đầu giải quyết được vấn đề
thiếu lương thực, đời sống nhân dân được cải thiện. Cơ sở hạ tầng
từng bước được củng cố, nền hành chính được cải cách một bước,
nền kinh tế thị trường được thiết lập. Điều này góp phần to lớn tạo
điều kiện thuận lợi cho đầu tư xây dựng, mua trang thiết bị, vật tư
cho đê điều và phòng chống thiên tai.
Quan hệ đối ngoại được mở rộng, Việt Nam từng bước phá
được thế bao vây, cấm vận. Từ năm 1992, Việt Nam chủ động và
tăng cường tiếp xúc, đàm phán quan hệ với Chính phủ Mỹ. Năm
1994, Mỹ tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn cấm vận Việt Nam. Ngày 11
tháng 7 năm 1995, Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ ngoại
giao. Đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á, sau nhiều năm
nỗ lực, tích cực đàm phán nhằm giải quyết bất đồng giữa các nước,
tháng 7 năm 1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7
của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Việc Mỹ phá bỏ bao vây cấm vận, bình thường hóa quan hệ
với Việt Nam, cùng với việc gia nhập ASEAN góp phần quan trọng
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

tạo cơ sở cho Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội, tiếp cận
vốn, công nghệ, trang thiết bị, chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác trong
lĩnh vực đê điều, phòng chống lũ lụt và giảm nhẹ thiên tai, đặc biệt
là hợp tác khai thác bền vững nguồn nước sông Mê Kông.
Ngày 5 tháng 4 năm 1995, Việt Nam kí với Campuchia, Lào, Thái
Lan hiệp định hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Kông
và thành lập Ủy hội sông Mê Kông quốc tế. Tháng 02 năm 1996, lần
đầu tiên Việt Nam tham dự Hội nghị nhóm chuyên gia của ASEAN
về quản lý và giảm nhẹ thiên tai (AEGDM) tổ chức tại Philippines.
Đoàn Việt Nam gồm 3 người: ông Từ Mạo (Cục trưởng Cục Phòng,
chống lụt bão và Quản lý đê điều, trưởng đoàn), ông Nguyễn Bỉnh
Thìn (Văn phòng Ủy ban sông Mê Kông) và ông Nguyễn Xuân Thìn
(Vụ Cứu trợ xã hội thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội).
Trong báo cáo đọc tại Hội nghị, ông Từ Mạo khẳng định, Việt
Nam và các quốc gia ASEAN là những người bạn, đối tác và láng
giềng, cùng nhau hợp tác, chia sẻ trách nhiệm trong phòng, chống
bão lũ và giảm nhẹ thiên tai. Từ năm 1996, Việt Nam chính thức
trở thành thành viên của AEGDM. Đây là một mốc quan trọng, mở
đầu và đặt nền móng đầu tiên cho sự hợp tác quốc tế về quản lý
thiên tai giữa Việt Nam và ASEAN1.
Quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc cũng từng bước được
cải thiện sau nhiều năm bị gián đoạn. Hợp tác giữa Việt Nam với
các tổ chức quốc tế, như Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Ngân
hàng Phát triển châu Á, các tổ chức, quốc gia khác tiếp tục được duy
trì và phát triển. Đó là điều kiện thuận lợi cho phép công tác xây
dựng, quản lý đê điều, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai của Việt
Nam tiếp cận được các khoản vốn vay, hỗ trợ và chuyển giao công
nghệ, giáo dục - đào tạo từ bên ngoài.
1
Từ Mạo, Báo cáo kết quả về hội nghị lần thứ 9 của nhóm chuyên gia ASEAN
về quản lý thiên tai (AEGDM) tổ chức tại Manila (Philippines), từ ngày 05 đến
08/02/1996, in trong Tạp chí Phòng chống lụt bão giảm nhẹ thiên tai, số 21, tháng 1,
2 và 3 năm 1996, tr.18-19.

324
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Tuy nhiên, về cơ bản kinh tế Việt Nam vẫn còn nghèo và kém
phát triển, cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật còn hạn chế, chưa phát
huy được hết tiềm năng phát triển kinh tế đất nước, đời sống nhân
dân còn gặp nhiều khó khăn. Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài
chính xảy ra ở khu vực Đông Nam Á cũng tác động tiêu cực tới sự
phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung, đê điều và phòng chống
lũ lụt, giảm nhẹ thiên tai nói riêng.
Tháng 6 năm 1996, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng
định tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh”, phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam cơ
bản trở thành một nước công nghiệp1. Đại hội đề ra kế hoạch phát
triển kinh tế 5 năm 1996-2000, gồm 11 chương trình và lĩnh vực.
Đối với thủy lợi, đê điều và phòng chống lũ lụt, Đảng chủ trương
“Phát triển nhanh hệ thống thuỷ lợi đã có ở hai đồng bằng lớn của
đất nước. Thực hiện chương trình chống nhiễm mặn, chua phèn và
chống lũ toàn diện ở Đồng bằng sông Cửu Long”2.
Tháng 4 năm 2001, tại Đại hội toàn quốc lần thứ IX, trên cơ sở
phân tích bối cảnh quốc tế, tổng kết đánh giá 15 năm đổi mới và kế
hoạch 5 năm 1996 - 2000, Đảng đã đề ra nhiệm vụ, mục tiêu của kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 và chiến lược giai đoạn
2001 - 2010 là: tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn,
hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh giáo dục và đào tạo, phát
huy nhân tố con người, ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân,
cơ bản xóa đói, giảm số hộ nghèo3. Đại hội IX đã đề ra kế hoạch định
hướng phát triển đê điều và phòng chống lũ lụt trong kế hoạch 5
năm 2001 - 2005 là:
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 55, năm 1996, Nxb Chính
trị Quốc gia -Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.316.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 55,…sđd, tr.448.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 60, năm 2001, Nxb Chính
trị Quốc gia -Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.246.

325
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

“Phát triển mạng lưới thuỷ lợi, bảo đảm cải tạo đất, thâm canh,
tăng vụ và khai thác các vùng đất mới. Hoàn thành xây dựng các
công trình thuỷ lợi kết hợp với phòng tránh lũ ở miền Trung […].
Xây dựng và củng cố hệ thống đê biển và các công trình ngăn mặn,
thuỷ lợi cho nuôi, trồng thuỷ sản ở Đồng bằng sông Cửu Long. Kiên
cố hoá các tuyến đê xung yếu”1.
Từ chủ trương của Đảng, Chính phủ đã cân đối và tăng cường
đầu tư vốn cho xây dựng, nâng cấp, phát triển hệ thống đê sông,
đê biển, cống, kè bảo vệ đê sông và kè bảo vệ đê biển. Các cơ quan
chuyên môn đê điều và chính quyền các cấp đã nỗ lực trong việc
nghiên cứu quy hoạch, triển khai thực hiện các chương trình, dự án
về đê sông, đê biển nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội trong giai đoạn mới.

2. Sửa đổi, bổ sung quy định về đê điều và phòng chống lũ lụt


Xuất phát từ những hạn chế về quy định đã ban hành và thực
tiễn tình trạng vi phạm quy định về xây dựng, quản lý và bảo vệ
đê điều và việc ban hành Luật Tài nguyên nước năm 1998, ngày 24
tháng 8 năm 2000, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp
lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Phòng chống lụt
bão năm 1993 và Pháp lệnh Đê điều thay thế Pháp lệnh về đê điều
năm 1989. Pháp lệnh Phòng chống lụt bão năm 2000 đã sửa đổi, bổ
sung 16 điều của Pháp lệnh ban hành năm 1993.
Theo Pháp lệnh Phòng chống lụt, bão sửa đổi năm 2000, Nhà
nước thống nhất quản lý công tác phòng, chống lụt, bão trong phạm
vi cả nước theo đặc điểm từng vùng. Ở Trung ương có Ban chỉ đạo
phòng, chống lụt, bão. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là
cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo phòng, chống lụt, bão Trung
ương, chủ trì, phối hợp với các cơ quan, bộ, ban ngành và chính
quyền địa phương giúp Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước
về công tác phòng, chống lụt, bão. Ban Chỉ huy phòng, chống lụt,
bão của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ do Bộ
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 60,…sđd, tr.330-331..

326
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ thành lập.
Ban Chỉ huy phòng, chống lụt, bão có nhiệm vụ giúp bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện công tác phòng,
chống lụt, bão trong phạm vi quản lý của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ.
Ban Chỉ huy phòng, chống lụt, bão các cấp ở địa phương do
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp thành lập, có nhiệm vụ giúp Uỷ
ban nhân dân cùng cấp tổ chức thực hiện công tác phòng, chống
lụt, bão trong phạm vi địa phương.
Đối với công tác phòng ngừa dài hạn, Pháp lệnh Phòng chống
lụt, bão năm 2000 quy định về lập quy hoạch, tiêu chuẩn cho từng
vùng, xây dựng các công trình phòng, chống lụt bão, quy hoạch dân
cư, sản xuất cho các vùng dễ bị tổn thương, tuyên truyền, phổ biến
đối với người dân về công tác phòng, chống lũ, lụt. Đặc biệt, Pháp
lệnh nhấn mạnh việc ứng dụng khoa học-công nghệ tiên tiến vào
công tác dự báo, phòng ngừa.
Về công tác chống, ứng phó với lụt, bão, Pháp lệnh quy định:
Tổng cục Khí tượng thủy văn có trách nhiệm trong công tác dự
báo, Ban Chỉ huy phòng, chống lụt, bão Trung ương quyết định
việc cảnh báo, biện pháp ứng phó trong phạm vi cả nước. Ban Chỉ
huy phòng, chống lụt, bão cấp bộ, cơ quan ngang bộ, tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương quyết định cảnh báo và biện pháp ứng
phó trong phạm vi quản lý. Ban Chỉ huy phòng, chống lụt, bão cấp
huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn và các cơ quan ở địa phương thực
hiện cảnh báo, báo động, quyết định biện pháp đối phó chống lụt,
bão trong phạm vi địa hạt quản lý.
Trong tình huống khẩn cấp, Thủ tướng Chính phủ quyết định
các biện pháp ứng phó, cùng với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh huy
động mọi nguồn lực, trang thiết bị, vật tư cho phòng, chống lụt, bão.
Pháp lệnh còn quy định về biện pháp khắc phục hậu quả, chế độ
tài chính, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, lực lượng quân đội
trong phòng, chống lũ lụt.
327
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Pháp lệnh Phòng, chống lụt bão sửa đổi, bổ sung năm 2000
được đánh giá là văn bản pháp luật khá hoàn chỉnh trong lĩnh vực
phòng, chống lụt bão, phần nào đáp ứng các yêu cầu của Hiệp định
ASEAN về quản lý rủi ro thảm hoạ do thiên tai gây ra, nâng cao
trách nhiệm quản lý, tổ chức của các cơ quan quản lý Nhà nước,
ý thức của người dân trong việc phòng, chống lũ, lụt và giảm nhẹ
thiên tai.
Tuy nhiên, Pháp lệnh còn một số tồn tại và hạn chế, như: quy
định về hình thức và mức độ xử phạt còn chung chung dẫn tới
nhiều trường hợp người dân không chấp hành yêu cầu của cơ quan
có thẩm quyền khi lụt bão xảy ra. Phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh
còn hẹp, chủ yếu tập trung vào các biện pháp phòng ngừa, ứng
phó và khắc phục hậu quả thiên tai do nước gây ra như: xây dựng
hệ thống đê ngăn nước, chắn sóng, đập, hồ chứa, phân lũ, chậm lũ,
tiêu thoát nước. Còn về các thiên tai khác, như: động đất, sóng thần,
hạn hán,… chưa được quy định1. Hạn chế này đã được khắc phục
sau đó vào năm 2006, khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế
báo tin động đất, cảnh báo sóng thần và quy định về phòng chống
cháy rừng2.
Để nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm và hiệu quả trong
bảo vệ đê điều, phòng chống lũ lụt, các cơ quan quản lý nhà nước,
các cơ quan chuyên môn về đê điều đề xuất xây dựng và bổ sung
quy định về chế độ chính sách đối với cán bộ quản lý, kiểm soát
viên đê điều. Từ năm 1999, kiểm soát viên đê điều được hưởng tiền
bồi dưỡng trong khi làm nhiệm vụ. Đặc biệt từ năm 2006, kiểm soát
viên đê điều được hưởng phụ cấp nghề nghiệp.
Về chế độ bồi dưỡng, mỗi kiểm soát viên đê điều tham gia trực
tiếp xử lý sự cố khi có báo động lụt bão được bồi dưỡng 7.000 đồng/
ngày trong trường hợp báo động cấp 1, cấp 2 và 10.000 đồng/ngày
1
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Báo cáo tổng kết thi hành pháp luật về
phòng chống thiên tai, Hà Nội, năm 2012.
2
Quyết định số 264/2006/QĐ-TTg ngày 16 tháng 11 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành quy chế báo tin động đất, cảnh báo sóng thần.

328
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

đối với báo động cấp 31. Chế độ bồi dưỡng được tính từ khi bắt đầu
xử lý sự cố đến khi kết thúc xử lý sự cố. Nếu làm việc dưới 4h/ngày
thì chỉ được hưởng 50% xuất bồi dưỡng, trên 4h thì được hưởng
100% xuất bồi dưỡng2.
Năm 2005, lực lượng chuyên trách quản lý đê điều được quy
định rõ ràng, chặt chẽ và chuyên nghiệp hơn trước3. Về mặt tổ chức,
lực lượng chuyên trách quản lý đê điều thuộc tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có đê được tổ chức thành các Hạt Quản lý đê.
Hạt Quản lý đê là đơn vị thuộc Chi cục Quản lý đê điều và Phòng,
chống lụt, bão của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Hạt
Quản lý đê có nhiệm vụ trực tiếp quản lý và bảo vệ đê, từ đê cấp III
đến đê cấp đặc biệt trên địa bàn cấp tỉnh, như: thường xuyên kiểm
tra, theo dõi diễn biến tình trạng đê điều; lập hồ sơ lưu trữ và cập
nhật thường xuyên các dữ liệu về đê điều; quản lý vật tư dự trữ
chuyên dùng phục vụ công tác phòng, chống lụt, bão; phát hiện, có
biện pháp ngăn chặn kịp thời và kiến nghị xử lý các hành vi vi phạm
đê điều theo quy định của pháp luật.
Đối với cán bộ chuyên trách quản lý đê điều, mỗi cán bộ chịu trách
nhiệm quản lý trực tiếp từ 3 đến 4km đê (đối với đê từ cấp I đến cấp III)
và 1 đến 2km đê (đối với đê cấp đặc biệt). Lực lượng chuyên trách quản
lý đê điều có sắc phục, thẻ, cấp hiệu và phù hiệu của ngành, được cấp
phát theo kì hạn một năm, hai năm hoặc ba năm một lần4.
1
Quyết định số 93/1999/QĐ-TTg ngày 5 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ về chế
độ bồi dưỡng đối với kiểm soát viên đê điều tham gia trực tiếp xử lý sự cố khi
có báo động lụt, bão.
2
Thông tư liên tịch số 18 ngày 28 tháng 6 năm 1999 hướng dẫn thực hiện Quyết
định số 93/1999/QĐ-TTg ngày 05 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ về chế độ bồi
dưỡng đối với kiểm soát viên đê điều tham gia trực tiếp xử lý sự cố khi có báo
động lụt, bão.
Nghị định số 78/2005/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2005 của Chính phủ quy định về tổ
3

chức, nhiệm vụ, quyền hạn và sắc phục của lực lượng chuyên trách quản lý đê điều.
4
Nghị định số 78/2005/NĐ-CP, ngày 10 tháng 6 năm 2005 của Chính phủ quy
định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và sắc phục của lực lượng chuyên trách
quản lý đê điều.

329
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Từ năm 2006, công chức và viên chức ngạch kiểm soát đê điều
được hưởng chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề1. Theo đó, công chức
và viên chức ngạch kiểm soát đê điều được hưởng phụ cấp 20% đối
với người làm việc tại các Đội, Hạt kiểm soát đê biển và 15% đối với
các công chức, viên chức làm việc tại các Đội, Hạt kiểm soát đê sông.
Việc chi trả phụ cấp cho kiểm soát viên đê điều do Nhà nước thực
hiện (đối với cơ quan, đơn vị hoạt động được đảm bảo bằng ngân
sách Nhà nước) hoặc đơn vị tự chi trả (đối với đơn vị, cơ quan tự
chủ tài chính)2.
Việc bổ sung, hoàn thiện bước đầu các quy định pháp luật về
quản lý, bảo vệ đê điều và phòng chống lụt bão là rất cần thiết, góp
phần quan trọng tạo hành lang pháp luật, nâng cao hiệu quả xây
dựng, khai thác và đảm bảo an toàn đê và các công trình phòng
chống lũ lụt, góp phần chuyên nghiệp hóa lực lượng quản lý đê
điều, tạo động lực cho cán bộ đê điều chuyên tâm, nâng cao trách
nhiệm trong công việc.

3. Cải tạo, nâng cấp đê, kè, cống và xây dựng các công trình phòng chống lũ lụt
ở Bắc Bộ, Trung Bộ
Ở Bắc Bộ, trong giai đoạn này tập trung nhiệm vụ củng cố một
số tuyến đê quan trọng, cải tạo, xây mới hệ thống kè, cống đã xuống
cấp, kết hợp với việc cải tạo một số công trình thủy lợi để đảm bảo
chống lũ an toàn, giải quyết 60.000ha còn lại thường xuyên bị úng
lụt ở Đồng bằng sông Hồng.

1
Quyết định số 132/2006/QĐ-TTg ngày 31 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về
chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức ngành kiểm lâm,
bảo vệ thực vật, thú y và kiểm soát đê điều.
2
Quyết định số 132/2006/QĐ-TTg, ngày 31 tháng 5 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề đối với công chức, viên chức
ngành kiểm lâm, bảo vệ thực vật, thú y và kiểm soát đê điều.

330
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hình 22. Vỡ đê tả Thái Bình, Thanh Hồng, Thanh Hà, Hải Dương năm 19961
Năm 1996, do ảnh hưởng của cơn bão số 4 (bão Niki) gây mưa
lớn ở Bắc Bộ. Lũ sông Hồng, sông Đà, sông Thao lên cao. Lũ sông Đà
được ghi nhận lớn nhất trong lịch sử 100 năm đến thời điểm đó, mực
nước hồ Hòa Bình lên tới 98 m. Lũ trên sông Hồng tại Hà Nội lên
cao xấp xỉ 12,5m, vượt báo động 3 hơn 1m. Lũ lớn gây sạt trượt hơn
390 đoạn đê, kè với tổng chiều dài 142km2. Một số tuyến đê bị tràn,
đê Vĩnh Ngọc thuộc địa bàn huyện Đông Anh (Hà Nội) bị sạt mái
do sập tổ mối. Riêng đê tả Thái Bình (đê dưới cấp 3) thuộc xã Thanh
Hồng, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Hương bị vỡ. Sau trận lũ năm 1996,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đề xuất các phương án
đồng bộ nhằm chống lũ, tiêu úng ở Bắc Bộ, đặc biệt là bảo vệ Hà Nội.
Năm 2002, xảy ra liền 2 đợt lũ trong tháng 7 và tháng 8 trên hệ
thống sông Hồng, sông Thái Bình:
- Đợt lũ cuối tháng 7 đầu tháng 8, mực nước cao nhất tại Hà
Nội gần mức báo động III; sông Thái Bình trên báo động III là 15cm;
kéo dài 15 ngày.
1
Chi cục Thủy lợi Hải Dương
2
Báo cáo kế hoạch tu bổ đê điều từ năm 2001 đến 2005 (Tài liệu do Vụ Quản lý
đê điều cung cấp).

331
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

- Đợt lũ từ ngày 10 đến ngày 18 tháng 8: mực nước cao nhất tại
Hà Nội trên báo động III là 0,5m; sông Thái Bình trên báo động III là
0,1m, kéo dài 10 ngày. Đây là đợt lũ lớn nhất kể từ sau trận lũ tháng
8 năm 1996. Trong thời điểm đó, nếu cơn bão số 3 đổ bộ vào Bắc Bộ,
gây mưa lớn, gió mạnh, trên nền lũ cao thì sẽ gây hậu quả khó lường.
Trong 2 đợt lũ này, đã xuất hiện 254 sự cố mạch sủi, thẩm lậu,
sạt trượt trên các tuyến đê chính; một số đoạn đê phân lũ ở Lập
Thạch, đê bối ở Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc) bị sạt lở; một đoạn đê bối
ở Gia Lâm (Hà Nội) bị vỡ; đê bối Phú Hùng Cường (Hưng Yên) bị
sạt. Các địa phương đã xử lý kịp thời, nên đã hạn chế thiệt hại về
sản xuất và đời sống của nhân dân trong vùng được bảo vệ1.
Ngày 3 tháng 9 năm 1998, Thường vụ Bộ Chính trị ra Thông
báo số 164-TB/TW chỉ đạo Chính phủ, chính quyền các cấp và các cơ
quan quản lý nhà nước về công tác phòng ứng phó với thiên tai, lũ
lụt. Thông báo số 164-TB/TW chỉ rõ cần tính đến tình huống nguy
kịch có khả năng vỡ đê, vỡ đập. Thực hiện phương án phân lũ, kiểm
tra chất lượng, đảm bảo an toàn cho các tuyến đê khi tiến hành
phân lũ. Về lâu dài, Thông báo của Thường vụ Bộ Chính trị chỉ đạo:
“Chính phủ chỉ đạo việc xây dựng phương án lâu dài, bền vững
về củng cố, xây dựng hệ thống đê điều trong cả nước, đặc biệt là hệ
thống đê sông Hồng để đủ sức bảo vệ sự phát triển bền vững về
kinh tế - xã hội và an ninh – quốc phòng cho đồng bằng sông Hồng
và Thủ đô Hà Nội trình Bộ Chính trị xem xét, quyết định”2.
Thực hiện chủ trương của Đảng về củng cố, xây dựng đê điều
và các công trình phòng, chống lũ, ngày 31 tháng 7 năm 1999, Chính
phủ ban hành Nghị định số 62/1999/NĐ-CP về quy chế phân lũ,
chậm lũ thuộc hệ thống sông Hồng để bảo vệ an toàn cho Thủ đô
Hà Nội, hạn chế mức thấp nhất thiệt hại về tính mạng, tài sản của
1
Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về tình hình thiên tai và
công tác chỉ đạo phòng chống, khắc phục hậu quả năm 2002.
2
Thông báo số 164-TB/TW ngày 3/9/1998 của Thường vụ Bộ Chính trị về các
phương án xử lý tình huống khẩn cấp về lụt bão năm 1998, Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đảng toàn tập (tập 57, 1998), Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà
Nội, năm 2015, tr. 393.

332
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

nhân dân và Nhà nước. Nghị định số 62/1999/NĐ-CP xác định 05


nhiệm vụ quan trọng, gồm:
- Công tác hộ đê phải được tiến hành thường xuyên, được xác
định là nhiệm vụ và biện pháp cơ bản, quan trọng nhất để đảm
bảo chống được lũ ở mức thiết kế +13,40m tại Hà Nội và phấn đấu
chống được lũ cao hơn.
- Thực hiện phương án điều tiết hồ Hòa Bình và Thác Bà để cắt
và giảm lũ.
- Cần công bố báo động khẩn cấp về lũ lụt khi mức lũ ở Hà Nội
ở mức +13,10m.
- Thực hiện phương án phân lũ vào sông Đáy trong trường hợp
hồ Hòa Bình và Thác Bà sử dụng hết khả năng cắt lũ mà lũ tiếp tục
lên cao.
- Sử dụng các vùng chậm lũ khi lũ lớn, gồm: khu chậm lũ Tam
Thanh (tỉnh Phú Thọ), Lập Thạch (tỉnh Vĩnh Phúc) và Lương Phú,
Quảng Oai (Ba Vì, Hà Tây).
Nghị định số 62/1999/NĐ-CP đề ra các giải pháp trước mắt và
lâu dài đối với công tác đê điều, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai,
trong đó các biện pháp công trình trước mắt là tập trung hoàn thành
kế hoạch xây dựng và tu bổ đê điều trước mùa mưa lũ, đảm bảo đủ
số lượng, chủng loại vật tư dự trữ để kịp thời xử lý các sự cố đê điều.
Về lâu dài, tiến hành quy hoạch lại dân cư và cơ sở hạ tầng ở những
vùng ngập sâu, những vùng gây cản trở đến việc thoát lũ khi phải
phân lũ, chậm lũ; quy hoạch và xây dựng, cải tạo các công trình phân
lũ, chậm lũ; nghiên cứu việc xây dựng các hồ chứa nước để điều tiết
lũ kết hợp làm thuỷ điện trên thượng nguồn sông Đà và sông Lô1.
Thực hiện Công văn số 959/CP-NN của Chính phủ ngày 24
tháng 10 năm 2001 về việc giao cho Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn lập và phê duyệt Tiêu chuẩn phòng, chống lũ đồng
bằng sông Hồng để làm cơ sở xây dựng thuỷ điện Sơn La, Bộ Nông
1
Nghị định số 62/1999/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 1999 của Thủ tướng Chính
phủ về quy chế phân lũ, chậm lũ thuộc hệ thống sông Hồng để bảo vệ an toàn
cho Thủ đô Hà Nội.

333
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

nghiệp và Phát triển nông thôn đã phê duyệt tiêu chuẩn ngành
14TCN 122:2002 Tiêu chuẩn phòng, chống lũ Đồng bằng sông Hồng
tại Quyết định số 60/2002/QĐ-BNN ngày 5 tháng 7 năm 2002, trong
đó quy định mực nước thiết kế cho đê cấp đặc biệt tại Hà Nội là
+13,4m, các tuyến đê cấp I, II, III khác tương ứng với mực nước
+13,1m tại Hà Nội, +7,2m tại Phả Lại.
Cùng với việc ban hành Nghị định số 62/1999/NĐ-CP, Chính
phủ dành nguồn vốn quan trọng triển khai thực hiện các giải pháp
để bảo đảm các mục tiêu đề ra, trong đó có đầu tư vốn cho củng cố
một số tuyến đê, kè, cống ở Bắc Bộ. Đây là một chủ trương đúng
đắn, cần thiết để đảm bảo sự vững chắc cho các tuyến đê chống lại
lũ lụt, đặc biệt trong bối cảnh trên thượng nguồn các sông lớn ở Bắc
Bộ chưa xây dựng thêm được các hồ chứa làm nhiệm vụ cắt, giảm lũ
cho hạ du. Trong giai đoạn 1995 - 2000, Nhà nước đầu tư hằng năm
khoảng 160 tỷ đồng cho việc củng cố các tuyến đê sông.
Để đạt được mục tiêu chống lũ, ngành đê điều tập trung tu bổ
nâng cấp hệ thống đê sông, trọng tâm là nâng cao chất lượng, tăng
sức ổn định cho đê sông Hồng, đắp đủ cao trình chống tràn cho đê
sông Thái Bình, hạn chế xói lở bờ bằng kè hộ chân lát mái và kè chỉnh
trị; củng cố đê phân lũ sông Đáy đủ độ cao tương ứng với đê sông
Hồng; tu sửa một số cống bị hư hỏng, cứng hóa từng bước mặt đê1.
Từ năm 1995 đến năm 2005, ở Bắc Bộ đã triển khai ba dự án cải
tạo, nâng cấp đê và công trình phòng chống lũ lụt quan trọng, gồm:
Nâng cấp cải tạo đê hữu sông Hồng; cụm công trình Hát Môn - đập
Đáy; tiếp tục triển khai nâng cấp đê biển (PAM-5325).
Về cải tạo, nâng cấp tuyến đê hữu sông Hồng, từ năm 1996 đến
năm 2002, Chính phủ đã dành nguồn vốn vay của Ngân hàng Phát
triển Châu Á (ADB) 49 triệu USD để tiến hành nâng cấp 45km đê
hữu sông Hồng từ huyện Đan Phượng đến huyện Thanh Trì (Hà
Nội). Đây là tuyến đê cấp đặc biệt giữ vai trò quan trọng đảm bảo an
1
Báo cáo kế hoạch tu bổ đê điều từ năm 2001 đến 2005 (Tài liệu do Vụ Quản lý
đê điều cung cấp).

334
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

toàn cho Thủ đô Hà Nội và một phần các tỉnh Hà Nam, Nam Định
với tổng diện tích 235.500ha, trong đó có 155.320ha đất nông nghiệp1.
Qua dự án này, một số đoạn đê xung yếu đã được nâng cấp
kiên cố, như: 670m đê đoạn qua nội thành Hà Nội đã được xây
thành tường bê tông cốt thép có dạng hình chữ U; đoạn qua huyện
Đan Phượng, mái đê được gia cố bằng đá lát, kè chính được lát mái.
Sau khi được nâng cấp, đê hữu sông Hồng có thể chống được lũ
+13,60m ở Hà Nội, nền đê, thân đê được gia cố vững chắc, vừa tạo
điều kiện thuận lợi phát triển giao thông, đảm bảo an toàn cho phát
triển kinh tế và cuộc sống của người dân.
Cụm công trình Hát Môn - đập Đáy được cải tạo với nguồn
vốn đầu tư 530 tỷ đồng từ nguồn trái phiếu Chính phủ, trong đó có
hạng mục cải tạo xây dựng cống Cẩm Đình và Hiệp Thuận.
Trong năm 1997 và 1998, một số cống được xây dựng mới, như:
cống Nguyệt Lâm trên đê tả sông Hồng, thuộc địa phận xã Minh
Tân, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Cống có nhiệm vụ lấy nước
tưới, điều tiết phù sa cải tạo đất, phát triển giao thông2. Đặc biệt
từ đầu những năm 2000, việc nghiên cứu quy hoạch, xây dựng hệ
thống bậc thang hồ chứa thượng nguồn các sông lớn ở Bắc Bộ được
đẩy mạnh nhằm kết hợp thủy lợi với thủy điện, đồng thời cắt, giảm
lũ, bảo vệ đê điều, dân cư và các cơ sở kinh tế ở vùng hạ du.
Năm 2002, khởi công xây dựng thủy điện Tuyên Quang (trước
gọi là thủy điện Na Hang) trên sông Gâm, thuộc thị trấn Na Hang,
tỉnh Tuyên Quang. Công trình hoàn thành vào năm 2007 gồm hệ
thống đập, hồ chứa rộng hơn 8.000 ha, dung tích tham gia điều tiết
lũ 1 tỷ m3, 3 tổ máy phát điện với tổng công suất 342 MW. Tiếp đó,
năm 2005, thủy điện Sơn La được khởi công xây dựng trên sông Đà
và hoàn thành vào năm 2012. Đây là công trình thủy điện - thủy lợi
được đánh giá không chỉ lớn nhất Việt Nam mà còn là một trong
1
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Át lát công trình thủy lợi tiêu biểu ở
Việt Nam,…sđd, tr. 166
2
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Át lát công trình thủy lợi tiêu biểu ở
Việt Nam,…sđd, tr. 70.

335
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

những thủy điện lớn nhất ở khu vực Đông Nam Á. Diện tích hồ
chứa rộng 224km2, dung tích tham gia điều tiết lũ 4 tỷ m3, 6 tổ máy
phát điện với tổng công suất 2.400MW.
Hồ thủy điện Tuyên Quang và Sơn La là công trình đa mục
tiêu, giữ vai trò quan trọng trong điều tiết và cắt lũ cho hạ du, góp
phần quan trọng bảo vệ đê điều, cống dưới đê và kè chân đê. Từ khi
được đưa vào sử dụng, về cơ bản hai công trình này, cùng với các hồ
thủy điện khác, đã góp phần to lớn khống chế được các đợt lũ lớn
trên hệ thống sông Hồng.
Đối với đê biển ở Bắc Bộ, mục tiêu phấn đấu trong giai đoạn
này là toàn bộ hệ thống đê biển đảm bảo an toàn chống bão cấp 9
với triều cường tần suất 5%. Nhiệm vụ là nâng cao, mở rộng mắt cắt
ở những khu vực trọng điểm bảo vệ vùng kinh tế quan trọng. Tiến
hành thí điểm xây dựng một số đoạn đê bằng kết cấu, kĩ thuật mới,
tăng cường trồng cây chắn sóng1.
Khi chưa được PAM tài trợ, vì kinh phí hạn hẹp nên việc đầu tư
cho đê biển còn hạn chế, kinh phí chỉ đủ sửa chữa những đoạn đê
bị hư hỏng sau mỗi trận lũ bão. Việc tiến hành tu sửa chủ yếu chắp
vá không đồng bộ nên thường xuyên bị hư hỏng khi gặp lũ bão. Sau
khi được PAM tài trợ, toàn hộ hệ thống đê biển từ Quảng Ninh đến
Ninh Bình được nâng cấp với công nghệ và kĩ thuật mới kết hợp với
trồng cây chắn sóng2. Trong đó có dự án phục hồi, nâng cấp, gia cố
bằng kết cấu bê tông và lát khung đá hộc 13,6km đê biển ở huyện
Giao Thủy, tỉnh Nam Định (PAM-5325).
Ở Trung Bộ, trong năm 1996, 1997 và 1998, các tỉnh Trung Bộ
hứng chịu nhiều cơn bão, gây ngập lụt dài ngày, nhiều tuyến đê,
kè, cống gặp sự cố. Nhiệm vụ ở Trung Bộ là tập trung nâng cấp
các tuyến đê sông, đê biển, kè, cống để đảm bảo các tuyến đê sông
chống được lũ lịch sử.
1
Báo cáo kế hoạch tu bổ đê điều từ năm 2001 đến 2005 (Tài liệu do Vụ Quản lý
đê điều cung cấp).
2
Báo cáo kế hoạch tu bổ đê điều từ năm 2001 đến 2005 (Tài liệu do Vụ Quản lý
đê điều cung cấp).

336
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Đối với các tuyến đê sông, trong giai đoạn này đã nâng cấp
hoàn toàn tuyến đê sông La, đê 42 và một số đoạn xung yếu thuộc
đê sông Mã, sông Chu. Riêng đê sông La, trong quá trình thi công
áp trúc mái và đắp cơ đê phía sông tại vị trí Ngòi Bấn tương ứng km
19 đến K19 + 200 vào mùa khô năm 1997 – 1998, đã xảy ra lún, sạt
mái. Phần đất ở chân đê bị đẩy trồi ra bãi phía sông với khối lượng
lớn. Đây là sự cố đê mùa khô lớn, việc xử lý khá phức tạp.
Một số tuyến kè chống xói lở chân đê, bờ sông ở Trung Bộ được
cải tạo và nâng cấp. Ở Bắc Trung Bộ, tiến hành cải tạo, nâng cấp kè
chống xói lở bờ sông Chu, sông Mã, sông Lam. Ở Trung Trung Bộ
và Nam Trung Bộ, cải tạo một số kè, như: kè Bắc Mỹ An (Đà Nẵng),
kè Trà My và kè thị xã Hội An (Quảng Nam), kè Bến Kiển (Quảng
Ngãi), kè sông Cái Nha Trang (Khánh Hòa),…1.
Về đê, kè biển Trung Bộ, nhiệm vụ của đê biển chủ yếu là ngăn
mặn phục vụ sản xuất, đồng thời cho phép lũ tràn qua nên mục tiêu
chính là tu sửa, nâng cấp, đắp cao trình hợp lý, giữ ổn định mái đê,
mở rộng các công trình tràn để tiêu thoát nước.
Trong giai đoạn 1996-1999, dự án nâng cấp đê biển PAM 4617
thuộc địa bàn 7 tỉnh từ Thanh Hóa đến Quảng Nam tiếp tục được
triển khai với kinh phí 93 tỷ đồng. Chỉ tính riêng khối lượng đào
đắp nâng cấp đê biển ở Trung Bộ thuộc dự án PAM 4617 trong 4
năm 1996 - 1999 đạt 1,7 triệu m3 đất, kè 253 nghìn m3 đá, đổ 32 nghìn
m3 bê tông làm kè và cống2.
Ở Trung Bộ, nhiều hệ thống cống, đập ngăn mặn, giữ ngọt cũng
được cải tạo, xây mới bổ sung, như: cống Lộc Động (Thanh Hoá), cống
Nghi Quang (Nghệ An), cống Đò Điểm (Hà Tĩnh), cống Mỹ Trung
(Quảng Bình), cống Việt Yên (Quảng Trị), Thảo Long (Thừa Thiên
Huế), Duy Thành (Quảng Nam). Nhiều hồ chứa được cải tạo, nâng cấp
1
Báo cáo kế hoạch tu bổ đê điều từ năm 2001 đến 2005 (Tài liệu do Vụ Quản lý
đê điều cung cấp).
2
Báo cáo kế hoạch tu bổ đê điều từ năm 2001 đến 2005 (Tài liệu do Vụ Quản lý
đê điều cung cấp).

337
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

và xây dựng mới, lớn nhất là hồ Cửa Đạt (Thanh Hoá) và hồ Tả Trạch
(Thừa Thiên Huế). Hồ Cửa Đạt được xây dựng trên thượng nguồn
sông Chu, khởi công năm 2004, cung cấp nước tưới 87.000 ha, phát
điện, công trình còn có vai trò quan trọng cắt, giảm lũ và đuổi mặn cho
hạ du. Hồ Tả Trạch (Thừa Thiên Huế) khởi công năm 2005, với tổng
vốn đầu tư hơn 4 nghìn tỷ đồng. Công trình có nhiệm vụ cung cấp
nước tưới, phát điện và điều tiết, cắt giảm lũ cho sông Hương.

