You are on page 1of 182

BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN

1. Phạm Văn Hy - Bí thư Đảng ủy phường Hương Văn (Trưởng ban)


2.

BAN BIÊN SOẠN

1. TS. Nguyễn Văn Hoa (Chủ biên)


2. PGS.TS. Hoàng Chí Hiếu
3. CN. Lê Nhật Minh
4. CN. Nguyễn Xuân Thạnh

1
LỜI GIỚI THIỆU

Trong 85 năm xây dựng và phát triển (1930 - 2015), Đảng Cộng sản Việt Nam đã
lãnh đạo nhân dân cả nước giành được những thắng lợi to lớn trong công cuộc kháng
chiến chống giặc ngoại xâm và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với đồng chí, đồng bào
Hương Trà, Thừa Thiên Huế và cả nước, hơn 8 thập kỷ qua, Đảng bộ và nhân dân Hương
Văn dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã liên tục nỗ lực trong công tác xây dựng Đảng bộ, kiên
cường vượt qua khó khăn, thử thách, từng bước chiến thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ
và nghèo nàn, lạc hậu, không ngừng vươn lên trong cuộc sống vật chất và tinh thần, tích
cực góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trên vùng đất Hương Văn, 10 năm sau khi ra đời chi bộ Đảng ở Hương Trà, chi bộ
chiến đấu được thành lập vào tháng 3-1947 đã đánh dấu một bước ngoặc lịch sử trọng đại.
Từ đây, cán bộ, đảng viên và nhân dân Hương Văn có thêm những thuận lợi cơ bản để
đẩy mạnh công cuộc kháng chiến và kiến quốc, góp phần cùng với Đảng bộ và nhân dân
Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế và cả nước đưa sự nghiệp cách mạng đến toàn thắng.
Nhân kỷ niệm sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5), sau hơn 3 năm tổ chức biên
soạn và chỉnh sửa qua 4 cuộc hội thảo góp ý, Đảng ủy - Ủy ban nhân dân phường Hương
Văn quyết định ra mắt cuốn sách Lịch sử Đảng bộ phường Hương Văn (1930 - 2015).
Cuốn sách được biên soạn một cách có hệ thống những chặng đường lịch sử mà cán bộ,
đảng viên và nhân dân trong phường đã trải qua, phản ánh cụ thể những hoạt động xây
dựng, bảo vệ quê hương, đất nước trong thời chiến cũng như trong thời bình. Từ đó, mục
đích của cuốn sách là cung cấp cho người đọc, trước hết là cán bộ, đảng viên và nhân dân
trong phường hiểu biết về quá trình lịch sử của Đảng bộ phường, nhận thức đầy đủ hơn
vai trò của mình trong quá khứ cũng như hiện tại; trên cơ sở đó, tiếp tục phát huy hơn nữa
truyền thống yêu nước và đoàn kết, đem hết trí tuệ và sức lực của bản thân để phục vụ cho
sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Cuốn sách còn thể hiện
sự tri ân sâu sắc đến các anh hùng, liệt sĩ, thương binh, gia đình có công với cách mạng,

2
các đối tượng chính sách trên địa bàn và trong cả nước đã chiến đấu, phục vụ chiến đấu
để bảo vệ và xây dựng vùng đất Hương Văn đang ngày càng phát triển trên nhiều mặt.
Cuốn sách gồm phần mở đầu, 5 chương, kết luận và phụ lục với các mốc phân kỳ
lịch sử phản ánh quá trình hình thành và phát triển của tổ chức Đảng trên địa bàn Hương
Văn, tập trung vào các thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945-1954), đế quốc Mỹ (1954-1975) và thời kỳ hòa bình xây dựng
chủ nghĩa xã hội (1975-2015).
Đảng ủy - Ủy ban nhân dân phường Hương Văn trân trọng cảm ơn sự quan tâm và
tạo điều kiện thuận lợi của Thị ủy - Ủy ban nhân dân thị xã Hương Trà, Ban Tuyên giáo
Thị ủy và Ban Biên soạn; đặc biệt, chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp rất quý báu
của các đồng chí nguyên lãnh đạo tổ chức Đảng và các nhân chứng qua các thời kỳ lịch
sử.
Mặc dù Ban Chỉ đạo và Ban Biên soạn đã rất cố gắng, nhưng những thiếu sót của
cuốn sách là khó tránh khỏi. Đảng ủy - Ủy ban nhân dân phường rất mong tiếp tục nhận
được ý kiến đóng góp của các đồng chí lão thành cách mạng, cán bộ, đảng viên và nhân
dân để cuốn sách được hoàn chỉnh hơn.
Hương Văn, tháng 5 năm 2019
TM. ĐẢNG ỦY PHƯỜNG HƯƠNG VĂN
Bí thư Đảng ủy

PHẠM VĂN HY

3
MỞ ĐẦU
HƯƠNG VĂN – MẢNH ĐẤT VÀ CON NGƯỜI
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ
1. Điều kiện tự nhiên
Hương Văn là một trong 16 phường, xã của thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Phường nằm cách trung tâm thành phố Huế 13km về phía Tây Bắc, phía Đông giáp
phường Hương Xuân, phía Tây giáp phường Tứ Hạ và phường Hương Vân, phía Nam
giáp phường Hương Xuân, phía Bắc giáp phường Tứ Hạ.
Phường Hương Văn có diện tích 1.372ha, chia thành hai vùng không cân nhau: Văn
Xá Đông và Văn Xá Tây. Văn Xá Đông là rẻo đất hẹp nằm dọc theo sông Bồ, Văn Xá Tây
dựa lưng vào dãy Trường Sơn.
Về địa hình, phường Hương Văn có cả đồng bằng và vùng đồi núi, trong đó đồng
bằng chiếm 2/3 diện tích, phần còn lại là núi đồi, gò, đống, mồ mả. Núi Văn Xá khi xưa
nổi tiếng đẹp, được Quốc sử quán triều Nguyễn ghi nhận: “Ở phía Bắc huyện Hương Trà,
hình thế hùng vĩ, cây cỏ mọc um tùm” 1. Qua thời gian dài khai phá lấy đất đai sản xuất,
ngày nay núi Văn Xá không còn nữa.
Tiềm năng về đất đai cũng là thế mạnh đối với sản xuất nông nghiệp ở Hương Văn.
Địa hình phường bao gồm vùng đồng bằng màu mỡ được bồi đắp bởi phù sa sông Bồ
hàng năm thuận lợi cho canh tác lúa nước với năng suất cao và vùng gò đồi ở phía Tây
thích hợp cho các cây công nghiệp ngắn ngày, cây lâm nghiệp và chăn nuôi gia súc lớn.
Lợi thế này giúp Hương Văn thực hiện được 3 mục tiêu: cây lương thực, cây công nghiệp
tiêu dùng và cây công nghiệp xuất khẩu. Trong lòng đất Hương Văn còn chứa đựng một
số khoáng sản có trữ lượng lớn, sử dụng làm vật liệu xây dựng như cát sạn, đặc biệt là
nguồn đá vôi phục vụ ngành công nghiệp sản xuất xi măng.
Phường còn có sông Bồ ở phía Đông. Đây được xem là “tặng vật vô giá” của Hương
Văn bởi nguồn cung phù sa, nước tưới và thực phẩm cho nhân dân qua nhiều đời.
Về khí hậu, nằm trong tiểu vùng Bắc Hải Vân, vùng đất Thừa Thiên Huế nói chung
và Hương Văn nói riêng, là nơi thường xuyên xảy ra thiên tai, bão lụt. Vào mùa nắng, gió

. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 1, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb.
1

Thuận Hóa, Huế, 1992, tr. 123.


4
mùa Tây Nam nóng rát, làm khô cháy ruộng đồng. Từ tháng 7 âm lịch trở đi, đặc biệt cao
điểm vào cuối tháng 10: “Ông tha mà bà chẳng tha/ Cả lụt cả bão hai ba tháng Mười”,
vùng này phải hứng chịu “thiên tai kép” do nhiều cơn bão lớn từ biển, đi kèm là lũ từ
thượng nguồn sông Bồ đổ về. Lúc đó, cả vùng đều chìm trong biển nước mênh mông,
mùa màng bị phá hủy, nhà cửa, người và tài sản bị cuốn trôi… Rồi ròng rã trong các tháng
cuối năm này sang đầu năm sau, ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc với những cơn mưa
dầm đến “thúi đất”, đã đi vào văn học với “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng
trời Thừa Thiên”. Sinh tồn trong điều kiện như thế, rõ ràng đòi hỏi những người dân nơi
đây một nội lực thâm hậu, sẵn sàng thích ứng và vượt lên mọi hoàn cảnh, để chinh phục
tự nhiên và cải tạo xã hội, tạo lập cuộc sống ổn định và ngày một nâng cao.
Nằm đối diện với huyện lỵ Quảng Điền ở phía bên kia sông Bồ (trước đây), với địa
hình trải dài theo hướng Đông - Tây như cánh cung ôm trung tâm thị xã Hương Trà từ
phía Nam (hiện nay), Hương Văn qua nhiều thời kì có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự
nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước ở Thừa Thiên Huế.
Thời phong kiến, Hương Văn (cùng với Hương An, Hương Chữ và Hương Xuân) là
vành đai bảo vệ mặt Bắc của thủ phủ Phú Xuân (thời chúa Nguyễn) và Kinh thành Huế
(thời vua Nguyễn). Sau sự biến Kinh thành Huế (7-1885), Hương Văn là địa điểm dừng
chân đầu tiên của triều đình kháng chiến Hàm Nghi. Sau khi mặt trận Huế vỡ (2-1947),
Hương Văn là nơi cản bước tiến truy kích của địch và không cho chúng mở rộng chiến
tranh lên vùng núi Hương Trà và ra Phong Điền. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, đối với ta, làm chủ vùng này là làm chủ được cửa ngõ để triển khai
các hoạt động vào Huế từ phía Bắc, cắt đứt tuyến giao thông Huế - Tứ Hạ cũng như làm
hành lang liên lạc giữa các xã ở vùng sâu Hương Trà, Quảng Điền lên chiến khu Dương
Hòa, địa đạo Khe Trái của Khu ủy Trị - Thiên - Huế và ngược lại… Do đó, đây là vùng
tranh chấp ác liệt giữa ta và địch, trong từng thời kì nhất định, thế “xôi đậu”, “cài răng
lược” đã được hình thành rõ nét. Vì vậy, Hương Văn cũng là vùng đất chịu nhiều đau
thương, mất mát bởi chiến tranh. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
Hương Văn càng có vị trí quan trọng. Không chỉ là vành đai bảo vệ phía Nam, Hương
Văn còn là nơi dự phòng quỹ đất để mở rộng trung tâm thị xã Hương Trà.
2. Điều kiện kinh tế

5
Điều kiện tự nhiên chi phối sâu sắc cơ cấu và quá trình phát triển kinh tế của Hương
Văn. Từ trong quá trình hình thành và phát triển làng xã, nghề nông luôn đóng vai trò là
ngành kinh tế chủ đạo. Theo bước chân của những người đi khai phá vùng đất mới, những
kinh nghiệm canh tác được tích lũy qua nhiều thế hệ ở quê cũ được vận dụng thích nghi
với điều kiện của địa phương, trong đó tất yếu có sự tiếp thu một số giống cây trồng bản
địa như lúa chiêm… Trong điều kiện khoa học kĩ thuật chưa phát triển, sản xuất đã phụ
thuộc rất lớn vào thiên nhiên, mùa màng thường xuyên bị thiên tai, thất bát, nhất là vào
những năm có mưa bão lớn, nước sông Bồ dâng cao gây cảnh ngập lụt, tàn phá sản xuất…
Tuy nhiên, lũ lụt của sông Bồ cũng bồi đắp một lượng phù sa lớn, giúp các cánh đồng của
Hương Văn luôn có độ màu mỡ cao, thích hợp với khá nhiều loại cây trồng, kể cả những
loại cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, mè, ớt...
Vùng gò đồi phía Tây ngoài giá trị là “lá phổi xanh”, giữ nước cho vùng đồng bằng,
trong thời gian dài còn cung cấp sinh kế cho nhân dân trong phường ở những thời điểm
nông nhàn hoặc những lúc mất mùa đói kém, như khai thác chất đốt, rau quả rừng hoặc
nguyên liệu cho một số nghề thủ công như làm chổi, đan lát… Ngày nay, vùng này có thể
phát triển nghề rừng, như trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả dài ngày, chăn nuôi gia súc
lớn.
Trong quá trình phát triển, hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp dần
dần được các cấp chính quyền đầu tư xây dựng. Tận dụng những con hói và chỗ thấp
trũng, chính quyền đã huy động nhân dân bỏ ra hàng ngàn ngày công để đào đắp những
hồ chứa nước nhỏ phục vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn.
Những tiềm năng về đất đai và nguồn nước đó, cùng với lợi thế địa lí ở gần thành
phố Huế và trung tâm thị xã, Hương Văn hoàn toàn có khả năng hướng đến nền nông
nghiệp chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu không chỉ tại chỗ, giải quyết việc làm cho người
lao động, mà còn cung cấp cho các thị trường lân cận với những sản phẩm như rau quả
sạch, cây cảnh, thủy sản nước ngọt…
Hương Văn có hệ thống giao thông đa dạng, thuận lợi để tỏa đi các địa phương trong
và ngoài thị xã cũng như rộng ra cả nước. Về đường bộ, có Quốc lộ 1A và đường tránh
Huế phía Tây thuận tiện cho đi lại, buôn bán của nhân dân đến các địa phương trong cả
nước; Tỉnh lộ 8 và Tỉnh lộ 16, các tuyến đường liên thôn, liên phường đã được bê tông

6
hoặc nhựa hóa nối liền các tổ dân phố trong phường cũng như với các phường và xã bạn.
Dù đoạn đường sắt chạy ngang qua phường không dài nhưng lợi thế của ga Văn Xá đã
đáp ứng phần nào yêu cầu chuyên chở hàng hóa và hành khách nhỏ lẻ trên địa bàn đến
các địa phương ở phía Bắc tỉnh cũng như ra Quảng Bình, Quảng Trị và ngược lại.
Trước đây, trong điều kiện giao thông đường bộ chưa phát triển, sông Bồ còn là
tuyến đi lại thuận tiện cho nhân dân trong vùng. Thường xuyên có những chuyến đò
ngang, đò dọc qua lại buôn bán, tụ hội về chợ Văn Xá, chợ Hạ Lang, Hương Cần và xa
hơn là đến trung tâm huyện lỵ Bao Vinh hoặc vào Huế…, đưa những sản phẩm của địa
phương trao đổi thủy sản với các xã vùng phá Tam Giang cũng như những sản vật của
miền núi phía Tây. Ngược lại, nhân dân Quảng Điền muốn vào Huế bằng đường bộ phải
xuống đò Hạ Lang, qua Văn Xá để vào kinh thành. Ngày nay, ngoài cung cấp nguồn thủy
sản tự nhiên, sông Bồ còn cung cấp diện tích mặt nước lớn phục vụ nuôi trồng thủy sản,
đặc biệt là nghề nuôi cá lồng.
Về thủ công nghiệp, cũng như nhiều làng quê khác, tranh thủ những lúc nông nhàn,
người dân Hương Văn còn làm thêm nhiều ngành nghề thủ công phục vụ sản xuất nông
nghiệp và đời sống hàng ngày. Trước hết là bà con tận dụng những lũy tre quanh nhà để
tạo vật liệu cho nghề đan lát các vật dụng như thúng mủng, rổ rá, quang gánh, bồ đựng
lúa…, dụng cụ đánh bắt cá tôm như nơm, dũi, đăng, đó… Để tạo nông cụ, nghề rèn sản
xuất ra các loại cuốc, xẻng, cày bừa, liềm hái, dao rựa… Nghề mộc ở Hương Văn cũng
khá phát triển, với nhiều thợ có tay nghề cao, góp phần xây dựng nên những công trình
kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, đến nay vẫn còn nguyên giá trị như đình làng Văn Xá, chùa
Văn Xá, Văn Thánh và nhiều nhà thờ của các dòng họ…
Điều kiện thổ nhưỡng của Hương Văn, nhất là khu vực phía Tây là khá thích hợp
với canh tác cây công nghiệp ngắn ngày, đặc biệt là cây lạc. Ngoài bán lạc nguyên vỏ, để
tăng giá trị, một số gia đình còn bóc lấy hạt để ép dầu. Do dụng cụ ép rất thô sơ, dùng
thân cây lớn khoét rỗng để cho lạc vào ép, nên sản lượng dầu không nhiều, chủ yếu để sử
dụng trong từng gia đình, ít có bán ra bên ngoài. Ở Văn Xá còn có giống khoai lang ngon,
cùng với lạc, đây là giống cây trồng chủ lực sau lúa.
Ở Hương Văn trước đây, do thuận lợi về điều kiện giao thông (cạnh đường thiên lý,
có đường thủy nối với các làng khác, có bến đò qua Hạ Lang - trung tâm của huyện

7
Quảng Điền) nên hoạt động buôn bán có phần tấp nập. Chợ có quán chính 5 gian do làng
lập ra để thu thuế, xung quanh là nhiều lều nhỏ. Chợ họp hàng ngày vào buổi sáng. Hàng
hóa chính ở chợ là tất cả những sản phẩm mà bà con sản xuất được hoặc để dành bán ra
lấy tiền mua sắm những thứ còn thiếu cho cuộc sống hàng ngày. Làng cử người đứng ra
thu thuế chợ, tính theo chỗ ngồi hoặc tính vào hàng hóa bày bán. Nhìn chung, việc buôn
bán hoàn toàn mang tính tự phát, hàng hóa là những thứ “cây nhà lá vườn”, chưa có
thương nhân chuyên nghiệp mà chỉ là một số người tranh thủ lúc nông nhàn chạy chợ
kiếm thêm thu nhập. Tuy vậy, sinh hoạt của chợ cũng góp phần cải thiện đời sống của
nhân dân cũng như đóng góp một phần nguồn tài chính cho các hoạt động của làng.
Nhìn chung, Hương Văn có sông suối, có đồng bằng, có rừng núi, xen giữa là những
đồi thấp, hồ ao hoặc kênh mương, làng mạc tô điểm cho phường một sắc thái địa hình đa
dạng. Chính điều kiện này tạo ra những lợi thế nhất định cho địa phương trong việc phát
triển cơ cấu kinh tế đa dạng: nông nghiệp - dịch vụ - du lịch - công nghiệp khai khoáng và
chế biến.
II. TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA
1. Truyền thống lịch sử
Từ sau năm 1306, khi hai châu Ô - Lý thuộc về Đại Việt (sau đổi là Thuận - Hóa),
quá trình di cư khai phá vùng đất mới đã được triển khai. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những
nhóm người ít ỏi, chưa ổn định vì Thuận Hóa còn là miền đất biên viễn, địa bàn thường
xuyên xảy ra các cuộc tranh chấp giữa Đại Việt và Champa. Mãi đến sau năm 1471, sau
cuộc hành binh của vua Lê Thánh Tông vào tận núi Đá Bia (Phú Yên), có 2 vị tướng họ
Lê (quê làng Kẻ Mía, Lam Sơn, Thanh Hóa) bắt đầu đưa dân Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh vào lập nghiệp và làng ra đời với tên gọi là Võ Xá. Đến sau năm 1558, các dòng họ:
Trần và Cao (ở Hà Tĩnh, Nghệ An) cùng vào nhập làng Võ Xá. Đến đây, thứ bậc các dòng
họ có công lập làng được xác định: Nhất Lê, nhì Trần, ba Cao.
Địa danh và địa giới của Hương Văn ít thay đổi qua các thời kì. Đến trước khi chúa
Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận Hóa (1558), Võ Xá thuộc huyện Đan Điền. Cũng
như một số làng xã khác thuộc Thừa Thiên Huế thời kì này, khi cư dân từ Thanh - Nghệ
vào lập nghiệp, trước những khó khăn và bỡ ngỡ tại vùng đất mới, phương thức tối ưu
nhất là tiếp quản và kế thừa những cơ sở sản xuất và sinh hoạt đã có của người Chăm để

8
lại. Đó có thể là nơi định cư hoặc các xứ đồng ruộng đã được người Chăm khai phá và
canh tác. Dấu tích 2 mộ Chăm ở xứ Bầu Cạn phần nào khẳng định Văn Xá được thiết lập
dựa trên một làng cũ trước đó.
Từ khi thành lập đến cuối thời chúa Nguyễn (1774), Võ Xá là một phần của làng
Phú Ốc thuộc tổng Phú Ốc (gồm 4 làng, 2 phường) của huyện Quảng Điền. Đến năm
1807, dưới thời Gia Long đã chia đặt lại làng xã. Phú Ốc chia thành ba, gồm Phú Ốc, Lai
Thành và Văn Xá. Tổ chức làng lúc này chia làm 4 giáp. Họ Lê tập trung ở Giáp Nhất và
Giáp Tư, họ Trần ở Giáp Ba, họ Cao ở Giáp Nhì. Những dòng họ còn lại ở rải rác trong
các giáp. Đến khoảng thời Minh Mạng, dòng họ Phan với 25 gia đình tách ra khỏi Văn Xá
để lập làng riêng, lấy tên là Tiên Lộc gồm một phần đất của Giáp Nhì và Giáp Ba. Thời
Đồng Khánh (1886), Văn Xá thuộc tổng Phú Ốc, huyện Hương Trà.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, dưới thể chế Việt Nam Dân chủ cộng hòa, các tổng
được sắp xếp lại, đổi thành xã. Lúc này, Hương Văn có tên là Hương Xá bao gồm các
làng: Văn Xá, Tiên Lộc, Hiệp Khánh. Tháng 7-1947, trên cơ sở đồng ý của Huyện ủy
Hương Trà, Hương Xá và Hương Kinh tiến hành hợp nhất thành xã Hương Thạnh 1.
Trong khi đó, phía chính quyền thực dân Pháp vẫn giữ nguyên tên gọi và cơ cấu hành
chính. Các làng Văn Xá, Liễu Cốc Thượng, Lai Thành, Thanh Khê, Trang Hiệp Khánh
thuộc tổng Phú Ốc, huyện Hương Trà.
Trong thời kì 1954-1975, dưới chế độ Việt Nam cộng hòa, từ năm 1958 đến năm
1960, Văn Xá thuộc xã Hương Việt, quận Hương Trà. Ngày 9-8-1960, chính quyền Sài
Gòn ra Nghị định số 1011-BNV/NC8, chia xã Hương Việt thành 2 xã: Hương Phú và
Hương Xuân, Văn Xá thuộc xã Hương Phú.
Sau ngày thống nhất đất nước, cùng với việc sáp nhập các tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị, khu vực Vĩnh Linh và tỉnh Thừa Thiên Huế thành tỉnh Bình Trị Thiên, Hội đồng
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Quyết định số 62-CP, ngày 11-3-
1977, hợp nhất các huyện thuộc tỉnh. Theo đó, xã Hương Phú thuộc huyện Hương Điền.
Ngày 12-1-1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 07-HĐBT, phân chia lại
địa giới hành chính của xã Hương Phú. Theo Quyết định này, thôn Tân Lập và thôn Phú

. Gồm các thôn: Văn Xá, Hiệp Khánh, Tiên Lộc, Thanh Lương, Xuân Đài, Liễu Thượng, Liễu Nam,
1

Thanh Khê.
9
Ốc được tách ra lập thành thị trấn Tứ Hạ, thôn Lai Thành nhập vào xã Hương Vân, xã
Hương Phú còn lại thôn Văn Xá. Đến đây, xã Hương Văn chính thức thành lập, chỉ có
một làng Văn Xá theo kiểu “nhất làng nhất xã”. Trong quá trình tổ chức sản xuất xã hội
chủ nghĩa, toàn bộ Hương Văn được tổ chức thành 2 hợp tác xã: Văn Xá Đông và Văn Xá
Tây.
Ngày 30-6-1989, Quốc hội khóa VIII, kì họp thứ 5 thông qua Nghị quyết chia tách
các tỉnh Nghĩa Bình, Phú Khánh và Bình Trị Thiên. Theo đó, Hương Điền thuộc tỉnh
Thừa Thiên Huế mới tái lập. Ngày 29-9-1990, Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 345-
HĐBT về điều chỉnh địa giới các huyện thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Theo đó, xã Hương
Văn thuộc huyện Hương Trà (tách ra từ huyện Hương Điền). Đến năm 1996, cùng với
việc giao đất lâu dài cho nhân dân, việc tổ chức cụm dân cư được thực hiện. Hương Văn
có các cụm dân cư: Giáp Nhất, Giáp Nhì, Giáp Ba, Giáp Tư, Giáp Trung, Giáp Thượng và
Bàu Đưng.
Đến ngày 15-11-2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 99/NQ-CP về thành lập
thị xã Hương Trà và các phường thuộc thị xã Hương Trà, trong đó có phường Hương Văn.
Thực hiện Nghị quyết này, các cụm dân cư được đổi tên thành tổ dân phố, lần lượt từ Tổ
dân phố 1 đến Tổ dân phố 13. Đến năm 2015, một số tổ dân phố sáp nhập và đổi tên lại,
gồm Giáp Nhất, Giáp Nhì, Giáp Ba, Giáp Tư, Giáp Trung, Giáp Thượng 1, Giáp Thượng
2, Giáp Thượng 3 và Bàu Đưng. Từ “làng lên phố” đã mở ra một trang sử mới trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển Hương Văn theo hướng đô thị hóa ở thời kỳ đổi mới và hội
nhập.
2. Truyền thống văn hóa
Với vùng đất có bề dày lịch sử, Hương Văn tất yếu có truyền thống văn hóa lâu đời,
với những giá trị vật chất và tinh thần phong phú, là nơi triều Nguyễn ghi dấu ấn đậm nét.
Trước hết đây là quê hương của Thuận Thiên Cao Hoàng hậu Trần Thị Đang (con của
Thái sư Thọ Quốc công Trần Hưng Đạt (1746-1810) 1, vợ vua Gia Long. Bà là mẹ vua
Minh Mạng - vị vua mà thời kì cầm quyền của ông (1820-1840), chế độ phong kiến tập
quyền của Việt Nam đạt đến đỉnh cao. Do là quê ngoại của vua nên triều Nguyễn chú ý
. Do có công theo Nguyễn Ánh trong việc khôi phục cơ đồ nhà Nguyễn và có con gái Trần Thị Ngọc
1

Đương (1786-1846) làm vợ Gia Long (Thuận Thiên Cao hoàng hậu) nên ông được truy phong Cần Chánh
điện Đại học sĩ, Thái sư Thọ Quốc công.
10
đầu tư xây dựng một số cơ sở văn hóa, như đình Văn Xá, Phủ thờ Thái sư Thọ Quốc công
Trần Hưng Đạt. Cuối thời kì tự chủ của triều Nguyễn, một lần nữa Hương Văn lại là nơi
ghi dấu án của triều đình yêu nước Hàm Nghi, khi tại đây vang lên lời hiệu triệu “cần
Vương giúp nước”, khởi đầu của cuộc trường chinh gần một thế kỉ (1885-1975) để giải
phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
Về di sản văn hóa vật thể, Hương Văn có 5 đình (1 đình làng và 4 đình của 4 Phe), 2
chùa, 1 Niệm Phật đường, 1 Văn thánh thờ Khổng Tử, có 7 miếu và 1 chợ. Nổi bật lên
trên hết là đình làng. Nguyên khoảng thế kỉ XVI, Văn Xá đã xây dựng đình làng khá quy
mô nhưng binh lửa chiến tranh đã tàn phá. Năm Tự Đức thứ 18 (1865), đình được xây
dựng lại trên diện tích 1.700m2, trong đó đình rộng 400m2. Đình có 3 gian 2 chái kép; có
tổng cộng 54 cột các loại với chiều cao 5,2m, 3,6m, 2,5m, 1,5m. Kết cấu cột kèo của đình
theo kiểu nhà rường truyền thống xứ Huế, hoa văn trang trí theo kiểu phủ đệ. Đình có la
thành 4 phía, có cổng Tam quan, có cửa Tả Hữu, có bia và bình phong ghi đầy đủ công
đức làm đình. Trong đình có bức hoành phi 4 chữ: “Sở Tại Sinh Huy” do vua Minh Mạng
tặng và có 10 cặp câu đối. Đình được trùng tu vào các năm 1961 và 1994, trên cơ sở giữ
nguyên kết cấu kiến trúc, hoa văn, thờ phụng kiểu cung đình nhà Nguyễn. Đình làng Văn
Xá đã được xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số
61-QÐ/BVHTT, ngày 13-9-1999 của Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch) 1.
Chùa làng Văn Xá (Từ Quang tự) được xây dựng từ thế kỉ XVI và cũng bị hoang
phế trong chiến tranh thời phong kiến. Đến năm Minh Mạng thứ 9 (1828), chùa được tái
thiết, có la thành, cổng tam quan. Văn Xá còn có Văn Thánh từ khá đồ sộ.
Dòng họ Trần Hưng làng Văn Xá còn có món bánh cung đình đặc biệt, chuyên dùng
tiến vua 2.

.https://www.thuathienhue.gov.vn/portal_ge/Views/LevDetail.aspx?OneID=5&TwoID=23&ThreeID=206
1

. Bắt đầu từ thời Minh Mạng, trong dòng họ mỗi năm làm 2 cỗ xe bánh “long, lân, quy, phụng” và “mai,
2

lan, cúc, trúc”. Bánh làm bằng đậu xanh hay hạt sen tán nhuyễn, theo tỷ lệ 1 lon đậu (đãi vỏ) với 1 lon
đường trắng, nấu lửa riu thật nhỏ, khuấy luôn tay cả ngày cho đậm đặc (người Huế gọi là “dáo bánh”).
Đến khi bột không dính tay thì nhuộm màu và chỉ dùng tay để bắt thành hình chim thú và hoa lá, đắp lên 4
mặt của một cái tháp cao 2 mét, đường kính 1 mét, đan bằng phên tre có phất giấy bồi xung quanh làm
nòng cốt. Tháp bánh đặt trên một tấm ván có 4 bánh xe, được đẩy vào cung để dâng lên vua, chúc mừng
11
Về di sản văn hóa phi vật thể, đời sống tinh thần của người dân Hương Văn khá
phong phú. Ngoài tín ngưỡng cổ truyền thờ cúng ông bà Tổ tiên, đại đa số nhân dân theo
Phật giáo, tôn thờ hệ thống thần linh như Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi, Ngũ Hành tiên
nương. Ngoài ra, đình làng còn là nơi thờ phụng các vị nhân thần khai canh và các quan
viên có công đức với làng gồm 5 vị Thành hoàng: Cẩm y vệ Đô chỉ huy sứ Lê Đình Phổ,
Nha Chính hầu Lê Xuân Dục, Hàn lâm viện trực Học sĩ Đô Long bá Trần Phước Tư,
Chánh đội trưởng Nhưng Đức bá Trần Phước Nhưng, Hàn lâm viện Học sĩ Dung Đức bá
Cao Văn Chánh và 2 vị nhân thần là: Bố chính Trần Mậu Quế (1688-1762) và Thọ Quốc
công Trần Hưng Đạt 1.
Vùng đất giàu truyền thống văn hóa Hương Văn còn là nơi sản sinh ra nhiều người
con tài năng cho đất nước như Lê Cát (1828-1890) 2, Lê Từ (1855-1928) 3. Thời hiện đại,

năm mới, như một món quà Tết đặc biệt của họ ngoại vua ở làng Văn Xá.
[http://www.Bánh%20truyền%20thống%20cung%20đình%20Huế%20góp%20mặt%20cùng%20thế
%20giới.html].
. Trần Mậu Quế làm quan dưới thời chúa Nguyễn Phúc Thụ, giữ chức Tri phủ, đi đánh dẹp ở biên giới
1

Tây Nam có công nên được thăng tiến chức Ký lục dinh Trấn Biên và Hà Tiên, tước Văn Xá bá. Trần
Hưng Đạt là con thứ 7 của Trần Mậu Quế. Xem: Trần Đại Vinh, “Làng Văn Xá”, in trong Làng văn vật
Thừa Thiên Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2017, tr. 386.
. Lê Cát đỗ Cử nhân năm 1852, 2 lần làm Phó sứ sang Trung Quốc. Năm 1883, khi triều Nguyễn kí hòa
2

ước Quý Mùi, ông từ quan lui về ở ẩn.


. Là con của Lê Cát, đỗ Cử nhân năm 1878, làm quan đến Tuần phủ Quảng Ngãi. Năm 1908, vì không
3

chịu đàn áp cuộc biểu tình chống thuế của nhân dân Quảng Ngãi nên bị cho về hưu.
12
có một người con ưu tú của Hương Văn là Lê Khắc Quyến (1915-1978) 1. Tộc Lê Khắc
của làng Văn Xá cũng là dòng họ có đóng góp cho đất nước trên nhiều lĩnh vực 2.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhân dân Hương Văn một
lòng đi theo Đảng làm cách mạng giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Nhiều người
con của Hương Văn đã ngã xuống hoặc hi sinh một phần cơ thể vì sự nghiệp cách mạng.
Hương Văn có 16 Mẹ Việt Nam anh hùng, 2 Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (Hồ
Văn Tứ và Trương Xà), 158 liệt sĩ... Cao hơn hết, thành tích đó của Đảng bộ, chính quyền
và nhân dân Hương Văn được Nhà nước ghi nhận, phong tặng danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân năm 1996.
Là nơi “đất lành chim đậu”, từ 3 dòng họ đầu tiên, đến nay Hương Văn là nơi tụ cư
của 74 dòng họ lớn nhỏ, với dân số 8.235 người (năm 2013). Qua các thời kì lịch sử, nhân
dân Văn Xá - Hương Văn đã luôn “đồng cam cộng khổ”, “chung lưng đấu cật” với nhau
để tạo dựng nên một ngôi làng văn - võ song toàn ngày trước và một phần trung tâm đô
thị Hương Trà của hôm nay và tương lai.

1
. Bác sĩ, nhà trí thức yêu nước tiêu biểu của Huế và miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, người làng Văn Xá, huyện Hương Trà. Thuở nhỏ học ở Huế, sau đó ra Hà Nội học trung học
và tốt nghiệp Đại học Y khoa năm 1943. Năm 1945 làm Giám đốc Bệnh viện Nha Trang. Năm 1946 là
Cục trưởng Cục Quân y Trung bộ, Huế. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945-1954), ông sinh
hoạt trong chi bộ trí thức do Thị ủy Huế trực tiếp chỉ đạo cùng với giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, kĩ sư
Nguyễn Hữu Đính, bác sĩ Thân Trọng Phước… Từ tháng 7-1956 đến năm 1964, ông đứng ra thành lập và
làm chủ nhiệm tờ báo Lành Mạnh, một tập san về khoa học - văn hóa - xã hội có xu hướng đề cao giá trị
văn hóa dân tộc. Từ năm 1958 đến năm 1963, ông là Giám đốc Bệnh viện Huế, đầu năm 1963 đến năm
1966 là Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế. Ông tiếp tục tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước của
đô thị miền Nam. Năm 1964 là Chủ tịch Hội đồng nhân dân cứu quốc. Cuối năm 1966 ông vào Sài Gòn
làm Giám đốc Bệnh viện Sùng Chính.
. Lê Khắc Hoan, Trăm năm ly hợp - Lê Khắc Gia phả chí, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2013.
2

13
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN HƯƠNG VĂN
TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
(1930-1945)
I. ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN HƯƠNG VĂN THAM GIA PHONG TRÀO
ĐẤU TRANH DÂN TỘC VÀ DÂN CHỦ (1930-1939)
1. Tình hình Hương Văn trong giai đoạn 1930-1939
Sau khi cơ bản bình định được các phong trào yêu nước của nhân dân ta, thực dân
Pháp tăng cường các chính sách nhằm buộc chặt Việt Nam trong quỹ đạo thuộc địa.
Về chính trị, tại Huế, ngoài cơ quan trung ương của chính quyền Nam triều và cơ
quan xứ Trung Kỳ của chính quyền thực dân, còn hiện diện tổ chức hành chính phủ Thừa
Thiên, gồm cả của thực dân Pháp và Nam triều. Đây là tổ chức hành chính tương đương
cấp tỉnh như những nơi khác, nhưng được gọi dưới tên gọi là phủ Thừa Thiên. Dưới phủ
Thừa Thiên có 6 huyện là Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy,
Phú Lộc. Huyện Hương Trà có 6 tổng: Phú Xuân, An Ninh, Long Hồ, Phú Ốc, Hương
Cần, Vĩnh Trị; huyện lỵ đóng ở xã Bao Vinh, tổng Vĩnh Trị. Hương Văn bấy giờ thuộc
tổng Phú Ốc. Đứng đầu Phú Ốc là Chánh tổng, dưới có Phó chánh tổng. Tổng là cánh tay
vươn dài của cấp huyện đến làng xã, là một trong những biện pháp để triều Nguyễn kiểm
soát, can thiệp sâu hơn đến làng xã cổ truyền với hai mục tiêu chính là thu thuế và thực
hiện an ninh xã hội 1.
Trong khi đó, bộ máy hành chính cấp xã vẫn được giữ nguyên, nhưng sinh hoạt làng
xã phải chịu thêm một “tròng” của thực dân Pháp. Dưới áp lực của Pháp, bộ máy xã thôn
truyền thống cai trị xã dân hà khắc hơn trước, dẫn đến mối quan hệ ngày càng xấu đi giữa
bộ máy quản lý và dân làng. Bộ máy hành chính cấp xã chủ yếu gồm lý trưởng là người
đứng đầu. Giúp việc cho lý trưởng là phó lý trưởng. Theo quy định của làng Văn Xá, lý
trưởng phải là dân nội tịch, có học thức và thuộc một số dòng họ nhất định (chủ yếu là
thuộc các họ khai canh của làng: Lê, Trần, Cao). Nhiệm kỳ của mỗi lý trưởng là 3 năm,
nếu làm tốt nhiệm vụ có thể được tái cử nhiệm kỳ tiếp theo.
1
. Đỗ Bang, Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn: Những vấn đề đặt ra hiện nay,
Nxb Thuận Hóa, Huế, 1998, tr. 151-152.
14
Hội đồng Kỳ mục là bộ máy quản lý xã thôn truyền thống, bao gồm những người
đang sinh sống tại xã hoặc có tên trong số đinh của xã, gọi chung là quan viên hàng xã.
Họ gồm các chức sắc, quan lại về hưu, những người có đỗ đạt, các tân cựu chánh tổng
hoặc phó tổng, các cựu lý trưởng hoặc phó lý... Ðứng đầu Hội đồng Kỳ mục là một vị
Tiên chỉ, và một hoặc hai Thứ chỉ. Hội đồng Kỳ mục là cơ quan có toàn quyền quyết định
các công việc quan trọng của xã như phân bổ thuế khóa, sưu dịch, binh dịch, bầu cử Hội
đồng tổng lý, phân cấp công điền, tổ chức hội hè đình đám, xây dựng và tu bổ đền chùa
miếu mạo...
Từ năm 1935, bộ máy hành chính cấp cơ sở của phủ Thừa Thiên có nhiều thay đổi
khi người Pháp bắt đầu can thiệp vào chính quyền cấp xã ở Trung Kỳ. Ngày 19-12-1935,
Bảo Đại ban hành Dụ số 86 nhằm mục đích củng cố sự giám sát của nhà nước đối với đội
ngũ chức dịch thừa hành ở cấp xã.
Về kinh tế, nhằm vơ vét nguồn tài nguyên của Việt Nam để làm giàu cho chính quốc,
thực dân Pháp đã cho triển khai cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất và lần thứ hai.
Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã gây nên những biến đổi căn bản
trong nền kinh tế - xã hội của Việt Nam. Một số ngành sản xuất mới ra đời, như khai mỏ,
lập đồn điền, chế biến gạo, gỗ, nhà máy dệt, nhà máy xi măng… góp phần chuyển Việt
Nam vận hành theo quỹ đạo của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong nông nghiệp, ở nhiều
nơi, chính quyền thuộc địa còn tạo điều kiện cho các tên thực dân bao chiếm ruộng đất để
lập các đồn điền trồng lúa hoặc cây công nghiệp (như cao su, cà phê, chè…). Tuy nhiên, ở
Thừa Thiên Huế, ngoài nhà máy vôi thủy Long Thọ, nhà máy đèn ở Huế, hầu như chưa có
cơ sở kinh tế nào đáng kể được xây dựng. Do đó, nền kinh tế của Thừa Thiên Huế và
Hương Trà nói chung, Hương Văn nói riêng vẫn chưa có chuyển biến đáng kể. Cho đến
giữa thế kỷ XX, ở Hương Văn ruộng công là chủ yếu (còn có khoảng 38 mẫu ruộng đất
công) nên địa chủ lớn hầu như không có. Chỉ tồn tại sở hữu ruộng tư dưới hình thức
“ruộng hương hỏa” của các dòng họ, như họ Lê có hơn 10 mẫu ruộng nước và 30 mẫu
ruộng khô, họ Trần có 20 mẫu ở Hà Đồ và 30 mẫu ở Hà Lạc. Theo quy định chung, ruộng
công được đem chia đều cho dân đinh trong làng, Từ thời Nguyễn, cứ 3 năm chia ruộng
một lần nhưng do phân thành nhiều hạng (18 hạng) nên trên thực tế, số ruộng đến tay dân

15
đinh bị sụt giảm, trung bình 1 sào/1 đinh 1. Mặt khác, do phân ruộng đất thành 3 hạng:
nhất đẳng, nhị đẳng và tam đẳng nên những phần ruộng nhất đẳng thường rơi vào tay của
những người có quyền thế, người nông dân chỉ còn nhận được những phần ruộng xấu
nhất. Do đó, để có đất đai sản xuất, nhiều gia đình phải lên làng Lại Bằng nhận ruộng làm
rẽ và nộp tô cho chủ đất.
Những luật lệ của làng xã, nạn phu phen tạp dịch cùng sưu thuế của Nhà nước đè
nặng lên đời sống của người dân bản quán, trong đó nặng nề nhất là thuế đinh và thuế
điền. Theo lệ thời Nguyễn, mỗi suất đinh đóng 5 hào/năm (tương đương 18 lon gạo). Từ
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (sau Chiến tranh thế giới thứ nhất), mức thuế tăng lên
2,5 đồng. Hàng năm, từ thượng tuần tháng 4 đến hạ tuần tháng 7 âm lịch, lý trưởng và
hương chính sẽ thu và nộp cho Nhà nước. Do vậy, cứ đến mùa thuế, lính lệ về đến tận
làng, đốc thúc công việc này. Những ai chưa kịp nộp sẽ bị bắt trói cho đến khi gia đình
đem tiền đến nộp. Hoặc có những trường hợp vì thiếu thuế, sợ cảnh bị tra tấn, đánh đập,
nên có người đã bỏ trốn đi nơi khác, thì lý trưởng sẽ bắt người trưởng họ ra đình làng,
buộc con cháu trong họ tìm người bỏ trốn về hoặc dòng họ nộp thuế thay, như đã từng xảy
ra đối với các ông Lê Văn Bổn, Cao Lãm, Cao Giám ở Giáp Nhất. Phương thức dùng
dòng họ ràng buộc để thu thuế đinh rõ ràng là một thủ đoạn rất thâm độc của Nhà nước
thực dân nửa phong kiến, đánh vào tâm lý dòng tộc của người dân, khiến không một ai có
thể trốn tránh vì sợ liên lụy đến họ hàng. Và ngay cả trong trường hợp có ai đó trốn thuế,
chấp nhận “mất họ mất hàng”, nguồn thu của Nhà nước vẫn đảm bảo đủ chỉ tiêu bởi dòng
họ của người đó phải gánh lấy suất thuế này.
Ngoài thuế nộp cho Nhà nước, nhân dân còn phải nộp cho làng một khoản thuế khác
để cung cấp cho bộ máy lí dịch. Bởi là quê ngoại của Minh Mạng nên Nhà nước cũng có
những ưu đãi nhất định cho nhân dân Văn Xá. Mức thuế khóa, phu phen tạp dịch đối với
Nhà nước có nhẹ hơn những nơi khác, ngoại trừ những lần dân đinh được huy động để
xây dựng, sửa chữa Phủ Thờ Thái sư Thọ Quốc công Trần Hưng Đạt cùng 5 đời phía trên
(thường gọi là phủ Ngũ Đợi hoặc phủ Dũ Khánh Từ).
Về văn hóa, nhằm đào tạo đội ngũ nhân lực phục vụ bộ máy thống trị và công cuộc
khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã cho mở một số trường học, dạy bằng chữ quốc ngữ

. Theo ông Hồ Chí Liêm.


1

16
hoặc chữ Pháp. Tuy nhiên, ở Văn Xá vẫn chưa có trường học. Con em trong làng phải qua
Hạ Lang hoặc lên Lại Bằng để học chữ. Do ảnh hưởng từ phong trào duy tân, khoảng từ
năm 1912-1913 trở đi, ở Văn Xá có nhiều người đã vào Huế học chữ quốc ngữ và bắt đầu
có đỗ đạt tiểu học như Trần Văn Quang, Lê Hè… Với những trường hợp này, cũng như
những ông nghè thời trước, dân làng đều cử đại diện vào tận Huế rước về tận đình làng để
làm lễ “vinh quy bái Tổ”. Việc đi học ở Huế giúp nhiều người con của Hương Văn có
điều kiện tiếp xúc với những tư tưởng mới, giúp họ sớm đi theo con đường yêu nước,
cách mạng, dần trở thành những hạt nhân trong phong trào đấu tranh của địa phương
những năm tiếp theo.
2. Nhân dân Hương Văn tham gia phong trào đấu tranh dân tộc và dân chủ
a. Phong trào yêu nước của nhân dân Hương Văn trước năm 1930
Ngày 5-7-1885, sau khi cuộc tấn công quân Pháp ở Kinh thành Huế không thành
công, trước sức phản kích của địch, Tôn Thất Thuyết buộc phải phò vua Hàm Nghi xuất
bôn. Trên đường xa giá ra Quảng Trị, đoàn đã dừng chân tại nhà thờ họ Trần ở Giáp Nhì
làng Văn Xá. Hào mục và nhân dân địa phương đã cung cấp lương thực, thực phẩm và
chỗ nghỉ cho đoàn. Tại đây, nhân danh vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết ra “Thông báo
cho thiên hạ cần vương” (Cáo dụ Cần vương). Đại Nam thực lục chính biên, kỉ Kiến
Phúc - Hàm Nghi, ghi chép: “Giờ Ngọ [11-13 giờ trưa, ngày 23-5 Ất dậu, tức 5-7-1885,
xa giá], mới đến xã Văn Xá, nghỉ một chút, [Tôn Thất] Thuyết tức thì kèm vâng mệnh
vua, đêm qua tình hình vua phải ra đi thông báo cho thiên hạ cần vương, lần lượt tư cho
Nam - Bắc tuân làm” 1. Như thế, từ Văn Xá, cuộc trường chinh gần một thế kỉ vì độc lập
dân tộc và thống nhất đất nước (1885-1975) đã được phát động, bắt đầu từ phong trào Cần
Vương.
Đầu thế kỉ XX, cuộc vận động cứu nước chuyển sang khuynh hướng mới, theo ngọn
cờ dân chủ tư sản, do Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh lãnh đạo. Ở Trung Kỳ, phong
trào Duy Tân diễn ra rất sôi nổi. Ở Phú Ốc lúc này hình thành nhóm nhỏ các nhà yêu
nước như Nghè Tân, Biện Thược, Bộ Ngạnh, Khóa Hiến… Đây là những người có học
thức, có uy tín ở trong làng. Nhà của Khóa Hiến (tức là ông Trần Đức Hiến) là nơi lui tới
hội họp của nhóm. Khi phong trào chống thuế ở Quảng Nam nổ ra (1908), các cụ dự định

. Đại Nam thực lục chính biên, tập 36, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1976, tr. 221.
1

17
tập hợp và lãnh đạo nhân dân trong tổng kéo vào Huế đấu tranh. Dò la được tin tức này,
thực dân Pháp cho lính về tập trung các cụ cùng lý trưởng các làng quản thúc tại nhà
Khóa Hiến. Không chịu bó tay, các cụ đã bí mật cử con cháu, tập hợp dân làng vào Huế
đấu tranh. Để đoàn biểu tình duy trì đấu tranh dài ngày, các cụ phân công người tiếp tế
lương thực hàng ngày cùng với nhân dân các địa phương khác cho đến khi thắng lợi.
Qua đầu những năm 1920, dưới ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, đặc
biệt là hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam phát
triển đều khắp cả nước. Trong những năm 1924-1926, ở Huế diễn ra phong trào đấu tranh
đòi thả cụ Phan Bội Châu, để tang cụ Phan Chu Trinh. Tiếp theo, những năm 1927-1928,
diễn ra phong trào đòi tăng lương giảm giờ làm, đòi dân sinh dân chủ của công nhân, học
sinh, tiểu thương… Một số công nhân làm việc ở ga Văn Xá cũng có điều kiện tiếp xúc
với những thông tin từ các nơi đưa đến, góp phần lan truyền ảnh hưởng của cách mạng
trong quần chúng địa phương. Những hoạt động đó tuy chưa nhiều nhưng bước đầu tạo ra
sinh khí mới ở nông thôn Hương Văn, tạo điều kiện cho tư tưởng cách mạng và chủ
trương của Đảng xâm nhập quần chúng ở những năm tiếp theo, khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời.
b. Cơ sở cách mạng ở Hương Văn ra đời, lãnh đạo nhân dân đấu tranh
Tháng 4-1930, Tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên Huế được thành lập và trực tiếp lãnh đạo
nhân dân trong toàn tỉnh đấu tranh. Ở Hương Văn, đồng chí Phan Sinh (người làng Tiên
Lộc) đến sinh sống và hoạt động, chỉ đạo các phong trào đấu tranh ở địa phương. Cùng
với phong trào cách mạng trong cả nước, đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, ngày 24-4-1930,
cờ đỏ búa liềm đã xuất hiện ở nhiều nơi trong tỉnh, trong đó có ở ga Văn Xá, gây tiếng
vang lớn ở địa phương. Một mặt, sự kiện này làm cho bộ máy hương lý hết sức lo sợ
trước những hoạt động cộng sản, mặt khác làm cho ảnh hưởng của Đảng lan về địa
phương, làm cho các tầng lớp lao khổ thêm náo nức.
Sau phong trào cách mạng 1930-1931, trước chính sách “khủng bố trắng” của thực
dân Pháp, hầu hết cán bộ, đảng viên trong tỉnh bị bắt. Những đồng chí còn lại phải tạm
lánh, chuyển địa bàn hoạt động. Qua năm 1933, để khôi phục phong trào, nhiều tổ chức
quần chúng biến tướng được thành lập ở Hương Văn gắn theo những hình thức sản xuất

18
và sinh hoạt như hội lợp nhà, hội cày, hội cuốc đất, hội cấy, hội gặt, hội đọc sách, hội
bóng đá…
Lúc này, trong thời gian bị giam lỏng tại Huế, cụ Phan Bội Châu đã nhiều lần nói
chuyện, khơi dậy lòng yêu nước trong thế hệ trẻ mỗi khi có điều kiện. Một số con em của
Hương Văn đang học tại Huế như Lê Hữu Huyền, Lê Văn Lang… đã tham dự những buổi
nói chuyện này. Năm 1935, ở Huế diễn ra cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa
“nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh” giữa Phan Khôi và Hải Triều,
gây tiếng vang nhất định tới những con em Hương Văn đang theo học hoặc có chút chữ
nghĩa, ít nhiều quan tâm đến thời cuộc. Sự có mặt của cụ Phan ở Huế và nhất là thắng lợi
của những người cộng sản trên diễn đàn văn hóa tư tưởng đã giúp cho nhiều thanh niên
yêu nước ngày càng xích lại với chủ nghĩa cộng sản. Tiếp thu những tư tưởng tiến bộ đó,
những thanh niên này đã nhanh chóng trưởng thành, trở thành những cơ sở cốt cán cách
mạng và về sau là những cán bộ chủ chốt của Đảng ở Hương Văn trong thời kì vận động
dân chủ và cao trào cách mạng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng
tháng Tám 1945, như Hoàng Liên, Trần Văn Dung.
Mặt khác, tại Lại Bằng, một số thiếu niên được gửi lên học ở đây, với sự tuyên
truyền của thầy giáo Trần Đăng Liêm và Trần Đăng Vận, nhiều người bước đầu giác ngộ
cách mạng. Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp lên cầm quyền. Ở Việt Nam, chính quyền
thuộc địa ban hành một số chính sách tiến bộ, thả tù chính trị. Lợi dụng tình hình này,
năm 1937 khi phái viên Godart sang Đông Dương điều tra tình hình, Tỉnh Đảng bộ Thừa
Thiên Huế đã mở cuộc vận động, vận dụng nhiều hình thức và biện pháp đấu tranh để tập
hợp quần chúng viết và đưa kiến nghị, đón Godart trên đường từ Quảng Trị vào Huế. Ở
Hương Văn, đồng chí Trần Đăng Liêm đã tổ chức cho học sinh đến ga Văn Xá đón
Godart để đưa yêu sách 1.
Trên cơ sở phát triển của phong trào cách mạng và về tổ chức, giữa năm 1937, Chi
bộ Đảng ở Hương Trà được thành lập, gồm 4 đồng chí. Từ đây, phong trào cách mạng của
huyện có bước phát triển mới.
Sang năm 1938, trước nguy cơ chiến tranh thế giới đang đến gần, thực dân Pháp
ngày càng xiết chặt chính sách cai trị. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Hương Văn

. Theo ông Hồ Chí Liêm.


1

19
đã đứng lên đấu tranh chống dự án tăng thuế bằng cách đưa đơn kiến nghị lên tri huyện
Hương Trà hoặc dây dưa, kéo dài không chịu nộp.
Song song với các hoạt động trên, một số báo chí của Đảng như Nhành Lúa, Dân,
được phổ biến về các địa phương, được các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên hưởng
ứng. Do đó, những chủ trương của Đảng có điều kiện xâm nhập mạnh mẽ và lan tỏa rộng
trong quần chúng. Ý thức giác ngộ cách mạng của nhân dân được nâng lên.
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN HƯƠNG VĂN THAM GIA CUỘC VẬN
ĐỘNG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (1939-1945)
1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng
a. Bối cảnh lịch sử
Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Nước Pháp tham chiến và
nhanh chóng bị thất bại (22-6-1940). Tiếp theo sau đó, tháng 9-1940, phát xít Nhật tấn
công ở Lạng Sơn. Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng. Từ đây, nhân dân Việt Nam chịu
cảnh “một cổ hai tròng”, dưới sự thống trị chung của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Để
buộc chặt Đông Dương trong quỹ đạo của mình, thực dân Pháp đã phát xít hóa chính
quyền, tăng cường đàn áp cách mạng và thực hiện chính sách kinh tế chỉ huy nhằm phục
vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc mà nước Pháp đang tham gia.
Trước hết, bộ máy quản lí cấp làng xã được tổ chức chặt chẽ hơn theo hướng tăng
quyền cho Hội đồng Kỳ mục. Ngày 5-1-1942, vua Bảo Đại ra Dụ số 89 (Khâm sứ Trung
Kỳ Grandjean chuẩn y ngày 10-1-1942) 1 về việc tổ chức và hoạt động của bộ phận quản
lý xã. Bộ máy hào mục ở Hương Văn được mở rộng quyền lực, nắm trong tay rất nhiều
1
. Dụ gồm 58 điều khoản, có thể tóm tắt như sau: Việc quản trị cấp xã được giao phó vào một tổ chức
mang tên Hội đồng Kỳ mục (Conseil des Notables); song để giải quyết thường xuyên công việc hằng ngày
của xã, Hội đồng Kỳ mục sẽ ủy thác cho một số thành viên nhất định và có cấp bậc cao nhất của mình
đứng ra thành lập một tổ chức thứ hai gọi là Ủy ban Thường trực Hội đồng Kỳ mục (Comité Permanent du
Conseil des Notables). Để thực hiện những quyết định của Ủy ban Thường trực này, có một số ủy viên
chấp hành xã thường là 5 người, gọi chung là Ngũ hương. Ngoài ra mỗi xã đều có một Lý trưởng. Lý
trưởng là người thay mặt cho xã để giao tiếp về mặt hành chính và pháp lý giữa xã và chính quyền cấp
trên. Hỗ trợ cho Lý trưởng có một hoặc nhiều phó lý, tùy theo tầm quan trọng hoặc địa bàn rộng hẹp của
xã. Xem: Nguyễn Quang Trung Tiến, “Chính quyền địa phương triều Nguyễn thời thuộc Pháp: Biểu hiện
và bản chất”, Tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ, Sở KH&CN Thừa Thiên Huế, số 3 năm 1997, tr.
75.
20
quyền hành, như lập sổ đinh, sổ điền, bắt lính, bắt phu, xử án, quản lý tài sản của làng xã
như thuế chợ, thuế ao hồ… Thông qua đó, thực dân Pháp hy vọng sẽ lôi kéo được đội ngũ
này ngày càng trung thành với chính quốc.
Từ cuối tháng 9-1939, đầu năm 1940, để kiểm soát nhân dân, thực dân Pháp còn
thiết lập tổ chức mật thám chuyên theo dõi những người ít nhiều có liên hệ với hoạt động
cách mạng. Chúng cho dán ảnh một số đồng chí lãnh đạo cách mạng của tỉnh và huyện ở
những nơi đông người qua lại để treo thưởng cho nhân dân phát hiện hoặc bắt giữ. Ngoài
vơ vét tài sản của nhân dân thông qua chính sách thuế mới, chúng còn tăng cường bắt
lính. Một số con em Hương Văn đã bị bắt đưa sang chiến trường châu Âu làm bia đỡ đạn.
Mặt khác, từ cuối năm 1939, để thực hiện chính sách khủng bố, thực dân Pháp cho
lập ra nhiều “căng an trí” (ở Phú Bài và La Hy, 3 trại tập trung ở huyện lỵ Phú Lộc, Phong
Điền và Quảng Điền) để giam giữ những chính trị phạm đã mãn hạn tù, những người mà
chúng cho là có thành tích “bất hảo”. Một số con em Hương Văn như Hoàng Liên, Trần
Văn Dung… đã bị bắt giam ở trại tập trung Hạ Lang (nay thuộc xã Quảng Phú, huyện
Quảng Điền). Chính sách này không chỉ để khống chế các cán bộ cách mạng mà còn
nhằm ngăn chặn, cô lập cách mạng với nhân dân. Ngoài ra, để kiểm soát quần chúng và
nhằm phát hiện cán bộ cách mạng đến hoạt động, ở mỗi xóm chúng lập ra một điếm canh
nhằm kiểm soát những người lạ mặt, giao cho hương kiểm chịu trách nhiệm cắt cử trương
tuần canh gác thường xuyên.
Chính sách khủng bố của thực dân Pháp gây cho lực lượng cách mạng những tổn
thất nặng nề. Nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt giam ở các nhà lao hoặc bị đi đày. Xứ ủy
Trung Kỳ bị phá, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế cũng không còn hoạt động. Cơ sở cách mạng
và quần chúng, trong đó có Hương Văn, bị mất liên lạc với cấp trên.
Tại Phú Ốc, quân Nhật đóng bốt ở cầu Hiền Sỹ. Tại đây, chúng có khoảng 1 tiểu đội,
được trang bị 1 khẩu đại liên. Dựa vào thế quân Nhật, một số phần tử người Việt cam tâm
làm tay sai cho chúng, chống lại nhân dân. Trong đó, tàn bạo nhất là tên Cai Vồ thường
xuyên đàn áp quần chúng quanh vùng để lập công với chủ 1.
Từ cuối năm 1944, chính sách nhổ lúa trồng đay, thu thóc tạ của phát xít Nhật làm
cho nhân dân ta ở nhiều nơi lâm vào cảnh khốn cùng. Cộng thêm vào đó, những cuộc bắn

. Theo ông Hồ Chí Liêm.


1

21
phá của máy bay phe đồng minh vào những nơi đóng quân và đầu mối giao thông như ga
Văn Xá, cầu Hiền Sỹ, đã gây ách tắc giao thông, lúa gạo từ miền Nam không thể chuyên
chở ra khiến nạn đói giáp hạt đe dọa nghiêm trọng đời sống của nhân dân. Ở Hương Văn
bắt đầu xuất hiện tình trạng một số cư dân vùng biển hoặc từ các tỉnh ngoài vào lang
thang kiếm sống. Ngay tại địa phương, sản xuất cũng bị đình trệ, nhiều gia đình lâm vào
cảnh đói ăn, có người phải ăn củ chuối, các loại rau dại để sống sót qua ngày. Hơn 50
người không đủ tiền đóng thuế thân. Để có tiền nộp cho quan trên, làng Văn Xá đã bán
một số ruộng công.
Như vậy, từ khi quân Nhật vào Đông Dương, nhân dân cả nước nói chung, Hương
Văn nói riêng phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” bởi ách thống trị của thực dân Pháp và
phát xít Nhật. Ách áp bức, bóc lột của thực dân và phát xít càng trở nên nặng nề. Sự vùng
lên của dân tộc là tất yếu.
b. Chủ trương của Đảng
Trước những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt là vận mệnh
dân tộc ngày càng trở nên nguy khốn bởi hai tầng áp bức, ngày 6-11-1939, Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông
Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất
cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng, để tranh lấy giải phóng dân tộc” 1.
Để tập trung mọi lực lượng của dân tộc vào nhiệm vụ chống chiến tranh đế quốc và
ách thống trị phát xít thuộc địa, Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất,
thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, thay đổi phương thức đấu
tranh từ công khai sang bí mật, từ đấu tranh chính trị sang chuẩn bị đấu tranh vũ trang để
giành chính quyền.
Đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Tháng 5-1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương đưa nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp
phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 6 (1936-1939), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1

2002, tr. 536.


22
tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi
của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” 1. Hội nghị quyết định thành
lập Mặt trận Việt Minh nhằm “liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt
tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi
Pháp - Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở” 2.
Thực hiện chủ trương đó, tháng 2-1940, đồng chí Bùi San triệu tập hội nghị tại
Thuận An tái lập Xứ ủy Trung Kỳ. Đến giữa năm 1940, Chi bộ Lao Thừa Phủ được thành
lập, do đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư. Các cơ sở Đảng ở Phú Lộc, Phong Điền,
Quảng Điền dần dần phục hồi, bắt liên lạc được với nhau.
2. Nhân dân Hương Văn chuẩn bị và tham gia khởi nghĩa giành chính quyền
trong Cách mạng tháng Tám 1945
Trái với ý đồ của chính quyền thực dân khi tập trung về quản thúc tại Hạ Lang, các
cán bộ, đảng viên đã có điều kiện để tiếp xúc, sinh hoạt, trau dồi lý luận cách mạng cũng
như phổ biến những chủ trương mới nhất của Đảng. Để cải thiện cuộc sống đang bị quản
thúc cũng như để che mắt địch trong hoạt động cũng như tiếp xúc với quần chúng, các
cán bộ, đảng viên đã tổ chức nhà tằm, trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, chằm nón. Đây thực
chất là gây cơ sở kinh tế cho Đảng và quan trọng hơn là có điều kiện tiếp xúc với quần
chúng, qua đó thức tỉnh họ. Trên thực tế, hoạt động của nhà tằm đã góp phần quan trọng
trong việc thức tỉnh quần chúng nhân dân, đưa họ tiếp cận với cách mạng. Nhiều bà con
Hương Văn khi qua lại Hạ Lang làm ăn, buôn bán đã được giác ngộ cách mạng. Phong
trào dần dần phục hồi dưới hình thức tổ chức nhiều hội biến tướng như hội lợp nhà, hội
gặt thuê, hội cày thuê… Nhiều cơ sở cách mạng đã vận động con em địa phương tham gia
các hội nói trên. Ngoài tính chất tương tế, giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn, các tổ chức trên
đây còn giúp cho cán bộ phát hiện những nhân tố tốt, xây dựng thành cơ sở cách mạng.
Cùng với những hoạt động trên, ta còn đẩy mạnh phong trào vận động quần chúng
chống lệnh bắt lính của địch với khẩu hiệu: “Thà ở nhà còn hơn đi lính chết thay cho
Pháp”. Phong trào này đã được đông đảo các mẹ, các chị hưởng ứng, vận động chồng con
không chấp hành mệnh lệnh bắt lính của địch.
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1

2002, tr. 113.


. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7 (1940-1945), Sđd, tr. 149.
2

23
Những hoạt động sôi nổi đó đã thúc đẩy việc phục hồi cơ sở và lực lượng cách mạng
ở Hương Văn. Lúc này, các cán bộ bị bắt quản thúc ở Hạ Lang đã tìm cách trốn về làng,
tiếp tục hoạt động, như Hoàng Liên và Trần Văn Dung. Những cán bộ này tìm cách liên
lạc với cấp trên, củng cố cơ sở cũ và gây dựng thêm nhiều cơ sở mới. Các cán bộ đã thành
lập một trại sản xuất ở Khe, thuộc Giáp Nhất hiện nay. Về hình thức, đó là trại sản xuất
nhưng thực chất là nơi lui tới, hội họp của những người cách mạng cũng như tuyên truyền
tư tưởng yêu nước.
Sau khi ổn định và gây dựng được cơ sở trong nhân dân, tổ chức này đã thành lập
những hội biến tướng như hội tập võ, hội múa, hội gặt mùa, hội đưa đám… để hoạt động.
Những hội này thường xuyên hoạt động và gây được ảnh hưởng trong nhân dân như rải
truyền đơn, tuyên truyền cách mạng và cảnh cáo những tên lý trưởng gian ác.
Những hoạt động mạnh mẽ của các tổ chức trên đã làm cho một số người tiến bộ
trong chính quyền thôn xã của Hương Văn có chuyển biến, dần dần cảm tình với cách
mạng và nhận làm những việc do Việt Minh giao như Lý Mùi (Lê Mùi). Ông bị thực dân
Pháp phát hiện và xử bắn tại đình Giáp Nhì (11-1944).
Trên thực tế, từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đến trước ngày phát xít
Nhật đảo chính thực dân Pháp, việc thực dân Pháp và sau thêm phát xít Nhật thực hiện
chính sách khủng bố song phong trào cách mạng vẫn có những bước tiến vững chắc, tạo
cơ sở để dẫn đến cao trào tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Đúng như dự báo của Trung ương Đảng, ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp trên
toàn cõi Đông Dương. Một mặt, Nhật lập ra chính phủ Trần Trọng Kim, mặt khác cho lập
các tổ chức quần chúng nhằm làm cơ sở xã hội hậu thuẫn cho chính phủ này. Tháng 6-
1945, tổ chức thanh niên Phan Anh ra đời và nhanh chóng phát triển, có cơ sở rộng khắp ở
các vùng nông thôn lân cận Huế. Chương trình hoạt động của thanh niên Phan Anh khá
phong phú như chống hương lý và sự hủ bại của chúng, đòi cho thanh niên được tham gia
chính quyền, đòi cải tổ hương thôn, chống các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, mê tín
dị đoan, tổ chức thanh niên tham gia làm thủy lợi, đào mương chống hạn, sửa sang đường
sá, truyền bá chữ quốc ngữ, tổ chức các hoạt động văn hóa thể thao như cắm trại, đá
bóng…

24
Dưới sự lãnh đạo của cán bộ Việt Minh ở Hương Trà, trực tiếp là các đồng chí Phan
Linh, Hà Thế Hạnh, Nguyễn Hữu Phiên, Hà Thế Ngữ…, các cơ sở nòng cốt dần dần
chiếm lĩnh những vị trí quan trọng trong tổ chức thanh niên Phan Anh. Họ tổ chức những
hoạt động khá rầm rộ như luyện tập quân sự, sắm sửa khí giới, canh tác ruộng đất, mở lớp
học quốc ngữ. Đặc biệt, qua thanh niên Phan Anh, ta đã vận động nhân dân ủng hộ vật
chất cho những cán bộ vừa thoát khỏi nhà tù sau ngày 9-3-1945. Mặt khác, cán bộ còn
tích cực tổ chức nhân dân đấu tranh chống chính sách vơ vét thóc gạo của Nhật như làm
cho lúa ướt để nặng cân hoặc bí mật đánh chìm đò chở thóc gạo của Nhật trên sông Bồ.
Những hoạt động trên đây của thanh niên Phan Anh thực chất là những hoạt động có
tổ chức của ta làm cho bộ máy chính quyền địa phương của địch bị tê liệt trên một số mặt,
đồng thời góp phần thức tỉnh, động viên quần chúng, nhất là tầng lớp thanh niên, chuẩn bị
đưa họ vào cao trào cách mạng giành chính quyền.
Ngày 23-5-1945, sau khi nhận chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta”, Tỉnh ủy Thừa Thiên họp Hội nghị mở rộng ở Cầu Hai đã đề ra một số biện
pháp cấp bách để chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền, bầu Ủy ban Việt Minh tỉnh
để chỉ đạo phong trào.
Tất cả cán bộ, đảng viên đã tích cực hoạt động, đẩy mạnh đấu tranh vạch trần tính
chất bịp bợm về thuyết “đồng chủng đồng văn” của Nhật, tố cáo thân phận làm tay sai của
bộ phận vua quan, hương lý. Ngoài tuyên truyền nhóm nhỏ, ta còn lợi dụng những nơi
đông người như chợ búa, đám ma, đám cưới để phổ biến sâu rộng trong quần chúng về
đường lối và chính sách của Việt Minh. Để góp phần khắc phục nạn đói, cứu trợ đồng bào
hoạn nạn, dưới sự lãnh đạo của các cán bộ Việt Minh, hội các mẹ, các chị đã tổ chức cứu
trợ đồng bào bị đói bằng cách quyên góp gạo để nấu cháo phát chẩn.
Tình hình trên tác động mạnh đến nhận thức của các tầng lớp thanh niên, giúp số
đông thanh niên (kể cả thanh niên Phan Anh) ngả hẳn sang phía cách mạng, như Trần Hồ,
Ngô Đình Căn… Từ đó, yêu cầu thành lập lực lượng làm nòng cốt để khi điều kiện chín
muồi sẽ khởi nghĩa giành chính quyền. Đội tự vệ các thôn được thành lập, gồm những
thanh niên tích cực và gan dạ. Khoảng tháng 6-1945, ở Hương Văn thành lập được một
tiểu đội tự vệ vũ trang gồm 12 người, trang bị còn rất thô sơ, gồm 10 cây giáo và 2 mã tấu

25
1
. Anh em rất hăng hái hoạt động. Ban ngày, mọi người vẫn đi làm, sinh hoạt bình thường.
Ban đêm, anh em tập trung lại tập luyện võ nghệ hoặc cắt cử nhau canh gác, bảo vệ các
cuộc họp của cán bộ. Đây là lực lượng đóng vai trò bảo vệ quần chúng trong cuộc mít
tinh, tuần hành ủng hộ cách mạng.
Cùng trong thời gian này, nhiều bài ca cách mạng như Tiếng gọi thanh niên, Bạch
Đằng giang, Lên đàng… với nội dung hùng tráng, kích động lòng yêu nước được phổ
biến sâu rộng trong quần chúng, có tác dụng kích thích họ bước vào cao trào đấu tranh
giành chính quyền.
Từ giữa năm 1945, tình hình diễn biến mau lẹ, phe phát xít hoặc bị tiêu diệt (Đức,
Italia) hoặc bị đẩy lùi, thất bại ở nhiều nơi (Nhật Bản). Ngày 10-6-1945, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Thừa Thiên họp, thảo luận vấn đề khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị thống
nhất:
Một là, phải chớp lấy thời cơ ngay khi Nhật đầu hàng phe Đồng minh, phát động
toàn dân vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh, không nhất thiết phải
đợi lệnh của Trung ương.
Hai là, khởi nghĩa ở nông thôn trước, đồng thời tích cực chuẩn bị khởi nghĩa ở thành
phố, không phải đợi khởi nghĩa ở nông thôn xong mới đến khởi nghĩa ở thành phố.
Ngày 15-8-1945, Ban Thường vụ Tỉnh ủy họp hội nghị mở rộng có sự tham dự của
đồng chí Tố Hữu, phái viên Xứ ủy Trung Kỳ vào duyệt kế hoạch và chuẩn y kế hoạch
khởi nghĩa. Tin Ban Thường vụ Tỉnh ủy quyết định khởi nghĩa nhanh chóng lan về các địa
phương. Một không khí phấn khởi bao trùm các thôn xóm. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình
của quần chúng diễn ra khắp các thôn làng.
Trước tình hình đó, ngày 17-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa huyện Hương Trà thành lập,
đề ra kế hoạch khởi nghĩa cho các làng, tổng và huyện. Ngoài Ủy ban khởi nghĩa chung
cho toàn huyện, gồm 3 đồng chí (Hà Thế Hạnh, Đặng Cháu và Hoàng Liên), Ủy ban khởi
nghĩa phân chia Hương Trà thành 4 khu vực để chỉ đạo khởi nghĩa giành chính quyền.
Khu vực Phú Ốc do đồng chí Trần Mai và Hồ Khả Quyến chỉ đạo.
Ngày 20-8-1945, làng Lại Bằng khởi nghĩa giành chính quyền thành công đầu tiên ở
Hương Trà. Tiếp theo, các làng thuộc tổng Phú Ốc cũng nổi dậy, trong đó có Văn Xá, Tiên

. Theo ông Hồ Chí Liêm.


1

26
Lộc và Hiệp Khánh. Ngày 23-8-1945, nhân dân Hương Văn cùng cả huyện đồng loạt
vùng lên đánh chiếm huyện đường Hương Trà. Lúc này, quân đội Nhật đang đóng giữ cầu
An Lỗ vẫn chưa chịu đầu hàng. Do đó, ngày 25-8, cùng với nhân dân các địa phương
khác, nhân dân Hương Văn đã kéo ra bao vây lực lượng quân Nhật tại đây, buộc chúng
phải đầu hàng, giao quyền kiểm soát cầu An Lỗ cho cách mạng. Trước sức mạnh của quần
chúng, lý trưởng, hương lý các làng lần lượt đem hồ sơ sổ sách, đồng triện… nộp cho Ủy
ban khởi nghĩa. Cách mạng tháng Tám ở Thừa Thiên Huế, Hương Trà nói chung và ở
Hương Văn nói riêng giành được thắng lợi.
Như vậy, tròn 6 thập kỉ kể từ khi phong trào Cần Vương khởi phát (1885-1945),
cùng với cả nước, nhân dân Hương Văn đã giành lại được quyền làm chủ vận mệnh của
mình. Trải qua những khuynh hướng yêu nước khác nhau, nhiều người con Hương Văn
sớm giác ngộ lí tưởng cách mạng, một lòng tin tưởng, đi theo Đảng làm đấu tranh giải
phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Hầu hết mọi phong trào do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo, nhân dân Hương Văn đều tích cực hưởng ứng. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai
đi vào giai đoạn cuối, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở Hương Văn
ngày càng khẩn trương và hoàn tất về mọi mặt. Hương Văn là một trong số ít địa phương
ở Hương Trà thành lập được lực lượng vũ trang cách mạng. Do vậy, cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền ở Hương Văn diễn ra nhanh chóng, hầu như không đổ máu. Cách
mạng tháng Tám thành công, đưa nhân dân Hương Văn bước vào thời kì cách mạng mới:
Xây dựng và bảo vệ những thành quả cách mạng vừa mới giành được.

27
Chương 2
CHI BỘ ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN HƯƠNG VĂN
XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ MỚI VÀ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 – 1954)
I. XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHẾ ĐỘ MỚI, CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN (1945-
1946)
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, cách mạng Việt Nam có những
thuận lợi rất cơ bản, song cũng đứng trước những thử thách vô cùng nghiêm trọng. Cuối
tháng 8-1945, thực hiện kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”, 20 vạn quân Trung Hoa Dân
quốc tràn vào nước ta, đóng từ biên giới Việt-Trung đến vĩ tuyến 16. Ở miền Nam, ngày
6-9-1945, quân Anh đến Sài Gòn. Ngày 23-9-1945, quân Pháp được quân Anh và quân
Nhật yểm trợ đã nổ súng gây hấn ở Sài Gòn - Gia Định. Tại Thừa Thiên Huế, đầu tháng
9-1945, 5.000 quân Trung Hoa Dân quốc kéo vào Huế. Cùng lúc, được Anh và Mỹ tiếp tế
lương thực và vũ khí, 750 lính Pháp ở Lào đã đến Huế cộng thêm 250 kiều dân Pháp đã
tập trung lại để thực hiện âm mưu đánh Trung Bộ 1. Cùng với nạn ngoại xâm, chính quyền
cách mạng non trẻ còn phải đối diện với những thử thách to lớn khác là “giặc đói” và
“giặc dốt”.
Cũng như nhân dân cả nước, cách mạng đã đem lại sự đổi đời hết sức lớn lao cho
nhân dân Hương Văn, đó là được làm người dân của một nước độc lập, được làm chủ vận
mệnh của mình và quyền làm chủ đất nước. Hạnh phúc to lớn đó đã đưa khí thế quần
chúng lên cao, nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Nhân dân Hương Văn giàu truyền thống yêu nước, có ý chí cách mạng kiên cường,
đã biểu thị quyết tâm, kiên quyết đứng lên xây dựng và bảo vệ chế độ mới, đoàn kết xung
quanh Mặt trận Việt Minh, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ.
Một thuận lợi lớn khác là ngay sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, chính quyền và
mặt trận, các đoàn thể trên địa bàn xã đã nhanh chóng được xây dựng, kiện toàn. Sau khi
Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Hương Trà được thành lập, Ủy ban nhân dân
cách mạng lâm thời các làng, thôn ở trên địa bàn Hương Văn cũng được thành lập nhằm

. Trần Quý Hai, Những ngày khói lửa, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1984, tr. 22.
1

28
nhanh chóng thực thi các chính sách của cách mạng, đưa mọi hoạt động của nhân dân trở
lại bình thường.
Tháng 10-1945, để thống nhất với toàn quốc, huyện Hương Trà từ 70 làng, 6 tổng,
được tổ chức lại thành 20 xã, mỗi xã có một Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời chịu
trách nhiệm quản lý địa phương. Lúc này Hương Văn có tên là xã Hương Xá bao gồm các
làng: Văn Xá, Tiên Lộc, Hiệp Khánh do ông Trần Hưng Huyến làm Chủ tịch, ông Lê
Khắc Nhãn làm Phó Chủ tịch, ông Phan Sinh làm Ủy viên Thư ký, ông Trần Hưng Hải
làm Ủy viên Quân sự, đã ra mắt nhân dân trong một cuộc mít tinh lớn tại Phủ Thờ (Văn
Xá). Cùng với việc thành lập chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể cứu quốc được củng
cố, kiện toàn. Mặt trận Việt Minh xã do ông Đặng Cẩn làm Chủ tịch đã tập hợp đông đảo
mọi tầng lớp nhân dân vào công cuộc xây dựng chế độ mới; Đoàn thanh niên cứu quốc do
anh Lê Châu (tức Mão) phụ trách tổ chức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, nói chuyện thời sự,
giáo dục tinh thần sẵn sàng tình nguyện gia nhập các tổ chức cứu quốc khi cần; Phụ nữ
cứu quốc do chị Trần Thị Lừa phụ trách làm nòng cốt trong các hoạt động nuôi quân,
phong trào vệ sinh và xây dựng đời sống mới. Tổ chức Nông dân cứu quốc giữ vai trò
nòng cốt trong phong trào khai hoang, phục hóa, tăng gia sản xuất. Hội Phụ lão cứu quốc
động viên, giáo dục con cháu thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của chính quyền
mới…
Ngày 3-9-1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra 6 nhiệm vụ cấp bách: Một là, phát động
phong trào tăng gia sản xuất, chống nạn đói; hai là, mở chiến dịch chống nạn mù chữ; ba
là, tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực
hiện quyền tự do, dân chủ cho nhân dân; bốn là, mở phong trào giáo dục tinh thần cần,
kiêm, liêm, chính để bài trừ những thói hư, tật xấu do chế độ cũ để lại; năm là, bãi bỏ
ngay thuế thân và nghiêm cấm việc hút thuốc phiện; sáu là, ban bố quyền tự do tín
ngưỡng và đoàn kết lương giáo.
Thực hiện những nhiệm vụ của Chính phủ, Huyện ủy Hương Trà đã đề ra các giải
pháp cụ thể để chỉ đạo các địa phương nhanh chóng triển khai thực hiện.
Để giải quyết khó khăn về kinh tế, với tinh thần “tấc đất tấc vàng, bỏ hoang là có
tội”, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời, sự động viên của Mặt

29
trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc, nhân dân Hương Văn đã tận dụng hết đất đai để
đẩy mạnh sản xuất, trồng các loại cây hoa màu như bầu, bí, khoai, sắn… để cứu đói.
Nhằm giải quyết nhanh nạn đói, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cứ
mười ngày nhịn ăn một bữa, một tháng nhịn ăn ba bữa, đem gạo đó (một bữa một bơ) để
cứu dân nghèo”, với tinh thần “nhường cơm xẻ áo”, “lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm
lá rách nhiều”, nhân dân Hương Văn đã tích cực tham gia phong trào “hũ gạo cứu đói”,
“ngày đồng tâm” để thu góp những hạt gạo, củ khoai giúp đỡ cho những gia đình đứt bữa,
thiếu ăn. Chính quyền xã đã đứng ra tạm vay thóc, gạo của một số gia đình giàu có để cứu
trợ cho những gia đình nghèo đói.
Một trong những vấn đề hết sức quan trọng đối với cuộc cách mạng mà Đảng và
nhân dân ta tiến hành là giải quyết vấn đề ruộng đất cho người nông dân. Thực hiện việc
chia ruộng đất cho nông dân, chính quyền cách mạng xã đã tiến hành kê khai số ruộng đất
vắng chủ và ruộng tư nhân bỏ hoang, vận động nhà giàu hiến đất, hiến ruộng… Số ruộng
đất này được chia đều cho mọi công dân từ 18 tuổi trở lên, theo nguyên tắc nam nữ bình
quyền, không phân biệt dân chính cư, ngụ cư. Đến đầu năm 1946, tất cả các loại ruộng đất
công đã được chia hết cho nông dân, đại đa số người nông dân ở Hương Văn đều có
ruộng đất để canh tác. Đồng thời, chỉ đạo nhân dân tiến hành khai hoang, mở rộng diện
tích canh tác, tận dụng tất cả những nơi như khe, hói... để đưa vào sản xuất, tăng nguồn
lương thực, thực phẩm cho gia đình và xã hội; động viên khôi phục lại các ngành nghề thủ
công và khuyến khích tiểu thương ổn định việc buôn bán, làm ăn. Với tinh thần và khí thế
thi đua trong chế độ mới, chỉ trong vòng 2 tháng, mặc dù vẫn còn bữa đói, bữa no, vẫn
còn phải độn nhiều sắn, khoai, bầu bí nhưng nhân dân Hương Văn đã cơ bản đầy lùi được
nạn đói. Đây là thắng lợi lớn, là cơ sở vững chắc để củng cố lòng tin của nhân dân vào
chế độ mới.
Cùng với phong trào tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, chính quyền
cách mạng ở Hương Văn cũng rất coi trọng đến việc tăng cường bồi dưỡng sức dân, thực
hiện những chính sách như: ban bố quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng, bãi bỏ thuế
thân, thuế chợ, thuế đò, vận động nhà giàu xóa nợ hay hoãn nợ cho nhà nghèo. Những
chính sách đó đã mang lại lợi ích cho các tầng lớp nhân dân trong xã, là động lực thúc đẩy
để nhân dân tích cực tham gia các phong trào cách mạng ở địa phương.

30
Ngày 4-9-1945, để góp phần khắc phục tình trạng khánh kiệt về tài chính quốc gia,
Chính phủ ra sắc lệnh về “Quỹ Độc lập” và tổ chức “Tuần lễ Vàng” trong toàn quốc từ 17
đến 24-9-1945. Mặc dù cuộc sống còn nhiều khó khăn và thiếu thốn, nhưng với tinh thần
yêu nước, nhân dân Hương Văn, nhất là các mẹ, các chị đã tự nguyện hiến những kỷ vật
thiêng liêng của đời mình như nhẫn cưới, hoa tai, dây chuyền vàng…; nhiều họ tộc, gia
đình hiến trọn cả bộ tam sự, ngũ sự, nồi đồng, mâm thau. Trong đợt vận động này nhân
dân Hương Văn đã góp hơn 50 lượng vàng, hàng chục tạ đồng để đóng góp vào công quỹ
của Nhà nước 1.
Để chống “giặc dốt”, với tinh thần “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, coi việc
xóa mù chữ để nâng cao dân trí là một trong những nhiệm vụ cấp bách và coi nạn thất học
là thứ giặc nguy hiểm như giặc đói, giặc ngoại xâm, ngày 4-10-1945, trong thư gửi nhân
dân chống nạn thất học, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân chống giặc dốt và đề
ra biện pháp: “Con biết chữ dạy cho cha, chồng biết chữ dạy cho vợ, anh biết chữ dạy cho
em, ai cũng học chữ quốc ngữ”. Hưởng ứng thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính
quyền cách mạng xã đã phát động phong trào bình dân học vụ rộng khắp trong xã và được
các tầng lớp nhân dân hưởng ứng sôi nổi. Các lớp học bình dân học vụ được tổ chức bất
cứ nơi đâu thuận tiện như nhà ở, đình chùa...; thời gian học tập thường buổi trưa, buổi tối
hay những lúc nhàn rỗi. Nhiều cụ già chống gậy đến lớp để học chữ, vừa động viên con,
cháu, láng giềng đi học; nhiều chị có con còn nhỏ vẫn hăng hái đến lớp. Các trạm kiểm
soát chống nạn mù chữ được tổ chức trên các nẻo đường vào làng, vào chợ, qua đò, ai
không đọc được bảng chữ cái, phải dừng lại học một số chữ mới được đi. Với tinh thần
“đi học là kháng chiến”, “có biết chữ kháng chiến mới thắng lợi”, phong trào bình dân
học vụ ở Hương Văn chỉ sau một thời gian ngắn đã giúp cho hằng trăm người biết đọc,
biết viết. Cùng với phát động phong trào bình dân học vụ, chính quyền còn chú ý phát
triển giáo dục phổ thông; chuẩn bị các điều kiện cho năm học mới 1945-1946…
Việc xây dựng đời sống văn hóa mới cũng được chính quyền xã coi trọng. Mặt trận
Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc đã tổ chức tuyên truyền, động viên các tầng lớp nhân
dân bãi bỏ các tập tục lạc hậu như ma chay tốn kém, đồng bóng, nạn cờ bạc, rượu chè...

. Theo tư liệu viết tay của các đồng chí Lê Châu, nguyên Bí thư xã; đồng chí Trần Mậu An, nguyên Chủ
1

tịch xã.
31
Việc kỵ họ, kỵ làng, kỵ giỗ ông bà vẫn được tôn trọng duy trì. Tự do hôn nhân, cưới hỏi
theo nếp sống mới được khuyến khích thực hiện. Các hình thức văn nghệ như diễn kịch,
ca hát với nội dung tiến bộ được diễn ra thường xuyên. Động viên người dân vệ sinh thôn
xóm, nhà cửa, bảo vệ trật tự trị an… Thông qua các hoạt động trên để phổ biến, tuyên
truyền đường lối, chính sách của Đảng, góp phần làm thất bại âm mưu chia rẽ của kẻ thù,
tăng cường khối đoàn kết toàn dân, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho công cuộc kháng
chiến bảo vệ quê hương, đất nước.
Ngày 23-9-1945, nhân dân Nam Bộ đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo
của Huyện ủy Hương Trà, phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến đã diễn ra ở Hương
Văn dưới nhiều hình thức như mít tinh, biểu tình, lên án thực dân Pháp xâm lược. Khẩu
hiệu: “Đả đảo thực dân Pháp, ủng hộ Nam Bộ kháng chiến”, “Độc lập hay là chết”, “Thà
chết tự do còn hơn sống làm nô lệ” được treo khắp các ngã đường; bài hát “Đoàn Vệ quốc
quân” ngân vang khắp thôn xóm. Nhân dân Hương Văn đã gửi hằng chục con em mình
vào các đoàn Nam tiến như: Lê Con, Lê Sắt, Lê Em, Lê Thức (Giáp Nhất), Đặng Chung,
Trần Hưng Chúc, Trần Quê (Giáp Nhì), Lê Hợp, Lê Khắc Nhã (giáp Ba)… Hằng trăm
phụ nữ đã tham gia tích cực trong các hoạt động xã hội, đặc biệt chị em đã lập nên quán
cơm “Nhân dân” phục vụ các đoàn quân Nam tiến đi qua tại ngã bến xe Giáp Ba, nhà ga
Văn Xá; thiếu niên tham gia làm nhiệm vụ cảnh giới, liên lạc…
Để củng cố nhà nước về mặt pháp lý, ngày 8-9-1945, Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa ra Sắc lệnh số 14/SL về Tổng tuyển cử bầu Quốc hội và qui định
tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước vào ngày 6-1-1946 theo chế độ phổ thông đầu phiếu,
không phân biệt trai gái, già trẻ, hễ là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên đều có quyền
bầu cử.
Thực hiện Sắc lệnh của Chính phủ, dưới sự chỉ đạo Huyện ủy, ngay từ sáng sớm
ngày 6-1-1946, trong không khí của ngày hội, lần đầu tiên cử tri Hương Văn đi bỏ phiếu
thực hiện quyền công dân của một nước Việt Nam độc lập. Kết quả, các ứng cử viên do
Mặt trận Việt Minh giới thiệu đều đắc cử đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa khóa I. Cuộc tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 đối với nhân dân trong xã là mốc lịch sử
trọng đại, biểu dương sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân và ý chí quyết tâm làm

32
chủ đất nước, quê hương, góp phần quan trọng tạo ra cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh
chính trị và ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa trong thời điểm khó
khăn và phức tạp của lịch sử nước nhà.
Sau cuộc bầu cử Quốc hội, nhân dân trong xã tiếp tục thực hiện Sắc lệnh 63/SL của
Chính phủ bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh, huyện và xã. Tại kỳ họp thứ nhất của Hội đồng
nhân dân xã đã bầu ra Ủy ban hành chính xã do ông Lê Khắc Nhãn làm Chủ tịch, ông
Phan Sinh làm Phó Chủ tịch, ông Trần Hưng Hải làm Ủy viên thư ký kiêm chỉ huy tự vệ.
Mặt trận Việt Minh vẫn do ông Đặng Cẩn làm Chủ nhiệm. Trưởng thôn Văn Xá là ông Lê
Quang Hữu (tức Lê Khiêm).
Cùng với việc củng cố chính quyền, việc xây dựng lực lượng vũ trang xã được tăng
cường. Xã đã tổ chức Ban Chỉ huy xã đội gồm các đồng chí Bùi Đát (tức Giáo Đương)
làm Xã đội trưởng, Trần Đài làm Xã đội phó, Lê Châu làm Chính trị viên, đã vận động,
tập hợp hơn 150 nam thanh niên chia thành từng tiểu đội, trung đội được trang bị vũ khí
thô sơ như dao, mác, mã tấu; tổ chức huấn luyện quân sự như tập đâm lê, bắn súng, ném
lựu đạn; xây dựng phương án tác chiến, sẵn sàng chiến đấu khi có yêu cầu… Đặc biệt xã
đã tổ chức thành lập đội nữ tự vệ với hơn 50 người do chị Trần Thị Nữ làm đội trưởng,
được chia thành các tiểu đội để luyện tập cứu thương, tải đạn, vận chuyển lương thực về
nơi dự trữ tại Văn Xá Thượng…
Trước thế nước “ngàn cân treo sợi tóc”, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân
Hương Văn đã tích cực tham gia thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng từ “chống
giặc đói”, “chống giặc dốt” đến làm tốt mọi công tác chuẩn bị để cùng cả nước bước vào
cuộc trường chinh “chống giặc ngoại xâm” sắp đến rất gần.
II. DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CHI BỘ, NHÂN DÂN HƯƠNG VĂN TIẾN HÀNH
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1954)
Ngày 28-2-1946, thực dân Pháp và Chính phủ Trùng Khánh ký Hiệp ước Hoa -
Pháp, theo đó quân đội Pháp được phép thay thế quân Trung Hoa Dân quốc ra chiếm đóng
ở bắc vĩ tuyến 16. Trước tình thế đó, để tránh cho cách mạng Việt Nam cùng một lúc phải
đối phó với nhiều kẻ thù, đồng thời tranh thủ thời gian hòa hoãn để xây dựng và củng cố
thực lực cách mạng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến khó lòng tránh khỏi, ngày 6-3-1946,
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp

33
định sơ bộ. Tiếp đó, sau thất bại tại Hội nghị Fontainebleau, ngày 14-9-1946 Chủ tịch Hồ
Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ký với Chính phủ Pháp bản
Tạm ước Việt - Pháp. Sau khi ký hiệp định, mặc dù Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng
hòa đã thực thi nhiều giải pháp ngoại giao để giải quyết mối quan hệ Việt - Pháp, nhưng
với dã tâm xâm lược nước ta của thực dân Pháp, các cuộc thương lượng, đàm phán giữa
Chính phủ ta với Chính phủ Pháp đều bị bế tắc.
Ngày 20-11-1946, thực dân Pháp nổ súng ở Hải Phòng. Ngày 18-12-1946 chúng
ngang ngược gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí của lực lượng tự vệ thủ đô Hà Nội. Tại Huế,
một tiểu đoàn quân Pháp đã chiếm đóng một số vị trí ở bờ Nam sông Hương.
Trước tình hình đó, trong hai ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng đã họp hội nghị mở rộng, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên quy mô toàn
quốc. Đêm 19-12-1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ.
Hới đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!” 1.
Người khẩn thiết kêu gọi: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ,
không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người việt Nam, thì phải đứng lên
chống thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm,
không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp
cứu nước” 2.
Đáp lại lời kêu gọi cứu nước vang dội núi sông của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể
dân tộc Việt Nam, triệu người như một, đã nhất tề đứng lên chống kẻ thù xâm lược. Từ

. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Sđd, tr. 148.


1

. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Sđd, tr. 148.


2

34
đây, chính quyền và nhân dân Hương Văn bước vào giai đoạn cách mạng mới - giai đoạn
trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.
2 giờ sáng ngày 20-12-1946, cùng với cả nước, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế,
quân và dân ta đã nổ súng bao vây, tiêu diệt quân Pháp tại thành phố Huế. Trong gần 2
tháng chiến đấu và bao vây, gìm chân địch trong thành phố, cùng với quân và dân các
huyện ngoại thành, dưới sự lãnh đạo chính quyền xã, hàng trăm thanh niên, dân quân tự
vệ Hương Văn đã vào thành phố Huế phối hợp đánh địch; đội cảm tử của xã đã mang theo
rơm, ớt cùng lực lượng thành phố đánh khách sạn Morin… Nhiều tấm gương anh dũng
của người dân Hương Văn đã thể hiện quyết tâm đánh Pháp như Đặng Tốn, Lê Tô, Lê
Hợp, Lê Hảo, Nguyễn Phụ, Lê Thâm, Lê Đình Bụi, Nguyễn Đình Kiệt, Trần Hưng Bạch,
đặc biệt là cảm tử quân Lê Sung đã ôm bom ba càng đánh địch… Ngoài ra, nhân dân
Hương Văn còn làm tốt nhiệm vụ hậu cần, đã kịp thời tổ chức đón tiếp các lực lượng ta
khi rút khỏi thành phố Huế, tổ chức chuyển tiếp thương binh ra vùng căn cứ, vận chuyển
lương thực lên vùng hậu cứ như Trò, Trái, Cổ Bi, Sơn Quả…
Bên cạnh việc phối hợp với mặt trận Huế trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, lực
lượng tự vệ và nhân dân Hương Văn đã tích cực tham gia các công tác chuẩn bị chiến
trường, sẵn sàng chiến đấu khi giặc Pháp tràn đến địa bàn như: đào hầm hào, công sự,
dựng chướng ngại vật, rèn dao, kiếm, kiên quyết thực hiện “tiêu thổ kháng chiến”, “vườn
không nhà trống”, phá những nơi địch có thể lợi dụng để đóng đồn bốt… Công tác tuyên
truyền, giáo dục, nâng cao tinh thần kháng chiến, đề cao cảnh giác, bảo mật, phòng chống
các loại mật vụ, gián điệp cũng được đẩy mạnh, quyết tâm thực hiện khẩu hiệu “không
nghe, không biết, không thấy” và 4 lời cần ghi nhớ:
- Không đi lính cho Pháp.
- Không tiếp tế cho Pháp.
- Không đưa đường cho Pháp.
- Cương quyết tiêu diệt thực dân Pháp.
Ngày 5-2-1947, quân Pháp tạm thời chiếm được địa bàn Hương Trà. Sau khi chiếm
đóng Hương Trà, tại Hương Văn địch đã tổ chức hàng loạt cuộc càn quét, đốt phá nhà
cửa, ruộng vườn của đồng bào, bắt bớ, giết hại nhiều người dân; bắt nhân dân chặt tre làm
đồn bốt cho chúng như tại chùa Am (do một trung đội lính Pháp chiếm giữ), tại Phủ Thờ

35
(do một đại đội lính bảo an chốt giữ); thành lập bộ máy ngụy quân, ngụy quyền; tổ chức
Ban Hội tề làng Văn Xá do T. X. P. (Lý P.) làm lý trưởng và thành lập trung đội dân vệ
trang bị đầy đủ vũ khí do L. S. (Kiểm S.) đứng đầu, trụ sở đóng tại nhà thờ phái Lê Khắc
(Giáp Ba). Chúng thường xuyên tuyên truyền xuyên tạc chính sách của Mặt trận Việt
Minh, kêu gọi cán bộ kháng chiến ra đầu hàng, đầu thú… Tình hình đó đã gây ra nhiều
tổn thất cho phong trào kháng chiến tại Hương Văn; một số cán bộ bị bắt, bị tra tấn và
giết hại, một số rút vào hoạt động bí mật như Lê Châu, Trần Mậu An (thường gọi là Bộ
Tỵ), Lê Minh Sơn, Trần Xuân Dũng; một số khác ra đầu thú, đầu hàng địch…
Ngày 12-3-1947, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã họp hội nghị, xác định những nhiệm vụ
trọng tâm trước mắt: Các huyện cần tập hợp những bộ đội còn tản mát ở các thôn, xã, thu
thập vũ khí còn bị rơi rớt và chọn một số tự vệ dũng cảm, hăng hái chống giặc, tổ chức
thành những đội “quyết tử quân” làm nòng cốt bảo vệ chính quyền cách mạng, chặn đánh
những toán địch lẻ tẻ đi cướp phá sâu vào thôn xóm, quấy rối các đồn địch trong vùng,
không để cho chúng ăn yên, ngủ yên; kiên quyết trừ gian, diệt tề, không để cho địch lập
bộ máy tay sai ở cơ sở. Chủ trương đúng đắn của Ban Thường vụ Tỉnh ủy là định hướng
quan trọng để Huyện ủy Hương Trà kịp thời lãnh đạo lực lượng vũ trang tích cực đối phó
với những âm mưu, thủ đoạn của địch.
Tiếp theo Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy, từ ngày 25 đến 27-3-1947, tại làng Nam
Dương (Quảng Vinh, Quảng Điền), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Bí
thư Tỉnh ủy đã diễn ra hội nghị Tỉnh ủy mở rộng. Với tầm nhìn chiến lược, đồng chí
Nguyễn Chí Thanh đã nhận định sắc sảo và đầy tin tưởng: “Mất đất chưa phải là mất
nước... Chúng ta không để mất dân, chết không rời cơ sở, chúng ta nhất định thắng” 1. Tư
tưởng chỉ đạo là phải nhanh chóng chuyển sang tiến công địch bằng cách đánh du kích,
kiên quyết quay trở lại vùng nông thôn đồng bằng đang bị địch chiếm đóng, bám dân,
bám đất, phát động phong trào chiến tranh du kích, phá tan chính sách bình định của giặc
Pháp, đưa phong trào kháng chiến ở vùng sau lưng địch tiến lên. Tiếp thu nghị quyết Hội

. Ngô Kha (chủ biên), Thừa Thiên Huế kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945 - 1954, Nxb
1

Thuận Hóa, Huế, 1994, tr. 67.


36
nghị Nam Dương, Huyện ủy đề ra nhiệm vụ “đẩy mạnh công tác trừ gian, diệt tề, đưa cán
bộ trở lại cơ sở, phát động quần chúng khôi phục phong trào cách mạng” 1.
Để xây dựng lại phong trào kháng chiến, trên cơ sở mối quan hệ công tác giữa hai xã
2
Hương Xá và Hương Kinh và tình hình đội ngũ đảng viên, vào khoảng tháng 3-1947,
Huyện ủy đã quyết định thành lập chi bộ ghép hai xã với 7 đảng viên là Lê Quang Hữu
(tức Lê Khiêm), Phan Sinh, Bùi Đát, Nguyễn Đắc Tư (tức Cai Tư), Dương Đề, Nguyễn
Bút, Nguyễn Đắc Luyện, do đồng chí Nguyễn Đắc Tư làm Bí thư, đồng chí Phan Sinh
làm Phó Bí thư; chi bộ có tên là Chi bộ chiến đấu. Mặc dù là chi bộ ghép nhưng sự kiện
ra đời của Chi bộ chiến đấu đã đánh dấu một bước ngoặc trọng đại trong đời sống chính
trị của nhân dân Hương Văn. Từ đây dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ, nhân dân
Hương Văn một lòng theo Đảng, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, góp phần đưa sự
nghiệp cách mạng đến toàn thắng.
Ngay sau khi mới ra đời, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy Hương Trà, chi bộ
đã đề ra nhiệm vụ đưa cán bộ, đảng viên về móc nối để xây dựng lại cơ sở; tập trung ổn
định tư tưởng trong nhân dân, làm cho nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, của
Mặt trận Việt Minh, vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến; động viên nhân dân đẩy mạnh
tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống. Mặc khác, chi bộ cũng đã chỉ đạo tập hợp, vận động
một số thanh niên có tinh thần yêu nước làm nòng cốt để xây dựng lực lượng du kích xã;
tổ chức rải truyền đơn, treo băng cờ, biểu ngữ… Với đường lối đúng đắn và sự tích cực
hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên nên chỉ trong một thời gian ngắn Ủy ban kháng
chiến hành chính xã được củng cố lại do đồng chí Lê Quang Hữu làm Chủ tịch, đồng chí
Lê Châu làm Phó Chủ tịch kiêm Chính trị viên xã đội, đồng chí Bùi Đát làm Xã đội
trưởng, đồng chí Trần Văn Bàn làm Trưởng công an; khôi phục lại hệ thống tổ chức Việt
Minh xã do đồng chí Đặng Cẩn làm Chủ nhiệm. Xã đã thành lập được một trung đội dân
quân do đồng chí Nguyễn Kiệt làm trung đội trưởng, tổ chức các hoạt động như quấy rối
địch ở đồn Văn Xá, Thanh Khê, đốt phá các điếm canh do địch lập nên, tổ chức phá hoại
đường Quốc lộ 1, đường sắt, gọi loa vào đồn địch kêu gọi binh lính về với gia đình hoặc
. Ngô Kha (chủ biên), Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Trà (1937 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1

1998, tr. 82.


. Phường Hương Xuân hiện nay, gồm các thôn: Thanh Lương, Xuân Đài, Liễu Thượng, Liễu Nam, Thanh
2

Khê.
37
không tham gia càn quét, cướp bóc của cải của nhân dân… Đặc biệt, ta đã tổ chức mật
phục và tiêu diệt 2 tên Việt gian ác ôn là Lý trưởng T. X. P. và Hương kiểm L. S., thu 6
khẩu súng, giải tán trung đội dân vệ địch, gây được tiếng vang lớn trong nhân dân.
Tháng 7-1947, trên cơ sở đồng ý của Huyện ủy, 2 xã Hương Xá, Hương Kinh tiến
hành hợp nhất thành một xã lấy tên là xã Hương Thạnh 1. Trong phiên họp đầu tiên của
Hội đồng nhân dân xã (họp bí mật tại thôn Liễu Nam) đã bầu ra Ủy ban kháng chiến hành
chính xã Hương Thạnh do đồng chí Nguyễn Bút làm Chủ tịch, đồng chí Trần Mậu An làm
Phó Chủ tịch, đồng chí Lê Châu làm Ủy viên thư ký 2. Về tổ chức Đảng, chi bộ đã đổi tên
thành Chi bộ chiến đấu xã Hương Thạnh 3, do đồng chí Nguyễn Đắc Tư làm Bí thư, đồng
chí Lê Quang Hữu làm Phó Bí thư.
Tháng 7-1947, Huyện ủy triệu tập Hội nghị cán bộ toàn huyện tại chiến khu Trò, xác
định nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục đưa cán bộ, đảng viên, du kích trở lại đồng bằng, bám
dân, bám đất, gây dựng lại cơ sở và kiện toàn lại tổ chức. Toàn huyện được chia làm 3
khu vực, xã Hương Văn (Hương Thạnh) nằm ở Khu B do đồng chí Trần Mai, Huyện ủy
viên phụ trách.
Do tính chất của địa bàn Hương Văn (Hương Thạnh) vừa là vùng giáp ranh, vừa là
vùng đệm nối kết các xã vùng dưới Hương Trà và huyện Quảng Điền, đồng thời đây là
địa bàn có các tuyến giao thông huyết mạch như Quốc lộ 1, đường sắt Bắc - Nam nên đây
là vùng địch tăng cường kiểm soát mạnh, chúng đã xây dựng hệ thống đồn bốt dọc tuyến
bìa rừng như đồn Thanh Khê, đồn Mỏm Xanh, tạo thế liên hoàn với hệ thống đồn bốt của
4
chúng tại Hương Thái và Tứ Hạ, xây dựng lô cốt dọc tuyến Quốc lộ 1 và đường sắt.
Chính vì vậy, nhiệm vụ của Hương Thạnh là tăng cường quấy rối, xây dựng vùng du kích
ngay trong lòng địch nhằm tạo thế kết nối cho cho các vùng dưới cũng như cho cả huyện
Quảng Điền; uy hiếp, đánh phá tuyến vận chuyển huyết mạch Bắc - Nam của địch đi qua
trên địa bàn…

. Gồm các thôn: Văn Xá, Hiệp Khánh, Tiên Lộc, Thanh Lương, Xuân Đài, Liễu Thượng, Liễu Nam,
1

Thanh Khê.
. Theo tư liệu chép tay của đồng Trần An.
2

. Từ đây chúng tôi dùng địa danh Hương Văn (Hương Thạnh) để chỉ xã Hương Văn trong xã Hương
3

Thạnh.
. Tức Hương Chữ, Hương An hiện nay.
4

38
Để thực hiện nhiệm vụ trên, chi bộ chủ trương đẩy mạnh công tác xây dựng lực
lượng dân quân du kích xã. Qua tuyên truyền, vận động, hằng trăm thanh niên Hương
Văn đã tình nguyện lên đường chiến đấu bảo vệ quê hương. Chỉ trong một thời gian ngắn,
xã đã xây dựng được một trung đội dân quân tập trung, đồng thời còn bổ sung lực lượng
cho Trung đoàn 101 của tỉnh, đại đội bộ đội địa phương huyện. Thực hiện phương châm
vừa xây dựng, vừa huấn luyện, vừa chiến đấu, lực lượng dân quân du kích xã đã tăng
cường quấy rối, đánh phá địch để phối hợp với chiến trường chung của tỉnh và huyện.
Riêng trên địa bàn Văn Xá, dân quân xã đã phối hợp với bộ đội địa phương huyện đánh
địch nhiều trận trên đoạn đường Giáp Tư (từ nhà thờ họ Lê ra bến xe), đánh lính địch ở
đồn Văn Xá phối hợp với lính đồn Hạ Lang đi tuần tiễu diệt nhiều tên và thu một số súng
đạn trang bị cho dân quân xã. Đặc biệt đã gia tăng các hoạt động phục kích, đánh mìn
đường trên đường Quốc lộ 1, đường sắt, làm cho tuyến giao thông huyết mạch của địch
nhiều lần bị tê liệt, buộc chúng phải tăng cường lực lượng bảo vệ theo hình thức cứ một
đoàn tàu hoặc xe quân sự đi qua buộc chúng phải đưa từ 2 đến 3 đại đội lính ngụy vừa
làm nhiệm vụ rà phá mìn, vừa tỏa ra hai bên đường để bảo vệ… Do căng lực lượng ra để
làm nhiệm vụ bảo vệ giao thông, đồn bốt nên vùng đồng dưới Quốc lộ 1 chúng đã bị sơ
hở, tạo điều kiện cho ta hình thành vùng du kích rộng lớn. Hương Văn đã góp phần “quấy
rối, bao vây đánh địch của bộ đội và du kích ở nhiều nơi, đã tạo ra một vùng hoạt động
1
công khai ban ngày ở các xã ven đường quốc lộ và ban đêm ở vùng sâu” trên toàn
huyện.
Tháng 9-1948, tại khe Đá Mài ở Đình Môn, Hương Thọ, Đại hội Đảng bộ huyện
Hương Trà được tổ chức. Đại hội đã đề ra nghị quyết: “Đẩy mạnh công tác phát động
quần chúng, xây dựng cơ sở, tiếp tục tham gia cuộc tổng phá tề, đẩy mạnh chiến tranh du
kích, đóng góp nhân tài, vật lực cho kháng chiến” 2. Sau đại hội, trên địa bàn của huyện,
công tác tổ chức được tiến hành mạnh mẽ.
Đối với xã Hương Văn (Hương Thạnh), chi bộ, chính quyền và mặt trận xã đều
chuyển về đóng tại thôn Phước Yên 3, từ sự phát triển của phong trào, công tác xây dựng
chính quyền, mặt trận, các đoàn thể và nhất là công tác xây dựng Đảng trên địa bàn xã có
. Ngô Kha (chủ biên), Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Trà (1937 - 1975), Sđd, tr. 87.
1

. Ngô Kha (chủ biên), Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Trà (1937 - 1975), Sđd, tr. 86.
2

. Thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền.


3

39
những bước phát triển mới. Công tác phát triển Đảng được đẩy mạnh, đầu năm 1948 chi
bộ đã kết nạp thêm 7 đảng viên mới là các đồng chí Lê Châu, Trần Mậu An, Lê Minh
Sơn, Trần Xuân Dũng, Trần Điềm, Nguyễn Kiệt, Đặng Đống. Đến giữa năm 1948, tổng
số đảng viên của chi bộ đã lên đến 35 đồng chí, trong đó ở Văn Xá có 12 đồng chí. Căn
cứ số lượng đảng viên của chi bộ và nhiệm vụ của địa bàn, Huyện ủy đã quyết định nâng
Chi bộ xã Hương Thạnh thành Đảng bộ xã Hương Thạnh với 2 chi bộ Văn Xá và Thanh
Lương. Sau khi đồng chí Nguyễn Đắc Tư được rút lên huyện, đồng chí Lê Quang Hữu
làm Bí thư Đảng bộ, Phó Bí thư là đồng chí Lê Châu kiêm Chính trị viên xã đội.
Về xây dựng chính quyền, Đảng bộ đã vận động, mời một số nhân sĩ, trí thức tiêu
biểu là người địa phương tham gia vào bộ máy chính quyền, cụ thể đã mời 2 ông Đặng
Ngọc Đàn (thường gọi là Nghè Tô) làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã và
ông Dương Đình (thường gọi Ấm Chín, người Thanh Lương) làm Phó Chủ tịch, các ông
Lê Tương (tức Lý Tương), ông Trần Hưng Tiếu làm ủy viên và đồng chí Trần Mậu An
làm Ủy viên thư ký. Các đoàn thể được củng cố, Mặt trận Liên Việt do ông Ngô Đình
Phương, người Thanh Lương làm Chủ tịch, Hội Phụ nữ do chị Trần Thị Cầm làm Bí thư
và Đoàn Thanh niên do anh Nguyễn Ngạc, người Thanh Lương làm Bí thư.
Sau khi được củng cố, chính quyền và mặt trận, các đoàn thể xã đã phát huy tích cực
vai trò của mình trong vận động, tổ chức cho nhân dân đấu tranh và tham gia đấu tranh
chống địch như vận động nam nữ thanh niên với đầy đủ dụng cụ, phương tiện tham gia
phá đường xe lửa đoạn từ Văn Xá đến Long Khê (Hương Vân), đường Quốc lộ 1 từ ga
Văn Xá đến Km9 với số lượng tham gia có lúc đến trên 200 người, làm cho giao thông
của địch nhiều lần bị tê liệt; tổ chức tuyên truyền tại các chợ trên địa bàn xã, bao vây kinh
tế, tịch thu đồng bạc Đông Dương...
Một nét nổi bật của phong trào kháng chiến xã Hương Văn trong năm 1948 là tất cả
các thôn đều có lực lượng du kích và hoạt động khá thường xuyên, có hiệu quả. Lực
lượng du kích đã làm tốt nhiệm vụ bảo vệ mùa màng, vì vậy đã hỗ trợ hiệu quả cho nhân
dân trong đóng góp lương thực cho nhà nước; bảo vệ được các đoàn vận tải lương thực,
thực phẩm, vũ khí, đạn dược cho bộ đội chủ lực; thường xuyên tổ chức quấy rối, bao vây
đồn giặc… Hoạt động hiệu quả của dân quân du kích đã làm cho địch hoang mang, co
cụm, tạo được sự phấn khởi trong nhân dân. Đặc biệt, Đảng bộ đã thành lập một đơn vị

40
kinh tế, gồm 2 đội: nam do các anh Trần Hưng Kỳ, Lê Tương, Ngô Phương phụ trách, nữ
do các chị Trần Thị Rơi, Trần Thị Nữ phụ trách, nhiệm vụ của đội là vận động nhân dân,
chị em các thôn tham gia thu gom, vận chuyển lương thực, vải vóc, thuốc men cho các cơ
quan của tỉnh, huyện đóng ở Trò, Trái.
Cuối năm 1948, trên cơ sở thực tế tình hình và yêu cầu của cấp trên, bộ máy tổ chức
Đảng và chính quyền xã có những thay đổi. Đồng chí Lê Quang Hữu được Huyện ủy điều
động lên huyện công tác, Đảng bộ đã tổ chức Đại hội và bầu đồng chí Lê Châu làm Bí
thư, đồng chí Lê Minh Sơn làm Phó Bí thư, đồng chí Trần Mậu An là Ủy viên Ban
Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Trần Xuân Dũng là Ủy viên Ban Thường vụ
phụ trách Mặt trận. Tổng số đảng viên toàn Đảng bộ lúc này là 380 đồng chí, riêng chi bộ
Văn Xá có 185 đảng viên 1. Về chính quyền, do tuổi cao, sức yếu ông Đặng Ngọc Đàn
(Nghè Tô) xin thôi không làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã, Đảng bộ đã
lãnh đạo bầu ông Dương Đình (Ấm Chín) làm Chủ tịch.
Bước sang năm 1949, địch đẩy mạnh việc tăng quân, càn quét đồng bằng, ráo riết
thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”,
lập thêm nhiều đồn bốt, đồng thời củng cố, lập lại các hội tề. Nhiệm vụ của Hương Trà
lúc này được Huyện ủy xác định là tập trung xây dựng Đảng, xây dựng các đoàn thể nhân
dân, rào làng chiến đấu và đẩy mạnh hoạt động du kích với phương châm tác chiến: “Du
kích chiến là căn bản, vận động chiến là phù trợ”. Lúc này, một bộ phận lớn cơ quan
huyện Hương Trà được chuyển về vùng đồng bằng để trực tiếp chỉ đạo vùng dưới, riêng
cơ quan Huyện ủy đóng tại xã Quảng Ninh (Quảng Điền) để từ đó sang cơ sở Hương
Thạnh (Thanh Lương, Liễu Cốc Thượng, Văn Xá). Và vì vậy, nhiệm vụ của xã có vai trò
rất quan trọng, là xã nối kết giữa vùng trên và vùng dưới Quốc lộ 1, là địa bàn trú ẩn của
các cơ quan lãnh đạo huyện khi gặp khó khăn.
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, vấn đề quan trọng hàng đầu được Đảng bộ xác định là
tập trung củng cố chính quyền nhân dân và các đoàn thể chính trị nhằm tạo hậu thuẫn cho
cho nhân dân tham gia đấu tranh chống địch, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động du kích
chiến. Với phương châm “địch ra thì bắn tỉa”, lực lượng du kích xã đã liên tục bao vây
các đồn địch, không cho chúng “nống” ra quấy rối đồng bào sản xuất, làm ăn, buộc bọn

. Tư liệu chép tay của đồng chí Lê Châu.


1

41
Việt gian phải co cụm không dám hoạt động. Ngoài việc quấy rối, bao vây đồn địch, du
kích xã với sự giúp đỡ của bộ đội địa phương huyện đã tổ chức một số trận đánh có tính
chất vận động chiến, gây được tiếng vang. Như trung đội du kích tập trung xã đã phối hợp
với đại đội độc lập của huyện do đồng chí Ngô Khai làm đại đội trưởng đã tổ chức trận
đánh “độn thổ” lính địch tuần tra bảo vệ đường xe lửa tại vùng Bàu Nghẹn (Giáp Tư, Văn
Xá) tiêu diệt 10 tên, thu một số súng đạn, trong đó có 1 khẩu súng máy. Tiếp theo trận
đánh “độn thổ”, dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Châu và Xã đội trưởng Nguyễn Xuân
Vò, dân quân, du kích xã đã tổ chức đánh lính đồn Văn Xá về chặt tre, xúc lúa, bắt lợn, gà
tại cầu Ông Ân theo hình thức “ôm hè”. Trận đánh diễn ra bất ngờ, địch không kịp đối
phó, kết quả đã tiêu diệt 5 tên, thu được 3 súng trường và toàn bộ lực lượng của ta được
quần chúng đùm bọc, rút lui an toàn. Tháng 6-1949, với sự giúp sức của quần chúng nhân
dân Giáp Nhất và Giáp Tư, lực lượng du kích đã tổ chức đánh tập kích đoàn xe của địch
tiếp tế cho đồn Hạ Lang, trận đánh này do đồng chí Lê Châu và đồng chí Đặng Mười chỉ
huy. Nắm được quy luật của địch là phải thường xuyên chở lương thực, vũ khí tập kết tại
bến đò Giáp Tư để tiếp tế cho lính đồn Hạ Lang, lực lượng ta đã gài mìn và ém sẵn quân
tại đoạn đường trước mặt nhà thờ họ Lê, khi đoàn xe của địch đi qua ta đã giật mìn làm lật
nhào xe chỉ huy đi đầu, đồng thời tập kích đánh số còn lại. Kết quả, ta tiêu diệt 5 tên,
trong đó có tên chỉ huy, thu một số súng đạn. Các trận đánh trên đã làm cho địch hoang
mang không dám manh động như trước, đồng thời chứng tỏ sự trưởng thành của lực
lượng du kích xã, tạo được sự tin tưởng, phấn khởi trong nhân dân.
Giữa năm 1949, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Trà họp để đánh giá tình hình năm
1948 và đề ra nhiệm vụ lãnh đạo phong trào kháng chiến của quân và dân trong huyện
theo 3 chủ trương lớn của Trung ương Đảng:
- Tiêu hao, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch.
- Bổ sung thực lực của ta về mọi mặt.
- Xây dựng lực lượng kháng chiến ở vùng sau lưng địch.
Sau đại hội, với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, phong trào
kháng chiến trong toàn huyện đã phát triển mạnh mẽ, tiêu biểu là phong trào “rào làng
chiến đấu” diễn ra ở nhiều nơi. Làng Văn Xá được xây dựng thành làng chiến đấu khá
vững chắc. Để bảo vệ làng chiến đấu, Đảng bộ chủ trương xây dựng lực lượng dân quân

42
du kích mạnh, đều khắp. Toàn xã có một trung đội dân quân tập trung được trang bị vũ
khí, kể cả vũ khí lấy được của địch do đồng chí Trần Văn Bàn làm Trung đội trưởng, đồng
chí Liệu (Thanh Lương) làm Trung đội phó, ngoài ra mỗi thôn đều có một tiểu đội du kích
làm nhiệm vụ canh gác.
Cũng thời gian này, do thường xuyên bị lực lượng của ta đánh phục kích nên địch đã
không dám hung hăng như trước, vì vậy chúng đã tăng cường các hoạt động gián điệp để
nắm tình hình, rải truyền đơn, tuyên truyền xuyên tạc chủ trương của cách mạng, kêu gọi
cán bộ kháng chiến ra đầu thú… Để bảo vệ chính quyền cách mạng, Đảng bộ chủ trương
thành lập Ban Công an xã do đồng chí Võ Nghi (tức Anh) làm Trưởng ban. Nhiệm vụ của
Ban Công an xã là làm tốt công tác phản gián, đồng thời phối hợp với lực lượng du kích
tăng cường công tác tuyên truyền trong nhân dân, kể cả các cháu thiếu nhi hiểu rõ âm
mưu, thủ đoạn của địch, nhất quyết không đọc truyền đơn mà thu nộp cho chính quyền
cách mạng để tiêu hủy, thực hiện tốt “3 không” 1…
Vào khoảng cuối năm 1949, thực hiện chủ trương tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch,
được sự hỗ trợ của bộ đội địa phương huyện và bộ đội chủ lực tỉnh (Tiểu đoàn 227), lực
lượng dân quân du kích xã đã phối hợp tổ chức một số trận đánh có kết quả tốt như: Liên
tục tổ chức đánh phục kích trên tuyến giao thông huyết mạch, bao vây uy hiếp đồn, quấy
rối đồn Văn Xá, đồn Tứ Hạ… Đặc biệt, tiếp tục tổ chức đánh địch tiếp tế cho đồn Hạ
Lang với quy mô lớn. Sau trận đánh phục kích của ta vào tháng 6-1949, để bảo đảm an
toàn của tuyến vận chuyển hàng tiếp tế cho đồn Hạ Lang đi từ Quốc lộ 1 đến bến đò Giáp
Tư, lính địch đã chặt tre, phát quang tuyến đường này và khi vận chuyển hàng chúng đều
sử dụng một lực lượng lớn lính bảo vệ, có lúc lên đến 1 tiểu đoàn, có cả lính lê dương.
Ngày 16-9-1949, nắm được quy luật vận chuyển và điểm yếu của chúng là buộc phải co
cụm khi tập kết hàng tại bến đò, Tiểu đoàn 227 của tỉnh đã di chuyển, ém quân tại Thanh
Lương, lực lượng dân quân của xã đã phục kích sẵn tại các khu vực quanh bến đò. Khi
địch tập kết hàng lực lượng ta đã chủ động nổ súng thẳng vào đội hình co cụm của địch,
đồng thời dùng hỏa lực bắn chìm thuyền vận chuyển hàng của chúng trên sông và cắt đứt
đường rút của chúng; lính địch đóng ở đồn Phủ Thờ ra tiếp viện bị quân ta chặn đánh.
Trận đánh diễn ra nhanh chóng, kết quả đã tiêu diệt 29 tên, 7 tên bị thương, thu được

. “3 không”: Không biết, không nghe, không thấy.


1

43
nhiều vũ khí, đạn dược đủ trang bị cho trung đội du kích tập trung xã. Ta hy sinh 1 trung
đội trưởng.
Các trận đánh của lực lượng du kích xã đã góp phần quan trọng củng cố vững chắc
các làng chiến đấu trên địa bàn xã, đưa phong trào kháng chiến ở Hương Văn phát triển
mạnh, địch ở các đồn Văn Xá, Phủ Thờ và các lô cốt cầu cửa Khâu, Bàu Đưng phải co
cụm không dám đi càn, cướp bóc, tạo điều kiện cho việc đi lại từ vùng trên xuống vùng
dưới, từ Bắc vào Nam và ngược lại của cán bộ, bộ đội ta từ huyện, tỉnh đến trung ương
một cách thuận lợi, an toàn. Du kích các xã phát triển khá mạnh, đến cuối năm 1949,
trong toàn huyện có 103 thôn thì có 17 thôn “căn cứ du kích” (vùng ta kiểm soát) với số
du kích là 357 người, 24 thôn du kích (vùng du kích hoạt động chủ yếu vào ban đêm) với
292 du kích và 62 thôn tạm chiếm với 96 du kích, riêng Hương Văn (Hương Thạnh) có 7
thôn du kích (73 du kích) và 5 thôn tạm bị chiếm. Với những thành tích kháng chiến nói
trên, xã đã góp phần cùng toàn huyện được nhận giải thưởng của Ủy ban kháng chiến
hành chính tỉnh, là huyện khá nhất của tỉnh trong năm 1949.
Nhằm xây dựng lực lượng kháng chiến ở vùng sau lưng địch, công tác xây dựng,
củng cố các đoàn thể được đẩy mạnh và có nhiều hoạt động sôi nổi, hiệu quả như động
viên nhân dân đóng thuế nông nghiệp, thu gom và tổ chức vận chuyển tiếp tế lương thực,
thực phẩm cho kháng chiến. Trong xây dựng chính quyền, đầu năm 1950 ông Dương
Đình (Ấm Chín), Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính xã Hương Thạnh bị địch bắt và
sát hại, Đảng bộ đã chỉ đạo kiện toàn và cử đồng chí Trần Mậu An làm Chủ tịch xã. Cũng
trong đầu năm 1950, đồng chí Lê Minh Sơn, Phó Bí thư Đảng bộ được rút lên Văn phòng
Huyện ủy, đồng chí Trần Xuân Dũng được bầu làm Phó Bí thư và bầu bổ sung đồng chí
Nguyễn Xuân Vò làm Ủy viên Ban Thường vụ phụ trách dân quân 1.
Từ ngày 6 đến ngày 12-4-1950, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hương Trà đã được
tổ chức tại thôn Mỹ Xá, xã Quảng Đại (Quảng Điền). Đại hội đánh giá tình hình trên địa
bàn huyện và xác định: “Rồi đây tình hình Hương Trà sẽ càng ngày càng khó khăn hơn.
Càng bị động ở chiến trường chính, địch sẽ tập trung đóng quân và hoạt động mạnh ở
Hương Trà. Hương Trà đất hẹp, hình dài, có nhiều sông hói, sẽ bị chia cắt rất nhiều đoạn,
sự liên lạc sẽ gay go, khó khăn. Tuy vậy, chúng ta không bi quan. Hành động của giặc ở

1.
Tư liệu chép tay của đồng chí Trần Mậu An.
44
Hương Trà chỉ là hành động giãy chết. Nếu chúng ta tích cực sửa chữa khuyết điểm, phát
triển ưu điểm trong năm qua để giải quyết, nhất định chúng ta sẽ vươn kịp phong trào
chung, làm tròn nhiệm vụ của Đảng giao phó” 1.
Để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, Đảng bộ Hương Văn (Hương
Thạnh) xác định nhiệm vụ trọng tâm của xã là tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích, kiên
quyết ngăn chặn không để địch tổ chức càn quét, cướp bóc, nhất là phải bảo vệ cho nhân
dân thu hoạch mùa màng. Xác định nhiệm vụ trọng tâm này, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân
dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hiện khẩu hiệu tự túc, tự cường, đóng đảm phụ
kháng chiến; dân quân du kích cùng nhân dân hợp lực bảo vệ mùa màng, ban ngày địch
phá, nhân dân gặt lúa ban đêm; cùng hăng hái thi đua với nhân dân, dân quân du kích tăng
cường bao vây, quấy rối, đánh địch, buộc địch phải co cụm tại các đồn bốt, lô cốt, bọn tề
điệp không dám hung hăng hoạt động.
Tháng 2-1950, để nới lỏng thế kìm kẹp của địch tại Hương Văn, Trung đoàn 101 đã
bố trí 2 đại đội thuộc Tiểu đoàn 436 do đồng chí Dương Bá Nuôi - Tiểu đoàn trưởng chỉ
huy phối hợp với lực lượng du kích xã tổ chức tấn công tiêu diệt 2 lô cốt của địch tại 2
cầu cửa Khâu và cầu Ông Ân, 1 lô cốt tại Văn Xá. Kết quả ta đã nhổ gọn 3 lô cốt này, thu
nhiều vũ khí, tạo điều kiện cho nhân dân đi lại cũng như mở ra vùng du kích.
Song song với việc đẩy mạnh phong trào kháng chiến, tháng 5-1950 Đảng bộ đã
lãnh đạo các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh và cấp xã trên toàn quốc. Để đảm bảo việc huy động cao nhất sự tham gia của nhân
dân, Đảng bộ chủ trương các khu vực: vùng trên Quốc lộ 1 tổ chức hình thức bầu bán
công khai, còn các khu vực Giáp Nhất, Nhì, Ba, Tư và thôn Tiên Lộc tổ chức bầu bí mật.
Kết quả xã đã tổ chức thành công cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân xã với tỉ lệ cử tri đi bỏ
phiếu cao. Hội đồng nhân dân xã đã bầu đồng chí Trần Mậu An tiếp tục làm Chủ tịch Ủy
ban kháng chiến hành chính xã, các ủy viên là Ủy viên thư ký - Đặng Đống, Ủy viên phụ
trách Xã đội - Nguyễn Xuân Vò. Ủy ban kháng chiến hành chính xã trực tiếp điều hành,
quản lý xã hội trong hoàn cảnh chiến tranh, hướng vào khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến,
tất cả để chiến thắng”. Cùng với kiện toàn bộ máy chính quyền, các đoàn thể cứu quốc
như phụ nữ, thanh niên cũng lần lượt tổ chức đại hội, động viên phong trào tòng quân,

. Biên bản Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Hương Trà ngày 6-4 đến 12-4-1950.
1

45
tham gia du kích, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần đưa phong trào kháng chiến
tiến lên một bước mới.
Sau chiến dịch Biên giới thu đông 1950, thế và lực của cách mạng đã có những bước
phát triển mới, thực dân Pháp càng lún sâu vào thế bị động. Để cứu vãn tình thế, được đế
quốc Mỹ tăng cường viện trợ, thực dân Pháp cử tướng De Lattre de Tassigny - Tư lệnh
Lục quân khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) làm Tổng chỉ huy kiêm Cao ủy Pháp ở Đông
Dương.
Thực hiện kế hoạch De Lattre de Tassigny, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, thực
dân Pháp tổ chức bố trí lại lực lượng ứng chiến và chiếm đóng; liên tiếp mở các cuộc càn
quét nhằm gây cho ta khó khăn về kinh tế, quân sự, khống chế nhân dân, cắt đứt mối liên
hệ giữa nhân dân với cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ trang.
Trước tình hình đó, tháng 1-1951, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên họp hội nghị
và chủ trương: “Lợi dụng sơ hở của địch, đánh từng trận nhỏ tiến dần đến lớn, giữ vững
và khuếch trương đà chiến thắng của bộ đội chủ lực, xây dựng lòng tin tưởng của nhân
dân và gây đà phấn khởi trong lực lượng vũ trang, tích cực đẩy mạnh công tác địch vận,
đặc biệt là ngụy vận” 1.
Tháng 8-1951, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện diễn ra tại khu vực Trò (xã Hương
Vân hiện nay) có đại biểu của 10 xã và các liên chi bộ cơ quan huyện đại diện cho hơn
4.000 đảng viên trong toàn huyện. Đại hội đánh giá tình hình, đề ra phương hướng xây
dựng lực lượng, đưa phong trào kháng chiến lên bước phát triển mới.
Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện, phong trào du kích chiến tranh ở
Hương Văn tiếp tục được duy trì. Tuy nhiên, trước sự gia tăng các hoạt động của bọn Việt
gian, gián điệp phong trào kháng chiến tại Hương Văn gặp những tổn thất lớn, nhiều cơ
sở bị vỡ tại Giáp Ba, Giáp Tư, một số cán bộ bị bắt, bị tra tấn như các đồng chí Lê Quặm,
Trần Đài, Nguyễn Phụng, Lê Thị Sừng, Nguyễn Danh do có sự đầu hàng, phản bội của
một số cá nhân như tên V. - nguyên trinh sát của đại đội độc lập, tên Tr. cán bộ thư ký Ủy
ban xã, tên K. trung đội trưởng dân quân tập trung xã… Trước tình hình đó, Đảng bộ đề
ra nhiệm vụ cần tập trung giáo dục nâng cao bản lĩnh cho cán bộ, đảng viên, đồng thời

. Ngô Kha (chủ biên), Thừa Thiên Huế kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945 - 1954, Sđd, tr.
1

124.
46
chuyển một số cán bộ, đảng viên đang hoạt động công khai rút vào hoạt động bí mật, bố
trí lại cơ sở. Mặt khác, chỉ đạo lực lượng dân quân phối hợp với bộ đội địa phương đẩy
mạnh vũ trang tuyên truyền, ban đêm thường xuyên tổ chức hành quân uy hiếp tinh thần
binh lính địch, tiến hành công tác binh vận đối với gia đình những tên phản bội… Trong
tình hình khó khăn đó đã nổi lên những tấm gương cán bộ, đảng viên trung kiên như các
đồng chí Nguyễn Kiệt, Lê Thị Từng, Nguyễn Hạ, Lê Thô, Lê Tuyến, Lê Thuận, Lê Mực,
Đặng Vện, Nguyễn Tạo, Lê Tuyến, Lê Tâm, Trương Tri, Đặng Xệu, Lê Thị Đấu, Lê Son,
Lê Thị Chi, Trần Viết Rớt, Nguyễn Đình Thiên, Trần Nuôi, Trần Thị Rơi, Phạm Thị Bá,
Đặng Đống, Ngô Tùng, Lê Chất, Cao Chiểu… Đó là những người đã tích cực bám cơ sở
để xây dựng lực lượng quần chúng rộng rãi, tổ chức phát động phong trào.
Để củng cố lại phong trào kháng chiến và lấy lại niềm tin trong nhân dân, Đảng bộ
chủ trương đẩy mạnh các hoạt động đánh địch. Một điều kiện thuận lợi cho xã là lúc này
trên địa bàn xã có một số đơn vị của Trung đoàn 101 đóng quân tại khu vực Văn Xá
Thượng và Văn Xá Trung, chính vì vậy lực lượng dân quân xã đã có sự hỗ trợ rất lớn của
đơn vị chủ lực tỉnh cũng như của huyện trong tổ chức bao vây, tiêu diệt địch. Nhiều trận
đánh có sự phối hợp giữa dân quân với bộ đội chủ lực đã được tổ chức và thu được thắng
lợi như trận đánh vào ban ngày tại cầu Dăm, tiêu diệt một trung đội lính đồn Văn Xá đi
tuần tiễu; bao vây, tiêu diệt lô cốt địch tại cầu cửa Khâu, Bàu Đưng… Lực lượng công an
xã do đồng chí Võ Nghi (tức Anh) phụ trách đã nhiều lần tổ chức phục kích trừng trị bọn
Việt gian, ngụy tề. Các hoạt động đánh địch trên đã củng cố được lòng tin trong nhân dân,
xây dựng lại được cơ sở, hỗ trợ cho nhân dân thu hoạch mùa màng… Với chủ trương bám
dân, bám đất của Đảng bộ, đến cuối năm 1951 phong trào kháng chiến trên địa bàn xã
được mở rộng, các tổ chức đoàn thể hoạt động mạnh, việc đóng góp lương thực, thực
phẩm, thuốc men, áo quần cho kháng chiến tiếp tục được duy trì.
Bước sang năm 1952, thực dân Pháp tăng cường sử dụng thủ đoạn “dùng người Việt
đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, ráo riết bắt lính bổ sung quân số, đóng
thêm lô cốt ở các hành lang quan trọng để theo dõi, bám sát mọi hoạt động của ta.
Tháng 4-1952, Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã
quyết định “chỉnh Đảng, chỉnh quân”, coi đó là nhiệm vụ trung tâm của công tác xây
dựng Đảng, xây dựng quân đội. Mục đích của “chỉnh Đảng, chỉnh quân” là nhằm nâng

47
cao giác ngộ giai cấp và giác ngộ dân tộc cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, quán triệt quan
điểm trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh. Để tiến hành chỉnh Đảng, chỉnh quân,
Huyện ủy Hương Trà đã mở lớp “sơ chỉnh” cho cán bộ, đảng viên chủ chốt các địa
phương, các ngành của huyện. Sau lớp “sơ chỉnh” cấp huyện, Huyện ủy tổ chức các đoàn
công tác về chỉ đạo “sơ chỉnh” ở các xã. Cán bộ, đảng viên xã Hương Thạnh được dự lớp
sơ chỉnh để nâng cao nhận thức, tự kiểm điểm các mặt quan điểm giai cấp, quan điểm
quần chúng và vai trò tiên phong của mình trên các lĩnh vực công tác mà bản thân đảm
nhận, qua đó để gắn bó với Đảng, với nhân dân, với sự nghiệp kháng chiến hơn. Sau đợt
giáo dục và củng cố tổ chức Đảng, ý thức giai cấp của các đảng viên được nâng lên, nội
bộ Đảng đoàn kết, phấn khởi, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ cao hơn.
Vừa tiến hành sơ chỉnh vừa tiến hành đẩy mạnh chiến tranh du kích, tháng 3-1952,
Đại đội 324 của huyện và dân quân Hương Văn phối hợp đánh tiêu hao địch ở Văn Xá
Trung. Tiếp đó Tiểu đoàn 436 do đồng chí Dương Bá Nuôi chỉ huy phối hợp với bộ đội
chủ lực huyện và dân quân xã tổ chức đánh tập kích đoàn xe hơn 20 chiếc của địch có cả
lính Âu Phi trên đường Quốc lộ 1, bắn cháy nhiều xe và tiêu diệt nhiều tên, thu nhiều vũ
khí. Những thắng lợi liên tiếp trên mặt trận quân sự của quân và dân xã làm cho địch
hoang mang, run sợ khi chúng đặt chân đến vùng đất này, mặt khác, củng cố niềm tin đối
với nhân dân vào sự tất thắng của cuộc kháng chiến.
Sau 8 năm chiến đấu và xây dựng, lực lượng kháng chiến của ta đã trưởng thành
nhanh chóng. Trong lúc đó, thực dân Pháp ngày càng lâm vào con đường bế tắc. Để cứu
vãn tình hình, giữa năm 1953, Chính phủ Pháp cử tướng Henri Navarre - Tổng Tham mưu
trưởng Lục quân khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh
Pháp ở Đông Dương với hy vọng làm rạng danh nước Pháp bằng thắng lợi quân sự để kết
thúc cuộc chiến tranh trong danh dự.
Thực hiện kế hoạch Navarre, trên địa bàn huyện Hương Trà, thực dân Pháp ráo riết
bắt lính, xây dựng thêm hàng chục đồn bốt dọc theo Quốc lộ 1, tuyến giáp ranh, liên tiếp
mở các cuộc hành quân càn quét, bình định hòng làm suy yếu lực lượng kháng chiến của
ta. Tại Hương Văn, trước sự gia tăng hoạt động của địch đã có một số cán bộ, đảng viên
giao động, có người đã đầu hàng, phản bội và trở thành những tên tay sai chỉ điểm đắc lực
như tên V., nguyên là cán bộ tình báo, tên S., thôn đội trưởng Văn Xá Trung…

48
Để củng cố lập trường cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, đáp ứng yêu cầu của tình
hình mới, Huyện ủy Hương Trà tiếp tục lãnh đạo thực hiện cuộc vận động chỉnh Đảng,
chỉnh quân. Huyện đội và Đại đội 324 mở một cuộc họp chuyển hướng tư tưởng gồm 23
đại biểu và 31 đội viên. Sau khi họp đơn vị xong đã phân tán về các địa phương khai hội,
phổ biến đến các xã đội, thôn đội và du kích; tuyên truyền trong nhân dân, nhất là các xã
vùng trên như Hương Thạnh, Hương Thọ, Hương Thái, Hương Mai, Hương Vân. Đặc
biệt, tại Hương Văn đã tổ chức công tác binh vận đối với gia đình của V. và S. đang trốn
tại đồn Tứ Hạ, và 2 người này đã chấp nhận làm nội ứng cho ta như cung cấp thông tin
các trận càn của địch, cách bố trí lực lượng tại đồn Tứ Hạ khi ta có kế hoạch tấn công…
Cùng với tập trung cho nhiệm vụ lãnh đạo hoạt động vũ trang, đánh giặc, Huyện ủy
rất coi trọng lãnh đạo tăng gia sản xuất, bồi dưỡng sức dân. Thực hiện chủ trương của Hội
nghị Tỉnh ủy Thừa Thiên họp ngày 11-05-1953: “Phát động quần chúng nhân dân đấu
tranh đòi giảm tô, thực hiện giảm tức”, ngày 20-5-1953, Huyện ủy Hương Trà họp Hội
nghị mở rộng ra Nghị quyết 1:
- Lãnh đạo đấu tranh đòi địa chủ giảm tô, giảm tức cho nông dân.
- Chia lại ruộng đất công bằng, ưu tiên cho nông dân không có ruộng đất hoặc ít
ruộng.
- Tịch thu ruộng của Việt gian, ruộng vắng chủ để chia cho nam nữ nông dân từ 18
tuổi trở lên.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Ủy ban kháng chiến hành chính xã đã kiên quyết tịch
thu và trưng dụng ruộng đất của Việt gian, phản động chia cho nông dân theo nguyên tắc
công bằng cả nam lẫn nữ, chống nạn cho vay nặng lãi… Đồng thời Đảng bộ cũng chủ
trương tăng cường các hoạt động văn hóa, văn nghệ, mít tinh biểu dương lực lượng, sửa
chữa trường lớp… Những việc làm thiết thực mang lại quyền lợi cho nhân dân đã góp
phần bồi dưỡng sức dân, tạo động lực mới để các tầng lớp nhân dân đóng góp sức người,
sức của cao nhất cho giai đoạn tổng phản công.
Công tác xây dựng Đảng bộ được đẩy mạnh, tính đến đầu năm 1953 tổng số đảng
viên của Đảng bộ là 420 đồng chí, trong đó chi bộ Văn Xá có 210 đảng viên. Lúc này
Đảng bộ có sự thay đổi, đồng chí Lê Châu được Huyện ủy điều động sang làm Bí thư

. Lịch sử Đảng bộ Hương Trà 1937 - 1975, Sđd, tr. 104, 106.
1

49
Đảng bộ Hương Mai 2, đồng chí Trần Mạnh Dũng làm Bí thư Đảng bộ. Đến khoảng giữa
năm 1953, đồng chí Trần Mạnh Dũng được điều động lên huyện, đồng chí Trần Mậu An
làm Bí thư Đảng bộ.
Về phía địch, chúng tăng cường lực lượng ở các đồn, liên tiếp tổ chức càn quét. Liên
tiếp các ngày từ 20 đến 30-11-1953, địch ở đồn Văn Xá càn quét nhiều lần vào các làng ở
Hương Toàn. 11 giờ đêm 30-11-1953, chúng chia quân làm 2 cánh đột kích vào giữa thôn
Văn Xá và nơi đóng quân của du kích xã. Do bị bất ngờ, 5 du kích, trong đó có đồng chí
Xước, Thôn đội trưởng và 2 quần chúng bị địch bắt.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị (9-1953), Huyện ủy Hương Trà đã tổ chức
quán triệt và triển khai nhiệm vụ với mục tiêu đẩy mạnh tiêu hao, tiêu diệt, kìm chân địch,
tạo điều kiện cho lực lượng của ta ở chiến trường chính Bắc Bộ phát triển. Đảng bộ
Hương Văn lãnh đạo cán bộ, đảng viên, dân quân, du kích tiếp tục kiên trì bám đất, bám
dân, sẵn sàng tổ chức chống càn, đánh phục kích, tiêu hao sinh lực địch.
Ngày 13-3-1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ chính thức bắt đầu mở màn. Sau
56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, ngày 7-5-1954, quân và dân ta
toàn thắng ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, chiến thắng lịch sử vĩ đại đó đã làm cho
cục diện chiến tranh hoàn toàn thay đổi có lợi cho ta, đẩy thực dân Pháp vào nguy cơ thất
bại hoàn toàn. Ngày 21-7-1954, Hiệp định Gennève về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình trên toàn Đông Dương được ký kết, kết thúc cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ của
nhân dân Việt Nam.
Ngày 1-8-1954, ngày đầu ngừng bắn ở Thừa Thiên Huế, quân và dân trong tỉnh nói
chung, Hương Văn nói riêng đã phấn khởi tham gia cuộc mít tinh chào mừng thắng lợi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trong suốt những năm trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo
của Đảng bộ, cán bộ, đảng viên và nhân dân Hương Văn luôn nêu cao truyền thống yêu
nước, một lòng một dạ thủy chung son sắt với Đảng, với cách mạng, bất chấp những khó
khăn và hiểm nguy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Là một địa bàn có vị trí
chiến lược, là nơi trấn giữ con đường huyết mạch từ Bắc vào Nam nên Hương Văn là nơi
phải chịu sự đánh phá ác liệt của kẻ thù. Thế nhưng với ý chí và quyết tâm chính trị cao,

. Hiện nay là phường Hương Hồ.


