You are on page 1of 2

Đất nướ c là đề tài muô n thuở củ a thi ca và nghệ thuật, hình hài đất nướ c đượ c ngườ i vợ , ngườ

, ngườ i chồ ng luô n đong đầy, khô ng lay chuyển. Nó gợ i lên ân tình thủ y sử đặc biệt mà nhân dân ta vẫn luô n ngợ i ca. Ngườ i anh hù ng giố ng năm xưa đã tự nhiênnhất họ đã truyền cho con cháu mình âm sắc tự nhiên nhất để thế hệ
khắc họ a muô n hình vớ i nhiều vẻ đẹp khác nhau từ nhữ ng gó c nhìn khác nhau. chung giữ a ngườ i vớ i ngườ i: “gừ ng càng già càng cay, muố i càng lâu càng mặn”, đánh đuổ i giặc ân bằng tất cả sự quả cảm, hết lò ng cứ u nướ c, cứ u dân. Từ đó sau này khô ng quên đi cộ i nguồ n, gố c gác.Chính lờ i ăn tiếng nó i hằng ngày đó
Tố hữ u tìm thấy đất nướ c trong dáng hình ngườ i anh hù ng, ngườ i mẹ. Chế Lan con ngườ i ở vớ i nhau càng lâu thì tình cảm càng đong đầy, càng thêm bền chặt. tạo cho ngườ i dân mộ t niềm tin sắt đá về sự can đảm, kiên cườ ng, mở ra bao đã tạo ra thứ củ a cải vô lâu đờ i và vô cù ng quý giá củ a dân tộ c: Tiếng Việt.Cù ng
Viên “tìm hình củ a nướ c” trong vị cha già Hồ Chí Minh. Nguyễn Trãi tự hào về Hình ảnh “cái kèo, cái cộ t thành tên” gợ i cho ta nhớ đến tụ c làm nhà cổ củ a con đườ ng đấu tranh cứ u nướ c về sau. Hình ảnh “chín mươi con voi” càng vớ i cách trên, họ luô n mang theo tên làng tên xã củ a họ trong mỗ i chuyến di
triều đại “Triệu, đinh, lý, Trần bao đờ i xây nền độ c lập”. Cò n Nguyễn Khoa điểm, ngườ i Việt xưa. Ngô i nhà là nơi mọ i ngườ i trong gia đình đoàn tụ , mang đến khẳng định tầm quan trọ ng củ a sự son sắt mộ t lò ng, tinh thần đoàn kết củ a dân. Điều này khô ng chỉkhẳng định lò ng yêu quý đố i vớ i quê hương, họ luô n
mộ t nhà thơ thờ i chố ng Mỹ lại tìm thấy vẻ đẹp củ a đất nướ c trong chiều sâu hạnh phú c ấm áp, gắn kết bao đờ i, gắn bó bao thế hệ. Có lẽ vậy mà tụ c đặt tên nhân dân ta dành cho đất nướ c. Chín mươi chín con voi đó quần tụ chung sứ c mộ t lò ng hướ ng về nơi chô n nhau cắt rố n. Chính vì lẽ nàymà đạo lý “uố ng nướ c
văn hó a, phong tụ c mang đậm dấu ấn tư tưở ng đất nướ c là củ a dân. Vẻ đẹp ấy con là cộ t, là kèo ra đờ i, vừ a giản dị, mộ c mạc, thân thương, vừ a tránh đượ c sự chung lò ng bao quanh đất tổ để bảo vệ vua Hù ng, bảo vệ nhân dân. Điều đó đã nhớ nguồ n” đã khắc sâu vào trong tâm trí củ a mỗ i con ngườ i. Họ gánh theo tên
củ a hình tượ ng đất nướ c đã đượ c Nguyễn Khoa điềm tập trung thể hiện mộ t dò m khó củ a ma quỷ theo quan niệm xưa. tạc dự ng trong lò ng ngườ i bao thế hệ bở i giá trị văn hó a hó a sáng ngườ i, thể làng cò nmuố n nhắc nhở con cháu họ , nhữ ng thế hệ sau biết về tổ tiên mình, để
cách tinh tế và số ng độ ng qua đoạn thơ: hiện phẩm chất tinh thần dân tộ c đậm nét củ a ngườ i Việt Nam ta. mọ i đứ a con đều biết quê hương mình, để mỗ i đứ a con đều có quê hương để
về.Chính nhân dân đã tạo nên đất nướ c này nên họ , họ đã đặt nền mó ng sự
Khô ng nhữ ng vậy, con ngườ i Việt cò n mang trong mình nhữ ng phẩm chất cần
số ng cho Đât Nướ c. Từ việc truyềnhạt gạo, chuyền lử a đến chuyền giọ ng nó i; và
“Khi lớ n lên đất nướ c đã có rồ i cù , chăm chỉ. Thành ngữ “mộ t nắng hai sương” chỉ sự chịu thương chịu khó củ a Tư tưở ng “Đất Nướ c củ a nhân dân” cũ ng thể hiện trong kì quan nổ i tiếng,
khô ng chỉ có thế, họ cò n là nhữ ng chiến binh, nhữ ng ngườ i dânanh dũ ng sẵn
Nướ c có trong nhữ ng cái ngày xử a ngày xưa mẹ thườ ng hay kể cha ô ng ta trong lao độ ng. Kết hợ p vớ i các độ ng từ “say, giã, giần, sàng” chỉ các nhữ ng tên tuổ i có cô ng vớ i dân vớ i nướ c:
sàng vù ng lên đánh nộ i thù , chố ng ngoại xâm để bảo vệ chính quên hương, Đất
Đất nướ c bắt đầu vớ i miếng trầu bây giờ bà ăn cô ng đoạn làm ra hạt gạo đã gợ i nhớ đến truyền thố ng nô ng nghiệp lú a nướ c “Nhữ ng con rồ ng nằm im gó p dò ng sô ng xanh thẳm
Nướ c mình tạora:
Đất nướ c lớ n lên khi dân mình biết trồ ng tre đánh mà đánh giặc lâu đờ i. Qua đó đã NKĐ muố n nhắc nhơ ngườ i đọ c phải biết trân trọ ng nhữ ng Ngườ i họ c trò nghèo giú p cho Đất Nướ c mình nú i Bú t, non Nghiên
“ Có ngoại xâm thì chố ng ngoại xâm
Tó c mẹ thì bớ i sau đầu hạt cơm mà ta ăn hằng ngày vì đó là mồ hô i cô ng sứ c củ a nhữ ng nô ng dân. Con có c, con gà quê hương cù ng gó p cho Hạ Long thành thắng cảnh
Có nộ i thù thì vù ng lên đánh bại”
Cha mẹ thương nhau bằng gừ ng cay muố i mặn Nhữ ng ngườ i dân nào đã gó p tên Ô ng Đố c, Ô ng Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Bằng cách sử dụ ng lố i điệp cấu trú c hô ứ ng, hai câu thơ cù ng vớ i sự phố i hợ p
Cái kèo, cái cộ t thành tên Hình ảnh con rồ ng là biểu tượ ng thiêng liêng ăn sâu vào tiềm thứ c củ a nhữ ng
Câu thơ cuố i cù ng chính là lờ i khẳng định củ a NKĐ về cộ i nguồ n củ a đất nướ c độ ng từ mạnh “chố ng”, “vù ng lên” khiến cho giọ ng thơ trở nên rắn rỏ i, cương