4. Quy hoạch kiểm soát lũ, xây dựng và củng cố hệ thống đê bao, bờ bao, đê biển
ở Nam Bộ
Trước thực trạng lũ lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long ngày càng
phức tạp, để khai thác hết mọi tiềm năng, thế mạnh cho phát triển
kinh tế - xã hội, giảm thiểu thiệt hại do lũ lụt gây ra, bảo vệ cuộc
sống và tài sản của nhân dân trong vùng ngập lũ, ngành thủy lợi
đã chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước và chính quyền địa
phương đề xuất các giải pháp quy hoạch phòng chống lũ ở Đồng
bằng sông Cửu Long.
Từ cuối năm 1994, Chính phủ chỉ đạo và giao cho Bộ Thủy lợi
phối hợp với các ngành, địa phương xây dựng đồ án phòng chống
lũ lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long. Bộ Thủy lợi chỉ đạo các cơ quan
chuyên môn, trực tiếp là Phân viện Khảo sát Quy hoạch Thủy lợi
Nam Bộ, phối hợp với các địa phương nghiên cứu các phương án về
định hướng quy hoạch lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Việc quy hoạch các phương án kiểm soát lũ được xem xét theo
đặc điểm từng vùng và theo giai đoạn ngắn hạn và trung hạn. Trước
mắt, đối với vùng ngập sâu, nhiệm vụ và mục tiêu là cần chống
ngập lũ ở mức năm 1961 cho các thị trấn huyện, trụ sở xã, các trường
học, bệnh viện, phòng khám, trạm xá, bảo vệ, ổn định cuộc sống
của 6 triệu dân trong vùng. Tiến hành tu bổ, nâng cao và làm mới
nền các tuyến đường cấp I, II để đảm bảo chống được lũ mức năm
1961. Đầu tư xây dựng hệ thống đê bao và cống quan trọng ở đầu
và cuối các kênh trục, kênh cấp I để ngăn lũ, ngăn mặn và quản lý
nước vào mùa khô.
338
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Biện pháp kiểm soát lũ trung hạn đối với vùng ngập nông, mục
tiêu là từng bước kiểm soát cả năm bằng các biện pháp công trình:
xây dựng các tuyến đê bao phù hợp cho từng khu, từ đê bao nhỏ
đến đê bao vừa; nạo vét, mở rộng một số tuyến kênh để thoát lũ vừa
bảo vệ sản xuất, vừa đảm bảo cho an toàn của các tuyến đê bao. Ở
các kênh cấp I, đầu tư xây dựng các cống cần thiết để ngăn lũ, tiêu
nước, ngăn mặn và ngăn triều1.
Đầu năm 1996, trên cơ sở kế hoạch phát triển thủy lợi ở Đồng
bằng sông Cửu Long do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
đề xuất, Chính phủ cho triệu tập hội nghị bàn về kế hoạch phát
triển thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long. Hội nghị diễn ra tại
thành phố Hồ Chí Minh, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Võ Văn
Kiệt. Ngày 09 tháng 02 năm 1996, trên cơ sở kế hoạch đề xuất của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ý kiến đóng góp của các
chuyên gia thủy lợi và chính quyền địa phương, Chính phủ ban
hành Quyết định số 99-TTg về phát triển thủy lợi, giao thông và
xây dựng nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn
1996 - 2000 và dài hạn.
Quyết định số 99-TTg xác định, tập trung nguồn lực giải
quyết hai vấn đề lớn: sử dụng và khai thác triệt để, hợp lý nguồn
nước sông Mê Kông, hạn chế tối đa tác hại do lũ gây ra. Mục
tiêu cụ thể là từng bước hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi gồm: công
trình tưới, tiêu, ngăn mặn, thau chua rửa phèn, kiểm soát lũ, đảm
bảo nước tưới cho 2 triệu ha, tăng thêm diện tích canh tác lên
700.000ha, ổn định cuộc sống cho 10 triệu dân. Quyết định đưa
ra 3 chương trình thủy lợi trọng điểm gồm Đồng Tháp Mười, Tứ
giác Long Xuyên và Tây sông Hậu nhằm mở rộng diện tích canh
tác, tăng vụ; hoàn thành chương trình ngọt hóa bán đảo Cà Mau,
Gò Công, Nam Măng Thít.
1
Tờ trình số 1122 ngày 05 tháng 7 năm 1995 của Bộ Thủy lợi gửi Thủ tướng
Chính phủ xin duyệt định hướng quy hoạch lũ Đồng bằng sông Cửu Long (Tài
liệu do ông Nguyễn Cảnh Dinh cung cấp).

339
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Đối với các vùng bị ngập lụt, thực hiện các biện pháp phòng
tránh lũ, thích nghi với lũ trong vùng ngập sâu (trên 1m). Từng
bước tiến tới kiểm soát lũ cả năm ở vùng ngập nông (dưới 1m).
Ở vùng ngập nông và các vùng quy hoạch tập trung dân cư, giải
pháp đắp bờ bao được xác định là biện pháp quan trọng để ngăn lũ,
chống lũ nhằm phát triển sản xuất và bảo vệ dân cư1.
Sau bão Linda (tháng 11 năm 1997), cùng với những biện
pháp khắc phục hậu quả trước mắt, Chính phủ tăng đầu tư
ngân sách đồng thời tăng cường chỉ đạo các cơ quan chuyên
môn và chính quyền địa phương đẩy mạnh nghiên cứu quy
hoạch, xây dựng hệ thống đê sông, đê biển, kè bờ biển, bờ bao
chống lũ và các công trình phòng chống lũ, lụt ở các tỉnh Đồng
bằng sông Cửu Long.
Năm 1998, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoàn
thành và trình Chính phủ Chương trình quy hoạch kiểm soát lũ ở
Đồng bằng sông Cửu Long. Ngày 21 tháng 6 năm 1999, Chính phủ
ban hành Quyết định số 144/1999/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch về
kiểm soát lũ và sử dụng nước lũ vùng Đồng bằng sông Cửu Long
giai đoạn 1999 - 2010.
Chương trình quy hoạch kiểm soát lũ ở Đồng bằng sông Cửu
Long đề ra mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Trước mắt,
đến năm 2010, cần nghiên cứu các giải pháp và đề xuất xây dựng
các công trình cần thiết, cấp bách, hiệu quả nhằm kiểm soát lũ để
bảo vệ tính mạng, tài sản, cải thiện đời sống nhân dân, tạo cơ sở
cho sự phát triển bền vững. Về lâu dài, cần hạn chế tối đa những
thiệt hại do lũ gây ra, tận dụng được mặt lợi của lũ nhằm khai
thác tài nguyên nước bền vững cho phát triển kinh tế - xã hội ở
Đồng bằng sông Cửu Long. Tư tưởng chủ đạo mang tính chiến
lược trong quy hoạch lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long là: “sống
1
Quyết định số 99-TTg ngày 09 tháng 02 năm 1996 về định hướng dài hạn và
kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 đối với phát triển thủy lợi, giao thông và xây dựng
nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

340
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

chung với lũ nhưng phải có hệ thống công trình kiểm soát lũ để


hạn chế tối đa các thiệt hại do lũ gây ra, đồng thời tận dụng tối đa
các mặt lợi do lũ mang lại”1.
Một trong những giải pháp quan trọng để chống lũ là đắp đê
bảo vệ vùng châu thổ sông Cửu Long. Mục tiêu trước mắt là chống
lũ cho vùng ngập nông, kiểm soát lũ có mức độ ở vùng ngập sâu,
kiểm soát lũ cả năm cho các đô thị, khu dân cư, cơ sở hạ tầng và
đường giao thông huyết mạch.
Đối với vùng Tứ Giác Long Xuyên: Xây dựng hệ thống công trình
kiểm soát lũ, quan trọng nhất là tuyến đê ngăn lũ tràn biên giới và
các công trình kiểm soát lũ vào vùng Tứ giác Long Xuyên. Tăng
cường khả năng thoát lũ bằng việc nạo vét, mở rộng kênh Vĩnh Tế
và kênh Trà Sư - Tri Tôn. Xây dựng hệ thống công trình ngăn mặn,
giữ ngọt, cấp nước ven biển Tây. Xây dựng các tuyến đê và các cống
thoát lũ, ngăn mặn ở ven biển Tây. Trong nội đồng, xây dựng hệ
thống bờ bao kiểm soát lũ, cống bọng để bảo vệ lúa Hè Thu, tiến
hành bơm vợi để làm vụ Đông Xuân.
Ở vùng Đồng Tháp Mười: Xây dựng hệ thống kiểm soát lũ tràn
biên giới Tân Thành - Lò Gạch để hạn chế tối đa lũ tràn biên giới
vào. Cải tạo và xây dựng hệ thống công trình thoát lũ ra sông Tiền
và sông Vàm Cỏ.
Đối với vùng Tây sông Hậu: Thực hiện việc kiểm soát lũ cả năm
để phát triển sản xuất ở mức độ cao bằng việc xây dựng hệ thống
công trình kiểm soát lũ dọc bờ nam kênh Cái Sắn để ngăn lũ từ
vùng Tứ giác Long Xuyên xuống. Xây dựng hệ thống đê bao chống
lũ theo ô nhỏ ở vùng Cái Sắn, Cần Thơ - Long Mỹ,…Bên cạnh đó,
tiến hành cải tạo các kênh thoát lũ và xây dựng hệ thống công trình
ngăn mặn, giữ ngọt ven sông Cái Lớn.
Ở vùng giữa sông Tiền và sông Hậu: Thực hiện việc kiểm soát lũ
cả năm cho vùng giữa sông Tiền và sông Hậu, trừ khu vực phía Bắc
1
Trần Như Hối, Đê bao vùng ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Nông nghiệp,
TP Hồ Chí Minh, 2005, tr.20.

341
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

kênh Vĩnh An. Xây dựng hệ thống công trình kiểm soát lũ, lấy phù
sa kết hợp với cấp nước và cải tạo đồng ruộng1.
Như vậy, theo quy hoạch năm 1999, ở Đồng bằng sông Cửu
Long hình thành 3 vùng kiểm soát lũ với mức độ khác nhau: Vùng
không kiểm soát lũ ở phía bắc tuyến kiểm soát lũ tràn biên giới với
diện tích 117.800 ha. Vùng kiểm soát lũ theo thời gian có diện tích
859.000 ha, bao gồm: vùng từ bờ nam tuyến kiểm soát lũ Tân Thành
- Lò Gạch đến kênh Nguyễn Văn Tiếp, kênh Bo Bo - Mỹ Bình thuộc
Đồng Tháp Mười; vùng từ bờ nam tuyến kiểm soát lũ tràn biên giới
đến kênh Cái Sắn thuộc Tứ giác Long Xuyên. Vùng kiểm soát lũ cả
năm là phần còn lại của vùng ngập lũ với diện tích 938.490 ha2.
Quy hoạch kiểm soát lũ Đồng bằng sông Cửu Long từ năm
1999 thể hiện sự thay đổi, bước phát triển mới về nhận thức, tư duy
về phòng chống lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long theo quan điểm
sống chung với lũ, tận dụng triệt để cái lợi của lũ mang lại, hạn chế
tối đa cái hại của lũ gây ra.
Cùng với quy hoạch, từ năm 1996 đến 2005, Nhà nước đã đầu tư
7.261 tỷ đồng từ ngân sách, bố trí 2.133 tỷ đồng từ nguồn vốn vay của
Ngân hàng Thế giới cho xây dựng đê bao, bờ bao, phát triển thủy lợi
ở Đồng bằng sông Cửu Long. Các địa phương cũng huy động được
3.371 tỷ đồng. Ngoài ra, trong năm 1996 - 1997, Chính phủ duyệt chi
cho người dân Đồng bằng sông Cửu Long vay 1.280 tỷ đồng, trung
bình mỗi hộ từ 4 đến 5 triệu, để tôn cao nền nhà chống lũ.
Trên cơ sở quy hoạch, từ năm 1996 đến 2005, việc xây dựng,
củng cố các tuyến kiểm soát lũ theo vùng lớn gồm đê bao, cống, đập
và bờ bao nội đồng được triển khai mạnh mẽ hơn.
Về các tuyến kiểm soát lũ cho các vùng lớn đã hoàn thành ở mức độ
khác nhau, gồm sáu tuyến đê chính:
1
Quyết định số 144/1999/QĐ-TTg ngày 21 tháng 6 năm 1999 phê duyệt quy
hoạch về kiểm soát lũ và sử dụng nước lũ vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai
đoạn 1999 - 2010.
2
Trần Như Hối, Đê bao vùng ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long,…sđd, tr.23-24.

342
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

- Tuyến kiểm soát lũ tràn biên giới vào vùng Tứ giác Long Xuyên
hoàn thành vào năm 2000, gồm tuyến đê và hệ thống cống, đập,
quan trọng nhất là đập cao su Trà Sư và Tha La. Sau khi được hoàn
thành, tuyến đê kiểm soát lũ này đóng vai trò quan trọng ngăn lũ
sớm và lũ muộn. Vào giữa mùa lũ, hệ thống kiểm soát lũ được mở
ra để tiêu lũ và tránh dâng mức lũ vùng biên giới.
- Tuyến đê kiểm soát lũ Tân Thành - Lò Gạch có nhiệm vụ
kiểm soát lũ tràn biên giới vào Đồng Tháp Mười. Tuyến đê này
được hình thành từ trước đó, trong giai đoạn 1996 - 2005 được
củng cố đủ cao trình và bề rộng theo quy hoạch. Tuy nhiên, đoạn
từ cầu Cái Cái đến kênh Hai Tám chưa đủ cao trình và bề rộng,
nhiều cống dưới đê chưa được xây dựng nên hiệu quả kiểm soát
lũ chưa cao.
- Tuyến vượt lũ nam kênh Vĩnh An, từ Tân Châu đến Châu Đốc
và bờ nam kênh Tân Châu - Châu Đốc được tôn cao để kiểm soát lũ
tràn biên giới. Trong khu vực giữa kênh Vĩnh An và kênh Tân Châu
- Châu Đốc, việc đắp hệ thống đê bao khép kín được hoàn thành để
kiểm soát lũ cả năm.
- Tuyến đê dọc sông Tiền và sông Hậu trùng với các trục giao
thông có từ trước được tôn cao đủ cao trình vượt lũ. Riêng chỉ có
tuyến đê tả sông Hậu có một số đoạn chưa đủ cao trình vượt lũ.
- Tuyến kiểm soát lũ tràn từ vùng Tứ giác Long Xuyên vào vùng
Tây sông Hậu trùng với quốc lộ 80 đã được tôn cao vượt lũ. Tuy nhiên,
các công trình kiểm soát lũ, hệ thống cống trong tuyến này chưa được
nâng cấp, cải tạo, xây mới nên chưa mang lại hiệu quả trong thực tế.
- Tuyến kiểm soát lũ bờ nam kênh Nguyễn Văn Tiếp cũng
được tôn cao kết hợp giữa phát triển giao thông và kiểm soát lũ.
Ngoài 6 tuyến đê chính kể trên còn một số tuyến khác cũng được
cải tạo, tôn cao, như: đê bờ nam kênh Hồng Ngự, đê kênh Đồng
Tiến - Lagrange; các tuyến đê đồng thời là quốc lộ 62, 63, 80 đều
được tôn cao vượt lũ1.
1
Trần Như Hối, Đê bao vùng ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long,…sđd, tr.34-35.

343
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Về hệ thống đê bao, bờ bao kiểm soát lũ nội đồng:


Đê bao, bờ bao kiểm soát lũ nội đồng còn được gọi là đê bao
chống lũ tháng 8, đê bao lửng hay đê bao bảo vệ lúa Hè Thu. Trong
một số vùng ở đồng bằng sông Cửu Long, khi chuyển lúa một vụ
dài ngày năng suất thấp thành hai vụ Đông Xuân và Hè Thu có
năng suất cao thì vụ Hè Thu gặp phải lũ tháng 8 và ảnh hưởng tới
tiến độ gieo cấy lúa Đông Xuân, vì vào tháng 12 lũ chưa rút hết.
Chính vì thế, việc đắp đê bao, bờ bao lửng đóng vai trò quan trọng
trong việc chống lũ tháng 8 để bảo vệ lúa Hè Thu và dùng bơm vợi
để kịp gieo cấy lúa Đông Xuân.
Trong vùng không kiểm soát lũ (phía bắc tuyến kiểm soát lũ tràn
biên giới) gồm các tiểu vùng: Bắc kênh Vĩnh Tế - rạch Giang Thành;
Bắc kênh Vĩnh An và tiểu vùng Bắc kênh Tân Thành - Lò Gạch. Theo
quy hoạch, trong vùng này không kiểm soát lũ mà thực hiện né tránh
lũ là chủ yếu. Chính vì thế, hệ thống ô bao, bờ bao được xây dựng có
chiều cao thấp, khoảng 1m và quy mô nhỏ từ 50 đến 500ha nhằm bảo
vệ lúa Hè Thu. Tuy nhiên, trong thực tế, trong tiểu vùng Bắc kênh
Vĩnh An, một số khu vực nhỏ đã tiến hành đắp đê bao, bờ bao kiểm
soát lũ cả năm, như phần phía đông kênh Năm Xã.
Trong vùng kiểm soát lũ theo thời gian, gồm Tứ giác Long
Xuyên; vùng phía nam kênh Tân Thành - Lò Gạch và bắc kênh
Nguyễn Văn Tiếp. Trong vùng Tứ giác Long Xuyên, bờ bao kiểm
soát lũ được xây dựng theo hệ thống kênh cấp I và cấp II, kiểm soát
lũ tháng 8 bảo vệ lúa Hè Thu và phục vụ nuôi trồng thủy sản. Quy
mô và cao trình các tuyến đê bao, bờ bao nội đồng trong vùng này
lớn hơn so với vùng không kiểm soát lũ, thường có độ cao từ 2m
đến 3 m, mỗi ô bao có quy mô từ 500 đến 1.500ha.
Đến năm 2005, 80% diện tích vùng Tứ giác Long Xuyên và
Đồng Tháp Mười đã có đê bao kiểm soát lũ, đặc biệt một số địa
phương đã xây dựng được hệ thống đê bao, bờ bao kiểm soát lũ cả
năm và sản xuất được 3 vụ, như huyện Tháp Mười, Tân Hồng. Tiêu
biểu nhất trong giai đoạn này là hai dự án đắp đê ngăn lũ triệt để
bảo vệ vùng dân cư, đảm bảo an sinh cho người dân, gồm: đắp đê
344
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

bao thị trấn Sa Rài (huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp) và đê bao thị
trấn Vĩnh Hưng (huyện Tân Hồng, tỉnh Long An).
Trong vùng kiểm soát lũ cả năm, gồm: Tây sông Hậu, giữa sông
Tiền và sông Hậu, nam kênh Nguyễn Văn Tiếp và đông kênh Bo
Bo - Mỹ Bình:
- Ở vùng Tây sông Hậu đê bao có quy mô bảo vệ từ 50 đến 3.000
ha, được xây dựng theo kênh cấp II và cấp III để chống lũ tháng 8
bảo vệ lúa Hè Thu, cây ăn trái và phục vụ nuôi thủy sản, lớn nhất là
3 khu đê bao Cái Sắn - Thốt Nốt, Thốt Nốt - Ô Môn và Ô Môn - Xà
No. Tuy nhiên, đến năm 2005, hệ thống đê bao trong vùng Tây sông
Hậu chưa được xây dựng khép kín, chất lượng còn kém, thiếu hệ
thống cống bọng, hiệu quả kiểm soát lũ còn kém.
- Ở vùng giữa sông Tiền và sông Hậu đã hình hành hệ thống đê
bao khép kín kiểm soát lũ cả năm phần lớn diện tích. Quy mô các ô
bao trong vùng này tương đối nhỏ, từ 30 đến 1.000 ha. Điều này gây
nhiều khó khăn cho quản lý và khai thác, đặc biệt là vấn đề kiên cố
hóa và kết hợp phát triển giao thông. Hệ thống cống bọng còn thiếu
gây khó khăn cho tiêu, thoát lũ, lấy phù sa và vệ sinh đồng ruộng.
- Ở vùng phía nam kênh Nguyễn Văn Tiếp và phía đông kênh
Bo Bo - Mỹ Bình, quy mô các ô đê bao, bờ bao phần lớn dưới 1.000
ha, mặc dù theo quy hoạch là từ 1.000 đến 5.000 ha. Ngoài các tuyến
đê bao, nhiều cống mới được xây dựng, như cống Bảo Định, Gò Cát,
Hóc Lựu có chứ năng vừa thoát lũ, ngăn mặn và ngọt hóa1.
Cho đến năm 2005, hệ thống đê bao trong vùng không kiểm
soát lũ và kiểm soát lũ theo thời gian ở Đồng bằng sông Cửu Long
dài khoảng 10.000km, trong đó 1.900km đê bao dọc theo kênh trục
và kênh cấp I, 8.000km đê bao dọc theo kênh cấp II và cấp III. Các
tuyến đê bao kênh trục và kênh cấp I được hình thành chủ yếu
trong quá trình đào, nạo vét kênh từ những năm 80 của thế kỷ XX
và được tu bổ, tôn cao hằng năm2.
1
Trần Như Hối, Đê bao vùng ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long,…sđd, tr.34-37.
2
Trần Như Hối, Đê bao vùng ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long,…sđd, tr.38.

345
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Việc quy hoạch và phát triển mạnh mẽ hệ thống đê bao, bờ bao


đã góp phần quan trọng và mang lại hiệu quả cao trong việc kiểm
soát lũ, bảo vệ các tuyến dân cư, khu đô thị, phát triển giao thông,
mở rộng diện tích canh tác, tăng vụ, tăng năng suất và sản lượng
cây trồng. Nhiều vùng đã sản xuất được 2 hoặc 3 vụ, sản lượng lúa
vùng ngập lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long tăng từ 2,4 triệu tấn năm
1976 lên 12,6 triệu tấn năm 2003. Có thể đánh giá rằng, đê bao, bờ
bao ở đồng bằng sông Cửu Long là kết quả đúc kết từ thực tiễn,
sáng kiến của người dân Nam Bộ, của cán bộ địa phương và của các
nhà quản lý, làm quy hoạch đê điều, thủy lợi Việt Nam.

Về đê biển, sau trận lũ lịch sử do bão Linda gây ra, Chính phủ
quyết định đầu tư xây dựng tuyến đê biển An Minh - An Biên thuộc
tỉnh Kiên Giang, có nhiệm vụ ngăn mặn, bảo vệ dân cư và phát triển
sản xuất. Tuyến đê biển này dài hơn 67km, được đắp chủ yếu bằng
đất, rải đá trên mặt đê. Một số tuyến đê biển ở các tỉnh Cà Mau, Sóc
Trăng, Bến Tre cũng được triển khai xây dựng. Chỉ tính riêng đào đắp
nâng cấp đê biển, đê cửa sông ở Đồng bằng sông Cửu Long trong hai
năm 1999 - 2000, Trung ương đã đầu tư 270 tỷ đồng, khối lượng đào
đắp đạt 13,4 triệu m3 đất, 26.000m3 đá, đổ 10.100m3 bê tông1.

Mặc dù có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng đến năm 2005, hệ
thống đê bao, bờ bao, đê biển ở Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng
và Nam Bộ nói chung còn nhiều hạn chế và tồn tại:
- Các tuyến đê kiểm soát lũ cho các vùng lớn chất lượng kém,
nhiều đoạn chưa đạt cao trình vượt lũ, đây là một trong những nguyên
nhân dẫn tới tình trạng sạt lở và hư hỏng. Quy mô đê bao, bờ bao nội
đồng chủ yếu là nhỏ. Trong một số vùng, việc xây dựng đê bao do nhân
dân làm tự phát không theo quy hoạch, như ở Châu Thành, Thoại Sơn
(An Giang), Thân Thạnh (Long An), Tháp Mười (Đồng Tháp Mười),…
gây nhiều hệ quả tai hại, như cản trở dòng chảy, tăng xói mòn dẫn tới
1
Báo cáo kế hoạch tu bổ đê điều từ năm 2001 đến 2005 (Tài liệu do Vụ Quản lý
đê điều cung cấp).

346
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

sạt lở bờ kênh, bờ sông1. Hệ thống đê bao, bờ bao chưa được đồng bộ,
thiếu cống bọng, quản lý vận hành lại chưa tốt nên hiệu quả kiểm soát
lũ còn thấp2. Những khó khăn và thiệt hại do lũ lụt gây ra đối với sản
xuất và đời sống người dân còn lớn.
Năm 2000, một phần do lũ cao, một phần do các công trình
điều tiết, tiêu và thoát lũ không phát huy được hiệu quả nên nhiều
tuyến đê bị tràn và vỡ. Ở khu vực Đồng Tháp Mười, tuyến đê ngăn
lũ Tân Thành - Lò Gạch bị vỡ nhiều nơi, nhiều cầu bị trôi. Đê vỡ, lũ
tràn vào nội đồng, khi lũ lên đỉnh hệ thống bờ bao, cả bờ bao bảo vệ
một số khu trồng cây ăn quả bị vỡ hàng loạt gây thiệt hại vô cùng
lớn: “Trận lũ năm 2000 là một sự kiểm định nghiệt ngã những gì đã
làm để đối phó với lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long”3.
Nguyên nhân vỡ đê ngăn lũ Tân Thành - Lò Gạch được chỉ ra
là tuyến đê này chưa kiên cố, chưa có cống điều tiết lũ đầu vụ và
kiểm soát lũ chính vụ, trong khi nước lũ tràn vào Đồng Tháp Mười
quá lớn so với dự kiến. Việc xây dựng đê bao chưa đúng quy hoạch
khiến lũ không thoát được mà bị giữ lại. Khi hệ thống đê bao không
chịu được lũ và bị vỡ đã làm tăng lưu lượng lũ đối với vùng thấp và
trũng, gây hậu quả trầm trọng.
Trận lũ năm 2000 khiến nhiều vùng ở Đồng bằng sông Cửu Long
bị ngập sâu dài ngày, gây tổn thất lớn về người và của: 434 người
chết trong đó có 300 trẻ em, 60.000ha lúa bị mất trắng, 170.000ha bị
giảm năng suất, nhiều cơ quan, trường học và nhà dân bị ngập và
hư hỏng. Thiệt hại do lũ gây ra ước tính khoảng 3.500 tỷ đồng 4.
- Về đê biển, tính đến năm 2007, toàn bộ Đồng bằng sông Cửu
Long có gần 1.400km, trong đó đê trực tiếp với biển dài 620km,
1
Trần Như Hối, Đê bao vùng ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long,…sđd, tr.42.
2
Trần Như Hối, Lê Khánh Chiên, Một số nhận xét về hệ thống đê bao, bờ bao
kiểm soát lũ ở vùng ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long, in trong, Tuyển tập kết
quả khoa học và công nghệ năm 2008, tr.109.
3
Phan Khánh (Cb), Lịch sử thủy lợi Việt Nam, sđd,…tr.458.
4
Phan Khánh (Cb), Lịch sử thủy lợi Việt Nam, sđd,…tr.457.

347
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

cùng các hệ thống kè, cống ngăn mặn1. Các tuyến đê biển, đê cửa
sông còn thấp, chủ yếu được đắp bằng đất nên nguy cơ sạt lở luôn
thường trực. Trên thực tế, các tuyến đê biển Đông chỉ có cao trình
+(3.5 - 4)m, đê biển Tây cao trình còn thấp hơn, khoảng +(2,5 - 3)
m, khó có khả năng đảm bảo chống được bão lớn, đặc biệt là triều
cường và nước biển dâng.
Tựu chung trong giai đoạn 1996 - 2005, công tác xây dựng, quản
lý, bảo vệ đê điều, phòng chống lũ lụt và giảm nhẹ thiên tai đạt được
nhiều kết quả quan trọng: đê sông được củng cố vững chắc, không
có sự cố vỡ đê lớn nào xảy ra. Đê sông ở Bắc Bộ đã có cao độ đỉnh đủ
khả năng chống tràn theo mức thiết kế. Ở Trung Bộ đã hình thành
một hệ thống đê biển và đê sông với tổng chiều dài 1.464km (số liệu
năm 2000). Đê sông Chu, sông Lèn, sông Lạch Trường, sông Mã,
sông Lam và sông La về cơ bản đủ chiều cao chống lũ lịch sử. Hệ
thống đê bao, bờ bao ở Đồng bằng sông Cửu Long hình thành rộng
khắp. Đê biển, đê cửa sông ven biển được định hình thành tuyến
từ Quảng Ninh tới Cà Mau, Kiên Giang, trong đó một số đoạn đã
được đắp, kè kiên cố2.
Những thành tựu trong công tác đê điều, phòng chống lụt bão
đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của đất nước,
bảo vệ an toàn cho cuộc sống của nhân dân, giảm thiểu thiệt hại do
thiên tai, bão, lụt gây ra.
Tuy nhiên, một số tuyến đê sông và hầu hết các tuyến đê biển
vẫn còn tồn tại những hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội và ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu
ngày càng phức tạp và khó lường:
- Về đê sông: Đê hệ thống sông Hồng còn gần 200km đê chưa
đảm bảo yêu cầu thiết kế, tập trung chủ yếu ở vùng cửa sông thuộc
1
Nguyễn Ty Niên, Hệ thống đê biển và việc đối phó với nước biển dâng (http://
www.vncold.vn).
2
Báo cáo kế hoạch tu bổ đê điều từ năm 2001 đến 2005 (Tài liệu do Vụ Quản lý
đê điều cung cấp).

348
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

hai tỉnh Thái Bình và Nam Định; mặt đê nhiều đoạn chưa được rải
cấp phối và bê tông hoá, nhiều đoạn đê sát sông và có chiều cao tới
trên 5m nhưng chưa có cơ, mái đê dốc. Đê thuộc hệ thống sông Thái
Bình còn khoảng 180km đê chưa đủ mặt cắt thiết kế (tập trung đê
vùng cửa sông), nhiều đoạn chưa có cơ, mặt đê chưa dải cấp phối,
có đoạn đê còn phải đắp con trạch chống tràn; nền đê nhiều nơi đê
đắp trên nền mềm yếu, lòng sông cổ và cát chảy, nhiều đầm ao ven
đê chưa được san lấp.

Ở Trung Bộ, đê thuộc hai hệ thống sông Mã và sông Cả có khoảng


31km đê thấp so với thiết kế, khoảng 164km có mặt cắt đê nhỏ, mái
dốc chưa có cơ, thân đê còn nhiều khuyết tật, nền đê nhiều đoạn là
nền cát hoặc bùn; lòng sông có độ dốc lớn và diễn biến rất phức tạp,
nhiều đoạn đê sát sông, các hệ thống sông này đều có cường xuất lũ
rất cao, lũ lên nhanh và xuống nhanh là yếu tố bất lợi đối với đê điều.1
Các cửa sông thường bị bồi tụ gây ảnh hưởng tới thoát lũ2.

- Về đê, kè biển: Hệ thống đê biển ở nhiều khu vực vẫn xảy ra


xói lở nghiêm trọng, hệ thống kè biển chưa đảm bảo. Tình trạng xói
lở kè biển, biển xâm thực vẫn xảy ra, đặc biệt là một số sự cố vỡ đê
biển trầm trọng, như sự cố sạt lở, vỡ đê biển Tây thuộc địa phận Cà
Mau, Kiên Giang năm 1997 và sự cố vỡ đê, kè biển ở Hải Hậu (Nam
Định) vào năm 2005 do bão số 7 gây ra. Ở Đồng bằng sông Cửu
Long, đê ven biển và đê cửa sông mới hình thành được khoảng 30%
chiều dài đê theo quy hoạch. Nền đê còn rất yếu, cống dưới đê còn
thiếu, nên chưa đảm bảo tiêu úng, chưa phát huy được khả năng và
hiệu quả ngăn mặn, giữ ngọt3.

Báo cáo của Cục Quản lý đê điều và Phòng chống lụt bão về Chương trình nâng cấp
1

đê sông
2
Báo cáo kế hoạch tu bổ đê điều từ năm 2001 đến 2005 (Cục Quản lý đê điều và
Phòng chống lụt bão).
3
Báo cáo kế hoạch tu bổ đê điều từ năm 2001 đến 2005 (Cục Quản lý đê điều và
Phòng chống lụt bão).

349
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

II. ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG THIÊN TAI TRONG GIAI ĐOẠN TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ
VÀ ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU (2006-2020)

1. Tình hình đất nước và chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với đê điều, phòng
chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng
Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất của
nhân loại trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI, trong đó đặc
biệt là sự nóng lên của trái đất, tình trạng nước biển dâng và các
hiện tượng khí hậu cực đoan khác: bão, lũ, lụt, hạn hán, xâm nhập
mặn. Đây là mối lo của tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là
Việt Nam.
Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, biến đổi khí hậu có thể
làm giảm sản lượng lương thực từ 2 đến 4%, đe dọa tới an ninh
lương thực, ảnh hưởng tới khoảng 50% dân số thế giới. Theo kịch
bản dự báo của Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố năm 2003
về biến đổi khí hậu ở Việt Nam: nếu nhiệt độ tăng lên 30C và nước
biển dâng lên 1m vào năm 2100, thì khoảng 40.000km2 thuộc các
tỉnh ven biển của Việt Nam sẽ bị ngập, vùng Đồng bằng sông Cửu
Long sẽ bị ngập gần như hoàn toàn. Theo đánh giá của Ngân hàng
Thế giới năm 2007, Việt Nam sẽ là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng
nề nhất của biến đổi khí hậu. Nếu nước biển dâng 1m, GDP giảm
10%, 10% dân số bị ảnh hưởng; dâng 3m GDP sẽ giảm 25%, ảnh
hưởng tới 25% dân số. Trong đó, Đồng bằng sông Hồng và sông
Cửu Long sẽ là hai vùng chịu tác động nặng nề nhất do tình trạng
nước biển dâng1.
Diễn biến khí hậu ở Việt Nam trong 50 năm (1951-2000) cho
thấy, nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng lên 0,70 C, nước biển
dâng lên 20cm. Các tỉnh ven biển, đặc biệt là thành phố Hồ Chí
Minh và Đồng bằng sông Cửu Long đang đối diện với rất nhiều khó
khăn do triều cường, ngập lụt và xâm nhập mặn.
1
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi
khí hậu (Triển khai thực hiện Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP ngày 03 tháng 12 năm
2007 của Chính phủ), Hà Nội, tháng 7 năm 2008, tr.7.

350
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Cuối năm 2014, do ảnh hưởng của El Nino, nắng nóng kéo dài,
mưa ít, ở Nam Bộ và mùa mưa kết thúc sớm ở Tây Nguyên, nên gây
tình trạng hạn hán trầm trọng. Vào cuối năm 2014 và đầu năm 2015,
phần lớn các hồ chứa ở những khu vực này chỉ đạt 15 đến 30%,
hàng trăm nghìn ha đất canh tác bị ảnh hưởng. Cuối năm 2018,
nắng nóng cục bộ kéo dài, lượng mưa thấp khiến nhiều hồ chứa ở
khu vực này xuống dưới mực nước chết, ước tính có tới 100.000ha
canh tác bị hán hán, nhiều diện tích lúa đã cấy chết khô vì không có
nước tưới. Sau đợt hạn hát, mưa bão dồn dập gây tình trạng lũ quét,
sạt lở đất ở miền Bắc, lũ lụt ở các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và
Nam Bộ. Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, trong những năm gần
đây, số lượng và sức tàn phá của các cơn bão, lũ lụt, hạn hán ngày
càng gia tăng, gây ra nhiều hậu quả nặng nề về sản xuất và tính
mạng, tài sản của Nhà nước và nhân dân.
Biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới tất cả các khu vực, lĩnh vực kinh
tế - xã hội, đặc biệt dễ bị tổn thương nhất là các tỉnh ven biển, Đồng
bằng sông Hồng, sông Cửu Long, nuôi trồng thủy sản, hệ sinh thái
biển, đặc biệt sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực1. Tình
trạng biến đổi khí hậu đặt ra nhiều nhiệm vụ cấp bách đối với Đảng,
Nhà nước và chính quyền các cấp, trực tiếp là ngành đê điều và
phòng chống thiên tai nhằm chủ động ứng phó, giảm thiểu thiệt
hại, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an toàn cho tính
mạng, tài sản của nhân dân, đáp ứng yêu cầu các chương trình mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới.
Từ năm 2006, Đảng và Nhà nước đề ra và lãnh đạo thực hiện
các Chương trình mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và
nhiều chủ trương lớn về công tác đê điều, phòng chống thiên tai
trong tình hình mới, đặc biệt trong điều kiện biến đổi khí hậu và
nước biển dâng. Điều này có vai trò quan trọng, tác động tới quy
hoạch, điều chỉnh quy hoạch, xây dựng, quản lý, bảo vệ, nâng cấp,
1
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi
khí hậu,…sđd, tr.18-19.

351
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

cải tạo đê điều và các công trình phòng chống lũ cũng như việc xây
dựng, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật và tổ chức các cơ
quan quản lý Nhà nước về đê điều và phòng chống lũ.
Đại hội X của Đảng (tháng 4 năm 2006) xác định: “Vấn đề nông
nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược quan trọng”1. Do
đó cần phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn, hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn,
đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng,
khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo an ninh lương thực.
Về công tác đê điều, phòng chống lũ lụt và thiên tai, Đại hội X
nhấn mạnh: “Cần củng cố hệ thống hồ đập, đê, kè ven sông, ven
biển, hệ thống cảnh báo, chủ động phòng, chống lũ, lụt và thiên tai.
Đẩy mạnh đầu tư xây dựng để hoàn thành cụm tuyến dân cư vùng
ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long”2.
Năm 2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa X đã ban hành Nghị quyết số 26 - NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm
2008, về vai trò và tầm chiến lược của vấn đề nông nghiệp, nông
dân và nông thôn: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc [...]. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân,
nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”3.
Về công tác phòng chống lũ lụt, ứng phó với biến đổi khí hậu,
Nghị quyết số 26 - NQ/TW chủ trương: “Củng cố, xây dựng hệ
thống đê sông, đê biển, hệ thống ngăn lũ, thoát lũ. Nâng cao năng
lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, tìm kiếm cứu nạn. Chủ động
triển khai các công trình giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu và
nước biển dâng”4.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 65,…sđd, tr. 269.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 65,…sđd, tr. 272.
3
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nôn g dân, nông thôn.
4
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

352
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Từ năm 2010, Chính phủ phê duyệt và chỉ đạo triển khai thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2010-20161 và giai đoạn 2016-20202. Trong đó, về phòng
chống lũ lụt, thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu, chương trình
xác định rõ cần tăng cường tập trung đầu tư xây dựng hệ thống đê
điều, các dự án an toàn hồ chứa3, các công trình điều tiết lũ4.
Trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
(tháng 1 năm 2011) về chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2011
– 2020, Ban chấp hành Trung ương Đảng chủ trương: phát triển
mạnh công nghiệp, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng
hiện đại, hiệu quả, bền vững theo đặc điểm từng vùng gắn với các
giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng.
Về công tác đê điều, Đại hội XI xác định: “...chú trọng xây dựng
và củng cố hệ thống đê biển, đê sông, các trạm bơm, các công trình
ngăn mặn và xả lũ. Xây dựng các công trình phòng tránh thiên tai,
các khu neo đậu tàu thuyền để giảm nhẹ thiệt hại cho nhân dân”5. 
Trên cơ sở chủ trương của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của Nhà nước, năm 2012, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đã đề ra chương trình hành động giai đoạn 2011-2016. Đối với
đê điều và phòng chống lũ lụt, cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống
1
Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010- 2020.
2
Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16 tháng 8 năm 2016 của Thủ tướng Chính
phủ về Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2016 - 2020.
3
Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10 tháng 6 năm 2013 của Thủ tướng Chính
phủ,...đd.
4
Quyết định số 124/QĐ-TTg ngày 02 tháng 02 năm 2012 của Thủ tướng Chính
phủ về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất ngành nông nghiệp
đến năm 2010 tầm nhìn đến 2030.
5
Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương khóa X tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI về chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn giai đoạn 2011 – 2020.