2

50
các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân Hương Văn đã không ngại hy sinh, nghiêm
chỉnh chấp hành mọi chủ trương, nhiệm vụ cấp trên giao, tích cực phối hợp với các lực
lượng của tỉnh, của huyện tổ chức đánh địch, đồng thời làm tốt công tác vận chuyển, thu
gom lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác cho các cơ quan, đơn vị ở chiến
khu. Trong kháng chiến, nhân dân Hương Văn đã đóng góp hàng vạn tấn lương thực, thực
phẩm; hơn nghìn lượt người tham gia dân công vận tải để nuôi quân; giữ bí mật tuyến
đường của cơ quan tỉnh, huyện về vùng sâu, vào nội thành Huế phục vụ cho sự chỉ đạo
của tỉnh, thành phố; bảo đảm an toàn tuyệt đối các đoàn vào, ra của các đồng chí lãnh
đạo...
Không chỉ trực tiếp tham gia làm tốt vai trò của một hậu phương đối với chiến khu
của tỉnh, trong những năm kháng chiến đã có hàng trăm con em Hương Văn tham gia lực
lượng vũ trang, bao gồm cảm tử quân, Trung đoàn 101, bộ đội địa phương huyện và lực
lượng dân quân tự vệ. Hương Văn là vùng đất mà lực lượng dân quân du kích từng bước
trưởng thành, đã trực tiếp độc lập tác chiến hay phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương đánh hàng chục trận lớn nhỏ, tiêu hao và tiêu diệt địch với nhiều cách đánh thông
minh và sáng tạo trong chống càn, tập kích, phục kích… Nhiều cán bộ, đảng viên lúc
thuận lợi cũng như khi khó khăn vẫn kiên trì chịu đựng gian khổ, ăn đói, nhịn khát, bám
đất, bám dân, bám địa bàn hoạt động, đấu tranh vì sự tồn vong của quê hương đất nước,
khi không may sa vào tay giặc, vẫn hiên ngang trước họng súng, lưỡi lê của quân thù, giữ
vững khí tiết của người đảng viên cộng sản.
Càng chiến đấu càng trưởng thành, từ một chi bộ ghép chỉ có 7 đảng viên ngày đầu,
trong suốt những năm trường kỳ kháng chiến tổ chức Đảng ở Hương Thạnh không ngừng
lớn mạnh, số lượng đảng viên của toàn Đảng bộ có lúc lên đến trên 400 đồng chí, là một
trong 5 Đảng bộ trực thuộc Huyện ủy có số lượng đảng viên đông nhất, trong đó Chi bộ
Văn Xá có gần 200 đảng viên. Sự lớn mạnh của tổ chức Đảng đã khẳng định sự trưởng
thành của chi bộ, sự tin tưởng của quần chúng nhân dân và ý chí vượt qua khó khăn của
mỗi đảng viên. Những đóng góp đó của các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân Hương
Văn đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của dân tộc, kết thúc cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược.

51
Chương 3
ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN HƯƠNG VĂN
KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ (1954 – 1975)
I. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN HƯƠNG VĂN ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ,
GIỮ GÌN LỰC LƯỢNG (1954-1959)
Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết (21-7-1954)
thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Nhân dân
Việt Nam sẽ tiến hành tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước vào tháng 7-1956. Tuy
nhiên, với âm mưu cơ bản là tiêu diệt phong trào yêu nước của nhân dân ta, chia cắt lâu
dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ
nghĩa xã hội tràn xuống Đông Nam Á, Mỹ đã thay Pháp ở miền Nam, vi phạm nghiêm
trọng Hiệp định Genève.
Được sự hậu thuẫn của Mỹ, ngày 23-10-1955, Ngô Đình Diệm tổ chức cuộc trưng
cầu dân ý dưới lưỡi lê của quân đội với kết quả là 98% số phiếu ủng hộ Ngô Đình Diệm,
Bảo Đại bị phế truất.
Đi đôi với việc xây dựng chính quyền trung ương, Mỹ - Diệm ra sức củng cố chính
quyền cơ sở xã, ấp. Chúng không thực hiện bầu cử chính quyền thôn xã vì sợ chính quyền
cơ sở rơi vào tay cách mạng nên thực hiện chỉ định và bổ nhiệm. Những người được chỉ
định bổ nhiệm xã trưởng, trưởng ấp là những người thuộc phe cánh của chính quyền Ngô
Đình Diệm, những đảng viên Cần lao nhân vị, đồng thời sử dụng các tổ chức quần chúng
do chúng lập ra như Thanh niên cộng hòa, Phụ nữ liên đới, Liên gia tương trợ, Ngũ gia
liên bảo để kìm kẹp dân chúng. Chúng đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, gây thanh
thế cho Ngô Đình Diệm bằng chiêu bài “Ngô chí sỹ” là “cách mạng”, là “quốc gia” nhằm
lừa bịp nhân dân, lôi kéo, tập hợp các phần tử phản động; tuyên truyền trong nhân dân
thuyết “duy linh nhân vị”, “hữu sản hóa”, “đồng tiến xã hội” hòng làm nhụt ý chí đấu
tranh của quần chúng; vạch lại địa giới hành chính để dễ quản lý. Các xã trên địa bàn
huyện Hương Trà được chia lại; 2 xã Hương Vân, Hương Thạnh chúng chia thành 3 xã:

52
Hương Bằng, Hương Phú và Hương Xuân 1. Đứng đầu bộ máy các xã hầu hết là đảng
viên cần lao.
Cuộc đấu tranh của nhân dân Hương Trà nói chung và nhân dân Hương Văn nói
riêng chuyển sang một thời kỳ mới: Từ chỗ đại bộ phận nông thôn đồng bằng là vùng du
kích, miền núi là vùng tự do đã trở thành vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát; từ chỗ
có chính quyền, quân đội nay chỉ còn có lực lượng chính trị; từ đấu tranh vũ trang chuyển
sang đấu tranh chính trị, từ hoạt động công khai (vùng tự do) chuyển vào hoạt động bí
mật. Đó là những thay đổi rất căn bản về thế và lực, cả về hình thức và phương pháp đấu
tranh cách mạng của Đảng bộ, quân và dân Hương Trà.
Đối với địa bàn Hương Văn, do tính chất chiến lược của một xã giáp ranh nối vùng
rừng núi với đồng bằng, có trục giao thông chiến lược đường bộ và đường sắt đi ngang
qua địa bàn, đặc biệt địa bàn này là cầu nối liên lạc giữa hai huyện Hương Trà và Quảng
Điền, thường xuyên bổ trợ cho nhau, có khi Hương Trà phải dựa vào địa bàn 3 xã Quảng
Ninh, Quảng Hòa, Quảng Đại 2 của Quảng Điền làm địa bàn đứng chân và ngược lại; đây
cũng còn là nơi liên lạc, chỉ đạo cách Bắc của thành phố Huế (nhất là trong giai đoạn
đồng chí Nguyễn Hữu Hường là Bí thư Hương Trà, đồng thời là Thành ủy viên phụ trách
cánh Bắc Huế), vì vậy, tại đây có nhiều cơ sở, nơi trú quân của xã, của huyện, của thành
phố và của tỉnh; là nơi gặp gỡ, trao đổi, chỉ đạo phong trào của các đồng chí lãnh đạo
huyện, tỉnh. Đây cũng là địa bàn đứng chân cho huyện để đạo các xã vùng dưới Quốc lộ 1
(Hương Toàn, Hương Vinh, Hương Phong, Hương Hải - Hải Dương ngày nay) của huyện.
Vì vậy, địch xác định đây là địa bàn quan trọng nên chúng đã tập trung bố phòng ở đây
một lực lượng mạnh nhằm khống chế toàn bộ khu vực, chốt đóng tại nhiều điểm quanh
khu vực này với lực lượng từ cấp đại đội đến cấp trung đoàn.
Trước âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta của đế quốc Mỹ, Hội nghị lần thứ 6 (khóa
II) Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954 đã chỉ rõ:

. Hương Bằng gồm 4 thôn Lại Bằng, Sơn Công, Long Khê, Vạn Sơn Bồ; Hương Phú gồm 5 thôn Lai
1

Thành, Phú Ốc, Văn Xá Trung, Văn Xá Thượng, Văn Xá Làng; Hương Xuân gồm 5 thôn Thanh Lương,
Xuân Đài, Tiên Lộc, Liễu Cốc Thượng, Liễu Nam. Mặc dù địch chia như vậy nhưng đối với ta xã Hương
Thạnh vẫn được giữ nguyên địa bàn như trong chống Pháp gồm các thôn: Thanh Lương, Xuân Đài, Tiên
Lộc, Liễu Cốc Thượng, Liễu Nam, Văn Xá Trung, Văn Xá Thượng, Văn Xá Làng.
. Ngày nay là 3 xã Quảng Thọ, Quảng An, Quảng Thành.
2

53
“Phương châm, sách lược đấu tranh của ta trong giai đoạn mới là chĩa mũi nhọn đấu tranh
vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp, dựa trên cơ sở những thắng lợi đã đạt được mà phấn
đấu để thực hiện hòa bình ở Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ kéo dài và mở
rộng chiến tranh ở Đông Dương, củng cố hòa bình và thực hiện thống nhất, hoàn thành
độc lập và thực hiện dân chủ trong toàn quốc. Khẩu hiệu của ta là: Hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ” 1.
Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Đồng bào miền Nam kháng
chiến trước hết, giác ngộ rất cao. Tôi tin chắc rằng đồng bào sẽ đặt lợi ích cả nước lên trên
lợi ích địa phương, lợi ích lâu dài lên trên lợi ích trước mắt, mà ra sức cùng đồng bào toàn
quốc phấn đấu để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ
trong toàn quốc”.
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy Thừa Thiên khẩn trương tổ chức hội
nghị phổ biến tinh thần Hội nghị Trung ương lần thứ 6 và lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch mà
nội dung cơ bản là chuyển cuộc đấu tranh của miền Nam từ vũ trang trong chiến tranh
sang đấu tranh chính trị trong hòa bình. Tỉnh ủy chủ trương phát động phong trào mừng
hòa bình, mạn đàm về Hiệp định và chuẩn bị đưa lực lượng vũ trang đi tập kết.
Chấp hành nghị quyết của Tỉnh ủy, tháng 7-1954, Huyện ủy Hương Trà đã mở hội
nghị tại thôn Lại Bằng (Hương Vân) để đánh giá tình hình trong huyện và đề ra một số
nhiệm vụ khẩn trương trước mắt: Tổ chức học tập Hiệp định Genève nhằm tạo không khí
phấn khởi trong cán bộ và nhân dân; ổn định tư tưởng, sắp xếp lực lượng tập kết; lãnh đạo
nhân dân xóa bỏ vết tích chiến tranh, khôi phục cơ sở văn hóa, xã hội, bảo đảm quyền lợi
dân sinh; vận động binh lính địch trở về với nhân dân; chuyển chính quyền thôn, ấp thành
chính quyền hai mặt.
Để tổ chức học tập và tuyên truyền Hiệp định Genève, Huyện ủy đã chỉ đạo các xã
ủy chuẩn bị cổng chào, băng cờ, khẩu hiệu, truyền đơn… 8 giờ ngày 21-7-1954, các địa
phương đã nổi trống tổ chức mít tinh, biểu tình hoan hô hòa bình, hoan hô Hiệp định.
Nhân dân Hương Văn đã tích cực tham gia các buổi mít tinh chào mừng hòa bình ở xã,
tham gia học tập các chủ trương của Đảng, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua đó

1
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Các đại hội và hội nghị Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998,
tr. 70.
54
xác định trách nhiệm của mỗi hội viên, đoàn viên cứu quốc trong giai đoạn cách mạng
mới, kiên trì đấu tranh giữ vững thành quả cách mạng. Có thôn đã tổ chức liên hoan thân
mật “ăn cơm đoàn kết”, các hội Mẹ chiến sỹ nấu chè, nấu cháo úy lạo cán bộ, dân quân,
các đội văn nghệ tổ chức biểu diễn hát, múa để mừng hòa bình.
Trong những ngày đầu Hiệp định Genève có hiệu lực, cán bộ, đảng viên đã giải
thích cho nhân dân rõ những nội dung chính của Hiệp định và đề nghị nhân dân nêu cao ý
thức chấp hành nghiêm túc Hiệp định, kiên trì giải thích, thuyết phục nhân dân, tránh
khiêu khích, với tinh thần đoàn kết ta nhất định thắng.
Để xóa những vết tích chiến tranh, khôi phục cơ sở văn hóa, xã hội, Đảng bộ đã vận
động, tổ chức nhân dân phá các rào dậu ở các làng chiến đấu, xóa ụ tác chiến, lấp hầm
hào (trừ hầm bí mật), lập lại các chợ, bến đò, khôi phục lại các trường học, vận động
phong trào bình dân học vụ rộng rãi… Qua các phong trào đã tạo thế hợp pháp tập hợp
quần chúng, tuyên truyền Hiệp định và hướng dẫn phương pháp đấu tranh chính trị.
Cũng như tình hình chung của toàn huyện, công tác chuẩn bị cho chuyển quân tập
kết tại Hương Văn được tiến hành rất khẩn trương. Chi bộ đã sắp xếp đảng viên, cán bộ
và du kích làm 3 đối tượng: đi tập kết, bám trụ và chuyển vùng. Một nhiệm vụ nặng nề
cho Hương Văn là phải chuyển một số lượng lớn vũ khí, lượng thực ra vùng tập kết, xã đã
huy động hằng trăm người làm nhiệm vụ này với tinh thần hết sức khẩn trương.
Thực hiện Hiệp định, Huyện ủy chủ trương rút lực lượng du kích của các xã lên, bổ
sung cho Huyện đội, số còn lại thành lập đại đội mới, phân loại chuẩn bị tập kết. Chấp
hành ý kiến chỉ đạo của Huyện ủy, lãnh đạo và dân quân của Hương Văn đã tập kết lực
lượng thực thi Hiệp định. Đến ngày 25-8-1954, sau khi hoàn thành công tác chuyển quân
tập kết, Đảng bộ Hương Trà nói chung và Hương Văn nói riêng lãnh đạo nhân dân đấu
tranh chính trị trong tình thế không có lực lượng vũ trang và chính quyền cách mạng hỗ
trợ.
Từ đấu tranh vũ trang chuyển sang đấu tranh chính trị, từ Đảng hoạt động công khai
sang hoạt động bí mật, để bảo đảm vai trò lãnh đạo, vào tháng 7-1954, Huyện ủy đã kiện
1
toàn lại Ban Chấp hành gồm 5 ủy viên do Lê Phước Thưởng làm Bí thư Huyện ủy.
Huyện ủy cũng đã chỉ đạo tăng phái một số cán bộ cơ quan huyện về các khu A (Hương

. Sau đó đầu hàng, phản bội.


1

55
Mai, Hương Thái, Hương Bình, Hương Thọ), khu B (Hương Vân, Hương Thạnh), khu C
(Hương Toàn, Hương Vĩnh, Hương Phong, Hương Hải) trên cơ sở cán bộ, đảng viên am
hiểu tình hình và phát huy được sở trường ở vùng nào thì về vùng đó. Một số cán bộ chủ
chốt các xã được chọn ở lại không tập kết, Huyện ủy chỉ định làm hạt nhân thành lập các
Xã ủy và chi bộ nhỏ, mỗi Xã ủy không quá 7 đồng chí, mỗi chi bộ nhỏ từ 3 đến 7 đảng
viên, cử 1 đồng chí làm bí thư, nếu cần thêm phó bí thư. Do hoạt động trong vùng đối
phương kiểm soát, nên việc tổ chức Xã ủy, chi bộ nhỏ phải bảo đảm tinh gọn, trung thành
và bí mật tuyệt đối.
Đối với Hương Văn (Hương Thạnh), các đồng chí được quyết định phân công ở lại
1
để thành lập Xã ủy là Trần Mậu An - Bí thư, Phan Cảm - Phó Bí thư, Nguyễn Thúc
Trọng, Ngô Đình Tùng, Đặng Đống, Dương Đề, Lê Minh Sơn (vẫn là cán bộ huyện
nhưng được điều động về hỗ trợ Hương Thạnh). Xã ủy lúc này hoạt động theo hình thức
nửa bí mật, nửa công khai, ban ngày vào núi, ban đêm ra với dân để xây dựng cơ sở cách
mạng.
Sau khi tuyên bố giải thể các hội đoàn quần chúng, thực hiện chủ trương của Huyện
ủy, Xã ủy yêu cầu mỗi đảng viên và các xã ủy viên, chi ủy viên khẩn trương xây dựng lại
các tổ trung kiên, mỗi tổ từ 3-5 người theo nghề nghiệp, theo giới tính, tổ nào biết tổ ấy, ai
xây dựng thì sử dụng, các tổ này hoạt động theo dạng biến tướng. Ngoài ra, để chuẩn bị
cho tình hình đấu tranh với địch trong quá trình thi hành Hiệp định, ta chủ trương chuyển
chính quyền thôn, ấp thành chính quyền hai mặt, nghĩa là xét hình thức bên ngoài là chính
quyền của địch nhưng bên trong là chính quyền của dân, lựa chọn một số người dân có
tinh thần yêu nước đứng ra đảm nhận các vị trí trưởng thôn ấp, không bố trí cán bộ, đảng
viên đã hoạt động công khai ra làm công việc này.
Song song với công việc trên, Xã ủy đã chỉ đạo các chi bộ nhỏ thực hiện 3 nhiệm
vụ: Đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, tránh bộc lộ lực lượng, xem đây là phong
trào đấu tranh của quần chúng đòi hỏi quyền lợi chứ không do ai lãnh đạo; tránh bị khiêu
khích để giữ thế hợp pháp, tranh thủ quần chúng và phân hóa địch, thủ tiêu toàn bộ tài

. Phan Cảm sau này được bổ sung Huyện ủy viên phụ trách Hương Thạnh nhưng đến năm 1957 thì bị
1

địch bắt và đầu hàng, phản bội.


56
liệu không để lọt vào tay địch; củng cố, duy trì phong trào bình dân học vụ và phong trào
văn nghệ quần chúng.
Để lãnh đạo nhân dân mở đợt vận động đấu tranh chính trị và binh vận trong toàn
huyện, Huyện ủy thực hiện chủ trương mỗi ngày mỗi xã tổ chức hai đoàn, một đoàn đấu
tranh địch vận, một đoàn đấu tranh đòi trao trả tù chính trị đối với địch. Lúc này bộ máy
tuyên truyền của địch tập trung xuyên tạc, vu khống ta là “chia cắt đất nước”, giới tuyến
quân sự tạm thời thì chúng cho là “biên giới lãnh thổ”…, vì vậy, binh lính, công chức của
địch, nhân dân trong vùng địch kiểm soát không hiểu gì về Hiệp định hoặc có hiểu thì
hiểu theo lối xuyên tạc của chúng. Nhiệm vụ các đoàn đấu tranh địch vận là đòi lại chồng,
con với lý lẽ Hiệp định đã ký kết, hòa bình rồi, trả súng lại để về làm ăn. Các đoàn đấu
tranh đòi trả tù chính trị với khẩu hiệu “Hiệp định đình chiến có quy định trao trả tù binh
và chính trị phạm sao các ông không trao trả?”, “Chồng con tôi ở đâu?”.
Tháng 6-1955, Huyện ủy Hương Trà họp hội nghị tại nhà bà Nguyễn Thị Vận (tức
Sâm) tại xóm bún An Ninh Thượng (Hương Bình), sau đó chuyển địa điểm ra cây Sanh
tại đồng Trúc Lâm. Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt là tập trung phát động phong
trào đấu tranh chính trị rộng lớn trong toàn huyện.
Ngày 22-8-1955, nhân dân Hương Văn cùng với nhân dân toàn huyện, toàn tỉnh tiến
hành đình công, bãi thị và kéo đến Phu Văn Lâu tham gia cuộc mít tinh đòi hiệp thương
tổng tuyển cử với các khẩu hiệu: “Phải hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà
theo Hiệp định Genève”, “Phản đối chính sách đàn áp, khủng bố của chính quyền Ngô
Đình Diệm”. Chính quyền Sài Gòn đã đàn áp dã man, dùng lựu đạn cay, đánh đập, bắn
vào đoàn biểu tình, gây thương tích cho nhiều người dân.
Về phía địch, sau khi về cơ bản ổn định bộ máy kìm kẹp từ cơ sở đến đầu não, chính
quyền Sài Gòn đã tiến hành ráo riết các chiến dịch “tố cộng” đánh vào Đảng và phong
trào cách mạng miền Nam Việt Nam nhằm đánh bật lực lượng và ảnh hưởng của Đảng ra
khỏi nhân dân, thực hiện âm mưu “diệt cộng” của chúng.
Tháng 5-1955, Ngô Đình Diệm thực thi “quốc sách tố cộng”. Ở Thừa Thiên Huế,
tháng 5-1955, Mỹ - Diệm tiến hành các đợt “tố cộng”, “diệt cộng” hết sức khốc liệt. Tại
các lớp học “tố cộng” (địch gọi là nơi tẩy não), chúng ráo riết tuyên truyền cho cái gọi là
“chính nghĩa quốc gia”, xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản, nói xấu Đảng Cộng sản, xuyên tạc

57
các chủ trương, chính sách của cách mạng, bắt cán bộ, đảng viên phải khai báo, ly khai
Đảng… Chúng chia nhân dân ra làm ba loại: Loại A thân cộng sản, có chồng con đi tập
kết; loại B lưng chừng, có cảm tình với loại A; loại C tốt, thân với chính quyền Ngô Đình
Diệm. Phương châm của địch là dựa vào loại C, đánh vào loại A, làm cho loại B khiếp sợ
và khuất phục.
Ở Hương Trà chúng tổ chức lễ khai mạc rất rầm rộ tại đình Trúc Lâm, xã Hương
Bình, đích thân Quận trưởng Trần Quốc Thái đọc diễn văn khai mạc, Quận phó Lê Sâm
nói lời “tri ân Ngô chí sỹ”, giới thiệu đại diện trưởng ban “tố cộng” một số xã lên đọc
tuyên thệ. Việc học tập được tổ chức học theo từng ấp, riêng một số chúng biết là đảng
viên, các hộ gia đình có con em tập kết chúng bắt học tập trung tại xã có người của quận
trực tiếp lên lớp.
Chúng ép buộc người vợ có chồng tập kết phải li khai chồng, lấy chồng là người
“quốc gia”, đặt giải thưởng cho tay chân lấy được vợ và con cán bộ tập kết; buộc các gia
đình cách mạng phải vào ở xung quanh đồn bốt và phải ra trình diện, nhận giấy “cán bộ
hồi chánh”. Chúng lập ra tổ chức “ngũ gia liên bảo”, gồm 5 đến 7 gia đình liên đới chịu
trách nhiệm và kiểm soát lẫn nhau, không cho “cộng sản” đến ăn ở trong các gia đình này.
Những người thuộc các gia đình loại A và loại B bị bắt dồn về các trại tập trung để
học tập tố cộng trong thời gian từ 1 đến 6 tháng, có nơi chúng làm đi làm lại nhiều lần
không kể thời gian. Trong học tập, ngoài việc chúng bắt mọi người phải tự khai nhận về
hoạt động của bản thân còn phải tố giác các đồng chí, đồng bào và người thân của mình.
Những người bị tố giác địch bắt phải tự nhận là “Việt cộng” hoặc cài lại để hoạt động phá
hoại. Những người không “nhận tội” thì sẽ bị tra tấn ngay tại chỗ, tại lớp học hay trong
các phòng thẩm vấn và có thể bị thủ tiêu.
Để uy hiếp tinh thần những người bị bắt đến học tập và gây hoang mang sợ hãi trong
quần chúng, địch đưa một số tên đầu hàng phản bội cách mạng ra tố cáo Đảng, xuyên tạc
chủ trương, đường lối cách mạng. Chúng dùng những tên này tham gia tra tấn, thẩm vấn
những người bị bắt.
Nhằm gây chia rẽ nội bộ, tạo sự hiềm khích nghi ngờ trong các tổ chức cách mạng,
địch cho đặt những thùng thư “trưng cầu dân ý” ngay trong lớp học “tố cộng” và cho tay
chân bí mật bỏ thư tố giác một vài người có mặt ở đó rồi mang họ ra tra tấn công khai,

58
không từ một đối tượng nào. Chúng vu cáo bất cứ ai mà chúng cho là những “phần tử
nguy hiểm”. Cách tra tấn người của công an, mật vụ và ngụy tàn ác, dã man hơn cả thời
trung cổ.
Đối với Hương Văn (Hương Thạnh), chúng xác định là một xã có truyền thống cách
mạng, người dân rất gắn bó với Đảng, lại là xã giáp rừng núi và gần quận lỵ nên chúng
chọn nơi đây làm một trong những trọng điểm của chiến dịch “tố cộng diệt cộng”. Chúng
thành lập ban “tố cộng” của xã gồm những tên có nợ máu, phản bội, hận thù giai cấp và
thường xuyên tìm cách để uy hiếp, lừa bịp nhân dân. Mở đầu của chiến dịch “tố cộng”
chúng tiến hành phát giấy triệu tập những người đã từng tham gia kháng chiến, nếu không
đi chúng cho lính về bắt và bằng thủ đoạn mị dân chúng yêu cầu người từng tham gia
kháng chiến rằng: “Bây giờ hòa bình rồi các anh, chị đều là người của quốc gia, phải
trung thành với quốc gia. Ai trước đây đã từng tham gia làm gì với Việt Minh thì thành
thật khai báo, sau đó sẽ được về nhà làm ăn. Hiệp định Genève cũng đã quy định không
được trả thù những người đã từng làm bên này hoặc bên kia, chúng tôi hỏi để nắm vậy
thôi, nếu ai không trả lời bắt buộc chúng tôi phải giữ lại”. Với luận điệu đó, ban đầu cũng
đã có người khai thật với chúng đã từng tham gia phá hoại, có đi dân công, canh gác…
Địch cho động viên những người này và cho về ngay. Tiếp theo, địch thực hiện âm mưu
truy tận gốc, chúng cho mời những người đã từng khai có tham gia kháng chiến và yêu
cầu phải nói rõ ai trong xã đã từng phân công công việc kháng chiến cho họ, nếu nói thì
cho về, nếu không thì giữ lại. Chính sách này của địch cũng đã phát huy một số tác dụng,
một số người cầu an đã khai báo với địch về cán bộ, cơ sở của ta, gây mất lòng trong nhân
dân, thậm chí bà con thân thuộc cũng không tin nhau. Tuy nhiên, toàn “xã Hương Văn
(Hương Thạnh) chỉ có 4 người khai nhẹ” 1.
Để thực hiện chính sách mị dân, chính quyền Sài Gòn cho đẩy nhanh việc thực hiện
cái gọi là “tái thiết hương thôn”. Ở Hương Văn, trong số các công trình gọi là “tái thiết”
đó, chủ yếu là xây dựng trụ sở ngụy quyền, đình chùa, miếu mạo, đường giao thông lên
miền núi để vừa thực hiện các mục đích quân sự, vừa phục vụ việc khai phá. Chúng bắt
nông dân bỏ công việc đồng áng, làm ăn, để góp công lao động, ai chậm trễ bị chúng đánh
đập, phạt giam, phạt tiền.

. Báo cáo số 18-TT, ngày 8-4-1956 của Tỉnh ủy về “tình hình Thừa Thiên”.
1

59
Song song với việc bắt dân tham gia học “tố cộng”, địch còn bắt nam nữ thanh niên,
nông dân, đặc biệt là những gia đình có người liên quan với kháng chiến phải làm nhiệm
canh gác không cho “Việt cộng” thâm nhâm nhập vào thôn, làng. Một loạt các thôn vùng
giáp ranh Hương Trà như Lại Bằng, Văn Xá Thượng, Liễu Nam, An Đô, La Chữ bắt đầu
từ 5, 6 giờ chiều đến 12 giờ đêm chúng bắt nhân dân phải lên vùng chân núi để canh gác
vừa để uy hiếp cán bộ, vừa đánh mạnh vào tâm lý của nhân dân.
Với chiến dịch “tố cộng” diễn ra một cách quyết liệt, thâm độc và dã man của địch,
phong trào cách mạng ở Hương Trà nói chung và Hương Văn nói riêng gặp vô vàn khó
khăn và chịu những tổn thất nặng nề, nhiều đảng viên bị bắt, bị tù đày, nhiều đồng chí hy
sinh oanh liệt nhưng cũng có số tên đầu hàng, phản bội. Toàn xã có hàng trăm cán bộ,
đảng viên và người dân có người thân đi tập kết bị bắt bớ, đánh đập, trong đó có nhiều
người bị tù đày tại các nhà tù Thừa Phủ, Côn Đảo. Hầu như toàn bộ xã ủy và cán bộ cốt
cán khác ở lại sau Hiệp định của Hương Văn như Nguyễn Đăng Đoàn, Hồ Trà, Lê Văn
Triển, Trần Hưng Kỳ… phải trốn vào rừng núi để bảo toàn lực lượng; số còn lại rất ít như
Nguyễn Hạ, Lê Đãng, Lê Mộc, Lê Văn Tuấn… do không nằm trong bộ máy chính quyền
được bố trí ở lại nhưng hầu như phải tạm dừng hoạt động; đường dây liên lạc duy nhất
của xã để nắm tình hình là thông qua đồng chí Trần Xuân Đằng (tức Hiệp).
Từ đầu năm 1956 trở đi, phong trào cách mạng ở Hương Trà cũng như toàn tỉnh bị
lắng xuống 1. Ở Hương Văn, lúc này lực lượng của ta không thể bám trụ và móc nối lại
được với cơ sở, một số đảng viên cốt cán bị bắt như Trần Xuân Dũng, Ngô Đình Tùng, bị
thương như Trần Mậu An (Bí thư), số còn lại phải chuyển địa bàn hoạt động. Sau khi
đồng chí Trần Mậu An phải ra Bắc điều trị, tháng 2-1957 trên cơ sở kiện toàn lại Huyện
ủy, đã bổ sung Phan Cảm vào Huyện ủy viên và giữ chức vụ Bí thư xã Hương Thạnh, số
cán bộ cốt cán của xã lúc này chỉ còn các đồng chí Lê Minh Sơn, Nguyễn Thúc Trọng,
Đặng Đống, Dương Đề và đồng chí Võ Nghi (vừa là cán bộ xã, vừa làm công tác đường
dây của thành phố Huế). Tuy nhiên, đến giữa năm 1957 Bí thư xã là Phan Cảm bị địch
phục kích, bắn bị thương và bắt giam sau đó thì đầu hàng, khai báo. Tình hình đó buộc
Huyện ủy phải cho các đồng chí Lê Minh Sơn, Nguyễn Thúc Trọng, Đặng Đống, Dương

. Ngô Kha (chủ biên), Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Trà (1937 - 1975), Sđd, tr. 129.
1

60
Đề ra miền Bắc, lúc này địa bàn Hương Thạnh gần như không còn cán bộ trực tiếp đứng
chân chỉ đạo, tình hình này kéo dài cho đến đầu năm 1959.
Mặc dầu cơ sở đảng bị tổn thất nặng nề, đảng viên phải bật ra khỏi xã, phong trào
đấu tranh của nhân dân không nhận được sự lãnh đạo trực tiếp từ tổ chức chức Đảng,
nhưng lòng tin vào Đảng vẫn vẹn nguyên trong lòng người dân Hương Văn. Nhiều cơ sở
cách mạng trước đây vẫn bất chấp nguy hiểm, bí mật nuôi dưỡng, bảo vệ các đồng như ở
Văn Xá Thượng, Văn Xá Trung… Đó là những tiền đề, là điều kiện để Hương Văn khôi
phục lại cơ sở, gây dựng lại phong trào kháng chiến trong giai đoạn sau này.
Trước tình hình phong trào kháng chiến gặp nhiều khó khăn, tháng 11-1957, Tỉnh ủy
đã họp và quyết định xây dựng miền núi Thừa Thiên thành căn cứ địa cách mạng, sử dụng
và phát huy vai trò của miền núi đối với phong trào cách mạng toàn tỉnh. Thực hiện nghị
quyết của tỉnh, số huyện ủy viên và cán bộ còn lại của Hương Trà đã lên miền núi để xây
dựng căn cứ địa cách mạng, tạo điều kiện khôi phục phong trào kháng chiến ở đồng bằng.
Ngày 13-1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) họp Hội nghị lần thứ
15 đã đề ra nghị quyết lịch sử về đường lối cách mạng Việt Nam. Nghị quyết nêu rõ: Con
đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con
đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là
chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong
kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân.
Đầu tháng 7-1959, tại làng Cà Chê, xã Hương Sơn (miền núi Thừa Thiên) Tỉnh ủy
Thừa Thiên triệu tập hội nghị để tiếp thu Nghị quyết 15. Hội nghị đã xác định nhiệm vụ
chính trị tư tưởng, tổ chức của tỉnh trong tình hình mới:
- Nhanh chóng tổ chức quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng đến cán bộ,
đảng viên, cơ sở cốt cán, quần chúng cách mạng, làm cho mọi người hiểu rõ: Đảng sẽ
lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh cách mạng bằng bạo lực quần chúng kết hợp với
lực lượng vũ trang, khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
- Phát động đợt “thức tỉnh quần chúng đồng bằng”, dựng dậy từng người, nhen lên
từng nhóm, khôi phục từng xóm thôn. Tiếp tục lãnh đạo quần chúng đấu tranh cho quyền

61
lợi dân sinh, dân chủ, nâng dần lên giác ngộ dân tộc, giai cấp. Qua đấu tranh để xây dựng
thực lực cách mạng, khôi phục sự lãnh đạo của Đảng trong quần chúng.
Ngày 29-11-1959, Huyện ủy Hương Trà mở Hội nghị tại Cây Thị (núi Long Hồ,
Hương Hồ). Hội nghị đã đánh giá tình hình, nhất là tình hình đảng viên, cán bộ cơ sở và
đề ra một số nhiệm vụ cụ thể đối với Hương Trà theo tinh thần Nghị quyết 15 và sự chỉ
đạo của Tỉnh ủy:
- Mở một đợt tuyên truyền, vận động quần chúng kết hợp cả hình thức bí mật và
công khai theo lối mít tinh, tuyên truyền xung phong.
- Đột nhập một số thôn, ấp để xóa các hình thức kìm kẹp quần chúng của địch.
- Rà soát lại số đảng viên, cơ sở quần chúng để móc nối, xây dựng lại cơ sở đi đến
giao nhiệm vụ.
- Cảnh cáo, giáo dục một số tay sai của Mỹ - Diệm trực tiếp kìm kẹp quần chúng.
Sau hội nghị, một số huyện ủy viên và cán bộ cốt cán được phân công về các xã tìm
cách móc nối lại cơ sở. Địa bàn Hương Thạnh, Hương Thái do các đồng chí Nguyễn Văn
1
Châu (Chuyên, Phụ), Nguyễn Tấn Vĩnh (Tròn), Trần Xuân Đằng và Lê Kim Chèo phụ
trách.
Để đẩy mạnh đợt “thức tỉnh quần chúng”, từ 30-12-1959 đến 6-1-1960 cờ đỏ sao
vàng, cờ búa liềm, truyền đơn, khẩu hiệu lần lượt xuất hiện từ cầu An Lỗ vào đến An Hòa,
từ An Hòa đến cầu Trường Tiền... Ở Hương Văn truyền đơn được rải ở một số thôn Văn
Xá Thượng, Văn Xá Trung… Cùng với việc treo cờ, rải truyền đơn, khẩu hiệu, Huyện ủy
cũng đã chỉ đạo cán bộ phụ trách các xã vận động một số cơ sở tìm cách tuyên truyền
trong nhân dân đình công, bãi chợ vào ngày 3-1-1960 để phản đối chính quyền Ngô Đình
Diệm. Kết quả, lượng người vào đi chợ giảm rõ rệt, có một số ít người đi chợ Văn Xá,
chợ Kệ nghe tin cách mạng lệnh bãi thị đều lần lượt ra về.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết 15, phong trào cách mạng ở Hương Trà bước đầu
được khôi phục. Tại Hương Văn ta vào được Văn Xá Trung, Văn Xá Thượng, xây dựng
được 3 cơ sở cách mạng và một số quần chúng cảm tình 2. Đặc biệt đồng chí Trần Xuân
Đằng được Huyện ủy phân công trực tiếp phụ trách Hương Văn (Hương Thạnh) (xem như
. Lê Kim Chèo lúc này là Quyền Phó Bí thư Huyện ủy, đến ngày 7-5-1962 thì bị địch bắt và đầu hàng,
1

phản bội.
. Theo tư liệu viết tay của đồng chí Nguyễn Xuân Ngọc.
2

62
một Bí thư) bước đầu đã móc nối, liên lạc được với một số thanh niên như Hồ Văn Tứ,
Phạm Cặn, Trương Lụa, Phạm Hoa (tức Ngoãn), Trần Hưng Lễ, Phạm Ngọc Lưu, Trần
Xuân Ngãi, Dương Đình Nam, Trịnh Kế 1… đây chính là những hạt giống quan trọng cho
phong trào cách mạng tại Hương Văn sau này.
II. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN HƯƠNG VĂN TIẾP TỤC BẢO VỆ VÀ
PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO CÁCH MẠNG, CÙNG TOÀN HUYỆN THỰC
HIỆN THẮNG LỢI CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN
(1960-1968)
Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.
Mặt trận đã ra Tuyên ngôn và Chương trình hành động 10 điểm, kêu gọi: “Tất cả hãy
đứng lên, tất cả hãy đoàn kết lại! Hãy xiết chặt hàng ngũ để chiến đấu dưới ngọn cờ của
Mặt trận Dân tộc giải phóng, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm”.
Hưởng ứng lời kêu gọi và 10 điểm trong Chương trình hành động của Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam, nhân dân Hương Văn cùng với toàn huyện không phân biệt già,
trẻ, trai, gái, tôn giáo, đảng phái, không phân biệt dân tộc, không phân biệt chính kiến, xu
hướng chính trị, tất cả xiết chặt hàng ngũ, chiến đấu dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam, kiên quyết đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và Ngô Đình
Diệm, giành độc lập dân tộc, tự do, dân chủ, cải thiện đời sống, thực hiện hòa bình, trung
lập, tiến tới hòa bình, thống nhất nước nhà.
Đầu năm 1961, Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam với kế
hoạch Xtaley - Taylor được chúng triển khai làm 3 bước, xương sống của nó chính là dồn
dân lập ấp chiến lược, coi đó là quốc sách.
Ở Hương Trà, nhằm bình định nông thôn đồng bằng, dập tắt phong trào kháng chiến,
tách nhân dân ra khỏi cách mạng, triệt hạ nguồn tiếp tế và làm mất chỗ ẩn náu của cán bộ
và du kích, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tiến hành ráo riết rào làng, dồn dân để lập ra
các ấp chiến lược trên khắp các xã trong toàn huyện. Chúng thành lập “Ủy ban bình định
ấp chiến lược” từ quận đến xã nhằm tập trung cho nhiệm vụ quốc sách này. Các ấp chiến
lược có tính chất liên hoàn và rất kiên cố với hình thức “3 núi 2 sông” (3 lũy tre cao và 2
hào sâu) nối từ phía Nam sông Bồ (Lại Bằng, Hương Vân) đến phía Bắc sông Hương

. Theo tư liệu viết tay của đồng chí Lê Minh Sơn.


1

63
(Long Hồ Thượng, Hương Hồ). Trong mỗi ấp chúng chia ra làm nhiều liên gia, mỗi liên
gia từ 10 đến 20 gia đình; mỗi nhà bên ngoài có ký hiệu phân loại quần chúng, nhìn vào
ký hiệu thì biết gia đình này là loại liên hệ với cộng sản, trung thành với “quốc gia” hay
lừng chừng. Ở cửa ngõ có khẩu hiệu “3 không”: không liên hệ, không chứa chấp, không
tiếp tế cho “Việt cộng”; mỗi người dân trong ấp đều phải theo một tổ chức đoàn thể. Để
đẩy lùi những hoạt động của cán bộ, chúng cho dân chúng ra vào ở các cổng chính quy
định trong thôn. Mỗi ấp có một tiểu đội lính dân vệ, nhiều toán thanh niên chiến đấu được
trang bị vũ khí điện đài, hàng ngày canh gác, kiểm soát. Thỉnh thoảng chúng cho nổ một
vài phát súng, hô hào có “Việt cộng” về, bắt nhân dân tập dợt, đánh mõ, mang đuốc, tầm
vông, mỏ xảy... để “bắt sống Việt cộng”. Tại Hương Văn, ấp chiến lược được lập ở tất cả
các thôn. Sống trong ấp bị bao bọc bởi chông mìn, tháp canh và sự kìm kẹp chặt chẽ, nhân
dân Hương Văn phải trải qua những ngày tháng như trong ngục tù.
Gắn với đó, chúng tăng cường đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng bán vũ trang, mỗi
thôn có 1 tiểu đội thanh niên cộng hòa, toàn xã có 4 trung đội dân vệ. Chúng bắt toàn bộ
nam, nữ trong ấp tuổi từ 18 đến 45 phải tham gia huấn luyện quân sự, đánh chông mìn,
cạm bẫy, gài lựu đạn và luân phiên tuần tra canh gác. Ngoài ra, chính quyền Sài Gòn còn
tiến hành “đoàn ngũ hóa” quần chúng, “quân sự hóa” thanh niên để tách quần chúng khỏi
ảnh hưởng của cách mạng với nhiều hình thức tổ chức “thanh niên xung kích”, “thanh
niên bảo vệ hương thôn”. Tất cả biện pháp trên đây của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đều
nhằm tiến tới xóa bỏ cách mạng, tiêu diệt những người yêu nước trên mảnh đất Hương
Văn.
Để chống lại chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, trên cơ sở thế và lực mới của cách
mạng miền Nam do phong trào đồng khởi tạo ra, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 1-1961 đã
ra nghị quyết về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam, chủ trương chuyển từ
khởi nghĩa từng phần phát triển lên thành chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền.
Tại Thừa Thiên Huế, từ ngày 21 đến ngày 26-4-1961, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
lần thứ IV đã họp tại làng Ta Pát (A Lưới) để quán triệt đường lối cách mạng miền Nam
do Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) và Nghị quyết
của Liên khu ủy 5 (2-1961) vạch ra.

64
Triển khai nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh, Huyện ủy Hương Trà đã họp
hội nghị nhằm củng cố lại tổ chức, sắp xếp lại lực lượng. Để kết hợp chặt chẽ đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang, Huyện ủy chủ trương thành lập một đội vũ trang tuyên
truyền gồm lực lượng cán bộ chính trị hiện có phối hợp với trung đội vũ trang của tỉnh do
đồng chí Huỳnh An và đồng chí Nguyễn Đăng chỉ huy. Đồng thời do tính chất và tầm
quan trọng của 3 xã Hương Văn (Hương Thạnh), Hương Vân, Hương Thái, nên 3 xã này
có lực lượng vũ trang huyện hỗ trợ. Huyện ủy cũng tiến hành phân công cán bộ chủ chốt
của huyện phụ trách các xã, Hương Văn do đồng chí Phạm Xuân Đan phụ trách. Nhiệm
vụ chủ yếu của đội công tác và lực lượng tăng cường của tỉnh là tiến hành vũ trang tuyên
truyền nhằm phá lỏng thế kìm kẹp của địch và chống, phá ấp chiến lược.
Thực hiện chủ trương của tỉnh là phát động đợt vũ trang tuyên truyền trên địa bàn
Hương Trà, tháng 2-1961, các đội công tác của huyện phối hợp với trung đội vũ trang của
tỉnh đã tiến hành tổ chức vũ trang tuyên truyền tại ấp chiến lược Lại Bằng (Hương Vân).
Tháng 3-1961, tiến hành đột nhập và tuyên truyền tại Văn Xá Trung, Văn Xá Thượng
trong vòng khoảng 30 phút, đặc biệt trong đợt đột nhập này ta đã đưa được 5 thanh niên
Hồ Văn Tứ, Phạm Hoa, Trương Lụa, Trần Xuân Ngãi, Dương Đình Nam lên rừng. Số
thanh niên này đã được đưa lên Tà Lương huấn luyện khoảng một tháng, sau đó được đưa
về tăng cường cho huyện và xã.
Vào cuối năm 1961, bộ phận công tác xã Hương Văn (Hương Thạnh) được thành
lập gồm các đồng chí: Nguyễn Đăng Đoàn, Hồ Văn Tứ, Phạm Hoa (tức Ngoãn), Trần
Xuân Ngãi, Trần Xuân Liễn do đồng chí Nguyễn Đăng Đoàn làm Đội trưởng đội công
tác, Bí thư Chi bộ, trước mắt đội đứng chân tại vùng Mả Cả phía trên Trò, Trái thuộc căn
cứ của huyện để huấn luyện và sản xuất lương thực.
Hoạt động của lực lượng vũ trang huyện, các đội công tác xã và sự hỗ trợ của tỉnh
đã đem lại những kết quả tích cực trong kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ
trang trên địa bàn Hương Trà, góp phần quan trọng vào việc đánh phá “quốc sách” ấp
chiến lược của địch ở các xã vùng giáp ranh và xây dựng cơ sở chính trị ở các xã vùng
ven, vùng sâu. Tình hình Hương Trà như nghị quyết Tỉnh ủy Thừa Thiên năm 1962 đánh
giá: Trạng thái chuyển biến trong nhân dân, nhất là chống “quốc sách” ấp chiến lược của

65
địch và những hoạt động hỗ trợ của lực lượng vũ trang đã tạo đà, tạo thế cho quần chúng
đấu tranh chống và nới lỏng thế kìm kẹp của địch ở nhiều nơi.
Sau đợt hoạt động này, địch đã tập trung lực lượng nhằm tăng cường khả năng đề
kháng ở các ấp chiến lược, đồng thời tiến hành càn quét tại các vùng núi giáp ranh và
không cho nhân dân đi sâu vào rừng để khai thác lâm sản, qua đó ngăn chặn sự tiếp xúc
và tiếp tế của người dân đối với lực lượng cách mạng.
Cuối năm 1962, Đại hội Mặt trận Dân tộc giải phóng Thừa Thiên đã biểu dương du
kích và nhân dân trong tỉnh vì đã có thành tích xuất sắc trong đấu tranh chống địch, đem
tới một khí thế, một niềm tin mới vào thắng lợi của phong trào kháng chiến. Tại Hương
Văn đã móc nối, liên lạc được với một số cơ sở cũ như gia đình chị Trúc, chị Con, chị
Nguyễn Thị Gái, anh Võ Dê, bà Lê Thị Quýt để nắm tình hình, tiếp tế lương thực, thực
phẩm và xây dựng thêm một số cơ sở mới.
Bước sang năm 1963, phong trào cách mạng trong tỉnh, huyện nói chung và Hương
Văn đã có bước chuyển hướng mới, số lần về cơ sở nắm tình hình, tiếp tế lương thực, xây
dựng cơ sở của cán bộ ta đã tăng lên. Tuy nhiên, do địch tăng cường cảnh giác đề phòng
nên nhiều lần việc về đồng bằng của ta cũng gặp phải thất bại, thậm chí tổn thất cán bộ
như trường hợp hy sinh của các đồng chí Nguyễn Cặn, Dương Ly vào tháng 11-1963.
Để tiếp tục đẩy mạnh việc phá “quốc sách ấp chiến lược” của địch, Tỉnh ủy chủ
trương đánh phá ấp chiến lược trọng điểm Hòa Mỹ. Đêm 3-3-1963, lực lượng vũ trang và
quần chúng nổi dậy đã tiến công và giành thắng lợi ấp chiến lược Hòa Mỹ. Chiến thắng
này mở ra khả năng đánh phá ấp chiến lược trong toàn tỉnh bằng ba mũi giáp công quân
sự, chính trị và binh vận.
Trên cơ sở rút kinh nghiệm từ chiến thắng Hòa Mỹ, Huyện ủy ra quyết tâm đánh phá
các ấp chiến lược trên địa bàn huyện. Tại Hương Văn, đêm 26-6-1963, một bộ phận lực
lượng vũ trang của tỉnh cùng phối hợp với lực lượng vũ trang Hương Trà đột nhập vào ấp
chiến lược Văn Xá Trung. Khi lực lượng ta ập vào, địch đã bỏ chạy tán loạn (địch bảo vệ
ở đây một tổng đoàn 29 tên, 10 dân vệ và 12 thanh niên chiến đấu). Ta tập trung khoảng
70 người dân, tuyên truyền, giải thích chủ trương, chính sách của Đảng, trao tận tay cho
đồng bào 886 tờ truyền đơn, đồng bào ngồi tại chỗ, đọc với thái độ rất bình tĩnh 1. Đợt tấn

. Báo cáo của Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên về tình hình tháng 6 và tháng 7-1963.
1

66
công ấp chiến lược đã góp phần hạ uy thế chính quyền địch, tạo niềm tin tưởng, phấn khởi
trong quần chúng vào cuộc kháng chiến.
Ngày 1-11-1963, chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm sau 9 năm thống trị
miền Nam bị sụp đổ. Lợi dụng tình hình địch đang khủng hoảng, Huyện ủy chủ trương tổ
chức phát động quần chúng đánh phá mạnh ấp chiến lược trên toàn địa bàn. Tại Hương
Văn, đêm 3-11-1963 ta đã đột nhập phá tan ấp chiến lược Văn Xá Thượng, Văn Xá Trung.
Trước sự hưởng ứng đồng loạt của nhân dân, bộ máy vũ trang, chính trị của địch tại các
ấp chiến lược bị lung lay. Ở Hương Văn, lực lượng của ta đã tiếp tục móc nối, xây dựng
thêm một số cơ sở mới như chị Phạm Thị Phụ (Văn Xá Trung), Trần Thị Tiu, Phạm Cải,
Trương Thỉu (Văn Xá Thượng).
Chấp hành nghị quyết của Khu ủy 5 (7-1963) về phát động quần chúng phá thế kìm
kẹp, phá ấp chiến lược, Tỉnh ủy Thừa Thiên xác định nhiệm vụ giành lại nông thôn đồng
bằng năm 1964 là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu có tính chất cấp bách của toàn Đảng bộ
và quân dân trong tỉnh. Tỉnh ủy quyết định chọn xã Hương Thọ (Hương Trà) để tiến hành
đồng khởi thí điểm trên toàn tỉnh.
Sau thắng lợi của đồng khởi tại Hương Thọ, ngày 8-4-1964, Tỉnh ủy họp phân tích
tình hình trong tỉnh và quyết định gấp rút chuẩn bị các mặt, phát động phong trào đồng
khởi khắp toàn tỉnh đợt 1 (từ 5-7-1964 đến đầu tháng 9-1964) nhằm phá rã ấp chiến lược
của địch, giải phóng từ 3 đến 4 vạn dân, giành lại nông thôn đồng bằng Thừa Thiên Huế
nhân kỷ niệm 10 năm ký kết Hiệp định Genève (1954-1964).
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy đã tổ chức hội nghị tại hậu cứ (Khe
Cát). Hội nghị đánh giá và đề ra các nhiệm vụ cụ thể, trong đó xác định: Tập trung lực
lượng phối hợp với hai huyện Phong Điền, Quảng Điền theo quyết định của tỉnh, phát
động quần chúng đồng khởi, đồng thời đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, trừ gian diệt ác
trong toàn huyện, chú trọng các xã vùng trắng, vùng sâu, vùng ven thành phố; kết hợp
chính trị với vũ trang tuyên truyền, phát động quần chúng đấu tranh chống địch bằng
phương châm “2 chân 3 mũi” 1, tiến lên giành quyền làm chủ; các thôn xã có cơ sở đẩy
mạnh phát triển lực lượng, vừa phát động tư tưởng, vừa hướng dẫn hành động để bồi
dưỡng nâng dần lên thành cơ sở cốt cán, trung kiên, bồi dưỡng cho họ hình thức đấu tranh

11
. 2 chân: đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị; 3 mũi: quân sự, chính trị, binh vận.
67
chống địch bằng “2 chân 3 mũi”; vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh chống lại
việc hình thành và phát triển đảng Đại Việt, làm cho quần chúng thấy rõ bản chất phản
động của chúng.
Huyện ủy quyết định thành lập mỗi xã 1 đội công tác, biên chế khoảng 20-25 đồng
chí, được trang bị vũ khí tinh, gọn đủ sức đánh trả khi bị địch phục kích. Đối với xã
Hương Văn (Hương Thạnh), sau khi đồng chí Nguyễn Đăng Đoàn, Đội trưởng đội công
tác hy sinh, tháng 7-1963 Huyện ủy đã cử đồng chí Nguyễn Duy Bậu làm Đội trưởng đội
công tác. Thông qua các hoạt động vũ trang, trên địa bàn toàn huyện ta đã giải phóng
được một số xã và tạo thế tranh chấp ở nhiều nơi. Ở Hương Văn, các thôn Văn Xá
Thượng, Văn Xá Trung ta làm chủ hoàn toàn.
Thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược
chiến tranh. Từ giữa năm 1965, chiến lược “chiến tranh cục bộ” được triển khai với dự
định đến cuối năm 1967 sẽ tiêu diệt được quân giải phóng, đè bẹp các lực lượng cách
mạng và bình định xong miền Nam.
Tại Hương Trà, ngày 15-7-1965, 1 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ do máy bay lên
thẳng đổ quân xuống dốc Dẽ rồi rải theo mỏm độn Ngang đến cửa Nước. Để tăng cường
lực lượng đàn áp, ở mỗi xã địch tăng lính nghĩa quân (trước gọi là dân vệ) lên 2 trung đội,
mỗi trung đội đều có máy truyền tin bộ đàm. Chúng tiếp tục mở rộng Đường 12, xây
dựng căn cứ tổng hợp ở động Tranh (gồm bộ binh, công binh, pháo binh, ra đa, có hàng
trăm xe tăng, xe bọc thép, lô cốt dã chiến, các kho xăng, đặt hầm ngầm rải rác dọc Đường
12), mở rộng trung tâm huấn luyện Văn Thánh do sỹ quan Mỹ phụ trách, mở rộng sân bắn
Hà Khê (Hương Mai), làm mới sân bắn, bãi tập Hiệp Khánh (Hương Văn).
Đồng thời chúng còn chú ý tăng cường xây dựng cơ sở chính trị, nhất là tăng cường
củng cố đảng Đại Việt. Từ giữa năm 1965, chúng tổ chức đại hội thành lập xã bộ Đại Việt,
ấp bộ Đại Việt tại các xã trong toàn huyện. Chúng đẩy mạnh việc “đoàn ngũ hóa” và “vô
hiệu hóa”. “Đoàn ngũ hóa” là tất cả mọi người dân trong mỗi ấp phải vào một tổ chức
đoàn thể do chúng tổ chức, ai không tham gia coi như có hành động chống quốc gia. “Vô
hiệu hóa” là bắt bớ, bắt giết cán bộ, cơ sở cách mạng nhằm triệt tiêu cơ sở cộng sản.
Để thực hiện chiến lược 2 gọng kìm “tìm diệt” và “bình định” ở Hương Trà, chúng
chia Hương Trà làm 4 vùng để có kế hoạch bình định cụ thể. Hương Văn được xác định là

68
vùng tảo thanh, chúng cho đây là vùng căn cứ của đối phương. Vùng này do quân chính
quy Sài Gòn đảm nhiệm đánh phá, có lính địa phương quân (lính bảo an trước đây) và
lính nghĩa quân phối hợp. Chúng tổ chức càn quét, phục kích, đánh phá liên tiếp, nhất là ở
các thôn Văn Xá Trung, Văn Xá Thượng để tiêu hao, tiêu diệt, đẩy bật lực lượng, nhất là
lực lượng vũ trang của ta ra khỏi ấp xã, tạo tuyến ngăn chặn, cắt đứt mối liên hệ, liên hoàn
giữa các vùng, bảo vệ vùng củng cố an ninh của chúng.
Trước những diễn biến mới của chiến trường miền Nam, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 11 (3-1965) và lần thứ 12 (12-1965) đã đề ra chủ trương: Động
viên đến mức cao nhất lực lượng quân và dân cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống
Mỹ, kiên quyết giữ vững thế chiến lược tiến công, quyết tâm đánh thắng Mỹ ở miền Nam
để bảo vệ miền Bắc, đập tan mọi ý đồ của Mỹ mở rộng chiến tranh bằng bộ binh ra phía
Bắc giới tuyến, đồng thời quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
trên hậu phương lớn miền Bắc. Trong chủ trương chung đó, Trị Thiên là một trong những
chiến trường chính với nhiệm vụ thu hút, giam chân và tiêu diệt quân Mỹ, tạo điều kiện
cho các chiến trường khác phát triển tiến công, đánh bại mọi âm mưu của địch, đồng thời
bảo vệ miền Bắc. Chiến trường Trị Thiên trở thành nơi đọ sức rất quyết liệt giữa hai lực
lượng cách mạng và phản cách mạng.
Từ ngày 25 đến ngày 29-7-1965 tại Khe Trái, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ
V được tổ chức với sự tham dự của 87 đại biểu. Đại hội kiểm điểm phong trào kháng
chiến trong tỉnh, đúc rút những bài học kinh nghiệm về lãnh đạo chiến tranh, xây dựng
lực lượng, tiến công địch bằng “hai chân, ba mũi” trên cả ba vùng chiến lược, vạch ra
phương hướng, nhiệm vụ lãnh đạo quân dân trong tỉnh vượt qua những thử thách to lớn,
kiên trì, dũng cảm đương đầu với quân viễn chinh Mỹ.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Huyện ủy Hương Trà đã phát động phong trào
toàn dân đánh Mỹ, xây dựng các vành đai diệt Mỹ quanh căn cứ Mỹ trên địa bàn toàn
huyện. Huyện chủ trương thành lập 4 mũi công tác tăng cường về các xã, trong đó có mũi
tăng cường về 2 xã Hương Văn (Hương Thạnh), Hương Thái. Tại Hương Văn (Hương
Thạnh), vào cuối năm 1964 đồng chí Nguyễn Duy Bậu, Đội trưởng đội công tác, Bí thư
Chi bộ xã được cấp trên cử đi học, Huyện ủy đã điều động đồng chí Hồ Văn Tứ, Huyện
ủy viên về làm Đội trưởng đội công tác, Bí thư Chi bộ xã Hương Thạnh. Nhiệm vụ trọng

69
tâm của mũi công tác là cùng với lực lượng an ninh huyện, các đội công tác, các cơ sở
mật nắm tình hình địch (như các hoạt động chuyển quân, sự tăng giảm số lượng ở các đơn
vị chủ lực hay địa phương quân, tình hình các ấp chiến lược, các căn cứ quân sự...), chuẩn
bị các phương án đánh địch để khi cần có thể có phương án phối hợp tác chiến linh hoạt.
Trong những tháng cuối năm 1965, bộ đội địa phương Hương Trà đã phối hợp với
các mũi công tác tổ chức nhiều trận đánh địch, phá ấp chiến lược, gây được tiếng vang.
Tại Hương Văn, lực lượng vũ trang huyện phối hợp với đội công tác xã đột nhập về Văn
Xá Làng để vũ trang tuyên truyền, thu mua lương thực; phá ấp chiến lược Văn Xá Trung;
phục kích đánh lính nghĩa quân vào ban ngày tại cống Bàu Sứ (Văn Xá Trung); mật tập
đánh ban chỉ huy tiểu đoàn “Trâu Điên” tại Văn Xá Thượng, tiêu diệt nhiều tên.
Cùng với việc phát triển “hai mũi” (chính trị, vũ trang), mũi địch vận cũng được
tăng cường. Thông qua các cơ sở cách mạng, đội công tác xã đã móc nối và xây dựng một
số cơ sở nội tuyến trong những người tham gia chính quyền và quân đội Sài Gòn, lực
lượng mật báo viên, nội tuyến trong cảnh sát, công binh, pháo binh, bộ binh cấp quận và
nhất là ở Trung đoàn 3 đóng tại Tứ Hạ. Các cơ sở nội tuyến phần lớn đã phát huy tác
dụng, trong đó có một số cơ sở đã góp phần cho ta lập kế hoạch, phương án chiến đấu sát,
đúng sau này.
Tháng 4-1966, để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Quảng Trị và Thừa Thiên tiến
lên một cách vững chắc, nhiệm vụ của chiến trường Trị - Thiên - Huế được Quân ủy
Trung ương xác định là: Tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy, tiêu diệt một bộ phận
quân Mỹ, ra sức chuẩn bị lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang để phục vụ kế hoạch
tổng công kích và tổng khởi nghĩa khi có điều kiện chín muồi. Cắt đứt đường giao thông
chiến lược của địch, xây dựng đường hành lang của ta, giành thắng lợi về mọi mặt và tạo
nên một tình thế mới trên chiến trường Trị - Thiên, phối hợp tốt với các chiến trường khác
trong mọi tình huống.
Trên cơ sở xác định các nhiệm vụ trọng tâm, Huyện ủy chủ trương tập trung củng cố
vùng giải phóng, tiếp tục phát động quần chúng rộng khắp để giành và mở rộng quyền
làm chủ cho nhân dân. Cuối năm 1965, đồng chí Hồ Văn Tứ được điều động về Hương
Toàn để củng cố, xây dựng đội công tác của xã này, đồng chí Tạ Trung Thành (tức
Nguyễn Văn Hạp) làm Đội trưởng đội công tác, Bí thư Chi bộ xã Hương Văn (Hương

70
Thạnh). Đồng thời để hỗ trợ cho Hương Thạnh, Huyện ủy đã phân công đồng chí Nguyễn
Văn Hòa (tức Chư), Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, người đã có nhiều kinh nghiệm
chỉ đạo đánh Mỹ tại vành đai Mỹ Thủy (Hương Thủy) trực tiếp chỉ đạo xã Hương Văn
(Hương Thạnh). Nhiệm vụ của đội công tác là phối hợp với lực lượng an ninh huyện nắm
tình hình bọn Việt gian, mật vụ, xây dựng cơ sở, mở rộng mạng lưới liên lạc, tiếp tế lương
thực, thực phẩm cho các lực lượng kháng chiến và tổ chức đánh địch, diệt Việt gian khi có
thời cơ. Đầu năm 1966, đội công tác xã có sự hỗ trợ của trên gồm 1 trung đội, có cối 61 ly
tổ chức tập kích đại đội “Trâu điên” ở Mỏm Xanh làm địch thiệt hại nặng, về phía ta chỉ
đồng chí Trịnh Kế bị thương nặng, sau đó hy sinh; tổ chức trừ gian, diệt ác như tiêu diệt
tên thượng sỹ tình báo của Sư đoàn 1 ngụy tại Văn Xá Thượng giữa ban ngày; đặc biệt
tháng 7-1966 đội công tác xã và đội biệt động huyện đã tổ chức diệt ác tại Xóm Tháp, tiêu
diệt 3 tên, tuy nhiên ta cũng gặp tổn thất lớn, đồng chí Tạ Trung Thành, đội trưởng đội
công tác hy sinh. Sau khi đồng chí Tạ Trung Thành hy sinh, Huyện ủy chỉ định đồng chí
Phạm Hoa (Ngoãn) làm Bí thư chi bộ xã, sau đó đã điều động đồng chí Nguyễn Văn Sơn
(tức Nguyễn Hố) làm Đội trưởng đội công tác, Bí thư Chi bộ Hương Văn (Hương Thạnh).
Tháng 1-1967, Khu ủy Trị - Thiên - Huế họp và ra chỉ thị “Tích cực đẩy mạnh và
tiến công địch liên tục và toàn diện” với phương châm tác chiến là “thọc sâu, diệt gọn, trụ
lại, bung ra”. Tư tưởng chỉ đạo của chỉ thị là tư tưởng tiến công, “một đơn vị cũng tiến
công, một tổ cũng tiến công, một người cũng tiến công, và từng thôn xã, từng đơn vị, mỗi
ngày, mỗi tuần cố giành được một thắng lợi dù là thắng lợi nhỏ”. Tại Hương Văn, đội
công tác của xã đã phối hợp với lực lượng của huyện tổ chức nhiều đợt đánh địch như
đánh đơn vị lính nghĩa quân tại Ruộng Cà (Văn Xá Trung), tiêu diệt tên trung đội phó;
đánh phản phục kích trên Quốc lộ 1, đánh mìn và ném lựu đạn vào 2 xe vận tải của Mỹ.
Đặc biệt trong trận đánh đồn Tứ Hạ vào đêm ngày 5 rạng ngày 6-4-1967, đội công
tác xã Hương Văn (Hương Thạnh) đã đóng vai trò tích cực trong tham gia điều nghiên,
trinh sát, dẫn đường và nhất là thông qua cơ sở nội tuyến đã vẽ bản đồ, cung cấp thông tin
về tình hình địch cho lực lượng Trung đoàn 6 của quân khu tổ chức đánh địch. “Sau 1 giờ
chiến đấu anh dũng, bộ đội Trung đoàn 6 và lực lượng vũ trang Hương Trà đã tiêu diệt cơ
bản Sở Chỉ huy Trung đoàn 3, phá hủy 12 khẩu pháo, hàng chục xe quân sự, trong đó có

71
nhiều xe tăng, xe bọc thép, loại khỏi vòng chiến đấu trên 750 tên, trong đó có tên Trung tá
Trung đoàn trưởng Trương Như Thọ” 1.
Năm 1967, địch đã gia tăng bố phòng quanh Hương Văn với lực lượng lớn như tại
Tứ Hạ có Trung đoàn 3 ngụy và 1 lữ đoàn lính dù Mỹ; trường huấn luyện tân binh tại
Mỏm Xanh, 2 đại đội lính cộng hòa túc trực thường xuyên tại sân bắn Hiệp Khánh. Trên
địa bàn xã có 1 trung đội địa phương quân, 2 trung đội nghĩa quân, có 2 lô cốt tại Phủ Thờ
và Thanh Lương.
Về phía ta, vùng trên gần như là vùng giải phóng (vùng tranh chấp mạnh) với các
thôn Văn Xá Thượng, Văn Xá Trung... Vùng này đội công tác xã bám trụ cả ban ngày, khi
có địch mới rút xuống hầm bí mật; các đoàn thể được tổ chức hoạt động gần như công
khai; mỗi thôn có khoảng 1 tiểu đội du kích; ban đêm các bộ phận thu mua lương thực,
thực phẩm của Khu (K 200), tỉnh, huyện tổ chức vận chuyển hằng trăm người, có trạm
chuyển tiếp từ dưới Quốc lộ 1 lên các thôn Liễu Nam, Thượng Thôn và từ các thôn lên
dốc Đu. Ở vùng dưới, chủ yếu là thôn Thanh Lương do đồng chí Nguyễn Văn Hòa (tức
Chư), Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy đứng chân tại Phe Nhì để trực tiếp chỉ đạo, là
địa bàn đứng chân của các đội công tác Hương Toàn, Hương Vinh, Hương Phong. Ta đã
thành lập được chính quyền cách mạng xã, có xã đội, an ninh xã; toàn xã có 3 chi bộ thôn
với tổng số 12 đảng viên, cụ thể: Văn Xá Thượng có 3 đảng viên, Văn Xá Trung có 3
đảng viên, Thanh Lương có 6 đảng viên. Quần chúng thôn, ấp đều có tổ chức theo ngành,
giới.
Phong trào có những mặt nổi lên: Trừ gian diệt ác táo bạo, vụ bắt ác ôn ban ngày
gần đồn Mỏm Xanh ở Văn Xá Thượng bắt 1 tên, diệt 3 tên; tại Văn Xá Trung diệt 3 tên,
bắt 1 tên. Đội biệt động của huyện “cùng với lực lượng Hương Thạnh về hoạt động ở
Thanh Lương, Xuân Đài phục kích đánh lính nghĩa quân, diệt ác ôn tại chợ Kệ; đánh mìn
và lựu đạn vào đoàn xe Mỹ chạy trên Quốc lộ 1 đoạn đường Văn Xá, cách đồn Tứ Hạ
1,5km đang chở quân chi viện cho chiến trường Khe Sanh (Quảng Trị) làm 1 xe nhào
xuống ruộng, 2 xe bốc cháy, buộc chúng phải rút quân” 2.

. Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân thị xã Hương Trà (1945-2005), Nxb Thuận Hóa, Huế, 2014, tr. 117.
1

. Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân thị xã Hương Trà (1945-2005), Sđd, tr. 123.
2

72
Các trận đánh địch và trừ gian diệt ác đã làm cho địch hoang mang dao động, khí thế
quần chúng được nâng lên. Việc thu mua lương thực cung cấp cho kháng chiến được
thuận lợi hơn, mặc dù địch đóng ở Mỏm Xanh nhưng từ 4, 5 giờ chiều lực lượng ta đã
xuống được Văn Xá Thượng, Văn Xá Trung, Văn Xá Làng để nắm tình hình và thu mua
lương thực. Tại chợ Văn Xá ta cũng đã nắm được một số đại lý bán gạo, có nhiều đêm lực
lượng ta đã xuống hơn 200 người, thu mua “mỗi đêm 200 thùng, riêng 2 tháng cuối năm
1967 gần 500 tấn gạo” 1; các chị Phạm Thị Phụ, Phạm Thị Mai, Phạm Thị Chắt, chị Thẻo,
chị Thí, chị Dạng, bà Thân cùng con gái và con rể là chị Hoa, anh Chúc là những người
đã có nhiều đóng góp trong việc thu mua lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm
khác cho cách mạng không chỉ trong thời gian này mà suốt cả giai đoạn từ 1964 - 1974.
Ngày 19-11-1967, Khu ủy, Quân khu ủy nhận được chỉ thị của Bộ Chính trị và mệnh
lệnh của Bộ Quốc phòng về tổng công kích, tổng khởi nghĩa trên toàn miền Nam. Thời
gian thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa được quy định là dịp Tết Mậu Thân
(1968).
Ở Hương Trà, vào đầu tháng 12-1967, Bộ Chỉ huy Mặt trận Huế quyết định: Chọn
một vùng rừng núi Hương Trà gần thành phố Huế để làm khu vực tập kết các lực lượng
tham chiến, chỉ đạo thực hiện kế hoạch chuẩn bị và làm điểm xuất phát tiến quân vào
thành phố. Giải phóng một mảng nông thôn Hương Trà kế cận thành phố Huế, làm hậu
phương trực tiếp của mặt trận Huế; là trận địa đánh địch phản kích, bảo vệ vững chắc 2
hành lang quan trọng suốt thời gian chiếm lĩnh thành phố là hành lang từ hậu cứ núi rừng
Hương Trà vào mặt trận Huế và hành lang từ mặt trận Huế băng qua Quốc lộ 1 về bệnh
viện tiền phương tại thôn Phước Yên, xã Quảng Thọ, ra vùng giải phóng Quảng Điền,
Phong Điền lên chiến khu Hòa Mỹ. Như vậy, Hương Trà được xác định là một địa bàn
đảm đương bàn đạp hướng tấn công phía Bắc thành phố Huế, đồng thời cũng là hướng rút
ra chủ yếu khi địch phản kích.
Xác định tầm quan trọng đó, Huyện ủy chủ trương tập trung hoạt động tại các xã
Hương Văn (Hương Thạnh), Hương Mai, Hương Thái, Hương Bình, Hương Vĩnh và
Hương Phong, trọng tâm là hai xã Hương Bình, Hương Vĩnh. Đây là các xã áp sát thành
phố Huế và là tuyến hành lang quan trọng để vào Huế. Các xã này tập trung xây dựng lực

. Sơ kết tình hình xã Hương Thạnh trước và sau Mậu Thân đến nay (9-1971).
1

73
lượng chính trị, lực lượng ba mũi giáp công, xây dựng và chuẩn bị cơ sở vật chất, hậu
cần, cơ sở thu giấu lực lượng khoảng 1 trung đội; đồng thời tiến hành phân loại quần
chúng để hiểu rõ lực lượng, thanh khiết địa bàn, xây dựng lực lượng giao thông liên lạc
tại chỗ. Thực hiện nhiệm vụ của trên, tại Hương Văn (Hương Thạnh) dưới sự lãnh đạo
của đồng chí Hồ Văn Tứ, Huyện ủy viên, đội trưởng đội công tác, Bí thư Chi bộ, ta đã bảo
đảm được liên lạc và sự chỉ đạo của cấp trên được thông suốt nối liền từ Quảng Điền qua
Hương Trà lên căn cứ và ngược lại, từ Huế ra Hương Trà lên căn cứ và ngược lại.
Để tham gia chuẩn bị hậu cần bảo đảm cho thắng lợi của chiến dịch, cùng với
huyện, nhân dân Hương Văn đã có nhiều cố gắng vượt bậc trong thu mua, vận chuyển
hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm để tập kết tại các kho bí mật của ta ở vùng núi
Hương Trà. Công việc rất khó khăn, phải bảo đảm được yếu tố tuyệt đối bí mật, vì vậy, ta
chủ trương phát động đợt vận động phụ nữ toàn huyện đi mua gạo khao quân trong dịp
Tết. Hầu hết phụ nữ các xã trên Quốc lộ 1, trong đó có xã Hương Văn, đã tích cực tham
gia đi mua gạo và các đồ dùng thiết yếu khác, rất nhiều gia đình có tới 4-5 phụ nữ đi mua
gạo, kể cả những gia đình có người thân tham gia hàng ngũ địch; có người mỗi ngày đi 2
chợ, mua chợ Văn Xá xong qua mua chợ Kệ (Thanh Lương)... Các hội viên Hội Phụ nữ
cơ sở bán đại lý gạo ở các chợ không những chỉ mua đủ số gạo bán cho bà con về mua mà
còn cất giữ tại chợ. Khi đã tích trữ được số gạo trên thì báo lên rừng, bộ đội tổ chức vũ
trang tuyên truyền vào khu vực chợ để kết hợp lấy gạo lên. Các chị Dương Thị Lan,
Dương Thị Chùm ở chợ Văn Xá, chị Đinh Thị Ba ở chợ Kệ… đã có công lớn trong việc
này.
Khi đã tích trữ được số gạo trên 4 tấn thì báo lên rừng, bộ đội tổ chức ngay cuộc vũ
trang tuyên truyền vào khu vực chợ để kết hợp lấy gạo lên. Lúc này bộ đội địa phương và
du kích Hương Văn đã bao vây căn cứ Tứ Hạ, chốt chặn xe tăng địch từ Huế chạy ra ở
cây số 8 và bao vây 2 lô cốt Phủ Thờ (Văn Xá) và lô cốt cây Vông Đồng (xóm Tháp)
kiểm soát đoạn đường giữa 2 lô cốt này bảo đảm an toàn cho đoàn vận chuyển từ trạm
tiếp nhận huyện (ở Thanh Lương) vượt Quốc lộ 1 lên tiếp trạm trung chuyển.
Những điểm giao nhận gạo ban đêm thật ấm đậm tình nghĩa quân dân, như ở điểm
đầu làng Văn Xá có anh bộ đội trẻ cầm tay cô gái đang trút gạo vào ba lô mình và nói
“Em lên rừng với anh nhé”, làm đỏ bừng hai má cô gái. Lập tức một giọng hò nhè nhẹ cất

74
lên từ nhóm các cô gái đang chờ đến lượt mình giao gạo: “Ơi anh giải phóng ơi! máu
nóng tim em đã theo hạt gạo vào bao anh rồi đó, anh đem lên rừng cho đồng đội ấm dạ
mát lòng. Em chừ đang việc hội, việc nhà nặng cả hai vai, bỏ mà theo anh lên rừng răng
được. Mai tê hòa bình độc lập rồi anh còn nhớ tình nhớ nghĩa, ghé về thăm xóm nghèo
quê bạn, gặp nhau chúng mình sẽ bàn chuyện nớ anh hè”. Tiếng cười rúc rích và tiếng vỗ
tay nhè nhẹ ở cả hai phía chưa dứt thì một bà mẹ bưng rổ khoai sắn đang bốc hơi thơm và
công nước chè nóng bước tới: “Thôi thôi mấy o giao gạo mau mau để bộ đội ăn vài củ mà
lên kẻo khuya rồi, trời sáng mà chưa vô khuất trong bìa rừng là nguy lắm”. Tiến sĩ Lê
Văn Hảo - Chủ tịch Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình thành phố Huế
chứng kiến cảnh này đã thốt lên: “Ồ một hoạt cảnh tuyệt vời, hơn nửa ngày tôi ở đây rất
gần đồn Mỏm Xanh, không xa căn cứ Tứ Hạ, hồi chiều tôi còn thấy xe chở lính ngụy chạy
ngoài đường, bà chủ nhà chỉ cho tôi thấy mấy công an viên qua lại trước xóm mà bây giờ
được dự buổi giao gạo đông vui ấn tượng này. Nếu còn ở trong Huế mà nghe thuật lại tôi
không tin được chuyện có thật 100%”.
Không chỉ có gạo, chị em phụ nữ còn mua giúp bộ đội đủ các thực phẩm như nếp,
đậu, cá hộp, thịt hộp, mỳ chính, mỳ ống, sữa, đường, trà, thuốc... Những đêm gần Tết, bộ
đội cùi cả heo sống, vịt, gà sống, có anh xin được “cờ tây” sống cùi lên rừng và dắt cả
trâu bò đi lên rừng. Vì vậy bữa ăn thường nhật của bộ đội không phải chỉ có rau rừng và
mắm cô mà rất phong phú, đủ các loại thực phẩm tươi sống mua từ các chợ trong vùng
địch kiểm soát.
Với những nỗ lực cao độ của toàn huyện, trong đó có vai trò quan trọng của nhân
dân Hương Văn, đến ngày 15-1-1968 tất cả các lực lượng tập kết tại vùng núi Hương Trà
đã nhận đủ gạo ăn đến 15-2-1968.
Một vinh dự cho Hương Trà là được Quân khu giao là may một lá cờ của Liên minh
các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam 1, kích cỡ 8m x 12m. Ngay trong
đêm 28 Tết đồng chí Hoàng Hồng Hải (Việt), Phó Văn phòng Huyện ủy được phân công
về căn cứ lõm chọn cơ sở, ngày 29 vào Huế mua đủ vải và giao cho cốt cán tìm mượn
máy may. Đêm 29, vải và máy may đã chuyển tới văn phòng, người cho mượn máy may

1
. Khác với cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng (nửa đỏ, nửa xanh), cờ của Liên minh có 3 phần: giữa là
nền xanh có ngôi sao vàng 5 cánh, trên và dưới màu đỏ.
75
là bà Võ Thị Thân (có chồng đi tập kết), một cơ sở tin cậy ở thôn Văn Xá Trung, người
may lá cờ là đồng chí Lê Thị Cam, Hội phó Hội Phụ nữ Hương Trà (vốn là thợ may ở Lại
Bằng). Từ sáng sớm 30 Tết bắt đầu may cờ, đến chiều đã may xong và chuyển cho Trung
đoàn 6, đơn vị có trách nhiệm kéo cờ lên đỉnh Kỳ Đài. Đúng 9 giờ ngày 31-1-1968, lá cờ
rộng 96m2 này đã phất phới bay trên đỉnh Kỳ Đài và kéo dài trong suốt 26 ngày đêm diễn
ra chiến dịch.
Vào thời điểm khẩn trương chuẩn bị mở màn chiến dịch, các cơ sở của ta tại Văn Xá
như ông Nguyễn Đình Nhuận, ông Đặng Đống, bà Đỗ Thị Mượn cùng con dâu Đặng Thị
Quýt, bà Lê Thị Bưởi, Lê Thị Quýt... đã phục vụ sự chỉ đạo của lãnh đạo Thành ủy, Bộ Tư
lệnh chiến dịch và của huyện rất đắc lực, có hiệu quả cao như đưa công văn hỏa tốc,
thượng khẩn, chỉ thị tối mật, tài liệu quan trọng ở hậu cứ đến các lực lượng trong thành
phố và báo cáo tuyệt mật, tài liệu quan trọng từ các đồng chí Thành ủy viên bám trụ bên
trong thành phố gửi lên hậu cứ ngày đêm nào cũng nhiều, đều được chuyển tới địa chỉ
nhận rất kịp thời, có những công văn chuyển ngay bất cứ thời khắc nào trong ngày đêm.
Các chiến sĩ liên lạc vũ trang từ hậu cứ xuống căn cứ lõm, mạng lưới giao thông hợp pháp
từ căn cứ lõm vào thành phố và ngược lại, hoạt động như những con thoi, không có
trường hợp bị chậm trễ, thất lạc.
12 giờ ngày 30-1-1968, các lực lượng của ta đã xuất phát theo các hướng, các điểm
đã được phân công. Ở Hương Văn, đồng chí Trần Văn Thái (Xuân), Huyện đội trưởng chỉ
huy đội biệt động, du kích tập trung xã do đồng chí Trần Hưng Lễ làm đội trưởng phối
hợp triển khai bao vây căn cứ Tứ Hạ, lô cốt Phủ Thờ (Văn Xá), chiếm lĩnh đoạn Quốc lộ
1 từ ga Văn Xá vào cầu Triều Tây, bảo đảm cho các lực lượng trên hậu cứ xuống vượt
Quốc lộ 1, tiếp cận các mục tiêu được giao trước giờ G.
2 giờ 33 phút ngày 31-1-1968, súng lớn của ta bắn vào các căn cứ lớn của địch, mở
đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) của quân và dân Thừa
Thiên Huế. Cũng đúng giờ này, 1 đại đội cối 82 ly đặt ở Văn Xá Thượng nổ súng liên tục
để đánh kiềm chế pháo của địch ở Tứ Hạ, bố trí phục kích trên Quốc lộ 1 đánh chặn chi
viện của địch vào nội thành suốt mấy ngày đầu.
Cùng với tiếng súng mở màn cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân
(1968) ở thành phố Huế, tại Hương Văn, đội công tác vũ trang xã lập tức phát động quần

76
chúng nổi dậy đánh trống, mõ, phèng la, gõ thùng, thau, mâm nhôm, mâm đồng, soong
nồi vang dội cả góc trời, hòa với tiếng pháo gầm từ hậu cứ núi rừng Hương Trà bắn xuống
Mang Cá, Phú Bài và khu tam giác phía nam Huế làm khí thế cách mạng bùng lên hừng
hực. Lúc này du kích đang triển khai đảm bảo trật tự mới và cầm loa thông báo: “Bộ đội
vào thành phố đánh Mỹ rồi bà con ơi; căn cứ Tứ Hạ và đường Quốc lộ 1 vào Huế cũng
có quân giải phóng bao vây kiểm soát rồi. Bà con thức dậy mau đào hầm đủ cho gia đình
nấp đạn”. Chính quyền tự quản của nhân dân tuyên bố xóa bỏ tất cả tổ chức cơ sở của
chính quyền Sài Gòn và ra lệnh: “Tất cả những người tham gia tề vệ ở xã, thôn và ngụy
quân về nhà ăn Tết có mặt tại địa phương, sáng mai phải đem vũ khí, tài liệu ra trình
diện để được cấp giấy được đoàn tụ với gia đình và tham gia công việc xóm làng”.
Khi mở màn chiến dịch lực lượng ta tập trung vào các mục tiêu trong thành phố và
các vùng ven kế cận. Căn cứ Tứ Hạ không có lực lượng vây đánh, nên trong kế hoạch
Hương Trà phải huy động lực lượng quần chúng trực diện đấu tranh chính trị và binh vận
đạt cho được yêu cầu là vận động và uy hiếp tinh thần để binh sĩ trong đồn chịu án binh
bất động trong ngày đầu, sau đó sẽ có bộ đội chủ lực đến giải quyết. Kế hoạch này do hai
đồng chí Lê Thị Cam (Lại Bằng, Hương Vân) và Nguyễn Thị Xuân (tức Nga) (Thanh
Lương) là 2 Hội phó Hội Phụ nữ huyện trực tiếp chỉ huy cùng các chị Tốn, chị Quýt, chị
Mai (Cầm) ở Văn Xá, chị Nguyễn Thị Tuyền, chị Hiền, chị Lam, chị Hẻo ở Thanh Lương
là những cán bộ nòng cốt của cuộc đấu tranh.
Tờ mờ sáng mồng 2 Tết ra đường thấy người dân đang đào hầm trước ngõ xóm,
thanh niên nam nữ đi dán khẩu hiệu, phân phát truyền đơn về chính sách Mặt trận Dân tộc
giải phóng, đầu thôn thanh niên đứng gác có băng đỏ xanh trên cánh tay. Nhân dân hai
làng Văn Xá, Thanh Lương đã hình thành đội ngũ trực diện đấu tranh chính trị và binh
vận, phần đông là phụ nữ, vợ, mẹ và thân nhân binh sĩ ngụy kéo lên gần căn cứ Tứ Hạ,
súng trong đồn bắn ra, anh Nguyễn Xuân Mượn cầm cờ đi trước bị trúng đạn hy sinh và
một người cầm băng rôn bị thương nhưng đoàn biểu tình vẫn không dừng lại, tiếp tục đến
sát căn cứ phản đối lính đồn bắn chết dân: “Chúng tôi cha mẹ, vợ, con đồng nghiệp của
anh lên đây nhờ đồn cho biết tin tức người thân vì nghe bộ đội giải phóng vào đánh trong
thành phố rồi, lo lắm không biết chồng con ở đâu, còn sống hay chết rồi”. Lúc này cờ của
Liên minh đã bay phất phới trên Phu Văn Lâu, trong đoàn có người reo to: “Bà con ơi cờ

77
bộ đội giải phóng kéo lên cột cờ trước Ngọ Môn rồi tề, các anh thấy chưa?, họ vào đánh
trong Huế từ khuya chừ đã treo cờ trước Ngọ Môn rồi... Mỹ ở đông trong nớ họ còn vô
đánh và ở lại treo cờ, các anh tưởng họ không tới đây được à? Không lo giữ hồn thì hối
không kịp mô, thông minh thì đóng cửa đồn, ở yên trong đồn mà giữ hồn”. Binh sĩ im thin
thít, chỉ có hai người lính kéo cuộn dây thép gai chặn cửa đồn như thưa với bà con: Xin
tuân lệnh. Nhân dân tiếp tục vây đồn, lớp sau đến thay lớp trước gọi loa vận động, thông
tin chiến thắng mới, đưa truyền đơn về chính sách của Mặt trận vào trong đồn, trương
băng cờ kêu gọi binh sĩ bỏ ngũ về đoàn tụ với gia đình. Đến chiều mồng 3 Tết binh sĩ
trong đồn vẫn im lặng. Đêm mồng 3 Tết hơn 100 lính trốn đồn được người dân hướng dẫn
xuống bến sông Văn Xá chở đò qua Hạ Lang về nam Quảng Điền. Đến hết ngày mồng 7-
2, binh sĩ tại căn cứ Tứ Hạ vẫn chịu ở yên trong đồn. Kế hoạch vận động nhân dân hai
làng Văn Xá, Thanh Lương nổi dậy bao vây căn cứ Tứ Hạ đạt thắng lợi vượt yêu cầu.
Từ ngày 4-2-1968, địch bắt đầu điều động lực lượng tổ chức phản kích. Sáng ngày
8-2-1968, một cánh quân Mỹ từ căn cứ Đông Lâm vào Km17 phối hợp với Trung đoàn 3
ở Tứ Hạ tổ chức thành hai mũi: một mũi tiến lên hướng Văn Xá Trung, Văn Xá Thượng
uy hiếp tuyến hành lang từ hậu cứ Hương Trà xuống mặt trận Huế; một mũi theo Quốc lộ
1 vào ga Văn Xá tiếp cận các thôn Liễu Cốc Thượng, Quê Chữ và đánh vào La Chữ định
chiếm lại đoạn đường Quốc lộ 1 từ ga Văn Xá vào Huế để ngăn chặn ta chi viện cho
thành phố Huế.
Ở Hương Văn, khi địch tiếp cận gần các thôn Văn Xá Trung, Văn Xá Thượng và hai
bên Quốc lộ 1 gần ga Văn Xá đã bị ta đánh trả quyết liệt cũng lần lượt rút về điểm xuất
phát. Bộ đội và du kích vẫn giữ vững trận địa, hai hành lang vẫn thông suốt.
Những ngày tiếp theo địch phản kích mạnh, càng về sau càng ác liệt hơn, mỗi ngày
địch tấn công nhiều đợt, trước mỗi đợt tấn công chúng dội bom, pháo xuống các thôn Văn
Xá Trung, Văn Xá Thượng, Liễu Cốc Thượng, Thanh Lương, An Đô, Phú Ổ, La Chữ,
Bồn Trì, Bồn Phổ, Quê Chữ và các làng quanh ngã ba Sình. Cuộc chiến đấu diễn ra giằng
co, ác liệt, bộ đội du kích tranh chấp với địch từng cồn mồ, thửa ruộng, bờ tre, cả hai bên
đều bị tổn thất, nhưng quân Mỹ - ngụy buộc phải rút lui sau ga Văn Xá và căn cứ Tứ Hạ.
Từ ngày 16 đến ngày 18-2-1968, quân Mỹ định đổ bộ xuống vùng La Chữ, phía sau
các trận địa đánh địch phản kích của ta để phối hợp với quân của chúng ở Km17 đánh

78
vào, quyết chiếm lại đoạn đường Quốc lộ 1 từ ga Văn Xá vào Huế nhưng bị bộ đội phòng
không bắn trả, hàng chục máy bay trực thăng địch bị bắn cháy rơi giữa đồng Văn Xá,
Liễu Nam, La Chữ, buộc chúng phải dừng lại.
Sau khi lực lượng ta được lệnh rút khỏi Huế, lực lượng vũ trang Hương Trà đảm
đương nhiệm vụ hết sức nặng nề là đánh chặn địch, bảo đảm đường rút của lực lượng ta
từ Huế lên hậu cứ.
Trong những ngày 19 đến 26-2-1968, địch phản kích điên cuồng, cho pháo bắn cấp
tập xuống các trận địa do lực lượng ta chốt giữ và dọc tuyến hành lang đến các vùng giáp
ranh, cửa rừng để phong tỏa lực lượng ta xuống các làng phía sau và dọc hai hành lang.
Quân Mỹ và quân đội Sài Gòn ở Đông Lâm, Tứ Hạ thọc lên tới đoạn đường gần làng Văn
Xá Thượng và theo Quốc lộ 1 vào quá ga Văn Xá áp sát bìa làng Liễu Cốc Thượng, Quê
Chữ, Thanh Lương, cố chiếm lại đoạn đường Quốc lộ 1 từ ga Văn Xá vào Huế. Lúc này ở
mặt trận Huế, địch ở căn cứ Mang Cá đánh lấn ra vùng sân bay Tây Lộc, cố chiếm lại khu
vực cửa Chánh Tây, cửa An Hòa và cửa Hữu. Bộ đội và du kích đã chống trả kiên cường,
cả hai bên ta và địch đều thương vong lớn.
Chiều ngày 26-2-1968, một đơn vị vũ trang huyện phối hợp với du kích Hương
Thạnh do đồng chí Trần Hưng Lễ chỉ huy làm nhiệm vụ cảnh giới, bảo vệ tuyến hành lang
từ rừng núi về Văn Xá Trung - Liễu Nam để tối đơn vị làm nhiệm vụ hậu cần tại Phước
Yên (Quảng Điền) đưa thương binh lên hậu cứ. Khoảng 6 giờ chiều, ta phát hiện khoảng
1 trung đội thám báo Mỹ đang phục kích tại các lăng mộ sát trục đường vào cổng ấp chiến
lược Văn Xá Trung - Liễu Nam nên đã tập trung hỏa lực diệt gọn trung đội thám báo này,
bảo đảm tuyến hành lang vận chuyến thương binh.
Sáng 27-2-1968, địch đã cơ bản chiếm lại Huế. Chúng tổ chức lực lượng từ Huế kéo
ra, từ Đông Lâm, Tứ Hạ kéo vào, Bao Vinh kéo lên. Tất cả hợp điểm trên đường Quốc lộ
1, chia thành nhiều mũi lùng sục vùng giáp ranh chân núi và đánh xuống làng Thanh
Lương để truy kích ta. Cùng với việc dội bom, bắn pháo cấp tập xuống cửa rừng và hậu
cứ hai huyện Hương Trà, Phong Điền, kể cả bom từ máy bay B52, là pháo hạng nặng từ
các tàu chiến Mỹ thuộc Hạm đội 7 ngoài biển dội vào.
Lúc này trên chiến trường Hương Trà chỉ còn cán bộ lãnh đạo huyện, bộ đội địa
phương, du kích các xã và lãnh đạo các xã bám trụ lại để ổn định tinh thần quần chúng,

79
tìm gom thương binh còn lại trên địa bàn, để tiếp tục đưa lên hậu cứ và giúp đỡ đồng bào
Huế hồi cư trở lại thành phố.
Sáng ngày 27-2-1968, khi quân Mỹ và quân đội Sài Gòn ở Đông Lâm, Tứ Hạ hành
quân lên làng Văn Xá Thượng, đoàn phụ nữ đang gánh 10 thương binh do đồng chí
Hoàng Thế Bân dẫn lên rừng vẫn còn ở làng An Đô, chưa lên tới bìa rừng. Đồng chí
Hoàng Thế Bân đã phân công đồng chí Nguyễn Thị Hằng, đồng chí Hà Xuân Cúc, Xã đội
trưởng Hương Thái và một số cán bộ du kích triển khai chặn đánh địch ở Văn Xá Thượng
- Liễu Nam. Cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt, ta đã kìm được chân địch, đưa thương
binh và cán bộ phục vụ hậu cần mặt trận theo đường tắt vào tới ngã ba Khe Cát an toàn.
Những ngày tiếp theo quân Mỹ và quân đội Sài Gòn vẫn tiếp tục lùng sục khắp nơi
trong huyện nói chung và Hương Văn (Hương Thạnh) nói riêng, đã bắt bớ, tra khảo rất
nhiều người và đưa đi giam tù nhiều năm sau đó. Nhiều làng mạc, thôn xóm như Văn Xá
Thượng, Văn Xá Trung… bị bom đạn cày xới, và người dân bị lùa về những ấp chiến
lược gần Tứ Hạ và dưới Quốc lộ 1.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 giành được thắng lợi to lớn, nhiều nơi
chính quyền của địch ở thôn, xã, các đảng phái phản động và quân địa phương bị tan rã,
nhiều binh lính địch mang cả vũ khí về với cách mạng. Trong thắng lợi chung đó có
những đóng góp nhất định của cán bộ, đảng viên và nhân dân Hương Văn, đã hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ thu mua, vận chuyển lương thực, thuốc men, thương binh, tử sỹ, đưa
các đơn vị vượt sông tấn công địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ căn cứ hành lang suốt
thời gian ta làm chủ thành phố Huế. Đã tổ chức thu mua hàng trăm tấn lương thực và
hàng trăm dân công đã tham gia nhiệm vụ vận chuyển phục vụ chiến dịch.
Bị đòn đau, Mỹ - ngụy đã ráo riết tăng cường lực lượng và phương tiện chiến tranh,
bao gồm những đơn vị tinh nhuệ của quân đội Mỹ như Sư đoàn 1 “Anh Cả Đỏ”, Sư đoàn
25 “Tia chớp nhiệt đới”, Lữ đoàn dù 101 và quân ngụy quyết truy kích “Việt Cộng đến
cùng”. Sau khi lực lượng ta rút khỏi đồng bằng chúng đã dùng lực lượng kỵ binh bay Mỹ,
lính dù ngụy với chiến thuật “vồ mồi” đổ quân chốt giữ các điểm cao chiến lược tại khu
vực hậu cứ của ta; dùng cối 106,7mm ở căn cứ Ti-bon (Hòn Vượn), pháo từ Hạm đội 7
bắn phá suốt ngày đêm, dùng máy bay B52 ném bom hủy diệt, rải chất độc hóa học ở
vùng rừng núi hậu cứ của ta. Chúng chiếm các điểm cao nhằm khống chế lực lượng ta; ở

80
vùng giáp ranh chúng cho quân tấn công vào vùng đồi Sim, Khe Cát, Khe Điên là khu hậu
cứ của huyện... gây ra cho ta rất nhiều khó khăn và tổn thất, nhất là khu vực hậu cứ đang
còn rất nhiều cán bộ, thương binh ở đó. Đối với địa bàn Hương Văn, địch tiến hành ném
bom hủy diệt, cho xe cày ủi, nhiều thôn hầu như không còn một nóc nhà, không còn một
cành cây, ngọn cỏ nguyên vẹn...
Về phía ta, đại bộ phận lực lượng chủ lực của tỉnh và quân khu đã rút hết, chỉ còn lại
chủ yếu là lực lượng địa phương. Mặc dù về lực lượng được tăng cường (do trong chiến
dịch ta đã đưa một số lượng lớn thanh niên ở đồng bằng lên rừng) nhưng chưa có kinh
nghiệm chiến đấu, chưa được tôi luyện trong điều kiện gian khổ, khốc liệt của chiến
tranh. Cùng với đó là tình trạng thiếu thốn lương thực, thuốc men trầm trọng, làm cho tình
hình đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Thương binh thiếu thuốc chữa bệnh, người lành
thiếu ăn sinh bệnh tật, địch lại tăng cường truy quét..., dẫn đến một số ít cán bộ, chiến sĩ
bị dao động, có người đã chiêu hồi, đầu hàng địch. Ở đồng bằng, địch dồn dân vào các
khu tập trung, các cơ sở mật của ta trước đây đã tung ra hết trong cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) nên đã lộ, số còn lại bên trong rất ít.
Trước tình hình đó, Huyện ủy chủ trương chấn chỉnh lại đội hình, bộ phận ốm đau
được đưa lui tuyến sau hoặc ra miền Bắc an dưỡng, điều trị và học tập, số trung kiên còn
lại bổ sung cho các đội công tác, huyện đội, an ninh, biên chế lại thành các mũi tinh gọn
về lại đồng bằng hoạt động. Nhiệm vụ là tiếp tục bám trụ tại hậu cứ, tìm cách móc nối,
xây dựng lại cơ sở bên trong, thu mua lương thực, thực phẩm để ổn định đời sống cho cán
bộ, chiến sĩ và tổ chức đánh địch.
Nhờ có chủ trương đúng đắn đó nên phong trào kháng chiến từng bước được phục
hồi, phát triển. Đội công tác các xã dọc theo vùng trên Quốc lộ 1 dưới sự phụ trách của
một số đảng viên trung kiên đã củng cố lại lực lượng, hình thành các bộ phận tinh gọn về
bám lại địa bàn nắm tình hình, xây dựng cơ sở, giải quyết vấn đề kinh tế cho huyện. Tại
Hương Văn (Hương Thạnh), đội công tác được chia làm 2 bộ phận để bám nắm địa bàn,
vùng dưới gồm các đồng chí Hồ Văn Tứ (Huyện ủy viên, đội trưởng đội công tác, Bí thư
xã), Nguyễn Tề (Xã đội phó), Nguyễn Văn Đơ, Nguyễn Văn Di, một số thanh niên mới
tham gia cùng với 1 tổ trinh sát vũ trang do đồng chí Hoàng Thế Đoàn, đội trưởng; vùng
trên (khu vực Văn Xá Trung, Văn Xá Thượng, Liễu Nam, Liễu Thượng, Thanh Khê) gồm

81
các đồng chí Nguyễn Văn Toàn (Xã đội trưởng), Trần Xuân Diêm, Hồ Thị Chẻo, Phạm
Thị Mão, Đặng Thị Cúc, Trương Xứ 1 và 1 tổ trinh sát vũ trang do đồng chí Pháo, đội phó
phụ trách. Với nhiệm vụ chính là tìm cách móc nối, gây dựng lại cơ sở, đội công tác xã và
tổ trinh sát vũ trang huyện đã kiên cường bám trụ, đào hầm bí mật, nắm tình hình chung,
xác định tư tưởng cho cơ sở… Tuy nhiên, đối với Hương Thạnh đây là giai đoạn rất khó
khăn, ác liệt, cả 2 vùng trên, dưới của xã lực lượng của ta đều bị thiếu đói, sự hỗ trợ của
nhân dân rất hạn chế do bị dồn vào các ấp chiến lược, trong khi đó còn phải chia bớt phần
lương thực ít ỏi cho lực lượng của 2 xã Quảng Lộc, Quảng Ninh (huyện Quảng Điền) do
2 vùng này bị địch chà xát mạnh. Điều kiện quá khó khăn, địch khủng bố gắt gao dẫn đến
một số thanh niên mới tham gia trong Mậu Thân 1968 có biểu hiện giao động; cùng với
đó là tình hình chiêu hồi, hàng địch của một số cán bộ trước đây đã gây nhiều tổn thất cho
ta, từ cán bộ đến cơ sở bí mật. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện ủy chủ trương
cho cán bộ bám lại vùng trên, nhiệm vụ chủ yếu là tìm kiếm nguồn lương thực, thực
phẩm, đào hầm bí mật để khi thuận lợi có thể về lại vùng dưới, vùng này không chủ
trương hoạt động vũ trang, chỉ có hoạt động diệt, bắt một số gián điệp ngóc đầu dậy để ổn
định tình hình; vùng dưới chỉ để lại đồng chí Hồ Văn Tứ và tổ trinh sát vũ trang 3 người
có nhiệm vụ tìm cách móc nối lại cơ sở, ổn định phong trào.
Sau một thời gian, đội đã làm được một số hầm bí mật tại Văn Xá Trung (ở vườn
ông Trần Xuân Sởi, chị Phạm Thị Mai, bà Cặn, chị Dàng, chị Huế), Văn Xá Thượng (nhà
ông Phạm Cải, chị Điền), móc nối trở lại một số cơ sở và đặc biệt đã cung cấp được một
số lương thực, thực phẩm, giải quyết phần nào tình trạng khó khăn về hậu cần. Ngoài ra,
cũng đã tổ chức một số trận đánh “như trận đánh 1 tiểu đoàn Mỹ và 8 xe M113 của trung
đội du kích tập trung thôn Văn Xá Trung, liên tục 3 ngày buộc chúng phải rút lui; tiểu đội
du kích thôn tại Văn Xá Thượng đánh 1 đại đội lính Mỹ từ căn cứ Tứ Hạ lên. Cả 2 trận
này có 1 trung đội cối của lực lượng chủ lực đánh hỗ trợ, ta tiêu diệt gần 100 tên, bắn rơi
2 máy bay” 2. Tình hình kháng chiến của Hương Văn đến cuối năm 1968 đã từng bước
được phục hồi.

. Trương Xứ sau ngày giải phóng bị phát hiện có làm nội gián cho địch.
1

. Sơ kết tình hình xã Hương Thạnh trước và sau Mậu Thân đến nay (9-1971).
2

82
III. ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN HƯƠNG VĂN ĐẨY MẠNH PHONG
TRÀO CÁCH MẠNG, GÓP PHẦN ĐƯA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
ĐẾN THẮNG LỢI (1969-1975)
Thắng lợi của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân 1968 đã làm phá sản chiến lược
“chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Năm 1969, sau khi bước vào Nhà
Trắng, Tổng thống Mỹ Nixon đề ra chiến lược mới - chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”, tăng cường và hiện đại hóa quân đội Sài Gòn để quân đội viễn chinh Mỹ rút về
nước, thực chất là “dùng người Việt đánh người Việt”. Để thực hiện chiến lược này, Mỹ
tiếp tục sử dụng tối đa sức mạnh quân sự để tiến hành cùng một lúc ba loại hình chiến
tranh ở miền Nam, đó là giành dân, bóp nghẹt và hủy diệt, nhằm thực hiện triệt để chương
trình trọng tâm là bình định nông thôn đồng bằng, làm cho cách mạng mất chỗ dựa đi đến
suy yếu.
Đế quốc Mỹ coi chiến trường Trị - Thiên - Huế là một trong những chiến trường
trọng điểm để chúng thực hiện ba loại hình chiến tranh nói trên. Địch tăng cường huy
động các đội quân gồm các phần tử chống cộng mang tên “Phượng Hoàng”, “Thiên Nga”,
tập trung lực lượng lớn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn liên tục mở các chiến dịch “bình
định cấp tốc”, “bình định đặc biệt” ở nông thôn đồng bằng, tiến hành ngăn chặn lực lượng
của ta từ xa, đánh phá miền núi và hành lang chiến lược Bắc - Nam đoạn qua Thừa Thiên
Huế.
Đối với Hương Văn, với mục đích biến nơi đây thành vành đai an toàn cho chúng,
ngoài lực lượng chủ lực cơ động, trên địa bàn xã địch “có 4 trung đội dân vệ, 1 đại đội
bảo an, 1 đoàn “bình định nông thôn” 32 tên, 20 tên CIA Mỹ, 280 tên phòng vệ dân sự (có
150 nữ) được trang bị vũ khí đầy đủ” 1; thành lập tổ chức Phượng Hoàng ở xã nhằm “tiêu
diệt hạ tầng cơ sở của cộng sản”, “sưu tầm cán bộ cộng sản hoạt động nằm vùng”, tiến
hành phân loại nhân dân trong xã để dễ dàng đối phó và đàn áp. Mặt khác, để đẩy mạnh
hoạt động tuyên truyền phản cách mạng chúng thành lập “ban chiêu hồi” do ủy viên thông
tin phụ trách; hình thành đoàn “xây dựng nông thôn” thay phiên nhau về sống trà trộn
trong dân với khẩu hiệu “cùng ăn, cùng ở, cùng làm”. Mục tiêu của địch là đẩy mạnh
chiến tranh gián điệp, chiến tranh tâm lý, chiêu hồi, đánh phá hạ tầng cơ sở của ta. Mặc

. Sơ kết tình hình xã Hương Thạnh trước và sau Mậu Thân đến nay (9-1971).
1

83
khác, chúng còn ra sức củng cố ngụy quân, ngụy quyền thôn xã, giao cho chủ tịch xã nắm
lực lượng dân vệ, ấp trưởng nắm lực lượng phòng vệ dân sự. Thủ đoạn của địch là dùng
lực lượng quân sự ngăn chặn ở cửa rừng, phục kích các trục đường ta về đồng bằng, phục
kích trong làng để khủng bố, đánh phá phong trào như tại Văn Xá Trung bắt 5 người…,
đồng thời dùng lực lượng quân sự cùng với gián điệp tổ chức lùng sục, càn quét xăm hầm,
đốt bờ bụi, đốt đồi núi trọc. Trước sự gia tăng hoạt động của địch ta đã gặp nhiều khó
khăn và tổn thất như tại Văn Xá Thượng ta bị quật hầm bí mật làm 1 đồng chí hy sinh, 2
đồng chí bị bắt; tại Văn Xá Trung có 2 đồng chí bị hy sinh. Để tiến hành bình định cấp tốc
đợt 2, tại Hương Văn chúng xúc dân về các vùng tập trung ven đường Quốc lộ 1 và gần
các căn cứ của chúng như: thôn Văn Xá Thượng dồn về gần Tứ Hạ, thôn Văn Xá Trung
về sát Quốc lộ 1.
Lúc này đội công tác xã có sự thay đổi, đầu năm 1969, đồng chí Hồ Văn Tứ, Đội
trưởng đội công tác, Bí thư chi bộ xã được Huyện ủy điều chuyển lên vùng trên và sau đó
được bổ sung vào Ban Thường vụ Huyện ủy làm Trưởng Ban An ninh huyện, đồng chí
Nguyễn Công Trung, Huyện ủy viên được chỉ định làm Đội trưởng đội công tác, Bí thư
xã, đồng chí Phạm Thị Mão - Phó Bí thư. Mặc dù địch đẩy mạnh càn quét, tìm cách đánh
bật lực lượng ta ra khỏi nhân dân nhưng tại Hương Văn cán bộ vẫn kiên cường bám trụ để
móc nối cơ sở, củng cố phong trào trong điều kiện hết sức gay go, phải liên tục di chuyển
chỗ ở để tránh sự truy lùng của địch, vừa để tìm nguồn lương thực, vừa để gây dựng lại
phong trào; đội công tác xã cũng đã phối hợp với lực lượng của huyện tổ chức được một
số hoạt động vũ trang nhằm để gây tiếng vang, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của nhân
dân như đánh địc tại trường tiểu học Văn Xá, đánh vào ga Văn Xá... Từ những cố gắng
đó, đến đầu năm 1969 ở Hương Văn phong trào từng bước được phục hồi, ta đã tổ chức
thu mua được lương thực, thực phẩm cho xã và một phần cho huyện. Thông qua việc bám
nắm cơ sở ta đã tổ chức cho nhân dân đấu tranh chính trị chống địch như đấu tranh bảo vệ
mùa màng, chống bắt lính, chống vào phòng vệ dân sự, chống tuần tra, canh gác, phục
kích, chống đi ngủ tập trung, chống kêu gọi chiêu hồi, vận động quần chúng nhân dân đấu
tranh về làng cũ làm ăn… diễn ra khá mạnh.

84
Bước vào năm 1970, mặc dù tuyên bố rút quân viễn chinh về nước và tăng cường
quân đội Sài Gòn, nhưng thực tế tại Thừa Thiên Huế, Mỹ vẫn tiếp tục duy trì lực lượng và
củng cố thêm các căn cứ của chúng trước đó.
Tháng 1-1970, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) họp Hội nghị lần thứ 18,
đề ra phương hướng, nhiệm vụ công tác trước mắt: Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền đánh bại âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh”
của đế quốc Mỹ, giành thắng lợi từng bước, đi đến giành thắng lợi quyết định, đánh cho
Mỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy phải suy sụp, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một
miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà 1.
Để tạo thế khôi phục lại phong trào ở đồng bằng, đánh bại một bước quan trọng kế
2
hoạch bình định của địch, việc tác chiến ở vùng giáp ranh và xây dựng “4 nhân tố mới”
ở đồng bằng được xác định là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách ở Hương Trà. Lúc này ở
Hương Trà ngoài lực lượng vũ trang của huyện còn có lực lượng K10, K-ĐKB, trinh sát
vũ trang, biệt động thành, trinh sát Quân khu, đơn vị hậu cần, đặc công Khu, đồng thời
Quân khu và tỉnh còn tăng cường cho Hương Trà 2 đại đội đặc công và 2 đại đội bộ binh
chia nhỏ cho các mũi và các xã ở đồng bằng mà sự hoạt động còn yếu. Huyện ủy đã đề
nghị cấp trên tập trung các lực lượng nói trên vào 4 xã Hương Văn (Hương Thạnh),
Hương Mai, Hương Thái, Hương Bình, mỗi xã thành lập Đảng ủy, các đồng chí chỉ huy
các đơn vị đứng chân trên địa bàn huyện tham gia sinh hoạt Huyện ủy. Từ đây kế hoạch
bảo vệ vùng giáp ranh Hương Trà được củng cố và tăng cường, từ Khe Điên ra đến núi
Trọc, từ độn Cây Mao (Hương Vân) đến dốc Dẽ lên miếu Vàng Bạc (Hương Mai) đều có
phân công địa giới bố phòng, canh gác, nhất là ở các cửa rừng ta thường lên xuống đồng
bằng.
Tại Hương Văn, thủ đoạn của địch là dùng lực lượng chủ lực đánh phá càn quét
vùng giáp ranh, đồi núi trọc, phục kích ngăn chặn cửa rừng, các đường hành lang lên về
đồng bằng của ta, phục kích men các làng. Ở đồng bằng, chúng dùng lực lượng địa
phương, bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự, cùng gián điệp lùng sục, vây ráp, xăm hầm tìm
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 31 (1970), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1

2004, tr. 117.


. 4 nhân tố: Đảng lãnh đạo, lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị, lực lượng du kích và chiến tranh du
2

kích, địa bàn đứng chân và hành lang (hay còn gọi là địa bàn lõm).
85
cán bộ, cơ sở để tiêu diệt, mục đích đánh bật ta ra khỏi nông thôn để tiến hành bình định.
Nơi nào chúng nghi có cơ sở ta mạnh chúng cho quân nằm lì tại chỗ để tìm và phát hiện
cơ sở như thôn Văn Xá Thượng luôn có 1 đại đội địa phương quân thường trực tại đây. Về
chính trị, “chúng tổ chức các đảng phái phản động, mạng lưới gián điệp với đa số là nữ và
thiếu niên; tăng cường chính sách chiêu hồi, mị dân, xuyên tạc, phao tin thất thiệt, dùng
vật chất để dụ dỗ; đẩy mạnh các thủ đoạn kinh tế như dùng chất độc giết trâu bò tại Văn
Xá Thượng (40 con trâu), đưa máy cày, máy bơm, máy xay gạo và tổ chức dân thành các
tổ hợp từ 5-7 người nhằm để ràng buộc và kiểm soát người dân; về mặt văn hóa chúng
dùng văn hóa đồi trụy đầu độc thanh niên, cho tiền một số đối tượng để ăn chơi trụy lạc,
thủ đoạn này đã làm hư hỏng một số thanh niên như tại Văn Xá Làng có 4 thiếu niên đi ăn
cướp của dân, làm cho dân hoang mang, lo sợ; gia tăng bóc lột như trước đây một vụ mùa
chúng thu 25% nay lấy 33% tức là dân thu hoạch được 9 gánh lúa chúng lấy 3 gánh” 1.
Trước những thủ đoạn của địch, Huyện ủy chủ trương đi vào quần chúng để xây
dựng cơ sở, xây dựng Đảng và phát triển du kích. Để tạo điều kiện cho cán bộ về bám
nắm cơ sở một cách an toàn, Huyện ủy đã tổ chức một lớp tập huấn tại hậu cứ khe Đầy
với nội dung: “Cắm chốt cán bộ vào cơ sở, bồi dưỡng tư tưởng tiến công cách mạng cho
lực lượng cốt cán bí mật hoạt động trên các địa bàn”. Sau lớp tập huấn, đội công tác các
xã đã phân công cán bộ, đảng viên trở về địa bàn, trước mắt là về tìm gặp người quen, bà
con, cơ sở trước đây để tìm cách trụ bám. Tại Hương Văn, ngoài đội công tác xã còn có
đội công tác cánh Bắc thành phố Huế đã tìm cách móc nối một số cơ sở như nhà bà Lê
Thị Bưởi, nhà ông Đặng Đống (bí danh H30), nhà bà Đỗ Thị Mượn… Trong điều kiện
địch ra sức khủng bố, đàn áp và luôn theo dõi những gia đình có quan hệ với cách mạng
thì sự che dấu, nuôi dưỡng của những gia đình cơ sở trên là một sự hy sinh hết sức lớn
lao, thậm chí có lúc phải trả bằng tính mạng của cả gia đình. Chính từ sự lăn lộn vào trong
dân để xây dựng phong trào kháng chiến nên tại Hương Văn đến cuối năm 1970 phong
trào được củng cố, cơ sở phát triển nhiều hơn; đã xây dựng được đường dây hợp pháp từ
Thanh Lương lên chợ Văn Xá gồm các chị Đinh Thị Ba (chợ Kệ), chị Dương Thị Lan, chị
Dương Thị Chùm, chị Lụa (chợ Văn Xá) bảo đảm thông suốt về liên lạc, nhất là các đồng
chí về bám trụ không lên được thì đường dây hợp pháp vẫn bảo đảm được thông tin; đã

. Sơ kết tình hình xã Hương Thạnh trước và sau Mậu Thân đến nay (9-1971).
1

86
xây dựng 1 chi bộ tại Văn Xá Trung có 4 đồng chí, 1 tổ du kích có 3 em đã lấy lựu đạn
của địch đem về cho ta; đẩy mạnh đấu tranh chính trị, vận động quần chúng đấu tranh bảo
vệ mùa màng, chống tập trung lúa thành công. Đồng thời đẩy mạnh đánh địch như đánh
nhiều trận tại cửa rừng diệt 7 tên, làm bị thương 5 tên; đánh phản phục kích 2 trận diệt 10
tên, làm bị thương 7 tên; tăng cường trừ gian như tại Văn Xá Làng diệt 2 tên trong đó có 1
tên là quận ủy Cần lao... Mặc dù thời gian này không có các trận đánh lớn nhưng đã góp
phần quan trọng trong cảnh cáo, răn đe địch và hỗ trợ cho các hoạt động bám, nắm, xây
dựng cơ sở trong dân, nhất là tại các địa bàn “trắng” cơ sở trước đây. Đầu năm 1971, đồng
chí Nguyễn Công Trung - Huyện ủy viên, Đội trưởng đội công tác xã Hương Văn (Hương
Thạnh) hy sinh; đồng chí Hoàng Thế Đoàn - Huyện ủy viên, Phó Ban An ninh huyện, Đội
trưởng đội Trinh sát vũ trang an ninh, được Ban Thường vụ Huyện ủy chỉ định làm Bí
thư. Đến 4-1971, đồng chí Hoàng Thế Đoàn được điều trở lại đơn vị, Huyện ủy cử đồng
chí Phạm Thị Mão, Hội phó Hội Phụ nữ huyện kiêm Bí thư xã.
Sau thất bại của cuộc hành quân “Lam Sơn 719”, trong hai tháng 3 và tháng 4-1971,
ngụy quân, ngụy quyền hết sức hoang mang, giao động. Tại Hương Văn chúng đôn 2
trung đội lính nghĩa quân lên lính địa phương quân và chủ lực, lực lượng phòng vệ dân sự
tan rã, một số trả súng, phần lớn còn lại không đi ngủ tập trung, chỉ còn 11 tên còn ngủ
tập trung và canh gác. Nhưng đến đầu tháng 5-1971, địch lại phản kích mạnh và tăng
cường lực lượng. Ngoài liên đoàn địa phương quân của các xã vùng trên, chúng tăng thêm
5 đại đội chủ lực, địa phương quân và tiến hành đóng quân trong làng để khống chế quần
chúng, đêm tối phục kích nhiều tuyến ngoài làng, cửa rừng và các đường hành lang của
ta, giăng từng tuyến mìn và gây cho ta một số tổn thất, đã có 20 đồng chí hy sinh trong
giai đoạn này.
Cùng với việc tăng cường lực lượng trấn áp, chúng còn đẩy mạnh tuyên truyền
xuyên tạc về tình hình, phao tin thất thiệt, khống chế quần chúng, làm cho quần chúng
căng thẳng về tinh thần; đẩy mạnh việc khống chế và mua chuộc gia đình có quan hệ với
cách mạng; tổ chức gián điệp rộng rãi trong nhân dân, ai chúng cũng giao nhiệm vụ
nhưng có lực lượng cốt cán của chúng nắm từng người; thủ đoạn chiêu hồi được tiến hành
thường xuyên, trong ngụy quyền xã có 1 ủy viên chiêu hồi. Các hoạt động gián điệp đã
gây tổn thất cho ta như “tại Văn Xá chúng đã phát hiện và giết hại đồng chí Cao Thọ

87
Bình, Huyện ủy viên và đồng chí Tá bảo vệ Văn phòng Huyện ủy, ở Liễu Thượng hy sinh
đồng chí Lo của K10” 1. Về thủ đoạn kinh tế, ngoài việc giết trâu bò, đưa máy cày, máy
xay gạo chúng còn đẩy mạnh chương trình bình định nông thôn như tuyên truyền chính
sách điền địa của Nguyễn Văn Thiệu, cho vay vốn, bán giống lúa, giống heo, gà, trợ cấp
bão lụt mỗi gia đình 1.000 đồng, riêng gia đình có quan hệ với cách mạng là 500 đồng.
Các thủ đoạn này rất thâm độc, dễ làm cho người nông dân thỏa mãn và mắc mưu của
chúng như thông qua máy cày, máy xay gạo chúng tập hợp được người dân, kiểm soát và
nắm chắc thu hoạch của người dân; tiến hành bao vây kinh tế của ta thông qua kiểm soát
được lượng gạo tiêu thụ trong từng gia đình. Về văn hóa, xã hội chúng dùng phim ảnh đồi
trụy, tạo dựng phồn hoa giả tạo, lưu manh hóa thanh niên làm cho thanh niên hư hỏng như
trường hợp 5 thành niên tại Văn Xá Làng vào nhà dân dùng lựu đạn đòi tiền ăn chơi…
Trước tình hình đó, Đội công tác của xã đã bám trụ, lãnh đạo quần chúng đấu tranh
chính trị, binh vận có hiệu quả như đấu tranh bảo vệ mùa, không cho địch tập trung lúa,
đặc biệt là phong trào đi tìm và đòi chồng con sau trận Lam Sơn 719, có ngày huy động
trên 500 người vào Mang Cá, ra Đông Hà làm cho địch rất bối rối; phong trào chống bắt
lính, chống đôn quân, kêu gọi đào bỏ ngũ diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các thôn… Song song
với việc lãnh đạo nhân dân đấu tranh chính trị chống địch, công tác xây dựng lực lượng
cũng được tăng cường. Trong xây dựng Đảng, thông qua phong trào đã kết nạp được một
số quần chúng trung kiên vào Đảng như đồng chí Phạm Thị Phụ (bí danh Phóng), đồng
chí Phạm Thị Chắt (bí danh Hùng), đồng chí Lê Thị Quýt. Các buổi lễ kết nạp Đảng đều
được tổ chức bí mật tại nhà các cơ sở, mặc dù diễn ra ngay trong lòng địch nhưng hết sức
trang trọng với đầy đủ ảnh chân dung Bác Hồ, cờ Đảng, khẩu hiệu và lời tuyên thệ của
người vào Đảng; đặc biệt có buổi lễ có sự trực tiếp tham dự của đồng chí Bí thư Huyện ủy
Nguyễn Hữu Hường (Thọ Hường) lúc này đang ở hầm bí mật để chỉ đạo phong trào. Đến
tháng 9-1971, toàn xã “có 2 chi bộ thôn với 10 đảng viên, trong đó có 9 đảng viên chính
thức, 3 nam, 6 nữ, có 5 đảng viên mật; đã bồi dưỡng bí mật 4 đối tượng; Đảng ủy xã có 4
đồng chí. Về xây dựng cơ sở đã xây dựng được 106 cơ sở, gồm: 17 cán bộ thôn xóm
(trong đó có 6 tổ trưởng), 2 tổ du kích 6 em, 1 tổ phụ nữ 5 chị, 1 tổ bà mẹ 3 bà, 1 tổ nông

. Sơ kết tình hình xã Hương Thạnh trước và sau Mậu Thân đến nay (9-1971).
1

88
hội 3 người, 1 tổ phụ lão 3 cụ và 70 cơ sở chưa ghép vào tổ chức” 2, Chi bộ mật tại Văn
Xá gồm có 4 đồng chí Phạm Thị Mai, Phạm Thị Chắc, Phạm Thị Phụ, Lê Thị Quýt, do
đồng chí làm Phạm Thị Mai làm Bí thư. Tình hình chung của xã trong năm 1971 trên cả
vùng được duy trì, phát triển, các cơ sở ổn định tư tưởng nên đã tích cực thu mua lương
thực, thực phẩm và làm công tác nắm tình hình cho cán bộ nằm vùng; đội công tác xã đã
phối hợp với huyện đội, trinh sát vũ trang huyện tổ chức được một số trận đánh vào các
khu tập trung như tại xóm mới Văn Xá Trung, Văn Xá Thượng, bến xe Văn Xá, lô cốt Phủ
Thờ, mặc dù các trận này tiêu diệt địch rất ít nhưng có tác dụng hỗ trợ cho nhân dân đấu
tranh đòi về làng cũ…
Ngày 25-1-1972, Ban Thường vụ Đảng ủy Quân khu Trị - Thiên - Huế ra nghị quyết
động viên mọi lực lượng với nỗ lực cao nhất, đẩy mạnh tiến công địch, chủ động giành
thắng lợi lớn nhất trong mọi tình huống. Ngày 22-3-1972, Quân ủy Trung ương quyết
định mở cuộc tiến công chiến lược, hướng chủ yếu là chiến trường Trị - Thiên. Bộ Quốc
phòng và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch, lấy tên là
BTL 702 với nhiệm vụ: Tiến công vào tuyến phòng ngự của địch ở Trị - Thiên, tiêu diệt
một bộ phận quan trọng sinh lực địch. Phối hợp với chủ lực và phong trào nổi dậy của
quần chúng để giải phóng Quảng Trị, nắm thời cơ có lợi giải phóng hoàn toàn Thừa Thiên
Huế.
Thực hiện nghị quyết của trên, trong bối cảnh ở Hương Trà lực lượng ta đã bám trụ
và đứng vững ở vùng giáp ranh nhưng địa bàn còn bị thu hẹp, bốn phía đều có địch đóng
quân, đòi hỏi phải luôn đề cao cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu cao. Để phối hợp với đòn
tiến công quân sự của quân chủ lực nhằm giành thắng lợi lớn, Huyện ủy chủ trương cho
toàn lực lượng triển khai về 4 xã Hương Văn (Hương Thạnh), Hương Bình, Hương Vĩnh,
Hương Thái. Lực lượng được bố trí như sau: lực lượng vũ trang của tỉnh, thành phố và
huyện chiếm giữ và bảo vệ vùng giáp ranh, tạo điều kiện cho Sư đoàn 324 bí mật triển
khai về đánh địch ở đồng bằng; các lực lượng giáp ranh đêm tối về đồng bằng bắt liên lạc
lực lượng bên trong để đánh địch; xây dựng hầm bí mật tại phe Tư - Văn Xá Làng để giấu
quân đánh cắt giao thông tại Quốc lộ 1, phối hợp với chiến trường Quảng Trị.

. Sơ kết tình hình xã Hương Thạnh trước và sau Mậu Thân đến nay (9-1971).
2

89
Tại Hương Văn (Hương Thạnh), sau khi đồng chí Phạm Thị Mão, Bí thư xã bị
thương ra Bắc điều trị vào tháng 3-1972, Huyện ủy đã phân công đồng chí Hồ Thị Chẻo
làm Đội trưởng đội công tác, Bí thư xã. Đội công tác đã tích cực bám trụ hoạt động ở
vùng trên để phát động quần chúng, xây dựng “4 nhân tố mới”. Ở vùng dưới, chủ yếu là
khu vực Văn Xá Làng, Thanh Lương, là địa bàn đứng chân hoạt động của đội công tác
vùng sâu gồm 5 đồng chí do đồng chí Hoàng Thế Đoàn làm Đội trưởng đội trinh sát vũ
trang huyện kiêm Đội trưởng đội công tác vùng sâu. Vùng này còn là nơi đứng chân của
lực lượng của Thành ủy Huế gồm đồng chí Trần Thị Lành và Lê Văn Ten. Với những nỗ
lực của cán bộ, đảng viên bám trụ, tại Hương Văn ta đã tiến hành thanh khiết và hình
thành một số cơ sở trong các ngành, các giới như du kích mật, an ninh mật, binh vận,
thanh niên nhân dân cách mạng, phụ nữ; tiếp tục xây dựng lực lượng bên trong các tổ
chức của địch để nắm tình hình, tổ chức đưa nhân dân vào Huế, về quận lỵ Hương Trà đòi
trả chồng con; tập trung xây dựng cơ sở và hầm bí mật trong nhà dân như tại nhà bà Đỗ
Thị Mượn và con dâu Đặng Thị Quýt có 2 hầm trong vườn và trên gầm nhà có lúc che
giấu đến 6 cán bộ, nhà ông Đặng Đống có 2 hầm, nhà bà Lê Thị Bưởi, Nguyễn Đình
Nhuận, Nguyễn Đình Hanh đều có hầm bí mật… Đây là các cơ sở không chỉ nuôi dấu cán
bộ xã mà còn là nơi nuôi dấu và là cơ sở của huyện, thành phố, tỉnh đứng chân chỉ đạo
phong trào.
Bước vào năm 1973, tình hình chung trên chiến trường có nhiều thuận lợi, thế và lực
của ta đã có bước phát triển mới. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết đã tạo nên một bước ngoặt quan trọng
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta. Theo Hiệp định, Mỹ phải rút quân
viễn chinh ra khỏi miền Nam, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân
Việt Nam, thừa nhận ở miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội và hai vùng
kiểm soát.
Lợi dụng tình hình ta đang củng cố lực lượng, địch đã tập trung quân, tiến hành bình
định nông thôn một cách quyết liệt, tổ chức cắm cờ, vẽ cờ (lá cờ của chính quyền Sài
Gòn), ra sức chiếm đất, giành dân với ta. Chúng phát triển mạng lưới tình báo, mật vụ ở
nông thôn để phát hiện, tiêu diệt cơ sở cách mạng của ta, đồng thời kết hợp các biện pháp
kinh tế, chính trị để chia rẽ, cô lập lực lượng cách mạng với quần chúng. Chúng thành lập

90
“Ủy ban Phượng hoàng”, thực hiện “đoàn ngũ hóa”, “vô hiệu hóa”, đồng thời tổ chức đưa
dân về làng cũ, một mặt là để cài cắm gián điệp, mật vụ theo dõi hoạt động của ta, mặt
khác là để mị dân, cho đây là một chính sách quan tâm đến dân. Cùng với các hoạt động ở
đồng bằng, địch còn tổ chức đánh chiếm vùng giải phóng ở giáp ranh và rừng núi.
Trước tình hình đó, ta chủ trương động viên cán bộ, chiến sĩ, đảng viên dù rất ác liệt,
phải về cơ sở, củng cố cơ sở Đảng và quần chúng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính
trị phù hợp với tình hình mới. Xác định “vũ khí là Hiệp định Paris”, ta tiến hành đẩy
mạnh tuyên truyền về Hiệp định, hòa hợp, hòa giải dân tộc, đẩy mạnh đấu tranh binh vận,
Đội công tác xã đã khắc phục khó khăn, vượt qua các lớp bố phòng, ngăn chặn của địch,
luồn sâu vào các thôn, xóm để tuyên truyền trong nhân dân về tinh thần Hiệp định, hướng
dẫn cho cơ sở của ta trong các tổ chức khuôn hội Phật giáo, sinh viên, học sinh, giáo
chức, các họ phái... nắm chắc các điều khoản trong Hiệp định Paris, vạch rõ những âm
mưu phá hoại Hiệp định của địch. Đẩy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận, nhất là các gia
đình có người thân đi lính; đẩy mạnh việc xây dựng các cơ sở nội tuyến trong hàng ngũ
lính ngụy, địa phương quân, nghĩa quân, trong ngụy quyền xã, ấp và trong lực lượng
phòng vệ dân sự; đưa cán bộ dự các lớp tập huấn do tỉnh, huyện tổ chức tại hậu cứ sông
Bồ để chuẩn bị cho thời cơ mới.
Từ giữa năm 1974, một hiện tượng mới xuất hiện trên chiến trường miền Nam:
Quân ta đã giải phóng và giữ được hàng chục chi khu quận lỵ mà chính quyền Sài Gòn
đành chịu mất, không còn khả năng lấy lại được. Đây là hiện tượng chưa hề có từ khi
cuộc kháng chiến chống Mỹ bắt đầu. Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị trong các kỳ họp từ
ngày 30-9-1974 đến đầu năm 1975 đã hạ quyết tâm chiến lược: Động viên nỗ lực lớn nhất
của hai miền thực hiện kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 -
1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại
giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền
Nam theo hướng có lợi cho ta, tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị
mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và
làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính
quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam.