Hạt gạo mộ t nắng hai sương xay, giã, dần, sàng ngườ i Việt vớ i sự trù phú , quyền uy, thịnh vượ ng cho nhữ ng ướ c mơ khát vọ ng
vớ i niềm tự hào: quyết, đanh thép mà khô ng kém phần tình cảm. Bở i nhândân ta có truyền
Đất nướ c có từ ngày đó …” củ a nhân dân. Nhữ ng dò ng sô ng trên đất nướ c ta là do rồ ng nằm im bao đờ i
“Đất nướ c có từ ngày đó …” thố ng bất khuất chố ng giặc ngoại xâm, chính cái truyền thố ng tố t đẹp đó đượ c
Nguyễn Khoa Điềm là mộ t trong nhữ ng nhà thơ tiêu biểu nhất củ a thế hệ các nay, để nướ c ta có dò ng sô ng xanh thẳm, thơ mộ ng cho phù sa nướ c ngọ t, nhiều
“Ngày đó” là ngày nào ta khô ng rõ nhữ ng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền gieo trong mỗ icon ngườ i mà Đất Nướ c tuyệt vờ i này đượ c gìn giữ , độ c lập đến
nhà thơ trưở ng thành trong kháng chiến chố ng Mỹ. Thơ ô ng hấp dẫn ngườ i đọ c tô m cá. Nhữ ng ngườ i họ c trò dù nghèo khổ hay đủ đầy, nhữ ng ngườ i đã hết
thố ng đánh giặc, có phong tụ c ăn trầu, có tập quán làm nhà cộ t kèo, biết trồ ng tận bây giờ . Truyền thố ng ấy như: “làn só ng vô cù ng mạnh mẽ, to lớ n, nó lướ t
bở i sự kết hợ p hài hò a giữ a cảm xú c nồ ng nàn và suy tư sâu lắng củ a mộ t cô ng lò ng mình dự ng xây đất nướ c, giú p cho đất nướ c mình nú i Bú t, non Nghiên.
lú a nướ c, biết sinh ra nhữ ng câu chuyện cổ .. tất cả đều là biểu hiện củ a chiều qua mọ i sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nướ c và lũ
dân yêu nướ c đố i vớ i vai trò , trách nhiệm củ a thế hệ trẻ Việt Nam trong cô ng Chính điều đó đã mang đến tên tuổ i, độ ng lự c cho thế hệ sau này noi theo, phấn
sâu văn hó a, củ a bề dày lịch sử , chính là hiện thân củ a chiều sâu, bề dày đất cướ pnướ c”.
cuộ c chiến đấu củ a cả dân tộ c, đồ ng thờ i thể hiện nhữ ng suy nghĩ sâu sắc về đấu vì chữ nghĩa, cô ng danh, thành tài, làm rạng rỡ nền văn hiến đại Việt, đó
nướ c. Lờ i thơ củ a NKĐ vì vậy mà vô cù ng thiêng liêng và rất đỗ i tự hào.
nhân dân, đất nướ c qua trải nghiệm củ a chính mình. Đoạn trích Đất Nướ c thuộ c cũ ng chính là truyền thố ng hiếu họ c, vượ t khó vươn lên củ a nhân dân ta. Khô ng
Các nhà thơ khác trong lịch sử thườ ng chọ n khoảng cách khá xa, rộ ng, kì vĩ và
phần đầu chương V củ a trườ ng ca “mặt đườ ng khát vọ ng” đượ c Nguyễn Khoa chỉ đoàn kết, thuỷ chung, ngườ i Việt Nam cò n luô n cầu tiến, biết vượ t qua gian Đây là vẻ đẹp củ a sự thật lịch sử , vẻ đẹp là tiền đề cho văn hó a và nuô i dưỡ ng
lớ n lao để tô n tạo lên mộ t đất nướ c tráng lệ. Nhưng vớ i NKĐ thì lại khác, ô ng đã
điềm viết ở chiến khu Trị - Thiên 1971, in lần đầu 1974. Bản trườ ng ca viết về khó tiến về phía trướ c. Dù là con vật lớ n lao hù ng vĩ như voi rồ ng dũ ng mãnh văn hó a. Chỉ qua hai câu thơ vớ ilố i dù ng từ mộ c mạc giản dị, giọ ng thơ vừ a trữ
chọ n điểm nhìn gần gũ i để miêu tả mộ t đất nướ c bình dị, tự nhiên mà khô ng
sự thứ c tỉnh tuổ i trẻ đô thị ở miền Nam đang bị địch tạm chiếm. Ý thứ c đượ c sứ đến con có c con gà quê hương nhỏ bé đều đã và đang làm đẹp cho đất nướ c, tình vừ a tự sự đã khẳng định đượ c sứ c mạnh lớ n lao, to lớ n củ aNhân dân trong
kém phần thiêng liêng tươi đẹp. Hình ảnh đất nướ c gắn liền vớ i phong tụ c tập
mệnh củ a thế hệ mình trong cuộ c chiến đấu chung củ a dân tộ c để xuố ng đườ ng đều gó p vào nhữ ng địa danh thắng cảnh nhữ ng vẻ đẹp, nhữ ng giá trị văn hó a sự nghiệp giữ nướ c và dự ng nướ c.Từ việc đưa ra nhữ ng lý lẽ trên, đến đây, tư
quán truyền thố ng mang đậm dấu ận con ngườ i Việt. Đoạn thơ đã thể hiện cảm
đấu tranh vì mộ t Việt Nam độ c lập. Từ đó , nhà thơ khẳng định tư tưở ng lớ n: đất sâu sắc trọ n vẹn theo thờ i gian. Lờ i thơ ngân dung từ trái tim tự hào và biết ơn tưở ng về mộ t Đất Nướ c mớ i đã đượ c định nghĩa xong:
nghĩ mớ i mẻ củ a tác giả về đất nướ c qua nhữ ng vẻ đẹp đươc phát hiện ở chiều
nướ c là củ a nhân dân và nhân dân chính là ngườ i đã làm ra Đất nướ c. củ a thi sĩ để rồ i Hạ Long trở thành niềm tự hào củ a miền Bắc nó i riêng và Việt “Để Đất Nướ c này là Đất Nướ c củ a Nhân dân
sâu trên nhiều phương diện: địa lí, văn hó a, lịch sử ,.. Đó ng gó p riêng ở đoạn
Nam nó i chung. Dướ i ngồ i bú t củ a Nguyễn Khoa điểm, từ ng câu thơ biểu tượ ng Đất Nướ c củ a Nhân dân, Đất Nướ c củ a ca dao thần thoại
trích này là sự nhấn mạnh tư tưở ng “Đất Nướ c là củ a nhân dân” bằng hình thứ c
cho vẻ đẹp tâm hồ n: nhân hậu, trí tuệ, tài năng, dũ ng cảm củ a nhân dân. Cù ng Nhà thơ khẳng định chắc nịch “Đất Nướ c này là Đất Nướ c củ a nhân dân”, lờ i
Nguyễn Khoa điểm đã mở đầu đoạn trích củ a mình bằng lờ i hồ i đáp cho câu biểu đạt đầy suy tư, qua giọ ng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha.