353
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

văn bản quy phạm pháp luật; đẩy mạnh công tác dự báo, ứng phó
với biến đổi khí hậu, kiểm tra an toàn, củng cố, bảo vệ và nâng cấp
đê biển, đê sông; triển khai có hiệu quả các giải pháp chống ngập
úng cho các thành phố lớn1.

Ngày 3 tháng 6 năm 2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thay
mặt Ban chấp hành Trung ương Đảng kí ban hành Nghị quyết số 24-
NQ/TW (Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, khóa XI) về chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ
môi trường. Nghị quyết khẳng định: “Chủ động ứng phó với biến
đổi khí hậu [...], có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn
[...], quyết định sự phát triển bền vững của đất nước”. Để chủ động
ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu, cần “nâng cấp các đoạn đê
biển, đê sông xung yếu, xây dựng cống ngăn mặn, giữ ngọt. Bảo vệ,
đẩy mạnh phục hồi, trồng rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển,
rừng phòng hộ đầu nguồn”2. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ trong ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc
biệt là ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến, vật liệu mới, công
nghệ viễn thám trong ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Đảng, ngày 23 tháng


01 năm 2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 08/NQ-CP về
Chương trình hành động chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu,
tăng cường quản lý tài nguyên nước và bảo vệ môi trường. Nghị
quyết đề ra các nhiệm vụ trọng tâm để ứng phó với biến đổi khí
hậu, gồm: Xây dựng năng lực dự báo, cảnh báo chủ động phòng,
tránh và giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu, đặc biệt
là “Bảo vệ không gian thoát lũ trên các lưu vực sông; Nâng cấp, bảo
1
Quyết định số 754/QĐ-BNN-KH ngày 06 tháng 4 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc ban hành Chương trình hành
động của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giai đoạn 2011-2016.
2
Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2013 Hội nghị lần thứ 7 của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

354
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

đảm an toàn các hồ chứa nước; Nâng cấp đê biển, đê sông, cống
ngăn mặn, giữ ngọt ở các địa bàn xung yếu”1.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (tháng 01 năm 2016) tiếp
tục khẳng nhiệm vụ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, sớm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp.
Cơ cấu lại nền nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Đặc
biệt, Đại hội XII đề ra chủ trương phát triển mạnh kinh tế biển
gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, khu công nghiệp,
chế xuất ven biển, du lịch biển, khai thác tài nguyên biển,... Điều
này đặt ra nhiều vấn đề lớn đối với công tác đê điều, đặc biệt là đê
biển, kè bờ biển.
Đại hội XII của Đảng đặc biệt quan tâm tới vấn đề ứng phó với
biến đổi khí hậu, nước biển dâng: “...Thực hiện  đồng bộ các giải
pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên
tai [...]. Nâng cao khả năng chống chịu; huy động nguồn lực đầu tư
các công trình, dự án ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống
thiên tai; phòng, chống ngập úng đô thị”2.
Trước những diễn biến phức tạp và hậu quả của thiên tai đối
với đời sống của nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước,
ngày 24 tháng 3 năm 2020, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban
hành Chỉ thị số 42 -CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Chỉ
thị đưa ra 7 nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm, trong đó có việc huy
động và sử dụng hiệu quả nguồn lực cho phòng ngừa, ứng phó,
khắc phục hậu quả thiên tai, trong đó có hệ thống đê, kè, cống:
1
Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2014 Ban hành Chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý
tài nguyên nước và bảo vệ môi trường.
2
Báo cáo Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII (tháng 01 năm 2016) về đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và Phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020.

355
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

“Đối với vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, đảm bảo an toàn
đê điều, hồ chứa. Đối với vùng duyên hải miền Bắc, miền Trung, nâng cao
năng lực ứng phó với lũ lớn, bão mạnh, siêu bão, sạt lở bờ biển [...]. Đối với
vùng Nam Bộ, chủ động ứng phó, thích ứng với lũ lớn, hạn hán, xâm nhập
mặn, sạt lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đất”1.

2. Hoàn thiện các văn bản pháp luật về quản lý đê điều và phòng chống lũ
Để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, bảo vệ đê điều,
phòng chống lũ lụt trong tình hình biến đổi khí hậu, nước biển
dâng, đồng thời khắc phục những hạn chế, vướng mắc của những
văn bản pháp luật trước đó, Cục Phòng chống lụt bão và Quản lý đê
điều, sau này là Tổng cục Thủy lợi rồi đến Tổng cục Phòng, chống
thiên tai đã báo cáo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ
chức xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đê điều và phòng
chống lũ lụt. Đặc biệt là việc ban hành Luật Đê điều và Luật phòng,
chống thiên tai.
Về Luật Đê điều, trước đó, từ năm 1989, Hội đồng Nhà nước đã
ban hành Pháp lệnh về đê điều nhằm tăng cường, nâng cao trách
nhiệm trong xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ đê
trong việc phòng, chống bão, lụt. Sau những vụ xâm phạm đê điều
ngày càng gia tăng và phức tạp trong những năm 1994-1995, ngày
28 tháng 4 năm 2000, Pháp lệnh Đê điều năm 2000 được ban hành
thay thế Pháp lệnh về đê điều năm 1989.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, Pháp lệnh Đê điều năm
2000 bộc lộ một số hạn chế, bất cập, nảy sinh những vấn đề thực
tế mà Pháp lệnh chưa đề cập, như: do quy định chưa rõ về trách
nhiệm nên việc xử lý vi phạm Pháp lệnh đê điều ở một số nơi chính
quyền các cấp (đặc biệt là cấp xã) có xu thế né tránh, ỷ lại; nhiều
khu đô thị, nhiều khu công nghiệp mới đang phát triển, dẫn đến
việc khai thác cát, đá, sỏi lòng sông, khoan, đóng cọc ngoài phạm vi
1
Chỉ thị số 42 -CT/TW ngày 24 tháng 3 năm 2020 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng
phó, khắc phục hậu quả thiên tai.

356
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

bảo vệ đê điều nhưng gây mất ổn định cho đê điều mà chưa có quy
định trong Pháp lệnh; do điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, tốc
độ đô thị hoá nhanh ở khu vực thành phố, khu dân cư việc sử dụng
bãi sông đã trở thành nhu cầu bức xúc, đòi hỏi phải có cơ chế pháp
lý để giải quyết trên cơ sở đảm bảo an toàn chống lũ, đồng thời tạo
điều kiện để sử dụng, khai thác vùng bãi sông phục vụ phát triển
sản xuất và dân sinh kinh tế khu vực... Chính vì thế, việc ban hành
Luật Đê điều là một biện pháp cần thiết. Ngày 29 tháng 11 năm
2006, tại kỳ họp thứ 10 khóa XI, Quốc hội thông qua Luật Đê điều.
Luật có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2007.
Luật Đê điều năm 2006 gồm 8 chương và 48 điều, quy định
chức năng, vai trò và tầm quan trọng của đê, chính sách của Đảng,
Nhà nước đối với công tác quản lý, bảo vệ đê điều, phòng, chống lũ,
lụt. Luật quy định các vấn đề liên quan tới quy hoạch, đầu tư, tu bổ,
nâng cấp và kiên cố hóa đê điều; bảo vệ và sử dụng đê điều; công
tác hộ đê; lực lượng trực tiếp quản lý đê; trách nhiệm quản lý Nhà
nước về đê điều và các vấn đề liên quan tới thanh tra, khen thưởng
và xử lý vi phạm đê điều.
Luật Đê điều năm 2006 phân cấp đê thành các cấp khác nhau
gồm: cấp đặc biệt và từ cấp I đến cấp V. Việc phân cấp đê điều dựa
trên cơ sở số dân được bảo vệ, tầm quan trọng về quốc phòng - an
ninh, kinh tế - xã hội, diện tích và phạm vi địa giới hành chính, đặc
điểm bão, lũ từng vùng, lưu lượng lũ thiết kế, độ ngập sâu trung
bình của các khu dân cư so với mực lũ thiết kế của đê. Luật Đê điều
năm 2006 khẳng định: đê có vai trò vô cùng quan trọng trong việc
bảo đảm sự phát triển bền vững, quốc phòng, an ninh, bảo vệ tính
mạng, tài sản của nhân dân, chủ quyền, lợi ích quốc gia và góp
phần phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì thế, bảo vệ đê điều là trách
nhiệm của toàn dân, cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân.
Luật nghiêm cấm tất cả các hành vi xâm phạm tới đê điều, như:
phá hoại đê; gây nổ, phá làm nguy hại đến thân đê; xây dựng công
trình, nhà ở trong phạm vi bảo vệ đê; sử dụng xe cơ giới vượt quá
tải trọng cho phép đi trên đê; đổ chất thải trong phạm vi bảo vệ đê
357
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

điều; để vật liệu trên đê, trừ vật tư dự trữ phòng, chống lũ, lụt, bão;
chiếm dụng, sử dụng hoặc di chuyển trái phép vật tư dự trữ phòng,
chống lũ, lụt, bão,...
Đối với việc quy hoạch, xây dựng, nâng cấp và kiên cố hóa đê
điều, Luật quy định: cần đảm bảo các nguyên tắc phù hợp với quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu quốc phòng - an
ninh, chiến lược phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai; tính thống nhất,
phù hợp với vùng miền và phải được cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt. Về việc bảo vệ và sử dụng đê điều, Luật quy định cụ thể hành
lang, phạm vi bảo vệ đê sông từ cấp đặc biệt đến cấp III và đê biển.
Đặc biệt, Luật Đê điều năm 2006 quy định rất cụ thể về chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng chuyên trách quản lý đê điều,
của cơ quan quản lý Nhà nước và của Ủy ban nhân dân các cấp.
Luật Đê điều năm 2006 có sự kế thừa, bổ sung và phát triển
Pháp lệnh về đê điều 1989 và Pháp lệnh Đê điều năm 2000. Đây
là luật đầu tiên về đê điều được ban hành, một văn bản pháp luật
quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch, xây
dựng, cải tạo, nâng cấp, quản lý, khai thác và bảo vệ đê điều trong
việc phòng, chống lũ lụt, giảm nhẹ thiên tai.
Để hoàn chỉnh thể chế về phòng chống thiên tai, ngày 19 tháng
6 năm 2013, kì họp thứ 5 khóa XIII, Quốc hội thông qua Luật Phòng,
chống thiên tai, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 5 năm 2014. Luật Phòng,
chống thiên tai gồm 6 chương và 47 điều, quy định về hoạt động phòng,
chống thiên tai; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cơ quan, hộ gia đình, cá
nhân tham gia hoạt động phòng, chống thiên tai; quản lý Nhà nước và
nguồn nhân lực đảm bảo việc thực hiện phòng, chống thiên tai.
Trước hết, khái niệm thiên tai được quy định trong Luật Phòng,
chống thiên tai năm 2013 rộng hơn rất nhiều so với các pháp lệnh
đã được ban hành trước đó. Thiên tai không chỉ là lũ, lụt mà còn
nhiều loại thiên tai khác như bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, sét, sạt lở
đất, nước biển dâng, xâm nhập mặn, nắng nóng, hạn hán, rét hại,
mưa đá, sương muối, sóng thần, động đất.
358
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Luật quy định, việc phòng, chống thiên tai phải được thực hiện
theo các nguyên tắc phòng ngừa chủ động, ứng phó kịp thời, khắc
phục khẩn trương và hiệu quả với 7 nguyên tắc cơ bản, trong đó có
những nguyên tắc rất quan trọng, như: phòng ngừa chủ động, ứng
phó kịp thời, khắc phục khẩn trương và hiệu quả; thực hiện theo
phương châm bốn tại chỗ: chỉ đạo tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương
tiện, vật tư tại chỗ và hậu cần tại chỗ; đảm bảo tính nhân đạo, công
bằng, minh bạch và bình đẳng giới,... Cùng với sự khuyến khích,
đầu tư của nhà nước, Luật quy định lực lượng tham gia phòng,
chống thiên tai dựa trên sức mạnh của toàn dân bao gồm: tổ chức,
cá nhân, hộ gia đình, dân quân, tự vệ và các lực lượng vũ trang
(quân đội, công an). Nguồn tài chính cho phòng chống thiên tai
gồm: ngân sách Nhà nước, quỹ phòng, chống thiên tai và nguồn
đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân.
Luật cũng quy định 10 hành vi bị cấm trong công tác phòng,
chống thiên tai, như: lợi dụng thiên tai và hoạt động phòng, chống
thiên tai gây hại tới lợi ích quốc gia và lợi ích của nhân dân; phá
hoại, cản trở sự vận hành các công trình phòng, chống thiên tai; vận
hành công trình phòng, chống thiên tai không đúng quy trình được
phê duyệt; chống đối, cản trở hoặc không chấp hành sự chỉ đạo, chỉ
huy của cơ quan có thẩm quyền; cố ý đưa tin, báo cáo sai sự thật về
thiên tai và hoạt động phòng, chống thiên tai,...
Luật quy định cụ thể hoạt động phòng, chống thiên tai bao
gồm: phòng ngừa, xây dựng chiến lược quốc gia, lập kế hoạch
cụ thể, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải có nội dung
phòng, chống thiên tai; phân vùng, theo dõi, giám sát thiên tai;
xây dựng và bảo vệ công trình phòng, chống thiên tai; thông tin,
truyền thông và giáo dục, tuyên truyền về phòng, chống thiên
tai. Công tác ứng phó với thiên tai cần thực hiện các biện pháp,
trước hết là dự báo, cảnh báo và truyền tin, thực hiện chỉ đạo,
triển khai biện pháp ứng phó, huy động nguồn lực phục vụ hoạt
động ứng phó thiên tai, tổ chức tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn, khắc
phục hậu quả thiên tai.
359
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Luật quy định quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, tổ chức, cá


nhân, hoạt động hợp tác quốc tế, trách nhiệm quản lý Nhà nước
trong phòng, chống thiên tai (bộ, ban, ngành Trung ương, Ủy ban
nhân dân các cấp), trong đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn chịu trách nhiệm thực hiện quản lý Nhà nước về phòng, chống
thiên tai.
Luật Phòng, chống thiên tai năm 2013 đã khắc phục được
những bất cập của Pháp lệnh Phòng chống lụt bão năm 1993, Pháp
lệnh sửa đổi năm 2000, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, kịp thời ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu, nước
biển dâng. Luật phòng, chống thiên tai là cơ sở pháp lý tạo điều
kiện nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống thiên tai, là căn cứ
để các cơ quan quản lý Nhà nước xây dựng kế hoạch, huy động
nguồn lực, chỉ đạo, tổ chức phòng, chống thiên tai, các tổ chức, cá
nhân nêu cao trách nhiệm bảo vệ các công trình, tham gia tích cực
vào công tác phòng, chống thiên tai.
Ngày 17 tháng 6 năm 2020, kì họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV
thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Phòng chống
thiên tai và Luật Đê điều.
Việc ban hành và áp dụng Luật Đê điều và Luật Phòng, chống
thiên tai là một bước ngoặt lớn trong lịch sử đê điều, phòng chống
lũ, lụt và giảm nhẹ thiên của Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng, là nền tảng định hướng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm,
hiệu quả đối với quy hoạch, xây dựng, quản lý và bảo vệ, xử lý vi
phạm đê điều và các công trình phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.
Ngay sau khi Luật Đê điều được ban hành, để đảm bảo đủ
điều kiện thực thi khi Luật Đê điều bắt đầu có hiệu lực, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn đã phối hợp với các bộ, ngành
hữu quan và các địa phương khẩn trương xây dựng, trình Chính
phủ ban hành Nghị định số 113/2007/NĐ-CP ngày 28 tháng 6 năm
2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Đê điều và Nghị định số 129/2007/NĐ-CP ngày 2 tháng 8 năm
360
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

2007 quy định xử phạt vi phạm hành chính về đê điều (năm 2013,
Chính phủ ban hành Nghị định số 139/2013/NĐ-CP thay thế Nghị
định số 129/2007/NĐ-CP; năm 2017, Chính phủ ban hành Nghị
định số 104/2017/NĐ-CP thay thế Nghị định số 139/2013/NĐ-CP).
Đây là một trong số ít luật được chuẩn bị đồng bộ giữa văn bản
luật và văn bản pháp quy quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
thực hiện được yêu cầu này.
Ngày 16 tháng 11 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến
năm 2020 tại Quyết định 172/2007/QĐ-TTg. Chiến lược đề ra mục
tiêu, nhiệm vụ và hàng loạt các biện pháp công trình và phi công
trình nhằm nâng cao hiệu quả, phòng, chống lũ, lụt và giảm nhẹ
thiên tai trong phạm vi cả nước và cho từng vùng. Trong đó tập
trung giải quyết các vấn đề quan trọng, gồm: xây dựng hoàn thiện
hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách; kiện toàn bộ máy chỉ đạo,
chỉ huy phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai ở các cấp, các ngành;
xã hội hoá và phát triển nguồn nhân lực, phát triển khoa học công
nghệ, nâng cao nhận thức trong công tác phòng, chống và giảm nhẹ
thiên tai; củng cố hệ thống đê điều, hồ đập, nâng cao năng lực cứu
hộ, cứu nạn; đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế trong phòng,
chống lũ, lụt và giảm nhẹ thiên tai1.
Chiến lược đặt mục tiêu cụ thể đối với hệ thống đê điều: Bảo
đảm an toàn cho hệ thống đê điều ở các tỉnh từ Hà Tĩnh trở ra;
nâng cao mức chống lũ của hệ thống đê các vùng duyên hải Trung
Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ; hoàn thành củng cố, nâng cấp
hệ thống đê biển trong cả nước để bảo vệ dân cư, phát triển kinh
tế biển, bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng ven biển. Nhiệm vụ và
giải pháp phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai cho Vùng đồng bằng
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ là thực hiện phòng, chống lũ triệt để; đồng
thời chủ động phòng, chống bão, hạn hán, nước biển dâng.
1
Quyết định số 172/2007/QĐ-TTg ngày 16 tháng 11 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai
đến năm 2020.

361
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Tiếp đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành
khung Chương trình hành động thích ứng phó với biến đổi khí hậu
giai đoạn 2008-20201 và Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi
khí hậu giai đoạn 2011-20502. Mục tiêu của Chương trình là phát
triển bền vững nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, ổn định
diện tích lúa 3,8 triệu ha, trong đó ít nhất 3,2 triệu ha canh tác lúa
hai vụ trở lên; ổn định, an toàn dân cư, đặc biệt là vùng Đồng bằng
sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng và các tỉnh ven biển miền
Trung trong tình trạng biến đổi khí hậu.
Để đạt được các mục tiêu trên, đảm bảo chống lũ lụt, cần đánh
giá hiện trạng và khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu của hệ
thống công trình đê điều, tiến hành quy hoạch, nâng cấp, cải tạo và
xây dựng mới hệ thống đê sông, đê biển, đặc biệt ở Đồng bằng sông
Hồng, sông Cửu Long và khu vực ven biển; nâng cao hiệu quả quản
lý công trình đê, kè, cống.
Về mặt tổ chức và lực lượng, cần tăng cường đầu tư trang thiết
bị, cơ sở vật chất, nâng cao trình độ, tính chuyên nghiệp của đội ngũ
cán bộ trong lĩnh vựa đê điều và phòng chống lũ lụt. Trong đó, đặc
biệt quan tâm phát triển nâng cao năng lực và trình độ khoa học của
đội ngũ cán bộ chuyên môn về quy hoạch, thiết kế, xây dựng công
trình đê điều.
Ngày 17 tháng 3 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 379/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng,
chống thiên tai đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó cụ
thể các giải pháp đối với công trình đê điều ở các vùng chịu ảnh
hưởng của lũ:
1
Quyết định số 2730/QĐ-BNN-KHCN ngày 05 tháng 9 năm 2008 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn về khung Chương trình hành động thích ứng
với biến đổi khí hậu giai đoạn 2008-2020.
2
Quyết định số 543/QĐ-BNN-KHCN ngày 23 tháng 3 năm 2011 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn về kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi
khí hậu giai đoạn 2011-2050.

362
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

- Vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ: Thực hiện các giải pháp
phòng, chống lũ triệt để, chủ động phòng, chống bão, ngập lụt; bảo
đảm an toàn hệ thống đê điều theo mức thiết kế; củng cố, nâng cấp
hoàn thiện hệ thống đê sông, nhất là các tuyến đê cấp III đến cấp
đặc biệt thuộc hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, sông
Cả; điều tiết hiệu quả hồ chứa nước nước trên các hệ thống sông để
chủ động cắt lũ cho hạ du; cải tạo lòng dẫn, quản lý chặt chẽ việc
khai thác, sử dụng bãi sông, lòng sông, thanh thải vật cản bảo đảm
không gian thoát lũ... Đối với khu vực ven biển: rà soát tiêu chuẩn
quốc gia về thiết kế đê biển để chủ động ứng phó, phòng ngừa rủi
ro do bão trong điều kiện tác động của biến đổi khí hậu, nước biển
dâng; củng cố, hoàn thiện hệ thống đê biển, tăng cường trồng cây
chắn sóng, rừng phòng hộ ven biển; triển khai các giải pháp nâng
bãi nhằm nâng cao mức bảo đảm an toàn của đê biển chủ động ứng
phó với tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
- Vùng duyên hải miền Trung (từ Quảng Bình đến Bình Thuận): Chủ
động phòng, tránh, thích nghi với thiên tai, trọng tâm là chủ động
phòng, chống bão, lũ, ngập lụt và sạt lở bờ sông, bờ biển. Tập trung
thực hiện các giải pháp củng cố, nâng cấp bảo đảm an toàn đập, hồ
chứa nước, đê biển, đê cửa sông, phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ
biển; tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, nâng cao chất
lượng rừng, nhất là rừng tự nhiên, rừng ngập mặn cửa sông, ven
biển, phòng hộ đầu nguồn; bảo tồn cồn cát tự nhiên ven biển.
- Vùng đồng bằng sông Cửu Long: Chủ động “sống chung với
lũ và hạn hán, xâm nhập mặn”, thích ứng, khai thác lợi thế để
phát triển bền vững. Tập trung thực hiện các giải pháp xác định
các tiểu vùng sinh thái làm định hướng chuyển đổi sản xuất, phát
triển kinh tế - xã hội thích ứng với biến đổi khí hậu và xây dựng
công trình cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai, bao gồm vùng
đồng bằng ngập lũ, vùng sinh thái nước ngọt, nước lợ, nước mặn;
rà soát quy hoạch phòng chống thiên tai và thủy lợi theo quy
hoạch vùng và quy định của pháp luật về quy hoạch trên cơ sở rà
soát, đánh giá lại hệ thống đê bao, bờ bao, phương án chỉnh trị và
363
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển, phương án chuyển đổi sản


xuất của vùng, bảo đảm đồng bộ, phù hợp với quy hoạch sử dụng
đất ven sông, ven biển và quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu
Long; củng cố, nâng cấp hệ thống đê bao, bờ bao phù hợp với quy
hoạch, bảo đảm kiểm soát lũ, phát triển sản xuất bền vững, an toàn
tính mạng và tài sản của nhân dân, đồng thời loại bỏ các tuyến đê
bao, bờ bao không phù hợp; xây dựng, nâng cấp và hoàn thiện
hệ thống đê biển, đê bao, bờ bao, công trình kiểm soát lũ, mặn,
hệ thống thủy lợi nội đồng phục vụ chuyển đổi, phát triển nông
nghiệp bền vững, trong đó chú trọng xây dựng công trình gắn với
liên kết vùng, phục vụ đa mục tiêu, giao thông kết hợp với thủy
lợi, đê điều; ưu tiên phát triển rừng ngập mặn và thực hiện các
giải pháp thân thiện với môi trường; hoàn thiện chương trình xây
dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với các
bộ, ngành liên quan ban hành đầy đủ và đồng bộ các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật Đê điều theo thẩm quyền, như: Thông
tư số 54/2013/TT-BNNPTNT ngày 17 tháng 12 năm 2013 về hướng
dẫn phân cấp đê và quy định tải trọng cho phép đối với xe cơ giới
đi trên đê theo quy định tại Điều 2, Nghị định số 113/2007/NĐ-CP;
Thông tư số 46/2011/TT-BNNPTNT ngày 27 tháng 6 năm 2011 quy
định về trình tự thực hiện việc chấp thuận, thẩm định các hoạt
động liên quan đến đê điều theo quy định tại khoản 2 Điều 25 của
Luật; Quyết định số 92/2008/QĐ-BNN ngày 17 tháng 9 năm 2008
về quản lý, phát hành và cấp biển xe được phép đi trên đê, xe kiểm
tra đê, xe hộ đê, xe làm nhiệm vụ khẩn cấp về phòng, chống lụt,
bão theo quy định tại Điều 31 của Luật; Thông tư số 01/2009/TT-
BNN ngày 06 tháng 01 năm 2009 về hướng dẫn tuần tra, canh gác
bảo vệ đê điều trong mùa lũ, theo quy định tại Điều 24 của Luật;
Thông tư số 26/2009/TT-BNN ngày 11 tháng 5 năm 2009 hướng
dẫn về cơ cấu tổ chức, nguồn kinh phí và chế độ thù lao đối với
lực lượng quản lý đê nhân dân làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ đê
điều và hộ đê ở các địa phương, không thuộc biên chế nhà nước,
364
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

theo quy định tại khoản 3 Điều 37 của Luật. Bộ NN&PTNT đã phối
hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 48/2009/TTLT-
BTC-BNN ngày 12 tháng 3 năm 2009 hướng dẫn chế độ quản lý,
sử dụng và thanh quyết toán kinh phí sự nghiệp kinh tế duy tu,
bảo dưỡng đê điều, đến năm 2020 được thay thế bằng Thông tư
số 68/2020/TT-BTC ngày 15 tháng 7 năm 2020 của Bộ Tài chính quy
định quản lý, sử dụng và thanh quyết toán kinh phí chi thường
xuyên thực hiện duy tu, bảo dưỡng đê điều và xử lý cấp bách sự
cố đê điều.
Tại các địa phương có đê, nhiều tỉnh, thành phố đã ban hành
theo thẩm quyền một số văn bản pháp quy quy định cụ thể và
hướng dẫn thi hành Luật Đê điều trong phạm vi địa phương, như:
Quy định về hành lang bảo vệ đối với đê cấp IV, cấp V theo quy
định tại điểm b, khoản 2, Điều 23 của Luật (các tỉnh, thành phố: Hòa
Bình, Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Nam, Thanh Hóa, Bình Thuận, Bến Tre,
Tiền Giang,…); Quy định về thủ tục cấp phép đối với các hoạt động
liên quan tới đê điều theo quy định tại Điều 25 của Luật (các tỉnh,
thành phố: Hà Nội, Hải Dương, Quảng Ninh...); Quyết định thành
lập và quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, nguồn kinh
phí đối với lực lượng quản lý đê nhân dân theo quy định tại Điều 2
và Điều 5 Thông tư số 26/2009/TT-BNN của Bộ NN&PTNT (các tỉnh,
thành phố: Hòa Bình, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Thừa Thiên-Huế, Quảng Ngãi, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp,
Cà Mau,…); Quy chế phối hợp trong công tác quản lý, phát hiện và
xử lý vi phạm Luật Đê điều (các tỉnh, thành phố: Thái Nguyên, Bắc
Ninh, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định, Hà Tĩnh...); Quy
định trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong công
tác quản lý, bảo vệ đê điều tại địa phương (các tỉnh: Thái Nguyên,
Bắc Ninh, Hà Nam, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Bà Rịa-
Vũng Tàu, Kiên Giang...)1.
1
Báo cáo tổng kết thực hiện Luật Đê điều.

365
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

3. Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phòng chống lũ, quy hoạch đê điều
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về các Chương
trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, ứng phó với tình trạng
biến đổi khí hậu, nước biển dâng, Tổng cục Thủy lợi, sau này là
Tổng cục Phòng, chống thiên tai đã xây dựng, đề xuất, báo cáo Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để trình Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chương trình, quy hoạch về
đê điều, phòng chống lũ đối với các vùng trong cả nước.
Đối với Bắc Bộ, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 04/2011/
NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2011 về việc bãi bỏ sử dụng các khu
phân lũ, làm chậm lũ thuộc hệ thống sông Hồng. Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt một số quy hoạch quan trọng về phòng, chống
lũ và đê điều, tại Quyết định số 1821/QĐ-TTg ngày 7 tháng 10 năm
2014 cho sông Đáy; Quyết định số 92/2007/QĐ-TTg ngày 21 tháng 6
năm 2007 và Quyết định số 257/QĐ-TTg ngày 18 tháng 02 năm 2016
cho sông Hồng và sông Thái Bình.
Các khu phân lũ, làm chậm lũ trên hệ thống sông Hồng đã được
hình thành từ những năm đầu của thế kỷ XX và được củng cố, nâng
cấp sau trận lũ lịch sử năm 1971. Đến năm 1999, Chính phủ đã có Nghị
định số 62/1999/NĐ-CP ban hành Quy chế về phân lũ, chậm lũ thuộc
hệ thống sông Hồng để bảo vệ an toàn cho Thủ đô Hà Nội. Theo đó,
các hệ thống phân chậm lũ sông Đáy, Lương Phú (Hà Tây cũ) và các
khu chậm lũ Tam Thanh, Lập Thạch (Vĩnh Phúc) hằng năm được tăng
cường củng cố chuẩn bị để sẵn sàng thực hiện phân, chậm lũ.
Các khu được chọn làm khu phân lũ, chậm lũ là những vùng
trước đây còn khó khăn, ít dân cư. Tuy nhiên đến giai đoạn này, các
vùng này đã tương đối đông dân, kinh tế ngày càng phát triển theo
sự phát triển của đất nước. Vì thế, việc tiếp tục phân lũ vào những
khu vực này sẽ gây thiệt hại lớn về dân sinh, kinh tế và tác động xấu
đến môi trường.
Bởi vậy, ngày 14 tháng 01 năm 2011, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 04/2011/NĐ-CP về việc bãi bỏ sử dụng các khu phân
366
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lũ, làm chậm lũ thuộc hệ thống sông Hồng gồm các khu chậm lũ
Tam Thanh thuộc tỉnh Phú Thọ, Lập Thạch thuộc tỉnh Vĩnh Phúc,
Lương Phú – Quảng Oai, Ba Vì thuộc thành phố Hà Nội và hệ thống
phân lũ sông Đáy kể từ khi công trình thủy điện Sơn La chính thức
tham gia cắt lũ cho hạ du. Việc bãi bỏ sử dụng các khu phân lũ, làm
chậm lũ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã
hội của đất nước nói chung và của Thủ đô Hà Nội nói riêng mà vẫn
đảm bảo tiêu chuẩn phòng, chống lũ theo quy định và có tính đến
dự phòng cho tình huống lũ lớn. Trong đó có quy hoạch xây dựng
mới, cải tạo nâng cấp các công trình đầu mối, hệ thống đê sông
Đáy, nạo vét lòng dẫn sông Đáy để chủ động đưa nước sông Hồng
vào sông Đáy, đảm bảo cho sông Đáy thoát được lưu lượng tối đa
2.500m3/s. Đây là biện phápđể dự phòng khi xuất hiện lũ có chu kỳ
lặp lại lớn hơn 500 năm trên hệ thống sông Hồng, hoặc xảy ra sự cố
nghiêm trọng đối với hệ thống đê điều khu vực nội thành Hà Nội.
Việc ban hành Nghị định đã có tác động tích cực về mặt xã hội
đối với các vùng có khu phân, chậm lũ trước đây nay không bị ngập
lụt do phân, chậm lũ, tạo điều kiện ổn định cuộc sống và sản xuất
của người dân, tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư, cải thiện môi
trường, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội trong khu vực.
Tại Quyết định số 1821/QĐ-TTg ngày 7 tháng 10 năm 2014
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phòng, chống lũ
và đê điều hệ thống sông Đáy, mục tiêu là tạo dòng chảy thường
xuyên cho sông Đáy nhằm giải quyết tình trạng ô nhiễm môi
trường sông Đáy, cấp nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt, phát triển
kinh tế, xã hội. Đồng thời, cải thiện cảnh quan môi trường sinh
thái vùng ven sông; chủ động phòng, chống lũ trên hệ thống sông
Đáy, bảo đảm an toàn đê điều, góp phần bảo đảm an toàn cho
Thủ đô Hà Nội và vùng ven sông Đáy thuộc các tỉnh Hà Nam,
Nam Định, Ninh Bình; tạo điều kiện phát triển sản xuất, ổn định
đời sống của nhân dân tại các khu vực phân lũ, chậm lũ thuộc hệ
thống sông Đáy trước đây. Thực hiện Nghị định số 04/2011/NĐ-CP,
Quy hoạch cũng đặt mục tiêu đảm bảo sông Đáy thoát được lưu
367
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lượng tối đa 2.500m3/s để dự phòng phải chuyển lũ trong trường


hợp xuất hiện lũ đặc biệt lớn có chu kỳ lặp lại lớn hơn 500 năm
trên hệ thống sông Hồng, hoặc xảy ra sự cố nghiêm trọng với hệ
thống đê điều khu vực nội thành Hà Nội hoặc sự cố trong quản
lý điều hành hồ chứa. Quy hoạch cũng nêu rõ, xóa bỏ vùng chậm
lũ trước đây thuộc địa bàn các huyện Chương Mỹ, Mỹ Đức (thuộc
thành phố Hà Nội) và khu vực hữu sông Đáy thuộc tỉnh Hà Nam
để nhân dân ổn định đời sống, phát triển sản xuất1.
Ngày 18 tháng 02 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 257/QĐ-TTg thay thế Quyết định số 92/2007/QĐ-TTg
ngày 21 tháng 6 năm 2007 về quy hoạch phòng chống lũ và quy
hoạch đê điều hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình trong tình hình
mới. Mục tiêu quy hoạch nhằm: “Chủ động phòng, chống lũ, bão
trên lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình, góp phần ổn định, phát
triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng; Làm cơ sở để lập và
điều chỉnh quy hoạch phòng chống lũ chi tiết các tuyến sông có đê,
quy hoạch đê điều,...”2.

Theo Quyết định số 257/QĐ-TTg, tiêu chuẩn mực mước thiết


kế hệ thống đê trong vùng chịu ảnh hưởng điều tiết của các hồ
chứa lớn ở thượng du như sau: đoạn đê hữu sông Hồng bảo vệ khu
đô thị trung tâm thành phố Hà Nội đảm bảo an toàn với mực nước
lũ thiết kế trên sông Hồng tại trạm thủy văn Hà Nội là 13,4m. Các
tuyến đê khác đảm bảo an toàn với mực nước lũ thiết kế trên sông
Hồng tại trạm thủy văn Hà Nội là 13,1m và trên sông Thái Bình tại
trạm thủy văn Phả Lại là 7,2m. Đối với vùng ít chịu ảnh hưởng điều
tiết của các hồ chứa lớn, hệ thống đê điều đảm bảo an toàn với mực
nước lũ thiết kế trên các tuyến sông.
1
Quyết định số 1821/QĐ-TTg ngày 07 tháng 10 năm 2014 của Thủ tướng Chính
phủ, phê duyệt Quy hoạch phòng, chống lũ và đê điều hệ thống sông Đáy.
2
Quyết định số 257/QĐ-TTg ngày 18 tháng 02 năm 2016 của Thủ tướng Chính
phủ, phê duyệt quy hoạch phòng chống lũ và quy hoạch đê điều hệ thống sông
Hồng, sông Thái Bình.