91
Lúc này, Đội công tác xã có sự thay đổi, tháng 8-1974 đồng chí Hồ Thị Chẻo được
rút lên huyện và tăng cường cho Đội công tác vùng sâu, Huyện ủy đã phân công đồng chí
Trần Xuân Ngãi - Huyện ủy viên, làm Đội trưởng đội công tác, Bí thư xã Hương Văn
(Hương Thạnh).
Tháng 12-1974, Khu ủy Trị - Thiên - Huế họp, ra nghị quyết về nhiệm vụ trung tâm
số một của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong Khu là: Phá hẳn thế phân tuyến và
đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch, giành dân, giành quyền làm chủ ở nông
thôn và đồng bằng. Trên cơ sở đó, Tỉnh ủy đã đề ra kế hoạch, chỉ tiêu, mức độ giành
quyền làm chủ của từng huyện.
Mệnh lệnh chiến đấu được giao cho Hương Trà và lực lượng thành phố Huế ở cánh
Bắc là phải đánh cho địch co cụm lại, mở hành lang về giáp ranh, đưa cán bộ lãnh đạo và
tổ vũ trang về liên hệ với cơ sở ở đồng bằng, củng cố, xây dựng căn cứ lõm ở vùng sâu
đồng bằng, ven phố và tiếp tục đưa thêm lực lượng vũ trang xuống dưới Khe Trái gần
giáp ranh để hoạt động. Để chuẩn bị đón thời cơ lớn, Huyện ủy đã xác định một số nhiệm
vụ quan trọng cần tập trung thực hiện, đó là:
- Tập trung củng cố, phát triển phong trào đấu tranh chính trị, xây dựng cơ sở rộng
khắp trong các xã toàn huyện, cả ở vùng sâu (dưới Quốc lộ 1) và vùng ven.
- Thành lập các chi bộ xã ở những xã chưa có, đồng thời tổ chức các hội, đoàn như
thanh niên, phụ nữ, nông hội, học sinh, sinh viên, phụ lão, tiểu thương, hội mẹ chiến sĩ, trí
thức, tộc trưởng...
- Lựa chọn cơ sở giao nhiệm vụ liên lạc, móc nối các xã lân cận, nhất là các xã vùng
sâu, vùng ven, vùng xung yếu.
- Phát động quần chúng làm hầm bí mật, tổ chức các lực lượng tự vệ, đặc biệt chọn
lọc cơ sở nội tuyến để trang bị vũ khí.
- Chuẩn bị địa bàn đứng chân chỉ đạo của huyện - địa bàn lõm, có chi bộ, có các tổ
chức chính trị, xã hội, có đủ chỗ ém quân khoảng 100 người.
Thực hiện nhiệm vụ của Huyện ủy, Đội công tác vùng sâu Hương Văn (Hương
Thạnh), gồm các đồng chí Hoàng Thế Đoàn, Lê Ngọc Anh, Dương Đình Bòn, Nguyễn
Thị Hoa cùng các đồng chí ở thành phố như đồng chí Trần Thị Lành - Bí thư quận I, đồng
chí Lê Văn Ten đã về bám trụ tại Thanh Lương để củng cố tổ chức quần chúng, đào hầm

92
bí mật, xây dựng địa bàn lõm. Bộ phận này đã hoàn thành nhiệm vụ với việc xây dựng
được 12 hầm bí mật có thể che giấu được 1 đại đội.
Ngày 8-3-1975, cùng với toàn Khu, chiến dịch Xuân 1975 ở Thừa Thiên Huế mở
màn. Ngày 14-3-1975, Ban Thường vụ Khu ủy và Quân Khu ủy Trị - Thiên - Huế họp và
ra nghị quyết về phương hướng tiến công tiếp theo và quyết định đợt hai của chiến dịch sẽ
bắt đầu vào ngày 20-3-1975. Trước sự phát triển nhanh chóng của cuộc tổng tiến công
trên toàn miền Nam, nhất là ở Buôn Mê Thuột, Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương chỉ
thị: “Địch có thể rút chạy khỏi Quảng Trị và Bắc Thừa Thiên, co cụm xung quanh thành
phố Huế, do đó phải khẩn trương, mạnh bạo, không đánh theo kế hoạch, từng bước như
trước nữa”. Tỉnh ủy lập tức chỉ thị cho các Huyện ủy phía Bắc chuẩn bị mọi mặt hoạt
động theo tinh thần mới. Cùng với toàn tỉnh, đợt hai của chiến dịch ở Hương Trà bắt đầu.
Ban Thường vụ Huyện ủy Hương Trà khẩn trương tổ chức hành lang đưa bộ đội xuống
đồng bằng và phân công về phổ biến tinh thần hoạt động đợt hai cho các đồng chí huyện
ủy viên, các đội công tác và cơ sở.
Ngày 18 và 19-3-1975, địch đưa 1 tiểu đoàn bộ binh hành quân từ động Tranh qua
chốt chặn hành lang của ta từ trên xuống ở khu vực Khe Trái, đồi Trĩ. Ngày 22-3-1975,
đơn vị C5 được lệnh chặn đánh địch để mở đường cho các đơn vị và cơ quan của huyện
về đồng bằng, sau một hồi nổ súng ta tiêu diệt địch đang chốt tại đồi Trĩ, buộc cả tiểu
đoàn địch phải chạy về Hòn Vượn. Những ngày 22 và 23-3-1975, địch liên tục cho tăng
quân để chốt chặn dọc các đỉnh núi của Hương Trà (từ cao điểm 365 ở sát bờ Bắc sông
Hương băng qua hòn Vượn đến cao điểm 312 sát bờ Nam sông Bồ) và tuyến Hiền Sĩ -
Đông Lâm trên vùng giáp ranh Phong Điền. Chúng quyết chặn các lực lượng vũ trang
Quân khu Trị - Thiên - Huế trên 2 tuyến này cho đến hết ngày 25-3-1975 để hoàn thành
kế hoạch rút quân.
21 giờ đêm 23-3-1975, đồng chí Nguyễn Hữu Hường - Bí thư Huyện ủy và các đồng
chí lãnh đạo chủ chốt của huyện đã có mặt ở căn cứ lõm tại Phe Nhì, Thanh Lương (dưới
Quốc lộ 1) để đứng chân và chỉ đạo giải phóng Hương Trà. Trên cơ sở nhận định địch
đang tháo chạy, Huyện ủy cho rằng thời cơ lớn đã xuất hiện, phải chớp thời cơ giành
thắng lợi lớn nhất, kiên quyết phát động quần chúng nổi dậy thành lập chính quyền cách
mạng.

93
Đội công tác xã Hương Văn (Hương Thạnh) dưới sự lãnh đạo của đồng chí Trần
Xuân Ngãi đã chia thành các mũi đi vào các làng vùng trên bắc loa kêu nhân dân nổi dậy
giành chính quyền và yêu cầu ngụy quân, ngụy quyền bỏ súng đầu hàng. Địch tan rã
nhanh chóng. Tuy nhiên, một tổn thất rất lớn cho Đảng bộ là đồng chí Trần Xuân Ngãi chỉ
huy mũi tiến về làng Liễu Thượng đã hy sinh.
12 giờ đêm 23-3-1975, lực lượng vũ trang của huyện phối hợp với quần chúng đã
giành chính quyền và thành lập chính quyền cách mạng tại Hương Văn, đánh dấu thời
điểm lịch sử: Hương Văn được giải phóng 1. Đây là một trong 2 xã đầu tiên của Hương
Trà được giải phóng, tạo thế tiến công và nổi dậy cho toàn huyện trong những ngày tiếp
theo, điều đặc biệt là việc giành chính quyền tại Hương Văn được tiến hành từ trong ra,
lực lượng xuất phát từ “địa bàn lõm”.
Sáng ngày 24-3-1975, Huyện ủy Hương Trà xác định quyết tâm giải phóng xong địa
bàn Hương Trà ngay trong ngày 24-3-1975. Lúc này đã có 5 trung đội vũ trang tập trung
tại huyện và 4 trung đội du kích tập trung của Hương Văn (Hương Thạnh) đủ lực lượng
để tiếp quản các căn cứ địch vừa bỏ chạy, chốt giữ Quốc lộ 1 từ Tứ Hạ vào cầu An Hoà và
cầu Bao Vinh.
Cùng lúc, sáng sớm ngày 24-3-1975, chấp hành chỉ thị của đồng chí Nguyễn Hữu
Hường, đồng chí Trần Thị Lành, Thành ủy viên Thành ủy Huế và đồng chí Dương Đình
Kha, Bí thư chi bộ căn cứ lõm cùng đội công tác xã nhanh chóng vận động lực lượng
thanh niên trên địa bàn làng Văn Xá, Thanh Lương khoảng 160 người để hình thành 1
đơn vị vũ trang sẵn sàng khi có bộ đội chủ lực trên rừng xuống thì phối hợp vào thành
phố đánh địch, giải phóng thành phố. Đến 11giờ ngày 24-3-1975, 2 xã đã vận động được
120 thanh niên tình nguyện gia nhập quân giải phóng, cộng với lực lượng đội công tác vũ
trang cánh Bắc (xuống đêm 23-3) và số du kích mật ở địa bàn căn cứ lõm để hình thành 1
đại đội vũ trang của huyện.
19 giờ ngày 24-3-1975 lễ thành lập Đội biệt động cánh Bắc 2 của thành phố Huế
được tổ chức tại nhà thờ Phan Bá (Phe Nhì, Thanh Lương), do đồng chí Trần Thị Lành
chủ trì, có đại diện Huyện ủy Hương Trà, Đoàn Thanh niên cộng sản huyện, chi bộ mật và
đông đảo bà con Văn Xá, Thanh Lương tham dự. Tên gọi của đơn vị là Đội biệt động

. Theo tư liệu của đồng chí Nguyễn Hữu Hường (Thọ Hường), nguyên Bí thư Huyện ủy Hương Trà.
1

94
cánh Bắc 2 của thành phố Huế, nhiệm vụ được giao là sẵn sàng phối hợp với bộ đội chủ
lực Quân khu Trị - Thiên - Huế vào thành phố truy kích địch, giải phóng thành phố. Đây
chính là vinh dự và niềm tự hào của Hương Văn bởi toàn bộ Đội biệt động cánh Bắc 2 của
thành phố Huế là con em của vùng Văn Xá, Thanh Lương.
17 giờ ngày 24-3-1975, 7 xã trên Quốc lộ 1 được giải phóng, lực lượng du kích các
xã triển khai làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự trên khắp địa bàn.
Để thực hiện việc tiếp quản, bộ máy lâm thời của chính quyền cách mạng được
thành lập. Lúc này tại xã Hương Thạnh việc thành lập chính quyền theo khung bộ máy
hành chính cấp xã của chế độ Sài Gòn gồm 2 xã Hương Xuân và Hương Phú. Xã Hương
Phú 1, Chi bộ do đồng chí Trần Xuân Diêm làm Bí thư, thời gian ngắn sau đó là đồng chí
Phạm Thị Mai; Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời xã Hương Phú do ông Cao Quảng
Chiến 2 làm Chủ tịch; đồng chí Đặng Thị Cúc làm Trưởng Công an; Ban Chỉ huy xã đội là
các đồng chí Võ Bật - Xã đội trưởng, Ngô Viết Sô - Xã đội phó, Chính trị viên xã đội là
đồng chí Trương Thị Bá.
Trên chặng đường 21 năm (1954-1975) dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ và
nhân dân Hương Văn đã cùng với cả nước đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Trong suốt chiều dài của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân Hương Văn đã vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, những hy sinh, mất mát để cùng cả nước đi đến ngày thắng lợi cuối cùng.
Ở một địa bàn giữ vị trí quan trọng, vừa là địa bàn đánh địch, vừa là tuyến hành lang của
huyện Hương Trà, huyện Quảng Điền và thành phố Huế, các thế hệ cán bộ, đảng viên
Hương Văn đã kiên cường bám trụ, xây dựng cơ sở cách mạng, người trước ngã, người
sau nối tiếp, từng bước đưa phong trào kháng chiến tiến lên. Bao thế hệ gia đình người
dân Hương Văn đã bất chấp các thủ đoạn tra tấn, khủng bố của địch, ngay cả trong thời
điểm phong trào cách mạng gặp nhiều khó khăn nhất, vẫn một lòng, một dạ son sắt với
Đảng, tìm mọi cách nuôi dưỡng, che dấu cán bộ, đào hàng chục căn hầm bí mật ngay
trong chính nhà mình và đặc biệt đã hình thành nên “địa bàn lõm”, một hình thức sáng
tạo, độc đáo về xây dựng cơ sở mật ngay trong lòng địch. Suốt trong cuộc kháng chiến
. Hương Phú có 5 thôn: Phú Ốc, Lai Thành, Văn Xá Trung, Văn Xá Thượng và Văn Xá Làng.
1

. Sau một thời gian ngắn, Huyện ủy phát hiện là đảng viên Đảng Cần lao Nhân vị, nên bãi nhiệm; đến
2

tháng 6-1975, đồng chí Đặng Đống làm Chủ tịch.


95
chống Mỹ, Hương Văn là địa bàn thu mua lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm
quan trọng của huyện, có những thời điểm như trong Mậu Thân (1968), Hương Văn phải
đảm đương nhiệm vụ thu mua lương thực, thực phẩm, vận tải với một số lượng rất lớn
của ta và đã hoàn thành một cách xuất sắc.
Những đóng góp của các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân Hương Văn trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã được Đảng, Nhà nước ghi công là Anh hùng
lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Mỹ, 02 cá nhân được tuyên dương Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân là đồng chí Hồ Văn Tứ và Trương Xà. Đây là niềm tự hào, là
điểm tựa, nguồn cổ vũ to lớn đối với các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân đang ra sức
hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, quyết tâm bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do của
Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quê hương, đất nước.

96
Chương 4
ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN HƯƠNG VĂN
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ QUÊ HƯƠNG
(1975 – 1984)
I. KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, ỔN ĐỊNH CUỘC SỐNG (1975-1977)
1. Tình hình Hương Văn 1 sau ngày giải phóng
Hương Văn bước vào giai đoạn cách mạng mới trong điều kiện có nhiều thuận lợi và
cũng không ít khó khăn. Thuận lợi đó là sau 21 năm anh dũng, kiên cường kháng chiến
chống đế quốc Mỹ và tay sai, ngày 24-3-1975, Hương Văn được hoàn toàn giải phóng,
ngày 30-4-1975, đất nước thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, gia đình đoàn tụ,
nhân dân hân hoan trong hòa bình, độc lập.
Dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, một mặt chi bộ ổn định tổ chức,
xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, lực lượng du kích, an ninh từ xã đến thôn, mặt
khác tiếp tục huy động lực lượng, lương thực phục vụ cho chiến dịch giải phóng hoàn
toàn miền Nam. Phát động phong trào “Đảm phụ nuôi quân” vận động nhân dân quyên
góp lương thực, thực phẩm, dự phòng cung cấp cho chiến trường miền Nam khi cần thiết.
Một thuận lợi để Hương Văn nhanh chóng ổn định và phát triển đó là chi bộ, chính
quyền cách mạng từ xã đến thôn được thành lập, kịp thời giải quyết những công việc cấp
bách khi mới giải phóng; đội ngũ cán bộ, đảng viên từng bước được bổ sung; cán bộ,
đảng viên được rèn luyện trong chiến đấu, nay tiếp tục hăng hái trong lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng mới.
Nhân dân Hương Văn có truyền thống đấu tranh cách mạng, đoàn kết, cần cù, sáng
tạo, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn. Truyền thống quý báu đó tiếp tục được phát huy
trong giai đoạn đất nước thống nhất. Khí thế tưng bừng của chiến thắng cổ vũ, động viên
nhân dân bắt tay xây dựng cuộc sống mới. Nhân dân thực sự tin tưởng vào sự lãnh đạo

1
. Lúc này có các thôn Văn Xá, Phú Ốc, Lai Thành, Thanh Khê, Tân Lập thuộc xã Hương Phú, dưới sự
lãnh đạo của Chi bộ xã Hương Phú. Để phù hợp với điều kiện quản lý hành chính, đến năm 1979, thôn
Thanh Khê được chuyển về xã Hương Xuân quản lý.
Để phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, trong giai đoạn này, Ban Biên soạn dùng địa danh Hương
Văn thay cho Hương Phú, một số trường hợp đặc biệt chúng tôi dùng địa danh Hương Phú.
97
của Đảng; cán bộ, đảng viên và nhân dân quyết tâm để xây dựng xã hội mới, quê hương
mới.
Hương Văn có vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, an ninh, quốc phòng
đối với Hương Trà. Trong điều kiện đất nước hòa bình Hương Văn có nhiều khả năng
phát huy được lợi thế về vị trí địa lý, giao thông, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, huy
động được sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế.
Ngoài những điều kiện thuận lợi, Hương Văn gặp nhiều khó khăn sau giải phóng. Là
địa phương nằm trong địa bàn trọng yếu của ta và địch trong 02 cuộc kháng chiến, do vậy
ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh, nhất là vùng Văn Xá Tây. Bom đạn, chất độc hóa học,
phương tiện chiến tranh còn lại rất nhiều trên địa bàn xã. Chiến tranh đã làm cho hàng
trăm hecta đất đai bị cày xới, bỏ hoang; làng mạc, nhà cửa tiêu điều; nhân dân phải đi sơ
tán, rất khó khăn trong khâu tổ chức ăn, ở.
Cơ sở vật chất, công cụ lao động thiếu thốn, thô sơ; đường xá, cầu cống, thủy lợi
hầu như chưa có; chăn nuôi kém phát triển; một bộ phận nhân dân “phi sản xuất”, chưa có
công ăn việc làm; điều kiện thiết yếu sinh hoạt hàng ngày (lương thực, thực phẩm, quần
áo,…) cho nhân dân rất hạn chế…
Sau ngày giải phóng đội ngũ cán bộ thiếu nghiêm trọng. Hầu hết cán bộ trưởng
thành trong chiến tranh, sau đó về tiếp quản, xây dựng quê hương. Kinh nghiệm trong
việc lãnh đạo, quản lý xã hội trong thời bình chưa có.
Mặt khác, những tàn dư của văn hoá thực dân cũng đặt ra rất nhiều thách thức. Do
nhiều năm sống dưới chế độ thực dân cũ và mới, một bộ phận nhân dân, nhất là một bộ
phận thanh niên đã chịu ảnh hưởng của văn hóa thực dân. Một số ít phần tử của chế độ cũ
còn ngoan cố, tiếp tục chống phá những thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã giành
được.
Nhiệm vụ của chi bộ lúc này là tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách
mạng trong tình hình mới; xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, ổn định đời sống nhân
dân. Công việc cấp bách của chi bộ là chỉ đạo ổn định đời sống nhân dân, nhất là việc ăn,
ở; giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn. Vận động nhân dân vần công, đổi công dựng lại nhà
ở, tự san sẻ, giúp đỡ lẫn nhau, lương thực, thực phẩm. Tích cực vận động nhân dân trở về
làng cũ, khai hoang, phục hóa đất đai để sản xuất. Kêu gọi những thanh niên tiến bộ, tình

98
nguyện tham gia các trung đội vũ trang tập trung, tiểu đội vũ trang tại chỗ, bảo vệ chính
quyền và giữ gìn an ninh trật tự tại địa phương.
2. Nhanh chóng ổn định tổ chức Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
Một nhiệm vụ quan trọng trước mắt là phải nhanh chóng xây dựng, củng cố và kiện
toàn về mặt tổ chức, trước hết là tổ chức Đảng. Sau ngày giải phóng, Huyện ủy phân công
đồng chí Trần Xuân Diêm làm Bí thư chi bộ Hương Phú, sau thời gian ngắn đồng chí
Phạm Thị Mai được phân công làm Bí thư chi bộ Hương Phú. Sau tháng 4-1975, lực
lượng đảng viên trực tiếp tham gia chiến đấu hoặc tập kết trở về đã bổ sung sức mạnh cho
chi bộ. Đến tháng 10-1975, đồng chí Phạm Thị Mai được tổ chức cho đi học văn hóa,
Huyện ủy phân công đồng chí Hoàng Văn Dạng làm Bí thư chi bộ. Lúc này chi bộ có 11
đảng viên. Để ổn định mọi mặt, chi bộ phân công nhiệm vụ cụ thể cho các đồng chí đảng
viên phụ trách các lĩnh vực và các thôn. Từ đó, sắp xếp, ổn định bộ máy chính quyền, lực
lượng quân sự, an ninh, Mặt trận, đoàn thể từ xã đến thôn. Thực hiện chỉ đạo của Huyện
ủy Hương Trà, tháng 10 - 1976, chi bộ tổ chức Đại hội, bầu đồng chí Nguyễn Văn Nẫm
làm Bí thư chi bộ, đồng chí Trần Hưng Bạch làm Phó Bí thư chi bộ.
Sau ngày giải phóng, Tỉnh ủy Thừa Thiên tổ chức hội nghị để bàn một số công tác
trước mắt. Nghị quyết của Hội nghị nhấn mạnh: “Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, phát huy khí thế tiến công, tinh thần làm chủ đất nước, tinh thần tự lực cánh sinh
và cần cù lao động của nhân dân ta, nỗ lực phấn đấu để vượt qua những khó khăn trước
mắt, tiếp tục ổn định tình hình chính trị. Thực hiện một bước cơ bản ổn định sản xuất, ổn
định đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, giải quyết tốt và triệt để nhiệm vụ cách
mạng ruộng đất, thu xếp công ăn việc làm cho nhân dân…, bình thường hoá mọi hoạt
động kinh tế, tận dụng năng lực sản xuất hiện có, từng bước khắc phục những hậu quả do
chiến tranh và chế độ cũ để lại... Đồng thời tích cực xây dựng kế hoạch và chuẩn bị mọi
mặt để thực hiện kế hoạch dài hạn các năm sau theo phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã
hội” 1. Ngày 3-7-1975, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra chỉ thị về đợt sinh hoạt chính trị, quán
triệt nghị quyết của Tỉnh ủy trong tình hình mới.

11
. Ngô Kha (chủ biên), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập III (1975-2000), Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2000, tr. 30-31.
99
Huyện ủy yêu cầu phải tiến hành một cách liên tục, nắm vững phương châm “gắn
chặt công tác xây dựng Đảng với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng” và “gắn
chặt công tác xây dựng Đảng với phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng”. Trên
cơ sở đó, làm cho mỗi đảng viên hiểu được mục đích, lý tưởng của Đảng; nắm vững lập
trường giai cấp, phân rõ bạn - thù; hiểu được tính chất, nguyên tắc của Đảng; nắm được
quan điểm quần chúng, quan điểm tự lập tự cường; nắm vững và tiến hành đồng thời 3
cuộc cách mạng là cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật và cách
mạng tư tưởng - văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt.
Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy về những nhiệm vụ trước mắt, trong công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, chi bộ duy trì chế độ sinh hoạt và nội dung học tập theo từng tuần,
tháng; gắn việc học tập của đảng viên với việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trước mắt
để phát triển phong trào cách mạng của quần chúng. Chi bộ tổ chức các buổi gặp mặt, lễ
kỷ niệm, mít tinh tuyên truyền cho cán bộ, nhân dân về ý nghĩa của cuộc chiến tranh cách
mạng giải phóng dân tộc chống đế quốc Mỹ; tuyên truyền về các chính sách của ta, động
viên nhân dân xây dựng quê hương trong tình hình mới.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, trong năm 1975, Hương Văn đã tổ chức kỷ niệm tốt
các ngày lễ lớn như: Ngày Quốc tế Lao động (1-5-1975), ngày sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí
Minh (19-5-1975), ngày Thương binh Liệt sĩ (27-7-1975), ngày Cách mạng tháng Tám
thành công và Quốc khánh (2-9), ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-
1975); đặc biệt là đã tổ chức lễ mừng chiến thắng vào ngày 15-5-1975, chào mừng Hội
nghị hiệp thương thống nhất nước nhà vào ngày 15-11-1975. Hàng ngàn lượt nhân dân đã
tham gia hưởng ứng, biểu dương lực lượng tạo ra khí thế cách mạng sôi nổi trong nhân
dân. Thông qua tổ chức các ngày lễ kỷ niệm, mít tinh để giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng
cao lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, tuyên truyền về ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài trong công cuộc xây dựng chế độ
mới.
Thuận lợi trong công tác xây dựng Đảng là đảng viên đã được thử thách trong chiến
tranh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần trung kiên, không ngại gian khổ, hy sinh,
ý thức đoàn kết tốt, nhiều đảng viên đã lăn lộn trong phong trào cách mạng, gần dân, bám
dân và hiểu dân, được nhân dân tin tưởng. Tuy nhiên, do trước đây hoạt động trong điều

100
kiện chiến tranh nên về tổ chức chưa phù hợp trong điều kiện mới; số lượng đảng viên
còn ít; trình độ học vấn và lý luận chính trị còn hạn chế; trong phân công, thực hiện nhiệm
vụ có lúc còn lúng túng.
Trước yêu cầu của tình hình mới là phải nhanh chóng đào tạo, bổ sung đội ngũ cán
bộ do phần lớn cán bộ, đảng viên đều là những người trực tiếp tham gia chiến đấu, ít có
điều kiện học hành, nên các đồng chí cán bộ, đảng viên một mặt tự học tập, nghiên cứu,
mặt khác chi bộ đã cử lần lượt đảng viên tham gia lớp đào tạo, bồi dưỡng, bổ túc văn hóa
do huyện, tỉnh tổ chức.
Về xây dựng chính quyền, ngay sau ngày giải phóng, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy,
chi bộ đã lãnh đạo thành lập Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời. Ngay sau khi thành
lập, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời xã đã ra mắt nhân dân, đề ra phương hướng
hành động. Trước mắt là ổn định bộ máy để tổ chức hoạt động. Bộ máy chính quyền của
xã, do ông Cao Quảng Chiến làm Chủ tịch 1, đồng chí Phạm Thị Mai, đồng chí Đặng
Đống làm Phó Chủ tịch, đến tháng 6-1975 đồng chí Đặng Đống làm Chủ tịch; đồng chí
Đặng Thị Cúc làm Trưởng Công an; Ban Chỉ huy xã đội là các đồng chí Huỳnh Nghĩa, Võ
Bật, Ngô Viết Sô; Chính trị viên xã đội là đồng chí Trương Thị Bá.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, chính quyền và lực lượng du kích ở các thôn được
thành lập và triển khai những nhiệm vụ mới. Ở thôn có Ban thôn đội (từ 3 đến 5 người)
do Thôn đội trưởng đứng đầu. Đối với chính quyền thôn, chủ yếu là được chỉ định, gồm
một số cán bộ cốt cán hoặc quần chúng tốt được lựa chọn thông qua hoạt động cách
mạng. Huy động những thanh niên tiên tiến thành lập các tiểu đội, trung đội du kích thôn.
Đến tháng 12-1975 huy động được 169 du kích, biên chế thành 02 đại đội, 04 trung đội,
trong đó có 01 trung đội tập trung ở xã, 03 trung đội ở Lai Thành, Phú Ốc, Văn Xá; 02
tiểu đội ở Bàu Đưng, Thanh Khê. Lực lượng du kích được tổ chức huấn luyện 5 ngày 2.
Cùng với việc chỉ đạo tăng cường vai trò của chính quyền trong quản lý, điều hành
xã hội, chi bộ cũng đã chỉ đạo thành lập Mặt trận và các tổ chức đoàn thể quần chúng. Về
tổ chức, ở xã ông Nguyễn Duận được tín nhiệm làm Chủ tịch Mặt trận. Các tổ chức Hội
. Sau một thời gian ngắn, Huyện ủy phát hiện là đảng viên Đảng Cần lao Nhân vị, nên không được giữ
1

chức Chủ tịch.


2
. Biên bản sinh hoạt của chi bộ Hương Phú, ngày 21-12-1975, Tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy
Hương Trà.
101
Nông dân tập thể, Hội Phụ nữ, Hội liên hiệp Thanh niên được thành lập có hệ thống từ xã
và các thôn, đội.
Thực hiện chủ trương của chi bộ, Mặt trận và các đoàn thể đã dấy lên nhiều phong
trào cách mạng sôi nổi như phong trào đoàn kết tham gia xây dựng cuộc sống mới; phong
trào bảo vệ và giữ gìn trật tự trị an; phong trào vận động nhân dân xóa mù chữ; tuyên
truyền, vận động nhân dân tham gia các buổi lễ kỷ niệm lớn trong năm 1975. Mỗi đoàn
thể cũng phát động những phong trào cụ thể như: Thanh niên có phong trào lao động sản
xuất, làm thủy lợi, rà phá bom mìn, văn nghệ, thể dục thể thao... Hội Nông dân tập thể có
phong trào khai hoang, phục hóa, phát động nông dân tích cực phấn đấu tăng thêm diện
tích, áp dụng giống lúa mới, tích cực trừ sâu rầy, làm thủy lợi, khai hoang phục hóa, phát
động phong trào làm ăn tập thể ở nông thôn, hưởng ứng chính sách điều chỉnh ruộng đất,
xây dựng phong trào tổ đổi công, vần công, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau vượt qua nạn giáp
hạt với tinh thần “lá lành đùm lá rách”… Phụ nữ có phong trào động viên chị em đi học
cấy theo lối mới, xây dựng gia đình văn hoá, nuôi con tốt, dạy con ngoan, tuyên truyền
vận động sinh đẻ có kế hoạch.
3. Chi bộ lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định cuộc sống
Tiếp quản các cơ sở của chế độ cũ: Ngày 30-4-1975, Ban Thường vụ Huyện ủy
Hương Trà ban hành công văn “Về một số quy định để bảo vệ tài sản, vật tư, thiết bị, hồ
sơ, tài liệu, tiền bạc ở những nơi mới được giải phóng”, trong đó nhấn mạnh: “Khi bộ đội
và cán bộ vào những nơi mới được giải phóng, phải bảo vệ, chăm sóc và không được di
chuyển tài sản, thiết bị, vật tư từ nhà này sang nhà khác, từ nơi này sang nơi khác; không
được tháo gỡ các thiết bị, tài sản, lục lọi hồ sơ ở các công sở công, … các bệnh viện,
trường học, cơ quan, thư viện, các di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật” 1. Cùng
với quy định trên, Ban Thường vụ Huyện ủy yêu cầu khi tiếp quản phải lập tức bố trí canh
gác, lập biên bản tài sản và niêm phong lại ngay, báo cáo chi ủy hoặc Ủy ban nhân dân
cách mạng và chờ người đến tiếp quản. Đơn vị vũ trang canh gác những nơi được tiếp
quản, khi có đơn vị khác đến thay hoặc có người tiếp quản phải bàn giao cụ thể, có ký
chịu trách nhiệm bàn giao.

. Huyện ủy Hương Trà, Một số quy định về triệt để bảo vệ tài sản, vật tư, thiết bị, hồ sơ, tài liệu, tiền bạc
1

ở những nơi mới được giải phóng, ngày 30-4-1975, Tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Hương Trà.
102
Ngay sau ngày giải phóng, chi bộ đã chỉ đạo thành lập Ban tiếp quản, tổ chức tiếp
quản kịp thời, đầy đủ cơ sở vật chất, như: trụ sở của chính quyền cũ (ở trụ sở của phường
Tứ Hạ hiện nay), trường học ở Văn Xá (5 lớp, ở cạnh Trường Trung học cơ sở Hồ Văn Tứ
hiện nay), nhà hộ sinh (ở cạnh Trường Trung học cơ sở Hồ Văn Tứ hiện nay) và các trang
thiết bị, phương tiện của chế độ cũ…, tất cả đều được phân loại, niêm phong. Sau khi
phân loại và tiếp nhận, chi bộ đã đề xuất lên Huyện ủy để sử dụng trụ sở làm việc, trường
học, nhà hộ sinh; đối với vũ khí, khí tài, máy móc, tài liệu… thì tiến hành xử lý, bàn giao
cho cơ quan chức năng của tỉnh sử dụng.
Tổ chức rà phá bom mìn: Địa bàn Hương Văn có vị trí quan trọng về chiến lược
quân sự của ta, là bàn đạp của ta tiến về đồng bằng và thành phố Huế để đánh địch, đồng
thời là tuyến hành lang cho ta rút quân lên hậu cứ, chiến khu. Trong chiến tranh địch tập
trung nhiều đồn, bốt, căn cứ lực lượng quân sự, là địa bàn thí điểm của địch tổ chức bình
định, đánh phá, càn quét. Đây coi như vùng “trắng”, nhất là vùng Văn Xá Thượng (chỉ
còn 11 nhà) 1, Thanh Khê, Hiệp Khánh, Văn Xá Trung, Bàu Đưng. Hương Văn là nơi có
nhiều cuộc giao tranh, chiến đấu giữa ta và địch, có nơi là ấp chiến lược điểm hình của
Mỹ - ngụy, nên bom, mìn được cài đặt nhiều nơi, đặc biệt là vùng Văn Xá Thượng, Hiệp
Khánh, Thanh Khê. Để khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, việc trước tiên là
phải tiến hành tháo gỡ bom mìn để giải phóng đất đai.
Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, chi bộ đã chỉ đạo lực lượng phối hợp với lực
lượng chức năng của huyện tiến hành tháo gỡ bom, mìn, trước hết là những nơi địch gài
với mật độ dày, những nơi đông dân cư và đất sản xuất. Hương Văn là một địa bàn trọng
điểm của công tác tháo gỡ bom mìn của huyện. Tại Văn Xá thành lập 4 tổ: Văn Xá
Thượng có 15 người, Văn Xá Trung 12 người, Văn Xá Đông 9 người, Bàu Đưng 9 người.
Lực lượng chủ yếu là một số người hiểu biết về bom, mìn và được tập huấn nghiệp vụ
trước khi tham gia rà phá bom mìn. Đây là bộ khung chính trong chiến dịch rà phá bom,
mìn, ngoài ra còn huy động thêm lực lượng thanh niên, nông dân, phụ nữ tham gia. Trong
thời gian gần 3 tháng, chiến dịch đã tháo gỡ được hàng ngàn quả bom, mìn, đạn các loại,
đưa hàng trăm hecta đất vào canh tác và làm vườn. Tuy nhiên, cũng có người bị thương
tích, tử vong do bom đạn nổ.

1
Báo cáo Tổng kết 10 năm giải phóng quê hương, Tài liệu lưu trữ tại phường Hương Văn.
103
Khôi phục sản xuất: Ngay sau ngày giải phóng, chi bộ khẩn trương vận động nhân
dân tự mua sắm vật tư, nguyên vật liệu, công cụ sản xuất để cày cấy kịp thời vụ; chỉ đạo
Ủy ban nhân dân cách mạng xã tổ chức các quầy hàng mua bán làm trung gian kinh
doanh và phục vụ nhân dân một số mặt hàng thiết yếu như: muối, xà phòng, dầu hỏa…
Ủy ban nhân dân cách mạng huyện cũng đã kịp thời cấp phát dầu máy, thuốc trừ sâu, phân
bón… phục vụ cho nhân dân sớm ổn định sản xuất.
Thực hiện chủ trương của Đảng về cách mạng ruộng đất, dưới sự chỉ đạo của Huyện
ủy, ngay từ vụ Đông Xuân 1975-1976, chi bộ đã xây dựng và thực hiện phương án phân
bổ ruộng đất để nhân dân có đất sản xuất, vận động nhân dân hình thành các tổ vần công,
đổi công trong các xóm, nhằm giúp đỡ nhau ổn định đời sống, đồng thời đề ra chủ trương
trước mắt cần tập trung ưu tiên diện tích cho việc trồng lúa, đẩy mạnh các biện pháp thâm
canh, tăng vụ, áp dụng giống mới; tăng cường phục hóa số ruộng trước đây bị bỏ hoang
do chiến tranh; tích cực đẩy mạnh sản xuất hoa màu, nhất là các loại hoa màu ngắn ngày
như khoai lang, sắn, khoai môn, rau, bí các loại…, phấn đấu tự giải quyết vấn đề lương
thực, không để thiếu đói. Quyết tâm đó đã biến thành hành động cách mạng của hàng
ngàn quần chúng lao động. Cán bộ, đảng viên, lực lượng dân quân, thanh niên đã triển
khai các phong trào như tập trung làm thủy lợi, cấy giống lúa mới, phòng trừ sâu bệnh,
phục hoá, khai hoang, phát triển hoa màu… Vụ Đông Xuân 1975 - 1976 đã gieo trồng
được 1.475 mẫu lúa, hoa màu các loại, lúa khoảng 700 mẫu, trong đó có 60% diện tích lúa
là giống lúa mới 1.
Trong khi nhân dân đang khôi phục sản xuất, tình hình kinh tế đang rất khó khăn, thì
trận lụt tháng 10-1975 ập đến. Sau lũ lụt là những trận rét kéo dài. Trận lũ lụt này ở Văn
Xá bị sập 3 ngôi nhà, chết hàng trăm con trâu, bò, lợn, gà; trên 317 mẫu lúa và hàng trăm
mẫu khoai, sắn, mía bị ngập úng, hư hại 2, hàng chục hecta mạ, rau màu mới trồng bị ngập
úng, mất trắng. Sau gần 10 ngày huy động các lực lượng trong nhân dân giúp đỡ nhau,
đồng thời có sự giúp đỡ tận tình của các đơn vị bộ đội, cơ bản tình hình được ổn định. Sau
khi khắc phục hậu quả lũ lụt xong, chi bộ tiếp tục vận động nhân dân tranh thủ sản xuất,

. Báo cáo tình hình nạn lụt vừa qua tại xã Hương Phú, ngày 7-10-1975 của chi bộ xã Hương Phú, Tài liệu
1

lưu trữ tại Văn phòng Thị ủy Hương Trà.


2

104
tập trung trồng những loại cây lương thực ngắn ngày để sớm giải quyết vấn đề lương
thực.
Về chăn nuôi, chi bộ vận động nhân dân trước mắt là khôi phục và phát triển chăn
nuôi trâu, bò để đảm bảo sức kéo phục vụ cho nông nghiệp, đồng thời vận động nhân dân
đẩy mạnh chăn nuôi các loại gia cầm, nhất là vịt, gà để góp phần cải thiện và nâng cao
chất lượng đời sống. Tuy nhiên, trong trận lụt và rét cuối năm 1975, hơn 30% gia súc, gia
cầm của nhân dân đã bị ảnh hưởng, cuốn trôi hoặc chết.
Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về ruộng đất, chi bộ cử cán bộ đi tập
huấn tại tỉnh, huyện về chính sách mới về ruộng đất. Sau khi tiếp thu chính sách của cấp
trên, chi bộ tổ chức họp quán triệt, tuyên truyền cho cán bô, đảng viên và nhân dân hiểu
rõ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về ruộng đất. Chi bộ đã tổ chức, lãnh
đạo việc phân chia lại ruộng đất một cách hợp lý, giải quyết triệt để nhiệm vụ cách mạng
ruộng đất. Lấy ruộng công cấp cho bà con khi trở về quê hương. Qua đó đưa nhân dân
vào con đường làm ăn tập thể và tích cực giải quyết một bước tình trạng thất nghiệp. Chi
bộ đã chỉ đạo phân loại và nắm chắc từng loại ruộng đất của hộ cá thể, nhà thờ, chùa họ,
phái để tích cực tuyên truyền, vận động tự nguyện hiến ruộng, kịp thời phân bổ cho hợp
lý. Trong khi hiến hoặc trưng thu, trưng mua tuỳ theo khả năng lao động và nhu cầu thờ
cúng mà để lại cho gia đình mỗi người không quá mức bình quân ở địa phương, mỗi chùa,
mỗi nhà thờ, làng họ không quá 2-3 sào Trung Bộ (1.000-1.500 m2).
Hè Thu năm 1975, nhân dân Hương Văn bắt đầu khôi phục sản xuất, đây là cơ sở
quan trọng để ổn định đời sống nhân dân, chuẩn bị một bước quan trọng để tiến tới phát
động nhân dân đi vào con đường làm ăn tập thể, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. Để phát động nông dân đi vào làm ăn tập thể, chi bộ chỉ đạo tuyên truyền, vận
động nông dân thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, kết hợp với phong
trào thi đua sản xuất tự giải quyết lương thực, thực phẩm, kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo và
xây dựng quan hệ sản xuất ở nông thôn. Chi bộ đã vận động nông dân hình thành các tổ
đoàn kết sản xuất, theo quy mô từng xóm, với hình thức vần công, đổi công. Hình thức
này tạo điều kiện để nhân dân giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, nhanh chóng tổ chức được sản
xuất. Đây cũng là phương thức làm ăn tập thể đầu tiên, tạo điều kiện hình thành tập đoàn
sản xuất và tiến lên hợp tác xã sau này.

105
Hè Thu năm 1977, thực hiện chủ trương tổ chức tập đoàn lao động canh tác tập thể,
chi bộ vận động nông dân vì quyền lợi trước mắt và lâu dài về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội để họ hăng hái, phấn khởi trên nguyên tắc tự nguyện. Đến tháng 9-1977, trên địa
bàn xã đã thành lập 7 tập đoàn sản xuất với 661 hộ, 1.069 lao động chính và 630 lao động
phụ 1. Riêng ở Văn Xá có 03 tập đoàn và một đội sản xuất Thanh Khê. Tập đoàn sản xuất
có 03 cán bộ lãnh đạo, 01 tập đoàn trưởng, 01 tập đoàn phó và 01 thư ký. Tổ đoàn kết sản
xuất và tập đoàn sản xuất giai đoạn này chưa phát huy được hiệu quả kinh tế, nhưng đã có
tác dụng về mặt xã hội, thúc đẩy quần chúng làm thủy lợi, quy hoạch ruộng đất, phá gỡ
bom mìn, khai hoang, phục hóa đất đai; vận động nhân dân đóng góp cho Nhà nước; hỗ
trợ cho những hộ gia đình neo đơn, thiếu lao động, gia đình thương binh, liệt sĩ.
Xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội: Do bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, hệ thống giao
thông và cơ sở hạ tầng của Hương Văn khi mới giải phóng gần như không có. Cơ sở của
chính quyền cũ để lại có 1 trụ sở (tại Tứ Hạ), 05 phòng học và 01 nhà hộ sinh (tại Hương
Văn). Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng chi bộ vẫn ưu tiên lãnh đạo huy động nhân lực tu
bổ, sửa sang, làm mới hệ thống giao thông liên thôn. Vận động nhân dân góp sức, góp của
làm thêm một số cầu cống, đảm bảo việc đi lại của nhân dân được thuận tiện hơn, phục vụ
các hoạt động lãnh đạo cũng như dân sinh. Huy động nhân dân làm mương thủy lợi phục
vụ sản xuất.
Trên cơ sở hạ tầng cũ, chi bộ đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân cách mạng vận động cán
bộ, đảng viên, thanh niên sửa sang lại để sử dụng. Lấy trụ sở của chính quyền cũ làm trụ
sở của xã, tận dụng nhà hộ sinh cũ để làm nơi khám chữa bệnh cho nhân dân, sửa sang lại
các lớp học để vận động con em tới trường.
Giải quyết các vấn đề cấp bách về văn hoá - xã hội: Thực hiện Chỉ thị 571/CT, ngày
19-12-1975 của Tỉnh ủy và chỉ đạo của Huyện ủy, chi bộ đã tiếp thu, phân công nhiệm vụ
cho đảng viên tăng cường tuyên truyền, làm cho nhân dân nhận rõ tính chất độc hại của
các sách báo, tranh ảnh phản động, dâm ô, gieo rắc những tư tưởng lạc hậu, có hại đến
tinh thần, tình cảm của nhân dân, ảnh hưởng đến quá trình xây dựng xã hội mới.

. Đảng ủy, Ủy ban nhân dân thị trấn Tứ Hạ, Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân
1

thị trấn Tứ Hạ, tr. 151, Tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Đảng ủy phường Tứ Hạ.
106
Để nâng cao nhận thức cho nhân dân về văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, chi bộ và Ủy
ban nhân dân cách mạng xã cùng với các đoàn thể quần chúng nhân dân tổ chức các hoạt
động văn hóa, văn nghệ thường xuyên, như tổ chức các buổi biểu diễn văn nghệ quần
chúng, tổ chức nghe đài tập trung, đọc sách báo, học hát, thi đua thực hiện phong trào
“rèn luyện thân thể để tham gia lao động sản xuất và phục vụ Tổ quốc”; vận động các
đoàn viên thanh niên tham gia xóa bỏ các khẩu hiệu, biểu trưng tuyên truyền của chế độ
cũ, đồng thời xây dựng những câu khẩu hiệu, những hình ảnh sống động, lạc quan của chế
độ mới trên quê hương.
Trên lĩnh vực giáo dục, sau ngày giải phóng, chi bộ đã lãnh đạo nhanh chóng tận
dụng mọi cơ sở vật chất hiện có để con em trong xã được tiếp tục đi học. Ngay trong năm
học 1975-1976, đã huy động học sinh đến lớp học, cả cấp I và cấp II. Năm 1975, có 5 lớp
(tại Hương Văn) với trên 200 học sinh, năm học 1976-1977 có 7 lớp với 350 học sinh.
Năm 1976-1977 đã hình thành 5 lớp mẫu giáo, huy động được 20% cháu trong độ tuổi tới
lớp 1. Chi bộ đã chỉ đạo thành lập Ban diệt dốt xóa mù chữ, vận động nhân dân tích cực
tham gia phong trào diệt dốt; bố trí lớp học, giáo viên. Giáo viên chủ yếu huy động thanh
niên được giác ngộ cách mạng. Đến cuối năm 1975 đã xóa mù chữ cho 398 người.
Trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, chi bộ thực hiện chủ trương tận
dụng đội ngũ cán bộ làm công tác y tế từ xã tới thôn trước đây để tham gia chăm sóc sức
khỏe cho nhân dân. Ngay sau ngày giải phóng, cán bộ y tế sử dụng nhà hộ sinh cũ để lại
phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Khi mới giải phóng chỉ có 01 người phụ
trách ở nhà hộ sinh, đến năm 1976, 1977 đội ngũ y tế của xã có 04 người và mỗi thôn có 1
người.
Hoạt động y tế trước mắt tập trung vào công tác tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh
trong nhân dân; phổ biến kinh nghiệm chữa bệnh bằng thuốc Nam, khuyến khích nhân
dân trồng các loại cây dược liệu để tự phòng bệnh, chữa bệnh. Phát động các phong trào
như thực hiện “3 sạch, 4 diệt” 2, làm giếng nước vệ sinh, xây dựng hố xí 02 ngăn, hố rác,
nhà tắm, phong trào thau quét bọ gậy, nạo vét kênh mương, vệ sinh bến nước... Đến năm
1977, phong trào làm hố xí 02 ngăn đã phát triển, có 399 hộ/2.120 hộ có hố xí 02 ngăn.

1
Báo cáo tổng kết 10 năm giải phóng quê hương, Tài liệu lưu trữ tại phường Hương Văn.
. Ba sạch: Ở sạch, ăn sạch, uống sạch. Bốn diệt: Diệt ruồi, diệt muỗi, diệt chấy rận, diệt chuột bọ.
2

107
Chi bộ tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thương
binh, liệt sỹ trong quần chúng nhân dân; chỉ đạo tổng hợp, rà soát, xác minh chính xác
những đối tượng là thương binh, liệt sỹ, gia đình có công cách mạng, để có cơ sở đề nghị
cấp trên xếp loại thương tật của thương binh nhằm từng bước vận dụng chính sách đãi
ngộ. Chi bộ chỉ đạo Ủy ban nhân dân cách mạng xã, các đoàn thể quần chúng quan tâm
đầy đủ đối với gia đình liệt sỹ, nhất là những gia đình liệt sỹ neo đơn không nơi nương
tựa; tổ chức thăm hỏi, động viên, đặc biệt là trong dịp lũ lụt và rét cuối năm 1975 và các
đợt giáp hạt, dịp lễ, Tết.
Ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội: Thực hiện nghị quyết của Huyện
ủy về nhiệm vụ nhanh chóng thiết lập an ninh trật tự và tổ chức cải tạo những người đã
tham gia chế độ cũ, đồng thời lập kế hoạch triển khai từ huyện xuống đến các xã một cách
tập trung, đồng bộ, chi bộ đã tiếp thu và triển khai kế hoạch ghi báo những người làm việc
trong bộ máy chính quyền cũ và kê khai hộ khẩu. Chi bộ phân công đảng viên, chỉ đạo Ủy
ban nhân dân cách mạng xã về các thôn, tổ chức các lớp học tập cho nhân dân, tuyên
truyền cho mọi người biết chủ trương ghi báo và kê khai của Đảng và Nhà nước. Trong
tháng 5-1975, chi bộ chỉ đạo Ủy ban nhân dân cách mạng xã kêu gọi những người tham
gia chính quyền Sài Gòn ra trình diện, phổ biến chính sách khoan hồng của Đảng và chính
quyền cách mạng đối với những người đã tham gia chế độ cũ. Hàng trăm người từng tham
gia làm việc cho chế độ cũ đã ghi báo, đa số được học tập, cải tạo ngắn hạn tại địa phương
và tại huyện. Nhờ làm tốt chính sách tuyên truyền, giáo dục và nhờ chính sách khoan
hồng, đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhiều đối tượng đã có chuyển biến tốt.
Nhiều người đã đóng góp tích cực trong sự nghiệp xây dựng lại quê hương.
Để đảm bảo ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách
mạng, ngày 1-4-1975, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ thị: “Gấp rút xây dựng lực lượng an
ninh xã, ấp đảm bảo số lượng và chất lượng nhằm giữ gìn an ninh ở xã thôn; khẩn trương
tuyển dụng thanh niên đảm bảo tiêu chuẩn chính trị và sức khỏe để nhanh chóng bổ sung
cho lực lượng an ninh tỉnh, huyện”. Thực hiện chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và
Huyện ủy, chi bộ đã nhanh chóng củng cố, xây dựng lực lượng du kích nhằm giữ vững an
ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn. Phát động các phong trào quần chúng bảo vệ
Tổ quốc, tổ chức các đợt học tập kiến thức quốc phòng toàn dân, động viên nhân dân tích

108
cực tham gia công tác bảo vệ trật tự trị an thôn xóm; giáo dục, tuyên truyền đề cao cảnh
giác cho cán bộ, chiến sỹ và nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc trong giai
đoạn cách mạng mới; vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của một số phần tử còn ngoan cố chống
đối, tuyên truyền các chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo khí thế cách mạng tiến công
trên mặt trận bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Chi bộ đã quán triệt cho đảng viên, cán bộ phải nắm chắc tổ chức, tư tưởng, hành
động của du kích, xem lực lượng này là công cụ hữu hiệu của nền chuyên chính vô sản.
Chi bộ quán triệt, giao nhiệm vụ cho lực lượng du kích luôn lươn sẵn sàng và làm chủ
trong mọi tình huống. Đẩy mạnh việc củng cố phát triển lực lượng du kích, an ninh nhân
dân đều khắp các thôn, trong xã.
Trên cơ sở lực lượng du kích trong chiến tranh, theo chỉ đạo của Huyện ủy, ngay sau
ngày giải phóng, chi bộ đã chỉ đạo tuyển thêm một số thanh niên nhiệt tình, củng cố lực
lượng du kích, an ninh làm nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nhân dân. Đến
tháng 12-1975, đã có 169 du kích, biên chế thành 02 đại đội. Ở xã có Ban Chỉ huy xã đội,
gồm xã đội trưởng và 02 xã đội phó và Ban công an xã có trưởng công an và 02 phó công
an. Lực lượng ở thôn, đội sản xuất có các tiểu đội du kích và tổ an ninh nhân dân. Mỗi
thôn có 02 tiểu đội, thực hiện nhiệm vụ tuần tra, canh gác 24/24 giờ. Mỗi thôn có 01 công
an thôn, phối hợp với lực lượng du kích nắm bắt tình hình, đảm bảo an ninh chính trị, trật
tự an toàn thôn, xóm.
Mặc dù gặp vô vàn khó khăn, 02 năm sau ngày giải phóng, với sự lãnh đạo sâu sát
của chi bộ, sự quyết tâm của Ủy ban nhân dân cách mạng xã, Mặt trận và các đoàn thể, sự
nỗ lực của nhân dân, Hương Văn đã từng bước thu được những kết quả đáng khích lệ trên
nhiều mặt. Tình hình chính trị ổn định; bộ máy chính quyền từ xã đến thôn sớm đi vào
hoạt động có hiệu quả, thể hiện được bản chất của Nhà nước công nông; kinh tế từng
bước được hồi phục, đời sống nhân dân bắt đầu ổn định.
II. ĐẢNG BỘ THÀNH LẬP, TIẾP TỤC LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ QUÊ HƯƠNG (1977-1984) 1

. Tháng 4-1979, Đảng bộ Hương Phú thành lập. Đảng bộ có 02 chi bộ là Chi bộ Hợp tác xã Phú Thành và
1

Chi bộ Hợp tác xã Văn Xá.


109
Ngày 11-3-1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 62/CP, hợp nhất một
số huyện ở tỉnh Bình Trị Thiên. Theo đó, hợp nhất huyện Phong Điền, huyện Quảng Điền
và huyện Hương Trà thành huyện Hương Điền. Trung tâm hành chính của huyện Hương
Điền đóng tại xã Hương Phú. Sau khi nhập huyện, địa giới hành chính, đội ngũ cán bộ của
Hương Phú - Hương Văn không thay đổi nhưng từ đây Hương Phú - Hương Văn có ưu
thế vị trí chính trị đó là trung tâm của huyện Hương Điền. Một thuận lợi trong giai đoạn
này là chi bộ được nâng lên thành Đảng bộ. Đây thực sự là dấu mốc đánh dấu sự phát
triển của Đảng bộ. Chủ trương, nhiệm vụ của Đảng bộ giai đoạn này là tiếp tục lãnh đạo
nhân dân lao động sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới, vận động nhân dân đi vào
làm ăn tập thể, ổn định đời sống, huy động lực lượng, vật chất xây dựng hệ thống phòng
thủ, bảo vệ vững chắc quê hương, đất nước.
Mặc dù sau ngày giải phóng đời sống nhân dân đã có nhiều thay đổi tiến bộ, tuy
nhiên đây vẫn là giai đoạn còn khó khăn trên nhiều mặt, tình hình sản xuất nông nghiệp
mặc dù được khôi phục nhưng chậm phát triển, năng suất, hiệu quả lao động kém, lũ lụt,
dịch bệnh ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân, lưu thông hàng hóa bị hạn
chế…, đòi hỏi các đảng viên trong chi bộ phải giữ vững bản lĩnh, nắm chắc chủ trương
của Huyện ủy Hương Trà để lãnh đạo nhân dân xây dựng Hương Văn tiếp tục phát triển
vững mạnh.
1. Về kinh tế
Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Đảng bộ tiếp tục tập trung lãnh đạo thực hiện Nghị
quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Hương Điền trên
lĩnh vực phát triển kinh tế mà nhiệm vụ chính của giai đoạn này là thực hiện ba cuộc cách
mạng ở nông thôn, tiếp tục tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất
mới trên các lĩnh vực, nhất là trong sản xuất nông nghiệp.
Thực hiện chủ trương xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, chi bộ và Ủy ban nhân dân
cách mạng xã tích cực chỉ đạo và tổ chức thực hiện tiến lên cao trào hợp tác hóa nông
nghiệp, đã đào tạo cán bộ chuẩn bị xây dựng hợp tác xã; tổ chức học tập Điều lệ Hợp tác
xã nông nghiệp cho xã viên, qua đó nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của
việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, thấy rõ tính ưu việt và con đường tất yếu của việc
xây dựng xã hội chủ nghĩa và hợp tác hoá nông nghiệp, vận động nông dân tự nguyện viết

110
đơn xin vào hợp tác xã. Sau một thời gian vận động, đã thu hút được 100% số hộ nông
dân vào hợp tác xã. Trong quá trình vận động nhân dân đã tự nguyện đóng góp 07 máy
cày, 03 bình bơm thuốc trừ sâu, 104 con trâu, 23,82 tấn thóc và 349,5 ha ruộng nhà chùa,
ruộng họ vào tập thể 1. Trên cơ sở các tập đoàn xản xuất, tháng 11-1977, trên địa bàn
Hương Phú thành lập 02 hợp tác xã, đó là Văn Xá và Phú Thành. Hợp tác xã Văn Xá là
một trong những hợp tác xã được thành lập đầu tiên của huyện Hương Điền, Chủ nhiệm
là ông Trần Hưng Hải. Đến Đông Xuân 1978-1979, 5 đội sản xuất ở Giáp Nhất và Giáp
Tư nhập vào hợp tác xã Phú Thành. Đến đầu năm 1980, 5 đội sản xuất Giáp Nhất và Giáp
Tư của Hợp tác xã Phú Thành nhập với 2 đội sản xuất ở Giáp Nhì và Giáp Ba thành lập
hợp tác xã Văn Xá Đông, đồng thời tại thời điểm này thành lập hợp tác xã Văn Xá Tây.
Đây là sự chuyển biến nhận thức về quan hệ sản xuất mới, quy mô hợp tác xã phù hợp với
trình độ quản lý. Ban chủ nhiệm các hợp tác xã từng bước hoạt động nền nếp, chủ động
lãnh đạo, tổ chức, điều hành cho xã viên sản xuất, tổ chức khoán việc, ăn chia công điểm;
thực hiện nghĩa vụ cho Nhà nước...
Năm 1979, sau khi có Nghị quyết Trung ương 6 (khoá IV), các chính sách về
khuyến khích phát triển sản xuất của Chính phủ và Nghị quyết 05/NQ-TU của Tỉnh ủy về
cuộc vận động củng cố hợp tác xã, nhằm tăng cường công tác quản lý kinh tế trong các
hợp tác xã nông nghiệp, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, các hợp tác xã nông nghiệp đã
từng bước vận dụng các hình thức khoán đối với một số cây trồng, vật nuôi và ngành
nghề; đã tiến hành khoán đất trồng cây rau màu cho đội sản xuất và hộ gia đình. Trong vụ
Đông Xuân 1979 - 1980 đã thực hiện khoán đất 10-15% cho chăn nuôi đối với lợn. Vụ
Đông Xuân 1980 - 1981 đã áp dụng “3 khoán” của hợp tác xã cho đội sản xuất đối với
cây lúa. Việc khoán từng phần cho đội sản xuất và hộ gia đình đã phần nào phát huy được
sức sản xuất trong nhân dân. Tuy nhiên, hình thức khoán việc, ăn chia công điểm, khoán
từng phần không phù hợp với trình độ tổ chức, quản lý và điều kiện sản xuất của hợp tác
xã; chưa giải phóng sức lao động trong nhân dân; xã viên ít quan tâm đến sản phẩm cuối
cùng họ làm ra, chỉ lo chạy theo công điểm, không đảm bảo qui trình kĩ thuật, tình trạng
dong công phóng điểm, không tiết kiệm chi phí sản xuất diễn ra khá phổ biến; sản xuất

. Đảng ủy, Ủy ban nhân dân thị trấn Tứ Hạ, Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân
1

thị trấn Tứ Hạ, Tlđd, tr. 152.


111
phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết. Giai đoạn này, bình quân lương thực chỉ đạt
175kg/người, thực chất đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là mỗi khi giáp hạt.
Đánh giá thực trạng chung của các hợp tác xã trong cả nước, ngày 13-1-1981, Ban
Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 100/CT-TW, xác định mục đích cải tiến công
tác khoán là “bảo đảm phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế trên cơ sở lôi cuốn
mọi người hăng hái lao động, kích thích tăng năng suất lao động, sử dụng tốt các cơ sở
vật chất kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất, củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa ở nông thôn, không ngừng nâng cao thu nhập và đời sống của xã viên, tăng
tích lũy của hợp tác xã, làm tròn nghĩa vụ và không ngừng tăng khối lượng nông sản cung
ứng cho Nhà nước”.
Sau đó, Huyện ủy đã ban hành Nghị quyết số 05/NQ-HU, ngày 13-3-1981 về việc
thực hiện Chỉ thị 100/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết 02/NQ-TU
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến
nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp 1. Nghị quyết đã xác
định khuyến khích hơn nữa lợi ích của người lao động, làm cho mọi người tham gia các
khâu trong quá trình sản xuất và quản lý của hợp tác. Huyện ủy đã chỉ đạo trong quá trình
tổ chức thực hiện phải nắm vững mục đích, nguyên tắc và phương hướng, đồng thời phải
vận dụng linh hoạt các hình thức khoán, không cầu toàn, vừa làm vừa bổ sung hoàn chỉnh
cho phù hợp với thực tế của từng địa phương; tập trung sức chỉ đạo, làm tốt công tác
tuyên truyền, phát động quần chúng, phát huy và tôn trọng quyền làm chủ tập thể của xã
viên, xã viên thực sự tự nguyện, tự giác, không gò ép, áp đặt.
Tiếp thu chủ trương của Đảng về khoán sản phẩm, Đảng ủy đã tổ chức họp với cán
bộ chủ chốt của xã, tuyên truyền cho xã viên hiểu rõ về chính sách khoán của Nhà nước.
Xác định việc cải tiến công tác khoán và mở rộng sản khoán sản phẩm cuối cùng đến
nhóm và người lao động là khâu mấu chốt trong cải tiến quản lý, củng cố hợp tác xã.
Trước hết phải làm tốt “ba khoán” về sản lượng, chi phí sản xuất, công điểm cho đội sản
xuất, từ đó mạnh dạn mở rộng và chỉ đạo chặt chẽ khoán sản phẩm cuối cùng cho nhóm
lao động từ trong vụ Hè Thu năm 1981. Việc phân bổ ruộng đất giao khoán phải cố gắng

. Huyện ủy Hương Điền, Nghị quyết số 05/NQ-HU, ngày 13-3-1981, Tài liệu lưu trữ tại Văn phòng Thị
1

ủy Hương Trà.
112
hết sức tránh manh mún, tạo điều kiện thuận lợi cho người nhận khoán trong canh tác.
Đối với các gia đình chính sách, gia đình neo đơn..., có ưu tiên cho nhận ruộng gần, thuận
tiện và có sự giúp đỡ của các đoàn thể quần chúng.
Việc phân phối và giải quyết giữa ba lợi ích Nhà nước, tập thể và xã viên trong các
hợp tác xã hài hòa và phù hợp hơn, nhất là lợi ích của người lao động được tăng lên đáng
kể, nghĩa vụ với Nhà nước về lương thực tăng bình quân 16,17%, thực phẩm tăng 72,75%
so với năm 1981, thu nhập của xã viên năm 1983 tăng 18,5%, thu nhập vượt khoán từ 25
đến 30%. Tại các hợp tác xã từng bước có tiến bộ về các mặt quản lý, hạch toán, có tích
lũy, xây dựng thêm cơ sở vật chất, tài sản cố định. Bên cạnh việc xây dựng các công trình
phục vụ sản xuất, các hợp tác xã nông nghiệp còn xây dựng các công trình phúc lợi công
cộng, góp phần nâng cao đời sống tinh thần, văn hoá cho nhân dân như trạm truyền thanh,
nhà mẫu giáo..., từng bước làm thay đổi bộ mặt nông thôn.
Trong giai đoạn từ năm 1977 đến năm 1984, Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo nỗ lực
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, mà trọng tâm là giải quyết vấn đề lương thực, thực
phẩm, nhất là cây lúa; bố trí lại sản xuất, cơ cấu cây trồng hợp lý với điều kiện thổ
nhưỡng, đất đai từng vùng của xã; phát triển chăn nuôi và cây công nghiệp, tạo tiền đề và
mở ra khả năng mới về phát triển nông nghiệp. Đây là mục tiêu số một của Đại hội Đảng
bộ đề ra, nhằm ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
Đảng bộ xác định không ngừng mở rộng diện tích bằng cách tiếp tục rà phá bom
mìn, san lấp hố bom, khai hoang phục hóa, đi đôi với tập trung thâm canh tăng năng suất.
Từ năm 1977 đến năm 1984, các hợp tác xã đã khai hoang trên 36ha, mở rộng diện tích
trên 07ha. Tiếp tục phát động phong trào quần chúng thực hiện xen canh, tăng vụ, mạnh
dạn ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nhất là về giống, tạo ra một số nhân tố
mới về cây trồng, về mùa vụ, đưa một số giống mới như A4, IR36... vào sản xuất thay các
giống lúa địa phương bước đầu có kết quả tốt. Vận động nhân dân đưa một số diện tích
lên 3 vụ một năm (2 vụ lúa, 1 vụ màu hoặc 2 vụ màu, 1 vụ lúa), đồng thời đẩy mạnh xen
canh, thâm canh. Nhờ đó, sản lượng lương thực hàng năm đã tăng khá.
Chăn nuôi phát triển tốt, nhất là đàn lợn, trâu bò và gia cầm. Hàng năm, đàn trâu bò
và lợn tăng hàng trăm con; đàn gà, vịt có hàng ngàn con. Thời gian này luôn luôn hoàn
thành nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước, mỗi năm nộp khoảng 40 tấn lương thực.