vớ i các độ ng từ gó p, gó p lên, để lại đượ c Điệp lại đầy tinh tế đã và đang tô điểm khẳng định ấy đã thể hiện mộ t cách chân thành, mãnh liệt tình cảm củ a nhà thơ
hỏ i: “đất nướ c có từ bao giờ ?” Thành cô ng củ a đoạn thơ là việc sử dụ ng khó e léo các chất liệu củ a văn hoá dân
cho đất nướ c trở nên mớ i mẻ và đặc biệt qua nhữ ng câu thơ. Mộ t đất nướ c bình đố i vớ i dân tộ c. Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng, để có đượ c Đất Nướ c trườ ng tồ n,
“Khi ta lớ n lên nên đất nướ c đã có rồ i” gian như ăn trầu, bú i tó c, lú a nướ c, đánh giặc. Cù ng vớ i sự kết hợ p các thành
dị mộ c mạc, thân quen mộ t lần nữ a hiện lên trong dáng hình cần cù hết lò ng vì vĩnh cử u thì nhân dân hơn ai hết là nhữ ng ngườ i đã đổ máu xương, đổ cô ng sứ c
Hai chứ “Đất Nướ c” vang lên trong trang thơ đầy tha thiết, trìu mến. “Đất Nướ c” ngữ , ca dao và biệt pháp tu từ điệp cấu trú c, ẩn dụ , liệt kê. Ngô n ngữ mộ c mạc
tổ quố c non sô ng củ a nhân dân để gó p tên ô ng đố c, ô ng Trang, bà đen, bà Điểm. củ a mình để làm nên hình hài đất nướ c. Vì thế Đất Nướ c khô ng củ a riêng ai mà
đượ c hiểu là mộ t nơi cư trú củ a mộ t cộ ng đồ ng có cương giớ i, lãnh thổ riêng, có giản dị. Tất cả làm nên mộ t đoạn thơ đậm đà khô ng gian văn hó a dân tộ c Việt.
là củ a chung, củ a nhân dân và mãi mãi thuộ c về nhân dân. Ở câu thơ thứ hai,
sự gắn kết sâu sắc vớ i nhau về văn hó a, phong tuc tập quán, có tiếng nó i, ngô n
nhà thơ lại mộ t lần nữ a khẳng định “Đất nướ c củ a nhân dân, Đất Nướ c củ a ca
ngữ riêng, có truyền thố ng lịch sử , văn hiến lâu đờ i. Tù y theo từ ng thờ i kì lịch Để khẳng định và nhấn mạnh tư tưở ng “Đất nướ c củ a nhân dân” và chính
Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cù ng vớ i bản trườ ng ca “Mặt đườ ng dao thần thoại”. Điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nướ c củ a nhân dân”đượ c lặp lại như
sử , Đất Nướ c đượ c định nghĩa theo nhữ ng cách quan niệm khác nhau, đất nướ c nhândân vô tận, nhữ ng ngườ i vô danh khô ng tên khô ng tuổ i đã làm nên đất
khát vọ ng” vẫn giữ nguyên vẹn nhữ ng giá trị tố t đẹp ban đầu củ a nó và để lại ấn thêm mộ t lần nữ a nhấn mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng củ a nhân dân đố i vớ i
có thể thiêng liêng khi đó là “Nam đế cư”; trong văn họ c hiện đại, đất nướ c đẹp nướ c, ở đoạnthơ trên tác giả đã sử dụ ng rất thành cô ng điệp từ “gó p”, mộ t độ ng
tượ ng đẹp đẽ, đọ ng lại trong tâm tư củ a bao thế hệ con ngườ i Việt Nam trướ c Đất Nướ c. Vế thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh “Đất Nướ c củ a ca dao thần
lung linh, kì ảo, xa vờ i trong so sánh: Đất nướ c như vì sao - Cứ đi lên phía trướ c từ diễn đạt hànhđộ ng “cù ng mọ i ngườ i đưa cái riêng củ a mình vào thành cái
đây, bây giờ và cả sau này. Bản trườ ng ca củ a tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thoại”.Nhắc đến ca dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì hơn ai hết,
(Thanh Hải). Trong lý giải củ a NKĐ thì “Đất Nướ c là mộ t giá trị lâu bền, vĩnh chung”
thêm hiểu và yêu Đất nướ c đồ ng thờ i thô i thú c bản thân hành độ ng để bảo vệ Nhân dân lại là ngườ i tạo ra văn hó a, tạo ra ca dao thần thoại. Mà đất nướ c củ a
hằng, đất nướ c đượ c tạo dự ng, đượ c bồ i đắp qua nhiều thế hệ, đượ c truyền từ
và phát triển đất nướ c này. “ca dao thần thoại” nghĩa là Đất Nướ c tươi đẹp vô ngần như vầng trăngcổ tích,
đờ i này sang đờ i khác.” Cho nên “khi ta lớ n lên Đất Nướ c đã có rồ i”. Đó là lờ i
Tính khái quát củ a hình tượ ng thơ cứ đượ c nâng dần lên. Đó là mộ t hình dáng ngọ t ngào như ca dao, như nguồ n sữ a mẹ nuô i ta lớ n nên ngườ i. Và khô ng phải
khẳng định đầy sự tự hào mãnh liệt về sự trườ ng tồ n củ a đất nướ c qua ngàn
củ a tư thế truyền thố ng Việt Nam, truyền thố ng văn hiến củ a dân tộ c có bố n ngẫu nhiên tác giả nhắc tớ i hai thể loại tiêu biểu nhất củ a văn họ c dân gian.
năm lịch sử . “Ta” ở đây phải chăng là anh, là chị, là nhữ ng con ngườ i cò n số ng Đoạn thơ 12 câu này trích trong phần II củ a “Đất Nướ c” đã ca ngợ i mộ t Việt
nghìnnăm lịch sử : “Thần thoại” thể hiện cuộ c số ng qua trí tưở ng tượ ng bay bổ ng củ a nhân dân.