368
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Các giải pháp phòng, chống lũ theo Quyết định số 257/QĐ-TTg


bao gồm: giải pháp công trình; giải pháp phi công trình; quản lý và
sử dụng bãi sông. Trong các nội dung thuộc giải pháp công trình,
củng cố đê điều được coi là “giải pháp chống lũ cơ bản, lâu dài đối
với đồng bằng sông Hồng, sông Thái Bình”. Các giải pháp kĩ thuật
củng cố, nâng cấp, kiên cố hóa đê điều bao gồm: hoàn chỉnh mặt
cắt đê; nâng cao chất lượng thân, nền đê; áp dụng khoa học công
nghệ, vật liệu mới để xử lý nền đối với những đoạn nền đê có địa
chất yếu; cải tạo, cứng hóa mặt đê, đường hành lang chân đê; tu bổ,
nâng cấp hệ thống kè; xây dựng các công trình phục vụ công tác
quản lý, bảo vệ đê điều; hoàn chỉnh hệ thống đê và lòng dẫn sông
Đáy theo quy hoạch phòng chống lũ và đê điều sông Đáy.
Về sử dụng bãi sông, Quyết định số 257/QĐ-TTg xác định
không gian thoát lũ bao gồm khu vực lòng sông và bãi sông nằm
giữa hai đê, đồng thời đưa ra quy định đối với khu vực dân cư
tập trung hiện có trên bãi sông, khu vực bãi sông được phép xây
dựng, khu vực bãi sông có thể nghiên cứu xây dựng như: với khu
dân cư tập trung ngoài bãi sông, di dời các hộ dân cư vi phạm
pháp luật về đê điều, nằm trong phạm vi bảo vệ đê điều, khu vực
đang bị sạt lở nguy hiểm hoặc nguy cơ mất an toàn khi có lũ lớn;
các khu vực dân cư tập trung ngoài bãi sông còn lại được tồn tại,
bảo vệ, được cải tạo, xây dựng mới công trình, nhà ở theo quy
hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng đất, được sử dụng thêm một
phần bãi sông để bố trí mặt bằng tái định cư cho các hộ dân cư
nằm rải rác gần khu vực, với diện tích không vượt quá 5% diện
tích khu dân cư hiện có; các bãi Tầm Xá - Xuân Canh và Long
Biên - Cự Khối thuộc khu vực đô thị trung tâm thành phố Hà Nội
được quy hoạch xây dựng đô thị về phía tuyến đê hiện tại, diện
tích xây dựng mới không vượt quá 15% diện tích bãi sông; với các
khu vực bãi sông chưa có công trình xây dựng, được nghiên cứu
sử dụng thì diện tích xây dựng không được vượt quá 5% diện
tích bãi sông; không nâng cao các tuyến đê bối hiện có, không
xây dựng đê bối mới...
369
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Quyết định số 257/QĐ-TTg tạo ra bước đột phá mới tạo cơ sở để


giải quyết một số vấn đề liên quan tới công tác phòng chống lũ, đặc
biệt là về quản lý, sử dụng bãi sông, đảm bảo an toàn phòng, chống
lũ, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các địa
phương. Đây là cơ sở để triển khai đồng bộ các giải pháp củng cố,
đảm bảo an toàn đê điều hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình
trong tình hình mới, nhất là do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
Thực hiện Quyết định số 257/QĐ-TTg, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đã ban hành Quyết định số 3032/QĐ-BNN-TCTL
ngày 19 tháng 7 năm 2016 quy định mực nước, lưu lượng lũ thiết
kế cho các tuyến đê thuộc hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình
và công văn số 6066/BNN-TCTL ngày 19 tháng 7 năm 2016 về việc
hướng dẫn thực hiện quy hoạch phòng chống lũ và đê điều sông
Hồng, sông Thái Bình để các địa phương triển khai.
Thực hiện quy định của Luât Đê điều và các quy hoạch được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các tỉnh, thành phố có đê ở Bắc
Bộ đã tổ chức lập, rà soát quy hoạch phòng chống lũ cho các tuyến
sông có đê, quy hoạch đê điều trên địa bàn. Tuy nhiên, kể từ ngày
01 tháng 01 năm 2019 khi Luật Quy hoạch và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của 37 luật có liên quan đến quy hoạch có hiệu lực thi
hành, không còn quy hoạch phòng chống lũ các tuyến sông có đê,
quy hoạch đê điều cho riêng từng địa phương. Các nội dung này
được đưa vào quy hoạch tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với
tên gọi phương án phòng, chống lũ các tuyến sông có đê và phương
án phát triển hệ thống đê điều.
Mặc dù Luật Đê điều đã quy định rất rõ việc quản lý, sử dụng
bãi sông cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật về đê điều,
đảm bảo phù hợp với quy hoạch phòng chống lũ của tuyến sông
có đê và quy hoạch đê điều được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu đất đai,
vật liệu xây dựng ngày càng cao nên tình trạng sử dụng bãi sông vi
phạm pháp luật về đê điều giai đoạn này xảy ra phổ biến ở hầu hết
các địa phương, nhất là tại các khu vực đô thị, làm ảnh hưởng đến
370
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

an toàn đê điều, không gian thoát lũ của các tuyến sông, gây sức ép
rất lớn đến công tác quản lý đê điều. Nhiều địa phương có nhu cầu
khai thác, sử dụng quỹ đất bãi sông để lập dự án, xây dựng công
trình, nhà ở phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế -xã hội, nhưng quá
trình thực hiện chưa tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về
đê điều, quy hoạch và các quy định khác của pháp luật liên quan.
Trước thực trạng vi phạm pháp luật về đê điều, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 447/CT-TTg ngày 25 tháng 3 năm
2011 về tăng cường xử lý vi phạm pháp luật về đê điều và quản lý
việc khai thác, vận chuyển, kinh doanh cát sỏi gây ảnh hưởng đến
an toàn đê điều. Sau gần 10 năm thực hiện Chỉ thị 447/CT-TTg, Tổng
cục Phòng chống thiên tai đã tổ chức đánh giá kết quả thực hiện
và tiếp tục đề xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo
cáo Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 7
tháng 10 năm 2019 chỉ đạo các địa phương, Bộ ngành liên quan tăng
cường ngăn chặn, xử lý các vi phạm pháp luật về đê điều.
Đối với Trung Bộ, ngày 24 tháng 10 năm 2012, Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 1588/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch
thủy lợi khu vực miền Trung giai đoạn 2012 - 2020, tầm nhìn 2050
trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Khu vực quy
hoạch triển khai trên phạm vi 12 tỉnh, thành phố từ Thanh Hóa
đến Khánh Hòa, với diện tích tự nhiên 84.726km2, dân số khoảng
18 triệu người.
Quan điểm quy hoạch đối với đê điều là: “Từng bước nâng cao khả
năng chống lũ, bão, triều của các tuyến đê cửa sông, đê biển”. Phương
án tổng thể là “Củng cố các hệ thống đê sông, đê biển; phòng, chống
ngập úng cho các đô thị, khu dân cư tập trung;  đối với vùng Nam
Trung Bộ chủ động phòng tránh và thích nghi với lũ chính vụ, ngăn lũ
sớm và lũ cuối vụ đảm bảo sản xuất vụ Đông Xuân và Hè Thu”1.
1
Quyết định số 1588/QĐ-TTg ngày 24 tháng 10 năm 2012 của Thủ tướng Chính
phủ, Phê duyệt Quy hoạch thủy lợi khu vực miền Trung giai đoạn 2012 - 2020
và định hướng đến năm 2050 trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng.

371
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Phương án quy hoạch đê điều, phòng chống lũ theo các vùng và


lưu vực sông, trong đó nhiệm vụ củng cố đê sông, đê biển kết hợp xây
dựng hệ thống hồ chứa đóng vai trò quan trọng đảm bảo an toàn tính
mạng, tài sản của Nhà nước và nhân dân, bảo vệ, phát triển sản xuất,
thích ứng với biến đổi khí hậu. Đối với các tỉnh có đê biển, đê phải đảm
bảo chống được bão cấp 10÷12, ứng với triều tần suất P=5,0%.
Đối với Đồng bằng sông Cửu Long, Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt hai quy hoạch tổng thể thủy lợi, gồm: “Quy hoạch thủy lợi
Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2006 - 2010 định hướng đến
năm 2020” phê duyệt năm 2006 và “Quy hoạch thủy lợi Đồng bằng
sông Cửu Long giai đoạn 2012 - 2020 định hướng đến năm 2050 trong
điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng” phê duyệt năm 2012.
Mục tiêu của các quy hoạch là phát triển thủy lợi bước đầu phục vụ
đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, đảm bảo
an ninh quốc phòng và giao thông thủy tạo điều kiện phát triển bền
vững ở Đồng bằng sông Cửu Long1. Nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể
gồm: nâng cấp, xây dựng hệ thống đê bao, cống ngăn mặn ven biển
và dọc bờ sông lớn để ngăn mặn, giữ ngọt; nâng cao sử dụng nguồn
nước vào mùa khô; kiểm soát lũ theo phương châm “sống chung với
lũ”; hoàn thiện các biện pháp thau chua, rửa phèn, nâng cao hiệu
quả khai thác, sử dụng, chuyển dịch cơ cấu sản xuất vùng ven biển
và vùng đất nhiễm phèn, nhiễm mặn. Các quy hoạch đã đưa ra hàng
loạt các biện pháp công trình dựa theo đặc điểm và mục tiêu chính
của từng vùng và theo thứ tự ưu tiên của từng công trình.
Trước những diễn biến phức tạp của tình trạng biến đổi khí
hậu, nước biển dâng, để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững ở
đồng bằng sông Cửu Long, ngày 17 tháng 11 năm 2017, Chính phủ
ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững Đồng
bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu mục tiêu đến
năm 2050 và tầm nhìn đến năm 2100. Về công tác xây dựng đê, kè,
1
Quyết định số 84/QĐ-TTg ngày 19 tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt quy hoạch thủy lợi Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2006-2010
và định hướng đến năm 2020.

372
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

cống, Nghị quyết 120/NQ-CP yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn triển khai thực hiện:
“Xây dựng Đề án bảo vệ bờ biển, củng cố nâng cấp hệ thống
đê biển, phòng chống xói lở bờ biển; tập trung đầu tư xử lý ngay
những đoạn xói lở, sạt lở bờ sông, bờ biển nghiêm trọng. Xây dựng
quy hoạch chỉnh trị sông gắn với quy hoạch sử dụng đất ven sông
theo hướng dành không gian thoát lũ, xây dựng công trình giao
thông kết hợp với đê điều”.
Nghị quyết 120/NQ-CP là một bước tiến vượt bậc về tư duy với
quan điểm tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào
tự nhiên, thích ứng với tự nhiên, với phương châm chủ động sống
chung với lũ, ngập, nước mặn, coi nước lợ, nước mặn cũng là nguồn
tài nguyên để phát triển kinh tế, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản.
Trên cơ sở các quy hoạch, Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển
bền vững đồng bằng sông Cửu Long, Thủ tướng Chính phủ và chính
quyền các địa phương đã huy động, ưu tiên dành nguồn vốn đầu
tư cho việc rà soát, điều chỉnh quy hoạch, xây dựng, hoàn chỉnh hệ
thống đê sông, đê, kè biển và các công trình phòng chống thiên tai.

4. Thống nhất tổ chức quản lý đê điều và phòng chống thiên tai


Từ năm 1996, Cục Phòng chống lụt bão và Quản lý đê điều
tiếp tục được duy trì. Từ năm 1996 đến năm 2003, Cục trưởng
Cục Phòng, chống lụt bão và Quản lý đê điều lần lượt là các ông:
Nguyễn Ty Niên (1996 - 2001), Đặng Quang Tính (2001 - 2003). Ngày
18 tháng 7 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 86/2003/
NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Theo đó, về cơ cấu tổ
chức, Cục Phòng, chống lụt bão và Quản lý đê điều đổi tên thành
Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống lụt bão. Từ năm 2003 đến
2015, Cục trưởng Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống lụt bão gồm
các ông: Đặng Quang Tính (2003 – 2008), Nguyễn Xuân Diệu (2008
- 2010), Trần Quang Hoài (2010 – 2012) và Vũ Văn Tú từ năm 2012
đến tháng 01 năm 2015.
373
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Thực hiện Nghị định số 75/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm


2009 của Chính phủ sửa đổi điều 3 của Nghị định số 01/2008/NĐ-CP
ngày 03 tháng 01 năm 2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
ngày 25 tháng 01 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 03/2010/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thủy lợi trực thuộc Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn. Tổng cục Thủy lợi được thành lập trên cơ
sở sáp nhập hai cơ quan Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống lụt
bão và Cục Thủy lợi. Tổng cục Thủy lợi là một trong 19 cơ quan
thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông, giúp Bộ trưởng
thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực thủy lợi và đê
điều1. Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống lụt bão là một đơn vị
trực thuộc Tổng cục Thủy lợi. Đến năm 2014, Cục Quản lý đê điều
và Phòng, chống lụt bão tách thành 2 đơn vị là Vụ Quản lý đê điều
và Cục Phòng, chống thiên tai theo Quyết định số 58/2014/QĐ-TTg
ngày 22 tháng 10 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ.
Từ năm 2015 cho tới năm 2021, Vụ trưởng Vụ Quản lý đê điều
lần lượt là các ông: Vũ Văn Tú (từ tháng 01 đến tháng 5 năm 2015),
Vũ Xuân Thành (từ tháng 5 năm 2015 đến năm 2017), Phạm Đức
Luận (2017 – 2021) và Trần Công Tuyên (từ năm 2021).
Theo Quyết định số 03/2010/QĐ-TTg, Tổng cục Thủy lợi thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước trong một phạm vi rất rộng thuộc
nhiều lĩnh vực liên quan tới thủy lợi, đê điều, phòng chống lũ, lụt,
nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn, phòng chống lũ lụt. Việc
thành lập Tổng cục Thủy lợi góp phần quan trọng trong việc thống
nhất quản lý Nhà nước, tinh gọn bộ máy quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực thủy lợi, đê điều và phòng chống lũ lụt. Tuy nhiên, việc sáp
nhập hai cơ quan quản lý Nhà nước về thủy lợi và đê điều, phòng
1
Nghị định số 75/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ sửa đổi
điều 3 Nghị định số 01/2008/NĐ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2008, quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.

374
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

chống lũ lụt thành một cũng gây nhiều khó khăn trong quản lý và
điều hành, đặc biệt là trong tình hình mới, diễn biến mới của biến
đổi khí hậu.
Trước tình trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng và các hiện
tượng thời tiết cực đoan khác ngày càng diễn biến bất thường và
gay gắt (lũ, bão, triều cường, lũ quét, sạt lở đất, hạn mặn...), từ Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (tháng 01 năm 2016), Đảng, Nhà
nước đặc biệt quan tâm và dành nhiều nguồn lực, tập trung thực
hiện các giải pháp ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu. Đảng,
Nhà nước chỉ đạo thành lập cơ quan chuyên trách về phòng, chống
thiên tai. Ngày 17 tháng 02 năm 2017, Chính phủ ban hành Nghị
định số 15/2017/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và
trong tổ chức bộ máy của Bộ có Tổng cục Phòng, chống thiên tai,
thực hiện chức năng của cơ quan chuyên trách về phòng, chống
thiên tai. Ngày 03 tháng 7 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 26/2017/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Phòng, chống thiên
tai trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Theo đó,
Tổng cục Phòng, chống thiên tai có chức năng: tham mưu, giúp Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý nhà nước
và tổ chức thực thi pháp luật về phòng, chống thiên tai, đê điều
trong phạm vi cả nước; tổ chức thực hiện các hoạt động dịch vụ
công thuộc phạm vi quản lý Nhà nước.
Tổng cục Phòng chống thiên tai có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
đề xuất, trình các dự án luật và văn bản dưới luật, các chiến lược,
quy hoạch, cơ chế, chính sách, chương trình, đề án, tiêu chuẩn, quy
chuẩn kĩ thuật liên quan đến lĩnh vực quản lý; hướng dẫn chuyên
môn nghiệp vụ, tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kiểm tra tổ
chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách;
phòng ngừa và kiểm soát rủi ro thiên tai; ứng phó thiên tai; khắc
phục hậu quả thiên tai; quy hoạch, xây dựng, quản lý, phân cấp, bảo
vệ đê điều, hộ đê; hợp tác quốc tế trong phòng, chống thiên tai,...
375
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Về cơ cấu tổ chức, Tổng cục Phòng, chống thiên tai gồm Cục
Ứng phó và Khắc phục hậu quả thiên tai, Văn phòng Tổng cục,
Trung tâm Chính sách và Kĩ thuật phòng, chống thiên tai và 6 vụ:
Vụ Quản lý đê điều; Vụ Kế hoạch, Tài chính; Vụ Khoa học, Công
nghệ và Hợp tác quốc tế; Vụ Pháp chế, Thanh tra; Vụ Kiểm soát
an toàn thiên tai; Vụ Quản lý thiên tai cộng đồng. Vụ Quản lý đê
điều là đơn vị tham mưu giúp Tổng cục thực hiện các nhiệm vụ về
quản lý đê điều.
Sau khi thành lập, Tổng cục đã kiện toàn bộ máy, tuyển dụng
nhân sự theo yêu cầu công tác. Đến năm 2020, Tổng cục có 198 cán
bộ, công chức, viên chức và người lao động. Về quản lý nhà nước,
có 7 chuyên viên cao cấp; 30 chuyên viên chính và tương đương; 39
chuyên viên. Về trình độ chuyên môn, có 5 người trình độ tiến sỹ,
102 người trình độ thạc sỹ, 83 người trình độ đại học (18 người được
đào tạo trình độ đại học, trên đại học ở nước ngoài). Trong đó, có 33
cán bộ, công chức, viên chức thông thạo ngoại ngữ, có thể làm việc
độc lập, trực tiếp với chuyên gia nước ngoài.
Việc thành lập Tổng cục Phòng, chống thiên tai là một quyết
định đúng đắn, thể hiện chủ trương, chính sách và quyết tâm của
Đảng và Nhà nước đối với công tác phòng chống thiên tai, xây dựng
quản lý đê điều và các công trình phòng chống thiên tai nhằm chủ
động ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Sự
ra đời của Tổng cục Phòng, chống thiên tai cũng thể hiện vai trò và
tầm nhìn chiến lược trong công tác phòng chống thiên tai, xây dựng
đê điều nhằm đáp ứng, đảm bảo yêu cầu cho các chương trình mục
tiêu phát triển kinh tế hiện tại và tương lai.
Ngày 25 tháng 3 năm 2015, liên Bộ Nội vụ và Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn ban hành Thông tư liên tịch số 14/2015/
TTLT-BNNPTNT-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn thuộc Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Ngày
26 tháng 3 năm 2015, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban
hành Thông tư số 15/2015/TT-BNNPTNT, hướng dẫn nhiệm vụ các
376
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Chi cục và các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn. Chi cục Thủy lợi các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương thực hiện các chức năng và nhiệm vụ về đê điều, phòng
chống lụt bão, thủy lợi và nước sạch nông thôn.
Tại một số địa phương, Chi cục Quản lý đê điều và Phòng chống
lụt bão và Chi cục Thủy lợi hiện có khi đó được sáp nhập thành Chi
cục Thủy lợi. Việc sáp nhập Chi cục Quản lý đê điều và Phòng chống
lụt bão với Chi cục Thủy lợi là chủ trương của Nhà nước nhằm tinh
gọn bộ máy và thống nhất quản lý. Tuy nhiên, Chi cục Thủy lợi được
sát nhập thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong một phạm vi
rất rộng, bao gồm cả đê điều, phòng chống thiên tai và thủy lợi. Trong
khi đó, sau khi sáp nhập, Chi cục Thủy lợi ở một số tỉnh và thành phố
không có đơn vị chuyên môn, nghiệp vụ chuyên trách về đê điều và
phòng chống thiên tai. Điều này gây ra không ít khó khăn trong quản
lý đê điều ở các địa phương. Đặc biệt là việc tham mưu, xây dựng và
triển khai thực hiện quy hoạch, tu bổ, nâng cấp, quản lý, bảo vệ, hộ
đê và các biện pháp phòng chống thiên tai.
Theo Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BNNPTNT-BNV, đối
với các tỉnh có đê cấp III trở lên được thành lập Hạt Quản lý đê. Ở
cấp huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh, chức năng quản lý
Nhà nước về phòng, chống thiên tai, thủy lợi thuộc về Phòng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (huyện) hoặc Phòng Kinh tế (thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh)1.
Đối với công tác đê điều, Thông tư số 15/2015/TT-BNNPTNT
quy định cụ thể nhiệm vụ của Chi cục Thủy lợi cấp tỉnh và thành
phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện quy hoạch, đầu
tư, tu bổ, nâng cấp, sử dụng, quản lý đê điều, phòng chống sạt lở
bờ sông, bờ biển, triển khai thực hiện các công tác phòng, tránh và
giảm nhẹ thiên tai,...
1
Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BNNPTNT-BNV ngày 25 tháng 3 năm 2015,
hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan
chuyên môn về Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thuộc Ủy ban Nhân dân
cấp tỉnh, cấp huyện.

377
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Lực lượng quản lý đê ở các địa phương ngày càng được củng
cố về tổ chức, phát triển về đội ngũ và trình độ chuyên môn. Lực
lượng quản lý đê gồm lực lượng chuyên trách quản lý đê thuộc các
Hạt Quản lý đê và lực lượng quản lý đê nhân dân.
Theo Nghị định số 113/2007/NĐ-CP ngày 28 tháng 6 năm 2007
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đê
điều, lực lượng chuyên trách quản lý đê điều thuộc tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương có đê được tổ chức thành các Hạt Quản lý
đê trong phạm vi một huyện hoặc liên huyện. Hạt Quản lý đê là
đơn vị của Chi cục Quản lý đê điều và Phòng, chống lụt, bão thuộc
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp tỉnh. Hạt quản lý đê
có trụ sở làm việc, có con dấu và tài khoản riêng. Lực lượng chuyên
trách quản lý đê điều có chức năng trực tiếp quản lý và bảo vệ đê từ
đê cấp III đến đê cấp đặc biệt.
Đến năm 2020, trong 21 tỉnh, thành phố có đê từ cấp III đến cấp
đặc biệt, đã tổ chức được 111 Hạt Quản lý đê với 997 cán bộ chuyên
trách quản lý đê. Trong đó, 15 tỉnh, thành phố ở Bắc Bộ thành lập
được 93 Hạt Quản lý đê với 784 cán bộ; ở Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa,
Nghệ An và Hà Tĩnh) thành lập được 17 Hạt Quản lý đê với 131 cán
bộ; tỉnh Đồng Tháp có 01 Hạt Quản lý đê với 02 cán bộ. Ở Đồng
bằng sông Cửu Long, ngoài Đồng Tháp, còn có Hạt Quản lý đê Bến
Tre, Bạc Liêu và Cà Mau với 60 cán bộ chuyên trách quản lý đê1.
Lực lượng chuyên trách quản lý đê phát triển cả về số lượng và
trình độ chuyên môn, phần lớn có trình độ từ kỹ sư trở lên. Một số
tỉnh có đội ngũ cán bộ chuyên trách quản lý đê hùng hậu và chất
lượng, như: Nam Định 85 cán bộ (61 người có trình độ từ kỹ sư trở
lên); Hải Dương 127 cán bộ (74 người có trình độ từ kỹ sư trở lên);
Hà Nội 229 cán bộ (182 người có trình độ từ kỹ sư trở lên). Nhờ có
trình độ chuyên môn, được đào tạo bài bản, lại thường xuyên được
tập huấn hằng năm, nên lực lượng chuyên trách quản lý đê thực
1
Tổng cục Phòng chống thiên tai, Thống kê các Hạt Quản lý đê trong 19 tỉnh có
đê từ cấp III đến cấp đặc biệt (tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp).

378
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

hiện tương đối tốt vai trò, nhiệm vụ đươc giao, góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả quản lý, bảo vệ, bảo đảm an toàn đê điều và
công tác phòng chống thiên tai1.
Việc sắp xếp tổ chức theo ngành dọc của các Hạt Quản lý đê
đảm bảo việc chỉ đạo lực lượng chuyên trách quản lý đê thực hiện
các nhiệm vụ đã được quy định trong Luật Đê điều (quản lý vật
tư dự trữ phòng, chống lụt bão, tuần tra, phát hiện, xử lý sự cố giờ
đầu, xử lý vi phạm, …) được hiệu quả, kịp thời, nhất là trong bối
cảnh tình hình thiên tai, mưa lũ diễn biến ngày càng phức tạp, khó
lường, đe dọa đến sự an toàn của hệ thống đê điều.
Tuy nhiên, năm 2018, tại tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện
chuyển Hạt Quản lý đê trực thuộc Chi cục Thủy lợi về trực thuộc
Ủy ban nhân dân cấp huyện để quản lý. Việc chuyển này gây khó
khăn cho công tác quản lý đê điều của Hạt do phải kiêm nhiệm
thêm nhiều nhiệm vụ do Ủy ban nhân dân cấp huyện giao, từ
đó vai trò của công tác quản lý đê điều ở địa phương không được
duy trì như trước; ngoài ra, việc chỉ đạo Hạt Quản lý đê thực hiện
các nhiệm vụ đã được pháp luật quy định như tuần tra, theo dõi,
phát hiện, xử lý sự cố giờ đầu, xử lý vi phạm… của Chi cục, Sở gặp
nhiều khó khăn.
Lực lượng quản lý đê nhân dân được tổ chức, hoạt động theo
Điều 37, Điều 41 của Luật Đê điều năm 2006 và Thông tư số 26/2009/
TT-BNN ngày 11 tháng 5 năm 2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn. Tính đến năm 2020, trên cả nước đã có 21 tỉnh, thành phố
thành lập được lực lượng quản lý đê nhân dân với 1.829 người2.
Ở Bắc Bộ, đã có 12 tỉnh thành lập được lực lượng quản lý
đê nhân dân với 1.142 người, gồm: Tuyên Quang, Yên Bái, Thái
Nguyên, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nội,
1
Tổng cục Phòng chống thiên tai, Thống kê các Hạt Quản lý đê trong 19 tỉnh có
đê từ cấp III đến cấp đặc biệt (tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp).
2
Tổng cục Phòng chống thiên tai, Tổng hợp hiện trạng quản lý đê nhân dân tại
các tỉnh, thành phố (tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp).

379
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hòa Bình, Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình. Trong đó, ba tỉnh Thái
Bình, Nam Định và Quảng Ninh có lực lượng quản lý đê nhân dân
đông nhất, từ 170 người trở lên.
Ở Trung Bộ, có 6 tỉnh đã thành lập được lực lượng quản lý
đê nhân dân với 481 người, gồm: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Thừa Thiên Huế và Quảng Ngãi, Bình Định. Trong đó, lực lượng
quản lý đê nhân dân đông nhất là ở hai tỉnh: Nghệ An 133 người và
Hà Tĩnh 144 người.
Ở Nam Bộ, lực lượng quản lý đê nhân dân được thành lập ở 3
tỉnh, thành phố với 207 người, gồm: thành phố Hồ Chí Minh, Đồng
Tháp và Cà Mau. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh có lực lượng
quản lý đê nhân dân lên tới 163 người1.
Sự ra đời và phát triển của lực lượng quản lý đê nhân dân là một
mô hình sáng tạo có sự kế thừa và phát huy bài học kinh nghiệm
trong lịch sử về vai trò của nhân dân trong quản lý và bảo vệ đê
điều. Đây là lực lượng thường xuyên bám sát địa bàn, phối hợp với
lực lượng chuyên trách thuộc các Hạt Quản lý đê tiến hành kiểm
tra, tuần tra, canh gác, bảo vệ, phát hiện, xử lý kịp thời các sự cố,
ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về đê điều.
Hằng năm, lực lượng quản lý đê chuyên trách và lực lượng
quản lý đê nhân dân đều được tập huấn để cập nhật, trao đổi về
quy định pháp luật, công nghệ mới áp dụng trong quản lý, bảo vệ
đê điều; kinh nghiệm ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật về đê
điều, kỹ thuật xử lý giờ đầu sự cố đê điều, đặc biệt là diễn tập công
tác hộ đê để luôn sẵn sàng, phát hiện và xử lý kịp thời khi có sự cố
đê điều xảy ra.

5. Nâng cấp, kiên cố hóa hệ thống đê sông, đê biển


Trong giai đoạn này, Thủ tướng Chính phủ ban hành 3
chương trình củng cố, nâng cấp đê có quy mô rộng lớn và mang
1
Tổng cục Phòng chống thiên tai, Tổng hợp hiện trạng quản lý đê nhân dân tại
các tỉnh, thành phố (tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp).

380
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

tầm chiến lược bao gồm: Chương trình nâng cấp hệ thống đê
sông; Chương trình đầu tư, củng cố, bảo vệ và nâng cấp đê biển
hiện có các tỉnh có đê từ Quảng Ninh đến Quảng Nam và Chương
trình đầu tư củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển từ Quảng Ngãi
đến Kiên Giang.
Củng cố hệ thống đê sông ở Bắc Bộ và Trung Bộ
Chương trình nâng cấp hệ thống đê sông giai đoạn 2009 - 2020
thực hiện theo Quyết định số 2086/QĐ-TTg ngày 9 tháng 12 năm
2009 của Thủ tướng Chính phủ là một trong những chương trình
củng cố đê sông lớn và toàn diện nhất trong lịch sử xây dựng,
quản lý đê điều ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Tổng kinh phí đầu tư
cho chương trình lên tới 19.559 tỷ đồng (gồm cả ba vùng Bắc Bộ,
Bắc Trung Bộ và Đồng Tháp) từ các nguồn vốn ngân sách Trung
ương, địa phương và vốn vay ODA. Phạm vi thực hiện trên hầu
hết các tỉnh có đê ở Bắc Bộ, 15 tỉnh và thành phố, gồm: Hòa Bình,
Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hưng
Yên, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nội, Hà
Nam, Nam Định và Ninh Bình1.
Mục tiêu của chương trình là: “Củng cố, nâng cấp các tuyến
đê nhằm đảm bảo an toàn chống lũ thiết kế, phấn đấu chống
được lũ cao hơn [...] theo quy hoạch phòng, chống lũ và đê điều
của các hệ thống sông, gồm: tôn cao, mở rộng đủ cao độ, mặt cắt
thiết kế; xử lý dứt điểm những trọng điểm xung yếu về nền đê,
thân đê; cải tạo mặt đê, cơ đê thành đường giao thông phục vụ
dân sinh, kinh tế; sửa chữa, xây dựng mới các cống dưới đê; đồng
thời đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất nhằm tăng cường cho
công tác quản lý đê”2.
Các nội dung nhiệm vụ cụ thể gồm:
1
Quyết định số 2086/QĐ-TTg ngày 09 tháng 12 năm 2009 phê duyệt chương
trình nâng cấp hệ thống đê sông đến năm 2020.
2
Quyết định số 2086/QĐ-TTg ngày 09 tháng 12 năm 2009 phê duyệt chương
trình nâng cấp hệ thống đê sông đến năm 2020.

381
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

- Củng cố thân đê bằng cách tôn cao, áp trúc, mở rộng mặt cắt,
đắp cơ đê ở thượng và hạ lưu; xây dựng đường tràn sự cố phòng
chống lũ cực hạn trên một số tuyến đê; khoan phụt vữa gia cố thân
đê; trồng cỏ, cây chắn sóng chống sạt lở, xói mòn.
- Cứng hóa mặt đê và làm đường hành lang chân đê đảm bảo
thuận tiện cho công tác hộ đê, phát triển giao thông.
- Xử lý nền đê, gồm: lấp đầm, ao, hồ ven đê, chống trượt, lún
cho thân đê.
- Xử lý sạt lở bờ sông, gồm nâng cấp, xây mới các kè, kè lát mái,
ưu tiên cho những tuyến đê sát bờ sông.
- Tu sửa nâng cấp cống dưới đê, xây dựng lại các cống dưới đê
bị hư hỏng, không đảm bảo an toàn khi vận hành, nâng cấp, xây
dựng lại các cống dưới đê bị hư hỏng không đảm bảo an toàn khi
vận hành.
- Nghiên cứu khoa học, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang
thiết bị cho công tác quản lý đê, nghiên cứu khoa học; đầu tư nâng
cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho công tác quản lý đê1.
Tiến trình thực hiện chương trình và kinh phí được chia thành
các giai đoạn. Trong đó giai đoạn 2009 - 2010 tập trung đầu tư, thực
hiện nâng cấp, tu bổ một số tuyến đê xung yếu và cấp bách (kinh
phí 2.000 tỷ đồng). Giai đoạn 2011 - 2015 tập trung vào các giải pháp
bảo vệ an toàn cho các tuyến đê, như: đắp hoàn chỉnh mặt cắt đê;
lấp đầm, ao ở chân đê; sửa chữa, xây mới thay thế các cống đã quá
cũ, bị hư hỏng; trồng cây chắn sóng và cứng hóa một phần mặt
đê (kinh phí 10.000 tỷ đồng). Giai đoạn 2016 - 2020 tiến hành hoàn
chỉnh toàn bộ chương trình (kinh phí 7.559 tỷ đồng).
Theo hạng mục các nhiệm vụ, ở Bắc Bộ, tổng chiều dài các tuyến
đê tiến hành tôn cao, áp trúc, đắp cơ đê là 1.908km, tổng khối lượng
đất đào đắp khoảng 41.126 nghìn m3. Tổng chiều dài các tuyến đê tiến
hành cứng hóa mặt đê và làm đường hành lang chân đê là 1.927km,
khối lượng bê tông dự tính xấp xỉ 60 triệu m3. Chiều dài các tuyến đê
1
Quyết định số 2086/QĐ-TTg ngày 09 tháng 12 năm 2009 phê duyệt chương
trình nâng cấp hệ thống đê sông đến năm 2020.

382
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

khoan phụt vữa và xử lý ẩn họa thân đê là 220km. Các tuyến đê cần


trồng cỏ, trồng cây chắn sóng có tổng chiều dài 361,2km. Xử lý nền
đê yếu với tổng chiều dài 16km. Sửa chữa, cải tạo và xây mới 596 cống
dưới đê. Tu sửa và nâng cấp 375km kè bảo vệ đê.
Chương trình tu sửa, nâng cấp đê sông trong 15 tỉnh ở Bắc Bộ
và 3 tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh) đã
đạt được những kết quả quan trọng, tính đến giữa năm 2017, đã có
489 dự án được phê duyệt, trong đó 315 dự án đã hoàn thành, cụ
thể như sau:
Ở Bắc Bộ có 382 dự án được phê duyệt, chiếm 78% tổng dự án
được phê duyệt, 230 dự án đã hoàn thành, chiếm 73% tổng số dự án
hoàn thành. Ở Bắc Bộ, ba tỉnh có số dự án được phê duyệt và dự án
hoàn thành lớn nhất là Phú Thọ, Hà Nội và Nam Định. Ở ba tỉnh
thuộc khu vực Bắc Trung Bộ có 107 dự án được phê duyệt, trong đó
86 đã hoàn thành. Thanh Hóa là tỉnh có số dự án lớn nhất, 90 được
phê duyệt, trong đó 79 dự án đã hoàn thành.
Về chiều dài đê, kè và số lượng cống được nâng cấp, tính chung
toàn bộ Chương trình đến tháng 7 năm 2017, đã có gần 1.600km đê,
422km kè và 591 cống được tu bổ, nâng cấp, sửa chữa và xây mới.
Trong đó, ở Bắc Bộ có 1.080km đê, 334km kè và 213 cống được tu bổ,
nâng cấp, cải tạo và xây mới. Như vậy, Bắc Bộ chiếm 65% chiều dài
đê, 79% chiều dài kè và 36% số cống được sửa chữa, nâng cấp và xây
mới thuộc toàn bộ Chương trình.
Khối lượng đào, đắp của các dự án thuộc Chương trình, tính đến
giữa năm 2017, đạt 44,2 triệu m3 đất, 11 triệu m3 đá, đổ gần 3 triệu m3
bê tông và khoan phụt vữa xử lý thân đê gần 1 triệu m3. Tổng vốn
đầu tư từ nguồn kinh phí Trung ương đạt gần 19.200 tỷ đồng1.
1
Tổng hợp kết quả thực hiện Chương trình nâng cấp hệ thống đê sông đến
năm 2020 (số liệu tính đến tháng 6 năm 2017) của 19 tỉnh, thành phố có đê
thuộc phạm vi Chương trình nâng cấp hệ thống đê sông đến năm 2020, Báo cáo
kèm theo công văn số 5800/BNN-TCTL ngày 17 tháng 7 năm 2017 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (Tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp).

383
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Củng cố, nâng cấp đê biển ở Bắc Bộ và Trung Bộ

Trong giai đoạn này, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
hai chương trình củng cố, nâng cấp đê biển từ Quảng Ninh đến
Kiên Giang: Quyết định số 58/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm
2006 phê duyệt chương trình đầu tư củng cố, bảo vệ và nâng cấp
đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam và Quyết định số 667/
QĐ-TTg ngày 27 tháng 5 năm 2009 phê duyệt chương trình củng
cố, nâng cấp hệ thống đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang.

Theo các quyết định này, các tuyến đê biển được nâng cấp,
bảo vệ và củng cố để chủ động phòng, chống lụt bão, nước biển
dâng, hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra, kết hợp giữa nhiệm
vụ ngăn mặn, giữ ngọt, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã, góp
phần bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng ven biển. Mục tiêu
trước mắt của chương trình trong giai đoạn 2006 - 2010 là nâng
cấp, củng cố những đoạn đê biển xung yếu để bảo vệ dân cư và
các khu vực kinh tế quan trọng. Các tuyến đê sau khi được củng
cố, nâng cấp phải đảm bảo có thể chống được bão cấp 9, cấp 10 tổ
hợp với triều cường tần suất 5%. Đối với các tuyến đê bảo vệ trực
tiếp các khu vực dân cư tập trung phải được thiết kế bảo đảm an
toàn chống bão cấp 121.

Tính đến giữa năm 2017, ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã nâng cấp, tu


bổ, cải tạo, xây mới được:

- Về đê sông, 1.575km (Trung Bộ 494km), 422km kè (88km ở


Trung Bộ), 591 cống (372 cống ở Trung Bộ). Tổng khối lượng đào
đắp đê sông, kè, cống dưới đê ở Bắc Bộ và Trung Bộ đạt 44,131 triệu
m3 đất (14,6 triệu m3 ở Trung Bộ), 10,5 triệu m3 đá (Trung Bộ 990m3),
đổ gần 2,8 triệu m3 bê tông (712 nghìn m3 ở Trung Bộ), khoan phụt
1
Quyết định số 58/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 3 năm 2006, phê duyệt chương
trình đầu tư củng cố, bảo vệ và nâng cấp đê biển hiện có tại các tỉnh có đê từ
Quảng Ninh đến Quảng Nam.

384
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

vữa 940 nghìn m3 (Trung Bộ 180 nghìn m3)1.

- Về đê biển, tính chung cả hai chương trình nâng cấp đê


biển trong phạm vi các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ, đã nâng cấp,
cải tạo, sửa chữa và xây mới được 798km đê, 211km kè, 999 cống,
trồng 488ha cây chắn sóng. Trong đó ở Trung Bộ nâng cấp được
490km đê biển (442,3km thuộc chương trình 58 và 47,2km thuộc
chương trình 667), 99,2km kè (78,2km thuộc chương trình 58 và
21km thuộc chương trình 667). Cải tạo, nâng cấp, sửa chữa và xây
mới 776 cống (697 cống thuộc chương trình 58 và 79 cống thuộc
chương trình 667)2.

Hình 23. Đê biển 1, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng3

1
Tổng hợp kết quả thực hiện Chương trình nâng cấp hệ thống đê sông đến
năm 2020 (số liệu tính đến tháng 6 năm 2017) của 19 tỉnh, thành phố có đê
thuộc phạm vi Chương trình nâng cấp hệ thống đê sông đến năm 2020, Báo cáo
kèm theo công văn số 5800/BNN-TCTL ngày 17 tháng 7 năm 2017 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn.
Báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện chương trình nâng cấp đê biển các tỉnh từ Quảng
2

Ninh đến Quảng Nam (từ năm 2006) và các tỉnh từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang từ
năm 2009 đến tháng 6 năm 2017 (Tài liệu do Vụ Quản lý đê điều cung cấp).
3
Chi cục Thủy lợi và Phòng chống thiên tai Hải Phòng.

385
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Tổng kinh phí đầu tư cho nâng cấp đê biển ở Bắc Bộ là 9.131.715
triệu đồng. Kinh phí đã thực hiện tính đến giữa năm 2017 đạt
6.754.990 triệu đồng. Tổng kinh phí đầu tư cho nâng cấp đê biển ở
Trung Bộ là 13.781.428 triệu đồng (trong đó 10.760.970 triệu đồng
thuộc chương trình 58 và 3.020.458 triệu đồng thuộc chương trình
667). Kinh phí đã thực hiện tính đến giữa năm 2017 đạt 8.177.239
triệu đồng (trong đó 6.532.301 triệu đồng thuộc chương trình 58 và
1.644.938 triệu đồng thuộc chương trình 667)1.
Qua ba chương trình củng cố đê sông, đê biển, hệ thống đê
ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã được củng cố hơn vững chắc trước, hiệu
quả phòng chống lụt bão được nâng lên một bước, giao thông
trên mặt đê, hành lang chân đê cơ bản thông suốt với 2.343km
mặt đê được cứng hóa bằng bê tông, trải nhựa, 311km được rải
cấp phối trong tổng số hơn 2.700km đê và 604km đường hành
lang chân đê phía đồng, 118km đường hành lang chân đê phía
sông được cứng hóa góp phần to lớn vào phát triển kinh tế - xã
hội. Các tuyến đê biển được nâng cấp ngoài mục đích phòng
chống lụt bão và nước biển dâng còn góp phần to lớn vào việc
bảo vệ dân cư, phát triển nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, phát
triển giao thông, tăng cường khả năng phòng thủ, đảm bảo an
ninh quốc phòng, tạo điều kiện phát triển kinh tế bền vững vùng
ven biển, trong đó có du lịch, nhất là du lịch sinh thái biển, ổn
định, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần đảm bảo an sinh xã
hội, xóa đói giảm nghèo.