113
Trong 3 chương trình kinh tế lớn là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu, chương trình lương thực - thực phẩm được xác định là chương trình, nhiệm vụ
hàng đầu, Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo áp dụng các biện pháp kỹ thuật như thủy lợi,
phòng trừ sâu bệnh, giống mới, cung ứng vật tư… để thâm canh và mở rộng diện tích
trồng lúa. Với chính sách mới trong nông nghiệp đã kích thích hộ nông dân phát triển sản
xuất và quan tâm đến hiệu quả kinh tế, nhờ vậy năng suất bình quân lúa tăng lên hàng
năm. Năng suất lúa bình quân những năm 1980 - 1983 chỉ khoảng 15-25 tạ/ha, đến năm
1984 đạt trên 30 tạ/ha; thu nhập đầu người nâng lên 344 kg/người vào năm 1984.
Theo hướng phát triển nông nghiệp toàn diện, trong giai đoạn này đã có chuyển biến
về trồng cây công nghiệp, diện tích gieo trồng hàng năm đều tăng. Việc đưa một số giống
cây vào sản xuất như mía đường, đậu tương, ớt…, cùng với việc giữ vững và phát triển
những cây truyền thống như lạc, thuốc lá…, đã tạo được một phần nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến hàng tiêu dùng và tăng thêm hàng hoá xuất khẩu. Người nông dân có
được đời sống ổn định và bắt đầu có dự trữ.
Hàng tiêu dùng trên địa bàn nhờ chính sách của Nhà nước lưu thông thuận lợi nên
ngày càng phong phú hơn. Cửa hàng mua bán chuyển sang hoạt động theo mô hình hợp
tác xã mua bán cũng phát triển, đảm bảo phục vụ nhu cầu cho nhân dân. Việc duy trì và
phát triển các hợp tác xã thêu, chổi đót, gạch ngói; các tổ hợp sản xuất Đồng Tiến, sơn
Sông Bồ; tổ hợp xây dựng, bốc xếp, cơ khí thúc đẩy ngành nghề phát triển đã giải quyết
việc làm cho hàng trăm lao động.
Một trong những chủ trương lớn của giai đoạn này là vận động nhân dân tham gia
xây dựng các công trình thủy lợi lớn của tỉnh phát động. Từ những năm 1977 đến 1982,
hàng ngàn lượt thanh niên Hương Văn đã tham gia xây dựng các công trình thủy lợi, như
đắp đập Mỹ Xuyên (Phong Hoà), làm đê ngăn mặn phá Tam Giang (tại các xã Điền Hoà,
Quảng Lợi, Phong Chương), hồ chứa nước Thọ Sơn (Hương Xuân)…; tham gia xây dựng
công trình đại thủy nông Nam Thạch Hãn (huyện Triệu Hải), xây dựng công trình thủy lợi
Nam Sông Hương. Ngoài ra, Đảng bộ lãnh đạo, huy động lực lượng tham gia các công
trình tại địa phương như làm đường, đào kênh mương dẫn nước, xây dựng trạm bơm tưới
tiêu, xây dựng trường học, trạm xá…
2. Về văn hóa, xã hội

114
Trên cơ sở những chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, cùng với thực
tế tại địa phương, Đảng bộ lãnh đạo từng bước giải quyết những khó khăn, vướng mắc về
giáo dục, y tế, chăm sóc các đối tượng chính sách.
Về giáo dục, tiếp tục duy trì những lớp học xóa mù chữ sau ngày giải phóng mới
hình thành, nhằm thanh toán nạn mù chữ trong nhân dân. Tổ chức tuyên truyền, vận động
học sinh đến trường, trước tiên là cấp I, sau đó là các lớp mẫu giáo và cấp II, đồng thời
tiến hành phổ cập phổ thông cấp I cho nhân dân trong độ tuổi. Số lượng học sinh của các
bậc học tăng nhanh. Năm học 1978 - 1979, toàn xã có 933 học sinh cấp I, có 384 học sinh
cấp II, có 7 lớp học mẫu giáo với trên 300 cháu. Đến năm 1984 có 726 học sinh cấp I và
369 học sinh cấp II, có 15 lớp mẫu giáo với 750 cháu (riêng Văn Xá có 485 cháu) 1. Công
tác bổ túc văn hóa tiếp tục được duy trì liên tục, ngoài việc đoàn viên thanh niên hỗ trợ
mở lớp, đứng lớp cón có 02 giáo viên chuyên trách, đến năm 1978 Hương Văn được công
nhận phổ cập cấp I cho toàn dân.
Về y tế và dân số, đội ngũ làm công tác y tế từng bước được ổn định từ xã đến thôn,
đội sản xuất. Trạm y tế được xây dựng mới, trang bị tạm đủ để khám chữa bệnh, phục vụ
nhân dân. Đội ngũ cán bộ y tế và dân số đã được bồi dưỡng về chuyên môn để chăm sóc
sức khỏe cho nhân dân, phòng và chống các loại dịch bệnh có hiệu quả hơn. Công tác
tiêm chủng mở rộng đạt kết quả, đã hạn chế các dịch bệnh xảy ra hàng năm như dịch tả,
sốt rét, sốt xuất huyết. Trạm y tế đã kết hợp chữa trị Đông y và Tây y. Phong trào quần
chúng vệ sinh phòng bệnh như: “ăn chín, uống sôi, sạch làng, tốt ruộng” và “3 công trình
2
vệ sinh trong gia đình” tiếp tục được vận động có hiệu quả, đến năm 1984, riêng ở
Hương Văn có 502 hố xí hợp vệ sinh, 147 giếng nước đào 3. Công tác truyền thông dân
số, kế hoạch hóa gia đình được tổ chức thường xuyên.
Công tác văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, thông tin được Đảng bộ quan tâm.
Đảng bộ đã lãnh đạo công tác tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, từ đó nâng cao nhận thức giác ngộ chính trị cho nhân dân về mục tiêu

. Đảng ủy, Ủy ban nhân dân thị trấn Tứ Hạ, Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân
1

thị trấn Tứ Hạ, Sđd, tr. 165.


. 3 công trình vệ sinh trong gia đình là hố xí 2 ngăn, giếng nước đào, nhà tắm. Tuy nhiên giai đoạn này
2

nhà tắm trong gia đình chưa được nhân dân hưởng ứng.
. Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Tứ Hạ.
3

115
và lý tưởng cách mạng của Đảng, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương, ý chí
độc lập, tự chủ, tự cường của nhân dân trong phong trào thi đua lao động sản xuất, xây
dựng đời sống văn hóa mới. Đội tuyên truyền xung kích của xã được thành lập, tổ chức
nhiều hoạt động tuyên truyền, cổ động trực quan. Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao
quần chúng phát triển khá mạnh từ các hợp tác xã đến thôn. Đội thông tin lưu động
thường xuyên thông tin kịp thời đến nhân dân những chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước; Đội văn nghệ của xã phục vụ nhân dân mọi lúc, mọi nơi, động viên, cổ vũ
nhân dân lao động sản xuất và học tập. Giai đoạn này, Đảng bộ chỉ đạo, Uỷ ban nhân dân,
các hợp tác xã xây dựng trạm truyền thanh toàn xã. Năm 1980, hệ thống truyền thanh
hoàn thành với 50 loa, đưa thông tin đến tận thôn, xóm.
Về thực hiện chính sách xã hội, chăm sóc người có công, Đảng bộ thường xuyên
quan tâm chỉ đạo phát động các phong trào như “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ
nguồn” trong cán bộ và nhân dân; chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã, các thôn giải quyết và
thực hiện các chế độ, chính sách đối với người có công cách mạng nghiêm túc, đúng quy
định; chú trọng trong công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Động viên nhân dân đóng
góp 02 ngày công lao động dưới các hình thức công và của để xây dựng Nghĩa trang liệt
sĩ và ủng hộ thương binh, người tàn tật. Phong trào đã được cán bộ và nhân dân đồng tình
ủng hộ, thể hiện truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc đối với các liệt sĩ, thương binh.
Riêng trong năm 1983, đã suy tôn 29 liệt sĩ, 18 thương binh, đề nghị khen thưởng có công
trong 2 cuộc kháng chiến với tổng số 128 huân chương, huy chương, bằng khen các loại1.
3. Về quốc phòng - an ninh
Quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ thường xuyên mà Đảng bộ luôn quan tâm lãnh
đạo nhằm giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đảng bộ chỉ đạo chính
quyền phát động cuộc vận động xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, thế
trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội, nâng cao ý thức giác ngộ cách mạng, truyền thống và tình yêu quê hương, đất nước
của quần chúng nhân dân để chống lại những âm mưu đen tối của các thế lực thù địch.
Đảng bộ đã chú trọng xây dựng lực lượng dân quân du kích đảm bảo chất lượng và
số lượng. Từ năm 1978, huy động thêm 01 đại đội du kích, toàn xã có 03 đại đội, mỗi đại

. Truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Tứ Hạ.
1

116
đội có 70 - 80 du kích; trình độ chính trị và kỹ thuật, chiến thuật của lực lượng du kích
được nâng lên, từ năm 1981 đến năm 1984 đều hoàn thành chương trình huấn luyện đạt
loại khá, giỏi.
Trong những năm 1977-1980, ở biên giới phía Bắc và phía Tây Nam, các thế lực
bên ngoài đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược. Nhân dân cả nước vừa xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc đồng thời vừa làm nhiệm vụ quốc tế. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy
về xây dựng tuyến phòng thủ bờ biển của Hương Điền, Đảng ủy đã ban hành nghị quyết
lãnh đạo nhân dân huy động lực lượng, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật tổ chức xây
dựng các công sự chiến đấu tại bờ biển Quảng Công, Quảng Ngạn. Kết quả nhân dân toàn
xã đã huy động 4.830 lao động trong độ tuổi, kèm theo hàng ngàn viên gạch táp lô, hàng
ngàn kilogram vôi và các vật liệu xây dựng khác; xây dựng 17 hầm trú ẩn, 01 hầm chỉ
huy, 01 hầm thương binh, 01 hầm chứa đạn, 01 hầm bắn 12 ly 7, 1 đài quan sát, 31 hố bắn
1
; riêng Hương Văn có 06 hầm ẩn nấp, 12 hố bắn, 01 hầm 12 ly 7, 01 đài quan sát và 01
hầm chứa đạn. Ngoài ra, Đảng bộ chỉ đạo phát động phong trào xây dựng hầm trú ẩn, mỗi
người 01 bàn chông, thời gian kéo dài trong vòng 02 tháng. Trong giai đoạn này, Hương
Văn luôn hoàn thành và vượt chỉ tiêu giao quân hàng năm. Chỉ riêng trong 02 năm (1979-
1980), Hương Văn đã có trên 80 thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự, vượt chỉ tiêu
huyện giao; trong 9 năm có 268 thanh niên tham gia quân thường trực và hoàn thành
nghĩa vụ trở về địa phương 2. Quá trình rèn luyện, phấn đấu có đồng chí trưởng thành
trong quân đội, nhiều đồng chí trở về địa phương, tham gia các phong trào, góp phần xây
dựng, phát triển quê hương. Trong quân ngũ các đồng chí đã phấn đấu hoàn thành nhiệm
vụ của quân nhân, có nhiều đồng chí hy sinh để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ
quốc 3.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự xã hội được
ổn định. Lực lượng công an nhân dân ở cơ sở luôn được quan tâm chăm lo xây dựng. Ban
công an xã được củng cố về tổ chức và nâng cao nghiệp vụ; ở từng hợp tác xã, đội sản
xuất, khu vực dân cư đều có công an viên. Ngoài ra, xã đã thành lập các tổ an ninh nhân
. Chỉ thị phân công số lượng công sự của xã Hương Phú, tài liệu lưu tại Văn phòng Thị ủy Hương Trà.
1

. Báo cáo kỷ niệm 10 năm giải phóng Hương Văn, tài liệu Lưu Trữ tại Văn phòng Đảng ủy phường
2

Hương Văn.
. Giai đoạn này Hương Văn có 7 liệt sỹ.
3

117
dân ở các xóm để làm nòng cốt, góp phần xây dựng phong trào toàn dân tham gia bảo vệ
an ninh Tổ quốc. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phát động sâu rộng trong
nhân dân, với khẩu hiệu “mỗi người dân là một công an viên”. Tình trạng trộm cắp vặt, tệ
nạn xã hội đã được khống chế, ngăn chặn kịp thời, số vụ việc ngày càng giảm.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, trên địa bàn xã có một số người tham gia
chế độ cũ, đã được chính quyền các cấp cho học tập cải tạo tập trung ngắn ngày và dài
ngày. Bước đầu đại bộ phận đã có tiến bộ trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, song bên cạnh đó có một số chưa chịu tập trung cải tạo mà còn
biểu hiện chống đối chính quyền cách mạng dưới các hình thức khác nhau như tuyên
truyền chiến tranh tâm lý, nói xấu chế độ, thành lập và tham gia các tổ chức phản động,
như “Thanh niên chống Cộng”, “Dân quân phục quốc”, nhằm chống phá về chính trị, mất
ổn định an ninh trật tự, nhất là những năm 1977-1978. Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy và
lực lượng chức năng cấp trên, đã phá tan âm mưu của chúng trên địa bàn Hương Văn.
4. Về xây dựng hệ thống chính trị
Sau khi nhập huyện, hệ thống chính trị của Hương Văn không có sự thay đổi. Đảng
bộ tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị đã đề ra.
Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, Đảng bộ đã thường xuyên tổ chức học tập,
quán triệt đường lối của Đảng, bám sát và chấp hành các chủ trương, nghị quyết của
Trung ương, của Tỉnh ủy, đi sâu nắm bắt được thực tế, cụ thể hóa thành các nghị quyết,
chủ trương, biện pháp phù hợp với thực tiễn. Đặc biệt là tuyên truyền chủ trương về xây
dựng hợp tác xã nông nghiệp, quán triệt Nghị quyết 100 về khoán sản phẩm; tuyên truyền
về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, thế trận chiến tranh nhân dân
bảo vệ Tổ quốc; tuyên truyền xây dựng đời sống văn hóa mới, con người mới xã hội chủ
nghĩa…
Cấp ủy thường xuyên củng cố, từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức Đảng và bộ máy chính quyền; bộ máy chính quyền dần thích nghi với
cách điều hành, quản lý kinh tế - xã hội ở thời bình. Đội ngũ cán bộ xã, hợp tác xã và các
thôn được củng cố, kiện toàn, ngày càng có nhiều cán bộ trẻ trưởng thành, tham gia công
tác xã hội. Quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng, kiến thiết quê hương, Đảng bộ cũng
trưởng thành và phát triển. Cán bộ, đảng viên đều tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng,

118
hầu hết nêu cao ý thức tổ chức kỉ luật, tiên phong, gương mẫu, phấn đấu xây dựng tổ chức
Đảng trong sạch vững mạnh. Trong 6 năm đã có 51 cán bộ, đảng viên được cử đi học tập,
đào tạo, bồi dưỡng về văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị; từ đó, vận dụng
kiến thức với kinh nghiệm thực tế để lãnh đạo, điều hành, quản lý xã hội tốt hơn. Mặt
khác Đảng bộ đã quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để phục vụ phương án tách xã
Hương Phú sau này.
Công tác phát triển đảng viên và tổ chức đảng được quan tâm, nhiều đảng viên đã
phát huy được năng lực trong công việc, trở thành hạt nhân ở cơ sở; số lượng, chất lượng
đảng viên tăng lên đáng kể. Cuối năm 1975, chi bộ có 11 đảng viên, đến năm 1978, Đảng
bộ có 30 đảng viên, sinh hoạt ở 2 chi bộ Hợp tác xã Phú Thành và Hợp tác xã Văn Xá,
Chi bộ Hợp tác xã Văn Xá có 19 đảng viên. Năm 1980, có 3 chi bộ: Chi bộ Hợp tác xã
Phú Thành, Chi bộ Hợp tác xã Văn Xá Đông và Chi bộ Hợp tác xã Văn Xá Tây. Đến năm
1981, Đảng bộ có 5 chi bộ: Chi bộ Phú Thành, Chi bộ Văn Xá Đông, Chi bộ Văn Xá Tây,
Chi bộ Tân Lập và Chi bộ Trung học phổ thông Hương Phú A và Hương Phú B. Năm
1984, khi mới thành lập Đảng bộ Hương Văn có 50 đảng viên 1.
Từ sau ngày Hương Văn giải phóng đến năm 1983, Đảng bộ trải qua 3 kỳ Đại hội:
Đại hội lần thứ I (năm 1976), đồng chí Nguyễn Văn Nẫm, Bí thư Chi bộ, đồng chí Trần
Hưng Bạch, Phó Bí thư Chi bộ; đến tháng 11-1978, thành lập Đảng bộ, Huyện ủy chỉ định
đồng chí Nguyễn Xuân Mai làm Bí thư Đảng bộ, đồng chí Trần Hưng Bạch, Phó Bí thư
Đảng bộ; Đại hội lần thứ II năm 1979, đồng chí Lê Đình Hiên được bầu làm Bí thư Đảng
bộ, đồng chí Hoàng Trọng Dũng, Phó Bí thư Đảng bộ; Đại hội lần thứ III năm 1982, đồng
chí Lê Đình Hiên tiếp tục được bầu làm Bí thư Đảng bộ, đồng chí Phạm Bá Phúc, Phó Bí
thư Trực đảng, đồng chí Hoàng Trọng Dũng, Phó Bí thư Đảng bộ.
Một sự kiện quan trọng vào tháng 11-1978, Huyện ủy Hương Điền đã quyết định
thành lập Đảng bộ Hương Phú 2. Đây là sự kiện đánh dấu một mốc son lịch sử của Đảng
bộ trong quá trình xây dựng và trưởng thành, là động lực và điều kiện cho cán bộ, đảng
viên, không ngừng phấn đấu, nâng cao trình độ chính trị, năng lực lãnh đạo, xây dựng
Đảng bộ vững mạnh. Ghi nhận đóng sự trưởng thành của Đảng bộ, từ năm 1980 đến năm
. Báo cáo tổng kết 10 năm giải phóng quê hương, Tài liệu lưu trữ tại phường Hương Văn. Trước khi chia
1

tách Đảng bộ Hương Phú có 90 đảng viên.


. Lúc này là Đảng bộ Hương Phú, thuộc xã Hương Phú.
2

119
1982, Huyện ủy Hương Điền tặng cờ thi đua đơn vị khá nhất trong việc thực hiện Chỉ thị
92 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; năm 1984, Đảng bộ Hương Văn được Tỉnh ủy Bình
Trị Thiên tặng cờ Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Công tác kiểm tra của đảng được Đảng bộ quan tâm. Công tác kiểm tra gắn với cuộc
vận động làm trong sạch, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng,
chính quyền địa phương. Đảng ủy chủ động tiến hành kiểm tra, xác minh, xử lý nghiêm
minh, kịp thời những vụ việc tiêu cực, vi phạm Điều lệ Đảng và quy định pháp luật. Qua
kiểm tra, giám sát có tác dụng nâng cao ý thức chấp hành Nghị quyết và kỉ luật của Đảng,
kịp thời uốn nắn những lệch lạc, ngăn ngừa những sai phạm của cán bộ, đảng viên.
Giai đoạn này, công tác dân vận của Đảng bộ gắn với công tác vận động của Mặt
trận và các đoàn thể chính trị. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Mặt trận và các đoàn thể
hoạt động chuyển dần theo hướng gắn chặt với các phong trào xây dựng và phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội tại địa phương. Vai trò nòng cốt của đoàn viên, hội viên, ý thức và
năng lực làm chủ tập thể của nhân dân lao động từng bước được phát huy. Phong trào
hành động cách mạng của quần chúng trên các mặt được giữ vững có phát triển, góp phần
tăng cường sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản ở cơ sở.
Trên cơ sở làm tốt công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ còn tập trung xây dựng chính
quyền vững mạnh, không ngừng nâng cao trình độ quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đội ngũ
cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Từ sau khi nhập huyện, nhân dân
Hương Văn đã trải qua 4 khóa bầu Hội đồng nhân dân. Các đại biểu Hội đồng nhân dân
được lựa chọn đều đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực hiện tốt là người đại biểu cho nhân
dân. Trong thời gian này Hội đồng nhân dân đã bầu Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân qua các nhiệm kỳ là các đồng chí Đặng Đống, Trịnh Hồng Công, Trần Hưng
Bạch, Hoàng Văn Dạng. Ủy ban nhân dân xã từng bước được kiện toàn, ngày càng chuẩn
hóa đội ngũ cán bộ về lý luận chính trị và trình độ chuyên môn.
Mặt trận và các đoàn thể ngày càng ổn định về mặt tổ chức, chất lượng, chiều sâu
của các hoạt động, sinh hoạt. Giai đoạn này, mặc dù hội viên, đoàn viên chưa nhiều nhưng
đã làm nòng cốt để huy động lực lượng, phát triển phong trào. Mặt trận và các đoàn thể đã
phối hợp với chính quyền từ xã đến thôn thực hiện các phong trào, cuộc vận động như:
phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” cuộc vận động “công dân kiểu

120
mẫu” và “gia đình cách mạng gương mẫu”; phong trào làm thủy lợi, giao thông, khai
hoang, phục hóa; vận động nhân dân hỗ trợ nhau khi gặp bão lũ, thiên tai, giúp nhau
những lúc giáp hạt, phong trào xóa nạn mù chữ, học bổ túc văn hóa...
Sau 7 năm nhập huyện, với địa thế là trung tâm của huyện Hương Điền, Đảng bộ đã
lãnh đạo nhân dân hoàn thành mọi nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực, đời sống nhân dân
từng bước ổn định, an ninh chính trị được giữ vững, hệ thống chính trị ngày càng vững
mạnh, được nhân dân tin tưởng.
Từ sau ngày giải phóng quê hương (1975) đến năm 1984, trên chặng đường 9 năm
Đảng bộ Hương Văn đã lãnh đạo nhân dân ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, vượt
qua khó khăn, thử thách để ổn định cuộc sống và từng bước phát triển kinh tế - xã hội. Từ
một vùng quê bị ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh; thiên tai, địch họa dồn dập; các thế
lực thù địch, phản động luôn tìm cách chống phá; đời sống nhân dân vô cùng khó khăn;
cơ sở vật chất, hạ tầng xã hội yếu kém; hệ thống chính trị còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm
lãnh đạo, quản lý, điều hành, vận động nhân dân trong điều kiện mới; Hương Văn đã có
nhiều thay đổi tiến bộ trên nhiều mặt. Từ chi bộ có 04 đảng viên, trở thành Đảng bộ có 51
đảng viên, được trang bị lý luận chính trị, văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm
lãnh đạo. Hệ thống chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể vững mạnh, ngày càng phát
triển. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Đời sống nhân dân từng
bước ổn định, từng bước xóa hộ đói. Cơ sở vật chất, hạ tầng xã hội thiết yếu như: trường
học, trạm y tế, đường giao thông, kênh mương thủy lợi… từng bước đáp ứng nhu cầu của
nhân dân.
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng, Đảng bộ xác định
đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn tiên phong, gương mẫu, đoàn kết, chủ động, sáng tạo, bám
sát chủ trương của Đảng, vận dụng linh hoạt vào thực tế tại địa phương để lãnh đạo nhân
dân vượt qua những giai đoạn khó khăn, từng bước ổn định xã hội. Nhận thức đúng tiềm
năng, thế mạnh của địa phương, xác định những khó khăn, yếu kém để chủ động trong
mọi tình huống với ý chí tự lực tự cường, tinh thần sáng tạo và tiến công cách mạng trong
nhân dân. Trong lãnh đạo luôn chăm lo đời sống và việc làm cho nhân dân, đặt con người
vào vị trí trung tâm của nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.

121
Chương 5
ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN HƯƠNG VĂN
ỔN ĐỊNH MỌI MẶT, TIẾN HÀNH ĐỔI MỚI
VÀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1984 – 2015)
I. NHANH CHÓNG ỔN ĐỊNH TỔ CHỨC, SẢN XUẤT VÀ ĐỜI SỐNG (1984-1986)
1. Tình hình Hương Văn sau ngày thành lập
Ngày 12-1-1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 7/HĐBT, về việc
phân vạch địa giới một số xã, thị trấn thuộc tỉnh Bình Trị Thiên, trong đó xã Hương Phú
được chia tách thành 2 đơn vị hành chính là Tứ Hạ và Hương Văn. Xã Hương Văn bao
gồm toàn bộ làng Văn Xá với diện tích tự nhiên là 1.372ha, dân số có 5.750 khẩu 1. Dưới
sự lãnh đạo của Huyện ủy Hương Điền, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hương Văn
tiếp tục vững bước trong sự nghiệp xây dựng quê hương giàu mạnh, góp phần xây dựng
chế độ mới xã hội chủ nghĩa.
Về thuận lợi, việc tách ra từ Hương Phú làm cho Hương Văn có điểm đặc biệt mà ít
địa phương khác có được là hình thức tổ chức “nhất làng nhất xã” nên có nhiều thuận lợi
trong quản lí hành chính. Đội ngũ cán bộ xã phần lớn trưởng thành trong thời kì chiến
tranh, tập kết từ miền Bắc về hoặc bộ đội về hưu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập
trường kiên định, một số mới được đào tạo sau ngày giải phóng có trình độ học vấn khá.
Kết hợp tốt hai lớp cán bộ này sẽ có bộ máy quản lí mạnh, đủ sức đưa nhân dân xã nhà
nhanh chóng vượt qua những khó khăn ban đầu.
Truyền thống dòng tộc, làng họ với hàng trăm năm lịch sử tạo thành khối đoàn kết
mạnh mẽ, đưa Hương Văn vượt qua khó khăn bước đầu, cùng cả nước tiến hành công
cuộc đổi mới. Nhân dân Hương Văn có truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh quật
cường, sớm đi theo Đảng làm cách mạng giải phóng dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, dù là địa bàn chịu sự kiểm soát ngặt nghèo của địch nhưng
nhân dân vẫn một lòng vững tin vào sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và
có những đóng góp lớn đối với thắng lợi chung của dân tộc. Trải qua gần 10 năm xây
dựng chủ nghĩa xã hội (1975-1984), dù gặp những thách thức lớn trên chặng đường phát
triển nhưng nhân dân Hương Văn vẫn một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
. Báo cáo tổng kết 10 năm giải phóng quê hương, Tài liệu lưu tại phường Hương Văn.
1

122
Đảng, tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng trong chiến đấu, cần cù, sáng tạo trong lao
động để xây dựng quê hương ngày càng phát triển.
Về khó khăn: Thời điểm xã Hương Văn thành lập cũng là lúc mà tình hình đất nước
nói chung, quê hương Thừa Thiên Huế và Hương Điền nói riêng đang trải qua những khó
khăn rất lớn. Cơ chế quản lí kinh tế cũ bộc lộ những hạn chế của nó. Đất nước đang dần
lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, lạm phát tăng với tốc độ phi mã.
Trong bối cảnh đó, ở Hương Văn, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt vừa
thiếu vừa xuống cấp nghiêm trọng (hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu chưa có). Toàn bộ
các tuyến đường liên thôn là đường đất, vào mùa mưa thường bị lầy lội, ngập úng gây khó
khăn cho việc đi lại của nhân dân. Trong thời kì xã Hương Phú, phần lớn công trình công
cộng chủ yếu được thiết đặt ở Tứ Hạ nên khi chia xã, Hương Văn gần như làm lại từ đầu.
Trụ sở xã chưa có, phải tạm mượn trụ sở của hợp tác xã mua bán (nay là chùa Hội Phước)
để cán bộ có nơi làm việc. Trường phổ thông cơ sở có 30 lớp nhưng chỉ có 8 phòng học,
không đủ chỗ ngồi cho học sinh. Chợ Văn Xá thường xuyên bị lầy lội, không đảm bảo vệ
sinh. Trạm y tế vừa chật lại thường xuyên bị ngập vào mùa mưa nên ảnh hưởng rất lớn
đến công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, nhất là trong trường hợp khẩn cấp
như sinh đẻ, cấp cứu… Đời sống của cán bộ và nhân dân đa phần còn thấp, khoảng 25%
số hộ gia đình thuộc diện hộ nghèo 1. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn xã vẫn còn những diễn biến phức tạp.
Mặc dù đội ngũ cán bộ trưởng thành trong chiến tranh có bản lĩnh chính trị nhưng
còn những hạn chế nhất định về trình độ quản lí, nhất là về quản lí kinh tế, nên có khó
khăn trong tiếp thu những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Phát huy điều kiện thuận lợi, Đảng bộ Hương Văn đã lãnh đạo nhân dân trong xã
từng bước khắc phục những khó khăn, nhanh chóng ổn định mọi mặt sản xuất và đời
sống, để bước vào công cuộc đổi mới toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng.

. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Hương Văn, Diễn văn mít tinh kỉ niệm 20 năm thành lập xã Hương Văn
1

(12-1-1984 – 12-1-2004).
123
2. Những kết quả bước đầu về tổ chức, sản xuất và đời sống
Thành lập mới trong bộn bề khó khăn và thách thức, để sớm đưa xã nhà ổn định về
mọi mặt, nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của Hương Văn phải thực hiện là nhanh chóng
củng cố tổ chức, kiện toàn hệ thống chính trị.
a. Trên lĩnh vực xây dựng Đảng và chính quyền: Đầu năm 1985, Đảng bộ Hương
Văn có 50 đảng viên (chiếm 0,8% dân số), trong đó bình quân độ tuổi là 45, cán bộ hưu
trí chiếm tới 60%, trình độ chính trị sơ trung cấp là 8%, 36% có trình độ học vấn cấp I trở
xuống 1. Ban Chấp hành lâm thời có 7 đồng chí, do đồng chí Lê Đình Hiên làm Bí thư
Đảng ủy. Đầu năm 1985, Đại hội Đảng bộ Hương Văn khóa I được tổ chức. Đại hội bầu
Ban Chấp hành Đảng bộ có 9 ủy viên. Đồng chí Lê Đình Hiên làm Bí thư Đảng bộ, đồng
chí Phạm Hiệp làm Phó Bí thư, đồng chí Trần Mậu Quán làm Ủy viên Ban Thường vụ.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ủy đối với cơ sở, Ban Chấp hành phân công các ủy
viên phụ trách chỉ đạo từng hợp tác xã 2.
Về chính quyền, bộ máy Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân lâm thời (được
tách ra từ Hội đồng nhân dân khóa 4 xã Hương Phú) nhanh chóng bắt tay vào việc thực
hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Cùng với cả tỉnh, ngày 22-4-1984, Hương Văn đã
tiến hành tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân. Ngày 19-5-1984, Hội đồng nhân dân xã
Hương Văn khóa 1 họp phiên đầu tiên, bầu đồng chí Phạm Hiệp được bầu làm Chủ tịch
Ủy ban nhân dân, đồng chí Phạm Bính làm Phó Chủ tịch phụ trách kinh tế, đồng chí Đặng
Công Bình làm Phó Chủ tịch - Trưởng công an xã.
Về Mặt trận và các đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã do đồng chí Trần Mậu
Quán làm chủ tịch cùng các đoàn thể quần chúng như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ và Đoàn
Thanh niên bước đầu ổn định tổ chức và hoạt động.
Sự kiện chính trị nổi bật trong thời gian này là việc xã tổ chức lễ kỉ niệm 10 năm
ngày giải phóng quê hương (25-3-1975 – 25-3-1985). Đây cũng là dịp để cán bộ và nhân
dân trong xã ôn lại truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang dưới sự lãnh đạo của Đảng
cùng những thành tựu trên các lĩnh vực sau 10 năm giải phóng. Một khoảng thời gian tuy
. Bí thư Đảng ủy xã Hương Văn, Tổng kết 10 năm giải phóng quê hương (25-3-1975 – 25-3-1985), tr. 15.
1

. Cụ thể: Phụ trách Văn Xá Đông: Các đồng chí Lê Văn Tuyền, Lê Tăng Thìn và Trần Thanh Bình. Phụ
2

trách Văn Xá Tây: Các đồng chí Hồ Trà, Hồ Sỹ Chất, Phạm Bính. Phụ trách Hợp tác xã Mua bán: các
đồng chí Phạm Thị Mai và Trần Xuân Quán. Bổ sung đồng chí Đặng Công Bình giúp việc cho Đảng ủy.
124
không dài nhưng đầy thách thức, làm thay đổi một cách toàn diện mọi mặt đời sống và
sản xuất của nhân dân Hương Văn.
b. Trên lĩnh vực kinh tế
Về nông nghiệp, đến đầu năm 1985, toàn xã có 996 hộ gia đình trên tổng số 1.048 hộ
(chiếm 95%) vào hợp tác xã. Song song với việc vận động đưa nhân dân vào làm ăn tập
thể, cũng như trên bình diện chung cả nước, thời gian này ở Hương Văn bắt đầu diễn ra
việc thay đổi phương thức tổ chức sản xuất của hợp tác xã nông nghiệp. Công tác khoán
theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng vốn đã được tiến hành trong những
năm trước nay vẫn tiếp tục. Đảng ủy chủ trương chỉ đạo các hợp tác xã khi thực hiện
khoán, giao đất cho xã viên nhưng phải giữ cho bằng được những tài sản cố định như máy
cày, máy bơm. Trong khi đó, đàn trâu tập thể được giao cho xã viên nuôi rẽ 1. Dù chưa
thực sự làm chủ ruộng đất nhưng phương thức khoán nhóm đã tạo ra động lực lớn đối với
người nông dân khi họ được tự chủ về thời gian và chủ động trong nhiều khâu sản xuất.
Cơ giới hóa ruộng đồng được đẩy mạnh, nhất là ở khâu nặng nhọc như làm đất nhằm làm
tăng năng suất lao động. Ngoài 2 máy cày MTZ sẵn có của hợp tác xã, Ủy ban nhân dân
xã chủ trương giao khoán một số diện tích cho máy cày của tư nhân, công khoán sẽ trả
vào cuối vụ.
Góp phần thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp còn nhờ Đảng ủy tập trung chỉ
đạo, huy động nguồn nhân lực đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất
và đời sống. Trong đó nổi bật là việc thi công hồ Thọ Sơn giai đoạn 2 và xây dựng hệ
thống mương dẫn nước từ hồ về các cánh đồng của Hương Văn. Đảng ủy đứng ra nhận
trách nhiệm huy động nhân công. Được sự hỗ trợ của Nhà nước (cho vay vốn, cung cấp
thiết kế, vật liệu xây dựng), trong 2 năm (1984-1985), Hương Văn đã huy động được
86.000 ngày công đào đắp 25.000m3 đất đá, đưa cao trình đập hồ Thọ Sơn lên thêm 3m và
xây dựng đường mương chính cấp 3 dài 9,5km dẫn nước thẳng từ hồ về cùng hệ thống
mương nhánh cấp 4 và 5 đến tất cả diện tích lúa. Song song với đảm bảo nước tưới, xã
còn xây dựng phương án tiêu úng cho từng tiểu vùng, nhằm đảm bảo sản xuất 2 vụ ăn
chắc, tránh bị thiệt hại do lũ lụt.

. Phỏng vấn ông Lê Đình Hiên, ngày 23-7-2017.


1

125
Nhờ thực hiện tổng hợp các biện pháp trên nên năng suất lúa của Hương Văn tăng
nhanh chóng, nhất là ở những chân ruộng đảm bảo được nước tưới. Do vậy, sản lượng
lương thực bình quân đầu người của Hương Văn không ngừng gia tăng, từ 145kg (năm
1980) lên 235kg (năm 1985) 1. Đặt trong bối cảnh đất nước thời kì “đêm trước đổi mới”,
nhiều địa phương còn khó khăn với việc lo cái ăn, thì Hương Văn đã sớm giải quyết được,
tuy rằng vẫn chưa thật vững chắc.
Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp không dừng lại ở những con số về diện tích,
năng suất, sản lượng mà còn thể hiện rõ ở sự thay đổi về tư duy sản xuất của bà con. Để
thay đổi nhận thức của nhân dân về việc áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất không
phải bằng lời nói suông mà phải bằng hiệu quả trong thực tế. Chẳng hạn như đối với
Hương Văn, tập quán canh tác vụ Hè Thu thường xuống giống sau tiết Mang chủng (ngày
5 hoặc 6-6 dương lịch) và sử dụng giống truyền thống dài ngày nên khi đến thời điểm thu
hoạch hay bị lụt sớm gây nên cảnh “có làm mà chẳng có ăn”. Để khắc phục, xã chủ
trương sử dụng giống lúa ngắn ngày và thay đổi lịch thời vụ, đẩy thời điểm xuống giống
lên trước tiết Mang chủng. Bằng biện pháp này, năng suất lúa không những không giảm
mà trái lại không còn lo bị ảnh hưởng bởi lũ lụt. Do đó, từ năm 1984 đưa giống lúa ngắn
ngày vào sản xuất đã trở thành phong trào của các hộ gia đình, chiếm tỉ lệ lên đến 91%
diện tích. Việc xuống giống sớm nhằm tránh lụt cũng dần trở nên quen thuộc.
Bên cạnh sản xuất lúa, một số cây công nghiệp ngắn ngày phục vụ xuất khẩu ngày
càng được chú trọng như lạc, ớt, vừng (mè). Nhờ vậy, đã góp phần đa dạng hóa cơ cấu
cây trồng và tạo ra được sản phẩm xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu nhập cho bà con cũng
như ngân sách địa phương.
Về chăn nuôi: Đàn lợn chủ yếu thuộc các loại giống bản địa như lợn Cỏ, Móng Cái
có trọng lượng thấp, chậm lớn. Chăn nuôi lợn chưa được đầu tư mà chủ yếu nhỏ lẻ trong
từng gia đình mang tính chất kiểu “bỏ ống” nhằm tận dụng thức ăn thừa và các sản phẩm
phụ của nông nghiệp nên năng suất còn thấp. Tuy nhiên, tình hình này bắt đầu thay đổi
theo hướng tích cực, cả về số lượng và chất lượng. Về số lượng, đến năm 1984 toàn xã có
1.920 con (so với khoảng 1.200 con năm 1980). Về chất lượng, trọng lượng lợn xuất
. Đại hội lần thứ VIII của Đảng bộ Hương Trà (nhiệm kì 1991-1995) đặt chỉ tiêu đến năm 1995, bình
1

quân lương thực/đầu người đạt 240kg. Như vậy, so với toàn huyện, Hương Văn đạt chỉ tiêu này sớm trước
10 năm.
126
chuồng ngày càng tăng, từ trung bình 41kg (năm 1980) lên 67kg (năm 1984), đưa tổng
thu nhập từ chăn nuôi lợn từ 5,6% (năm 1980) lên 8,5% (năm 1984).
Để phục vụ sản xuất nông nghiệp phù hợp với hình thức sản xuất hộ gia đình, đàn
trâu được bà con đầu tư phát triển nhằm đảm bảo sức kéo và cung cấp nguồn phân bón
cho đồng ruộng. Từ chỗ có 384 con (năm 1980) lên đến 625 con (năm 1984), tăng 16,7%.
Về ngành nghề: Đảng ủy xã có chủ trương tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa
phương, các hợp tác xã tổ chức cho xã viên làm một số ngành nghề chế biến nhằm làm
gia tăng giá trị sản xuất, tạo ra các mặt hàng phục vụ tiêu dùng tại chỗ cũng như giải
quyết việc làm cho một bộ phận lao động, như sản xuất đường, lò sản xuất sành sứ, gạch
ngói. Ngoài nỗ lực của chính quyền, một số hộ gia đình đã mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, sắm
máy xay xát phục vụ yêu cầu chế biến lúa gạo tại chỗ cũng như sử dụng bọng ép lạc thủ
công, sản xuất dầu phục vụ nhu cầu tại chỗ và bán ra các địa phương lân cận. Do đó, tỉ
trọng của sản xuất ngành nghề tăng từ 16,7% (năm 1980) lên 27,3% (năm 1984).
Để phục vụ xuất khẩu, chế biến nông phẩm ngày càng trở nên quan trọng đối với các
hợp tác xã ở Hương Văn. Trong đó, lạc là mặt hàng chủ lực, đạt 50 tấn (năm 1984, tăng
gấp 2 lần năm 1980). Ngoài ra, ưu đãi của núi rừng Hương Văn còn mang lại nguồn lợi
lớn cho xuất khẩu là mặt hàng bông đót, với sản lượng lên đến 140 tấn (năm 1984), gấp
2,1 lần so với năm 1980. Nhờ vậy, giá trị xuất khẩu hàng hóa của Hương Văn tăng vượt
bậc, từ 90.000đ (năm 1980) lên 790.000đ (năm 1984), tức là tăng gấp 8,8 lần.
Sự “hấp dẫn” của việc làm hàng xuất khẩu đã thu hút một bộ phận nhân lực tham
gia. Đến năm 1984, bình quân mỗi lao động có 26 ngày công làm hàng xuất khẩu/năm,
tức là đã dành ra khoảng 1 tháng sản xuất phi nông nghiệp. Giá trị xuất khẩu bình quân
của mỗi lao động tăng từ 19,5đ (năm 1980) lên 143đ (năm 1984), tức tăng 7,3 lần.
Ngày 23-7-1984, Huyện ủy Hương Điền ban hành Nghị quyết số 09/NQ-HU về việc
tăng cường củng cố thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, tiếp tục cải tạo tư thương, đấu tranh
đẩy lùi thị trường tự do, từng bước cải thiện đời sống nhân dân 1. Thực hiện chủ trương
đó, để góp phần nâng cao nguồn vốn phục vụ sản xuất cũng như tiêu dùng của nhân dân
và tận dụng nguồn vốn còn nhàn rỗi trong quần chúng, ngay trong năm 1984, Hợp tác xã

. Ban Chấp hành Đảng bộ Hương Trà, Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Trà (1975-2010), Nxb. Thuận Hóa,
1

Huế, 2010, tr. 103.


127
Tín dụng Hương Văn được thành lập. Tham gia hợp tác xã có 972 xã viên (đạt 87% số
hộ) và 51% lao động. Số vốn ban đầu hợp tác xã huy động được là 65.000 đồng.
Hợp tác xã Mua bán chia ra 2 cơ sở hoạt động theo địa bàn 2 hợp tác xã nông
nghiệp, do Phạm Thị Mai làm Chủ nhiệm. Chỉ trong 3 tháng đầu năm 1986, giá trị hàng
hóa mà Hợp tác xã Mua bán thực hiện là mua vào 5.000.000đ, bán ra: 4.800.000đ 1. Hàng
hóa lưu thông chủ yếu là nhu yếu phẩm phục vụ đời sống hàng ngày và sản xuất, như mỡ
lợn, muối, đường, dầu hỏa, bột ngọt, nước mắm, đạm u-rê… Ngoài ra, toàn xã còn có
khoảng 40 hộ kinh doanh nhỏ lẻ dọc Quốc lộ 1A và chợ Văn Xá.
Nhìn chung, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trực tiếp là Đảng ủy xã, nhờ nỗ
lực của toàn thể cán bộ và nhân dân, nền kinh tế Hương Văn trong những năm đầu thành
lập đã đạt được những thành tựu quan trọng về nhiều mặt. Đến cuối năm 1984, tổng thu
nhập toàn xã tăng gấp 11,7 lần so với năm 1980, giá trị tài sản cố định tăng gấp 10,2 lần.
Phần đóng góp cho nhà nước không ngừng tăng. Tăng trưởng kinh tế không chỉ nâng cao
đời sống nhân dân, đóng góp cho nhà nước mà còn tạo tiền đề nhanh chóng ổn định chính
trị, xã hội, tạo sức bật mới để Hương Văn bước vào công cuộc đổi mới toàn diện.
c. Trên lĩnh vực giáo dục, văn hóa, y tế và chính sách xã hội
Về giáo dục: Trong bộn bề khó khăn của xã mới thành lập nhưng các kết quả đạt
được trong những năm trước là cơ sở để Hương Văn tiếp tục phát triển. Về mẫu giáo, vẫn
duy trì được 5 lớp như trước đây trong khi tỉ lệ trẻ trong độ tuổi được huy động đến lớp
tăng lên 47% (so với 20% của năm 1976).
Trường phổ thông cơ sở (cấp I+II) Hương Văn có 30 lớp, 1.210 học sinh. Do chỉ có
8 phòng học nên để khắc phục khó khăn ban đầu, ngoài học ca 3, trường phải mượn tạm
cơ sở đảm bảo dạy học. Một thành tựu giáo dục của Hương Văn ngay trong năm đầu
thành lập là đã huy động được 100% (280 em) trong độ tuổi vào lớp 1. Trong 5 năm
(1980-1984), đã có 2.670 học sinh tốt nghiệp cấp II. Nhiều học sinh sau khi tốt nghiệp
tiếp tục theo học cấp III. Đến năm 1984, toàn xã có 96 em hoàn thành học cấp III và nhiều
em thi đậu đại học. Bên cạnh đó, công tác bổ túc văn hóa xóa mù chữ cho những người
lớn tuổi vẫn tiếp tục được duy trì. Vượt qua khó khăn về thời gian học tập và tuổi tác, một

. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng ủy xã Hương Văn mở rộng 4-4-1987.
1

128
số người đã đạt danh hiệu học sinh giỏi. Những kết quả trên đã phản ánh sự phát triển
toàn diện của giáo dục Hương Văn sau một thời ngắn.
Về văn hóa: Đời sống tinh thần của nhân dân trong xã cũng có những chuyển biến
quan trọng. Hương Văn là vùng đất có truyền thống lịch sử hàng trăm năm, với bao dấu
tích vật chất và tín ngưỡng gắn bó hàng ngày với đại đa số quần chúng nên việc thực hiện
lối sống mới, đẩy lùi, tiến tới thu hẹp dần những hủ tục, giữ lại những nét đẹp là cuộc vận
động đầy khó khăn. Cộng thêm vào đó, những khó khăn kinh tế của thời hậu chiến tác
động nên góp phần làm mai một dần một số yếu tố văn hóa về tín ngưỡng, tâm linh, lễ hội
ở địa phương. Tệ mê tín dị đoan, tín ngưỡng đa thần giáo dần bị đẩy lùi, thu hẹp lại còn ở
một số người và địa điểm. Việc thay đổi hình thức tổ chức đám cưới, đám tang cũng có
những chuyển biến nhất định. Trong đám cưới theo hướng đơn giản hơn, bỏ bớt một số lễ
như bốc xăm, cúng ông Tơ bà Nguyệt. Trong tang ma, Hợp tác xã Văn Xá Tây có sáng
kiến đáng ghi nhận. Theo đó, khi gia đình nào chẳng may có người qua đời, hợp tác xã sẽ
đứng ra lo áo quan và gạo ăn cho đội âm công và các cụ phụ lão sẽ lo lễ nghi tổ chức để
đưa người quá cố về nơi an nghỉ cuối cùng. Việc làm này vừa để giúp tang gia vượt qua
khó khăn “trong lúc bối rối”, qua đó thắt chặt tình cảm đoàn kết xóm giềng vừa giảm bớt
được những lễ nghi rườm rà không cần thiết.
Về y tế: Lúc thành lập xã, trạm y tế đặt tạm tại Nhà Hộ sinh trước đây của bác sĩ Lê
Khắc Quyến. Dù cơ sở còn chật hẹp, chỉ có 6 giường bệnh và thường xuyên bị ngập vào
mùa mưa, thuốc men và các phương tiện khám chữa bệnh rất thiếu thốn, đội ngũ nhân
viên y tế chỉ có 2 người nhưng vẫn đảm bảo công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho
nhân dân, nhất là trong hộ sinh. Thời gian này, công tác phòng ngừa bệnh dịch đậu mùa,
dịch tả thông qua các chương trình tiêm chủng mở rộng đã kịp thời chặn đứng được nhiều
đợt dịch. Việc thực hiện lối sống mới, ăn ở sạch vẫn tiếp tục duy trì. Trong từng gia đình
đã xây dựng 3 công trình vệ sinh. Đặc biệt, qua tuyên truyền, dần dần bà con từ bỏ kiêng
kị việc đào giếng trong vườn nhà.
Công tác vận động sinh đẻ có kế hoạch được tiến hành tích cực nhưng kết quả còn
hạn chế. Mặc dù thực hiện nhiều biện pháp vận động, kể cả khuyến khích khen thưởng
đối với những gia đình dừng lại ở 1-2 con nhưng tâm lí “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ”,

129
“đông con hơn đông của” trong nhân dân vẫn khá phổ biến. Do đó, tỉ lệ sinh ở Hương
Văn vẫn còn cao, năm 1985 tới 3,3%, nhiều gia đình sinh tới con thứ 6-7.
Về chính sách xã hội: Sự đi lên của nền kinh tế đã góp phần làm thay đổi bộ mặt ở
nông thôn. Bà con có điều kiện đầu tư xây dựng nhà cửa kiên cố để “an cư lạc nghiệp”.
Số nhà ngói, nhà xây ngày càng phổ biến, đến năm 1984 chiếm tới 51% số nhà toàn xã.
Ngoài ra, một số công trình phụ bước đầu cũng được xây kiên cố. Trong lúc Đảng bộ và
nhân dân Hương Văn đang khẩn trương ổn định mọi mặt đời sống và sản xuất thì cơn bão
số 8 (14-9-1985) gây nên những thiệt hại lớn. Khoảng 50% nhà dân bị sập hoặc tốc mái.
Trụ sở Ủy ban nhân dân xã, nhà kho của Hợp tác xã Mua bán, trường học và trạm xá bị
tốc mái. Sau bão là lụt, khiến vụ mùa Hè Thu 1985-1986 mất nặng. Phát huy tinh thần
tương trợ, Đảng ủy và Ủy ban nhân dân xã kịp thời chỉ đạo các ban ngành hỗ trợ nhân lực
và vật liệu giúp những gia đình bị thiệt hại khắc phục nhà cửa. Ngay trong cơn bão, lực
lượng dân quân được huy động đi cứu trợ ở những gia đình bị sập nhà, ngập nước. Sau
khi bão tan, với sự trợ giúp của bộ đội huyện, lực lượng dân quân được huy động giúp
dân dựng lại nhà. Để tạm thời vượt qua nạn đói, Đảng ủy xã quyết định xuất lúa dự trữ hỗ
trợ cho các gia đình bị thiệt hại nặng và tập trung lãnh đạo Mặt trận cùng các đoàn thể
tuyên truyền, động viên nhân dân giúp nhau khắc phục hậu quả.
Với tinh thần “đền ơn đáp nghĩa”, chính quyền và nhân dân Hương Văn đã thực
hiện chính sách hậu phương quân đội chu đáo. Xã cùng các cấp có trách nhiệm xác nhận
235 người có công với kháng chiến, trong đó có 49 người được Huân chương Kháng
chiến hạng Nhất, 15 hạng Hai, 50 hạng Ba.
Việc chăm lo đời sống cho các gia đình chính sách được các cấp thực hiện chu đáo.
Chính quyền vận động nhân dân trong xã góp vật liệu và công để tu sửa và làm nhà mới
cho các gia đình liệt sĩ, gia đình neo đơn. Phong trào đỡ đầu con liệt sĩ được phổ biến
rộng rãi trong nhân dân.
d. Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh
Về quốc phòng: Hương Văn làm tốt công tác tuyển quân hàng năm. Thanh niên dần
nhận thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với đất nước trong tình hình hai
đầu biên giới vừa có hòa bình vừa có chiến tranh. Do đó, hiện tượng chống lệnh gọi nhập
ngũ, bỏ trốn, đào ngũ giảm dần và đến năm 1984 thì chấm dứt. Đến đầu năm 1985, có 159

130
con em Hương Văn đang ở trong quân ngũ, cầm súng bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ
quốc tế ở Lào và Campuchia. Những người hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa
phương đều được Đảng ủy và chính quyền sắp xếp, bố trí công việc phù hợp, một số tham
gia đội ngũ cán bộ xã và các hợp tác xã. Qua thực tiễn huấn luyện, chiến đấu trong hàng
ngũ “Bộ đội cụ Hồ”, nhiều người đã trưởng thành, là đối tượng cảm tình Đảng hoặc đứng
trong hàng ngũ Đảng. Ngoài ra, hàng năm các hợp tác xã nông nghiệp đều trích lúa
(khoảng 2,5 tấn) lập quỹ để góp phần nuôi quân tại chỗ trong thời gian huấn luyện và dự
trữ quốc phòng. Nhờ thực hiện tốt công tác quốc phòng nên 4 năm liền (1981-1984),
Hương Phú - Hương Văn đều đạt danh hiệu xã Quyết thắng.
Về an ninh: Dù xã mới thành lập nhưng dựa trên nền tảng an ninh toàn dân, quốc
phòng toàn dân vững chắc đã xây dựng từ trước nên ngay từ những ngày đầu, an ninh trật
tự, an toàn xã hội ở Hương Văn vẫn được giữ vững. Lực lượng dân quân tự vệ được củng
cố, thu hút đông đảo thanh niên trong độ tuổi, có sức khỏe tham gia, chiếm 5% dân số. Dù
bận rộn với sản xuất và gia đình nhưng anh em vẫn tích cực hoàn thành chương trình huấn
luyện hàng năm, trình độ kĩ thuật, chiến thuật ngày càng được nâng cao. Năm 1984, lực
lượng dân quân Hương Văn được xếp loại giỏi.
Những kết quả đạt được bước đầu trong những năm đầu thành lập xã của Hương
Văn có ý nghĩa quan trọng. Trước hết, nó chứng minh việc tách lập xã mới là chủ trương
đúng, phù hợp với trình độ quản lí của đội ngũ cán bộ để từ đó phát huy được hết khả
năng của mình trong môi trường làng xóm quen thuộc. Những thay đổi bước đầu trong
sản xuất cùng kết quả đạt được là tín hiệu vui, khẳng định việc thay thế phương thức tổ
chức quản lí, sản xuất cũ là cần thiết. Đời sống của nhân dân nhanh chóng ổn định và có
bước phát triển rõ rệt so với trước là thước đo chính xác nhất, phản ánh đường lối đổi mới
mà Đảng bắt đầu tiến hành ở một số địa phương và cơ sở là đúng đắn. Đặt trong trong
tình hình nhiều địa phương ở Hương Điền có một số mặt thụt lùi thì những thành tựu trên
của Hương Văn càng có ý nghĩa. Nhân dân Hương Văn càng vững tin hơn vào sự lãnh
đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc để bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, được đề ra
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986).

131
II. ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI (1986-1990)
1. Chủ trương của Đảng bộ
Nhằm đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, tiến kịp trào lưu chung của thế giới, Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Căn cứ
các nghị quyết của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Bình Trị Thiên (từ tháng 7-1989 là Tỉnh ủy
Thừa Thiên Huế) và Huyện ủy Hương Điền (từ tháng 9-1990 là Huyện ủy Hương Trà),
Đảng ủy Hương Văn đã bám sát thực tế địa phương để đề ra những chủ trương, nhiệm vụ
cụ thể.
Tại Lễ kỉ niệm 10 năm giải phóng quê hương (24-3-1985), Đảng ủy xã Hương Văn
đề ra chiến lược phát triển trong 10 năm 1985-1995 như sau:
1. Bình quân lương thực đạt 500kg/ người trở lên, tổng thu nhập tăng 5 lần so với
năm 1985.
2. Tăng xuất khẩu, mỗi năm mỗi lao động làm 100 ngày công cho xuất khẩu, bố trí
30% diện tích đất để trồng cây xuất khẩu.
3. Mỗi năm trồng 200 đến 300.000 cây nhằm phủ xanh đất trống, đồi trọc, cồn
hoang, đường đi bằng cây lấy gỗ, cây ăn quả.
4. Giảm tỉ lệ sinh đẻ từ 3,3% năm xuống 1%.
5. Đến năm 1995 ngói hóa toàn xã, trường học đủ cho toàn bộ học sinh 3 hệ (mẫu
giáo, phổ thông, bổ túc). 100% thanh niên dưới 35 tuổi học hết cấp II, 25 tuổi trở xuống
học hết cấp III. Hoàn chỉnh hệ thống truyền thanh, truyền hình. Trạm xá bảo đảm chữa
bệnh, hộ sinh cho nhân dân.
6. Hoàn thành quy hoạch chỉnh trang đồng ruộng, hệ thống tưới tiêu và đường sá,
đảm bảo xe cải tiến ra đến tận ruộng và xe cơ giới cơ động được trên địa bàn toàn xã. Quy
tập mồ mả lẻ tẻ.
7. Xây dựng hợp tác xã Mua bán và Tín dụng mạnh, độc quyền nắm hàng hóa và
tiền tệ trên thị trường, bài trừ tư thương cho vay nặng lãi.
8. Đào tạo, bố trí gửi đi học dài hạn và ngắn hạn cán bộ lãnh đạo, quản lí từ đội sản
xuất trở lên biết làm kinh tế và quản lí kinh tế.

132
9. Xây dựng hệ thống ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chế biến, khai thác đá xi
măng, làm gạch ngói, chế biến đường, thức ăn gia súc ở quy mô thích hợp.
10. Giữ vững an ninh-quốc phòng, lực lượng dân quân tự vệ chiếm 10% dân số 1.
Nhiệm vụ phát triển trong 10 năm 1985-1995 được Đảng ủy xã Hương Văn cụ thể
hóa theo từng nhiệm kì đại hội Đảng bộ cũng như kế hoạch của từng năm.
Đại hội Đảng bộ Hương Văn khóa II (vòng 1) được tiến hành trong hai ngày 6 và 7-
1-1988. Đại hội đề ra một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong những năm 1988-
1990, hoàn thành các chỉ tiêu trước Nghị quyết Huyện ủy 1 năm. Cụ thể, tỉ lệ tăng dân số
1,6%/năm, lương thực đạt 1.650 tấn, 300 tấn lạc, 10 tấn vừng, 15 tấn thuốc lá, trồng mới
9.000 gốc tiêu. Trong chăn nuôi, 800 con trâu, 2.500 con lợn (trọng lượng xuất chuồng
70kg/con). Mở rộng ngành nghề ở cả 2 khu vực (phấn đấu chiếm 30% thu nhập); trồng
300ha rừng. Về văn hóa, phổ cập cấp I cho toàn dân, cấp II cho thanh niên và cấp III cho
cán bộ chủ chốt (đồng thời hoàn thành học trung cấp chính trị). Trong lưu thông - phân
phối, Hợp tác xã Mua bán - Tín dụng đủ hàng và tiền, phấn đấu phục vụ 65% nhu cầu của
nhân dân. Hoàn thành toàn bộ cơ sở phúc lợi, đảm bảo nước tưới cho 60% diện tích trồng
màu. Về an ninh - quốc phòng, phấn đấu đạt danh hiệu xã an toàn làm chủ. Về công tác
Đảng, phấn đấu có 50% đảng viên dưới 35 tuổi và 30% có trình độ cấp III.
2. Những kết quả bước đầu trong sự nghiệp đổi mới (1986-1990)
a. Trên lĩnh vực kinh tế
Về nông nghiệp: Vụ mùa Đông Xuân 1986-1987, vụ đầu tiên thực hiện đường lối
đổi mới của Đảng ở Hương Văn diễn ra trong những điều kiện bất lợi về thời tiết, hậu quả
nặng nề của bão số 10 (1985) vẫn còn chưa được khắc phục xong và đặc biệt là nạn dịch
bọ xít. Các hợp tác xã sớm phát hiện và huy động nhân lực bắt kết hợp phun thuốc trừ sâu
nhưng hậu quả vẫn rất nặng, thiệt hại lên tới 60-70% sản lượng 2. Tuy nhiên, bù lại sản
lượng lúa, sản xuất lạc lại có bước phát triển cả về diện tích và năng suất. Từ năm 1984
đến năm 1987, diện tích lạc tăng từ 196ha lên 232ha. Do đó, nhìn dưới góc độ giá trị kinh

. Bí thư Đảng ủy Hương Văn, Tổng kết 10 năm giải phóng quê hương (25-3-1975 – 25-3-1985), ngày 24-
1

3-1985, tr. 18-19.


. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng ủy xã Hương Văn mở rộng, ngày 4-4-1987.
2

133
tế, dù sản lượng lúa giảm nhưng sản lượng lạc tăng đã góp phần thay đổi đáng kể tổng thu
nhập của toàn xã. Nó thể hiện ở bảng số liệu sau của hai hợp tác xã nông nghiệp 1.
Nội dung Hợp tác xã Văn Xá Tây Hợp tác xã Văn Xá Đông
1986 1987 1986 1987
Tổng số vốn sản 5.806.537,5 13.252.731,04 10.565.654,22 13.405.883,1
xuất kinh doanh (đ)
Tổng giá trị tài sản 3.440,682,1 4.141.656,21 8.638.941 8.423.751
cố định (đ)
Vốn tự có (đ) 3.680.905,58 4.290.762,68 9.936.394,21 12.864.808,74
Qua năm 1988, sản xuất nông nghiệp ở Hương Văn tiếp tục có những chuyển biến
tích cực, khi đường lối đổi mới của Đảng ngày càng đi vào cuộc sống. Ngày 5-4-1988, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, trong đó
khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm hộ và hộ xã
viên, đến người lao động và đến tổ, đội sản xuất tùy theo điều kiện của ngành nghề cụ thể
ở từng nơi, gắn kế hoạch sản xuất với kế hoạch phân phối từ đầu. Trong trồng trọt, về cơ
bản khoán đến hộ hoặc nhóm hộ xã viên” 2.
Nghị quyết nhanh chóng đi vào cuộc sống dưới tên gọi “Khoán 10”. Ngày 5-5-1988,
Huyện ủy Hương Điền ban hành Nghị quyết số 13-NQ/HU về cải tiến khoán sản phẩm
trong các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Huyện ủy chỉ đạo các địa phương,
các hợp tác xã tiến hành “khoán hộ” ngay trong vụ Hè Thu 1988, những công việc giao
khoán đảm bảo hài hòa ba lợi ích Nhà nước, tập thể và người nông dân. Từ đây, bà con
nông dân mới thấy quyền làm chủ ruộng đất thực sự, từ đó tích cực sản xuất, đầu tư máy
móc, phân bón, giống lúa mới nhằm gia tăng năng suất và sản lượng. Ở Hương Văn, việc
giao đất nhận khoán, thỏa thuận mức ăn chia giữa hợp tác xã và xã viên được tiến hành
công khai. Theo đó, xã viên nhận khoán hưởng 60% sản lượng, hợp tác xã hưởng 40%.
Tuy nhiên, điểm mới ở đây là trong mức khoán nộp cho hợp tác xã, không nhất thiết
người nhận khoán phải nộp đủ 100% bằng lương thực mà có thể nộp tối thiểu 30%, số
còn lại có thể nộp bằng tiền hoặc hiện vật khác. Như vậy, điều này có tác dụng khuyến
khích người lao động đầu tư tăng sản lượng hoặc chủ động lựa chọn cây trồng có giá trị

. Tình hình sản xuất kinh doanh của 2 hợp tác xã nông nghiệp, ngày 1-12-1987.
1

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 49 (1988-1989), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
2

Nội, 2006, tr. 115.


134
kinh tế hơn cũng như có thể tự do bán một phần lúa nghĩa vụ ra thị trường nếu giá cả có
lợi so với nộp bằng hiện vật. Ngoài ra, theo chủ trương của Huyện ủy, Đảng ủy còn chỉ
đạo các hợp tác xã mở rộng diện tích canh tác bằng cách tổ chức khai hoang vùng bãi
Roọng (xã Hương Bình), chủ yếu canh tác thuốc lá và ớt.
Do đó, cũng như nhiều địa phương khác trên cả nước, sản xuất nông nghiệp ở
Hương Văn có những bước tiến nhảy vọt. Tổng sản lượng lương thực năm 1990 của
Hương Văn đạt 1.233,926 tấn, tăng xấp xỉ 150% so với năm 1987 (831 tấn). Cộng thêm
giá trị lạc và các loại hoa màu khác quy thóc, tổng sản lượng lương thực năm 1990 của
Hương Văn đạt 2.114 tấn 1. Lương thực bình quân đầu người đạt 309,77kg. Với mức này,
Hương Văn lần đầu tiên vượt qua được ngưỡng an ninh lương thực 2. Đây là một thành
tựu rất lớn của địa phương vào thời điểm đó.
Về lâm nghiệp: Toàn xã trồng được 142ha, trong đó Văn Xá Đông trồng cây phân
tán dọc các đường làng, ngõ xóm, còn ở Văn Xá Tây trồng tập trung theo dự án PAM. Để
đảm bảo cây có tỉ lệ sống cao, thực hiện cơ chế “Khoán 10”, Đảng ủy chủ trương chuyển
cho gia đình xã viên chăm sóc.
Về chăn nuôi: Đảng ủy chỉ đạo các hợp tác xã tăng cường các biện pháp thú y để
phòng ngừa và ngăn chặn nạn dịch lở mồm long móng ở đàn trâu.
Về tài chính - thương nghiệp: Qua năm 1987, khi đường lối đổi mới được thực hiện,
Ban Chủ nhiệm hợp tác xã Mua bán có nhiều sáng kiến nhằm đẩy mạnh sản xuất kinh
doanh. Có thể kể ra một số hoạt động tiêu biểu như khôi phục hoạt động chợ Văn Xá, liên
kết với nhiều đầu mối để tạo nguồn hàng cung cấp cho nhân dân, nắm đầu lợn trong toàn
xã để chủ động được nguồn thịt lợn trong nhân dân, có thể đảm bảo cung ứng đủ chỉ tiêu
nghĩa vụ với nhà nước 3. Từ số vốn ít ỏi ban đầu (mỗi xã viên góp cổ phần 200đ), đến
cuối năm 1987, Hợp tác xã có số vốn 2.766.000đ, vay tín dụng 59.000đ và số dư tiết kiệm
670.000đ. Sản xuất kinh doanh phục vụ đời sống nhân dân đạt 55% nhu cầu 4. Quan hệ
sản xuất được củng cố, giữ vững và tăng cường trong khâu sở hữu, đảm bảo hài hòa ba lợi

. Biên bản họp Đảng bộ xã Hương Văn ngày 4-12-1990.


1

. Trong điều kiện của Việt Nam, mức an ninh lương thực được quy định là 300kg/người/năm.
2

. Phỏng vấn bà Phạm Thị Mai, ngày 5-8-2017.