hay đã chết, là ta củ a quá khứ hay tương lai. Nam hù ng vĩ, tự hào khẳng định nhữ ng phẩm chất cao đẹp củ a dân tộ c ta. Câu
Và ở đâu trên khắp ruộ ng đồ ng gò bãi Cò n “ca dao” bộ c lộ thế giớ i tâm hồ n củ a nhân dân vớ i tình yêu thương, vớ i sự
thơ mở rộ ng đến 13, 14, 15 từ , nhưng vẫn thanh thoát, nhịp nhàng, giàu âm lãng mạn cù ng vớ i tinh thần lạc quan. Đó là nhữ ng tác phẩm do nhân dân sáng
Chẳng mang mộ t dáng hình, mộ t ao ướ c, mộ t lố i số ng ô ng cha
điệu và nhạc điệu gợ i cảm: tạo, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồ n, bản sắc dân tộ c mộ t cách
Ba câu thơ tiếp theo nhà thơ Nguyễn Khoa điểm đã miêu tả vẻ đẹp củ a đất nướ c Ô i Đất Nướ c sau bố n ngàn năm đi đâu ta cũ ng thấy
“Nhữ ng ngườ i vợ nhớ chồ ng cò n gó p cho Đất Nướ c nhữ ng nú i Vọ ng Phu đậm nét nhất.
trong chiều sâu văn hó a, phong tụ c tập quán. Điệp ngữ “đất nướ c” kết hợ p các Nhữ ng cuộ c đờ i đã hoá nú i sô ng ta…
Cặp vợ chồ ng yêu nhau gó p nên hò n Trố ng Mái
từ ngữ “có trong”, “bắt đầu”, “lớ n lên” đã diễn tả thật lãng mạn về nguồ n gố c củ a Nhìn ra trên mọ i miền Đất Nướ c củ a Tổ quố c Việt Nam, nhữ ng tên nú i, tênsô ng,
Gó t ngự a củ a Thánh Gió ng đi qua cò n trăm ao đầm để lại
đất nướ c: tên làng, tên bản, tên ruộ ng đồ ng , gò bãi… đều mang đậm “mộ t dáng hình,
Chín mươi chín con voi gó p mình dự ng đất tổ Hù ng Vương NKĐ đã từ ng tâm sự : “Đất Nướ c củ a nhữ ng ngườ i khác là nhữ ng huyền thoại,
“Đất nướ c có trong nhữ ng cái ngày xử a ngày xưa mẹ thườ ng hay kể mộ tao ướ c, mộ t lố i số ng ô ng cha”. Chính cuộ c đờ i củ a cha ô ng ta – nhữ ng ngườ i
Nhữ ng con rồ ng nằm im gó p dò ng sô ng xanh thẳm nhữ ng anh hù ng. Nhưngđố i vớ i tô i Đất Nướ c là củ a con ngườ i vô danh, củ a
Đất nướ c bắt đầu vớ i miếng trầu bây giờ bà ăn dânkhô ng tên tuổ i – đã làm nên Đất Nướ c. Tất cả đều do nhân dân tạo ra, đều
Ngườ i họ c trò nghèo giú p cho Đất Nướ c mình nú i Bú t, non Nghiên ngườ i dân”. Có lẽ bở i vì chính tư tưở ng đó mà thơ củ a ô ngluô n mang tính sáng
Đất nướ c lớ n lên khi dân mình biết trồ ng tre mà đánh giặc” kết tinh từ cô ng sứ c và khát vọ ng củ a nhân dân – nhữ ng con ngườ i bình thườ ng,
Con có c, con gà quê hương cù ng gó p cho Hạ Long thành thắngcảnh tạo, đi sâu vào trong tâm trí ngườ i đọ c, và đến tận bây giờ nhữ ng vần thơ củ a
Trướ c hết, đất nướ c có trong truyện cổ tích “ngày xử a ngày xưa”. Điệp ngữ “đất vô danh. Nhưng tầm vó c củ a Đất Nướ c và nhân dân khô ng chỉ trên bình diện
Nhữ ng ngườ i dân nào đã gó p tên Ô ng Đố c, Ô ng Trang, Bà Đen,Bà Điểm ô ng khô ngnhuố m màu bụ i xám mà luô n đượ c mọ i ngườ i biết đến.
nướ c” đượ c nhắc lại nhiều lần tạo nhịp điệu dồ n dập làm đoạn thơ giàu tính địa lí “mênh mô ng” màcò n ở dò ng chảy thờ i gian lịch sử “bố n nghìn năm” “đằng
Và ở đâu trên khắp ruộ ng đồ ng gò bãi
nhạc. Tác giả liệu văn họ c dân gian để diễn tả về cộ i nguồ n lãng mạn củ a đất đẵng”.Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và đượ c viết theo thể tự do. Câu
Chẳng mang mộ t dáng hình, mộ t ao ướ c, mộ t lố i số ng ô ng cha
nướ c. Đố i vớ i trẻ thơ, đất nướ c thân thương qua lờ i kể “ngày xử a ngày xưa” củ a thơ mở rộ ng kéo dài nhưng khô ng nặng nề mà biến hoá linh hoạt làm cho đoạn Và khi nó i đến “Đất nướ c củ a Nhân dân”, mộ t cách tự nhiên, tác giả trở về vớ i
Ô i Đất Nướ c sau bố n ngàn năm đi đâu ta cũ ng thấy
bà, củ a mẹ. “Ngày xử a ngày xưa” cũ ng là nhắc tớ i cách lý giải củ a nhân dân về thơ giàu sứ c biểu hiện và sứ c khái quát cao. Đó là hình ảnh “Đất Nướ c củ a nhân cộ i nguồ n phong phú đẹp đẽ củ a văn hó a, văn họ c dân gian mà tiêu biểu là
Nhữ ng cuộ c đờ i đã hoá nú i sô ng ta…”
sự hình thành và phát triển đất nướ c, về quá trình dự ng nướ c và giữ nướ c, qua dân” – nhân dân đã hoá thành đất nướ c. Bở i trên khắp ruộ ng đồ ng gò bãi, nú i trong ca dao. Vẻ đẹp tinh thần củ a nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó
Tư tưở ng “Đất Nướ c củ a nhân dân” khiến cho nhữ ng địa danh ngàn đờ i củ a Tổ
đó nhà thơ đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về truyền thố ng cha ô ng, về bên sô ng đâu đâu cũ ng là hình ảnh củ a văn hoá, củ a đờ i số ng tâm hồ n, cố t cách củ a trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Ở đây tác giả chỉ chọ n lọ c ba câu để nó i về
quố c qua cái nhìn sắc sảo đầy khám phá củ a nhà thơ chính là sự hoá thân củ a
đây lịch sử , về kho tàng văn họ c văn hó a dân gian đặc sắc. Vớ i Nguyễn Khoa Việt Nam. ba phương diện quan trọ ng nhất củ a truyền thố ng nhân dân, dân tộ c:
nhữ ng con ngườ i bình dị, vô danh nhữ ng con ngườ i “khô ng ai nhớ mặt đặt tên”
điềm thì đất nướ c cũ ng đượ c hình thành từ nhữ ng nét số ng giản dị nhất củ a Dạy anh biết yêu em từ thở trong nôi
“nhưng họ đã làm ra đất nướ c”