1
Tổng hợp kết quả thực hiện Chương trình củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển
các tỉnh từ Quảng Ninh đến Quảng Nam và từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang, số
liệu tổng hợp theo văn bản số 7585/BNN-PCTT ngày 12 tháng 9 năm 2017 của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

386
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hình 24. Đê kết hợp giao thông hữu Lô, tỉnh Phú Thọ

Hình 25. Đê tả Hồng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội1


Đồng thời, để chống xuống cấp hệ thống đê điều, hằng năm
cũng bố trí kinh phí để duy tu bảo dưỡng đê điều, xử lý cấp bách
sự cố đê điều từ nguồn ngân sách Trung ương và địa phương. Công
tác duy tu bảo dưỡng đê điều tập trung cho việc cứng hóa, cải tạo
mặt đê, đường hành lang chân đê; chính trang mái, cơ, chân đê; sửa
chữa hư hỏng của kè, cống, điếm canh đê; xây dựng kho vật tư, mua
sắm bổ sung vật tư dự trữ phòng chống lụt bão... Những sự cố đê
điều nguy hiểm cũng được bố trí kinh phí kịp thời đề xử lý cấp bách
từ nguồn kinh phí này, giữ an toàn công trình đê điều.

1
Tổng cục Phòng, chống thiên tai

387
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Điếm canh đê là nơi lực lượng tuần tra canh gác thường trực
khi có báo động lũ trên các tuyến đê, cũng đã trải qua nhiều năm sử
dụng, cần được tu sửa, xây mới; một số điếm quá cũ, vị trí không phù
hợp nên bị bỏ hoang, làm mất mỹ quan khu vực, cần phá bỏ. Qua rà
soát, đến năm 2020 có 1.405 điếm canh đê trên các tuyến đê ở 19 tỉnh,
thành phố có đê từ cấp III trở lên; trong đó, có 884 điếm đang hoạt
động bình thường, 232 điếm cần tu sửa, 246 điếm hư hỏng nặng cần
xây mới, 43 điếm canh đê đã cũ, không còn phù hợp sử dụng, cần
phá bỏ. Tổng cục Phòng, chống thiên tai đã chỉ đạo thiết kế các mẫu
và hướng dẫn để thống nhất việc xây dựng điếm canh đê ở các địa
phương. Hằng năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bố trí
kinh phí từ nguồn vốn duy tu bảo dưỡng, các địa phương cũng chủ
động bố trí từ nguồn kinh phí của địa phương để tu sửa, xây mới, phá
bỏ các điếm canh đê đảm bảo điều kiện làm việc cho lực lượng tuần
tra canh gác đê điều cũng như mỹ quan trên các tuyến đê.

Hình 26. Điếm canh đê 2 tầng trên đê hữu Hồng, thành phố Hà Nội
Cùng với việc đầu tư, tu bổ, duy tu bảo dưỡng hệ thống đê điều, các
vật tư cũng được dự trữ để sử dụng trong trường hợp phải xử lý khẩn
388
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

cấp các sự cố đê điều trong mùa lũ, bão. Đến năm 2020, trên địa bàn của
21 tỉnh, thành phố có đê từ cấp III đến cấp đặc biệt có 632 kho, bãi vật
tư dự trữ phòng chống lụt bão (trong đó có 194 kho trong nhà, 438 kho
ngoài trời). Các vật tư dự trữ chính tại các kho, bãi này có 7.866.018 bao
tải thường, 68.046 bao tải cỡ lớn, 414.150m3 đá hộc, 1.202.705m2 bạt chắn
sóng, 166.315m2 bạt chống thấm, 186.751m2 vải lọc...

Hình 27. Bản đồ đê điều Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ hiện nay

389
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Tuy nhiên, từ năm 2017 đến 2020, công tác đê điều ở Bắc Bộ và
Trung Bộ đối diện với nhiều khó khăn, thử thách do tình hình bão
lụt, xói lở, sạt lở đất xảy ra với mức độ ngày càng khốc liệt.
Tháng 9 năm 2017, cơn bão số 10 đổ bộ trực tiếp vào khu vực Hà
Tĩnh, Quảng Bình với cường độ cấp 11 - 12, giật cấp 14 - 15; do ảnh
hưởng của bão mạnh kết hợp với kỳ triều cường cao nhất trong năm
đã gây nước dâng và sóng rất lớn, tác động rất mạnh vào hệ thống đê,
kè biển, gây hư hỏng nghiêm trọng nhiều tuyến đê biển từ Hải Phòng
đến Thừa Thiên Huế với chiều dài trên 55km và 123 sự cố về đê điều.

Hình 28. Sóng biển tràn qua mặt đê gây xói, sạt mái phía đồng đê biển Hải Hậu,
tỉnh Nam Định trong bão số 10 năm 2017
Tháng 10 năm 2017, do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới kết
hợp không khí lạnh gây mưa to đến rất to ở vùng Nam Đồng bằng
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.Trên hệ thống sông các tỉnh, thành phố
như Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa đã xảy ra
một đợt lũ lớn, đặc biệt lớn đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
các tuyến đê. Lũ đã tràn và xấp xỉ tràn nhiều tuyến đê như đê Lạch
Trường, đê Cầu Chày, đê sông Hoạt, đê hữu Hoàng Long1. Lũ đã
gây ra 242 sự cố về đê điều như nứt sạt mái đê, thẩm lậu, rò rỉ mái
đê, đùn sủi chân đê...

1
Trên sông Hoàng Long, tỉnh Ninh Bình xảy ra lũ lịch sử, đỉnh lũ tại trạm Bến Đế
là +5,53m, trên báo động 3 là 1,53m và vượt mức lũ lịch sử năm 1985 là 0,29m.

390
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hình 29. Đê hữu Hoàng Long, Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình trong lũ tháng 10 năm 20171
Các sự cố đê, kè, cống năm 2017 cho thấy diễn biễn bất thường
và ác liệt của bão, lũ do biến đổi khí hậu gây ra, đồng thời cũng đặt
ra nhiều vấn đề về chất lượng, hiệu quả của các tuyến đê.

Hình 30. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo chống lũ tại tràn Lạc Khoái,
đê hữu Hoàng Long, tỉnh Ninh Bình tháng 10 năm 20172

1
Tổng cục Phòng, chống thiên tai.
2
Thống Nhất - TTXVN

391
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Sau mùa lũ, bão năm 2017, Tổng cục Phòng, chống thiên tuy
mới được thành lập nhưng đã kịp thời tham mưu cho Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo Thủ tướng Chính phủ
quyết định hỗ trợ cho các địa phương để xử lý cấp bách các công
trình đê điều bị sự cố do ảnh hưởng của bão, lũ năm 2017 từ nguồn
dự phòng ngân sách trung ương năm 2018 với tổng kinh phí là 1.300
tỷ đồng. Nguồn kinh phí này được phân bổ trực tiếp cho 10 tỉnh,
thành phố để tổ chức thực hiện. Đến tháng 4 năm 2020, các dự án
này đã hoàn thành, đắp áp trúc mở rộng, gia cố mặt đê 180km, làm
kè chống sạt lở 12,2km; tu sửa 03 cống và làm mới 43 cống.
Năm 2020 chứng kiến một thảm họa chưa từng có trong lịch sử
ở các tỉnh miền Trung từ Hà Tĩnh trở vào khi phải hứng chịu 8 cơn
bão và 01 áp thấp nhiệt đới trong vòng 02 tháng (từ ngày 15 tháng 9
đến ngày 15 tháng 11). Bão kèm theo mưa lớn kéo dài gây lũ trên các
sông và nước biển dâng cao, nhiều vụ sạt lở nghiêm trọng, ngập lụt
diện rộng, kéo dài... khiến 273 người chết, thiệt hại kinh tế ước tính
37 nghìn tỷ đồng (1,6 tỷ đô la Mỹ). Nhiều tuyến đê, kè biển bị hư
hỏng nặng, trong đó từ Nghệ An đến Phú Yên đã có 88 điểm bị sạt
lở với tổng chiều dài 141km1 như sạt lở bờ biển Gio Hải (Gio Linh,
Quảng Trị), kè biển Hội An (Quảng Nam)...
Trong và sau lũ, Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo chính quyền và
nhân dân địa phương cùng lực lượng quân đội khắc phục các sự cố
đê, kè, cống và hậu quả do lũ lụt gây ra. Đích thân Phó Thủ tướng
Trịnh Đình Dũng, Tổng cục trưởng Tổng cục Phòng chống thiên tai
Trần Quang Hoài, lãnh đạo Vụ Quản lý đê điều trực tiếp có mặt tại
những điểm nóng về lũ lụt và đê điều ở Trung Bộ để kiểm tra, đốc
thúc và chỉ đạo công tác khắc phục sự cố.
Ở khu vực Tây Nguyên, chỉ Đắk Lắk có một số tuyến đê. Trong
đó, có tuyến đê bao Quảng Điền dài 42km thuộc huyện Krông Ana,
được đầu tư nâng cấp với tổng kinh phí 310 tỉ đồng, hoàn thành
1
Báo cáo tổng kết công tác phòng chống thiên tai năm 2020, triển khai nhiệm vụ
năm 2021 của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai.

392
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

vào năm 2014. Tuyến đê này chạy dọc sông Krông Ana có nhiệm vụ
ngăn lũ tiểu mãn, bảo vệ cho gần 3.000ha lúa và hàng nghìn hộ dân.
Mặt đê được bê tông hóa cũng tạo điều kiện phát triển giao thông,
đi lại của người dân thuận lợi hơn.
Đắp đê và xây dựng các công trình phòng chống lũ lụt, thiên tai
ở Nam Bộ
Trong giai đoạn 2006 – 2020, trên cơ sở các chương trình quy
hoạch và định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đê điều và phòng
chống thiên tai, Nhà nước đã huy động các nguồn vốn đầu tư, triển
khai nhiều dự án xây dựng, nâng cấp đê điều và các công trình
phòng chống lũ lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long. Riêng đối với đê
biển, một trong những quyết định có ý nghĩa quan trọng, tạo động
lực cho sự phát triển nhanh, mạnh của hệ thống đê biển ở Đồng
bằng sông Cửu Long là việc triển khai thực hiện Quyết định số 667/
QĐ-TTg ngày 27 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ về chương trình
củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang.
Đây là kết quả của quá trình nghiên cứu, khảo sát, đánh giá của
Cục Quản lý đê điều và Phòng chống lụt bão cùng nhiều chuyên
gia thuộc các viện nghiên cứu và trường đại học. Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đã tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm khoa
học, lấy ý kiến về việc xác định tuyến, các thông số và chỉ tiêu thiết
kế các tuyến đê biển.
Tháng 3 năm 2008, Hội nghị về củng cố, nâng cấp đê biển Đồng
bằng sông Cửu Long diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh. Tham dự
hội nghị có nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Bộ trưởng Cao Đức
Phát, Cục trưởng Cục Quản lý đê điều và Phòng chống lụt bão Đặng
Quang Tính cùng nhiều chuyên gia, các nhà khoa học. Sau hội nghị,
tháng 9 năm 2008, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm Tờ
trình trình Chính phủ về chương trình củng cố, nâng cấp đê biển từ
Quảng Ngãi đến Kiên Giang.
Đây là giai đoạn Nhà nước đầu tư rất lớn cho xây dựng, củng
cố, cải tạo đê biển, trong đó chương trình cải tạo, nâng cấp đê biển
393
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang có thể coi là một “siêu dự án về đê


biển”. Các tỉnh từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang có tổng chiều dài
bờ biển khoảng 1.590km trải dài qua 15 tỉnh, với nhiều thành phố,
thị xã, đặc biệt là cả huyện đảo, trong đó riêng đê biển có chiều dài
khoảng 896km. Nhiệm vụ và mục tiêu của chương trình là: “Củng
cố, nâng cấp các tuyến đê hiện có và xây dựng các công trình phụ
trợ khác, trồng và giữ rừng chắn sóng ven đê, thành một tuyến đê
thống nhất, bền vững, đảm bảo an sinh và phát triển kinh tế - xã hội
của các địa phương ven biển”1.
Yêu cầu của việc nâng cấp, cải tạo đê biển từ Quảng Ngãi đến
Kiên Giang là kết hợp với điều chỉnh để xây dựng các tuyến đê mới,
cầu, cống để đảm bảo phát triển giao thông. Các tuyến đê sau khi
được củng cố, nâng cấp tối thiểu phải chống được bão cấp 9 và thủy
triều ứng với tần suất 5%. Chương trình được thực hiện từ năm
2009 đến năm 2020, chia thành 3 giai đoạn: 2009 - 2012; 2013 - 2016
và 2017 - 2020. Theo danh mục các tuyến đê cần được củng cố, nâng
cấp kèm theo Quyết định này thì toàn Nam Bộ có 27 tuyến, trong
đó ở Đồng bằng sông Cửu Long có 20 tuyến.
Tổng kinh phí dự tính đầu tư cho chương trình nâng cấp đê
biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang cho cả giai đoạn 2009 - 2020
là 19.481 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách, vốn vay ODA và nguồn
vốn của các địa phương. Trong số này, riêng đầu tư dự tính cho đê
biển từ thành phố Hồ Chí Minh đến Kiên Giang là 12.037 tỷ đồng,
chiếm 62% tổng số vốn. Trong các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long,
Cà Mau được đầu tư vốn cao nhất, 3.119 tỷ đồng, kế tiếp là Kiên
Giang 2.037 tỷ đồng. Tổng số vốn đầu tư dự tính cho đê biển Cà
Mau và Kiến Giang chiếm 43% tổng số vốn dự tính đầu tư nâng cấp
đê biển của toàn Nam Bộ.
Tính đến năm 2020, chương trình nâng cấp đê biển ở Nam Bộ
đã đạt được một số kết quả quan trọng, đã có gần 323km đê biển,
1
Quyết định số 667/QĐ-TTg ngày 27 tháng 5 năm 2009, về phê duyệt chương
trình củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang.

394
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

30km kè biển, 225 cống được cải tạo, nâng cấp và xây mới, trồng
11,47ha cây chắn sóng. Cụ thể các tỉnh như sau:
Bảng 24. Kết quả thực hiện chương trình nâng cấp đê biển ở Nam Bộ
(đến 2020)

Chiều dài đê Chiều dài kè Cống Cây chắn


Tỉnh
(km) (km) (chiếc) sóng (ha)
Bà Rịa Vũng Tàu 0 1,776 16 0
TP Hồ Chí Minh 0 0 0 0
Tiền Giang 16,765 3,605 3 0
Bến Tre 73,526 0 11 0
Trà Vinh 80,769 6,262 109 0
Sóc Trăng 73,942 1,600 65 0
Bạc Liêu 52,400 1,142 4 11,47
Cà Mau 25,405 13,613 0 0
Kiên Giang 0 2,000 17 0
Tổng 323,8 29,998 225 11,47
[Nguồn: Tổng hợp kết quả thực hiện chương trình nâng cấp đê biển các tỉnh
từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang (tính đến hết tháng 6/2017), số liệu tổng hợp
theo văn bản số 7585/BNN-PCTT ngày 12 tháng 9 năm 2017 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn]

Cùng với nâng cấp đê, kè biển, việc nâng cấp, tu bổ đê sông,
đê bao và bờ bao ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long cũng được
triển khai rộng khắp theo các chương trình mục tiêu quy hoạch về
phòng chống lũ, thủy lợi và phát triển kinh tế - xã hội theo hướng
bền vững.
Ở vùng Đồng Tháp Mười đã triển khai xây dựng hệ thống thủy
lợi Bảo Định giai đoạn 2 thuộc hai tỉnh Tiền Giang và Long An. Hệ
thống này gồm hệ thống đê bao và cống dưới đê (nâng cấp 3 cống
và xây mới 25 cống), hệ thống kênh trục. Việc nâng cấp, mở rộng hệ
thống Bảo Định nhằm tăng cường hiệu quả ngăn lũ, ngăn mặn, giữ
và dẫn ngọt, tiêu chua, thoát lũ cho 64.164 ha. Từ năm 2006 đến 2012
đã hoàn thành 16 công trình, trong đó có hệ thống đê bao Thạnh
Hóa (Long An) và đê bao Cao Lãnh (Đồng Tháp).
395
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Đồng Tháp là tỉnh duy nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long nằm
trong Chương trình nâng cấp hệ thống đê sông đến năm 2020, theo
Quyết định số 2086/QĐ-TTg ngày 09 tháng 12 năm 2009 của Thủ
tướng Chính phủ. Đồng Tháp đã triển khai vào năm 2009 (hoàn
thành năm 2015) dự án nâng cấp 6,2km đê bảo vệ thị trấn Sa Rài,
gồm: đắp áp trúc mặt đê, cơ đê, cứng hóa mặt đê, lát mái bê tông
mương tiêu, xây dựng cống thoát nước, cầu giao thông. Tổng khối
lượng đào đắp đạt 130,2 nghìn m3 đất, 3,5 nghìn m3 đá, đổ 3,7 nghìn
m3 bê tông1.

Hình 31. Đê bao Sa Rài, Tân Hồng, Đồng Tháp


Ở vùng bán đảo Cà Mau, tiến hành củng cố được 70km đê sông
ở tỉnh Cà Mau, sửa chữa, cải tạo và xây mới 43 cống dưới đê. Ở Sóc
Trăng từ năm 2018 đến 2020, triển khai xây dựng hệ thống đê bao
ngăn mặn và đường an ninh quốc phòng, ứng cứu tàu thuyền trên
địa bàn huyện Trần Đề.
Vùng giữa hai sông Tiền và sông Hậu: ở Bến Tre, thực hiện dự
án thích ứng với biến đổi khí hậu do Đan Mạch tài trợ giai đoạn
2010-2014 với tổng đầu tư 140 tỷ đồng. Đã xây dựng được 15 mô
hình thí điểm thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó có xây dựng
một số tuyến đê bao chống lụt.
1
Tổng hợp kết quả thực hiện Chương trình củng cố nâng cấp hệ thống đê sông
tỉnh Đồng Tháp, kèm theo Công văn số 969/SNN-KHTC ngày 31 tháng 7 năm
2017 của Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Đồng Tháp.

396
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Ở vùng Tứ giác Long Xuyên: năm 2018 triển khai xây dựng dự
án cống Tha La và cống Trà Sư ở An Giang (thay thế cho đập cao su
Tha La và Trà Sư) nhằm kiểm soát, điều tiết và thoát lũ ra biển Tây,
đảm bảo an toàn cho 235.770 người dân và 94.409ha diện tích đất tự
nhiên thuộc 04 huyện, thành phố của tỉnh An Giang (Tri Tôn, Tịnh
Biên, Châu Phú và thành phố Châu Đốc).
Cho đến năm 2020, hệ thống đê và bờ bao được hình thành ở
Đồng bằng sông Cửu Long với tổng chiều dài 46.331km, trong đó
bao gồm 637km đê biển, 1.151km đê sông, đê cửa sông và 44.543km
đê bao, bờ bao ven các kênh rạch nội đồng1.
Nhờ phát triển hệ thống đê bao,bờ bao và đặc biệt cùng với sự
phát triển nhanh, mạnh đê biển trong giai đoạn này đã góp phần to
lớn kiểm soát được lũ, ngăn được mặn trong một số vùng. Hệ thống
đê bao, bờ bao cùng hệ thống cống kết hợp với hệ thống kênh còn
đóng vai trò quan trọng trong việc thau chua, rửa phèn, lấy phù sa,
cải tạo đất, mở rộng diện tích, tăng vụ, tăng năng suất cây trồng. Tuy
nhiên, tình trạng sạt lở bờ sông, đê, kè vẫn thường xuyên xảy ra do
hệ thống đê, đặc biệt là đê biển còn thấp và chưa vững chắc.
Việc đầu tư tu bổ, nâng cấp hệ thống đê điều trên toàn quốc
trong giai đoạn này so với các giai đoạn trước, rõ ràng đã có nhiều
điểm tiến bộ:
Thứ nhất, đã có các chương trình dài hạn, tổng thể để tu bổ,
nâng cấp các hệ thống đê sông, đê biển, xác định rõ ràng mục tiêu,
tiêu chuẩn, giải pháp kỹ thuật, nguồn vốn, phân giao nhiêm vụ cụ
thể để thực hiện; trong quá trình triển khai có giám sát, đánh giá.
Thứ hai, đối với đê biển, công trình mới được quan tâm nhiều
hơn trong giai đoạn này đã có một chương trình nghiên cứu riêng,
Chương trình khoa học công nghệ phục vụ xây dựng đê biển và
công trình thủy lợi vùng cửa sông ven biển2 gồm các đề tài nghiên
1
Tổng cục Phòng, chống thiên tai, Báo cáo hiện trạng hệ thống đê đê, bờ bao và
công tác phân loại, phân cấp đê khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, năm 2020.
2
Quyết định số 671/QĐ-BNN-KHCN ngày 15 tháng 3 năm 2007 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt Chương trình khoa học công nghệ
phục vụ xây dựng đê biển và công trình thủy lợi vùng cửa sông ven biển.

397
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

cứu toàn diện về số liệu cơ bản về triều, nước dâng dọc bờ; chiều cao
sóng tính toán thiết kế đê biển; mặt cắt ngang đê biển hợp lý; giải
pháp đắp đê bằng vật liệu địa phương và đắp trên nền đất yếu... do
Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, trường Đại học Thủy lợi, Viện
Cơ học thực hiện và kết quả đã ban hành Tiêu chuẩn kỹ thuật áp
dụng cho Chương trình củng cố, bảo vệ và nâng cấp đê biển theo
Quyết định số 1613/QĐ-BNN-KHCN ngày 9 tháng 7 năm 2012 của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đối với đê bao, bờ bao
Đồng bằng sông Cửu Long, có đề tài Nghiên cứu đề xuất các giải
pháp khoa học công nghệ xây dựng hệ thống đê bao, bờ bao nhằm
phát triển bền vững vùng ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long do
Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam thực hiện.
Thứ ba, chất lượng thi công đắp đê được nâng cao rõ rệt. Trải
qua quá trình đắp đê nhiều thời kỳ, với khả năng về kỹ thuật, kinh
tế bị hạn chế, đất được tận dụng ở khu vực bãi sông hoặc phía đồng,
chủ yếu là đất ướt, biện pháp đắp thủ công, mặc dù cũng được
lưu ý, ngăn chặn nhưng việc đắp đê kê ba chồng đấu, đắp không
đầm nện vẫn diễn ra, dẫn đến chất lượng thân đê không đảm bảo,
thường gây ra các sự cố đê điều khi có lũ. Trong giai đoạn này, các
tuyến đê được đắp tôn cao, áp trúc về cơ bản là bằng cơ giới, đất
được lấy tại các bãi, mỏ có chất lượng, việc đắp đê được kiểm soát
tốt hơn, độ chặt thân đê, khả năng chống thấm, chống sạt trượt đảm
bảo theo yêu cầu.
Thứ tư, xử lý được nhiều trọng điểm xung yếu mà trong nhiều
năm trước chưa xử lý được, như trọng điểm về đùn sủi Phú Thịnh,
Mai Động, Đức Hợp K108 - K111+300 đê tả Hồng (Hưng Yên)
được đắp tầng phủ thượng lưu và lắp đặt hệ thống giếng giảm
áp hạ lưu; trọng điểm đùn sủi khu vực Sen Chiểu - Phúc Thọ từ
K31+500÷K33+500 đê hữu Hồng (Hà Nội) được mở rộng mặt cắt,
đắp phản áp vị trí có bãi sủi kết hợp cùng với hệ thống giếng giảm
áp được xây dựng từ những năm 1990...
Thứ năm, đã nghiên cứu, áp dụng nhiều công nghệ mới để gia
cố thân, mặt đê, mái đê, mái kè: khoan phụt vữa gia cố thân đê (từ
398
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

năm 2008 đến nay khoan phụt gia cố được 395km đê), khoan phụt
vữa 2 nút xử lý nền đê (xử lý sự cố các cống Cẩm Đình (Hà Nội),
Bích Động (Hải Phòng), Ngọc Quang (Thanh Hóa); mặt đê được gia
cố bằng bê tông, át-phan thay cho rải đá cấp phối, đảm bảo phương
tiện cứu hộ đê lưu thông trong tình huống khẩn cấp cũng như kết
hợp giao thông nông thôn; gia cố mái đê bằng ô ngăn hình mạng
Neoweb cho đê Tả Đuống, Gia Lâm (Hà Nội); gia cố mái kè bằng
cấu kiện bê tông đúc sẵn, nhất là kè bảo vệ mái hầu hết các tuyến
đê biển được đầu tư, tu bổ, xây mới như đê biển Cát Hải, đoạn
bảo vệ khu vực Tổ hợp sản xuất ô tô Vinfast (Hải Phòng) bằng cấu
kiện Hohlquader; áp dụng kỹ thuật công trình biển của Hà Lan như
xây dựng kè chữ T chắn sóng, gây bồi tạo bãi ở đê biển Hải Hậu,
cấu kiện tetrapod giảm sóng, bảo vệ đê biển Hải Hậu, Nghĩa Hưng
(Nam Định); tạo bãi bảo vệ đê biển bằng cấu kiện bê tông lắp ghép
ở đê biển 5, 6, Tiền Hải (Thái Bình). Tại Đồng bằng sông Cửu Long
đã nghiên cứu, sử dụng một số giải pháp công trình kết cấu mới để
giảm sóng, gây bồi, tạo bãi, bảo vệ đê biển như hàng rào tre chữ T
ở xã Vĩnh Tân (thị xã Vĩnh Châu, Sóc Trăng), đê biển Tây ở Cà Mau,
Kiên Giang; geotube ở Gò Công Đông (Tiền Giang), Hiệp Thạnh,
Đông Hải (Trà Vinh), Nhà Mát (Bạc Liêu); hàng cọc ly tâm kết hợp
đá đổ bờ biển Tây, biển Đông (Cà Mau), Gành Hào (Bạc Liêu); cấu
kiện trụ rỗng ở bờ biển Tây (huyện Trần Văn Thời, Cà Mau); cấu
kiện kết cấu rỗng ở Cồn Cống (huyện Tân Phú Đông, Tiền Giang);
cấu kiện bê tông cốt phi kim ở đê biển Tây, huyện Trần Văn Thời và
huyện Ngọc Hiển (Cà Mau)…, tuy nhiên, tính hiệu quả của các giải
pháp này (cả về kỹ thuật và kinh tế) cũng còn phải tiếp tục đánh giá.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này khi Luật Đầu tư công được
thông qua và có hiệu lực từ 01 tháng 01 năm 2015 đã có ảnh hưởng
nhất định đến việc bố trí nguồn vốn cho đầu tư tu bổ, nâng cấp đê
điều. Những năm từ 2014 trở về trước, kinh phí bố trí cho công tác
tu bổ đê điều thường xuyên qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn khoảng từ 200 đến 250 tỷ đồng/năm. Mặc dù nguồn kinh phí
đầu tư được bố trí hằng năm còn hạn chế, song đã phát huy rất hiệu
399
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

quả trong việc tu bổ thường xuyên, tăng cường khả năng chống lũ
của hệ thống đê điều. Theo quy định của Luật Đầu tư công, phải
thực hiện theo kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn. Tổng cục Thủy
lợi đã tham mưu, báo cáo Bộ nhưng trong kế hoạch vốn đầu tư công
trung hạn được phê duyệt giai đoạn 2016 ÷ 2020 chỉ bố trí với kinh
phí 50 tỷ đồng/năm cho việc tu bổ, nâng cấp trên 2.700km đê từ cấp
III đến cấp đặc biệt là rất thấp, không đáp ứng yêu cầu.
Một nguồn lực khác cũng được huy động để tăng cường kinh
phí cho đê điều, đó là Quỹ Phòng, chống thiên tai. Luật Phòng,
chống thiên tai năm 2013, sửa đổi năm 2020 quy định việc thành
lập Quỹ phòng, chống thiên tai ở cấp tỉnh (thay thế cho Quỹ phòng
chống lụt bão trước đây) và cấp Trung ương để hỗ trợ thêm kinh phí
cho các hoạt động phòng, chống thiên tai, đê điều. Chính phủ đã
ban hành các Nghị định số 94/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm
2014, Nghị định số 83/2019/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2019 và
Nghị định số 78/2021/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2021 về thành lập
và quản lý Quỹ Phòng, chống thiên tai. Quỹ phòng, chống thiên tai
đã giúp giảm nhẹ một phần gánh nặng ngân sách địa phương. Tính
đến tháng 6 năm 2021 đã có 63/63 tỉnh, thành phố thành lập Quỹ
và hình thành cơ quan quản lý Quỹ theo hình thức kiêm nhiệm.
61/63 tỉnh, thành phố đã tiến hành thu Quỹ được 4.193 tỷ đồng, chi
2.222 tỷ đồng, tập trung chủ yếu hỗ trợ khắc phục thiệt hại, một số
hoạt động phòng ngừa thiên tai. Đối với đê điều, Quỹ hỗ trợ cho
các hoạt động quản lý, bảo vệ, hộ đê: xử lý khẩn cấp sự cố đê điều;
tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật về đê điều; diễn tập hộ
đê; tập huấn và duy trì hoạt động cho các đối tượng tham gia hộ đê,
lực lượng quản lý đê nhân dân; hỗ trợ cho lực lượng thường trực
trực ban, chỉ huy, chỉ đạo hộ đê; mua sắm phương tiện, trang thiết
bị phục vụ công tác phòng, chống lũ bão…
6. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong
lĩnh vực đê điều, phòng chống thiên tai
Cùng với sự phát triển ngày càng sâu rộng về ngoại giao, Chính
phủ Việt Nam đã hợp tác và triển khai nhiều dự án đê điều, phòng
400
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

chống lũ lụt với các tổ chức quốc tế, quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới, như: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu
Á (ADB), Hà Lan, Đức, Nhật Bản, Pháp, Australia, Hàn Quốc,... Việc
tăng cường hợp tác quốc tế tập trung về vốn, chuyển giao công công
nghệ góp phần to lớn phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả của
hệ thống đê điều, dự báo, phòng tránh thiên tai, cứu hộ, cứu nạn.
Lĩnh vực đê điều, phòng chống lũ lụt có bước phát triển lớn
một phần nhờ nguồn vốn vay của các tổ chức quốc tế và quốc gia
trên thế giới, đặc biệt là Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát
triển châu Á (ADB),... Từ năm 1993 đến 2012, Chính phủ đầu tư 8,5
tỷ USD từ nguồn vốn ODA cho nông nghiệp, trong đó vốn ODA do
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trực tiếp quản lý là 5,48
tỷ USD. Chỉ tính riêng giai đoạn 2011-2015, vốn ODA do Bộ quản
lý là 2,7 tỷ USD. Trong giai đoạn 1993-2013, trong tổng số 5,487 tỷ
USD vốn ODA đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, có 2,478 tỷ
USD được đầu tư cho đê điều và thủy lợi, chiếm 45,2%. Điều này
thể hiện sự quan tâm, đầu tư rất lớn của Đảng và Nhà nước cho đê
điều và thủy lợi. Trong số vốn ODA đầu tư cho thủy lợi, đê điều giai
đoạn này, 821 triệu USD được đầu tư trong giai đoạn 2001-2005 và
852 triệu USD trong giai đoạn 2009-2013, chiếm 59% tổng số vốn
ODA đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn của mỗi giai đoạn. Đầu
tư vốn ODA cho thủy lợi, đê điều tiếp tục tăng nhanh trong giai
đoạn 2011-2015, với 24,762 tỷ đồng, chiếm 48,9% tổng số vốn đầu
tư cho nông nghiệp và nông thôn1. Một số dự án ODA xây dựng,
tu bổ hệ thống đê điều, phòng chống lũ đã hoàn thành như: Dự án
khôi phục thủy lợi và chống lũ vay vốn ADB, hoàn thành năm 2003,
trong đó có Tiểu dự án Khôi phục đê Hà Nội; Dự án thủy lợi đồng

Dự án hỗ trợ kĩ thuật và chính sách để thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nôn nghiệp
1

Việt Nam, Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các nguồn
vốn vay ưu đãi khác của các nhà tài trợ và viện trợ phi chính phủ nước ngoài thuộc
thẩm quyền quản lý Nhà nước của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giai
đoạn 2016-2020, ban hành theo quyết định số 5776/QĐ-BNN-HTQT ngày 31 tháng
12 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

401
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

bằng sông Hồng vay vốn ADB, hoàn thành năm 2002, trong đó xây
dựng các trạm bơm như Thanh Điềm, Đan Hoài, Phù Sa, Văn Thái
A, Triều Dương B, Văn Lâm - Văn Giang, Yên Lệnh, Hữu Bị II, Vĩnh
Trị II...; Dự án hỗ trợ khẩn cấp khôi phục thiệt hại do lũ lụt vay vốn
ADB, hoàn thành năm 2003, trong đó sửa chữa, nâng cấp 46 công
trình trạm bơm, đê, kè, cống, hồ đập, nạo vét kênh; Dự án thủy lợi
đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2 vay vốn ADB, hoàn thành năm
2010, trong đó xây dựng các trạm bơm như Vân Đình, Khai Thái,
Mai Xá B, Triều Dương A, Bạch Hạc, Cổ Đam, các kè Phương Độ
- Cẩm Đình, sông Đuống, Ninh Giàng - Triều Nội, ngã ba Việt Trì,
Phương Cáp, Cát Bi - Quang Lãng...; Dự án quản lý thiên tai vay
vốn WB hoàn thành năm 2019, trong đó có Tiểu dự án Tu bổ, nâng
cấp và xử lý các điểm trọng yếu đê tả sông Cầu Chày (K0-K42) thuộc
lưu vực sông Mã, huyện Yên Định, Thanh Hóa, Tiểu dự án Nâng
cấp đê bờ Bắc sông Dinh...
Trong thời gian tới, sẽ có một số dự án được triển khai, tiếp tục
tu bổ, nâng cấp các tuyến đê. Đối với đê sông, có Dự án Quản lý
tổng hợp rủi ro lũ lụt thích ứng biến đổi khí hậu (ADB10) vay vốn
của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) để nâng cấp, hoàn thiện
cơ sở hạ tầng phòng chống lũ cho các tuyến đê trên địa bản 9 tỉnh,
thành phố thuộc hệ thống sông Hồng – sông Thái Bình và sông
Mã; thiết lập, trang bị một Trung tâm điều phối cấp Trung ương với
nhiệm vụ cảnh báo sớm lũ lụt, giảm nhẹ thiệt hại do lũ lụt; hoàn
thiện cơ sở dữ liệu hệ thống đê điều hiện đại, trực tuyến; xây dựng
hệ thống giám sát công trình phòng chống lũ, phân tích, hỗ trợ ra
quyết định từ trung ương đến địa phương; trang bị thiết bị kiểm
tra, đánh giá nhanh chất lượng thân đê... Đối với đê biển có Dự án
Nâng cao năng lực ứng phó thiên tai vùng ven biển Việt Nam vay
vốn Ngân hàng Thế giới, trong đó nâng cấp hệ thống đê biển khép
kín kết hợp giao thông, kè bảo vệ bờ biển trên địa bàn 05 tỉnh, thành
phố ven biển từ Quảng Ninh đến Thanh Hóa.
Việc tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ
sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, các quốc gia và vùng lãnh thổ
402
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

trên thế giới làm giảm bớt khó khăn cho Việt Nam về vốn, kĩ thuật,
công nghệ tiên tiến, góp phần nâng cao chất lượng trong quản lý,
xây dựng, bảo vệ đê điều, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. Đồng
thời tạo cơ hội để nâng cao trình độ khoa học cho đội ngũ các nhà
quản lý và đội ngũ cán bộ chuyên môn đê điều của Việt Nam.
Cho tới nay, Việt Nam có hệ thống cơ sở đào tạo, nghiên cứu,
đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia trong lĩnh vực đê điều và
phòng chống thiên tai lớn mạnh và có trình độ chuyên môn cao.
Trong đó, Trường Đại học Thủy lợi, Viện Khoa học Thủy lợi, Viện
Quy hoạch Thủy lợi là những trung tâm đào tạo, nghiên cứu, tham
gia hoạt động lập quy hoạch, tư vấn hàng đầu của Việt Nam. Chỉ
riêng 3 cơ quan nghiên cứu, đào tạo tạo này có đội ngũ chuyên gia
lên đến 1.912 người, trong đó có 320 tiến sỹ (171 tiến sỹ người được
đào tạo ở nước ngoài), 803 thạc sỹ.
Hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật về đê điều được hoàn chỉnh,
nhiều thành tựu khoa học công nghệ được nghiên cứu, chuyển giao
và ứng dụng thành công vào xây dựng, quản lý, vận hành, bảo vệ
đê, kè, cống:
- Đến năm 2020 đã có 18 tiêu chuẩn kỹ thuật về khảo sát, thiết kế,
xây dựng, duy tu, tu bổ đê điều được rà soát, ban hành, áp dụng, như:
“TCVN 9902:2016 Công trình thủy lợi - Yêu cầu thiết kế đê sông”,
“TCVN 9901:2014 Công trình thủy lợi - Yêu cầu thiết kế đê biển”,
“TCVN 9165-2012 Công trình thủy lợi - Yêu cầu kĩ thuật đắp đê”,
“TCVN 8644-2011 Công trình thủy lợi - Yêu cầu kĩ thuật khoan phụt
vữa gia cố đê”, “TCVN 7958-2008 Bảo vệ công trình xây dựng - phòng
chống mối cho công trình xây dựng mới”; “TCVN 8227-2009 Mối gây
hại công trình đê, đập - Định loại, xác định đặc điểm sinh học, sinh
thái học và đánh giá mức độ gây hại”,… Hệ thống tiêu chuẩn này
cùng với những tiêu chuẩn chuyên ngành khác như giao thông, thủy
lợi đã nâng cao chất lượng, hiệu quả trong quản lý, xây dựng, tu bổ,
gia cố, bảo vệ đê, kè, cống, nâng cao mức đảm bảo an toàn đê điều.
- Hệ thống mặt cắt ngang cố định trên các tuyến sông có đê đã
được thiết lập và đo vẽ hàng năm để đánh giá, nhận định về xu thế
403
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

diễn biến lòng dẫn các tuyến sông và ảnh hưởng đến an toàn đê điều,
thoát lũ; nhất là sau khi các hồ chứa đi vào vận hành. Việc theo dõi
diễn lòng dẫn qua đo vẽ mặt cắt ngang cố định trên các tuyến sông
có đê được quan tâm, bắt đầu thực hiện từ những năm 1990 với 200
mặt cắt trên hệ thống sông Hồng, đến nay đã thực hiện trên các hệ
thống sông có đê gồm có sông Hồng – sông Thái Bình (665 mặt cắt),
sông Đáy (115 mặt cắt), sông Mã (145 mặt cắt), sông Cả (72 mặt cắt).
Trong những năm gần đây, dưới sức ép của sự phát triển, việc khai
thác cát quá mức đã làm cho lòng dẫn vùng hạ du sông Hồng bị biến
động mạnh, mực nước ngày càng bị hạ thấp, chế độ dòng chảy thay
đổi, tỷ lệ phân lưu nước từ sông Hồng vào sông Đuống có sự gia
tăng đột biến so với giai đoạn trước 1998. Về mùa lũ, sự gia tăng tỷ lệ
phân lưu vào sông Đuống sẽ làm tăng nguy cơ cho hệ thống đê điều
và công trình kè khi xảy ra lũ lớn. Về mùa kiệt, mực nước lại có xu
thế ngày càng hạ thấp đã gây ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động bình
thường của các công trình lấy nước lớn trên sông Đuống và sông
Hồng. Năm 2020, Tổng cục Phòng, chống thiên tai đã báo cáo, tham
mưu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo Viện Khoa
học Thủy lợi Việt Nam và Viện Quy hoạch Thủy lợi thực hiện nghiên
cứu, đánh giá tổng thể biến động lòng dẫn vùng hạ du hệ thống sông
Hồng, sông Thái Bình, các tác động bất lợi, nguyên nhân và đề xuất
các giải pháp hạn chế, khắc phục để đảm bảo an toàn đê điều, hoạt
động bình thường các công trình lấy nước trên sông.
- Về khảo sát, đã tăng cường sử dụng công nghệ radar đất,
đa cực phát hiện ẩn họa, khe nứt, xác định vùng thấm trong thân
đê. Phương pháp khảo sát bằng công nghệ mới này không thực
hiện khoan đào trực tiếp trên đê, kết quả đánh giá các tổ mối, vị trí
khuyết tật của đê có độ chính xác cao, thời gian khảo sát nhanh, có
thể thực hiện trong mọi điều kiện, cả trong mùa mưa bão, thiết bị
gọn nhẹ. Dữ liệu thu thập được là cơ sở giúp cho công tác duy tu, tu
bổ, xử lý ẩn họa rất kịp thời, hiệu quả. Trong 10 năm từ 2011-2020,
sau khi khảo sát bằng công nghệ mới đã xử lý ẩn họa thân đê cho
932,6km đê từ cấp III trở lên.
404
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