3

. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Văn họp mở rộng, ngày 30-11-1987.
4

135
ích của xã viên, tập thể và nhà nước. Đến tháng 9-1990, số vốn của Hợp tác xã Mua bán
tăng lên 23.000.000đ.
Cũng từ thời điểm này, sau 3 năm tiến hành đổi mới, nền kinh tế bắt đầu có khởi sắc,
sản xuất phát triển, nhà nước bãi bỏ chính sách “ngăn sông cấm chợ”, hàng hóa trên thị
trường ngày càng dồi dào và với sự bung ra kinh doanh của nhiều thành phần kinh tế cạnh
tranh mạnh mẽ với Hợp tác xã Mua bán. Từ cuối năm 1990, việc kinh doanh bị tắc, hầu
như không có mặt hàng nào. Việc cung ứng vật tư nông nghiệp cho nhân dân không đạt
yêu cầu, mặc dù Ban chủ nhiệm hợp tác xã cố gắng thay đổi phương thức, giảm nhân
viên, cho đấu thầu các quầy hàng, khoán doanh số, khoán lãi… nhưng không cứu vãn
được tình thế, khi mà các hộ tư thương dần làm chủ thị trường. Cộng thêm vào đó, một số
cá nhân nhận khoán doanh số nhưng không hoàn thành 1. Do đó, cũng như đa phần các
hợp tác xã mua bán khác trên cả nước, Hợp tác xã Mua bán Hương Văn dần thu hẹp quy
mô kinh doanh rồi chính thức chấm dứt hoạt động vào tháng 6-1991.
Trong khi đó, tình hình hoạt động của Hợp tác xã Tín dụng gặp rất nhiều khó khăn,
số vốn đóng góp từ nhân dân vẫn còn eo hẹp 2. Tuy nhiên, cũng như nhiều hợp tác xã
khác, trong cơ chế mới, hoạt động của Ban Chủ nhiệm Hợp tác xã Tín dụng Hương Văn
gặp lúng túng, việc cho vay - thu nợ không đảm bảo nên nguồn vốn hao hụt, dần lâm vào
phá sản. Do đó, đến tháng 6-1990, Đảng ủy xã có chủ trương giải tán Hợp tác xã Tín
dụng.
Về xây dựng cơ bản: Cùng thời gian này, việc tái thiết chợ Văn Xá được tiến hành,
nhằm tạo chỗ buôn bán thuận lợi cho nhân dân cũng như tăng nguồn thu cho địa phương.
Xã đầu tư kinh phí và công sức tu sửa đoạn đường từ bến đò lên bến xe (cũ), đổ thêm đất
nâng cao nền chợ để tránh cảnh ngập lụt khi trời mưa gió, xây dựng đình chợ cá và chợ
gạo với chi phí 2.500.000đ. Để chợ hoạt động có quy củ, xã tiếp tục đầu tư hơn
8.000.000đ để xây dựng 38 gian hàng cố định để bà con tiểu thương đấu thầu kinh doanh.
b. Trên lĩnh vực giáo dục, văn hóa, y tế và chính sách xã hội
Về giáo dục: Bước sang thời đổi mới, nhiều khó khăn của công tác giáo dục của
Hương Văn vẫn chưa được khắc phục. Đời sống của đội ngũ giáo viên gặp rất nhiều khó

. Biên bản họp chi bộ bất thường của Chi bộ Hợp tác xã Mua bán, ngày 20-4-1991.
1

. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Văn mở rộng, ngày 30-11-1987.
2

136
khăn do chế độ lương thấp, đặc biệt là những thầy cô giáo dạy mầm non và nhà trẻ hoàn
toàn phụ thuộc vào chi trả của các hợp tác xã và đóng góp của nhân dân. Nhà tập thể cho
giáo viên còn tạm bợ. Một số gia đình do còn khó khăn về kinh tế nên không đảm bảo cho
con em đi học nên ảnh hưởng đến chỉ tiêu tuyển sinh của nhà trường.
Để thúc đẩy hơn nữa công tác giáo dục của địa phương, ngày 15-10-1987, Đảng ủy
xã họp mở rộng bàn về việc thực hiện Nghị quyết 08/HU của Huyện ủy Hương Điền về
việc phát triển và xây dựng sự nghiệp giáo dục, trong đó tập trung giải quyết 4 vấn đề lớn
về cơ sở vật chất, huy động học sinh đến trường hàng năm, đời sống của thầy cô giáo và
nâng cao nhận thức của toàn dân về sự nghiệp giáo dục. Tại cuộc họp này, Đảng ủy đã
đánh giá tình hình giáo dục trên địa bàn xã, chỉ rõ khuyết điểm do nhận thức về sự nghiệp
giáo dục, đào tạo con người chưa đầy đủ, vẫn còn học sinh bỏ học giữa chừng. Từ đó,
Đảng ủy đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 1990, toàn bộ thanh niên học hết cấp II và xóa
mù chữ, toàn bộ trẻ em học qua mầm non trước khi vào phổ thông và cán bộ xã học hết
cấp III hoặc đang học. Về cơ sở vật chất, phấn đấu đến năm 1988, hoàn thành 18 phòng
học kiên cố; đến năm 1989, mỗi cơ sở trường có 1 phòng thực hành thí nghiệm; đến năm
1990, hoàn chỉnh 2 thư viện đủ sách, hoàn thành 5 khu vực trường mầm non kiên cố. Cứ
2 đội sản xuất có 1 lớp bổ túc văn hóa ban đêm, hợp tác xã có 1 lớp học hết cấp II, xã có 1
lớp học hết cấp III 1.
Để thực hiện được nhiệm vụ đó, Đảng ủy đề ra các biện pháp, như giao cho các
đoàn thể, nhất là Đoàn Thanh niên vận động từng nhà; tổ chức các lớp xóa nạn mù chữ,
có chính sách thỏa đáng cho cán bộ phụ trách; Ủy ban xã trích một số đất để giáo viên sản
xuất tăng thêm thu nhập cũng như tạo điều kiện cấp đất để giáo viên làm nhà ở. Để giải
quyết khó khăn cho số những thầy cô giáo độc thân hoặc ở xa gia đình, Đảng ủy quyết
định sau khi Trạm xá mới đưa vào hoạt động, khu vực trạm xá cũ được chuyển giao cho
trường học để làm khu tập thể cho giáo viên.
Về phân cấp quản lí, xã và trường phổ thông cơ sở phụ trách hệ phổ thông, hợp tác
xã quản lí hệ mẫu giáo và nhà trẻ. Thực hiện chính sách lương cho giáo viên, xã hỗ trợ
giáo viên nhà trẻ và mẫu giáo có mức hưởng thụ ngang với Phó Chủ nhiệm hợp tác xã và
cán bộ đầu ngành của hợp tác xã (giáo viên nhà trẻ 200đ/ngày, mẫu giáo 120đ/ngày), nếu

. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng ủy xã Hương Văn mở rộng, ngày 21-10-1987.
1

137
mất mùa thì bảo đảm được 15kg gạo/tháng; riêng đối với giáo viên phổ thông do đã có
lương của nhà nước nên xã hỗ trợ 15kg/đợt (vào các ngày 20/11, Tết âm lịch và tổng kết
năm học). Giáo viên dạy lớp đặc biệt và bổ túc văn hóa, mỗi tháng nhận được 12 kg gạo
và 3.000đ 1.
Để có thể huy động được tất cả trẻ em từ 6-9 tuổi vào lớp 1 và nhằm đẩy mạnh xóa
mù chữ, Đảng ủy chủ trương xây dựng thành lệ làng bắt buộc mọi người đi học theo hai
hình thức: học phổ thông hoặc học xóa mù 2.
Về văn hóa: Thời gian này, Hương Văn xây dựng xong hệ thống truyền thanh bao
phủ toàn xã, một số nhà có điều kiện mua sắm được ti-vi. Phong trào rèn luyện thể dục
thể thao trong các tầng lớp nhân dân phát triển rộng khắp cả về số lượng người tham gia
và các môn tập luyện. Không chỉ thi đấu nội bộ, xã còn nhiều lần tổ chức giao lưu thể
thao với các địa phương bạn như với Phong An, Quảng Thành, Hương Chữ… Nhờ vậy,
sức khỏe của toàn dân, đặc biệt là của thanh niên tăng lên.
Về y tế: Để đảm bảo nơi khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân, thay thế cơ sở cũ
chật hẹp, được sự đồng ý của trên, xã đã đầu tư xây dựng trạm xá mới. Kinh phí đầu tư
xây dựng là trên 20.000.000 đồng, gồm nhà nước hỗ trợ một phần và huy động nhân dân
đóng góp. Tháng 5-1989, trạm xá hoàn thành và đưa vào sử dụng. Từ đây, nhân dân có cơ
sở khám chữa bệnh khang trang, đảm bảo khám chữa bệnh ban đầu cũng như khi sinh nở.
Thời gian này, các chương trình y tế như điều tra sức khỏe nhân dân và các chính
sách đối với người tàn tật, người già neo đơn vẫn được tiếp tục 3. Một số chương trình và
dự án được thực hiện định kì, như xổ giun cho trẻ, phục hồi chức năng cho 6 trường hợp
từ nằm một chỗ đến có thể đi lại được. Chương trình tiêm chủng mở rộng phòng ngừa các
bệnh thông thường tiến hành định kì. Trong nửa đầu năm 1990, Trạm y tế đã tiêm chủng
cho 152 cháu, đạt 102% kế hoạch. Từ tháng 6-1991, Trạm Y tế được bổ sung thêm 1 bác
sĩ (hợp đồng) và 1 hộ sinh.
Về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, những biện pháp tuyên truyền nhân dân
thực hiện mỗi gia đình chỉ có 1-2 con được tiến hành thường xuyên. Những trường hợp vi
phạm chính sách đều bị xử lí nghiêm khắc, không phân biệt cán bộ hay nhân dân. Biện
. Biên bản Hội nghị Đảng ủy xã Hương Văn mở rộng, ngày 15-10-1987.
1

. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Văn, ngày 10-8-1989.
2

. Biên bản họp Ban Chấp hành xã Hương Văn, ngày 2-3-1988.
3

138
pháp cơ bản để kế hoạch hóa gia đình thời gian này là đặt vòng tránh thai cho những chị
em trong độ tuổi sinh đẻ. Tuy vậy, tỉ lệ gia tăng dân số của Hương Văn vẫn cao, như năm
1990 là 2,4% (so với kế hoạch là 1,9%) 1.
Về chính sách xã hội: Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, sự phát triển sản
xuất ở Hương Văn đã tạo nên sự chuyển biến tích cực trong đời sống nhân dân. Mức thu
nhập của bà con tăng lên. Tuy nhiên, một thực tế đáng lo ngại diễn ra ở Hương Văn từ khi
thực hiện cơ chế Khoán 10 là tình trạng phân hóa giàu nghèo diễn ra. Trong khi nhiều gia
đình đời sống ngày càng khấm khá thì cũng có những gia đình do thiếu nhân công lao
động, thiếu sức kéo hoặc kể cả tư duy sản xuất nên gặp khó khăn. Trong các năm 1989 và
1990 vào lúc giáp hạt, tỉ lệ hộ thiếu đói lên tới 20%. Để giải quyết, một mặt Đảng ủy chỉ
đạo chính quyền xem xét miễn giảm thuế cho những hộ khó khăn, vận động mặt trận và
các đoàn thể ủng hộ, giúp đỡ những gia đình thiếu đói hoặc trợ cấp vào dịp Tết nguyên
đán.
Thực hiện đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, Đảng ủy chủ trương xây dựng Nghĩa
trang liệt sĩ xã. Kinh phí đầu tư xây dựng 6.500.000đ (giá trị 50.000đ/1 mộ). Tổng cộng,
xã đã quy tập được 132 hài cốt liệt sĩ vào nghĩa trang. Đảng ủy còn lập quỹ nghĩa tình để
thăm nom, chăm sóc, hỗ trợ những gia đình chính sách. Trung bình mỗi năm, mỗi đối
tượng chính sách được hỗ trợ 110kg lúa.
c. Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh
Về quốc phòng: Thực hiện chủ trương phòng chống kẻ địch xâm nhập vào nội địa
theo chỉ thị của Bộ Nội vụ và Bộ Tư lệnh Quân khu 4, chủ trương của Huyện uỷ Hương
Điền ngày 18-8-1987, Đảng ủy chỉ đạo tăng cường công tác tuần tra, canh gác, tạm trú
tạm vắng, nghiêm cấm triệt để người đi khai thác trầm và đãi vàng; thực hiện “lệnh sẵn
sàng chiến đấu” và phân công cán bộ phụ trách phổ biến trong nhân dân, thống nhất chế
độ nuôi quân lúc làm nhiệm vụ, mỗi hợp tác xã nông nghiệp góp 1 tạ lúa vào quỹ quốc
phòng, Hợp tác xã Mua bán có kế hoạch hỗ trợ hậu cần và chăm lo đời sống, dân quân
trực chiến được hợp tác xã tính công điểm như xã viên sản xuất 2.

. Biên bản họp Đảng bộ xã Hương Văn, ngày 4-12-1990.


1

. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng uỷ và mở rộng Thường trực Ủy ban, ngày 20-8-1987.
2

139
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình, yêu cầu củng cố lực lượng dân quân,
chuẩn bị lương thực cho quốc phòng trở nên bức thiết. Đảng ủy chỉ đạo lực lượng dân
quân thường xuyên huấn luyện, tuần tra, trực gác vào những lúc mưa lũ và cùng với công
an huyện tham gia chốt chặn, đánh tàn quân Hoàng Cơ Minh xâm nhập trong các chiến
dịch “Đông Tiến”. Xã đội bố trí lực lượng canh gác các kho trạm của hợp tác xã, đề
phòng những lúc có sự cố và một đội cơ động sẵn sàng làm nhiệm vụ ở những vùng xung
yếu. Ngoài ra, để nâng cao khả năng của lực lượng, xã tổ chức tốt và thực hiện cuộc diễn
tập chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu của Bộ Tư lệnh Quân khu 4 1.
Trong công tác tuyển quân hàng năm, Hương Văn đều giao quân đạt chỉ tiêu, với số
lượng năm sau cao hơn năm trước. Năm 1987, Hương Văn có 23 thanh niên lên đường
làm nghĩa vụ quân sự, đến năm 1990 con số này là 30.
Về an ninh: Công tác tuyên truyền pháp luật được tiến hành thường xuyên cũng như
đột xuất, như khi Quốc hội khóa VII thông qua hai bộ luật Hình sự và Hôn nhân. Để nhân
dân nắm vững và thực hiện đúng pháp luật, nội dung của hai bộ luật được tuyên truyền,
phổ biến dưới nhiều hình thức như cán bộ tư pháp nói chuyện, phổ biến những điểm
chính, tổ chức thi tìm hiểu… Mặt khác, thời gian này trật tự xã hội có những diễn biến
phức tạp, tệ mê tín, đồng bóng, đánh bạc, lô đề… xuất hiện. Do đó, Đảng ủy hết sức chú
ý, thường xuyên chỉ đạo lực lượng công an và dân quân có biện pháp kiểm tra, ngăn chặn,
triệt phá.
d. Trên lĩnh vực xây dựng hệ thống chính trị
- Về xây dựng Đảng
Về công tác tư tưởng: Để sớm đưa đường lối đổi mới của Đảng vào cuộc sống, ngày
12-1-1987, Đảng bộ xã họp phổ biến Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến
toàn thể đảng viên. Trong những nội dung cần đổi mới, trước hết là đổi mới công tác lãnh
đạo của Đảng. Muốn vậy, việc chấn chỉnh tư tưởng, nhận thức, tác phong, kỉ luật của
người đảng viên phải được đặt lên hàng đầu. Ngày 9-2-1987, Đảng ủy mở cuộc học tập
trong toàn thể đảng viên về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 79 2. Qua học tập, các đảng viên
. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng bộ, ngày 24-4-1990.
1

. Nhằm khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong quản lý xã hội, ngày 22-9-1979, Ban Bí thư Trung
2

ương Đảng ra Quyết định số 49/QĐ-TW về thành lập Ban Chỉ đạo đấu tranh chống ăn cắp, hối lộ, ức hiếp
quần chúng.
140
phát huy tinh thần dân chủ, phê và tự phê nghiêm túc, thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, như
vẫn còn tình trạng cả nể, phương pháp phê bình thiếu mềm dẻo nên chưa được tiếp thu.
Một diễn biến lịch sử của giai đoạn này đáng lưu ý, từ cuối thập niên 80, đầu thập
niên 90 của thế kỉ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế
lực thù địch dùng nhiều thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và chống
phá Đảng. Cùng với đó, các thế lực có âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình”. Mặt khác,
mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường dần bộc lộ. Tình hình đó khiến cho một bộ phận
đảng viên, nhân dân lo âu, dao động, nảy sinh những biểu hiện tiêu cực, thiếu niềm tin và
đường lối đổi mới của Đảng. Một thực tế là trước những diễn biến phức tạp của tình hình
trong nước và quốc tế, số đông đảng viên ở Hương Văn nguyên là những cán bộ, bộ đội
hưu trí tuy có bản lĩnh chính trị vững vàng nhưng lại chậm thích ứng với việc đổi mới
phương thức công tác, có những biểu hiện trì trệ trong khi lớp đảng viên mới, có sức trẻ
và nhạy bén hơn thì còn ít. Sức chiến đấu của Đảng bộ ít nhiều có giảm sút, làm ảnh
hưởng đến lòng tin của nhân dân vào một bộ phận đảng viên cũng như hoạt động của các
đoàn thể 1. Do đó, việc đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng chính trị nhằm làm cho mọi
cán bộ, đảng viên và nhân dân vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới và đấu tranh làm thất bại những luận điệu tuyên truyền, chống phá các thế
lực thù địch là nhiệm vụ hàng đầu.
Về công tác kiểm tra, giám sát. Hưởng ứng loạt bài “Những việc cần làm ngay” trên
báo Nhân dân của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, ngày 6-7-1987, Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Bình Trị Thiên ra Chỉ thị số 10 yêu cầu các ngành, các cấp thực hiện phong trào tự phê
bình và phê bình công khai. Huyện ủy Hương Điền ra Thông tri số 2 yêu cầu trong toàn
Đảng bộ phải xác định quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, thấy rõ những
ưu khuyết điểm của từng đảng viên, tổ chức Đảng.
Triển khai thực hiện những chỉ thị của cấp trên, Đảng ủy Hương Văn đã tiến hành
công tác kiểm tra đảng viên nhằm giữ vững kỉ cương của Đảng và làm trong sạch nội bộ
Đảng trên hai phương diện là kiểm tra năng lực của chi bộ và từng đảng viên, kiểm tra
sức chiến đấu của từng đảng viên 2. Việc tổ chức họp kiểm điểm đảng viên được tiến hành

. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng ủy mở rộng, ngày 1-12-1990.
1

. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng uỷ đột xuất, ngày 5-8-1987.
2

141
làm hai bước: Bước một, thực hiện trong Đảng bộ (ngày 11-8-1987); bước hai, tổ chức
công khai trước toàn dân (11 đến 15-8-1987). Ngày 7 và 8-9-1987, Đảng ủy họp kiểm
điểm các Đảng ủy viên, có sự tham dự của cán bộ Ủy ban Kiểm tra và Ban Tổ chức
Huyện ủy. Các Đảng ủy viên đều nghiêm túc tự kiểm điểm, rút ra những ưu điểm và hạn
chế của mình trong công tác cũng như trong cuộc sống. Các bản tự kiểm điểm đều nhận
được những góp ý, phê bình thẳng thắn của Ban Chấp hành trên tinh thần đoàn kết đồng
chí. Qua kiểm điểm, các Đảng ủy viên rút ra được những hạn chế của mình để tiếp tục
phấn đấu tốt hơn. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật”, Đảng ủy liên
hệ những tồn tại và yếu kém ở địa phương, đặt trong bối cảnh chuyển mình chung của đất
nước, để từ đó mỗi đảng viên ý thức được về vai trò và trách nhiệm của mình trong tình
hình mới, nhằm đưa xã nhà vượt qua khó khăn, tiến hành đổi mới.
Về công tác tổ chức: Đại hội Đảng bộ Hương Văn khóa II (vòng 1), nhiệm kì 1988-
1990, được tiến hành trong 2 ngày 6 và 7-1-1988. Đại hội bầu Ban Chấp hành có 9 đồng
chí. Ban Thường vụ có 3 đồng chí, do đồng chí Lê Đình Hiên làm Bí thư, đồng chí Lê
Tăng Thìn làm Phó Bí thư, đồng chí Đặng Công Bình làm Ủy viên Thường vụ trực. Ban
Kiểm tra Đảng ủy do đồng chí Đặng Công Bình làm Trưởng ban, 2 ủy viên là Hồ Sỹ Chất
và Trần Xuân Mau. Đồng thời, Đảng ủy đề ra Quy chế sinh hoạt của Ban Chấp hành và
phân công các ủy viên phụ trách từng lĩnh vực và đơn vị 1. Đến ngày 3 và 4-12-1988, Đại
hội đại biểu khóa II (vòng 2) của Đảng bộ xã Hương Văn được tiến hành. Đại hội bầu

. Về quy chế sinh hoạt:


1

- Ngày 20 hàng tháng: Họp Ban Chấp hành Đảng ủy.


- Thứ 7 hàng tuần: Họp Ban Thường vụ và Thường trực Ủy ban nhân dân.
- Ngày 10 hàng tháng: Ban Thường vụ làm việc với Mặt trận.
- Hàng tháng, hàng quý có nghị quyết của Đảng ủy. Nghị quyết sẽ do ủy viên phụ trách từng lĩnh vực chịu
trách nhiệm dự thảo.
- Ngày 20 của tháng cuối quý, Ban Chấp hành họp, thảo luận để ra nghị quyết.
Về phân công Đảng ủy viên phụ trách:
- Hợp tác xã Văn Xá Tây: Lê Đình Hiên, Hồ Sỹ Chất, Phạm Thận.
- Hợp tác xã Văn Xá Đông: Lê Tăng Thìn, Phạm Bính, Đặng Công Bình.
- Hợp tác xã Mua bán: Trần Mậu Quán, Phạm Thị Mai.
- Văn hóa và nhà trường: Trần Thanh Bình.
(Biên bản họp Ban Chấp hành bất thường, phiên họp 1 nhiệm kì 1988-1990, ngày 11-1-1988).
142
đoàn đại biểu đi dự đại hội Huyện đảng bộ gồm 7 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự
khuyết.
Trong nhiệm kì này, công tác nhân sự chủ chốt của Ban Chấp hành Đảng bộ Hương
Văn có biến động. Từ giữa tháng 9-1989, đồng chí Lê Đình Hiên xin nghỉ chức vụ Bí thư
và ra khỏi Đảng. Đồng chí Phạm Bính thôi tham gia Ban Chấp hành Đảng ủy và chức vụ
Phó Chủ tịch xã. Để đảm bảo điều hành công việc của Đảng ủy cho đến hết nhiệm kì, từ
ngày 11-11-1989, đồng chí Đặng Công Bình phụ trách Quyền Bí thư. Cùng với việc đồng
chí Trần Thanh Bình chuyển công tác, Đảng ủy xã chỉ còn 6 đồng chí. Trong bối cảnh thế
giới đang có những diễn biến phức tạp không có lợi đối với sự nghiệp cách mạng của Việt
Nam (sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu), biến động trong
Ban Chấp hành khiến công việc lãnh - chỉ đạo các mặt công tác ở địa phương của Đảng
ủy gặp rất nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, dù chỉ còn 6 đồng chí nhưng Ban Chấp
hành Đảng ủy Hương Văn đã có nhiều nỗ lực nhằm ổn định tình hình và đảm bảo điều
hành những nhiệm vụ theo đúng chức trách của mình, từng bước đưa xã nhà vượt qua khó
khăn. Một số công việc trọng tâm mà Đảng ủy đã chỉ đạo giải quyết thời gian này như:
- Giải tán Chi bộ Hợp tác xã Mua bán: Trước tình hình hoạt động không còn hiệu
quả, nợ xấu dây dưa kéo dài không thể giải quyết, ngày 8-6-1991, Đảng ủy quyết định
giải tán Chi bộ Hợp tác xã Mua bán, chuyển 5 đảng viên của chi bộ về sinh hoạt ở nơi cư
trú.
- Xử lí kỉ luật những đảng viên vi phạm: Cuối năm 1990 qua đầu năm 1991, Đảng
ủy xã có nhiều phiên họp, góp ý, kiểm điểm nghiêm túc những đảng viên có những biểu
hiện trì trệ trong công tác hoặc vi phạm kỉ luật Đảng. Một số trường hợp vi phạm nặng
như bỏ bê sinh hoạt, có biểu hiện tư lợi cá nhân, sinh đẻ không có kế hoạch… ảnh hưởng
đến uy tín lãnh đạo của Đảng đều được xử lí nghiêm khắc 1.
- Tham gia góp ý Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và Dự thảo Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ VII, từ trong Đảng ủy tới
Đại hội vòng 1.

. Như trong tháng 5-1991, theo đề xuất của Đảng ủy Hương Văn, Huyện ủy Hương Trà ra quyết định kỉ
1

luật 5 đảng viên theo các mức: Khiển trách 1, cảnh cáo 1, cách chức Đảng ủy viên 1 và khai trừ Đảng 2.
Tháng 7-1991, Đảng ủy xã cách chức 1 Chi ủy viên chi bộ Văn Xá Tây.
143
Những việc làm trên của Ban Chấp hành Đảng ủy đã góp phần ổn định dần về tổ
chức và tư tưởng, khôi phục lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Về công tác phát triển đảng viên: Mặc dù quan tâm và chú ý bồi dưỡng song công
tác phát triển đảng viên mới ở Hương Văn còn chưa theo kịp yêu cầu. Đến tháng 2-1991,
toàn Đảng bộ có 60 đảng viên (so với 50 đảng viên lúc mới thành lập). Như vậy, sau 7
năm thành lập (1984-1991), Đảng bộ chỉ phát triển thêm được 10 đảng viên. Cụ thể, Chi
bộ Văn Xá Tây có 33 đảng viên, Chi bộ Văn Xá Đông có 17 đảng viên, Chi bộ Hợp tác xã
Mua bán có 5 đảng viên, Chi bộ Giáo dục có 5 đảng viên 1. Đây là một tồn tại mà Ban
Chấp hành đã nghiêm túc kiểm điểm trong các báo cáo nhiệm kì đại hội và cũng được
Ban Thường vụ Huyện ủy Hương Trà chỉ ra 2.
Về công tác dân vận, thực hiện Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ VIII (khóa VI) ra ngày 27-3-1990 “Về đổi mới công tác
quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”, công tác dân
vận của Đảng bộ Hương Văn được xác định là nhiệm vụ thường trực nhằm gắn kết Đảng
với quần chúng và ngược lại trong tình hình đất nước và thế giới có những biến động
phức tạp, nhất là những khó khăn do những thay đổi và thiếu hụt nhân sự trong Ban Chấp
hành Đảng ủy xã vào đầu những năm 1990. Dù phải đảm nhiệm nhiều vị trí công tác khác
nhau, song Ban Chấp hành Đảng ủy xã vẫn kịp thời quán triệt trong toàn Đảng bộ những
nghị quyết chuyên đề về công tác dân vận của Trung ương và Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế
ban hành như Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VII) Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị số 30-CT/TW (khóa VIII) Về
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Chỉ thị số 42-CT/TW (khóa VIII) Về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các hội quần chúng, …
Trong quá trình thực hiện công tác dân vận, Đảng ủy chú trọng việc sơ kết, tổng kết
những chủ trương, nghị quyết lớn của Đảng về công tác dân vận. Đảng ủy còn phân công
đảng viên theo dõi, giúp đỡ quần chúng, thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
quần chúng nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức đoàn thể phát huy vai trò của mình trong
tập hợp, vận động, thuyết phục quần chúng và tổ chức tốt phong trào cách mạng trong các

. Biên bản họp bất thường Ban Chấp hành Đảng ủy, ngày 5-2-1991.
1

. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng ủy, ngày 28-10-1991.
2

144
tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhờ vậy, những chủ trương của Đảng bộ
đã thực sự đi vào cuộc sống, góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự trên địa bàn và
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Về chính quyền
Để chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa VIII và Hội đồng nhân dân huyện xã, ngày 25-2-
1987, Đảng ủy họp liên tịch với các Ban Chủ nhiệm hợp tác xã, các đoàn thể và ban giám
hiệu trường. Về Hội đồng nhân dân xã Hương Văn khóa II, số lượng 37 đại biểu, dự kiến
53 ứng cử. Lúc này, dân số toàn xã là 5.270 người, có 3.188 cử tri, chia làm 8 tổ bầu cử.
Thời gian bầu cử tiến hành vào ngày 19-4-1987, cùng ngày với bầu cử Quốc hội khóa
VIII. Nhiệm kì này, Hội đồng nhân dân xã Hương Văn bầu đồng chí Lê Tăng Thìn làm
Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch là Lê Hòa kiêm Trưởng công an xã (từ tháng 6-
1991), Xã đội trưởng là Đặng Ngọc Tấn.
Đến năm 1989, việc bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp được tiến hành vào cùng một
ngày (19-11) 1. Ban Chỉ đạo bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp xã Hương Văn gồm 7 thành
viên, do đồng chí Đặng Công Bình làm Trưởng ban và Hội đồng bầu cử xã có 7 thành
viên do đồng chí Trần Mậu Quán làm Chủ tịch hội đồng 2. Hội đồng nhân dân Hương Văn
nhiệm kì 1989-1994 có 33 đại biểu, bầu Ủy ban nhân dân có 10 đồng chí, Chủ tịch là Lê
Tăng Thìn, Phó Chủ tịch là Lê Hòa.
Công tác nhân sự được họp bàn công khai, phân công cụ thể dựa trên ý kiến thống
nhất của toàn Đảng ủy. Việc bố trí nhân sự chủ chốt đi học nâng cao trình độ chuyên môn
và quản lí cũng được chú trọng. Từ tháng 9-1988 đến tháng 9-1989, đồng chí Lê Tăng
Thìn và Lê Hòa được cử đi học. Trong thời gian này, đồng chí Phạm Bính được cử làm
Quyền Chủ tịch xã.
- Về Mặt trận và các đoàn thể
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã do đồng chí Trần Mậu Quán làm Chủ tịch, Hội Nông
dân do đồng chí Lê Ngoan làm Bí thư, Đoàn Thanh niên do đồng chí Trần Văn Lương
làm Bí thư, Hội Phụ nữ do đồng chí Phạm Thị Thanh làm Bí thư. Trong tình hình khó
khăn của đất nước của những năm đầu đổi mới, hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể
. Trước thời điểm này, Trung ương chỉ ấn định ngày bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chung trong cả
1

nước. Còn thời điểm bầu cử Hội đồng nhân dân cấp huyện và xã sẽ do từng tỉnh quy định.
. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng uỷ mở rộng 12-9-1989.
2

145
còn hạn chế, chưa theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ. Trên một số mặt công tác, như công tác
dân vận, vận động quần chúng tham gia các hoạt động tập thể, do năng lực đội ngũ cán bộ
đoàn thể còn yếu, chưa có phương pháp làm việc khoa học, thậm chí có thời điểm thiếu
hụt nhân sự thực hiện nên ảnh hưởng nhất định đến vai trò lãnh đạo của Đảng ở địa
phương. Đây cũng là thực trạng chung diễn ra ở nhiều địa phương trên cả nước. Do đó, để
chấn chỉnh hoạt động của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể, nhất là trong công tác vận
động, tập hợp quần chúng thực hiện đường lối đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ VIII (khóa VI) ra Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW, ngày 27-3-1990
“Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân
dân”, nhằm làm thúc đẩy phong trào của quần chúng, để từ đó làm chuyển biến tốt tình
hình kinh tế - xã hội 1. Từ sau Nghị quyết này, hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể ở
Hương Văn mới bắt đầu có chuyển biến.
Ngày 3-2-1990, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 100-QĐ/TW về việc
thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Ngày 24-3-1990, Đảng ủy chủ trương thành lập
Hội Cựu chiến binh xã. Ngày 4-4-1990, Đại hội thành lập Hội Cựu chiến binh xã Hương
Văn được tiến hành. Hội có 32 hội viên, bầu Ban Chấp hành có 5 thành viên, do đồng chí
Nguyễn Xuân Nhân làm Chủ tịch. Hương Văn là một trong những địa phương ở Thừa
Thiên Huế nói chung và Hương Trà nói riêng sớm thành lập Hội Cựu chiến binh. Ngay
sau khi thành lập, phát huy truyền thống “Anh bộ đội Cụ Hồ”, Hội nhanh chóng đi vào
hoạt động, có những đóng góp thiết thực đối với nhiều mặt công tác ở địa phương.
III. ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1991-2015)
1. Chủ trương của Đảng bộ
Ngày 6-3-1991, Đại hội Đảng bộ Hương Văn khóa III, nhiệm kì 1991-1993 (vòng 1)
được tiến hành. Đại hội đề ra chỉ tiêu: Tổng sản lượng lương thực đạt 1.980 tấn, bình
quân đầu người 282kg/năm. Trồng 242ha lạc, năng suất 11tạ/ha. Về chăn nuôi, 2.582 con
lợn, bình quân xuất chuồng 70kg/con, chú ý lợn nái Móng Cái để chủ động nguồn giống,

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 50, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.
1

87, 94.
146
815 con trâu, 30 con bò. Về lâm nghiệp, trồng mới 25ha cây phân tán và chăm sóc 152ha.
Về văn hóa - xã hội, xóa nạn mù chữ và phổ cập cấp I. Tỉ lệ gia tăng dân số từ 1,8-2,2%.
Do nhiều nguyên nhân khách quan nên Đại hội Đảng bộ Hương Văn khóa IV, nhiệm
kì 1994-1996 tiến hành vào ngày 20-4-1994, chậm gần nửa năm so với quy định. Đại hội
đề ra một số chỉ tiêu chủ yếu như duy trì năng suất và sản lượng lương thực như trong
nhiệm kì trước, hoàn thành tu sửa một số công trình cơ bản như cầu Cửa Khâu, cống Bàu
Xứ, đường và chợ Văn Xá, đưa 2 trạm điện hạ thế vào hoạt động; về giáo dục, hạn chế
học sinh bỏ học, xây dựng 2 lớp mẫu giáo ở Văn Xá Tây và tách trường cấp II; về dân số
kế hoạch gia đình giảm tỉ lệ sinh xuống 2,2%; về xây dựng Đảng, hoàn thành tổ chức chi
bộ theo cụm dân cư, không có đảng viên loại III và các chi bộ đạt loại khá trở lên.
Trong quá trình đại hội Đảng các cấp tiến tới đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,
ngày 20-1-1996, Đại hội Đảng bộ Hương Văn khóa V, nhiệm kì 1996-2000 được tổ chức.
Đại hội chủ trương đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần diện tích
cây lương thực, tăng diện tích cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày; duy trì đàn lợn ở
mức khoảng 3.200 con; thúc đẩy mở mang ngành nghề; huy động vốn xây dựng một số
công trình phúc lợi như trường học, hoàn chỉnh hệ thống điện lưới nông thôn, bê tông hóa
một số tuyến đường và mương thủy lợi; hoàn thành công tác giao đất cho hộ nông dân
theo Nghị định 64/CP; giảm tỉ lệ gia tăng dân số xuống 1,4%; phấn đấu kết nạp 7 đảng
viên mới và Đảng bộ đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh.
Bước vào năm đầu tiên của thế kỉ XXI, tháng 10-2000, Đại hội Đảng bộ Hương Văn
khóa VI, nhiệm kì 2000-2005 đề ra một số chỉ tiêu chủ yếu: Tổng sản lượng lương thực
quy thóc bình quân 2.102 tấn/năm, cơ bản hoàn thành bê tông và cấp phối hệ thống giao
thông nông thôn - đường liên xã 2,5km, đường làng 4km, đường xóm 18km, bê tông
mương máng thuỷ lợi 7km, tỉ lệ phát triển dân số 1,3%, giảm tỉ lệ hộ đói nghèo
0,6%/năm, đến năm 2005 còn 4% hộ nghèo, tỉ lệ dùng điện 90%, tỉ lệ dùng nước sạch
85%, kiên cố hoá kênh mương N1, N2: 1,5km, nội đồng: 5,5km. Về giáo dục và đào tạo,
đến năm 2005, đảm bảo đủ lớp, phòng chức năng cho các trường, 65% cháu trong độ tuổi
đến lớp mẫu giáo, phấn đấu phổ cập trung học phổ thông trong độ tuổi, giữ vững tỷ lệ học
sinh tốt nghiệp tiểu học và trung học cơ sở ngang và hơn mặt bằng của huyện, phấn đấu
để trường trung học cơ sở và Tiểu học số 2 đạt chuẩn quốc gia. Về dân số - kế hoạch hóa

147
gia đình, đến năm 2005, giảm tỉ lệ sinh con thứ 3 trở lên xuống 18,6%. Về xây dựng
Đảng, mỗi chi bộ phát triển 2-3 đảng viên mới, Đảng bộ có từ 12-18 đảng viên mới cuối
nhiệm kì 1.
Sau 5 năm triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khóa VI, Hương Văn đã đạt được
nhiều thành tựu song cũng còn không ít những thách thức trên chặng đường phát triển.
Đại hội Đảng bộ Hương Văn khóa VII, nhiệm kì 2005-2010 được tiến hành trong 2 ngày
3 và 4-8-2005. Nhiệm kì này có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn thành những chỉ
tiêu chủ yếu để đưa Hương Văn cùng với Hương Trà sớm trở thành đô thị loại III trực
thuộc tỉnh. Đại hội đề ra mục tiêu phát triển là phát huy tối đa thế mạnh địa phương, lấy
dịch vụ - tiểu thủ công nghiệp làm mũi đột phá gắn với hình thành các cụm công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp và làng nghề, đô thị hóa khu trung tâm của xã và các khu quy hoạch
mới, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đẩy mạnh giáo dục - đào tạo, làm tốt công
tác y tế - chăm lo sức khoẻ nhân dân, giảm tỉ lệ phát triển dân số, đảm bảo quốc phòng -
an ninh, nâng cao sức chiến đấu các tổ chức Đảng, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc,
quyết tâm xây dựng Hương Văn thành xã thoát nghèo tiến tới khá giả.
Để thực hiện những mục tiêu đó, Đại hội đề ra một số chỉ tiêu chủ yếu: Tổng sản
lượng bình quân lương thực có hạt 2.200 tấn, sản lượng lạc vỏ 600 tấn, giá trị sản xuất 30-
35 triệu đồng/ha, tổng thu ngân sách 1.100-1.200 triệu đồng/năm, thu nhập bình quân 6
triệu đồng/người/năm, phấn đấu xã đạt phổ cập trung học, đạt chuẩn văn hoá 100% cơ
quan xã, hoàn thành bê tông giao thông nông thôn năm 2007, kiên cố hóa kênh mương
thuỷ lợi cho vùng lúa vào năm 2010, giảm hộ lao động thuần nông 5%/năm, tỉ lệ sử dụng
điện 99,5%, tỉ lệ sử dụng nước sạch 95%, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi dưới
17%, tỉ lệ hộ nghèo trên 4%, xóa hết nhà xiêu vẹo năm 2006 và tỉ lệ tăng dân số tự nhiên
1,1%. Về xây dựng Đảng, phấn đấu hàng năm có 6-8 chi bộ trong sạch vững mạnh, kết
nạp hàng năm 10-12 đảng viên mới 2.
Kết quả sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ khóa VII, Hương Văn đã
tạo lập được những điều kiện cần thiết để trở thành đô thị. Đại hội Đảng bộ Hương Văn
. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng ủy xã Hương Văn tại Đại hội Đảng bộ khóa VI, nhiệm kì
1

2000-2005.
. Đảng ủy xã Hương Văn, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Văn khóa VI trình
2

Đại hội Đảng bộ lần thứ VII, nhiệm kì 2005-2010.


148
khóa VIII, nhiệm kì 2010-2015 tiến hành trong 2 ngày 13 và 14-5-2010 có nhiệm vụ hiện
thực hóa mục tiêu đó. Đại hội chủ trương phát triển kinh tế nhanh và bền vững, thúc đẩy
chuyển dịch theo hướng “Dịch vụ - Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - Nông nghiệp”,
với những chỉ tiêu cụ thể: Tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2010-2015 là
18,4%/năm, dịch vụ tăng 25%, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng 15%, nông-lâm-
thuỷ sản tăng 4,5%; cơ cấu thu nhập các ngành kinh tế: dịch vụ chiếm 60,64%, công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm 28,03%, nông-lâm-thuỷ sản chiếm 11,33%; tổng sản
lượng lương thực bình quân 2.000 tấn/năm; tổng mức đầu tư toàn xã hội 125 tỉ đồng; tổng
thu ngân sách 4,5 tỉ đồng/năm; thu nhập bình quân 44 triệu đồng/người. Về văn hóa - xã
hội, tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên 1%, tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 8,5%,
tỉ lệ hộ nghèo dưới 3,5%. Về xây dựng Đảng, hàng năm có trên 80% chi bộ đạt trong sạch
vững mạnh, hàng năm kết nạp 15-18 đảng viên mới; đến cuối nhiệm kì, hợp tác xã nông
nghiệp, trạm y tế có tổ chức đảng, đến năm 2012 có 100% trưởng, phó các đoàn thể là
đảng viên 1.
Trên đây là những chủ trương chung của Đảng bộ Hương Văn trong quá trình lãnh
đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới. Đi vào từng lĩnh vực, tùy từng thời điểm mà
Đảng bộ có những chỉ đạo cụ thể để lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị cùng nhân dân
thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra.
2. Những thành tựu trong quá trình đổi mới của Hương Văn (1991-2015)
a. Trên lĩnh vực kinh tế
Về nông nghiệp: Trên cơ sở những kết quả đạt được của giai đoạn đầu đổi mới, đặc
biệt là hệ quả tất yếu lan tỏa từ Khoán 10, nông dân đã đẩy mạnh đầu tư giống mới và
phân bón, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, từng bước đưa phương pháp gieo thẳng vào
canh tác cũng như thâm canh tăng vụ nên năm 1991, Hương Văn được mùa toàn diện.
Năng suất lúa trung bình đạt 40 tạ/ha - cao nhất từ trước đến lúc đó. Nếu cộng cả lạc và
các loại hoa màu, giá trị sản lượng là 2.704 tấn lương thực, đạt bình quân 386kg/người
(chưa kể thu hoạch của vụ 10) 2, cao hơn năm 1990 gần 25% và bình quân giai đoạn

. Đảng bộ xã Hương Văn, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Văn khóa VII trình
1

Đại hội Đảng bộ xã lần thứ VIII, nhiệm kì 2010-2015.


. Biên bản họp Đảng ủy, ngày 20-9-1991.
2

149
1991-1995, kể cả lạc quy thóc, là 329,5kg, vượt hơn 25% so với mục tiêu bình quân
chung toàn huyện (240kg/người/năm).
Nhằm làm tăng hiệu quả kinh tế/ha đất trồng, từ năm 1995, Hương Văn mạnh dạn
chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng giảm dần diện tích trồng lúa, tăng diện tích hoa
màu và đưa vào thử nghiệm những giống cây trồng mới. Do đó, diện tích cây lương thực
từ 581ha (năm 1995) giảm còn 459ha (năm 1999), cây công nghiệp ngắn ngày (lạc, vừng)
tăng từ 310ha (năm 1995) lên 431ha (năm 1999), năng suất bình quân 43,6 tạ, tăng bình
quân so với giai đoạn trước 5,72 tạ; năng suất lạc bình quân 15,6 tạ/ha, tăng 2,9tạ so với
giai đoạn trước. Tổng sản lượng lương thực bình quân là 1.992,6 tấn, tăng bình quân
245,6 tấn so với giai đoạn trước, sản lượng lạc vỏ bình quân 452,5 tấn, tăng 135 tấn/năm,
bình quân lương thực đạt 473 kg/người/năm. Với mức thu nhập như trên, Hương Văn cơ
bản đảm bảo được mức an ninh lương thực cho nhân dân.
1
Có được những kết quả trên trước hết là do việc thực hiện Nghị định 64/CP của
Chính phủ về việc giao đất cho hộ gia đình sản xuất. Theo đó, ngay khi triển khai vụ
Đông Xuân 1994-1995, Hợp tác xã Văn Xá Đông đã hoàn thành phương án chia đất, và
qua vụ Hè Thu, Hợp tác xã Văn Xá Tây hoàn tất công việc này. Đảng ủy chỉ đạo Ủy ban
tiến hành các thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và đất sản xuất cho các
gia đình. Việc này đã tạo ra một “cú hích” đối với Hương Văn, nông dân yên tâm đầu tư
lâu dài trên mảnh đất mình được làm chủ, tích cực áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật
trong các khâu gieo trồng, chăm sóc bằng các biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp IPM.
Ngoài đưa một số giống mới ngắn ngày vào sản xuất, nhiều gia đình đầu tư mua máy cày
phục vụ công đoạn làm đất và máy thổi lúa. Đến đầu năm 2000, toàn xã có 38 máy cày và
16 máy thổi. Nhờ đó, những khâu nặng nhất, tốn nhiều nhân công nhất trong sản xuất lúa
là làm đất và thổi lúa sau thu hoạch đã được cơ giới hóa, giảm bớt căng thẳng về nhân
công mỗi khi đến mùa vụ.

. Ngày 27-9-1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/CP về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình,
1

cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sử dụng đất nông nghiệp. Theo Nghị định này, trên cơ sở
đất hiện có các hợp tác xã đã giao cho xã viên, Ủy ban nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh sẽ
cấp Giấy chứng nhận sử dụng đất lâu dài cho nông dân. Đối với đất trồng cây hàng năm và chăn nuôi thủy
sản, thời hạn giao là 20 năm; đất trồng cây lâu năm là 50 năm.
150
Trong hành trình xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu bền vững, sự chủ động
trong mọi khâu sản xuất của các hộ nông dân là nỗ lực đáng ghi nhận. Trong khi đó, thực
hiện Nghị định 64/CP, vai trò của các hợp tác xã nông nghiệp không còn được như trước.
Từ chỗ quản lí mọi khâu sản xuất, thu hoạch và phân chia sản phẩm, các hợp tác xã chỉ
còn đảm nhiệm một số khâu dịch vụ như hợp đồng cung ứng giống, vật tư nông nghiệp,
thủy lợi... Và khi hộ nông dân càng tự chủ về sản xuất, “hiệu ứng” của nền kinh tế thị
trường ngày càng lan tỏa với các đại lí tư nhân luôn sẵn sàng cung cấp giống, phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật… theo hình thức trả chậm cho nông dân, kể cả bao tiêu sản phẩm
thì hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp càng gặp khó khăn. Do đó, đến cuối năm
1998, công tác chuyển đổi phương thức hoạt động của 2 hợp tác xã nông nghiệp trên cơ
sở Luật hợp tác xã 1996 1 được tiến hành.
Trận lụt thế kỉ (11-1999) gây cho Hương Văn nhiều hậu quả nặng nề 2 nhưng được
sự hỗ trợ của các cấp và nỗ lực vượt khó vươn lên của nhân dân, xã nhanh chóng khắc
phục những thiệt hại, để tiếp tục phát triển. Việc đưa những giống mới vào sản xuất ngày
càng rộng rãi (giống lúa cấp I luôn đạt 50-70% và từ năm 2005 là trên 95% diện tích)
cùng hệ thống thủy lợi được nâng cấp, đảm bảo nguồn nước tưới và đầu tư về kĩ thuật
chăm sóc và phân bón, năng suất lúa ở Hương Văn ngày càng tăng, từ 41,5 tạ/ha (năm
2000) lên 52,3 tạ/ha (năm 2004). Điều đáng nói là việc tăng năng suất trên đây diễn ra
đồng đều ở cả hai vùng Đông và Tây, trong đó sự chênh lệch ngày càng không đáng kể
(chẳng hạn vụ Đông Xuân 2002-2003, năng suất ở Văn Xá Đông là 54,2 tạ/ha, Văn Xá
Tây là 50 tạ/ha). Do đó, tổng sản lượng lương thực bình quân mỗi năm 2.064 tấn/năm (đạt
112% so với chỉ tiêu).

1
. Ngày 20-3-1996, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua
Luật Hợp tác xã. Đây là cơ sở để chuyển đổi các hợp tác xã sang mô hình hoạt động mới, dựa trên nguyên
tắc tự nguyện tham gia của các xã viên. Thay vì là đơn vị tổ chức sản xuất, các hợp tác xã nông nghiệp
chuyển sang làm dịch vụ phục vụ sản xuất là chủ yếu.
2
. Toàn xã có 9ha bị cát bồi, 2ha bị nước cuốn trôi, 43ha ruộng lúa mới xuống giống bị lũ cuốn.
151
Từ sau năm 2005, do nhiều nguyên nhân 1 nên diện tích đất canh tác của Hương Văn
giảm xuống. Do đó, tuy năng suất từng vụ tiếp tục tăng nhưng tổng sản lượng lại giảm.
Giai đoạn 2005-2010, tổng sản lượng lương thực bình quân hàng năm đạt 2.043 tấn (so
với chỉ tiêu là 2.200 tấn). Giai đoạn 2010-2015, tuy năng suất lúa bình quân đạt tới 54,68
tạ/ha/vụ, tăng 2,85 tạ/ha so với giai đoạn trước nhưng tổng sản lượng lương thực bình
quân chỉ đạt 1.954 tấn/năm. Trong bối cảnh chung của nền nông nghiệp Việt Nam thời kì
này, để tăng thu nhập trên diện tích canh tác, rõ ràng việc thu hẹp đất trồng lúa để chuyển
sang cây trồng khác có hiệu quả cao hơn là cần thiết. Nhìn dưới góc độ này để thấy sự sụt
giảm tổng sản lượng lương thực của Hương Văn qua từng năm không phải là bước thụt
lùi mà là sự dịch chuyển tất yếu, khi mục tiêu phát triển không còn là “xóa đói giảm
nghèo”, “cơm no áo ấm” nữa mà phải là vươn lên làm giàu, “ăn ngon mặc đẹp”.
Về cây lạc, trên diện tích ổn định hàng năm 300ha, nông dân Hương Văn ưu tiên
đưa nhiều giống mới như MD7, L14, L23 vào sản xuất nhằm tăng năng suất và sản lượng.
Nhờ vậy, năng suất lạc vỏ tăng từ 15,5 tạ/ha năm 2000 lên 20,7 tạ/ha năm 2005; sản lượng
lạc vỏ bình quân 528,4 tấn/năm (đạt 103,6% so với chỉ tiêu).
Ngoài hai cây chủ lực trên, một số loại cây trồng mới đưa vào xen canh, như cây
bông và sắn cao sản KM 94. Đặc biệt, từ năm 2004, khi nhà máy tinh bột sắn ở Đông
Lâm (Phong Điền) đi vào hoạt động, nhu cầu cung cấp nguyên liệu là khá lớn. Do đó, ở
Hương Văn, diện tích sắn cao sản không ngừng tăng qua hàng năm, từ 80ha (2005) lên
144,7ha (2010), 168,4ha (2011), 150,7ha (2012), 167ha (2013), 170ha năm 2014 và 2015.
Việc cây sắn được mở rộng diện tích bởi đây là loại cây dễ trồng, chi phí đầu tư thấp,
không đòi hỏi nhiều công chăm sóc và đảm bảo lợi nhuận trung bình 40-60 triệu
đồng/ha/năm. Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ phát triển bền vững, việc gia tăng nhanh diện
tích sắn không phải là điều đáng mừng bởi tiềm ẩn những nguy cơ do nó mang lại 2.

. Như chủ trương chung về chuyển đổi những diện tích lúa kém năng suất sang các loại cây trồng khác,
1

việc mở đường (mở rộng Quốc lộ 1A, mở tuyến đường tránh Huế và các tuyến đường giao thông nông
thôn cùng với quá trình đô thị hóa và chuyển 100ha đất cho nhà máy xi măng Văn Xá xây dựng nhà máy
xi măng…).
. Việc mở rộng diện tích trồng sắn lớn sẽ là tác nhân gây nên tình trạng sa mạc hóa tài nguyên đất, xói
2

mòn, lũ lụt cục bộ ảnh hưởng đến môi trường. Chỉ sau 3-4 năm trồng sắn liên tiếp , cây sắn cũng cằn
cỗi dần và khó phát triển. Các loại cây khác cũng không thể sống được trên khu vực đất đã trồng sắn
152
Nhiều hộ gia đình tiếp tục mạnh dạn xóa bỏ vườn tạp, chuyển sang chuyên canh cây
ăn quả đặc sản như thanh trà, quýt. Tổng cộng, trong 5 năm (2000-2005), toàn xã có
32,1ha vườn được cải tạo, trồng mới 11ha cây ăn quả và cây đặc sản. 15ha ở Đình Tân,
Hoang, ruộng Hè và Tai Mao được chuyển đổi sang trồng rau, đậu gối vụ, hình thành
vườn rau chuyên canh, luân canh, thu nhập bình quân đạt 39 triệu/ha (giai đoạn 2005-
2010) đến 65 triệu/ha (giai đoạn 2010-2015). Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, một số mô hình mới xuất hiện như năm 2013, được sự
hỗ trợ về kĩ thuật của Ban Kinh tế (Hội Nông dân tỉnh), Hương Văn thí điểm triển khai
trồng hành lá. 90 hộ nông dân tham gia, bước đầu loại cây này mang hiệu quả kinh tế khá
cao, đạt thu nhập 50-80 triệu đồng/ha 1.
Về lâm nghiệp: Công tác bảo vệ và chăm sóc rừng khu vực quanh hồ Thọ Sơn được
Đảng ủy chỉ đạo các ban ngành và nhân dân tiếp tục thực hiện tốt. Ngoài ra, toàn phường
còn trồng mới 45.000 cây phân tán và 90ha rừng thông. Nhiều năm liền trên địa bàn
Hương Văn không để xảy ra tình trạng khai thác, đốt phá rừng bừa bãi. Tuy nhiên, xét về
hiệu quả kinh tế, giá trị đóng góp từ nghề rừng chưa cao. Rừng chỉ dừng lại ở mức phòng
hộ cho đầu nguồn sông Bồ và giữ nước cho các hồ đập trên địa bàn.
Về chăn nuôi: Ở Hương Văn gia đoạn này có sự chuyển biến ngược chiều giữa các
loại vật nuôi khác nhau. Trong khi chăn nuôi gia cầm và đàn lợn tăng trưởng về số lượng,
một số gia đình mạnh dạn đầu tư nuôi giống gà siêu thịt và áp dụng kĩ thuật làm lò ấp
trứng bằng điện thì chăn nuôi trâu giảm sút nghiêm trọng. Đến năm 2000, toàn xã có
3.270 con lợn, tăng 9,7% so với năm 1995. Nhờ được đầu tư về giống mới và thức ăn nên
trọng lượng và tỉ lệ nạc hóa đàn lợn được nâng lên. Trong khi đó, ở chiều ngược lại, đàn
trâu còn 512 con, giảm 112 con so với năm 1995.
Qua giai đoạn 2000-2005, nhiều hộ gia đình tiếp tục đẩy mạnh đầu tư chuồng trại,
giống và thức ăn, phát triển quy mô chăn nuôi lợn đàn. Đến năm 2005, toàn xã có tới

lâu năm. Theo các nhà khoa học, rễ cây sắn lấy các chất hữu cơ trong đất và thải ra một loại a-xít có
hại cho cây trồng, đồng thời làm chai cứng nền đất và hủy diệt các vi sinh vật có lợi cho cây trồng, …
[http://baothuathienhue.vn/coi-chung-cay-san-a1656.html, ngày 23-6-2011. Truy cập ngày 14-1-
2018].
. http://tapchisonghuong.com.vn/hue/p1/c13/n13079/Phuong-Huong-van-thi-xa-Huong-Tra-Trong-hanh-
1

la-mang-hieu-qua-kinh-te-cao.html. Truy cập ngày 4-4-2018.


153
5.800 con (tăng gần 1,8 lần so với năm 2000). Trong khi chăn nuôi gia cầm gặp khó khăn
do dịch cúm H5N1 thì nuôi thả cá có sự phát triển khá dưới hình thức đào hồ, xây ao
trong vườn nhà. Đến năm 2005, toàn xã có khoảng 100 hộ có nuôi thả cá.
Trong giai đoạn 2005-2010, chăn nuôi chuyển dịch theo hướng bán công nghiệp,
chiếm 46% giá trị sản xuất nông nghiệp. Tuy bị ảnh hưởng bởi dịch tai xanh nhưng quy
mô đàn lợn sau khi dập dịch đã tăng trưởng tốt. Đàn lợn nái tăng bình quân 15%/năm. Số
lượng gia cầm, thủy cầm tăng nhanh gấp 2 lần. Việc nuôi trồng thủy sản tiếp tục phát
triển, toàn xã có 4,5ha ao hồ, một số hộ tiến hành nuôi cá lồng trên sông Bồ. Giai đoạn
2010-2015, chăn nuôi tiếp tục được đẩy mạnh theo hướng bán công nghiệp. Đàn lợn thịt
tăng từ 5.735 (năm 2010) lên 6.000 con (năm 2014), đàn lợn nái ổn định 1.240 con. Đàn
gia cầm, thủy cầm tăng lên 36.000 con (gấp 1,5 lần so với năm 2010). Nuôi trồng thủy
sản mở rộng lên 6,7ha, sản lượng xuất chuồng năm 2014 đạt gần 800 tấn thịt các loại. Tỉ
trọng chăn nuôi chiếm 58% giá trị sản xuất nông nghiệp (tăng 12% so với năm 2010).
Việc tăng giá trị chăn nuôi trong toàn bộ nền sản xuất nông nghiệp là sự chuyển dịch đúng
hướng, nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, nhất là khi diện tích trồng trọt ngày càng thu
hẹp. Tuy vậy, chăn nuôi ở Hương Văn cũng mới chỉ dừng lại ở những vật nuôi truyền
thống, còn ít gia đình hướng tới những loài vật nuôi có giá trị kinh tế cao.
Tính tổng cộng các ngành sản xuất nông nghiệp của Hương Văn năm 2015 đạt 105,8
tỉ đồng, tăng 7,6 tỉ đồng so với năm 2010, tăng bình quân 1,85% (thấp hơn 2,15% so với
giai đoạn trước và thấp hơn 2,65% so kế hoạch).
Về tiểu thủ công nghiệp: Trong chiều hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
giảm nông nghiệp, gia tăng ngành nghề, dịch vụ, Đảng ủy phường có nhiều giải pháp
khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và cá nhân đầu tư, mở rộng sản xuất.
Bên cạnh những ngành nghề truyền thống như mộc dân dụng và mộc mỹ nghệ tương đối
phát triển, một số doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình đầu tư xây dựng cơ sở chế biến lạc
xuất khẩu, chế biến cà phê, sản xuất vật liệu xây dựng như khai thác đá, đúc bờ lô, ngói xi
măng… thu hút trên 100 lao động tại chỗ. Cơ giới hóa đồng ruộng và nhu cầu đi lại của
nhân dân dẫn đến việc phát triển của các phương tiện cơ giới phục vụ sản xuất nông
nghiệp, vận chuyển kéo theo là các nghề gò, hàn, tiện… đáp ứng nhu cầu sửa chữa hoặc
lắp ráp xe máy, nhà cửa… trong xã và các địa phương lân cận. Ngoài ra, loại hình kinh

154
doanh giải khát và buôn bán tạp hóa quy mô nhỏ phát triển đều khắp ở các cụm dân cư.
Số lượng cơ sở dịch vụ từ 40 (năm 2010) tăng lên 102 cơ sở vừa và nhỏ (năm 2015);
doanh thu bình quân thấp nhất 300 triệu đồng/năm. Giá trị sản xuất ngành dịch vụ năm
2015 đạt 173,4 tỉ đồng (tăng 109,16 tỉ so với năm 2010), tăng trưởng bình quân
28,2%/năm.
Để tạo điều kiện thu hút đầu tư, trong giai đoạn 2005-2010, địa phương tích cực giải
phóng mặt bằng, hỗ trợ các doanh nghiệp triển khai sản xuất và kinh doanh. Hương Văn
đã giải phóng và chuyển giao 11ha đất cho 6 doanh nghiệp đầu tư. Đến năm 2015, trên địa
bàn Hương Văn có 40 cơ sở mộc dân dụng và mộc mĩ nghệ. Một số doanh nghiệp tiếp tục
mở rộng sản xuất, như khai thác đá Trường Sơn, bê tông tươi Trường Phú, cơ sở đan lát
xuất khẩu Phước Hiệp Thành, Công ty trách nhiệm hữu hạn Sanh Quang… Giá trị sản
xuất tiểu thủ công nghiệp năm 2015 đạt 108,2 tỉ đồng, tăng 62,51 tỉ đồng so với năm
2010, tăng trưởng bình quân 24,1% (cao hơn 9,25% so với giai đoạn trước), tăng 9,1% so
với kế hoạch.
Về tài chính - ngân sách: Đảng ủy chỉ đạo chính quyền và các ngành có liên quan có
những biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ các nguồn thuế, chủ yếu là
thuế nhà đất và thuế nông nghiệp. Trong giai đoạn 1995-2000, Hương Văn thu được 650
triệu đồng, trong đó cố định là 60 triệu đồng/năm. Từ năm 2000 đến 2005, bình quân thu
ngân sách tại chỗ 73 triệu/năm, tăng 26%/năm, các khoản thu và nhân dân đóng góp được
162,2 triệu/năm, tăng 2,6 lần so với năm 2000. Trong giai đoạn 2005-2010, việc gia tăng
các thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh trên địa bàn đã góp phần thúc đẩy mở rộng
nguồn thu. Bình quân thu ngân sách hàng năm đạt 3,15 tỉ đồng (so với kế hoạch đặt ra là
1,2 tỉ đồng/năm). Từ năm 2010 đến năm 2015, thu ngân sách đạt 23,5 tỉ đồng, tăng bình
quân 13,9%/năm so với giai đoạn trước, chi cho đầu tư phát triển hàng năm chiếm 50-
60% ngân sách.
Sự phát triển của nền kinh tế ở Hương Văn không chỉ đơn thuần nhìn nhận dưới góc
độ gia tăng nhanh nguồn thu ngân sách mà ở chỗ chất lượng của nguồn thu. Từ chủ yếu
dựa vào thuế nông nghiệp trong giai đoạn 1995-2000, nguồn thu chính của Hương Văn
dần chuyển qua các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì thế cho nên từ sau năm 2003, khi

155
Đảng và Nhà nước quyết định bãi bỏ thuế nông nghiệp 1, nguồn thu ngân sách của Hương
Văn không những không giảm mà còn tăng trưởng khá như đã nói trên. Điều này có ý
nghĩa rằng, sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở Hương Văn là đúng hướng, khi các thành
phần kinh tế phi nông nghiệp ngày càng đóng vai trò chủ đạo. Đây chính là cơ sở để
khẳng định Hương Văn đã và đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, đúng như đường lối
của Đảng đã đề ra.
Về xây dựng cơ bản: Nhiệm vụ quan trọng nổi bật nhất trong xây dựng cơ bản ở
Hương Văn vào giữa thập niên 1990 là triển khai và hoàn thành việc kéo nguồn điện lưới
quốc gia phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Từ năm 1993, Đảng ủy chỉ đạo chính quyền và
các ngành có liên quan xây dựng hồ sơ dự án để trình các cấp phê duyệt. Phương án thực
hiện chủ yếu dựa vào nội lực, bằng nguồn quỹ tập thể, đấu đất, vay vốn ngân hàng và đặc
biệt là nhân dân đóng góp (mỗi gia đình 900.000đ) 2. Đến năm 1995, 300 hộ đầu tiên ở
được sử dụng điện. Đây là sự kiện quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt trong đời sống và sản
xuất của Hương Văn. Đến năm 1999, Hương Văn đã hoàn chỉnh hệ thống điện lưới ở cơ
sở, đưa số hộ gia đình được sử dụng điện lên 1.475 hộ (đạt 92%) và đến năm 2001 đạt
100%. Kéo được nguồn điện về không chỉ cải thiện điều kiện sinh hoạt cho nhân dân mà
có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của sản xuất, tạo ra bước chuyển mình quan trọng,
đưa Hương Văn bước vào thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Nhiều gia đình có điều
kiện đầu tư các máy móc phục vụ sản xuất, kinh doanh cũng như là nhân tố góp phần thu
hút các doanh nghiệp tìm đến Hương Văn để đầu tư, sản xuất.
Tiếp tục thành công đó, trên cơ sở tìm kiếm nguồn đầu tư của nhà nước và các tổ
chức quốc tế cùng đóng góp của nhân dân, hệ thống hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp
được đầu tư xây mới hoặc sửa chữa như xây hoàn chỉnh trạm bơm điện Bàu Chùa, bê
tông mương thuỷ lợi, xây mới cống Bàu Sứ, tu sửa đê đập chống xói lở của sông Bồ…
Trong đó nổi bật là việc kiên cố hóa bê tông kênh mương thuỷ lợi, nhằm đảm bảo tưới
tiêu có hiệu quả, tiết kiệm được nguồn nước và diện tích đất nông nghiệp. Đến năm 2015,
ở Hương Văn có 15,2km kênh mương được bê tông hóa.
. Năm 2003, Quốc hội khóa XI có Nghị quyết số 15/2003/QH, ngày 17-6-2003 về việc miễn, giảm thuế
1

sử dụng đất nông nghiệp. Theo đó, tất cả những diện tích đất canh tác chia cho hộ nông dân theo Nghị
định 64/CP đều được miễn thuế nông nghiệp.
. Biên bản họp Đảng ủy mở rộng, ngày 1-11-1993.
2

156
Trên tiến trình phát triển hướng tới mục tiêu góp phần đưa tỉnh Thừa Thiên Huế trở
thành đô thị trực thuộc Trung ương 1, trong giai đoạn 2010-2015, đầu tư xây dựng cơ bản
ở Hương Trà nói chung, Hương Văn nói riêng được đẩy mạnh. Nếu như tổng vốn đầu tư
xây dựng cơ bản trong 5 năm (2005-2010) là 59,3 tỉ đồng thì qua giai đoạn 2010-2015 là
238 tỉ đồng, tăng 178,7 tỉ đồng, để đầu tư 53 công trình và hạng mục công trình quan
trọng.
Về giao thông nông thôn, Đảng ủy chỉ đạo chính quyền tranh thủ các nguồn vốn của
nhà nước và vận động nhân dân đóng góp kinh phí và nhân công để bê tông hóa các trục
đường liên thôn, liên xã. Điều đáng ghi nhận là trong công tác này, Hương Văn đã huy
động hàng ngàn ngày công và nhiều gia đình hiến hơn 4.000m 2 đất vườn để mở rộng
đường. Những tuyến đường thường xuyên bị lầy lội vào mùa mưa lũ đã được nâng cấp,
rải cấp phối hoặc bê tông. Đặc biệt, 15 tuyến đường được mở rộng, nhựa hóa, đặt tên. Đến
năm 2015, toàn bộ Hương Văn có 52,8km đường được đổ bê tông hoặc rải nhựa (so với
tổng chiều dài là 56,5km), đạt 93,5% kế hoạch.
Về các cơ sở công cộng khác, Hương Văn đã xây dựng hoàn chỉnh trụ sở Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân, tu sửa Nghĩa trang liệt sĩ, chợ Văn Xá, đình làng Văn Xá,
trạm y tế và hệ thống truyền thanh toàn xã… Để nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân
dân, từ năm 2010, một số tuyến nước sạch bắt đầu được xây dựng. Đến năm 2015, tuyến
nước sạch có chiều dài ống chính trên 26km, đảm bảo cung cấp nước sạch cho trên 95%
hộ gia đình trong phường.
Những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân Hương Văn đạt được trong tiến trình xây
dựng tỉnh Thừa Thiên Huế trở thành đô thị trực thuộc Trung ương đã được ghi nhận, khi
ngày 15-11-2011, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 99/NQ-CP về việc thành lập thị
xã Hương Trà và thành lập các phường thuộc thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Theo quyết định này, “thành lập phường Hương Văn thuộc thị xã Hương Trà trên cơ sở
toàn bộ 1.372ha diện tích tự nhiên và 8.947 nhân khẩu của xã Hương Văn. Phường
Hương Văn có 1.372ha diện tích tự nhiên và 8.947 nhân khẩu. Địa giới hành chính
phường Hương Văn: Đông giáp phường Hương Xuân; Tây giáp phường Tứ Hạ, phường

. Đề án quy hoạch chung phường Tứ Hạ mở rộng đã được Bộ Xây dựng công nhận đạt tiêu chí đô thị loại
1

IV theo Quyết định số 775/QĐ-BXD, ngày 18-10-2010.


157
Hương Vân; Nam giáp phường Hương Xuân; Bắc giáp phường Tứ Hạ” 1. Sự kiện này
đánh dấu mốc quan trọng, đưa Hương Văn từ một đơn vị hành chính nông thôn trở thành
một phường đô thị trên tiến trình hội nhập và phát triển đất nước.
Tóm lại, đến năm 2015, Hương Văn đã thực hiện thành công nhiều chỉ tiêu về kinh
tế mà đại hội Đảng bộ khóa VIII, nhiệm kì 2010-2015 đã đề ra. Tốc độ tăng trưởng bình
quân 16,8%/năm, trong đó lĩnh vực dịch vụ tăng 28,2%, công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp tăng 24,1%, nông nghiệp tăng 1,85%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
“Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp”, với tỉ lệ lần lượt là 44,6% - 27,39% - 27,31%.
Giá trị sản xuất đạt 387,4 tỉ đồng, tăng 179,27 tỉ đồng so với năm 2010. Thu nhập bình
quân đạt 45 triệu đồng/người/năm, tăng 14,7 triệu so với năm 2010.
b. Trên lĩnh vực giáo dục, văn hóa, y tế và chính sách xã hội
Về giáo dục, giai đoạn này công tác giáo dục của Hương Văn có những phát triển cả
số lượng lẫn chất lượng. Tỉ lệ huy động trẻ trong độ tuổi đến trường đầu mỗi cấp học đều
đạt kế hoạch. Sự chuyển biến trong giáo dục thời gian này là từ năm học 1991-1992 hoàn
tất tách trường phổ thông cơ sở Hương Văn thành 2 trường cấp I và 1 trường cấp II 2.
Tuy đời sống vẫn còn nhiều khó khăn song nhân dân Hương Văn tiếp tục phát huy
truyền thống hiếu học của địa phương, dành nhiều sự quan tâm đến sự nghiệp giáo dục.
Cũng trong năm 1991, với phương châm “nhân dân và Nhà nước cùng làm”, xã xây dựng
thêm được 3 phòng học cho trường cấp II, 1 nhà mẫu giáo đặt ở Đội 11, 12 (Bàu Đưng), 1
nhà mẫu giáo ở khu vực Đội 3, 4, 5 với tổng giá trị 42.000.000đ. Việc sớm đưa những cơ
sở này vào hoạt động đã giải quyết khó khăn về phòng học cho các nhà trường cũng như
giảm bớt vất vả cho nhân dân trong việc đưa đón con nhỏ đi học mẫu giáo.
Các hoạt động mũi nhọn như thi giáo viên dạy giỏi, tham gia thi học sinh giỏi các
cấp có những tiến bộ. Tiêu biểu như năm học 1998-1999, ở tiểu học, số học sinh khá giỏi
chiếm 54,2%, ở trung học cơ sở là 39,3% 3. Tranh thủ các nguồn vốn nhà nước và sự đóng
góp của nhân dân, hệ thống cơ sở vật chất của các trường được đầu tư xây dựng hoàn
chỉnh. Công tác xã hội hóa giáo dục ngày càng được mở rộng, nhân dân càng có điều kiện
. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 99/NQ-CP về việc thành lập Thị xã Hương Trà và thành lập các
1

phường thuộc thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, ngày 15-11-2011.
. Nay là Trường Trung học cơ sở Hồ Văn Tứ.
2

. Biên bản họp Đảng bộ sơ kết 6 tháng đầu năm 1999.