ngườ i mẹ và chính ngườ i bà. Hình ảnh miếng trầu bây giờ bà ăn gợ i nhớ đến Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Khô ng cò n là mộ t khái niệm trừ u tượ ng, chung chung; Nguyễn Khoa Điềm lý
truyện cổ tích sự tích châu câu, gợ i nhớ phong tụ c ăn trầu có từ xưa đó là Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
giải khái niệm Đất Nướ ctừ :“ Đất là nơi anh đến trườ ng/ Nướ c là nơi em tắm”
truyền thố ng củ a ngườ i Việt Nam. Miếng trầu vừ a có giá trị vật chất, vừ a mang “Nhữ ng ngườ i vợ nhớ chồ ng cò n gó p cho Đất Nướ c nhữ ng nú i Vọ ng Phu Đi trả thù mà không sợ dài lâu
sau đó mớ i “ Đất Nướ c là nơi dân mình đoàn tụ ”. Chính vì lý giải mộ t cách rõ
giá trị tinh thần: đố i vớ i tuổ i trẻ, miếng trầu là biểu tượ ng tình yêu, đố i vớ i Cặp vợ chồ ng yêu nhau gó p nên hò n Trố ng Mái” Chứ c năng củ a ca dao, nó i như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Chứ c năng ấy cù ng
ràng, rành mạch như thế thì ở đây tác giả mớ i có thể khẳng định chắc chắn rằng
ngườ i già miếng trầu là biểu tượ ng củ a nghĩa tình, đố i vớ i tiền thân miếng trầu Nhữ ng địa danh, nhữ ng hình sô ng thế nú i mang hình ngườ i, linh hồ n dân tộ c. vớ i ý nghĩa củ a nó đượ c thể hiện qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất,
Đất Nướ c này củ a củ a nhân dân ta.
là nhịp cầu giao cảm giữ a con cháu và bậc tiền nhân tiên tổ . Đố i vớ i NKĐ hay Chú ng là sự tượ ng hình kết tinh đờ i số ng văn hoá tinh thần củ a nhân dân mang Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủ y chung trong tình yêu củ a con
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lú a ta trồ ng
bất kì nhữ ng nhà thơ nàom đất nướ c khô ng hề vô tri, vô giác mà đất nướ c có đậm chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo Việt Nam. Ở vớ i biện pháp nghệ thuật liệt kê ngườ i Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao “Yêu em từ thuở trong nô i/ Em nằm em
Họ chuyền lử a qua mỗ i nhà từ hò n than qua con cú i”
dạng, có hồ n, vẻ đẹp ngất ngây trong con mắt nghệ thuật. Từ “lớ n lên” chỉ sự kết hợ p vớ i sự xuất hiện hang loạt nhữ ng địa danh nố i tiếp nhau nhà thơ đã khó c, anh ngồ i anh ru”. Nhà thơ đã viết nên lờ i chân tình củ a chàng trai đang
Xuất hiện từ rất sớ m, nền văn minh lú a nướ c đã nuô i số ng biết bao thế hệ ô ng
trưở ng thành củ a đất nướ c qua quá trình dự ng nướ c và giữ nướ c. Hình ảnh khắc họ a mộ t cách trọ n vẹn thiên nhiên Việt Nam tươi đẹp trải dài tuyệt mỹ, yêu“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tình yêu củ a chàng trai ấy khô ng
cha ta. Trong cô ng việcsản xuất, lao độ ng thườ ng ngày nhân dân ta đã làm ra
“trồ ng tre mà đánh giặc” gợ i cho ta về truyền thuyết Thánh Gió ng - mộ t cậu bé diễm lệ từ Bắc tớ i Nam. Trong bứ c tranh đầy màu sắc ấy ta bắt gặp bó ng dáng phải là ngọ n gió thoáng qua, khô ng phải là lờ i củ a bướ m ong mà là lờ i nó i là
hạt gạo; điều này khô ng chỉ nuô i số ng chính bản thân họ mà cò n gó p phần thú c
mớ i ba tuổ i đã biết cất tiếng nó i trách nhiệm vớ i quê hương, vớ i tổ quố c, là mộ t củ a nhân dân vớ i vô vàn câu chuyện nằm sâu trong tiềm thứ c củ a bao thế hệ đã nghĩ suy chân thật. Ý thơ đã khẳng định đượ c mộ t tình yêu thủ y chung bền
đẩy và phát triển nền nô ng nghiệp nướ c ta. Và cho đến bây giờ , việc trồ ng lú a
hình ảnh ẩn dụ chỉ sự vươn lên kì vĩ củ a mộ t dân tộ c bé nhỏ nhưng rất đỗ i anh qua, từ ng câu chuyện gắn liền vớ i từ ng bài họ c mà ô ng bà xưa truyền lại cho vữ ng khô ng gì có thể đếm đong đượ c. Nhân dân dạy ta biết yêu thương lãng
nướ c vẫnđượ c ngườ i dân lưu truyền đồ ng thờ i cò n giú p giữ gìn thó i quen sản
hù ng. Tác giả đã đem hình tượ ng cây tre và Thánh Gió ng song hành vớ i nhau con cháu. Nú i Vọ ng Phu, hò n trố ng mái đã đi vào huyền thoại cổ tích, biểu mạn, đắm say thủ y chung vớ i nhữ ng câu ca dao ấy. Đây là phát hiện mớ i củ a
xuất sinh hoạt củ a ô ng cha ta.Đi liền vớ i việc giữ và truyền hạt lú a để dân ta
thể hiện phẩm chất con ngườ i Việt Nam: thật thà, đô n hậu, tinh thần hiên ngang tượ ng cho nhữ ng phẩm chất củ a long thuỷ chung son sắt, tình nghĩa vợ chồ ng Nguyễn Khoa Điềm. Bở i lẽ từ xưa đến nay nó i đến nhân dân ngườ i ta thườ ng
sinh tồ n là sự truyền giữ ngọ n lủ a từ đờ i này sang đờ i khác. Hìnhảnh ngọ n lử a
bất khuất, quyết mộ t lò ng chiến đấu cho Tổ Quố c, cho dân tộ c. thiết tha cảm độ ng. Hò n Vọ ng Phu Ở lạng Sơn, thanh hó a, Bình Định… gợ i về nghĩ đến nhữ ng phẩm chất cần cù chịu khó , bất khuất kiên cườ ng. Cò n ở đây
cò n đại diện cho mộ t bướ c phát triển khác củ a loài ngườ i đó là phát hiện ra lử a.
câu chuyện nàng Tô Thị bô ng con đợ i chồ ng sau khi chết hó a than thành đá, giữ tác giả lại ngợ i ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, nhữ ng mố i tình từ
Ngọ n lử a đem lạiánh sáng cho bao ngô i nhà, giú p sưở i ấm qua bao đêm rét lạnh
đú ng long chung thủ y và thích hạnh củ a mình. Nhữ ng hình nú i đượ c tạo nên thưở ấu thơ cho đến lú c trưở ng thành.