- Về xây dựng, tu bổ đê điều, nhiều công trình được áp dụng


các kỹ thuật, công nghệ mới như đã nêu ở trên: khoan phụt vữa gia
cố thân đê; xây dựng kè chữ T chắn sóng, gây bồi tạo bãi; sử dụng
cấu kiện bê tông như Hohlquade, tetrapod, âm dương... để gia cố,
giảm sóng bảo vệ mái đê biển; gia cố mái đê bằng ô ngăn hình mạng
Neoweb, giải pháp kết cấu mới giảm sóng, gây bồi, tạo bãi, bảo vệ
đê biển Đồng bằng sông Cửu long,…

Hình 32. Kè mỏ hàn chữ T đê biển Kiên Chính, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định1
- Trong hộ đê, đã nghiên cứu sử dụng vật liệu mới chống tràn
như bao tải cỡ lớn, đê di động cũng như các loại tường chống tràn
có kết cấu, vật liệu khác nhau. Với các loại vật liệu, kết cấu mới này
cùng với trang thiết bị, lực lượng hộ đê được huấn luyện phù hợp
sẽ rút ngắn thời gian, giảm nhân lực để chống tràn, nâng cao hiệu
quả công tác hộ đê.
- Hệ thống cơ sở dữ liệu WebGIS quản lý hệ thống đê điều, theo
dõi mực nước trên các tuyến sông có đê theo thời gian thực cũng đã
được xây dựng để tăng cường tính chủ động trong công tác quản
lý, hộ đê. Trong đó, phải đặc biệt kể đến hệ thống camera theo dõi
các vị trí xung yếu đê điều. Tổng cục Phòng, chống thiên tai đã phối
hợp với các địa phương lắp đặt hệ thống gồm 88 camera (tính đến

1
Tổng cục Phòng, chống thiên tai.

405
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

năm 2021) giám sát vị trí trọng điểm xung yếu đê điều cũng như
quan trắc, theo dõi mực nước lũ theo thời gian thực trên các tuyến
đê ở các tỉnh thuộc hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã,
sông Cả. Một số địa phương cũng chủ động lắp đặt 35 camera theo
dõi giám sát đê điều (Phú Thọ, Thái Bình, Hải Phòng, Nam Định,
Ninh Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh). Hệ thống camera giúp cho việc
theo dõi, giám sát được chủ động, nhanh chóng, kịp thời phát hiện
các hành vi vi phạm pháp luật về đê điều, các tình huống nguy
hiểm, các sự cố đê điều phục vụ hỗ trợ hiệu quả tham mưu, quyết
định chỉ đạo điều hành công tác bảo vệ, hộ đê, ứng phó với lũ, bão.
7. Các phong trào thi đua thúc đẩy xây dựng, bảo vệ đê điều
Trong giai đoạn 2006 – 2020, Tổng cục Phòng, chống thiên tai,
Vụ Quản lý đê điều có sáng kiến, đề xuất, phát động và tổ chức thực
hiện nhiều phong trào thi đua, văn hóa về chủ đề xây dựng, bảo vệ
đê điều và phòng chống thiên tai, tiểu biểu như: sáng tác thơ, chụp
ảnh, sáng tác lời mới cho các làn điệu dân ca và nhạc cổ truyền với
nội dung về đê điều, phòng chống thiên tai.
Năm 2015, Vụ Quản lý đê điều báo cáo Tổng cục Thủy lợi đề
xuất và ngày 8 tháng 01 năm 2016, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đã ban hành Quyết định số 52/QĐ-BNN-TCCB về việc
phát động Phong trào thi đua “Xây dựng đê kiểu mẫu với mục đích
nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ đê điều, phát huy hiệu
quả của hệ thống đê điều phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Phong trào thi đua đã được tất cả các tỉnh, thành phố có đê tổ
chức thực hiện và ký kết giao ước thi đua tại Lễ phát động do Bộ tổ
chức tại tỉnh Hưng Yên trong tháng 3 năm 2016. Qua 5 năm triển khai
thực hiện, Phong trào thi đua đã đạt được nhiều kết quả thực chất, đã
xây dựng 34 Hạt Quản lý đê, 61 tuyến đê theo tiêu chí “Hạt Quản lý
đê điển hình”, “Tuyến đê kiểu mẫu”, có tính lan tỏa cao, làm cơ sở triển
khai nhân rộng. Trong đó, một số địa phương tích cực thực hiện, đạt
được nhiều kết quả trên thực tế như: Hải Dương, Hà Nội, Nam Định,
Thanh Hóa, Hưng Yên, Phú Thọ, Bắc Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh,…
406
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Phong trào thi đua được thực hiện trên toàn hệ thống các cơ
quan quản lý nhà nước về đê điều từ cấp tỉnh đến cơ sở; đặc biệt là
lực lượng chuyên trách quản lý đê làm nhiệm vụ quản lý trực tiếp
các tuyến đê trên địa bàn; tạo động lực to lớn để hoàn thành nhiệm
vụ được giao, công tác quản lý đê điều từng bước đi vào nề nếp,
chuyên nghiệp, áp dụng nhiều công nghệ mới, tiến bộ khoa học kỹ
thuật nhất là công nghệ thông tin trong công tác quản lý đê.

Hình 33. Tuyến đê kiểu mẫu - đê tả Hồng, Phố Hiến, thành phố Hưng Yên,
tỉnh Hưng Yên1
Phong trào thi đua không chỉ thực hiện ở lực lượng quản
lý đê mà còn được Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, chính
quyền cơ sở tổ chức thực hiện với nhiều cách làm hay, sáng tạo để
nâng cao hiệu quả thực hiện Phong trào thi đua, huy động được
nguồn lực, sự vào cuộc của các cấp, các ngành, doanh nghiệp
và người dân tham gia công tác bảo vệ, tu bổ đê điều trong điều
kiện nguồn kinh phí thực hiện duy tu, chỉnh trang đê còn gặp
nhiều khó khăn.
Phong trào được cộng đồng, người dân ủng hộ, tích cực tham
gia thông qua các đoàn thể như: Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ,
Đoàn Thanh niên; thông qua đó người dân không những hiểu biết
pháp luật về đê điều mà còn là một chủ thể tham gia quản lý, bảo
vệ đê tại địa bàn mình.

1
Chi cục Quản lý đê điều và Phòng chống lụt bão tỉnh Hưng Yên.

407
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Nhiều tuyến đê, Hạt Quản lý đê qua thực hiện phong trào thi
đua đã được quản lý, bảo vệ tốt không bị xâm hại và giảm thiểu được
tình hình vi phạm; đảm bảo an toàn trước những trận lũ lớn như lũ
năm 2017.
Thực tế cũng còn một số tồn tại ở một số địa phương như kết
quả đạt được còn khiêm tốn, việc thực hiện Phong trào chưa được
quan tâm đúng mức, không tạo được sự chuyển biến lớn trong công
tác quản lý, bảo vệ đê điều; chưa huy động được nguồn lực, sự vào
cuộc của các cấp, các ngành, doanh nghiệp và người dân ở địa phương
tham gia thực hiện, còn thụ động, trông chờ vào nguồn kinh phí hỗ trợ
của Trung ương để triển khai thực hiện..., nhưng với kết quả đạt được
đáng khích lệ như trên, Tổng cục Phòng, chống thiên tai đề nghị và
được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng ý cho tiếp tục thực
hiện Phong trào thi đua “Xây dựng đê kiểu mẫu” giai đoạn 2021-2025.
Nhằm nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, góp phần tuyên
truyền, ca ngợi truyền thống vẻ vang, tự hào và khích lệ cán bộ, công
chức, người lao động công tác trong lĩnh vực đê điều, phòng chống
thiên tai, tháng 6 năm 2018, Tổng cục Phòng, chống thiên tai đã phát
động cuộc thi “Văn nghệ, thơ và hình ảnh về công tác quản lý đê điều,
phòng, chống thiên tai” giữa các Chi cục Quản lý đê điều và Phòng
chống lụt bão (Chi cục Thủy lợi) các tỉnh, thành phố có đê từ cấp III
đến cấp đặc biệt. Cuộc thi đã thu hút sự tham gia nhiệt tình của đông
đảo các cán bộ, kiểm soát viên đê điều trong đó có cả các cán bộ đã nghỉ
hưu với 22 tiết mục văn nghệ đặc sắc, 24 bài thơ và 111 bức ảnh.
Tháng 12 năm 2020, Tổng cục Phòng, chống thiên tai phát động
cuộc thi sáng tác lời mới cho làn điệu dân ca và nhạc cổ truyền với
nội dung về phòng chống thiên tai. Đã có hàng trăm tác phẩm tham
dự, trong đó có nhiều tác phẩm về đê điều cho thấy phòng chống
lũ lụt, giữ vững an toàn đê điều vẫn gắn bó mật thiết với đời sống,
là mối quan tâm của nhiều người.
Đồng thời, Tổng cục Phòng, chống thiên tai đã chỉ đạo các
đơn vị thực hiện, cùng các nhạc sỹ sáng tác những bài hát mới
về đê điều, phòng chống thiên tai như “Lời ru trong bão dông”,
“Vang mãi bài ca”, “Bài ca đê điều”, “Cô gái đê điều”,... Cũng như
các bài thơ, bức ảnh dự thi, các bài hát có nội dung ca ngợi công
408
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

việc đê điều, ca ngợi những con người đã và đang thầm lặng


cống hiến công sức, mồ hôi, xương máu để gìn giữ an toàn cho
những con đê, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và Nhà
nước trước lũ, bão.
Các tác phẩm này được tổng hợp, chia sẻ về địa phương, đến các
Hạt Quản lý đê; các bài hát được đăng ký làm nhạc chờ điện thoại.
Đây là những tài liệu tuyên truyền thực sự mới mẻ, tạo hiệu ứng tích
cực không chỉ trong nội bộ lực lượng cán bộ quản lý đê điều mà còn
lan tỏa sâu rộng đến các cấp chính quyền và cả cộng đồng.
*
* *
Từ năm 1996, đặc biệt là từ năm 2006 đến năm 2020, đê điều
và phòng, chống thiên tai của Việt Nam có những bước tiến vượt
bậc và đạt được những thành tựu to lớn về tư duy, quy hoạch, tổ
chức quản lý, xây dựng, bảo vệ và hiệu quả phòng chống lũ lụt,
giảm nhẹ thiên tai. Với việc thực hiện ba chương trình củng cố,
nâng cấp đê sông đê biển trên phạm vi cả, các tuyến đê sông, đê
biển sau khi được củng cố, nâng cấp đã đảm bảo chống lũ theo
mức thiết kế, về cơ bản qua thực tế các mùa mưa lũ, hiệu quả,
năng lực chống lũ, ngăn triều đã được nâng cao và ổn định, phục
vụ đắc lực cho phát triển kinh tế, bảo vệ người dân, đảm bảo an
ninh – quốc phòng.
Quy định pháp luật về đê điều và phòng chống thiên tai được
bổ sung, xây dựng hoàn thiện, đặc biệt là sự ra đời của Luật Đê điều
và Luật Phòng, chống thiên tai. Các tiêu chuẩn kĩ thuật thiết kế về
đê sông, đê biển cũng được ban hành; điều chỉnh, phê duyệt quy
hoạch phòng chống lũ, quy hoạch đê điều được thực hiện phù hợp
với điều kiện, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và chủ động ứng
phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
Tổ chức quản lý Nhà nước về công tác đê điều, phòng chống lũ
lụt được tổ chức lại thống nhất từ Trung ương tới địa phương, đặc
biệt là sự ra đời của Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng chống thiên
tai năm 2015 và Tổng cục Phòng, chống thiên tai năm 2017. Tổng
cục Phòng, chống thiên tai, Vụ Quản lý đê điều đã phối hợp với các
409
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

bộ, ban, ngành Trung ương, chính quyền địa phương và cơ quan
quản lý Nhà nước ở địa phương đưa ra nhiều sáng kiến, ý tưởng
trong xây dựng, quản lý, bảo vệ đê điều, phòng chống lũ lụt, đưa
phòng chống lũ lụt vào cộng đồng với nhiều hình thức.
Đây cũng là giai đoạn công tác đê điều, phòng chống lũ lụt,
giảm nhẹ thiên tai của Việt Nam hội nhập ngày càng sâu, rộng với
các tổ chức quốc tế, các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới về
vốn, khoa học công nghệ tiên tiến, chia sẻ kinh nghiệm trong xây
dựng, quản lý đê điều, phòng chống lũ lụt, ứng phó với biến đổi khí
hậu và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng.

410
TỔNG LUẬN VỀ ĐÊ ĐIỀU

I. XÂY DỰNG HỆ THỐNG ĐÊ ĐIỀU


Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới có hệ thống đê
điều với lịch sử hình thành và phát triển hàng nghìn năm gắn liền
cùng với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Chính vì thế, đê không chỉ đơn thuần là công trình phòng chống lũ
lụt, mà còn là chứng tích lịch sử, mang trong mình nhiều dấu ấn quá
khứ của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh sinh tồn chống
thiên tai và chống giặc ngoại xâm. Những dòng sông, những con đê
cùng với cây đa, bến nước, sân đình đã trở thành biểu tượng văn hóa
và tạo nên một không gian văn hóa xóm làng, ăn sâu, lan tỏa trong
kí ức tuổi thơ, tiềm thức của mỗi người dân. Đê chất chứa trong
mình những nỗi niềm của người Việt, hiện hữu trong đó những nét
văn hóa vật chất và tinh thần của người Việt, phản ánh những bước
thăng trầm, phát triển của mỗi miền quê và dân tộc. Đê đồng thời
là dấu tích thể hiện mối quan hệ giữa chính sách của chính quyền
Nhà nước với nhân dân, với sự phát triển kinh tế xã hội trong mỗi
giai đoạn lịch sử nhất định.
Kể từ thời dựng nước, trải qua các triều đại phong kiến, ông
cha ta đã từng bước xây dựng được các tuyến đê sông, đê biển chỉ
với những dụng cụ thô sơ và vật liệu sẵn có để bảo vệ cuộc sống và
phát triển sản xuất.
Từ trước thế kỷ X, tuy sử sách không ghi lại nhiều, nhưng có thể
thấy đã có nhiều tuyến đê được đắp để bảo vệ các khu dân cư sinh
sống gần các con sông và bảo vệ thành Thăng Long. Những tuyến
đê mà ngày nay còn có thể thấy dấu tích ở Hà Nội, trên đường đê
La Thành, Bưởi, Hoàng Hoa Thám,...
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Các tuyến đê ban đầu được đắp để bảo vệ từng khu vực nhỏ
(đê bao). Đoạn đê đầu tiên được ghi nhận trong sử sách là đê Cơ
Xá, đắp ở phường Cơ Xá, thành Thăng Long năm Mậu Tý (1108),
dưới thời nhà Lý, để ngăn lũ sông Hồng. Đến thời nhà Trần, các
đê quai vạc (đỉnh nhĩ) được đắp để nối các tuyến đê bao, tạo
thành tuyến đê liên tục kéo dài ra đến cửa biển. Cũng từ thời này,
các tuyến đê biển đã bắt đầu được đắp để bảo vệ người dân và
sản xuất ở khu vực ven biển. Thời Lê, những con đê tiếp tục được
đắp bồi trúc, tôn cao. Đến triều Nguyễn, việc đắp đê liền tuyến
từ các triều đại trước cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội đến
thời kỳ này khiến triều đình đã có lúc đặt ra vấn đề là giữ đê hay
bỏ đê ở Bắc Thành (Bắc Bộ ngày nay) nhưng cuối cùng vẫn chọn
giải pháp giữ đê.
Dưới thời Pháp thuộc, công cuộc đắp đê, xây kè, làm cống có bước
phát triển hơn giai đoạn trước do người Pháp du nhập và áp dụng
vào Việt Nam những thành tựu mới của khoa học kĩ thuật phương
Tây, đặc biệt khoa học tính toán, thiết kế, thi công, máy móc hiện đại,
vật liệu mới (máy đầm, máy nén, tàu cuốc, xi măng, sắt thép).
Nói về hệ thống đê ở Việt Nam, cách đây gần một thế kỉ, vào
năm 1930, Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier đã thừa nhận
và hết lời ca ngợi sự sáng tạo của người Việt trong việc đắp đê chống
lụt: “Người dân Việt Nam đã tạo nên những công trình vĩ đại để
bảo vệ cuộc sống của họ. Đê chính là chiếc dây an toàn bảo vệ người
dân, dẫn những khối nước lũ khổng lồ chảy ra biển. Người ta có
thể rút ra từ những công trình đắp đê của người Việt một bài học
cao siêu về triết học, nó chỉ ra cho mọi người về vai trò và tầm quan
trọng của con người”1.
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, mặc dù công
cuộc xây dựng đê điều trải qua các giai đoạn đầy khó khăn gian
khổ, đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
1
Pierre Pasquier, l’Annam d’autrefois: essai sur la constitution de l’Annam
avant l’intervention française, Société d’Éditions géographiques, maritimes et
coloniales, Paris, 1930, tr. 300-301.

412
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Mỹ, rồi đến những năm tháng khó khăn của thời kỳ bao cấp, đất
nước bị bao vây, cấm vận nhưng cũng đã đạt được những thành
tựu to lớn.
Vào cuối thế kỷ XIX, trên toàn lãnh thổ Việt Nam chỉ có 2.400km
đê, chủ yếu là đê sông. Đến năm 1945, Việt Nam có khoảng 3.000km
đê các loại . Như vậy, trong vòng hơn 80 năm dưới chính quyền
thuộc địa, chỉ có 600km đê được xây dựng mới, còn lại là củng cố,
nâng cấp. Từ năm 1945 đến nay, cũng bằng khoảng thời gian của
thời kỳ Pháp thuộc, tính đến năm 2020, Việt Nam xây dựng và củng
cố được 10.097km đê các loại: 6.553km đê sông, 1.027km đê cửa
sông, 1.338km đê biển, 1.179km đê bao; ngoài ra còn có 45.418km đê
bao, bờ bao ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Khả năng đảm bảo chống bão, lũ của hệ thống đê sông không
ngừng được nâng cao. Đến nay, toàn tuyến đê hệ thống sông Hồng
có khả năng đảm bảo chống lũ ở mức +13,1m tại Hà Nội, đê hệ
thống sông Thái Bình ở mức+7,2m tại Phả Lại.
Các tuyến đê sông không chỉ đảm bảo chống lũ theo thiết kế
mà còn góp phần to lớn phát triển giao thông, kết nối, giao lưu,
phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa giữa các tỉnh, các vùng. Nhiều
tuyến đê sông đi qua các khu vực đô thị đã được kiên cố hóa, chỉnh
trang sạch đẹp, vừa đảm bảo phòng chống lũ lụt, vừa phục vụ phát
triển giao thông và cảnh quan đô thị, như: đê hữu sông Hồng đoạn
qua trung tâm Hà Nội, đê tả sông Thao đoạn qua thành phố Việt
Trì (Phú Thọ), đê hữu sông Đào đoạn qua thành phố Nam Định, đê
hữu sông Mã đoạn qua thành phố Thanh Hóa,...
Hệ thống đê biển được xây dựng dọc các tỉnh ven biển từ
Quảng Ninh tới Kiên Giang. Ở các tỉnh thuộc các đồng bằng châu
thổ lớn (sông Hồng, sông Cửu Long), hệ thống đê biển hình thành
gắn liền với quá trình quai đê lấn biển, bảo vệ các khu vực rộng lớn,
các tuyến đê định hình rõ ràng. Ở các tỉnh miền Trung, các tuyến đê
biển ngắn, bảo vệ các khu vực nhỏ.
Việc cải tạo, nâng cấp, xây mới các tuyến đê, kè biển đòi hỏi
nguồn kinh phí, khối lượng đất, đá, bê tông lớn, kĩ thuật xây dựng
413
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

cũng phức tạp hơn nhiều so với đê sông. Từ những năm 1990, đặc
biệt từ năm 2006 đến nay, các tuyến đê biển đã từng bước được củng
cố vững chắc hơn. Nhiều tuyến đê biển đã đảm bảo chống bão cấp
9, triều tần suất 5%, đang tiếp tục được đầu tư nâng cấp để có khả
năng chống được bão cấp 12. Việc xây dựng, phát triển, nâng cấp,
cải tạo hệ thống đê biển góp phần to lớn cho phát triển kinh tế, bảo
vệ dân cư, phát triển giao thông, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển
kinh tế biển, đặc biệt là du lịch biển, khai thác thủy hải sản, xây
dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp ven biển, góp phần đảm
bảo giữ vững an ninh, quốc phòng.
Hệ thống các công trình phục vụ công tác quản lý, bảo vệ, hộ
đê được củng cố, nâng cấp, như: trụ sở hạt quản lý đê, điếm canh
đê, kho vật tư dự trữ đảm bảo thực hiện công tác quản lý đê, hộ đê,
ứng phó kịp thời khi xảy ra sự cố đê điều theo phương châm “bốn
tại chỗ”. Hệ thống công trình kè bảo vệ đê, cống qua đê cũng từng
bước được cải tạo, nâng cấp và thay thế, góp phần quan trọng nâng
cao khả năng đảm bảo an toàn của hệ thống đê.
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu trong việc củng cố hệ thống
đê sông, nhưng vẫn còn một số tuyến đê, kè, cống ở Bắc Bộ, Trung
Bộ bị xuống cấp, chưa được nâng cấp, cải tạo. Các tuyến đê chưa
đảm bảo đồng bộ theo tiêu chuẩn thiết kế, vẫn còn hàng trăm ki-lô-
mét đê chưa đủ cao trình, mặt cắt thiết kế dẫn đến nguy cơ mất an
toàn, có thể tràn, vỡ đê khi có lũ lớn xảy ra.
Nhìn từ thực tế mưa lũ xảy ra gần đây có thể thấy, rất có nguy
cơ xảy lũ lớn ở các tỉnh Bắc Bộ. Như ở Trung Quốc, nhiều hồ đập
lớn được xây dựng ở thượng nguồn các sông lớn để điều tiết lũ, đặc
biệt có đập Tam Hiệp trên sông Dương Tử là đập lớn nhất thế giới;
hệ thống đê điều cũng được đầu tư xây dựng, nâng cấp. Tuy nhiên,
từ tháng 6 đến tháng 7 năm 2020, do mưa lớn kéo dài đã gây ra đợt
lũ lịch sử. Lũ trên 751 con sông vượt mức cảnh báo, trong đó 53 con
sông vượt mức lịch sử, nhiều hồ chứa phải xả lũ, đập Tam Hiệp phải
mở đến 11 cửa xả, khiến hàng loạt tuyến đê bị vỡ, gây ra đợt ngập
lụt tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ qua tại Trung Quốc. Đợt mưa lũ
414
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

đã làm 271 người chết, hơn 70 triệu người bị ảnh hưởng, nhiều cơ
sở hạ tầng, di sản văn hóa, cơ sở kinh tế bị phá hủy, thiệt hại ước
tính hơn 35 tỷ đô la Mỹ. Gần đây, tại khu vực miền Trung nước ta,
từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 11 năm 2020, đã xảy ra liên tiếp 9
cơn bão và 2 áp thấp nhiệt đới gây mưa lớn, ngập lụt kéo dài; lũ lớn
xảy ra trên toàn tuyến 16 sông chính, trong đó 6 tuyến sông đã vượt
mức nước lũ lịch sử.
Khu vực Bắc Bộ cũng đã từng xảy ra lũ lớn các năm như 1945,
1971, 1996 gây thiệt hại nặng nề cả về người và tài sản. Trong bối
cảnh biến đổi khí hậu, diễn biến mưa lũ bất thường, mặc dù đã có
hệ thống hồ điều tiết ở thượng lưu, nhưng nếu có những hình thái
thời tiết tương tự xảy ra ở khu vực Bắc Bộ, nguy cơ xảy ra lũ lớn là
hiện hữu và sẽ đe dọa an toàn hệ thống đê điều, ảnh hưởng đến
hàng chục triệu người, các khu trung tâm chính trị, kinh tế quan
trọng của đất nước.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, các hoạt động phát
triển kinh tế xã hội ở bãi sông các tuyến sông có đê tại một số địa
phương đang có diễn biến phức tạp, nhất là các khu vực đô thị,
thành phố lớn. Trong bối cảnh nhiều năm không xảy ra lũ lớn,
nhiều địa phương có tâm lý chủ quan, muốn khai thác, sử dụng
quỹ đất bãi sông để xây dựng công trình, nhà ở phục vụ nhu cầu
phát triển kinh tế, xã hội nhưng quá trình thực hiện chưa tuân thủ
đúng các quy định của pháp luật về đê điều; đã buông lỏng quản
lý hoặc có những cách thức khác nhau để có thể khai thác nguồn
tài nguyên này: báo cáo lãnh đạo cấp cao để gây sức ép cho cơ
quan chuyên môn; cấp phép không đúng quy định... Tình trạng
này làm tăng nguy cơ gây cản trở thoát lũ, mất an toàn cho đê, đặc
biệt khi xảy ra lũ lớn.
Với nguy cơ lũ lớn và hiện trạng quản lý như hiện này, các
ngành, các cấp chính quyền và người dân phải kịp thời thay đổi
nhận thức, không chủ quan, xem nhẹ việc xây dựng, tu bổ, bảo vệ,
hộ đê.
415
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

II. THIẾT LẬP HỆ THỐNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ ĐÊ ĐIỀU


Thời phong kiến, các quy định về đê điều được thể hiện thông
qua các chiếu, chỉ, sắc, dụ của nhà vua. Khởi đầu có thể kể đến Điều
lệ quy định về kì hạn sửa đắp đê do vua Lê Huyền Tông ban hành
năm 1664. Đến thời Nguyễn, các quy định về đê điều được hoàn
chỉnh hơn, như: Điều lệ đê chính của Bắc Thành năm 1809, Điều
lệ chống nước lụt ở Bắc Kỳ năm 1833, Quy định về đê điều ở các
huyện của Bắc Thành năm 1848, Quy định về đê ở các sông, trong
đó quy định cụ thể về đê công và đê tư năm 1853. Các quy định sau
không chỉ kế thừa kinh nghiệm quản lý, bảo vệ đê có từ thời trước
mà còn có nhiều sửa đổi, bổ sung, sáng tạo phù hợp với nhận thức,
tình hình thực tế của từng giai đoạn.
Trong thời Pháp thuộc, chính quyền thuộc địa đã ban hành một
số Nghị định quy định về xây dựng, quản lý và bảo vệ đê điều trên
cơ sở kế thừa một số quy định có từ thời phong kiến. Từ năm 1945
tới nay, công tác xây dựng, bổ sung, hoàn thiện, giám sát việc thực
hiện các quy định pháp luật về đê điều vẫn luôn được quan tâm. Sắc
lệnh 70-SL ngày 22 tháng 5 năm 1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh có
thể coi là văn bản pháp luật đầu tiên chứa đựng những quy định về
xây dựng, bảo vệ đê điều của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 21 tháng 11 năm 1963, Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay
mặt Hội đồng Chính phủ ký Nghị định số 173-CP ban hành Điều
lệ bảo vệ đê điều. So với Sắc lệnh trước đó, Nghị định 173-CP quy
định rõ ràng, cụ thể hơn về trách nhiệm của các cơ quan quản lý
Nhà nước, các cấp chính quyền và nhân dân trong xây dựng, quản
lý đê điều và phòng chống lụt bão. Ngày 9 tháng 11 năm 1989, Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công ký ban hành Pháp lệnh về
đê điều, gồm 7 chương, 34 điều. Pháp lệnh về đê điều năm 1989 có
nhiều điểm mới so với Điều lệ bảo vệ đê điều năm 1963, trong đó có
việc phân cấp hệ thống đê thành các cấp khác nhau tuỳ theo tính
chất và tầm quan trọng của từng tuyến đê, quy định về quy hoạch
đê điều,... Năm 2000, Pháp lệnh Đê điều được ban hành thay thế
Pháp lệnh về đê điều năm 1989. Năm 2006, lần đầu tiên trong lịch
416
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

sử, Việt Nam có một luật riêng về đê điều, gồm 8 chương và 48 điều,
quy định các vấn đề liên quan tới quy hoạch, đầu tư, tu bổ, nâng
cấp và kiên cố hóa đê điều; bảo vệ và sử dụng đê điều; công tác hộ
đê; lực lượng trực tiếp quản lý đê; trách nhiệm quản lý Nhà nước về
đê điều cũng như thanh tra, khen thưởng và xử lý vi phạm đê điều.
Luật Đê điều năm 2006 có sự kế thừa, bổ sung và phát triển Pháp
lệnh về đê điều năm 1989 và Pháp lệnh Đê điều năm 2000, một văn
bản pháp luật quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả công tác quy
hoạch, xây dựng, cải tạo, nâng cấp, quản lý, khai thác và bảo vệ đê
điều trong việc phòng, chống thiên tai.
Về quy định pháp luật liên quan tới công tác phòng chống lụt
bão và thiên tai, năm 1993, để nâng cao hiệu quả công tác phòng
chống lụt bão đồng thời để tạo cơ sở cho hội nhập, hợp tác quốc tế,
hưởng ứng chương trình của Liên hợp quốc về “Thập kỷ quốc tế
giảm nhẹ thiên tai” (1990 - 2000), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
ban hành Pháp lệnh Phòng, chống lụt bão, gồm 8 chương với 42
điều. Đây là Pháp lệnh đầu tiên được ban hành quy định về công
tác phòng, chống lụt bão. Pháp lệnh này được sửa đổi, bổ sung một
số điều vảo năm 2000.
Năm 2013 ghi một dấu mốc quan trọng trong phòng, chống lũ
lụt, thiên tai của Việt Nam. Ngày 19 tháng 6 năm 2013, tại Kì họp thứ
5 Khóa XIII, Quốc hội thông qua Luật Phòng, chống thiên tai. Đây
là một tất yếu lịch sử, phù hợp với bối cảnh thiên tai, biến đổi khí
hậu cũng như xu hướng hội nhập quốc tế. Luật gồm 6 chương với
47 điều, quy định về hoạt động phòng, chống thiên tai; quyền và
nghĩa vụ của tổ chức, cơ quan, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt
động phòng, chống thiên tai; quản lý Nhà nước và nguồn nhân lực
đảm bảo việc thực hiện phòng, chống thiên tai. Theo Luật quy định,
đê điều là một trong các công trình phòng, chống thiên tai.
Luật Phòng, chống thiên tai cùng với Luật Đê điều là cơ sở
pháp lý, căn cứ để các cơ quan quản lý Nhà nước nâng cao hiệu quả
quản lý, xây dựng kế hoạch, huy động nguồn lực, chỉ đạo, tổ chức
phòng, chống thiên tai; các tổ chức, cá nhân tích cực tham gia và
417
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

nêu cao trách nhiệm bảo vệ các công trình phòng, chống thiên tai
trong đó có đê, kè, cống.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Tổng cục Phòng, chống thiên tai đã ban hành văn
bản dưới luật; xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn kĩ thuật thiết kế,
xây dựng công trình đê, kè, cống phục vụ thực hiện công tác quản
lý, xây dựng, bảo vệ đê điều, hộ đê.

III. HOÀN CHỈNH BỘ MÁY QUẢN LÝ ĐÊ ĐIỀU


Từ thời phong kiến, các triều đại từ triều Trần trở đi đã cắt đặt
một số quan lại chuyên lo việc đắp đê, khơi đào sông, kênh, rạch để
chống lũ. Thời Trần và Lê sơ đặt ra cơ quan Hà đê sứ, cắt đặt chức
quan Hà đê chánh sứ, Hà đê phó sứ chuyên lo việc đắp đê, khơi đào
sông để chống lũ. Đến thời Nguyễn, một cơ quan chuyên trách về
đê điều do quan chức cao cấp có hàm nhất hoặc nhị phẩm đứng ra
đảm nhiệm. Dù tên gọi có khác nhau như Đê chính Bắc Thành, Nha
môn đê chính, Nha đê chính nhưng nhiệm vụ chính vẫn là phụ
trách các công việc về đê điều.
Dưới thời thuộc địa, chính quyền Pháp cũng cho thành lập
một số cơ quan chuyên nghiên cứu, tư vấn về đê điều, phòng chống
lũ lụt ở cấp Liên bang và cấp kì, như: Sở Công chính Đông Dương,
Ủy ban nghiên cứu chống lụt Bắc Kỳ, Ủy ban tối cao đê điều Bắc
Kỳ. Về cơ bản, ở cấp tỉnh trở xuống chưa có cơ quan chuyên môn
và chức vụ chuyên trách công tác đê điều và phòng chống lụt bão.
Lĩnh vực này được giao cho người đứng đầu chính quyền ở địa
phương: Công sứ (tỉnh), tri phủ (phủ), tri huyện (huyện), chánh
tổng (tổng) và lý trưởng (làng xã).
Từ năm 1945 tới nay, trải qua các giai đoạn, bộ máy tổ chức
quản lý đê điều, phòng chống lũ lụt có nhiều thay đổi, nhưng về cơ
bản, cơ quan quản lý Nhà nước và đội ngũ cán bộ chuyên trách về
đê điều, phòng chống thiên tai đã được tổ chức từ Trung ương tới
các địa phương. Đặc biệt là sự ra đời của Ủy ban Trung ương hộ đê
ngày 22 tháng 5 năm 1946, đặt nền móng đầu tiên về tổ chức quản
418
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

lý đê điều và phòng chống lụt, bão của Nhà nước Việt Nam độc lập.
Từ năm 1990, ngày thành lập Ủy ban Trung ương hộ đê chính thức
trở thành ngày truyền thống của ngành đê điều và phòng chống lụt
bão của Việt Nam.
Năm 1955, Ban chỉ huy Chống lụt Trung ương được thành lập
(Nghị định số 546-TTg ngày 4 tháng 6 năm 1955). Năm 1956, Ban
Chỉ huy chống lụt các cấp, tới cấp xã, được thành lập (Nghị định
số 759-TTg ngày 2 tháng 5 năm 1956). Ngày 29 tháng 9 năm 1955,
trên cơ sở Phòng đê điều thuộc Nha Công chính, Cục Đê điều được
thành lập, trực thuộc Bộ Thủy lợi và Kiến trúc, sau đó thuộc Bộ
Thủy lợi, Bộ Thủy lợi và Điện lực. Từ năm 1963 đến năm 1995, Cục
Đê điều trực thuộc Bộ Thủy lợi.
Từ năm 1955 đến nay, Cục Đê điều đã có nhiều lần thay đổi
tên gọi, nhưng chức năng và nhiệm vụ chính vẫn là quản lý, xây
dựng, bảo vệ đê điều và phòng chống lụt bão: Vụ Phòng chống lũ
lụt và Quản lý đê điều (1979); Cục Phòng chống lụt bão và Quản lý
đê điều trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (1995);
Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống lụt bão (2008); Cục Quản lý
đê điều và Phòng chống lụt bão trực thuộc Tổng cục Thủy lợi (2009);
Vụ Quản lý đê điều trực thuộc Tổng cục Thủy lợi (2014); Vụ Quản
lý đê điều trực thuộc Tổng cục Phòng, chống thiên tai (2017).
Kể từ năm 1945 đến nay, cơ quan quản lý nhà nước về đê điều,
phòng chống lụt bão ở các địa phương cũng có sự thay đổi tên gọi.
Hiện nay, ở các tỉnh, thành phố có đê, cơ quan quản lý đê điều là
Chi cục Thủy lợi. Ở một số tỉnh, thành phố là Chi cục Quản lý đê
điều và Phòng chống lụt bão, Chi cục Phòng chống thiên tai. Các cơ
quan này trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trực
tiếp quản lý đê ở các địa phương là các Hạt Quản lý đê trực thuộc
Chi cục (riêng tại Quảng Ninh, Hạt Quản lý đê trực thuộc Ủy ban
nhân dân cấp huyện).
Tuy nhiên, do hạn chế về biên chế nên các địa phương không
bố trí đủ cán bộ làm công tác chuyên trách quản lý đê. Mặt khác,
cũng do xếp ngạch không phù hợp, lương thấp, địa bàn công tác
419
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

khó khăn, nên không thu hút được cán bộ có trình độ, tâm huyết
với công việc. Những cán bộ có kinh nghiệm, từng tham gia hộ đê
dần nghỉ hưu, các lớp sau không có kinh nghiệm thực tiễn. Một số
cán bộ được tuyển dụng hoặc điều động tại Hạt quản lý đê không
được đào tạo đúng chuyên môn (như thủ kho, thủ quỹ, kế toán)
nhưng vẫn phải quản lý đê, nên nghiệp vụ chưa cao. Lực lượng
Quản lý đê tại một số địa phương còn mỏng, nên cán bộ công tác tại
Chi cục phải làm việc kiêm nhiệm, thường xuyên đi xuống địa bàn
và làm việc trên tất cả các tuyến đê, như kiểm tra đê, giải quyết vi
phạm, tham gia xử lý hư hỏng, sự cố đê điều.