3

158
chăm lo nhiều hơn cho việc học của con em. Hội Cha mẹ học sinh các trường được củng
cố, thường xuyên hoạt động, hỗ trợ tích cực cho công tác dạy và học. Tỉ lệ tốt nghiệp
hàng năm của các trường ở Hương Văn luôn cao hơn so với mặt bằng chung của huyện.
Đến năm 2000, trường Tiểu học số 1 đạt chuẩn quốc gia, trường trung học cơ sở đạt danh
hiệu tiên tiến cấp tỉnh và Hương Văn được công nhận phổ cập trung học cơ sở. Điều đáng
ghi nhận là số học sinh thi đỗ vào các trường trung cấp, cao đẳng, đại học năm sau cao
hơn năm trước. Trong 5 năm (2010-2015) có 243 em thi đỗ vào các trường đại học, cao
đẳng, tăng 72 em so với giai đoạn 2005-2010.
Đóng góp vào việc phát triển giáo dục ở Hương Văn chính là nhờ địa phương đã làm
tốt công tác khuyến học. Ở Hương Văn có hơn 50% hội khuyến học dòng họ hoạt động có
hiệu quả. Công tác này có sự phân công khá rạch ròi, hàng năm con em đỗ đại học và cao
đẳng thì xã tổ chức phát thưởng, con em tốt nghiệp đại học thì làng phát thưởng. Từ năm
1999, cứ định kì 4 năm một lần tại đình Văn Xá, địa phương làm lễ phát thưởng nhằm
vinh danh các con em của xã nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, vươn lên trong học
tập 1. Không chỉ khuyến khích con em mà nhiều người lớn tuổi nhưng vẫn cố gắng học
tập để nâng cao trình độ và quan trọng hơn là để đáp ứng yêu cầu của công việc và nhiệm
vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó đều được vinh danh.
Cơ sở vật chất trường lớp tiếp tục được đầu tư. Trong 5 năm (2010-2015), Hương
Văn đã được đầu tư hơn 17 tỉ đồng cho cơ sở vật chất trường lớp. Trường Tiểu học số 1
có hai tầng, nâng cấp một số phòng ốc ở các trường học khác, như xây thêm 15 phòng
học, 2 cơ sở bán trú cho trường Mầm non… Hệ thống cơ sở vật chất hoàn chỉnh và chất
lượng giáo dục không ngừng nâng cao là yếu tố để Hương Văn là địa phương đầu tiên của
thị xã Hương Trà nhiều năm liền giữ vững danh hiệu đạt chuẩn Quốc gia và hoàn thành
phổ cập trung học cơ sở.
Về văn hóa: Cùng với sự đi lên của kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân
có nhiều chuyển biến tích cực. Bên cạnh duy trì hệ thống loa truyền thanh của các hợp tác
xã, nhiều gia đình có điều kiện mua sắm các phương tiện nghe nhìn và giải trí (radio
cassett, tivi, dàn máy karaoke…). Ngoài cải thiện đời sống tinh thần, việc tiếp nhận những

1
. Một số đợt khen thưởng: Năm 2002: có 34, năm 2005: có 37, năm 2009: có 54.
[https://thuathienhue.edu.vn/tap-san-gddt/nam-2010/Cong-tac-khuyen-hoc-o-lang-Van-Xa.htm].
159
chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, những mô hình, kinh nghiệm làm kinh tế có
hiệu quả từ mọi miền đất nước đến với nhân dân được thuận lợi hơn. Nhằm kế thừa và
phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống làng Văn Xá, Đảng ủy chỉ đạo chính
quyền và ngành văn hóa xây dựng được Quy ước làng văn hóa và tổ chức cho các cụm
dân cư đăng kí xây dựng làng văn hóa. Đến năm 2000, hơn 80% số hộ đăng kí xây dựng
gia đình văn hóa mới. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào
chiều sâu, tất cả các cụm dân cư (nay là tổ dân phố), các cơ quan và 4 trường học đều
được công nhận duy trì đạt chuẩn văn hóa.
Sự kiện nổi bật trong đời sống văn hóa tinh thần của Hương Văn thời gian này là
năm 1999, Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) quyết định
công nhận đình làng Văn Xá là di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật cấp quốc gia 1.
Trong dịp kỉ niệm 20 năm ngày thành lập xã (1984-2004), nhiều hoạt động thể dục
thể thao, văn hóa đã thu hút đông đảo bà con tham gia. Phong trào “Toàn dân rèn luyện
thân thể theo gương Bác Hồ” được hưởng ứng tích cực. Trong giai đoạn 2010-2015,
Hương Văn đã đầu tư 2,1 tỉ đồng tu sửa, xây dựng các công trình phục vụ văn hóa. Việc
xây dựng nếp sống văn minh được đẩy mạnh.
Về y tế: Dù còn những khó khăn song Trạm Y tế vẫn tích cực hoạt động, đảm bảo
thực hiện các chương trình quốc gia về chăm lo sức khỏe cho nhân dân. Nhờ sự quan tâm
của cấp trên, các trang thiết bị y tế ở Trạm được trang bị khá đầy đủ, đảm bảo công tác
thăm khám, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân và thực hiện các biện pháp kế
hoạch hóa dân số. Trung bình hàng năm có 4.000 lượt người dân đến trạm y tế khám,
chữa bệnh. Công tác tiêm chủng mở rộng cho trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ cho con
bú được duy trì đều đặn. Ngoài tham gia phòng chống những dịch bệnh thường gặp như
sốt xuất huyết, tiêu chảy… Trạm còn thực hiện có hiệu quả công tác phòng ngừa, khống
chế dịch bệnh sau lũ lụt. Trạm còn tranh thủ được các đoàn cán bộ y tế của Bệnh viện
Trung ương Huế, bệnh viện tỉnh và trung tâm y tế huyện đến thăm khám bệnh cho nhân
dân, nhất là những đối tượng chính sách, gia đình hộ nghèo… Đến năm 2015, 13/13 tổ
dân phố đều có đội ngũ y tế và tình nguyện viên, 74,6% người dân tham gia bảo hiểm y tế

.
1
Quyết định số 61-1999QÐ/BVHTT ngày 13-9-1999 của Bộ Văn hóa Thông tin.
https://www.thuathienhue.gov.vn/portal_ge/Views/LevDetail.aspx?OneID=5&TwoID=23&ThreeID=206
160
tự nguyện. Góp phần vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống, tỉ lệ số hộ sử dụng nước
sạch tăng lên, tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống dưới 8%.
Kết hợp với Ban Dân số, Trạm cũng duy trì thường xuyên hoạt động của đội ngũ
cộng tác viên dân số - kế hoạch gia đình thông qua nhiều hình thức giáo dục và truyền
thông. Nhờ đó, số cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai tăng, số gia đình có con
thứ 3 và tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên giảm xuống, từ 2,4% (năm 1995) còn 1,38% (năm
1999), 1,2% (năm 2005), 1,1% (năm 2010), 1,03% (năm 2015). Tỉ lệ sinh con thứ 3
xuống dưới 15%. Ở công tác này, Hương Văn đã đạt được những chỉ tiêu mà đại hội Đảng
bộ các nhiệm kì đã đặt ra.
Về chính sách xã hội: Công tác chăm lo cho các đối tượng chính sách, gia đình
thương binh liệt sĩ, người có công với cách mạng, người già neo đơn và hộ đói nghèo
được Đảng ủy, chính quyền và các ban ngành thực hiện tốt. Từ giữa năm 1995, Hương
Văn được Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế lựa chọn đề nghị Nhà nước xem xét
phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Công tác sưu tầm tư liệu để làm hồ sơ
được tiến hành khẩn trương, với sự hỗ trợ của cán bộ Ban Tuyên giáo Huyện ủy. Ngày 30-
4-1996, nhân kỉ niệm 21 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân xã Hương Văn đã long trọng tổ chức lễ đón nhận Danh hiệu Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Từ năm 2000, Hương Văn bắt đầu triển khai xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”. Giai
đoạn 2000-2005, mỗi năm quỹ huy động 16-18 triệu đồng, giai đoạn 2005-2010, huy
động hơn 150 triệu đồng. Trên cơ sở nguồn đóng góp đó, từ năm 2000 đến năm 2005,
Hương Văn xây được 4 nhà tình nghĩa, tu sửa 4 nhà. Ngoài ra, Đảng ủy chỉ đạo các ngành
có liên quan xây dựng hồ sơ đề nghị Nhà nước phong tặng cho 2 mẹ Việt Nam anh hùng,
cấp 65 thẻ bảo hiểm y tế cho con của liệt sĩ…
Đối với công tác xóa đói giảm nghèo, Đảng ủy chỉ đạo chính quyền và các đoàn thể
tích cực hỗ trợ nhân dân vay các nguồn vốn ưu đãi để giải quyết việc làm, phát triển kinh
tế gia đình. Trong công tác này, Mặt trận đã ngày càng phát huy vai trò của mình, nhất là
trong xóa nhà tạm cho hộ nghèo. Những tổ chức như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ vận động
được nhiều dự án hoặc tổ chức phi chính phủ hỗ trợ hội viên tập huấn những kiến thức về
chăn nuôi, trồng trọt. Trong 5 năm (2005-2010), địa phương cho hơn 1.000 hộ vay vốn

161
với số tiền 9,5 tỉ đồng. Giai đoạn 2010-2015, Hương Văn giải quyết vốn ưu đãi cho hộ
nghèo hơn 10 tỉ đồng. Nhờ đó, nhiều hộ thoát được đói, xóa được nghèo, từ 137 hộ
(8,7%) năm 1995 xuống còn 110 hộ (6,8%) năm 2000 dù mức chuẩn hộ nghèo không
ngừng tăng 1. Năm 2010, tỉ lệ này còn 4,96% và đến năm 2015, chỉ còn 92 hộ, chiếm
4,6%.
Cùng với đầu tư giảm nghèo, việc quan tâm chăm lo cải thiện đời sống cho các hộ
nghèo cũng là mối quan tâm thường xuyên của Đảng ủy và chính quyền. Xã đã huy động
đóng góp của nhân dân lập quỹ tình nghĩa hỗ trợ lương thực cho những gia đình gặp khó
khăn, riêng đối với các gia đình chính sách, xã đã điều hòa 47 tấn thóc và vận động được
92 triệu đồng tu sửa và xây dựng nhà ở. Đặc biệt, sau trận lụt lịch sử năm 1999, nhiều gia
đình bị thiệt hại nặng nề, Đảng ủy chỉ đạo chính quyền và Mặt trận tiếp nhận và phân phối
kịp thời những nguồn tiền và hàng cứu trợ đến nhân dân.
Hưởng ứng cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, giai đoạn 2000-2010, Hương
Văn tu sửa, xây dựng mới 50 nhà cho hộ nghèo với tổng số tiền gần 300 triệu đồng, trợ
cấp hàng năm cho các đối tượng chính sách hơn 175 triệu đồng. Trong 5 năm (2010-
2015), quỹ “Ngày vì người nghèo” huy động được gần 150 triệu đồng và địa phương vận
động được hơn 1,5 tỉ đồng giúp cho 26 hộ nghèo xây dựng, sửa chữa nhà cửa. Xóa được
đói, giảm được nghèo xuống dưới 5% là thành công rất đáng tự hào mà Đảng bộ và nhân
dân Hương Văn đạt được trên hành trình phát triển.
c. Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh
Về quốc phòng: Ban Quân sự xã thường xuyên được củng cố. Về số lượng, Đảng ủy
Hương Văn đề ra chỉ tiêu xây dựng lực lượng dân quân theo tỉ lệ 1,1-1,5% dân số toàn xã.
Đến năm 2015, tỉ lệ này luôn đảm bảo 1,18% dân số. Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của

. Chuẩn nghèo được thay đổi qua từng giai đoạn như sau:
1

- Giai đoạn 2001-2005: Theo Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 1-10-2000 của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội, hộ nghèo ở nông thôn đồng bằng là hộ có mức thu nhập bình quân
100.000đ/người/tháng
- Giai đoạn 2006-2010: Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg, ngày 8-7-2005 của Thủ tướng Chính phủ,
hộ nghèo có mức thu nhập trung bình 200.000đ/người/tháng.
- Giai đoạn 2011-2015: Theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg, ngày 30-1-2011 của Thủ tướng Chính phủ,
hộ nghèo có mức thu nhập bình quân 400.00đ/người/tháng.
162
Đảng đối với lực lượng dân quân trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, Đảng ủy
Hương Văn phấn đấu xây dựng tỉ lệ đảng viên trong dân quân là 24,5%, 100% A (tiểu
đội), B (trung đội) trưởng là đảng viên. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ban Quân sự tăng
cường công tác giáo dục và huấn luyện dân quân. Trong 5 năm (2000-2005), đã có 896
lượt cán bộ, chiến sĩ, dân quân tham gia huấn luyện quân sự, tuyển chọn 53 thanh niên
nhập ngũ. Từ năm 2010 đến năm 2015, Hương Văn đã huấn luyện quân sự cho 464 lượt
cán bộ, chiến sĩ và mở 5 lớp giáo dục kiến thức quốc phòng cho 386 lượt cán bộ, đảng
viên, đưa 43 thanh niên lên đường làm nghĩa vụ quân sự. Ngoài ra, Hương Văn còn hoàn
thành các nhiệm vụ quốc phòng địa phương, như năm 2012, cùng với cấp trên tham gia
diễn tập khu vực phòng thủ thị xã đạt kết quả tốt.
Về an ninh: Thực hiện Nghị định 40/1999/CP, ngày 23-6-1999 của Chính phủ về
xây dựng lực lượng công an viên ở cơ sở, Đảng ủy chỉ đạo tổ chức lại Ban Công an xã
gồm có Trưởng Công an xã, Phó trưởng Công an xã và công an viên. Tất cả đều được
huấn luyện, bồi dưỡng về pháp luật, chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Bộ Công
an. Đảng ủy huy động cả hệ thống chính trị cùng toàn thể nhân dân thực hiện “Chiến lược
an ninh quốc gia trong tình hình mới” và “Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm”.
Trong công tác này, Hương Văn xây dựng và phát huy có hiệu quả bước đầu mô hình
“Khu dân cư không có tội phạm và tệ nạn xã hội”. Những đối tượng vi phạm pháp luật
đều được đưa ra kiểm điểm trước dân, có tác dụng giáo dục tốt. Phong trào quần chúng
bảo vệ an ninh Tổ quốc được chú ý, có trên 85% tổ dân phố và cơ quan đạt chuẩn về an
ninh trật tự. 100% trưởng, phó ban bảo vệ dân phố là đảng viên, 80% tổ trưởng bảo vệ
dân phố là đảng viên. Nhiều năm liền, trên địa bàn phường không xảy ra những trọng án
phức tạp. Tình trạng tụ tập đông người, khiếu kiện tuy có xảy ra (như việc người dân tập
trung phản đối nhà máy xi măng Luks Văn Xá gây ô nhiễm môi trường, tháng 3-2014)
đều được chính quyền phối hợp với các cơ quan chức năng xử lí và giải quyết thỏa đáng.
d. Trên lĩnh vực xây dựng hệ thống chính trị
- Về xây dựng Đảng
Về công tác tư tưởng: Bước vào thập niên cuối của thế kỉ XX, tình hình thế giới có
những chuyển biến phức tạp, tác động tiêu cực đến sự nghiệp đổi mới của đất nước. Hệ
thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trong khi đó, các thế lực thù địch

163
đẩy mạnh hoạt động nhằm xóa bỏ thể chế chính trị ở những nước xã hội chủ nghĩa còn
lại. Trong bối cảnh đó, việc củng cố tư tưởng, lập trường, kiên định vào lí tưởng của con
đường cách mạng mà Đảng đã lựa chọn là nhiệm vụ vừa mang tính cấp bách, vừa mang
tính thường xuyên.
Đảng ủy tổ chức quán triệt đầy đủ nghị quyết của đại hội đảng các cấp đến toàn thể
đảng viên và cán bộ cốt cán. Bằng nhiều hình thức như sinh hoạt chính trị, tổ chức học
tập, nghe nói chuyện, tọa đàm nhân các ngày lễ lớn, đọc báo Đảng… những bài nói của
các nhà lãnh đạo Đảng, những chuyên đề về xây dựng Đảng được phổ biến. Đặc biệt,
đảng viên trong Đảng bộ được học tập kĩ về 4 nguy cơ lớn 1 mà Hội nghị Đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kì khóa VII (1-1994) của Đảng đã chỉ ra, để từ đó càng tăng cường hơn
nữa về ý thức và trách nhiệm của mình đối với con đường phát triển của đất nước. Từ
năm 1998, Đảng bộ triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về tự phê bình
và phê bình trong Đảng một cách nghiêm túc. Thông qua cấp ủy và ý kiến của Ban
Thường vụ Huyện ủy Hương Trà, các thành viên trong Ban Thường vụ Đảng ủy và đồng
chí chủ tịch ủy ban tiến hành phê và tự phê bình về tư tưởng chính trị, phong cách, lề lối
làm việc, đạo đức lối sống trên nguyên tắc tập trung dân chủ và tình đồng chí. Qua thực
hiện, ý thức về vai trò trách nhiệm, những hạn chế, thiếu sót của từng cá nhân trong điều
hành công tác được nâng lên.
Qua những thập niên đầu thế kỉ XXI, công tác chính trị tư tưởng của Đảng bộ
Hương Văn có nhiều chuyển biến tích cực. Toàn Đảng bộ tiếp tục thực hiện cuộc vận
động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, triển khai tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”;
thực hiện tốt 5 chuẩn mực đạo đức do Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế ban hành. Qua thực hiện,
các đảng viên đã nêu cao ý thức phê bình và tự phê bình, góp phần thúc đẩy hoạt động
của các chi bộ ngày càng có hiệu quả hơn.
Về công tác tổ chức: Ban Chấp hành Đảng bộ khóa III, nhiệm kì 1991-1993 có 9
đồng chí, do đồng chí Đặng Công Bình làm Bí thư, đồng chí Lê Tăng Thìn làm Phó Bí

. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ
1

nạn xã hội; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
164
thư và đồng chí Trần Xuân Quán làm Ủy viên Ban Thường vụ - trực Đảng. Ban Chấp
hành Đảng bộ khóa IV, nhiệm kì 1994-1996 có 9 đồng chí, do đồng chí Trần Xuân Quán
làm Bí thư, đồng chí Đặng Công Bình làm Phó Bí thư và đồng chí Lê Đình Hóa làm Ủy
viên Ban Thường vụ - trực Đảng 1. Ngày 20-1-1996, Đại hội Đảng bộ Hương Văn khóa V,
nhiệm kì 1996-2000 được tổ chức. Đây là khóa đầu tiên có nhiệm kì 5 năm. Ban Chấp
hành Đảng bộ có 9 đồng chí, do đồng chí Trần Xuân Quán làm Bí thư, đồng chí Đặng
Công Bình làm Phó Bí thư và đồng chí Lê Đình Hóa làm Ủy viên Ban Thường vụ - trực
Đảng 2. Trong nhiệm kì này, Ban Chấp hành có một số biến động, đồng chí Trần Xuân
Quán xin nghỉ công tác, đồng chí Lê Đình Hóa được cử làm Quyền Bí thư và Đảng bộ
bầu bổ sung đồng chí Trịnh Minh Sơn làm Ủy viên Ban Thường vụ - Trực Đảng 3. Ban
Chấp hành Đảng bộ khóa VI, nhiệm kì 2000-2005 gồm 9 đồng chí, do đồng chí Đặng
Công Bình làm Bí thư, đồng chí Lê Đình Hóa làm Phó Bí thư trực, đồng chí Phạm Bính
làm Ủy viên Ban Thường vụ. Đại hội Đảng bộ Hương Văn khóa VII, nhiệm kì 2005-2010
bầu Ban Chấp hành có 9 đồng chí, do đồng chí Đặng Công Bình làm Bí thư, đồng chí Lê
Đình Hóa làm Phó Bí thư trực, đồng chí Phạm Văn Hy làm Ủy viên Ban Thường vụ. Đại
hội Đảng bộ Hương Văn khóa VIII, nhiệm kì 2010-2015 bầu Ban Chấp hành có 15 đồng
chí, do đồng chí Đặng Công Bình làm Bí thư, đồng chí Lê Đình Hóa làm Phó Bí thư
thường trực, đồng chí Phạm Văn Hy làm Phó Bí thư và 2 Ủy viên Ban Thường vụ là đồng
chí Phạm Bính và Trần Xuân Đống. Trong nhiệm kì này, có 3 đồng chí Đảng ủy viên
chuyển công tác là Trần Xuân Đống, Lê Đình Chương và Nguyễn Thị Kim Thương. Do
đó, Đảng bộ Hương Văn đã bầu đồng chí Nguyễn Xuân Chinh vào Ban Thường vụ và bổ
sung 2 Đảng ủy viên là Phan Trọng Khánh và Lê Đình Nhật Tân.
Về công tác phát triển đảng: Trong nhiệm kì 1995-2000, công tác phát triển đảng ở
Hương Văn gặp nhiều khó khăn. Toàn nhiệm kì, Đảng ủy lựa chọn và giới thiệu được 18
quần chúng ưu tú tham gia các lớp bồi dưỡng cảm tình Đảng song chỉ kết nạp được 5
đảng viên (so với chỉ tiêu đặt ra là 7). Nguyên nhân là do một số chi bộ chưa chủ động
phân công đảng viên theo dõi, giúp đỡ tạo nguồn phát triển trong khi một số đối tượng

. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng ủy, ngày 22-4-1994.
1

. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hương Văn khóa V, kì họp thứ nhất, ngày 21-1-1996.
2

. Biên bản họp Ban Chấp hành Đảng ủy đột xuất, ngày 11-7-1998.
3

165
chưa tích cực phấn đấu khi chưa có động cơ vào Đảng rõ ràng. Hạn chế này đã ảnh hưởng
đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ kế cận trong những năm tiếp theo.
Từ nhiệm kì 2000-2005 trở đi, Đảng ủy Hương Văn có nhiều giải pháp nhằm tạo
môi trường thuận lợi, thu hút được những quần chúng tích cực phấn đấu vào Đảng. Do
đó, số lượng đảng viên kết nạp mới tăng đều qua các nhiệm kì. Từ năm 2000 đến năm
2005, Đảng bộ kết nạp được 17 đồng chí, cao nhất từ trước đến lúc đó. Trong nhiệm kì
2005-2010 đã có 35 đảng viên mới được kết nạp, tăng 18 đồng chí so với nhiệm kì trước.
Tuy nhiên, so với kế hoạch đặt ra, số lượng này mới đạt 58,3%; tỉ lệ đảng viên dưới 35
tuổi là 34,8%. Đến nhiệm kì 2010-2015, Đảng bộ Hương Văn kết nạp 46 đảng viên, tăng
11 đồng chí so với nhiệm kì trước, đưa tổng số đảng viên toàn Đảng bộ lên 150 đồng chí.
Từ chỗ chỉ có 3 chi bộ (Văn Xá Đông, Văn Xá Tây, Giáo dục) đến năm 1994, 2 chi
bộ hợp tác xã chia tách thành 6 chi bộ. Cụ thể, Chi bộ 1 (cụm Giáp Nhất và Giáp Tư) có 7
đảng viên, Chi bộ 2 (cụm Giáp Ba) có 5 đảng viên, Chi bộ 3 (cụm Giáp Nhì) có 10 đảng
viên, Chi bộ 4 (cụm Bàu Đưng) có 3 đảng viên, Chi bộ 5 (cụm Giáp Trung) có 9 đảng
viên, Chi bộ 6 (cụm Giáp Thượng) có 16 đảng viên và Chi bộ Giáo dục có 6 đảng viên.
Từ chỗ tổ chức chi bộ theo đơn vị ngành nghề chuyển sang tổ chức theo địa bàn cư trú
bước đầu không tránh khỏi bỡ ngỡ. Qua một thời gian, cách tổ chức này tỏ rõ hiệu quả
của nó khi chi bộ thật sự gần dân hơn, sâu sát với quần chúng hơn, do đó dễ dàng nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để có những đề xuất với Đảng ủy kịp thời giải quyết.
Trong nhiệm kì 1995-2000, do tình hình khách quan (số đảng viên giảm từ 62 xuống còn
58 vì 1 chuyển công tác, 3 qua đời) nên chi bộ 4 và 5 phải tổ chức ghép lại làm một. Đảng
bộ Hương Văn chỉ còn 5 chi bộ.
Qua giai đoạn 2000-2005, sự phát triển về số lượng đảng viên dẫn đến việc cơ cấu
lại các tổ chức cơ sở đảng. Theo đó, Chi bộ Cụm dân cư 4-5 tách thành 2 chi bộ, Chi bộ
Giáo dục chia thành 3 chi bộ theo 3 trường học và thành lập Chi bộ Công an - Quân sự.
Sau khi chia tách, thành lập mới, đến năm 2005, Đảng bộ Hương Văn có 10 chi bộ trực
thuộc, gồm 6 chi bộ Cụm dân cư, 3 chi bộ trường học và Chi bộ Công an - Quân sự.
Trong nhiệm kì 2005-2010, ở Hương Văn tách Chi bộ 1 thành 2 chi bộ, chia Chi bộ
Công an - Quân sự thành 2 chi bộ, đưa toàn Đảng bộ lên con số 12 chi bộ. Trong nhiệm kì
2010-2015, cùng với việc chia tách và đổi tên các cụm dân cư thành tổ dân phố và thành

166
lập Chi bộ trường Mầm non, Đảng bộ Hương Văn có 19 chi bộ trực thuộc, gồm 13 chi bộ
tổ dân phố, 4 chi bộ trường học, Chi bộ Công an và Chi bộ Quân sự. Đây là thời điểm
Đảng bộ Hương Văn có số lượng chi bộ nhiều nhất. Và từ năm 2015, với việc sáp nhập
trở lại một số tổ dân phố, toàn Đảng bộ Hương Văn còn 15 chi bộ trực thuộc, gồm: chi bộ
Giáp Nhất, chi bộ Giáp Nhì, chi bộ Giáp Ba, chi bộ Giáp Tư, chi bộ Giáp Trung, chi bộ
Giáp Thượng 1, chi bộ Giáp Thượng 2, chi bộ Giáp Thượng 3, chi bộ Bàu Đưng, chi bộ
Trường Trung học cơ sở Hồ Văn Tứ, chi bộ Trường Tiểu học số 1, chi bộ Trường Tiểu học
số 2, chi bộ Trường Mầm non, chi bộ Công an và chi bộ Quân sự.
Về công tác dân vận: Thực hiện Hướng dẫn số 01-HDLB/TC-DV-TW, ngày 25-5-
2000 của Ban Tổ chức Trung ương Đảng và Ban Dân vận Trung ương Đảng “Về chức
năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ của Ban Dân vận địa phương”, Đảng
ủy phường chỉ đạo thành lập Khối dân vận. Sau khi ra đời, khối dân vận đã phát huy vai
trò tích cực trong việc tham mưu tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước về công tác dân vận, đưa chủ trương, chính sách vào cuộc sống. Mặc dù còn
khó khăn nhiều mặt, nhưng về cơ bản khối dân vận đã bám sát chức năng, nhiệm vụ theo
hướng dẫn của Trung ương, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế và Huyện ủy/Thị ủy Hương Trà;
thực hiện tốt sự phân công, phối hợp giữa các thành viên trong triển khai các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng về công tác dân vận; hướng dẫn các phong trào quần chúng thực hiện các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của các
đảng viên, Đảng ủy tổ chức hội thi Bí thư chi bộ giỏi, cử người tham gia hội thi dân vận
khéo do Huyện ủy/ Thị ủy Hương Trà tổ chức.
Về công tác kiểm tra, giám sát đảng viên và tổ chức cơ sở đảng. Đảng ủy Hương
Văn luôn xác định đây là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, trực
tiếp góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Toàn Đảng bộ
quán triệt và thực hiện tốt chủ trương của Đảng về công tác xây dựng Đảng, nhất là Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa X, về “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng”; luôn xác định công tác kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên
trong công tác xây dựng Đảng của địa phương. Dựa trên cơ sở Quyết định số 25-QĐ/TW,

167
ngày 24-11-2006, của Bộ Chính trị, về hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác
kiểm tra, giám sát và kỉ luật đảng, Đảng ủy phường triển khai thực hiện có hiệu quả các
quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước phục vụ cho công tác xây dựng Đảng nói
chung, công tác kiểm tra, giám sát và kỉ luật của Đảng trên địa bàn nói riêng. Xuất phát từ
yêu cầu thực tế, nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỉ luật của
Đảng, Đảng ủy phường và các chi bộ trực thuộc đều xây dựng chương trình công tác kiểm
tra, giám sát cho cả nhiệm kì, hằng năm, sáu tháng, từng quý và tổ chức thực hiện thường
xuyên, nội dung có trọng tâm, trọng điểm. Qua kiểm tra, giám sát đã làm rõ ưu điểm,
khuyết điểm của tổ chức Đảng và đảng viên, phát hiện, biểu dương những tổ chức, cá
nhân thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ; kịp thời chỉ đạo uốn nắn, khắc phục những hạn
chế, khuyết điểm; từ đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tổ chức Đảng và đảng viên
trong việc chấp hành Điều lệ Đảng, thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, rèn luyện kỉ
luật, giữ gìn đạo đức, lối sống trong sinh hoạt, góp phần ngăn ngừa những vi phạm,
khuyết điểm ngay từ cơ sở, góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ, ... Chính nhờ thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra, giám
sát nên ở Hương Văn hàng năm, những trường hợp đảng viên có vi phạm sớm được việc
phát hiện – xử lí, góp phần giữ gìn uy tín của Đảng cũng như nâng cao sức chiến đấu của
toàn Đảng bộ. Cụ thể, trong nhiệm kì 1993-1995, Đảng ủy đã kiểm tra và xử lí 2 đơn vị
kinh tế, 1 chi bộ và 2 đảng viên vi phạm. Chất lượng đảng viên xếp loại hàng năm có 46%
loại 1, 33,5% loại 2; tổ chức Đảng năm thấp nhất có 1 chi bộ trong sạch vững mạnh, năm
cao nhất có 3 chi bộ, Đảng bộ và chi bộ khác đạt loại khá. Năm 2005 có 6/10 chi bộ đạt
trong sạch vững mạnh, chiếm 60%, năm 2009 có 9/12 chi bộ đạt trong sạch vững mạnh,
chiếm 75%, tăng 15%; tỉ lệ đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 2005 là
46/80, chiếm 57,5%, năm 2009 là 84/104, chiếm 80,8%, tăng 23,3%. Đảng bộ Hương
Văn 5 năm liền (2010-2014) được công nhận trong sạch vững mạnh.
Về công tác dân vận. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự
nghiệp cách mạng, là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố,
tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Ngày 25-2-2010,
Bộ Chính trị ban hành Quyết định 290-QĐ/TW “về việc ban hành Quy chế công tác dân

168
vận của hệ thống chính trị”. Trên cơ sở quán triệt, nắm vững các nội dung Quy chế công
tác dân vận của hệ thống chính trị theo Quyết định 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đã ban hành Quyết định 143-QĐ/TU, ngày 21-12-
2010 “về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị tỉnh Thừa Thiên
Huế”. Quán triệt nhiệm vụ mà Trung ương và Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đề ra, trong nhiều
năm liền, Đảng ủy Hương Văn tập trung vào lĩnh vực xây dựng và thực hiện Quy chế dân
chủ; thực hiện Quy chế công tác dân vận trong hệ thống chính trị; việc thực hiện các nghị
quyết chuyên đề về công tác dân vận của Trung ương, của Tỉnh ủy; tổ chức sơ kết, tổng
kết việc triển khai thực hiện một số chủ trương lớn của Đảng về công tác dân vận. Nhờ
vậy, nhận thức về vai trò, vị trí của công tác dân vận trong hệ thống chính trị được nâng
lên, công tác dân vận đã có nét chuyển biến tích cực, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ
chính trị của địa phương. Để công tác dân vận đi vào chiều sâu, các cấp ủy từ huyện đến
cơ sở quan tâm lãnh đạo toàn diện về công tác vận động nhân dân trong tình hình mới phù
hợp với điều kiện thực tế của địa phương; tập trung ban hành các văn bản chỉ đạo công
tác dân vận trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, huy
động tối đa các nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới; tăng cường vận động giải phóng
mặt bằng các dự án lớn, thực hiện chính sách an sinh xã hội. Đồng thời, các cấp ủy, chính
quyền cũng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nêu
cao tinh thần trách nhiệm, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đổi mới phong cách, lề
lối làm việc, giải quyết ngày càng tốt hơn công việc cho tổ chức, công dân; tăng cường đi
cơ sở, nắm chắc tâm tư, nguyện vọng, ý kiến, kiến nghị của người dân; đẩy mạnh tiếp
xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; phối hợp giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh ở
cơ sở. Thông qua công tác dân vận, một số điểm nóng về an ninh trật tự trên địa bàn được
giải quyết tốt, như việc giảm bớt tình trạng mê tín dị đoan ở miếu thờ cây táo chùa Hội
Phước hay vụ tập trung đông người phản đối nhà máy xi măng Luks Văn Xá gây ô nhiễm
môi trường, …
Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TW
của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (ngày 18-3-2002) về
đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, Đảng bộ Hương Văn tiến
hành đổi mới việc ra nghị quyết của đảng bộ, chi bộ, của cấp uỷ đảng: Đối với những vấn

169
đề lớn, quan hệ tới cuộc sống và quyền lợi của đông đảo nhân dân địa phương, đòi hỏi sự
phối hợp của cả hệ thống chính trị ở cơ sở, đảng bộ, chi bộ và cấp uỷ đảng đề ra chủ
trương và các giải pháp có tính định hướng và phân công, giao trách nhiệm cho các tổ
chức trong hệ thống chính trị đề ra biện pháp và tổ chức thực hiện theo quyền hạn, trách
nhiệm của từng tổ chức. Những chủ trương công tác thuộc thẩm quyền quyết định của
chính quyền và đoàn thể thì chính quyền và đoàn thể chủ động đề xuất, cấp uỷ đảng bàn
và có ý kiến về những nội dung quan trọng. Nhằm nâng cao trình độ quản lí và chính trị
của đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương trong bối cảnh hội nhập
quốc tế ngày càng mạnh mẽ, Đảng ủy Hương Văn đã cử hàng chục lượt đảng viên đi đào
tạo lí luận và chuyên môn nghiệp vụ.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ủy phường còn thông qua việc yêu cầu
thường trực cấp ủy và các cơ quan giúp việc cho cấp ủy duy trì giao ban định kì với Ban
Dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trên địa bàn; phân công các thành viên cấp ủy,
Ban Thường vụ và các thành viên Ủy ban kiểm tra Đảng ủy trực tiếp đứng điểm, phụ
trách chi bộ trực thuộc và yêu cầu thường xuyên kiểm tra và cùng tham dự sinh hoạt với
chi bộ.
- Về chính quyền
Sự kiện chính trị quan trọng ở Hương Văn giai đoạn này là cuộc bầu cử Hội đồng
nhân dân các cấp năm 1994. Đây là khóa đầu tiên có nhiệm kì 5 năm. Từ đầu tháng 9-
1994, công tác chuẩn bị nhân sự được tiến hành, Ban bầu cử, phổ biến luật bầu cử và luật
tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân đến các đội sản xuất, tổ chức hội nghị hiệp
thương lấy ý kiến nhân dân về các ứng cử viên. Công tác tuyên truyền qua Đài truyền
thanh, loa phóng thanh lưu động, làm cổng chào ở các trục đường chính trong xã, trang
hoàng trụ sở Ủy ban và các điểm bỏ phiếu… Do đó, ngày bầu cử 20-11-1994 dù thời tiết
không thuận lợi nhưng 100% cử tri đã nô nức đi thực hiện quyền công dân, chọn người có
đủ đức tài đại diện cho mình. Kết quả, 100% (33/33) đại biểu trúng cử từ lần bỏ phiếu đầu
tiên. Hội đồng Nhân dân Hương Văn nhiệm kì 1994-1999 bầu đồng chí Trần Mậu Quán
làm Chủ tịch Hội đồng, đồng chí Đặng Công Bình làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
Đợt bầu cử Hội đồng nhân dân nhiệm kì 1999-2004 dù phải trải qua đợt lũ thế kỉ
(11-1999), hầu hết cơ sở vật chất chuẩn bị cho ngày bầu cử phải làm lại từ đầu nhưng
Đảng ủy vẫn chỉ đạo Ban bầu cử kịp thời khắc phục để cuộc bầu cử diễn ra đúng thời gian

170
quy định (12-12-1999) 1. Hội đồng nhân dân Hương Văn nhiệm kì này có 33 đại biểu, bầu
đồng chí Đặng Công Bình làm Chủ tịch, đồng chí Phạm Bính làm Chủ tịch Ủy ban nhân
dân. Hội đồng nhân dân Hương Văn nhiệm kì 2004-2011 bầu đồng chí Lê Đình Hóa làm
Chủ tịch Hội đồng nhân dân, đồng chí Phạm Văn Hy làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Ở
Hội đồng nhân dân Hương Văn nhiệm kì 2011-2016, hai đồng chí Lê Đình Hóa và Phạm
Văn Hy tái cử các chức vụ cũ. Đến tháng 12-2014, đồng chí Phạm Văn Hy chuyển qua
làm Bí thư Đảng ủy phường, Hội đồng nhân dân bầu đồng chí Lê Đình Hóa thay thế và
bầu đồng chí Đặng Công Bình giữ chức Chủ tịch Hội đồng nhân dân.
Đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý bộ máy chính quyền trong
thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa, công tác cán bộ từng bước đổi mới theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương V (khóa IX) về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở phường xã. Quy
hoạch cán bộ cũng được cấp ủy chú trọng, hàng năm đều có điều chỉnh quy hoạch dự
nguồn. Chức năng, nhiệm vụ của bộ máy chính quyền, mặt trận và các đoàn thể, tổ chức
kinh tế - xã hội được phân định rõ ràng, phù hợp với điều kiện ở địa phương, nhằm đảm
bảo sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng, phát huy cao độ vai trò quản lí điều hành
của chính quyền, hoạt động của mặt trận và các đoàn thể đồng thời thực hiện tốt nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách. Trên cơ sở đó, Đảng ủy quy
hoạch cán bộ nguồn đúng nguyên tắc, đảm bảo dân chủ và mang tính kế thừa. Trên cơ sở
đó, Ủy ban tạo điều kiện cho nhiều cá nhân được tham gia bồi dưỡng các lớp chính trị,
quản lí nhà nước do huyện tổ chức hoặc cử tham gia học trung cấp chính trị tại trường
Chính trị Nguyễn Chí Thanh. Ngoài ra, nhằm nâng cao chất trình độ cho đội ngũ cán bộ,
nhất là cán bộ chủ chốt, Đảng ủy và ủy ban tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhiều người
theo học các hệ đào tạo đại học do Đại học Huế tổ chức 2. Trong những năm gần đây, một
số con em sau khi tốt nghiệp đại học trở về địa phương được tuyển dụng vào làm việc
trong bộ máy chính quyền, đảm trách những mảng khác nhau, như văn hóa thông tin, địa
chính, tư pháp, kinh tế, ... góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ. Công tác cải cách hành
chính theo cơ chế “một cửa” được ủy ban phường ưu tiên triển khai, do vậy, đã giải quyết
nhanh gọn những thủ tục hành chính, tránh rườm ra, không gây phiền nhiễu cho nhân dân.
1
. Dự kiến tiến hành tổ chức bầu cử vào ngày 14-11-1999. Tuy nhiên, trận lũ ngày 2-11-1999 đã cuốn trôi
tất cả những thứ chuẩn bị cho kì bầu cử như áp-phích, danh sách và thẻ cử tri…
. Như trường hợp các đồng chí Lê Đình Hóa, Phạm Văn Hy, …
2

171
Việc áp dụng các trang thiết bị hiện đại, như máy vi tính, kết nối mạng Internet góp phần
nâng cao công tác văn thư, quản lí và theo dõi một cách hiệu quả các hồ sơ dự án đang
triển khai trên địa bàn. Công tác tư pháp có bước phát triển. Việc khai sinh, khai tử và
đăng kí kết hôn thực hiện theo quy định của luật pháp hiện hành. Từ năm 2007, nhằm tạo
thuận lợi cho nhân dân khi làm các loại hồ sơ, thực hiện Nghị định 79/CP, Ủy ban phường
mở sổ công chứng, chứng thực giấy tờ. Việc giải quyết các đơn thư khiếu nại tương đối
tốt, giúp thỏa mãn các bên tham gia tố tụng. Một việc làm khá quan trọng mà chính quyền
thường xuyên tổ chức các đợt học tập luật và pháp lệnh do nhà nước ban hành để giúp
người dân luôn cập nhật hóa thông tin. Phường tổ chức nhiều đợt học tập luật và pháp
lệnh cho hàng ngàn lượt người.
Ngoài ra, Đảng ủy còn chỉ đạo chính quyền thành lập một số tổ chức và ban làm tư
vấn hoặc thực hiện chủ trương của Đảng, như Hội Khuyến học, Ban vì sự tiến bộ của phụ
nữ, Ban bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, Ban thực hiện Quy chế dân chủ cơ
sở…
Hoạt động của Hội đồng nhân dần dần đi vào quy củ, từng bước được đổi mới, phát
huy hiệu quả trong việc quyết định và giám sát thực hiện các chủ trương, chính sách kinh
tế - xã hội. Việc tổ chức tiếp xúc với nhân dân dần đi vào nề nếp. Công tác quản lí, điều
hành của chính quyền đã đi vào chiều sâu, cải cách hành chính bước đầu đạt được một số
kết quả, công tác kiểm tra, kiểm soát được quan tâm hơn.
- Về Mặt trận và các đoàn thể
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phường đã chủ động tổ chức các hoạt động theo chức
năng, nhiệm vụ đã quy định, đóng vai trò nòng cốt trong việc tuyên truyền vận động nhân
dân chấp hành, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước
cũng như là nơi quy tụ đủ mọi thành phần xã hội cùng tham gia, góp sức vào công cuộc
xây dựng đất nước ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Trong từng giai đoạn, Mặt
trận phát động những phong trào khác nhau, như vận động nhân dân xây dựng con người
văn hóa, gia đình văn hóa, làng văn hóa, cơ quan văn hóa; mô hình khu dân cư không sinh
con thứ 3 (2001-2005); vận động nhân dân chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển ngành
nghề tạo việc làm, tăng thu nhập thực hiện mục tiêu thoát nghèo; vận động nhân dân tham
gia phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; vận động nhân dân phát huy dân chủ, giữ gìn

172
kỉ cương, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, mặt trận và các đoàn thể
(2006-2010); vận động nhân dân hiến đất ở, đất vườn, đất ruộng cùng với nhà nước xây
dựng các công trình phúc lợi phục vụ dân sinh (2011-2015)… Ngoài ra, Mặt trận đã thực
hiện công tác hòa giải, chính sách dân tộc, thực hiện tốt cuộc vận động “toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa” ở cơ sở, phối hợp với chính quyền hiệp thương bầu cử
Hội đồng nhân dân các cấp.
Đoàn Thanh niên được Đảng ủy chỉ đạo chấn chỉnh về tổ chức và lề lối hoạt động.
Công tác bồi dưỡng, kết nạp đoàn viên mới thường xuyên được chú trọng. Việc duy trì
chế độ sinh hoạt và giải quyết các thủ tục thuyên chuyển sinh hoạt đoàn, nhất là cho
những đoàn viên là học sinh, sinh viên đến cơ sở mới dần đi vào nề nếp. Đoàn Thanh niên
thực sự là lực lượng nòng cốt trên tất cả các phong trào học tập, văn nghệ, thể dục thể
thao, vệ sinh môi trường, tham gia lực lượng dân quân, tự vệ và làm nghĩa vụ quân sự.
Hưởng ứng 2 phong trào “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi trẻ giữ nước” do Trung ương
Đoàn phát động, một số đoàn viên đã mạnh dạn phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề,
không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn giải quyết việc làm cho nhiều thanh niên trong
địa phương.
Hội Nông dân phường bên cạnh vận động nông dân tích cực mở rộng sản xuất và
hưởng ứng các hoạt động do các cấp phát động còn tiếp tục đứng ra tín chấp với ngân
hàng và các doanh nghiệp để vay vốn và cung cấp phân bón trả chậm, hỗ trợ hội viên mở
rộng sản xuất. Hội phối hợp với các tổ chức chuyên môn tập huấn chuyển giao khoa học
kĩ thuật về phòng bệnh trên lợn, gà, kĩ thuật thâm canh lúa, thí điểm trồng hành lá, … Bên
cạnh đó, phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới, “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, thực hiện quy ước văn hóa được đẩy mạnh. Hội vận động hội
viên tham gia tích cực công tác chỉnh trang đô thị nói chung và cuộc vận động nhân dân
tự nguyện hiến đất mở rộng đường xóm đường kiệt do phường phát động. Hội phối hợp
với các ban ngành đoàn thể vận động nhân dân tham gia xây dựng đô thị văn minh, đã xã
hội hóa điện chiếu sáng ở các trục đường trong phường, ...
Hội Phụ nữ có đội ngũ cán bộ nhiệt tình, tích cực vận động chị em tham gia sinh
hoạt hội và hưởng ứng các hoạt động phù hợp với giới như thực hiện “nuôi con khỏe, dạy
con ngoan”, tổ chức các ngày kỉ niệm như 8-3, 20-10. Nổi bật trong công tác của Hội Phụ

173
nữ phường thời gian này là phong trào “Giúp đỡ hộ nghèo”; “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, xây dựng “Gia đình 5 không 3 sạch”. Phát huy truyền
thống “Tương thân tương ái lá lành đùm lá rách”, phụ nữ tham gia phong trào “Đền ơn
đáp nghĩa”, xây dựng “Hũ gạo tình thương”, các hoạt động nhân đạo, từ thiện đóng góp
xây dựng mái ấm tình thương, tặng học bỗng cho con em nghèo, giúp đỡ phụ nữ nghèo
đơn thân thoát nghèo. Nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chị em tham gia phong trào
“Toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc”, vận động con em thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự, làm
tốt công tác hậu phương, góp phần ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa
phương, bảo vệ Đảng, chính quyền ngày càng trong sạch vững mạnh.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn một số mặt hạn chế đó là: Năng lực
của một số cán bộ Hội còn hạn chế, chưa đồng đều, nên việc bám sát các nhiệm vụ chính
trị - xã hội của địa phương còn chậm. Có một số chi hội khi tổ chức sinh hoạt chưa thống
nhất với Ban Chấp hành về khâu tổ chức. Trong việc thực hiện Dân số - Kế hoạch gia
đình, việc vận động đến các chị trong diện nguy cơ sinh con thứ 3 trở lên chưa thường
xuyên. Tỉ lệ chị em sử dụng biện pháp tránh thai còn thấp, số chị em sinh con thứ 3 trở lên
còn cao nhất là ở chi Hội Giáp Thượng 3 nhiều năm liền cao hơn mặt bằng chung toàn
phường, ...
Hội Cựu chiến binh có nhiều đổi mới trong hoạt động. Về công tác tư tưởng, phong
trào thi đua “Cựu chiến binh gương mẫu” được Hội tiến hành thường xuyên. Phát huy bản
chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, các cựu chiến binh đều gương mẫu trong các phong
trào, tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, chính quyền, tăng cường giáo dục truyền
thống cách mạng cho thế hệ trẻ, giáo dục thanh niên đến tuổi tình nguyện thi hành nghĩa
vụ quân sự hàng năm. Về đời sống, với phong trào thi đua giúp nhau xoá đói giảm nghèo,
vươn lên làm giàu chính đáng, Hội đứng ra tín chấp với Ngân hàng chính sách huyện để
vay vốn ưu đãi, phát triển kinh tế gia đình. Không chỉ chăm lo phát triển kinh tế, giúp
nhau thoát nghèo, hội viên Hội Cựu chiến binh còn tích cực tham gia các phong trào như
“Chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”,
cuộc vận động “Vì người nghèo”... vận động hội viên quyên góp, xã hội hóa xây dựng
nhà “Nghĩa tình đồng đội”; giúp đỡ hộ nghèo, nạn nhân chất độc da cam…

174
Sau 31 năm thành lập xã (nay là phường), Hương Văn đã có bước phát triển vượt
bậc đáng tự hào. Từ một vùng quê nghèo khó lúc mới thành lập, cơ sở hạ tầng hầu như
bắt đầu từ con số không, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, cán bộ và nhân dân Hương Văn
đã nhanh chóng ổn định mọi mặt, tiến hành đổi mới cùng đất nước. Sản xuất nông nghiệp
có cơ cấu vật nuôi cây trồng ngày càng đa dạng, đạt hiệu suất kinh tế cao. Hương Văn là
địa chỉ thu hút nhiều doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đến đầu tư, góp phần làm chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng: dịch vụ - tiểu thủ công nghiệp - nông nghiệp. Sự nghiệp
giáo dục, văn hóa, y tế, xã hội từng bước phát triển. Đặc biệt về giáo dục, Hương Văn đã
phát huy được truyền thống hiếu học của làng Văn Xá, sớm hoàn thành phổ cập trung học
cơ sở và là địa phương đầu tiên của thị xã Hương Trà có 100% trường học đạt chuẩn quốc
gia. Hệ thống chính trị và an ninh quốc phòng ổn định. Đảng bộ Hương Văn dù trong
hoàn cảnh nào vẫn phát huy được vai trò, lãnh đạo nhân dân hoàn thành những mục tiêu
phát triển, đưa Hương Văn trở thành một trong những phường trung tâm của Hương Trà
trên hành trình vươn tới đô thị văn minh.

175
KẾT LUẬN
Là vùng đất có bề dày lịch sử, truyền thống văn hóa và đấu tranh cách mạng, Hương
Văn trải qua nhiều thời kì lịch sử đều có những đóng góp lớn đối với quá trình phát triển
của đất nước cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong
tiến trình lịch sử gần 6 thế kỉ, Võ Xá - Văn Xá - Hương Văn ít bị thay đổi về địa danh và
tổ chức hành chính, là một trong số ít địa phương vẫn giữ nguyên được tính độc đáo của
mình: “nhất làng - nhất xã” và hôm nay là “nhất làng - nhất phường”. Do vậy, ở Hương
Văn còn bảo lưu được nhiều thiết chế văn hóa vật chất và tinh thần cũng như truyền thống
họ tộc bền vững. Đó là cội nguồn sức mạnh để nhân dân Hương Văn tích cực tham gia
công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng, lập nên nhiều thành tích trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: ANH HÙNG LỰC
LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN. Sau 4 thập kỉ từ ngày giải phóng (1975-2015), dưới
sự lãnh đạo của Đảng các cấp, nhân dân Hương Văn giành được nhiều thành tựu trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, từ năm 2011, cùng với việc Hương Trà
được nâng lên thành thị xã, Hương Văn trở thành một trong những phường trung tâm và
là hướng phát triển trong tương lai của Thị xã Hương Trà.
Nhìn lại chặng đường 85 năm nhân dân Hương Văn trải qua dưới sự lãnh đạo của
Đảng (1930-2015), có thể rút ra một số thành tựu và bài học kinh nghiệm chủ yếu sau.
1. Về thành tựu
Một là, Hương Văn là nơi sớm có truyền thống đấu tranh yêu nước và cách mạng.
Tuy là quê ngoại của vua Minh Mạng, có nhiều mối liên hệ với triều đình phong kiến nhà
Nguyễn nhưng không vì thế mà nhân dân Hương Văn “trung quân” một cách vô điều
kiện. Khi nước mất nhà tan, nhân dân Hương Văn đã sớm đứng lên, đi theo tiếng gọi của
lòng ái quốc, bảo bọc cho triều đình kháng chiến Hàm Nghi trên đường bôn tẩu, để rồi từ
mảnh đất này vang lên lời Dụ Cần Vương kháng Pháp, mở đầu cho cuộc trường chinh gần
một thế kỉ vì độc lập dân tộc và thống nhất đất nước (1885-1975). Truyền thống đó tiếp
tục được phát huy kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930). Hương Văn là một
trong số ít những địa phương ở Thừa Thiên Huế sớm có cơ sở Đảng hoạt động, gây dựng
phong trào. Hầu hết mọi phong trào do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nhân dân Hương

176
Văn đều tích cực hưởng ứng. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai đi vào giai đoạn cuối, công
cuộc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền ở Hương Văn ngày càng khẩn trương và
hoàn tất về mọi mặt. Hương Văn là một trong số ít địa phương ở Hương Trà thành lập
được lực lượng vũ trang cách mạng hỗ trợ lực lượng chính trị quần chúng. Do vậy, cuộc
khởi nghĩa giành chính quyền ở Hương Văn diễn ra nhanh chóng, hầu như không đổ máu.
Cách mạng tháng Tám thành công, đưa nhân dân Hương Văn bước vào thời kì mới: Xây
dựng và bảo vệ những thành quả cách mạng vừa mới giành được.
Hai là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Hương Văn một lòng tham gia kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, lập nên nhiều chiến công xuất sắc. Trong hơn
một năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân Hương Văn tích cực tham gia xây
dựng và củng cố chế độ mới, ra sức chi viện miền Nam kháng Pháp và chuẩn bị mọi mặt
cho cuộc kháng chiến lâu dài. Xuyên suốt cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), cán
bộ, đảng viên và nhân dân Hương Văn luôn nêu cao truyền thống yêu nước, tích cực phối
hợp với các lực lượng vũ trang của tỉnh và huyện đánh hàng chục trận lớn nhỏ; đóng góp
hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm; hơn nghìn lượt người tham gia dân công vận tải để
nuôi quân; giữ bí mật an toàn tuyệt đối tuyến đường liên lạc của cơ quan tỉnh, huyện về
vùng sâu Hương Trà và Quảng Điền hoặc vào nội thành Huế. Hàng trăm con em Hương
Văn tham gia lực lượng vũ trang, bao gồm cảm tử quân, Trung đoàn 101, bộ đội địa
phương huyện và lực lượng dân quân tự vệ. Càng chiến đấu càng trưởng thành, từ một chi
bộ chỉ có 7 đảng viên, tổ chức Đảng ở Hương Văn không ngừng lớn mạnh, là một trong 5
đơn vị trên địa bàn toàn huyện có số lượng đảng viên đông nhất. Sự lớn mạnh của tổ chức
Đảng đã khẳng định sự trưởng thành của chi bộ, sự tin tưởng của quần chúng nhân dân và
ý chí vượt khó của mỗi đảng viên. Những đóng góp của các thế hệ cán bộ, đảng viên và
nhân dân Hương Văn góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của dân tộc, kết thúc cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), ở vị trí có lúc là
chiến trường, vừa là tuyến hành lang của huyện Hương Trà, huyện Quảng Điền và thành
phố Huế, các thế hệ cán bộ, đảng viên Hương Văn đã kiên cường bám trụ, xây dựng cơ sở
cách mạng, người trước ngã, người sau nối tiếp, từng bước đưa phong trào cách mạng
phát triển. Bao thế hệ gia đình người dân Hương Văn đã bất chấp các thủ đoạn tra tấn,

177
khủng bố của địch, ngay cả trong thời điểm phong trào cách mạng gặp khó khăn nhất, vẫn
một lòng, một dạ son sắt với Đảng, tìm mọi cách nuôi dưỡng, che dấu cán bộ, đào hàng
chục căn hầm bí mật ngay trong chính nhà mình và đặc biệt đã hình thành nên nhiều “căn
cứ lõm”, một hình thức sáng tạo, độc đáo về xây dựng cơ sở mật ngay trong lòng địch.
Hương Văn còn là địa bàn thu mua lương thực phẩm và các nhu yếu phẩm quan trọng của
huyện, nơi đứng chân của lực lượng vũ trang quân khu và tỉnh khi đánh vào thành phố
Huế hoặc căn cứ Tứ Hạ.
Tính chung trong suốt hai cuộc kháng chiến, hàng trăm con em Hương Văn đã ngã
xuống vì nền độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Hương Văn tự hào có 2 Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân; được Nhà nước công nhận 16 Mẹ Việt Nam anh hùng, 158
liệt sĩ và hàng trăm thương binh - bệnh binh, gia đình có công với cách mạng. Cao hơn
hết là danh hiệu cao quý: ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN cho
toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Hương Văn do Nhà nước phong tặng năm 1996.
Ba là, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2015), nhân dân Hương
Văn đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực. Từ một nền kinh tế thuần nông cây
lúa và lạc những năm trước đổi mới đã chuyển dịch theo hướng: dịch vụ - tiểu thủ công
nghiệp - nông nghiệp, sớm đảm bảo được an ninh lương thực, xóa được hộ đói, giảm hộ
nghèo, nâng cao thu nhập bình quân đầu người; hệ thống cơ sở hạ tầng như điện - đường -
trường - trạm được đầu tư làm thay đổi bộ mặt của địa phương theo hướng đô thị hóa. Sự
nghiệp văn hóa, y tế, giáo dục đạt được nhiều thành tựu lớn. Về văn hóa, nhiều thiết chế
truyền thống được bảo tồn và phát huy bên cạnh xây dựng nhiều giá trị mới với 100% đạt
tổ dân phố văn hóa và cơ quan văn hóa. Về giáo dục, truyền thống hiếu học của làng Văn
Xá được tiếp nối và phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Hương Văn sớm hoàn thành
phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, các trường học đều đạt chuẩn quốc gia.
Nhiều người con Văn Xá - Hương Văn học hành thành đạt, có tiếng tăm khắp cả nước. Về
y tế đã đảm bảo chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, thực hiện có hiệu quả nhiều
chương trình - mục tiêu y tế, để nhiều năm liền đạt chuẩn Quốc gia. Việc chăm lo đời
sống cho các đối tượng chính sách được đảm bảo. Ở vị trí là vành đai của huyện lỵ (nay là
thị xã), Hương Văn có vai trò quan trọng trong chiến lược bảo vệ an toàn cho trung tâm
đầu não của địa phương. Nhiều năm liền trên địa bàn không có những trọng án hay khiếu

178
kiện đông người, vượt cấp. Những chỉ tiêu về giao quân nhập ngũ, huấn luyện sẵn sàng
chiến đấu cho lực lượng dân quân tự vệ hàng năm đều được hoàn thành tốt. Công tác xây
dựng chính quyền và hoạt động các đoàn thể ngày càng đi vào quy củ, theo hướng tinh
gọn, hiệu quả.
Thành tựu trên các lĩnh vực của Đảng bộ và nhân dân Hương Văn được các cấp ghi
nhận qua nhiều bằng khen, phần thưởng và cao hơn hết là hệ thống chính trị vững mạnh,
đời sống của nhân dân đảm bảo và ngày càng nâng cao về mọi mặt, hướng tới đô thị văn
minh - xanh - sạch, để cùng với Tứ Hạ trở thành trung tâm của thị xã Hương Trà hôm nay
và tương lai.
Bốn là, những thành tựu trên đây gắn liền với quá trình trưởng thành về mọi mặt
của Đảng bộ Hương Văn. Từ chỗ tuy chưa có đảng viên sở tại những ngày đầu gây dựng
phong trào trước năm 1930, nhưng hoạt động của các đồng chí thuộc thế hệ tiền bối cách
mạng của Thừa Thiên Huế và Hương Trà đã giác ngộ ý thức cách mạng cho nhiều quần
chúng, lôi cuốn họ đi theo Đảng. Dưới sự lãnh đạo của những cán bộ, đảng viên tại chỗ,
nhân dân Hương Văn đã đứng lên giành chính quyền thành công trong Cách mạng tháng
Tám 1945. Từ chi bộ ghép (Hương Thạnh) thành lập cuối tháng 3-1947, số lượng đảng
viên tăng nhanh để qua giữa năm 1948 nâng lên thành Đảng bộ và năm 1953 là thời điểm
có số lượng đảng viên cao nhất - riêng Hương Văn là 210 đồng chí (và là một trong số ít
đảng bộ có số lượng đảng viên đông nhất của Hương Trà). Sau Hiệp định Genève 1954,
phần lớn đảng viên đi tập kết hoặc rút vào hoạt động bí mật, hoặc bị địch khủng bố nên
đến giữa năm 1957 ở Hương Văn mọi hoạt động cách mạng bị tê liệt. Hương Văn trở
thành “vùng trắng” cho đến năm 1959. Từ năm 1960, phong trào cách mạng dần được
phục hồi, cán bộ bám địa bàn, tìm cách gây dựng lại cơ sở. Đặc biệt, từ phong trào đồng
khởi 1964-1965, hoạt động của đội công tác Hương Thạnh đã góp phần thúc đẩy cuộc
kháng chiến của nhân dân Hương Văn qua giai đoạn mới, quyết liệt hơn. Nhiều người con
Hương Văn đã ngã xuống, trong đó có nhiều đảng viên. Do đó, đến tháng 9-1971, toàn xã
Hương Thạnh chỉ có 2 chi bộ thôn với 10 đảng viên. Tuy số lượng ít nhưng các đảng viên
kiên trì bám địa bàn, lãnh đạo nhân dân góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước đi đến thắng lợi. Sau ngày đất nước thống nhất (1975), cùng với số đảng viên đi tập
kết về và bộ đội xuất ngũ, kết hợp với những đảng viên trưởng thành tại chỗ trong cuộc

179
kháng chiến, Đảng bộ Hương Văn lãnh đạo nhân dân nhanh chóng khắc phục hậu quả
chiến tranh, ổn định mọi mặt đời sống cũng như tổ chức bộ máy chính quyền và các đoàn
thể trong những ngày đầu thành lập xã. Từ những khó khăn trong các thập niên cuối thế kỉ
XX về công tác phát triển đảng viên mới, qua đầu thiên niên kỉ thứ ba, Đảng bộ Hương
Văn có sự trưởng thành vượt bậc về số lượng và chất lượng. Công tác tổ chức, kiểm tra
đánh giá xếp loại hàng năm thực hiện đúng quy định; Đảng bộ thường xuyên làm tốt công
tác tư tưởng để nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ; số đảng viên kết nạp mới hàng
năm tăng nhanh, đa phần đảng viên có trình độ văn hóa và chuyên môn cao, đủ sức đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao về lãnh đạo địa phương trong sự nghiệp công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước.
2. Bài học kinh nghiệm
Một là, luôn quán triệt cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Trải qua các thời
kì, dù là một phần của Phú Ốc, Hương Thạnh, Hương Phú hoặc là đơn vị hành chính độc
lập, nhân dân Hương Văn sớm có truyền thống yêu nước và cách mạng, luôn tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng. Từ quá trình vận động thành lập Đảng, nhân dân Hương Văn
nuôi dấu, đảm bảo an toàn cho nhiều cán bộ cách mạng lui tới hoạt động, gây dựng phong
trào. Từ những cơ sở đầu tiên, lực lượng cách mạng ngày càng lớn mạnh, thu hút đông
đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, kể cả một số người nằm trong bộ máy hào lý ở địa
phương. Nhờ sớm xây dựng được lực lượng vũ trang mà cuộc khởi nghĩa giành chính
quyền ở Hương Văn diễn ra nhanh chóng, ít đổ máu. Cách mạng tháng Tám 1945 thành
công, nhân dân Hương Văn tích cực tham gia xây dựng chính quyền mới và chuẩn bị mọi
mặt cho cuộc kháng chiến trường kì. Trong suốt 30 năm chiến tranh cách mạng, nhân dân
Hương Văn bất chấp mọi hi sinh, một lòng tin tưởng vào Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
bí mật đào hầm nuôi dấu cán bộ cách mạng, đảm bảo an toàn cho tuyến hành lang liên lạc
phía bắc Huế; hàng trăm con em Hương Văn tham gia lực lượng vũ trang, chiến đấu và hi
sinh. Đất nước thống nhất, bước vào thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân
Hương Văn nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, từng bước ổn
định đời sống. Từ năm 1984, khi đơn vị hành chính cấp xã độc lập chính thức thành lập,
nhân dân không ngừng vượt khó, từng bước đổi mới, để Hương Văn hôm nay tiến nhanh
trên con đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa, xứng đáng là một trong những phường

180
trung tâm của thị xã Hương Trà. Có thể khẳng định rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ,
dù trong những thời điểm cách mạng khó khăn nhất hay cũng như có điều kiện thuận lợi
để phát triển, nhân dân Hương Văn đã góp phần xứng đáng trong sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc cũng như dựng xây đất nước hôm nay. Do vậy, để thực hiện thành
công sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa, vấn đề khơi dậy, tập hợp và phát
huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân sẽ luôn là nhiệm vụ mang tính thường trực mà
Đảng bộ Hương Văn đặt ra cho mình trên hành trình phát triển.
Hai là, luôn quan tâm xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng.
Nhờ sớm có cơ sở Đảng hoạt động mà trước Cách mạng tháng Tám 1945, phong trào đấu
tranh cách mạng ở Hương Văn diễn ra khá liên tục. Qua hai cuộc kháng chiến, tuy tình
hình có những diễn biến thăng trầm nhưng thực tế cho thấy, lúc nào Đảng bám dân thì dân
sẽ bám đất, bám làng để nuôi dấu cán bộ, gây dựng và duy trì phong trào cách mạng.
Chính vì thế, có những thời điểm đen tối như sau khi mặt trận Huế vỡ, thực dân Pháp
chiếm đóng Hương Văn, đánh bật chi bộ, chính quyền và mặt trận ra khỏi địa bàn hoặc
những năm 1957-1959, Hương Văn bị biến thành “vùng trắng”; hoặc trong gian khó,
cũng có thời điểm, một số cán bộ chủ chốt của địa phương không giữ được bản lĩnh chính
trị và lập trường cách mạng, bị địch bắt, đầu hàng, phản bội hoặc dao động trước thời
cuộc…, gây nên những khó khăn nhất định cho sự lãnh đạo của Đảng bộ. Để lấy lại niềm
tin của quần chúng, các cán bộ, đảng viên trung kiên đã không quản ngại khó khăn, bất
chấp hi sinh hoặc làm đầu tàu gương mẫu để khôi phục cơ sở cách mạng, bảo đảm an toàn
cho tuyến liên lạc bí mật cũng như làm hậu phương tại chỗ, làm bàn đạp để các lực lượng
vũ trang triển khai đánh địch tại chỗ và phát triển vào Huế. Cũng như trong chiến tranh,
hòa bình lập lại, Đảng bộ bám sát chủ trương của cấp trên, lãnh đạo nhân dân từng bước
khắc phục khó khăn của thời hậu chiến hay của những ngày đầu lập xã, để tiến hành công
cuộc đổi mới, biến Hương Văn từ một làng quê thuần nông phát triển lên thành một
phường trung tâm của Hương Trà trên tiến trình đô thị hóa. Để đảm bảo đưa Hương Văn
đi đến đích của một đô thị văn minh, Đảng bộ cần nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của
mình. Muốn thế, tập thể Đảng ủy cũng như mỗi một đảng viên cần không ngừng phấn đấu
rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn và bản lĩnh chính trị, thực hành dân chủ chủ

181
rộng rãi trong Đảng bộ, xây dựng hệ thống chính trị thực sự là “của dân, do dân và vì
dân”.
Ba là, trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, vừa chăm lo phát triển toàn
diện đồng thời phải mạnh dạn tìm tòi, tìm ra khâu đột phá nhằm tạo nên chuyển biến hiệu
quả. Mục đích tối hậu của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng là đưa nhân
dân đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc, một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Để đạt
được mục đích đó, trong công tác hoạch định chính sách, Đảng bộ phải luôn chú trọng tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, đảm bảo sự phát triển phải gắn liền với
nâng cao chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người dân trong phường. Khuyến khích mọi
người làm giàu chính đáng nhưng không quên chăm lo, đầu tư cho các đối tượng chính
sách, gia đình neo đơn, người không nơi nương tựa để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
Tuy nhiên, phát triển đồng bộ không có nghĩa là dàn trải nguồn lực mà cần có đầu tư
trọng tâm, trọng điểm để tạo nên những đột phá trong nền kinh tế. Thực tế lịch sử đã cho
thấy, trong hai cuộc kháng chiến, để duy trì phong trào cách mạng, nhân dân Hương Văn
đã sáng tạo ra nhiều cách đánh địch linh hoạt, nhiều hình thức liên lạc hay đào hầm nuôi
dấu cán bộ độc đáo… Do đó, trong phát triển kinh tế, Hương Văn đã, đang và cần nhiều
hơn những mô hình làm ăn mới, như đã từng có. Chẳng hạn như trong nông nghiệp, bà
con thay đổi thời vụ canh tác lúa Hè Thu, hoặc áp dụng phương thức gieo thẳng thay cho
cấy, một số hộ mạnh dạn đưa những giống cây trồng mới có hiệu quả cao vào sản xuất…
Vì vậy, phát huy truyền thống đó, tận dụng lợi thế của địa bàn cận kề trung tâm hành
chính - kinh tế của thị xã, Hương Văn cần đẩy mạnh thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài
địa phương, nhằm đưa nền kinh tế chuyển dịch nhanh hơn theo hướng nâng cao tỉ trọng
của dịch vụ và công nghiệp trong tổng thu nhập, hoặc đầu tư, chuyển đổi cơ cấu cây trồng
hướng đến nền nông nghiệp sạch, chất lượng cao, có giá trị thu nhập lớn hơn trên cùng
diện tích canh tác… Có như vậy, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hương Văn mới
tương xứng với truyền thống và vị thế của mình trong tương quan chung với những
phường và xã khác của thị xã Hương Trà hôm nay và tương lai.

182

You might also like