Đến bố n câu tiếp theo, nhà thơ NKĐ ca ngợ i nhữ ng truyền thố ng, vẻ đẹp thuần buố t và xua đuổ i cả thú dữ . Đưa con ngườ i từ sinh số ng bằng săn bắt hái lượ m
bằng tình nghĩa vợ chồ ng do nhữ ng ngườ i vợ nhớ chồ ng, cặp vợ chồ ng yêu
phong mỹ tụ c củ a chính con ngườ i Việt: sang ăn chín uố ng sô i.
nhau cù ng tô điểm làm đẹp nên dáng hình đất nướ c. Hình trô ng máy ở Quảng
“Tó c mẹ thì bớ i sau đầu Ở phương diện thứ hai, Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm số ng
Ninh Hạ Long, Sầm Sơn Thanh hó a đã gợ i về câu chuyện chàng ngư phủ cù ng
Cha mẹ thương nhau bằng gừ ng cay muố i mặn đẹp đẽ, sâu sắc, ca dao đã “dạy anh biết” – Số ng trên đờ i cần quý trọ ng tình
vợ tiên cù ng nhau hò a đã để kết duyên mãi mãi. Đó đã gử i lại thế hệ sau bao Ngọ n lử a cò n cho thấy đượ c cô ng cuộ c giữ nướ c gian lao mà tổ tiên đã trải qua:
Cái kèo, cái cộ t thành tên nghĩa, phải “Biết quý cô ng cầm vàng nhữ ng ngày lặn lộ i”. Câu thơ ấy lấy ý từ ca
khát vọ ng, ướ c mơ tình yêu đô i lử a vữ ng vàng bên thật. Hai hình ảnh ấy khô ng “ hỏ a mai đánh bằng rơm con cú i cũ ng đố t xong nhà dạy đạo kia”
Hạt gạo mộ t nắng hai sương say, giã, giần, sàng” dao “Cầm vàng mà lộ i qua sô ng/Vàng rơi khô ng tiếc tiếc cô ng cầm vàng”. Nhân
chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà cò n là biểu tượ ng cho vẻ đẹp tâm hồ n củ a nhân Tinh thần yêu nướ c, bất khuất chố ng ngoại xâm cũ ng từ đây mà có . Chỉ bằng
Có phải chăng hình tượ ng củ a ngườ i mẹ, ngườ i phụ nữ vớ i bú i tó c sau đầu đã dân đã dạy ta rằng: ở đờ i này cò n có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọ c ngà…
dân, trở thành lờ i nhắn nhủ cho tình yêu đô i lử a thắm thiết, tình nghĩa vợ nhữ ng vật liệu thô sơ nhưng nhờ vào lò ng yêu nướ c, tinh thần dân tộ c nhân dân
làm sáng tỏ sự kín đáo, giản dị, rất nhẹ nhàng mà chân thành trong cách ăn mặc Đó là tình nghĩa giữ a con ngườ i vớ i con ngườ i. Bở i vậy, nghĩa vớ i tình cò n nặng
chồ ng thủ y chung, mộ t phần tình cảm quan trọ ng đã gó p phần nên đất nướ c ta cũ ng có thế đánh tan quân thù , họ là nhữ ng con ngườ i anhdũ ng, kiên cườ ng,
củ a con ngườ i Việt Nam. Nét đẹp củ a ngườ i phụ nữ ấy khiến ta liên tưở ng đến hơn nhiều lần giá trị vật chất.
hò a hợ p hạnh phú c. họ hiện ra vớ i mộ t lịch sử hào hù ng và đáng quý trọ ng.
câu thơ:
“Họ truyền giọ ng điệu cho con mình tập nó i
“Tó c ngang lưng vừ a chừ ng em bú i Khô ng dừ ng lại ở đó , họ cò n đứ ng lên cù ng vớ i sự nghiệp dự ng nướ c đầy gian Họ gánh theo tên làng tên xã trong mỗ i chuyến di dân” Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và
Để chi dài bố i rố i lò ng anh” lao củ a vua Hù ng: Mộ t nét đẹp văn hó a khác mà khi nhắc đến mộ t Đất Nướ c thườ ng đượ c đề cập chiến đấu “Biết trồ ng tre đợ i ngày thành gậy/ Đi trả thù mà khô ng sợ dài lâu”.