IV. PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC, ÁP DỤNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ
Từ năm 1945 đến nay, từ chỗ chỉ có một vài kĩ sư, tham sự và
công nhân kĩ thuật được đào tạo trong chế độ cũ, hiện nay trong
lĩnh vực xây dựng, quản lý đê điều, phòng chống thiên tai của Việt
Nam đã có đội ngũ các chuyên gia, cán bộ kĩ thuật, nhân viên, cán bộ
chuyên trách quản lý đê điều hùng hậu, có trình độ chuyên môn cao,
trong đó nhiều người có học hàm giáo sư, học vị tiến sĩ, thạc sĩ, kĩ sư.
Cùng với sự phát triển của đội ngũ nhân lực, hệ thống các cơ
quan nghiên cứu, đào tạo trong lĩnh vực đê điều có những bước
phát triển vượt bậc, trong đó phải kể tới Trường Đại học Thủy lợi,
Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, Viện Quy hoạch Thủy lợi,... Rất
nhiều công nghệ mới đã được nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng
vào xây dựng, quản lý, bảo vệ đê điều, như: khoan phụt vữa gia cố
thân, nền đê; khảo sát bằng radar đất, đa cực phát hiện ẩn họa, khe
nứt, xác định vùng thấm trong thân đê; sử dụng vật liệu mới chống
tràn; xây dựng cơ sở dữ liệu WebGIS quản lý hệ thống đê điều; theo
dõi các vị trí xung yếu đê điều bằng hệ thống camera; theo dõi mực
nước trên các tuyến sông có đê theo thời gian thực...

V. ĐẨY MẠNH HỢP TÁC QUỐC TẾ


Trước thập kỷ 90 của thế kỷ XX, hợp tác quốc tế của Việt Nam
trong lĩnh vực đê điều, phòng chống lũ lụt chủ yếu trong khuôn khổ
420
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc. Bắt đầu
từ những năm 1990, hội nhập và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đê
điều và phòng chống lũ lụt của Việt Nam có bước đột phá mới. Từ
đó đến nay, hợp tác quốc tế ngày càng được mở rộng với nhiều đối
tác quan trọng, như các tổ chức của Liên hợp quốc, các quốc gia và
vùng lãnh thổ (Nhật Bản, Hà Lan, Đức, Hàn Quốc,...), các định chế tài
chính (Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á...).
Bên cạnh đội ngũ giảng viên, nhiều cán bộ về quản lý đê điều
được đào tạo trình độ trên đại học tại các nước Hà Lan, Nhật Bản,
Mỹ, Đức..., tiếp nhận những công nghệ mới về đê điều, phòng
chống lũ và ứng dụng hiệu quả, nâng cao chất lượng quản lý, xây
dựng, bảo vệ, hộ đê.
Nhiều dự án ODA với Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát
triển châu Á, Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản đã được thực hiện,
góp phần nâng cao năng lực cho lực lượng quản lý đê cũng như khả
năng đảm bảo chống lũ của hệ thống đê điều.
*
* *
Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực xây dựng, quản lý
đê điều và phòng chống lũ lụt của Việt Nam trong những năm qua
xuất phát từ nhiều yếu tố, đó vừa là nguyên nhân và cũng là những
bài học thành công.
Thứ nhất, xác định đúng đắn vai trò và tầm quan trọng của đê
trong công cuộc phòng, chống lũ lụt bảo vệ cuộc sống của nhân dân,
ổn định phát triển sản xuất. Trải qua bao thăng trầm, ông cha ta đã
coi đê là biện pháp quan trọng trong phòng, chống lũ lụt. Lịch sử đã
chứng minh, từ các triều đại phong kiến đến thời thuộc địa, thời kỳ nào
chính quyền coi trọng, xác định đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
đê, quan tâm tới đắp đê, thì đều hạn chế được những tác hại của lũ lụt,
còn nếu không thì hậu quả do thiên tai, lũ lụt gây ra rất lớn.
Trên thực tế, dưới triều Nguyễn và trong giai đoạn đầu thời kỳ
thuộc địa, quan điểm bỏ đê dường như chiếm ưu thế trong một vài
421
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

giai đoạn. Điều này khiến hệ thống đê không được quan tâm đầu tư
xây dựng và củng cố. Vì thế, thiên tai, lũ lụt gây ra nhiều thiệt hại và
khó khăn cho sản xuất và đời sống người dân. Từ sau năm 1945 cho
tới nay, đê luôn được xác định có vai trò to lớn trong phòng, chống lũ
lụt. Đê điều được ví như “là dậu là rào” để bảo vệ nhân dân, là “công
trình chống lũ, ngăn nước mặn [...] nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản
của nhân dân, tài sản của Nhà nước, bảo vệ công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa”1. Luật Đê điều năm 2006 khẳng định, nguyên tắc hoạt
động trong lĩnh vực đê điều là “đảm bảo phát triển bền vững, quốc
phòng, an ninh; bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, chủ quyền
và lợi ích quốc gia; góp phần phát triển kinh tế - xã hội”. Xác định
đúng đắn vai trò, luôn quan tâm đầu tư xây dựng, phát triển đê điều
trên thực tế đã tạo ra những bước phát triển vượt bậc, mang dấu ấn
kỳ tích trong lịch sử xây dựng đê điều, đặc biệt từ năm 1945 đến nay.
Thứ hai, sự hình hành và phát triển của hệ thống đê điều của Việt
Nam từ ngàn năm qua là nhờ sự đoàn kết, cần cù, quyết tâm, kiên
cường và sáng tạo của biết bao thế hệ người dân Việt Nam trong cuộc
chiến chống lại thiên tai, lũ lụt. Từ thời xưa, chính quyền các triều
đại phong kiến và chính quyền Pháp đã dựa vào nguồn lực dân phu
của cộng đồng làng xã, huy động nhân đinh để đắp đê. Từ năm 1945
tới nay, Đảng và Nhà nước đã biết dựa vào nhân nhân, phát huy sức
mạnh của nhân dân, với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng
làm”, “bảo vệ đê, kè, cống là trách nhiệm của toàn dân”.
Thứ ba, trong lịch sử xây dựng đê điều của Việt Nam, Nhà nước
đóng một vai trò quan trọng. Các triều đại phong kiến Việt Nam từ
thời Lý, Trần Lê đến Nguyễn, đã ban hành nhiều chính sách, xuất
ngân khố, thiết đặt các cơ quan, chức quan trông coi việc đắp và bảo
vệ đê. Chính quyền thuộc địa Pháp, mặc dù là chính quyền cai trị
nhân dân Việt Nam, nhưng không thể phủ nhận vai trò trong việc
ban hành các chính sách, thiết lập các cơ quan chuyên môn, nghiên
cứu, đầu tư, tổ chức việc đắp, gia cố, bảo vệ, quản lý đê, kè, cống.
1
Điều lệ bảo vệ đê điều ban hành kèm theo Nghị định số 173-CP ngày 21/11/1963
của Hội đồng Chính phủ.

422
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, đặc biệt từ
sau năm 1945, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước luôn dành
sự quan tâm đặc biệt tới công tác xây dựng đê điều, đề ra các chủ
trương, ban hành chính sách, lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư vốn, quản
lý, đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế,
huy động nhân lực, tổ chức, động viên, khuyến khích nhân nhân
tham gia xây dựng và bảo vệ đê, kè, cống. Đây là một trong những
nhân tố cơ bản, quyết định tới những thành tựu đạt được trong xây
dựng và bảo vệ đê điều.
Thứ tư, đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao
khoa học - công nghệ là động lực, chìa khóa của xây dựng và quản
lý đê điều, phòng chống lũ lụt. Dưới thời phong kiến, việc đắp
đê, phòng chống lũ lụt chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của ông cha
truyền từ đời này qua đời khác. Dưới thời Pháp thuộc, việc và áp
dụng một số thành tựu khoa học kĩ thuật của phương Tây (khoa học
tính toán, nghiên cứu quy hoạch, vật liệu mới: bê tông, sắt thép)
cùng đội ngũ nhân lực có trình độ người Pháp và người Việt đã tạo
ra bước phát triển quan trọng trong xây dựng và quản lý đê điều so
với thời phong kiến. Từ sau năm 1945, đặc biệt trong những năm
gần đây, đội ngũ nguồn nhân lực đông đảo có chuyên môn cao,
phương tiện kĩ thuật hiện đại, nghiên cứu và ứng dụng thành công
khoa học kĩ thuật, công nghệ đã tạo ra bước phát triển vượt bậc
trong quản lý đê điều của Việt Nam.
Thứ năm, vai trò của tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận
thức trong đảm bảo an toàn đê điều. Bảo vệ đê điều là trách nhiệm
của toàn dân, của chính quyền các cấp, các ngành. Chính vì thế, khi
tất cả hiểu rõ về tác động của lũ, vai trò của hệ thống đê điều thì sẽ
có ý thức hơn trong việc xây dựng, bảo vệ đê, hộ đê.
Dưới thời phong kiến và thời thuộc địa, việc tuyên truyền, giáo
dục người dân ít được quan tâm. Từ sau năm 1945 đến nay, Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước luôn quan tâm tới công tác
tuyên truyền giáo dục người dân bằng nhiều hình thức: thư động
viên, pa nô, áp phích, khẩu hiệu, thơ, tuyên truyền trên báo chí,
423
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

diễn tập phòng chống lụt và hộ đê,... Trong những năm gần đây,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng cục Phòng, chống
thiên tai và trực tiếp là Vụ Quản lý đê điều đặc biệt quan tâm và
đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền để chính quyền các cấp,
cán bộ ngành đê điều và người dân hiểu rõ sứ mệnh bảo đảm an
toàn đê. Đặc biệt, công tác bảo vệ đê điều đã được đưa vào giáo dục
trong nhà trường ở một số địa phương. Từ năm 2016 đến nay, đã
có nhiều phong trào, cuộc thi được triển khai mạnh mẽ trong lĩnh
vực phòng chống lũ lụt, quản lý đê điều, như: Phong trào thi đua
“Xây dựng đê kiểu mẫu”1, cuộc thi “Sáng tác câu chuyện truyền
thanh về quản lý đê điều”, cuộc thi “Sáng tác lời mới cho làn điệu
dân ca và nhạc cổ truyền với nội dung về phòng chống thiên tai”2....
Đã có hàng trăm bài thơ và nhiều bài hát về đê điều được sáng tác
bởi những cán bộ quản lý đê điều, những người làm công việc liên
quan đến đê điều và cả những nhạc sỹ có tâm huyết với sự nghiệp
đê điều, phòng chống thiên tai. Những lời thơ, bài hát với ngôn từ
giản dị, gần gũi diễn tả công việc đắp đê, giữ đê, ngợi ca ý chí và
nghị lực phi thường của cán bộ và nhân dân trong công cuộc xây
dựng, bảo vệ đê điều góp phần quan trọng nhắc nhở các thế hệ hiện
tại và tương lai về vai trò, sứ mệnh bảo đảm an toàn đê điều, phòng
chống thiên tai.
Thứ sáu, chủ động, cảnh giác, không được lơ là, chủ quan, buông
lỏng trong quản lý, xây dựng và bảo vệ đê, kè, cống. Dưới các triều
đại phong kiến và thời Pháp thuộc, xác định đê điều là công trình
chống nước lụt, liên quan mật thiết tới sự an nguy của người dân,
bảo vệ và phát triển sản xuất, cho nên chính quyền nhà nước phong
kiến và chính quyền thuộc địa rất coi trọng việc chỉ đạo quan lại các
cấp và người dân chủ động đắp, tu sửa các tuyến đê, theo dõi, kiểm
1
Quyết định số 52/QĐ-BNN-TCCB ngày 08/1/2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng đê kiểu mẫu”.
2
Công văn số 1275/PCTT-TTCĐ ngày 02 tháng 12 năm 2020 của Tổng Cục Phòng
chống thiên tai về tổ chức cuộc thi sáng tác lời mới cho làn điệu dân ca và nhạc
cổ truyền với nội dung về phòng chống thiên tai.

424
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

tra, hộ đê khi có lũ; đầu tư ngân sách, dự trữ vật liệu cho cứu hộ đê.
Trên thực tế, dưới thời phong kiến và thời Pháp thuộc, giai đoạn
nào làm tốt việc này thì ít xảy ra vỡ đê; một số giai đoạn, do ít quan
tâm, buông lỏng việc giám sát, quản lý, không chủ động trong việc
dự trữ vật tư, tổ chức bảo vệ và cứu hộ đê, nên đê vỡ nhiều, lũ lụt
gây thiệt hại rất lớn như trong những năm cuối thế kỷ XIX và hơn
hai mươi năm đầu thế kỷ XX. Từ năm 1945 đến nay, chủ động, cảnh
giác, không lơ là, chủ quan, buông lỏng trong quản lý, xây dựng và
bảo vệ đê, kè, cống là tư tưởng mang tính nguyên tắc đã được được
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước, chính quyền các cấp, các
ngành, đặc biệt là cán bộ đê điều quán triệt sâu sắc. Chính điều này
góp phần to lớn tạo lên những thành tựu kỳ tích trong xây dựng
đê điều, hạn chế nguy cơ và thiệt hại do lũ lụt, thiên tai gây ra. Tuy
nhiên, cũng đã xảy ra một số vụ việc để lại những bài học đắt giá
xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, thiếu trách nhiệm, không sát
sao trong công tác quản lý như sự cố vỡ đê Mai Lâm năm 1957, vỡ
đê Cống Thôn, Nhất Trai năm 1971; vụ xâm phạm đê Yên Phụ -
Nhật Tân năm 1994 – 1995.
Hệ thống đê điều của Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử
vẫn là công trình phòng chống lũ bão rất quan trọng, là công trình
vĩ đại, kết tinh từ truyền thống đoàn kết, ý chí, nghị lực, tinh thần
cần cù lao động và sáng tạo của dân tộc Việt Nam. Đội ngũ cán bộ
đê điều ngày nay sẽ tiếp tục sứ mệnh lịch sử đảm bảo an toàn đê
điều, bảo vệ cuộc sống và tài sản của nhân dân và của Nhà nước,
góp phần vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước./.

425
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Quy định về quản lý, tu sửa, bảo vệ đê
Phụ lục 2. Cơ quan quản lý đê điều
Phụ lục 3. Thủ trưởng cơ quan quản lý đê điều qua các thời kỳ
Phụ lục 4. Mức đảm bảo phòng chống lũ
Phụ lục 5. Chiều dài đê trên toàn quốc
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Phụ lục 1.
QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ, TU SỬA, BẢO VỆ ĐÊ1
STT Tên văn bản quy định Thời gian Cơ quan ban hành
Thời kỳ trước năm 1884
1 Điều lệ quy định kì hạn sửa đắp đê điều Giáp Thìn (1664) Vua Lê Huyền Tông
2 Bổ sung thêm vào Điều lệ sửa đắp đê điều Bính Thân (1716) Vua Lê Dụ Tông
3 5 điều để nhằm ổn định xã hội, trong đó có điều thứ Kỷ Hợi (1719) Chúa Trịnh Cương
ba quy định về “sửa đắp đê điều đường sá”1.
4 15 điều dụ nhằm ổn định tình hình xã hội, trong đó Canh Thân (1740) Chúa Trịnh Doanh
điều dụ thứ 15 quy định: “Đê đường, giao cho viên
quan ở trấn đốc thúc sửa đắp, để việc làm ruộng
được thuận tiện”2.
5 Điều lệ đê chính của Bắc Thành Kỷ Tỵ (1809) Vua Gia Long
6 Điều lệ chống nước lụt ở Bắc Kỳ Quý Tỵ (1833) Vua Minh Mệnh
7 Quy định về đê điều ở các huyện của Bắc Thành Mậu Thân (1848) Vua Tự Đức
8 Quy định về đê ở các sông, trong đó quy định cụ thể Quý Sửu (1853) Vua Tự Đức
về đê công và đê tư.
Thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945)
9 Nghị định bảo vệ đê điều Ngày 1/7/1917 Thống sứ Bắc Kỳ
10 Thông tri bảo vệ đê điều Ngày 9/12/1924 Thống sứ Bắc Kỳ
Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 2020
11 Sắc lệnh số 68 - SL về Thể lệ bảo vệ công trình thủy Ngày 18/6/1949 Chính phủ
nông (gồm cả đê điều)
12 Sắc lệnh số 70 - SL về thành lập Ủy ban Trung ương Ngày 22/5/1946 Chính phủ
Hộ đê
13 Nghị định số 173 - CP về ban hành Điều lệ bảo vệ Ngày 21/11/1963 Hội đồng Chính phủ
đê điều
14 Quyết định số 90 - CP về tổ chức đội quản lý đê Ngày 8/5/1971 Hội đồng Chính phủ
15 Thông tư số 09-TL/TT hướng dẫn việc tổ chức và Ngày 28/3/1972 Bộ Thủy lợi
hoạt động của lực lượng quản lý bảo vệ đê điều
16 Pháp lệnh về đê điều Ngày 09/11/1989 Hội đồng Nhà nước

Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2, Sđd, tr. 414.
1

2
Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2, Sđd, tr. 513.

428
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

STT Tên văn bản quy định Thời gian Cơ quan ban hành
17 Pháp lệnh Phòng chống lụt bão Ngày 20/3/1993 Ủy ban Thường vụ
Quốc hội khóa IX
18 Pháp lệnh Đê điều Ngày 24/8/2000 Ủy ban Thường vụ
Quốc hội khóa X
19 Luật Đê điều Ngày 29/11/2006 Quốc hội khóa XI
20 Luật Phòng chống thiên tai Ngày 19/6/2013 Quốc hội khóa XIII
21 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, Ngày 17/6/2020 Quốc hội khóa XIV
chống thiên tai và Luật Đê điều

429
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Phụ lục 2.
CƠ QUAN QUẢN LÝ ĐÊ ĐIỀU
Tên cơ quan Người đứng đầu Thời gian
Thời kỳ trước năm 1884
Hà đê sứ Hà đê chánh sứ Thời Trần
Hà đê phó sứ
Hà đê sứ Quan Hà đê Thời Lê sơ
Đê chính Bắc Thành Tổng lý đê chính 1809 - 1828, thời Nguyễn
Tham lý đê chính (vua Gia Long,
vua Minh Mạng)
Nha môn đê chính Tổng lý Tham biện 1828 - 1832, thời Nguyễn
(vua Minh Mạng)
Nha đê chính Quản lý đê chính sự vụ 1857 - 1862, thời Nguyễn
Hiệp lý đê chính (vua Tự Đức)
Tham biện đê chính
(Không có cơ quan riêng) Khâm sai kinh lý 1876 - 1878, thời Nguyễn
Hà đê sứ Tham biện (vua Tự Đức)
Thường biện đê vụ
Thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945)
Sở Công chính, Sở Thuỷ lợi, Uỷ ban Đê điều 1887
Uỷ ban tối cao về đê điều Thư ký toàn quyền làm 1895
chủ tịch
Sở Công chính Đông Dương Giám đốc 1898
Tổng Nha công chính Đông Dương 1905
Ban Tổng Thanh tra công chính Đông Dương 1911
Thời kỳ từ năm 1945
Phòng Đê điều - Bộ Giao thông Công chính Trưởng phòng 1945 - T4/1955
Phòng Đê điều - Nha Thủy lợi (Bộ Giao thông Trưởng phòng T4/1955 - T9/1955
Công chính)
Cục Đê điều (Bộ Thủy lợi và Kiến trúc) Cục trưởng T9/1955 - 1958
Cục Đê điều (Bộ Thủy lợi) Cục trưởng 1958 - 1960
Cục Đê điều (Bộ Thủy lợi và Điện lực) Cục trưởng 1960 - 1962
Cục Đê điều (Bộ Thủy lợi) Cục trưởng 1962 - 1979
Vụ Phòng chống lũ lụt và Quản lý đê điều (Bộ Vụ trưởng 1979 - 1996
Thủy lợi)1

430
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Tên cơ quan Người đứng đầu Thời gian


Cục Phòng chống lụt bão và Quản lý đê điều Cục trưởng 1996 - 2003
(Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)2
Cục Quản lý đê điều và Phòng chống lụt bão Cục trưởng 2003 - 2010
(Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)3
Cục Quản lý đê điều và Phòng chống lụt bão, Cục trưởng 2010 - 2015
Tổng cục Thuỷ lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn)4
Vụ Quản lý đê điều, Tổng cục Thủy lợi (Bộ Vụ trưởng 2015 - 2017
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)5
Vụ Quản lý đê điều, Tổng cục Phòng, chống Vụ trưởng Từ 2017
thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn)6

1
Nghị định số 88 - CP ngày 06/3/1979 của Hội đồng Chính phủ quy định về tổ
chức và hoạt động của Bộ Thuỷ lợi.
2
Quyết định số 355/TTg ngày 28/5/1996 của Thủ tướng Chính phủ về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Cục Phòng chống lụt bão và Quản
lý đê điều trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
3
Quyết định 94/2003/QĐ-BNN ngày 04/9/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn tổ chức bộ máy của Cục Quản lý đê điều phòng, chống lụt, bão
4
Quyết định số 03/2010/QĐ-TTg ngày 25/01/2010 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thủy lợi trực thuộc Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn
5
Quyết định số 58/2014/QĐ-TTg ngày 22/10/2014 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thủy lợi trực thuộc Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn.
6
Quyết định số 26/2017/QĐ - TTg ngày 3/7/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục phòng chống thiên tai trực thuộc Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

431
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Phụ lục 3.
THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN QUẢN LÝ ĐÊ ĐIỀU QUA CÁC THỜI KỲ

Ông Nguyễn Văn Nhiên Ông Trần Quốc Thái Ông Dương Ngọc Võ
1958 - 1964 1964 - 1967 1967 - 1976
Cục trưởng Cục Đê điều Cục trưởng Cục Đê điều Cục trưởng Cục Đê điều
Bộ Thủy lợi: 1958-1960 Bộ Thủy lợi Bộ Thủy lợi
Bộ Thủy lợi và Điện lực: 1960-1962
Bộ Thủy lợi: 1962-1964

Ông Nguyễn Trọng Tám Ông Trần Ích Châm Ông Từ Mạo
1976 - 1979 / 1979 - 1980 1980 - 1991 1991 - 1996
Cục trưởng Cục Đê điều Vụ trưởng Vụ trưởng
Vụ trưởng Vụ Phòng chống lũ lụt và QLĐĐ Vụ Phòng chống lũ lụt và QLĐĐ
Vụ Phòng chống lũ lụt và QLĐĐ Bộ Thủy lợi Bộ Thủy lợi
Bộ Thủy lợi

Ông Nguyễn Ty Niên Ông Đặng Quang Tính Ông Nguyễn Xuân Diệu
1996 - 2001 2001 - 2003 / 2003 - 2008 2008 - 2010
Cục trưởng Cục trưởng Cục trưởng
Cục Phòng chống lụt bão và QLĐĐ Cục Phòng chống lụt bão và QLĐĐ Cục Quản lý đê điều và PCLB
Bộ Nông nghiệp và PTNT Cục Quản lý đê điều và PCLB Bộ Nông nghiệp và PTNT
Bộ Nông nghiệp và PTNT

432
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Ông Trần Quang Hoài Ông Vũ Văn Tú Ông Vũ Xuân Thành


2010 - 2012 2012 - 01/2015 / 01-5/2015 5/2015 - 2017
Cục trưởng Cục trưởng Vụ trưởng
Cục Quản lý đê điều và PCLB Cục Quản lý đê điều và PCLB Vụ Quản lý đê điều
Tổng cục Thuỷ lợi Vụ trưởng Vụ Quản lý đê điều Tổng cục Thủy lợi
Bộ Nông nghiệp và PTNT Tổng cục Thuỷ lợi Bộ Nông nghiệp và PTNT
Bộ Nông nghiệp và PTNT

Ông Phạm Đức Luận Ông Trần Công Tuyên


2017 - 2021 từ 2021
Vụ trưởng Vụ trưởng
Vụ Quản lý đê điều Vụ Quản lý đê điều
Tổng cục Phòng, chống thiên tai Tổng cục Phòng, chống thiên tai
Bộ Nông nghiệp và PTNT Bộ Nông nghiệp và PTNT

433
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Phụ lục 4.
MỨC ĐẢM BẢO PHÒNG CHỐNG LŨ
Giai đoạn Đê/sông Mức chống lũ Địa điểm Ghi chú
Thời Nguyễn
Vua Gia Sông đại giang, Bề mặt rộng 2 trượng, chân 7 trượng, cao 1 Điều lệ đê chính
Long, đê thượng lưu trượng 2 thước.
năm Kỷ Tỵ và trung lưu
(1809) Đê hạ lưu Bề mặt rộng 1 trượng 5 thước, chân rộng
5 trượng.
Sông trung Bề mặt rộng 1 trượng 2 thước, chân 4
giang trượng, cao 1 trượng.
Sông tiểu giang Bề mặt 9 thước, chân 3 trượng, cao 9 thước.
Năm Đinh Đê ở thượng, Đê ở thượng, trung lưu sông Cái đắp cao Vua Minh Mệnh ban dụ.
Hợi (1827) trung lưu hơn ngấn nước 1,5 thước. Nếu thượng lưu
sông Cái đoạn nào ngấn nước còn cách
mặt đê 1 thước thì cho đắp bù thêm 5 tấc,
đoạn nào nước tràn qua mặt đê 1 thước
thì cho đắp bù thêm 1 thước 5 tấc, đất
cần đê đắp có thể thu hẹp mặt đê để lấy,
mặt đê hiện rộng 1 trượng 5 thước đến
2 trượng thì thu gọn lại 5 thước, hai bên
đê khoảng 2 thước 5 tấc. Đoạn nào rộng
1 trượng 4 thước trở xuống thu gọn còn
3 thước, hai bên đê khoảng 1 thước 5 tấc.
Đê hạ lưu và đê Đê hạ lưu và đê sông nhỏ đắp cao hơn 1 thước.
sông nhỏ
Năm Sông đại giang, Chuẩn cho sông đại giang, thượng và Điều lệ đê chính
Đinh Dậu thượng và trung lưu đê đắp cao hơn ngấn nước 1
(1837) trung lưu thước 5 tấc.
Đê hạ lưu đại Đê hạ lưu đại giang và đê trung giang đắp cao
giang và đê hơn ngấn nước 1 thước. Trên thượng lưu, nơi
trung giang nào ngấn nước cách mặt đê 1 thước thì tôn
cao thêm 5 tấc. Đoạn nào ngấn nước tràn qua
mặt đê một thước thì đắp bù 1 thước và làm
cao thêm 1 thước 5 tấc. Đoạn nào ngấn nước
thấp hơn mặt đê 1 thước 5 tấc trở lên không
nên đắp thêm. Đoạn nào rộng từ 1

434
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Giai đoạn Đê/sông Mức chống lũ Địa điểm Ghi chú


trượng 5 thước đến 2 trượng thì đắp mặt đê
rút lại 5 thước. Hai bên đều để lưu không
mỗi bên 2 thước 5 tấc. Đoạn nào hiện rộng 1
thước 4 tấc thì đắp rút vào 3 thước.
Chung Hai bên đi lưu không, mỗi bên 1 thước 5 tấc.
Thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945)
Cuối thế Sông Hồng +9,0m Hà Nội Đánh giá của chính
kỷ XIX quyền thực dân Pháp.
1924 Sông Hồng +11,75m Hà Nội Chương trình 1924
nâng cấp đê chính
Bắc Kỳ
1926 Sông Hồng +12,0m Hà Nội Chương trình cải tạo đê
quy mô lớn năm 1926
Thời kỳ từ năm 1945
1960 Sông Hồng +13,0 m Hà Nội Đại hội Đảng toàn quốc
Sông Thái Bình +6,3 m Phả Lại lần thứ III diễn ra vào
tháng 9/1960.
1963 Sông Hồng +13,3 m Hà Nội Nghị quyết 65-NQ/TW
Sông Thái Bình +6,5 m Phả Lại ngày 2/01/1963 của
Ban Chấp hành Trung
ương khóa III về các chủ
trương phòng và chống
lụt ở Bắc Bộ trong 10
năm tới (1963-1973)
1972 Sông Hồng +14,13 (lũ lịch sử thực đo năm 1971) Hà Nội Nghị quyết số 55-CP
Sông Thái Bình +7,2m (lũ lịch sử thực đo năm 1971) Phả Lại ngày 23/4/1972 của
Chính phủ về những
việc cần làm trước mắt
và lâu dài đối với công
tác đê điều, phòng
chống lụt bão.
1999 Sông Hồng +13,4m Hà Nội Nghị định số 62/1999/
NĐ-CP ngày 31/7/1999
của Chính phủ ban
hành quy chế về phân
lũ, chậm lũ thuộc hệ
thống sông Hồng để
bảo vệ an toàn cho Thủ
đô Hà Nội

435
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Giai đoạn Đê/sông Mức chống lũ Địa điểm Ghi chú


2002, Sông Hồng +13,1 m, riêng tại Hà Nội +13,4m Hà Nội - 14TCN 122:2002: Tiêu
2007 Sông Thái Bình +7,2 m Phả Lại chuẩn phòng chống lũ
đồng bằng sông Hồng;
- Quyết định sô 92/2007
phê duyệt Quy hoạch
phòng chống lũ sông
Hồng, sông Thái Bình
2016 Sông Hồng +13,1 m, riêng tại Hà Nội +13,4m Hà Nội Quyết định số 257/QĐ-
Sông Thái Bình +7,2 m Thái Bình TTg ngày 18/2/2016 phê
duyệt Quy hoạch phòng
chống lũ và quy hoạch
đê điều hệ thống sông
Hồng, sông Thái Bình.

436
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Phụ lục 5.
CHIỀU DÀI ĐÊ TRÊN TOÀN QUỐC
Đơn vị tính: km
Tỉnh, Đê cửa Đê Đê bao,
STT Đê sông Tổng
thành phố sông biển bờ bao
1 Tuyên Quang 43 -  - - 43
2 Yên Bái - - - 19 19
3 Thái Nguyên 50 - - - 50
4 Vĩnh Phúc 96 - - 90 186
5 Phú Thọ 422 - - 87 509
6 Bắc Ninh 195 - - - 195
7 Bắc Giang 238 - - 118 356
8 Hải Dương 373 - - 29 402
9 Hưng Yên 77 - - 78 155
10 Thái Bình 240 57 71 148 516
11 Tp. Hải Phòng 231 127 58 - 416
12 Quảng Ninh 219 128 50 - 397
14 Tp. Hà Nội 623 - - 124 747
13 Hòa Bình 42 - - - 42
15 Hà Nam 185 - - 46 231
16 Nam Định 342 - 99 99 540
17 Ninh Bình 376 - 48 71 495
18 Thanh Hóa 943 22 42 -  1.007
19 Nghệ An 134 129 43 150 456
20 Hà Tĩnh 240 51 25 - 316
21 Quảng Bình 183 92 5 - 280
22 Quảng Trị 58 57 66 - 181
23 Thừa Thiên Huế - 11 170 - 181
24 Tp. Đà Nẵng - 22 17 - 39
25 Quảng Nam 72 60 3 - 135
26 Quảng Ngãi 37 45 1 - 81
27 Bình Định 26 50 - - 76
28 Phú Yên 2 18 11 - 31

437
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Tỉnh, Đê cửa Đê Đê bao,


STT Đê sông Tổng
thành phố sông biển bờ bao
29 Khánh Hòa  - 31 - - 31
30 Ninh Thuận 9 9 6 - 24
31 Bình Thuận 21 - - - 21
32 Đăk Lăk - - - 45 45
33 Đồng Nai - - - 22 22
34 Bà Rịa - Vũng Tàu - - 26 -  26
35 Bình Dương - - - 44 44
36 Tây Ninh - - - 11 11
37 Long An - - - 6.348 6.348
38 Tiền Giang 107 48 22 2.031 2.208
39 Bến Tre 146 -  130 533 809
40 Đồng Tháp - - - 8.113 8.113
41 Vĩnh Long - - - 3.642 3.642
42 Trà Vinh 133 45 85 336 599
43 Hậu Giang - - - 6.984 6.984
44 An Giang - - - 5.789 5.789
45 Tp. Cần Thơ - - - 931 931
46 Sóc Trăng 301 - 94 95 490
47 Kiên Giang 140 - 134 2.468 2.742
48 Bạc Liêu  - - 52 379 431
49 Cà Mau 247 25 80 7.768 8.120
Tổng cộng 6.553 1.027 1.338 46.597 55.515
Hệ thống đê điều Việt Nam hiện nay có tổng cộng 55.515km đê
các loại trên địa bàn 49 tỉnh, thành phố gồm 6.553km đê sông, 1.026
km đê cửa sông, 1.338 km đê biển, 46.597 km đê bao, bờ bao.
Theo phân cấp đê có 2.731km đê từ cấp III trở lên (tại 21 tỉnh,
thành phố: Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang,
Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nội,
Hòa Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh, Long An, Đồng Tháp, An Giang; trong đó, 38 km đê cấp đặc
biệt tại Hà Nội) và 52.784 km đê dưới cấp III (trong đó, 45.418km đê
bao, bờ bao ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long).
438
TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT
1. Nguyễn Văn Am, “Nguyễn Tư Giản với công tác trị thủy nửa cuối
thế kỷ XIX, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1 (266), tháng 11/1993.
2. Nguyễn Văn Am, “Công tác thủy lợi và sự đổi thay của nông
thôn tỉnh Thái Bình (1954-1990)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5
(270), tháng 10/1993.
3. Nguyễn Văn Am, “Hồ Chí Minh với công tác thủy lợi và phòng
chống thiên tai”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6 (58), năm 1994.
4. Nguyễn Văn Am, “Một số quy ước của làng xã Đồng bằng Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ đối với thủy lợi trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945”, Tạp chí Thủy lợi, số 299, tháng 8/1994.
5. Nguyễn Văn Am, Biện pháp thủy lợi ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ thời Tự Đức, những tiến bộ và hạn chế, Thông báo khoa
học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 7/1994.
6. Nguyễn Văn Am, “Nạn vỡ đê ở Thái Bình thời thuộc Pháp”, Báo
Thái Bình số ra ngày 2/4/1995.
7. Nguyễn Văn Am, Việc đắp đê trị thủy của ông cha ta trong quá trình
dựng nước, Tạp chí Trung học phổ thông, số 2/1995.
8. Nguyễn Văn Am, Thủy lợi Thái Bình 1883 - 1945, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2000.
9. Nguyễn Văn Am, Trần Xuân Trí, Nguyễn Thị Thu Thủy, Thủy lợi
ở Đồng bằng Bắc Bộ từ 1883 đến 1945, đề tài cấp Bộ, mã số B2006-17-
31, thực hiện năm 2006 - 2007.
10. Nguyễn Văn Am, “Hiệu quả của những công trình thủy lợi được
xây dựng ở Đồng bằng Bắc Bộ từ năm 1883 đến năm 1945”. Tạp
chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 53/2008.
11. Nguyễn Anh, Đặc điểm hồ chứa nước miền Bắc Việt Nam, NXB
Nông thôn, Hà Nội, 1972.
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

12. Aumiphin (J.P) (1994), Sự hiện diện của tài chính và kinh tế Pháp ở
Đông Dương 1959 - 1939, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xuất
bản, Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Âu (1997), Sông ngòi Việt Nam, Tập I: Phần Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
14. Phạm Văn Ấp, Hoàng Kim Hải, Trương Nhật Thanh, Sổ tay kĩ
thuật hộ đê, Hà Nội, 1968.
15. Ban liên lạc nông dân toàn quốc, Vài kinh nghiệm thi đua sản xuất,
Bộ Canh nông xuất bản, 1952.
16. Ban chỉ đạo Phòng, chống lụt bão Trung ựơng, Thông tin Phòng,
chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai (Lưu hành nội bộ), từ số 1 đến
số 2 năm 1991-1996.
17. Ban Tuyên truyền giáo dục Thủy lợi, Kiến trúc, Công tác đắp đê,
Hà Nội, 1958.
18. Lâm Bình, Mai Đằng, Hệ thống các văn bản pháp quy về quản lý đề
điều và phòng chống lụt bão trong giai đoạn mới, NXB Lao động, Hà
Nội, 2007.
19. Bộ Canh Nông, Vài kinh nghiệm thi đua sản xuất nông nghiệp, Hà
Nội, 1952.
20. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 70 năm nông nghiệp Việt
Nam, NXB Lao động, Hà Nội, 2015.
21. Bộ Thủy lợi, Báo cáo tổng kết phai đập miền núi, Hà Nội, 1966.
22. Bộ Thủy lợi, Báo báo khoa học Bộ thủy lợi 1973 - 1974, tập 1, Hà Nội, 1974.
23. Bộ Thủy lợi, Báo báo khoa học, Bộ thủy lợi 1973 - 1974, tập 2, Hà Nội, 1974.
24. Bộ Thủy lợi, Những quy định về quản lý và bảo vệ đê, kè, cống, lòng
sông, bãi sông, NXB Nông thôn, 1975.
25. Bộ Thủy lợi, Hội thảo về chất lượng nền đê tháng 10/1986, Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội, 1987.
26. Bộ Thủy lợi, 50 năm Thủy lợi - Những chặng đường, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995.
27. Bộ Thủy lợi và Kiến trúc, Tạp chí Thủy lợi Kiến trúc, năm 1957-1958.
28. Bộ Thủy lợi - Tổng cục Thống kê, Những người thợ giỏi ngành Thủy
lợi, NXB Thống kê, Hà Nội, 1992.
29. Bộ Thủy lợi - Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê thủy lợi Việt Nam
(1986-1990), NXB Thế giới, Hà Nội, 1994.
440
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

30. Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác thủy lợi, NXB Nông nghiệp,
Hà Nội, 1990.
31. Công báo, số 13, tháng 4/1999, số số 740, 741 tháng 10/2007.
32. Cục Phòng chống lụt bão và Quản lý đê điều, 50 năm đê điều
phòng chống lụt bão giảm nhẹ thiên tai Việt Nam 1946-1996, NXB
Nông nghiệp, Hà Nội, 1996.
33. Nguyễn Cảnh Dinh, Báo cáo của Ban chỉ huy chống lụt bão Trung
ương tại lễ kỷ niệm 40 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 70
thành lập Ủy ban Trung ương hộ đê (22/5/1946 - 22/5/1986), Bản lưu
tại Thư viện Quốc gia Việt Nam.
34. Phan Đại Doãn, “Tìm hiểu công cuộc khẩn hoang thành lập hai
huyện Tiền Hải, Kim Sơn đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu
Lịch sử, số 3 (5+6), 1978.
35. Phạm Thận Duật, Hà đê tấu tập (chữ Hán), Bản dịch của Viện Sử
học Việt Nam.
36. Đỗ Xuân Dung, Công tác quản lý đê điều, NXB Nông thôn, Hà Nội, 1964.
37. Đại học Thủy lợi, Tạp chí Khoa học kĩ thuật Thủy lợi và môi trường,
các số 2012, 2013, 2016, 2017.
38. Nguyễn Khắc Đạm, Những thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở Việt
Nam, NXB Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1957.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, từ tập 8 đến tập
69, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội các năm 2000, 2001, 2002,
2003, 2004, 2005, 2006, 2015, 2016 và 2017.
40. Lê Văn Đạt, Vùng tự do liên khu V trong kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945-1954), NXB Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, 2017.
41. Điều lệ bảo vệ đê điều, NXB Nông thôn, 1972.
42. Bùi Xuân Đính, Lệ làng phép nước, NXB Pháp lý, Hà Nội, 1995.
43. Trần Kim Đôn (chủ biên), 50 năm thủy lợi Nghệ An những chặng
đường phát triển (1945 - 2010), NXB Nghệ An, 2010.
44. Nguyễn Kiến Giang, Tình hình ruộng đất và đời sống nông dân ở Việt
Nam trước 1945, NXB Sự thật, Hà Nội, 1959.
45. Mai Xuân Hai, Bùi Xuân Đính, Thủy lợi và quan hệ làng xã, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997.
46. Nguyễn Quang Hòa, 70 xuân dặm dài sự nghiệp, NXB Nghệ An, 2016.
47. Trần Đình Hòa (chủ biên), Công trình ngăn sông lớn vùng ven biển,
NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 2008.
441
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

48. Trịnh Quang Hoà, Vũ Hồng Châu, Nguyễn Tuấn Anh, Tuyển
tập kết quả khoa học và công nghệ 2003 - 2005, NXB Nông nghiệp,
Hà Nội, 2006.
49. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4 (1945-1946), NXB Chính trị Quốc gia
Hà Nội, 1995.
50. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 (1947-1949), NXB Chính trị Quốc gia
Hà Nội, 1995.
51. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6 (1950-1952), NXB Chính trị Quốc gia
Hà Nội, 1995.
52. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7 (1953-1955), NXB Chính trị Quốc gia
Hà Nội, 1996.
53. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9 (1958-1959), NXB Chính trị Quốc gia
Hà Nội, 1996.
54. Trần Như Hối (chủ biên), Đê bao vùng ngập lũ đồng bằng sông
Cửu Long, NXB Nông nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.
55. Hội Thủy lợi Việt Nam, Kỷ yếu 65 năm ngành Thủy lợi Việt Nam,
Hà Nội, 2010.
56. Hội Thủy lợi Việt Nam, Tạp chí Tài nguyên nước, số 2 tháng 4/2018
và số 3 tháng 7/2018.
57. Đỗ Đức Hùng, Trị thủy, thuỷ lợi ở nước ta đầu thế kỷ XIX, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số188 (9 - 10), 1979.
58. Đỗ Đức Hùng, Vấn đề trị thủy ở Đồng bằng Bắc Bộ dưới thời Nguyễn
(thế kỷ XIX), Luận án Tiến sĩ Sử học, Viện Sử học Việt Nam, 1995.
59. Nguyễn Văn Huyên, Tổng kết kĩ thuật hộ đê năm 1971, Ban chỉ huy
phòng chống lụt bão Hải Hưng, 1971.
60. Quang Khải, Hồ núi Cốc, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 1981.
61. Nguyễn Văn Khánh, Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa
(1858-1945), NXB Đại học Quốc Gia, Hà Nội, 2004.
62. Phan Khánh, Nguyễn Công Tuấn, Công tác quản lý, khai thác công
trình Thủy lợi nhỏ miền núi, NXB Nông thôn, 1971.
63. Phan Khánh, Từ Mạo, Nguyễn Gia Quang, Sơ thảo lịch sử đê điều
Việt Nam, NXB Nông nghiệp, 1995.
64. Phan Khánh, Sơ thảo lịch sử Thủy lợi Việt Nam 1945-1995, NXB
Chính trị Quốc gia, 1997.
65. Phan Khánh, Nam Bộ 300 năm làm thủy lợi, NXB Nông nghiệp
Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.
442
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

66. Phan Khánh, Vương Đình Đước, Cải tạo đất phèn ở đồng bằng sông
Cửu Long, NXB Nông nghiệp Tp Hồ Chí Minh, 2006.
67. Phan Khánh, Hồ Dầu Tiếng: Lịch sử một công trình, NXB Nông
nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, 2008.
68. Phan Khánh, Nguyễn Ân Niên, Nguyễn Ty Niên, Trịnh Nhật
Thủy, Bác Hồ với ngành Thủy lợi, NXB Nông nghiệp, 2012.
69. Phan Khánh (chủ biên), Nguyễn Ân Niên, Nguyễn Ty Niên, Lịch
sử thủy lợi Việt Nam, NXB Thời đại, 2014.
70. Phan Sỹ Kỳ, Sự cố một số công trình thủy lợi ở Việt Nam và các biện
pháp phòng tránh, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 2000.
71. Vũ Tự Lập, Đàm Trung Phường, Ngô Đức Thịnh, Tô Ngọc Thanh,
Đinh Thị Hoàng Uyên, Văn hóa cư dân Đồng bằng sông Hồng, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.
72. Nguyễn Văn Lễ, Ký ức về một số sự kiện đê điều, phòng chống lụt, bão
đáng nhớ thời kỳ 1970-2000 (hồi ký).
73. Ngô Sỹ Liên, Đại Việt sử kí toàn thư, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.
74. Thuỳ Linh, Việt Trinh, Tìm hiểu quy định xử phạt vi phạm hành chính
về khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi - đê điều, phòng chống lụt, bão,
NXB Lao động, Hà Nội, 2013.
75. Bùi Quý Lộ, Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Tiền Hải
(1828), Luận án Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội I, 1987.
76. Nhiều tác giả, Bác Hồ với Thủy lợi, NXB Nông thôn, 1970.
77. Nhiều tác giả, Các Văn kiện, Chỉ thị, Nghị quyết về công tác phòng
chống bão, lũ, NXB Nông thôn, Hà Nội, 1970.
78. Nhiều tác giả, Những điền hình làm thủy lợi đuổi kịp và vượt Hồng
Thái, NXB Nông thôn, 1972.
79. Nhiều tác giả, Tập báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học kĩ thuật về
nền đê, tổ chức ngày 17 và 18 tháng 10 năm 1986, NXB Nông nghiệp,
Hà Nội, 1987.
80. Nguyễn Đình Ninh, Tô Văn Trường, Khoa học công nghệ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn 20 năm đổi mới, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2005.
81. Pierre Gourou, Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ: nghiên cứu địa
lý nhân văn (dịch bởi Nguyễn Khắc Đạm, Đào Hùng, Nguyễn
Hoàng Oanh), NXB Trẻ Tp. Hồ Chí Minh, 2015.
443
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

82. Dương Kinh Quốc Việt Nam - Những sự kiện lịch sử 1897 - 1918,
NXB Khoa học - Xã hội, Hà Nội, 1982.
83. Dương Trung Quốc, Những sự kiện lịch sử của Việt Nam 1919-1945,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000.
84. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2007.
85. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 2, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2007.
86. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 3, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2007.
87. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 4, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2007.
88. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 5, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2007.
89. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 6, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2007.
90. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 7, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2007.
91. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 8, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2007.
92. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 9, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2007.
93. Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI - XII,
Tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1982.
94. Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI - XII,
Tập 2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983.
95. Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh
Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2005.
96. Lê Sâm, Thủy nông ở Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Nông nghiệp
Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
97. Đồng Tư Sinh, Đặng Tiến Lực, Quản lý hồ chứa nước, Bộ Thủy lợi
và Điện Lực, 1962.
98. Lưu Văn Sửu, Hà Đức Trung, Nguyễn Tiến Dĩnh, Công tác tư
tưởng với nhiệm vụ phòng chống lụt bão, NXB Hà Nội, 2003.
99. Tạp chí Kinh tế Phát triển, số 148, năm 2009.
444
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

100. Hà Kế Tấn, Phát triển mạnh công tác thủy lợi, NXB Sự thật, Hà Nội, 1964.
101. Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, NXB Khoa học Kĩ thuật, Hà
Nội, 1997.
102. Tạ Thị Thúy, Đồn điền của người Pháp Bắc kỳ, 1884-19918, NXB Thế
giới, Hà Nội, 1996.
103. Tạ Thị Thúy, Lịch sử Việt Nam từ năm 1897 đến năm 1918, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013.
104. Tổng cục Thống kê, Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và
thủy sản năm 2016, NXB Thống kê, 2018.
105. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê năm 2018, NXB Thống kê, 2019.
106. Tổng cục Thống kê, Tạp chí Con số và Sự kiện, số 4/2018.
107. Ty Thủy lợi và Kiến trúc Hà Nam, Nhiệm vụ công tác đê điều và thuỷ
nông, Hà Nam, 1958.
108. Ty Thủy lợi Hà Tây, Sổ tay chống lụt, Hà Tây, 1972.
109. Ty Thủy lợi Vĩnh Phúc, Mấy kinh nghiệm làm thuỷ lợi của Vĩnh Phúc,
NXB Nông thôn, Hà Nội, 1964.
110. Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, Tuyển tập kết quả khoa học và
công nghệ 2003-2005, NXB Nông nghiệp, 2006.
111. Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, Báo cáo đánh giá kết quả thực
hiện định hướng chiến lược phát triển thủy lợi Việt Nam giai đoạn
2009-2015, Hà Nội, 2016.
112. Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, Tuyển tập khoa học công nghệ
năm 2017, NXB Lao động, 2018.
113. Viện Quy hoạch Thủy lợi Việt Nam, Viện Quy hoạch Thủy lợi 55
năm (1961-2016): Đơn vị anh hùng lao động, NXB Khoa học Kĩ
thuật, Hà Nội, 2016.
114. Viện Sử học Việt Nam, Nông nghiệp và nông thôn Việt Nam thời Cận
đại, tập 1, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990.
115. Nguyễn Vũ Việt (chủ biên), Hiện trạng và giải pháp nâng cao năng lực
hồ chứa vừa và nhỏ ở Tây Nguyên, NXB Khoa học và kĩ thuật, 2017.
116. Ủy ban Hành chính Bắc Bộ, Chống nạn hồng thủy ở Bắc Bộ: chương trình
hộ đê và cẩm lang sách hộ đê, Nhà in Rạng Đông, Hà Nội, 1946 và 1948.
117. Đào Tố Uyên, Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Kim Sơn, Ninh
Bình (1829), Luận án Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, 1998.
445
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

118. Huy Vu, Vài nét về đê điều, thủy lợi ở làng xã thời trước, Tạp chí Ng-
hiên cứu Lịch sử, số 3(180), 1978.
119. Huy Vu, Ý nghĩa, tác dụng và tổ chức đê điều - thủy lợi ở một số
địa phương thuộc Đồng bằng Bắc Bộ, Sưu tập Dân tộc học, Viện
Dân tộc học, Hà Nội, 1979.
120. Hoàng Văn Xô, Đầu tư xây dựng và khai thác các công trình thủy
lợi ở Đồng bằng sông Hồng, NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 2003.
121. Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa
(1847-1885), NXB Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 1993.
TIẾNG NƯỚC NGOÀI
122. Albert Maybon, L’Indochine, Larose, Paris, 1931.
123. Aménagements hydrauliques pour la mise en valeur de la Co-
chinchine, Bulletin de l’Agence économique de l’Indochine, N0 96/1937.
124. Aumiphin Jean Pierre, La présence financière et économique française
en Indochine (1859-1939), Maison des Statiques du Viet Nam, 1996.
125. Barrage du Day (1935-1937), 1937.
126. Bigorgne.A, L’Hydraulique agricole dans le delta tonkinois, Bulletin
économique de l’Indochine (BEI), N0 3/1938.
127. Bouvier René, La misère et Richesse du delta tonkinois, Imprimerie
André Tournon et Cie, Paris, 1937.
128. Brocheux Pierre, Hémery Daniel, Indochine: La colonisation ambi-
guë 1858-1954, Édition la Découverte, Paris, 2001.
129. Chasigneux. E, L’irrigation dans le delta du Tonkin, Librairie Ch, De-
lagrave Paris, 1912.
130. Chevalier Auguste, L’organisation de l’Agriculture coloniale en Indo-
chine et dans la Métropole, Imprimerie C. Ardin et Fils, Saïgon, 1918.
131. Constantin.L, L’Hydraulique agricole en Indochine, Imprimerie
d’Extrême-Orient, Hanoï, 1918.
132. Constantin.L, L’Hydraulique agricole en Cochinchine, Éveil
économique, N0 70, 12 octobre 1918.
133. Cordemoy. P, L’aménagement hydraulique de la Cochinchine,
Bulletin de l’Agence économique de l’Indochine, N0 51, mars 1932.
134. Cordemoy.P, Les irrigations de Son Tay (Tonkin), Bulletin de
l’Agence économique de l’Indochine, N0 56, aout 1932.
135. Cros Louis, Indochine française pour tous, Albin Michel, éditeur, Paris,1931.
446
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

136. Delamarre Émile, L’émigration et l’immigration ouvrière en Indo-


chine, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoï, 1931.
137. Dumont René, La culture du riz dans le delta du Tonkin, Éditions de
la Maison des sciences de l’homme, Paris, 1995.
138. Gauthier. J, Digues du Tonkin, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1930.
139. Gérard. G. F, Finances et grands travaux en Indochine, Le courrier
colonial illustré, 15 décembre 1928.
140. Gouvernement général de l’Indochine, Rapports au Conseil de gou-
vernement (tome 2), Hanoi, 1925.
141. Gouvernement général de l’Indochine, Budget spécial des grands
travaux et dépenses sanitaires sur fonds d’emprunt (exercice 1937), Im-
primerie d’Extrême-Orient, Hanoi.
142. Hipbon André, La crise économique en Indochine, Société générale
d’Imprimerie et d’édition, Paris, 1934.
143. Irrigations du Nghe An: Réseau de Vinh Nord: Six années de labeur
(1931-1937), 1937.
144. L’aménagement hydraulique de la Cochinchine, Bulletin de
l’Agence économique de l’Indochine, N0 51, mars 1932.
145. L’équipement de l’Indochine, Revue La Renaissance, N0 27, 27 sep-
tembre 1930.
146. Morice. C, Le régime des eaux du Tonkin, Extrait de la revue Indo-
chinoise, No 8, 8/1913, Imprimerie d’Extrême-Orient, 1913.
147. Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saigon, Im-
primerie de l’Union, Saigon, 1917.
148. Normandin.A, Les crues du fleuve Rouge, Bulletin économique de
l’Indochine, 1914.
149. Normandin. A, Rapport sur l’aménagement du delta tonkinois pour la
lutte contre les inondations, 1/1915.
150. Pagès, La situation économique de la Cochinchine, Bulletin de
l’Agence économique de l’Indochine, N0 83, novembre 1934.
151. Pétayvin.M, La crue du fleuve Rouge et les inondations du Tonkin en
1915, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoi, 1916.
152. Pouyanne.A, Le Bilan des travaux publics de l’Indochine, Revue
économique d’Extrême-Orient, N0 8, 20 avril 1926.
447
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

153. Pouyanne.A, L’hydraulique agricole au Tonkin, Imprimerie d’Ex-


trême-Orient, Hanoi, 1931.
154. Problème de l’eau en Cochinchine, Le Monde colonial illustré, N0
72, 8/1929.
155. Rapport de la Commision supérieuse des digues, Imprimerie Typo-li-
thographique F.H. schneider, 1895.
156. Rapport de la Commision supérieuse des digues, Imprimerie Typo-li-
thographique F.H. schneider, 1896.
157. Robequain Charles, L’évolution économique de l’Indochine française,
Paul Hartmann-éditeur, Paris, 1939.
158. Robin. J, Travaux secondaires d’hydraulique agricole en Cochinchine,
Saïgon, 1918.
159. Service des Travaux Publics de l’Indochine, Circulaire No 1677A:
Reprénant et complètant les prescriptions de celles des 10 Avril 1924 et
16 Juillet 1927, 1937.
160. Touzet André, L’économie indochinoise et la grande crise universelle,
Paris, 1934.
161. Yves Henry, Économie agricole de l’Indochine, Imprimerie d’Ex-
trême-Orient, Hanoï, 1932.
TRANG WEB
1. http://tulieuvankien.dangcongsan.vn (Báo điện tử Đảng Cộng
sản Việt Nam, Hệ thống tư liệu - văn kiện Đảng).
2. http://vanban.chinhphu.vn (trang Văn bản, Cổng thông tin điện
tử Chính phủ).
3. http://phongchongthientai.mard.gov.vn (Tổng cục Phòng, chống
thiên tai).
4. http://www.tongcucthuyloi.gov.vn (Tổng cục Thủy lợi).
5. http://www.vncold.vn (Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước).
6. http://www.vawr.org.vn (Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam).
7. http://www.tlu.edu.vn/ (Trường Đại học Thủy lợi).
8. http://iwrp.gov.vn/ (Viện Quy hoạch Thủy lợi).
9. http://www.cpo.vn (Ban quản lý Trung ương các dự án Thủy lợi).
10. http://vbpl.vn (Dữ liệu Quốc gia về văn bản pháp luật).

448
MỤC LỤC

LỜI GIỚI THIỆU..................................................................................................................................5


MỞ ĐẦU..............................................................................................................................................7

PHẦN THỨ NHẤT


CÔNG CUỘC ĐẮP ĐÊ TRỊ THỦY TỪ THỜI DỰNG NƯỚC ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX

Chương 1
SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐÊ Ở VIỆT NAM
TỪ THẾ KỶ VII TCN ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XVIII
I. Quá trình hình thành đê, phòng chống lũ lụt từ thời kỳ dựng nước đến thế kỷ X...........14
1. Thời kỳ dựng nước....................................................................................................................14
2. Thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc.......................................................................................16
II. Xây dựng, phát triển đê điều từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII...................................................19
1. Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê (thế kỷ X)...........................................................................................19
2. Thời Lý (thế kỷ XI - XIII)..............................................................................................................20
3. Thời Trần - Hồ (thế kỷ XIII - đầu thế kỷ XV)................................................................................22
4. Thời Lê sơ (thế kỷ XV - XVI)........................................................................................................28
5. Thời Mạc (thế kỷ XVI)................................................................................................................38
6. Thời Lê Trung hưng (thế kỷ XVI - XVIII)......................................................................................40
7. Thời Tây Sơn (cuối thế kỷ XVIII)..................................................................................................48

Chương 2
ĐẮP ĐÊ, CẢI TẠO SÔNG NGÒI VÀ TRỊ THỦY NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX (1802 - 1858)
I. Bối cảnh lịch sử..........................................................................................................................50
II. Thảo luận về việc bỏ đê hay giữ đê ở Đồng bằng Bắc Bộ.....................................................54
1. Lý do có các cuộc thảo luận về đắp đê ở Đồng bằng Bắc Bộ.......................................................54
2. Nội dung các cuộc thảo luận đắp đê hay bỏ đê..........................................................................58
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

III. Công cuộc đắp đê và cải tạo sông ngòi .................................................................................71


1. Thiết đặt cơ quan hành chính để quản lý đê điều......................................................................71
2. Chủ trương, chính sách của nhà Nguyễn đối với đê điều............................................................72
3. Công việc tu sửa, đắp đê và xây dựng các công trình dưới đê.....................................................97
4. Cải tạo, khơi sông cũ, đào sông mới, phân lũ, thoát lũ............................................................. 116

PHẦN THỨ HAI


ĐÊ ĐIỀU VÀ TRỊ THỦY TỪ NĂM 1858 ĐẾN NĂM 1945

Chương 3
ĐẮP ĐÊ, PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT TRONG NHỮNG NĂM CUỐI THẾ KỶ XIX
I. Bối cảnh lịch sử mới yêu cầu về việc đê, sông và phòng chống lũ lụt.............................. 130
II. Công cuộc đắp đê, trị thủy của triều Nguyễn (1858 - 1883)............................................. 136
1. Tổ chức và quản lý công việc trị thủy........................................................................................ 136
2. Đắp đê, xây dựng cống, đào sông thoát nước.......................................................................... 140
III. Chính sách và biện pháp đắp đê của chính quyền Pháp ở Việt Nam (1884 - 1896)....... 147
1. Cuộc tranh luận quyết liệt không hồi kết giữ đê hay bỏ đê ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ,
những nỗ lực bước đầu và sự lúng túng của chính quyền Pháp................................................... 147
2. Khơi đào kênh rạch kết hợp đắp đê và phát triển giao thông, quan điểm và biện pháp thoát lũ
nhất quán từ đầu của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ..................................................................... 153

Chương 4
GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN CÁC DỰ ÁN ĐẮP ĐÊ QUY MÔ LỚN Ở
VIỆT NAM TRONG 30 NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX
I. Bối cảnh lịch sử ....................................................................................................................... 156
II. Duy trì, củng cố đê - biện pháp quan trọng nhất để chống lụt, sự thay đổi nhận thức .
và những dự án đắp đê quy mô lớn ở Bắc Kỳ....................................................................... 157
III. Những dự án đào, nạo vét kênh tiêu úng, thoát lũ quy mô lớn ở Nam Kỳ..................... 170

Chương 5
ĐẮP ĐÊ VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT
TỪ NĂM 1930 ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
I. Bối cảnh lịch sử........................................................................................................................ 176
II. Nâng cấp hệ thống đê sông Thái Bình ở Bắc Kỳ, một số đê sông ở Trung Kỳ
450
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

(Bắc Trung Bộ hiện nay) và hình thành đê biển ở Nam kỳ................................................. 178
1. Nâng cấp hệ thống đê sông Thái Bình ở Bắc Kỳ....................................................................... 178
2. Nâng cấp một số đê sông ở Trung Kỳ (Bắc Trung Bộ hiện nay) ................................................ 184
3. Hình thành đê biển ở Nam Kỳ.................................................................................................. 185
III. Xây dựng đập Đáy điều tiết lũ sông Hồng kết hợp với quy hoạch lưu vực sông Đáy...............186
IV. Chuyển đổi từ đào, nạo vét kênh trên diện rộng sang đầu tư có trọng điểm ở Nam Kỳ.........188
V. Cơ quan quản lý, trình độ khoa học - kĩ thuật và nhân lực trong xây dựng và quản lý
đê điều dưới thời Pháp thuộc................................................................................................ 192

PHẦN THỨ BA
ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
ĐẾN NĂM 2020

Chương 6
ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT TRONG GIAI ĐOẠN
KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954)
I. Bối cảnh lịch sử........................................................................................................................ 202
II. Thành lập cơ quan phụ trách đê điều đầu tiên và chính sách đắp đê phòng lụt của
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945 - 1946)......................................................... 205
III. Chính sách bảo vệ, gia cố đê, kè, cống trước âm mưu phá hoại của thực dân Pháp
(1946 - 1954)............................................................................................................................ 214

Chương 7
ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
I. Bối cảnh lịch sử, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác đê điều, phòng chống .lũ
lụt trong giai đoạn 1954 - 1957............................................................................................. 220
II. Kiện toàn cơ quan quản lý và đào tạo cán bộ chuyên môn đê điều, phòng chống lũ lụt
(1954 - 1957)............................................................................................................................ 222
III. Khôi phục, phát triển đê điều và phòng chống lũ lụt trong giai đoạn 1954 - 1957...... 225
IV. Củng cố, phát triển đê điều và phòng chống lũ lụt trong giai đoạn 1958 - 1960.......... 234
V. Đê điều và phòng chống lũ lụt trong những năm thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất (1961 - 1965)................................................................................................................... 238
451
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

1. Chủ trương xây dựng đê điều, phòng chống lụt bão của Đảng và Nhà nước............................ 238
2. Sắp xếp lại cơ quan quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn đê điều........................... 240
3. Quy hoạch trị thủy và khai thác sông Hồng: Một bước phát triển vượt bậc về đường lối,
tầm nhìn và thực tiễn của công tác bảo vệ đê điều, phòng chống lụt bão................................... 243
4. Ban hành Điều lệ bảo vệ đê điều và quy định về chế độ dân công trong đắp đê...................... 248
VI. Đê điều và phòng chống lũ lụt trong giai đoạn đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh
phá hoại miền Bắc (1965 - 1975)........................................................................................... 253
1. Đế quốc Mỹ điên cuồng đánh phá các tuyến đê, kè, cống, đập và chỉ đạo của Đảng, Nhà nước .
đối với công tác đê điều.............................................................................................................. 253
2. Cuộc chiến cam go chống lại thiên tai và địch họa để bảo vệ, sửa chữa, củng cố đê điều......... 257
3. Trận lũ lịch sử gây vỡ đê năm 1971, bài học thực tiễn và yêu cầu chuyển biến trong quản lý,
bảo vệ đê điều, phòng chống lũ lụt............................................................................................. 266

Chương 8
ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT TỪ SAU NGÀY ĐẤT NƯỚC
THỐNG NHẤT ĐẾN NĂM 1995
I. Bối cảnh lịch sử, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác đê điều và
phòng chống lũ lụt ................................................................................................................. 281
II. Kiện toàn cơ quan quản lý Nhà nước về đê điều và phòng chống lũ lụt.......................... 284
III. Những thành tựu nổi bật về xây dựng, quản lý đê điều và phòng chống lũ lụt trong
giai đoạn 1975 - 1995............................................................................................................. 288
1. Ban hành Pháp lệnh về đê điều và Pháp lệnh Phòng chống lụt bão ....................................... 288
2. Công tác đắp đê, phòng chống lũ lụt ở Bắc Bộ ........................................................................ 293
3. Xây dựng hệ thống đê bao, bờ bao, đê biển ở Đồng bằng sông Cửu Long................................ 301
4. Sửa chữa, khôi phục và xây dựng đê điều, phòng chống lụt bão ở Trung Bộ............................ 311
5. Bước đầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực đê điều, phòng chống thiên tai.............................. 314
6. Huy động các nguồn lực xã hội cho xây dựng đê điều, phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai.......318

Chương 9
ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG, GIẢM NHẸ THIÊN TAI TRONG GIAI ĐOẠN 1996 - 2020
I. ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG, GIẢM NHẸ THIÊN TAI TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC (1996 - 2005).................................................323
1. Tình hình đất nước và chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với đê điều, phòng chống lũ lụt... 323
2. Sửa đổi, bổ sung quy định về đê điều và phòng chống lũ lụt................................................... 326

452
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

3. Cải tạo, nâng cấp đê, kè, cống và xây dựng các công trình phòng chống lũ lụt ở Bắc Bộ, Trung Bộ......330
4. Quy hoạch kiểm soát lũ, xây dựng và củng cố hệ thống đê bao, bờ bao, đê biển ở Nam Bộ..... 338
II. ĐÊ ĐIỀU VÀ PHÒNG CHỐNG THIÊN TAI TRONG GIAI ĐOẠN TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ VÀ ỨNG
PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU (2006-2020)............................................................................... 350
1. Tình hình đất nước và chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với đê điều, phòng chống thiên tai,
ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng ............................................................................ 350
2. Hoàn thiện các văn bản pháp luật về quản lý đê điều và phòng chống lũ................................ 356
3. Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phòng chống lũ, quy hoạch đê điều....................................... 366
4. Thống nhất tổ chức quản lý đê điều và phòng chống thiên tai................................................ 373
5. Nâng cấp, kiên cố hóa hệ thống đê sông, đê biển.................................................................... 380
6. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực đê điều,
phòng chống thiên tai................................................................................................................ 400
7. Các phong trào thi đua thúc đẩy xây dựng, bảo vệ đê điều .................................................... 406

TỔNG LUẬN VỀ ĐÊ ĐIỀU................................................................................................................. 411


I. Xây dựng hệ thống đê điều.................................................................................................... 411
II. Thiết lập hệ thống văn bản pháp luật về đê điều .............................................................. 416
III. Hoàn chỉnh bộ máy quản lý đê điều...................................................................................................418
IV. Phát triển nguồn nhân lực, áp dụng khoa học, công nghệ...........................................................420
V. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế....................................................................................................................420

PHỤ LỤC.......................................................................................................................................... 427


Phụ lục 1. Quy định về quản lý, tu sửa, bảo vệ đê..................................................................................428
Phụ lục 2. Cơ quan quản lý đê điều...........................................................................................................430
Phụ lục 3. Thủ trưởng cơ quan quản lý đê điều qua các thời kỳ.........................................................432
Phụ lục 4. Mức đảm bảo phòng chống lũ.................................................................................................434
Phụ lục 5. Chiều dài đê trên toàn quốc....................................................................................................437

TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................................... 439


MỤC LỤC......................................................................................................................................... 449
DANH MỤC HÌNH .......................................................................................................................... 454
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ......................................................................................................... 456

453
DANH MỤC HÌNH

Hình 1. Sông và đê Cửu An thời Nguyễn (từ Nghi Xuyên qua Mai Viên, Ba Đông)........................... 61
Hình 2: Lược đồ chỉ dẫn công cuộc khơi đào sông ở Bắc Bộ của triều Nguyễn cuối thế kỷ XIX........121
Hình 3. Đập trên sông Cà Lồ có chức năng điều tiết giảm lũ cho hạ du.........................................161
Hình 4. Chính quyền Pháp chỉ đạo đắp đê con trạch trên đê sông Hồng ngăn lụt
ở Hà Nội năm 1926...........................................................................................................163
Hình 5. Công trường đắp đê hữu ngạn sông Hồng bị vỡ ở Gia Quất do lũ năm 1926.....................163
Hình 6. Mực nước xấp xỉ mặt đê hữu sông Hồng tại Hà Nội trong trận lũ tháng 7 năm 1926.......164
Hình 7. Một đoạn đê sông Hồng trong trận lũ tháng 7 năm 1926.................................................164
Hình 8. Thay đổi độ cao, chiều rộng của đê sông Hồng qua các chương trình củng cố đê của chính
quyền thuộc địa từ năm 1883 đến năm 1930...................................................................165
Hình 9. Sử dụng máy lu gia cố mặt đê trong giai đoạn 1927 -1928..............................................166
Hình 10. Xây lại một cống dưới đê hữu sông Trà Lý (Thái Bình).......................................................167
Hình 11. Bản đồ hệ thống đê chính ở Bắc Kỳ năm 1930..................................................................169
Hình 12. Điếm canh đê thời Pháp thuộc trên đê sông Luộc, Thái Bình (bên trái)
và đê sông Hồng, Hà Nội (bên phải).................................................................................195
Hình 13. Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm nhân dân Hưng Yên đắp đê phòng lụt tháng 01 năm 1946....210
Hình 14. Chủ tịch Hồ Chí Minh kiểm tra, chỉ đạo khắc phục hậu quả sự cố vỡ đê Mai Lâm
(ngày 05 tháng 9 năm 1957)............................................................................................231
Hình 15. Chủ tịch Hồ Chí Minh kiểm tra công tác phòng, chống lụt bão tại kè Cổ Đô
thuộc đê hữu Hồng ở Sơn Tây (ngày 8/7/1958)................................................................236
Hình 16. Lược đồ hệ thống đê, cống ở miền Bắc bị máy bay Mỹ đánh phá năm 1972.....................259
Hình 17. Khu vực cầu Long Biên, thành phố Hà Nội ngập lũ tháng 8 năm 1971.............................267
Hình 18. Cầu Đuống bị sập một phần do lũ tháng 8 năm 1971 (hình ảnh sau lũ)...........................268
Hình 19. Vận hành cống Vân Cốc để phân lũ vào sông Đáy.............................................................270
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

Hình 20. Phó Thủ tướng Đỗ Mười chỉ đạo công tác hộ đê, chống lũ tháng 8 năm 1971...................271
Hình 21. Vỡ đê Nhất Trai, tuyến hữu Thái Bình, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh..............................272
Hình 22. Vỡ đê tả Thái Bình, Thanh Hồng, Thanh Hà, Hải Dương năm 1996 ...................................331
Hình 23. Đê biển 1, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.................................................................385
Hình 24. Đê kết hợp giao thông hữu Lô, tỉnh Phú Thọ.....................................................................387
Hình 25. Đê hữu Hồng, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.......................................................387
Hình 26. Điếm canh đê 2 tầng trên đê hữu Hồng, thành phố Hà Nội..............................................388
Hình 27. Bản đồ đê điều Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ hiện nay..............................................................389
Hình 28. Sóng biển tràn qua mặt đê gây xói, sạt mái phía đồng đê biển Hải Hậu,
tỉnh Nam Định trong bão số 10 năm 2017........................................................................390
Hình 29. Đê hữu Hoàng Long, Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình trong lũ tháng 10 năm 2017.....................391
Hình 30. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo chống lũ tại tràn Lạc Khoái,
đê hữu Hoàng Long, tỉnh Ninh Bình tháng 10 năm 2017..................................................391
Hình 31. Đê bao Sa Rài, Tân Hồng, Đồng Tháp................................................................................396
Hình 32. Kè mỏ hàn chữ T đê biển Kiên Chính, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định...............................405
Hình 33. Tuyến đê kiểu mẫu - đê tả Hồng, Phố Hiến, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên.............407

455
LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 1. Tình hình lũ lụt thời Lý (1009 - 1225).................................................................................21


Bảng 2. Tình hình lũ lụt thời Trần (1226 - 1400).............................................................................23
Bảng 3. Tình hình lũ lụt thời Lê sơ (1428 - 1527).............................................................................30
Bảng 4. Tình hình lũ lụt thời Lê Trung hưng (1533 - 1789)..............................................................40
Bảng 5. Thống kê tình hình lũ, lụt, vỡ đê ở Bắc Bộ (1803 - 1857)....................................................52
Bảng 6. Quy định về phạt................................................................................................................77
Bảng 7. Quy định về phạt khi đắp đê...............................................................................................78
Bảng 8. Quy định về thưởng............................................................................................................78
Bảng 9: Một số cuộc đắp đê lớn ở Đồng bằng Bắc Bộ thời vua Gia Long (1802 - 1819)..................100
Bảng 10. Một số lần đắp đê lớn ở Đồng bằng Bắc Bộ thời vua Minh Mệnh......................................106
Bảng 11. Một số cuộc đắp đê ở Đồng bằng Bắc Bộ từ năm 1841 đến năm 1858..............................110
Bảng 12. Một số cuộc đắp đê trên địa bàn miền Trung (1802 - 1858)..............................................112
Bảng 13. Chiều dài đê nhà Nguyễn đắp thêm từ năm 1830 - 1853.................................................113
Bảng 14. Chiều dài đê phân bố theo địa phương thời Nguyễn 1803 - 1858.....................................113
Bảng 15. So sánh chiều dài đê đắp trước thế kỷ XIX và thế kỷ XIX....................................................114
Bảng 16. Sự phân bố của hệ thống kè, cống thời Nguyễn (1802 - 1858).........................................117
Bảng 17. Những lần đào, khơi sông thời Nguyễn (1802 - 1858)......................................................122
Bảng 18. Tình hình bão, lụt, vỡ đê ở Bắc Kỳ (1858 - 1883)...............................................................131
Bảng 19. Hệ thống đê ở các sông cuối thế kỷ XIX............................................................................141
Bảng 20. Khối lượng, kinh phí xây dựng đê điều giai đoạn 1961 – 1965..........................................252
Bảng 21. Khối lượng, kinh phí xây dựng đê điều giai đoạn 1966 – 1970..........................................264
Bảng 22. Khối lượng, kinh phí xây dựng đê điều giai đoạn 1971 - 1975...........................................265
Bảng 23. Khối lượng, kinh phí xây dựng đê điều giai đoạn 1976 - 1985...........................................296
Bảng 24. Kết quả thực hiện chương trình nâng cấp đê biển ở Nam Bộ (đến 2020)...........................395
Biểu đồ 1. Khối lượng đất đá đào đắp, cải tạo đê thuộc hệ thống sông Hồng (1914 - 1930).............168
Biểu đồ 2. Chiều dài kênh chính, kênh cấp hai và cấp ba ở Nam Kỳ (1880 - 1930)............................174

456
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI
26 Lý Thường Kiệt - Hoàn Kiếm - Hà Nội
ĐT: 024.39719073 - Fax: 024.39719071
Website: http://nxbkhxh.vass.gov.vn
Email:nxbkhxh@gmail.com
Chi nhánh Nhà xuất bản Khoa học xã hội
57 Sương Nguyệt Ánh - Phường Bến Thành - Quận I - TP. Hồ Chí Minh
ĐT: 028.38394948 - Fax: 028.38394948

LỊCH SỬ ĐÊ ĐIỀU VIỆT NAM


Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. Giám đốc - Tổng Biên tập
PGS.TS. PHẠM MINH PHÚC

Biên tập nội dung: Trần Lệ Thu


Kỹ thuật vi tính: Starbooks
Sửa bản in: Lệ Thu
Trình bày bìa: Starbooks

In 300 cuốn, khổ 16x24cm, Công ty TNHH in, Thương mại và Xây dựng Nhật Quang.
Địa chỉ: Số 697 đường La Thành, Ba Đình, Hà Nội,
Số xác nhận đăng ký xuất bản: 2952-2021/CXBIPH/5-182/KHXH
Số QĐXB: 194/QĐ-NXB KHXH, ngày 20/9/2021
ISBN: 978-604-308-662-1, In xong và nộp lưu chiểu năm 2021

You might also like