Vẻ đẹp củ a con ngườ i Việt cò n ở chính phẩm chất chung thủ y trong cố t cách củ a “Gó t ngự a củ a Thánh Gió ng đi qua cò n trăm ao đầm để lại đến đó chính là giọ ngnó i. Tiếng Việt ta thườ ng biết đến là mộ t thứ tiếng mang Hai câu thơ đã gợ i lại biết bao cuộ c kháng chiến oanh liệt, trườ ng kì củ a nhân
mình. Thành ngữ “gừ ng cay muố i mặn” đượ c vận dụ ng vô cù ng độ c đáo, nhẹ Chín mươi chín con voi gó p mình dự ng đất Tổ Hù ng Vương” nhiều âm sắc mà chính nó đã làm cho tiếng Việt trở nênđặc biệt. Trong cuộ c dân trong biết bao cuộ c chiến vệ quố c vĩ đại. Từ thuở lập nướ c, ô ng cha ta đã
nhàng mà thấm đẫm vào câu thơ. Gừ ng thì tất nhiên phải cay, muố i tất nhiên Vớ i vần thơ hào hù ng gợ i lên truyền thố ng đánh giặc cứ u nướ c vẻ đẹp củ a anh số ng thườ ng ngày, ngườ i dân sử dụ ng tiếng nó i để giao tiếp qua đó , bằng cách luô n phải đương đầu vớ i nạn ngoại xâm. Cuộ c chiến đấu giành độ c lập tự do
phải mặn, đó là nguyên lí củ a tạo hó a cũ ng như chính tình cảm củ a nhữ ng hù ng làng gió ng. 100 ao đầm, đất tổ Hù ng Vương đã mang theo câu chuyện lịch
nào cũ ng kéo dài hàng chụ c năm, thậm chí hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm thiêng liêng củ a nhữ ng ngườ i có chung mộ t bao thai đồ ng bào. Đoàn tụ thô ng
Bắc thuộ c nhân dân vẫn đứ ng lên giành chủ quyền, rồ i đến 100 năm đô hộ giặc thườ ng dù ng để chỉ nhữ ng ngườ i gặp gỡ lại nhau sau bao ngày xa cách nhưng
Tây… thử hỏ i nếu khô ng có sự kiên trì bền bỉ và khát vọ ng tự do mãnh liệt, dân dườ ng như đoàn tụ mà nhà thơ muố n nó i đến là sự hộ i tụ gặp gỡ củ a nhân dân
tộ c bé nhỏ này làm sao có thể vượ t qua bao nhiêu khó khăn gian khổ , mất mát trên mộ t khô ng gian địa lý. Hình ảnh chim và dù ng cũ ng như đất nướ c đượ c
hi sinh để đến ngày toàn thắng. nhà thơ dù ng lố i viết hoa để từ mộ t danh từ chung cụ thể hó a thành danh từ
riêng củ a hai nhân vật huyền thoại Lạc long Quân và âu cơ. Cách viết hoa này
cũ ng đượ c xem là mộ t thủ pháp nghệ thuật làm nổ i bật hình tượ ng đượ c nó i
Bố n câu thơ cuố i: Hình ảnh ngườ i chèo đò , kéo thuyền vượ t thác cất cao tiếng
đến và thái độ trân trọ ng củ a nhà thơ dành cho đất nướ c, cho tổ tiên, giố ng nò i
hát là mộ t biểu tượ ng nó i lên sứ c mạnh Nhân dân chiến thắng mọ i thử thách,
mình. Định nghĩa đất nướ c dự a trên truyền thuyết giải thích dò ng máu con
lạc quan tin tưở ng đưa Đất Nướ c đi tớ i mộ t ngày mai vô cù ng tươi sáng:
rồ ng cháu tiên khô ng phải là mớ i mẻ. Tuy nhiên cái thú vị củ a Nguyễn Khoa
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
điểm là từ chỗ chất liệu cũ mà tìm ra đượ c cách thể hiện mớ i. Đó là hình ảnh đã
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
đi sâu vào tiềm thứ c dân gian làm nên bản sắc dân tộ c. Bản sắc đất nướ c đã hò a
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
cù ng bán sách nhân dân, đó khô ng khác gì là nhân dân đã tạo ra đất nướ c.
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…
Câu thơ gợ i cho ta hình ảnh củ a nhữ ng dò ng sô ng, nhữ ng dò ng sô ng khô ng biết
đến từ bến bờ nào nhưng khi hò a vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu Nhìn Đất Nướ c trong cả chiều dài thờ i gian, chiều rộ ng khô ng gian, Đất Nướ c
hò . Câu thơ củ a Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ đến nhữ ng điệu hò hù ng tráng cò n là sự kết nố i nhữ ng thế hệ đã qua và thế hệ kế tụ c:
trên sô ng Mã, điệu ca Huế ngọ t ngào trên sô ng Hương và điệu hò kéo lướ i mạnh “Nhữ ng ai đã khuất
mẽ ở miền Trung, hay đờ n ca tài tử tha thiết trên sô ng Tiền, sô ng Hậu ở miền Nhữ ng ai bây giờ
Nam. Và “dò ng sô ng” ấy vừ a có ý nghĩa là dò ng sô ng củ a quê hương đất nướ c Yêu nhau và sinh con đẻ cái
nhưng vừ a có ý nghĩa là dò ng sô ng Văn Hó a, dò ng sô ng Lịch sử . Dân tộ c ta có 54 Gánh vác phần ngườ i đi trướ c để lại
dân tộ c anh em, là 54 dò ng chảy văn hó a đa dạng “trăm màu, trăm dáng”. Và đó Dặn dò con cháu chuyện mai sau
chính là sự đa dạng và phong phú củ a văn hó a Việt Nam đã vun đắp phù sa qua Hằng năm ăn đâu làm đâu
bao năm tháng thăng trầm để làm nên mộ t đất nướ c đậm đà bản sắc dân tộ c. Cũ ng biết cú i đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Qua cách sử dụ ng điệp ngữ kết hợ p điệp cấu trú c nghệ thuật đố i nhữ ng “ai đã
khuất” vớ i “nhữ ng ai bây giờ ” để khẳng định nhữ ng thế hệ nố i tiếp nhau. Để tạo
Đoạn thơ đã để lại âm hưở ng ca dao, dân ca đặc sắc nhưng khô ng lấy lại nguyên
bề dày văn hó a, lịch sử Để tạo nên bề dày văn hó a, lịch sử củ a Đất Nướ c, chắc
văn mà sáng tạo làm nên mộ t ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu tính triết lý.
chắn là sự bồ i đắp , tiếp nố i củ a biết bao thế hệ cháu con đã ngã xuố ng, hy sinh
Điệp ngữ “Đất Nướ c” đượ c nhắc lại nhiều lần cù ng vớ i việc nhà thơ luô n viết
vì độ c lập dân tộ c. Tác giả đã liệt kê mộ t loạt nhữ ng độ ng từ : yêu nhau, sinh con
hoa hai từ “Đất Nướ c” tạo nên mộ t tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non
đẻ cái, gánh vác, dặn dò ,.... Từ đó nhà thơ đã cụ thể hó a nhữ ng trách nhiệm,
sô ng gấm vó c Việt Nam.
nhiệm vụ to lớ n thiêng liêng vớ i đất nướ c. Đất Nướ c sáng mãi trong tâm khảm
mỗ i ngườ i bở i sự nhữ ng hi sinh vĩ đại, lớ n lao, bở i tinh thần dân tộ c như ngọ n
Nếu như đoạn đầu Đất Nướ c, NKĐ khơi nguồ n cho tâm hồ n ngườ i đọ c tìm về lử a vĩ đại tiếp nố i bao thế hệ. Hai chữ "cú i đầu" thể hiện niềm thành kính thiêng
cộ i nguồ n để lý giải sự hình thành củ a Đất Nướ c thì đoạn thơ thứ hai, đô i mắt liêng, để hướ ng về lịch sử các vua Hù ng đã có cô ng dự ng nướ c. "Cú i đầu" để tri
củ a NKĐ đặt hình ảnh đất nướ c trong chiều rộ ng củ a khô ng gian địa lí, trong ân, để tâm nguyện vớ i lò ng mình phải giữ lấy đạo lý "uố ng nướ c nhớ nguồ n",
chiều dài củ a thờ i gian lịch sử và trong mố i quan hệ gắn bó củ a mỗ i cá nhân. "ăn quả nhớ kẻ trồ ng cây". Ngườ i Việt dù đi đâu về đâu trên mọ i nẻo đườ ng, ở
quê hương hay nơi xứ ngườ i nhưng đều mộ t lò ng hướ ng về quê cha đất tổ , nhớ
về vua Hù ng như mộ t ngô i nhà chung để họ cù ng trở về trong cái nô i văn hó a
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có cách định nghĩa mớ i mẻ, cụ thể về đất nướ c. đầy yêu thương, gắn bó .
Vớ i ô ng, đất nướ c là nhữ ng gì bình dị, gần gũ i và thân thuộ c vớ i mỗ i con ngườ i:
“Đất là nơi anh đến trườ ng
Nướ c là nơi em tắm Đất nướ c khô ng xa xô i mà chính là nhữ ng điều bình dị nhất gắn bó vớ i mỗ i
Đất Nướ c là nơi ta hò hẹn” conngườ i. Qua nhữ ng lờ i thơ sâu sắc đó , tác giả muố n gử i gắm thô ng điệp về
Ô ng đã mượ n lờ i đố i đáp thân thương giữ a lứ a đô i để mang đến hình ảnh đất trách nhiệm vớ i đấtnướ c củ a mỗ i cá nhân.
nướ c khô ng trừ u tượ ng mà cụ thể. Tác giả đã khéo léo tách thành nướ c thành
hai thành tố “đất” và “nướ c” để định nghĩa. Vớ i nhà thơ, đất nướ c là nhữ ng nơi
hiện hữ u trong cuộ c số ng thườ ng ngày củ a mỗ i ngườ i, đó là “nơi anh đến
trườ ng”, là “nơi em tắm”. Ngô i trườ ng là nơi anh gắn bó biết bao kỷ niệm tươi
đẹp, cho anh kiến thứ c và dạ y anh cách làm ngườ i. Cò n nơi em tắm ý chỉ dò ng
sô ng mát trong êm đềm, chả suố t bao tháng năm, gắn liền vớ i cuộ c số ng sinh
hoạt, lao độ ng thườ ng ngày. Khô ng chỉ có vậ y, đó cò n là “nơi ta hò hẹn”. Thì ra,
đất nướ c hiện ra trong thơ NKĐ lại gần gũ i đến thế, nơi riêng tư hò hẹn, mộ t
khô ng gian nhỏ củ a lứ a đô i cũ ng chính là đất nướ c. Đất nướ c trong quan điểm
củ a nhà thơ là nơi chờ đợ i trong nhớ nhung củ a ngườ i con gái dành cho ngườ i
thương củ a mình, để rồ i “đánh rơi chiếc khăn trong nỗ i nhớ thầm”. Điệp ngữ
đất nướ c đứ ng đầu mỗ i câu thơ nhấn mạnh đất nướ c chính là cảm hứ ng khở i
nguồ n cho mạch thơ dâng trào trên đầu bú t. Mỗ i lần xuất hiện là hình tượ ng
đất nướ c thêm mộ t khám phá mớ i mẻ. Điều mà nhà thơ muố n nó i là mố i quan
hệ máu thịt giữ a tình yêu đô i lử a vớ i tình yêu quê hương, đất nướ c, giữ a khái
niệm về nhữ ng điều bình dị hằng ngày vớ i định nghĩa về đất nướ c trọ n vẹn.

Mộ t lần nữ a, khi nhân cách thiếu tủ tích nướ c thành đất bẩn nướ c và mỗ i thành
tố như thể gắn vớ i hai đố i tượ ng thiêng liêng củ a tổ quố c là rừ ng và biển:
“Mảnh đất nơi “phượ ng hoàng bay về nú i bạc”
Mặt nướ c là nơi “mó ng vuố t củ a ngư dân nướ c biển”
Con chim phượ ng hoàng là huyền thoại, hình nú i bạc là ướ c mơ sung tú c, anh
Bình cũ ng như là trố n trở về. Huyền thoại, ướ c mơ làm nên văn hó a dân gian,
mà văn hó a dân gian làm nên đất nướ c. Hình tượ ng con cá ngư ô ng số ng trong
hồ và Trườ ng Tồ n trong tâm thứ c củ a dân gian về mộ t vị thánh thần phù trợ
cho biển yên số ng lặng, cho cuộ c số ng ấm no, hạnh phú c. Chim về rừ ng, cá ra
khơi, đất nướ c từ đây mở ra hai hình ảnh to lớ n thiêng liêng. Kết hợ p vớ i nhữ ng
miền khô ng gian sinh hoạt, khô ng gian lao độ ng từ con đườ ng đến trườ ng,
dò ng sô ng, cây đa, bến nướ c hẹn hò đến nú i rừ ng đại 1000 và biển cả bao la, cái
nhìn củ a nhà thơ đi từ cụ thể đến bao quát, từ gần đến xa, khô ng gian đất nướ c
liên tụ c mở ra trướ c mắt.

Nhữ ng câu thơ tiếp theo, đất nướ c đượ c định nghĩa trên bình diện củ a thờ i gian
lịch sử mà ở đó có sự chuyển tiếp củ a bình diện khô ng gian.
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông”
Hai câu thơ dầu tính hình tượ ng vớ i từ lấy tượ ng hình đăng đẳng, minh mô ng
gắn vớ i phạm trù thờ i gian và khô ng gian đất nướ c. Ở đó đằng đẵng vừ a có
nghĩa chiều dài thờ i gian vô tận, vừ a tạo cảm giác cho ngườ i nghe về sự chuyển
miên, xuyên suố t. Minh mô ng tạo hình ảnh đất nướ c rộ ng lớ n khô ng biên giớ i.
Việc kết nố i này, nhà thơ khắc họ a đượ c quá trình phát triển củ a đất nướ c vừ a
mở rộ ng ra theo chiều ngang, chiều cao địa lý vừ a vườ n mình theo chiều sâu
củ a thờ i gian. Câu thơ cũ ng là khát vọ ng bất tử , trườ ng tồ n củ a đất nướ c đượ c
nhữ ng kiểu khó a trong dò ng chảy củ a thờ i gian khô ng gian.
Theo thờ i gian nhà thơ cắt nghĩa đất nướ c trong bản thích gần gũ i đờ i thườ ng
và cả bản sách nồ ng nàn, bình dị mang chồ ng ấy là hơi thở củ a huyền thoại dân
gian:
“Đất nướ c là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nướ c là nơi Rồ ng ở
Lạc Long Quân và Â u Cơ
Đẻ ra đồ ng bào ta trong bọ c trứ ng”
Đất nướ c là sự hun đú c, là sự kết thành giữ a dò ng chảy bất tận củ a thờ i gian
mênh mô ng, nhưng thờ i gian ở đây khô ng phải thờ i gian vô tri, mà là thờ i gian
củ a lịch sử , củ a văn hó a. Hai tiếng dân mình nghe chiều mến như tiếng gọ i

You might also like