You are on page 1of 25

ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM

1)KHÁI QUÁT TÁC GIẢ, TÁC PHẨM:

A) Nguyễn Khoa Điềm:

- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu thời kì kháng chiến chống Mỹ. Ông
trực tiếp là người tham gia chiến trận, vậy nên thơ ca Cách mạng của nhà thơ xứ Huế rất chân
thực, giàu tính chiêm nghiệm, đặc biệt là cảm xúc vô cùng sâu lắng mang đậm màu sắc trữ tình
hòa quyện với tư duy của một người tri thức. Là người có trách nhiệm cao với quê hương,
những áng thơ của ông còn nhấn mạnh rõ vai trò, trách nhiệm của một người công dân, một
người lính với đất nước.

- Trong nghệ thuật, Nguyễn Khoa Điềm nổi tiếng là người lao động nghệ thuật vô cùng hăng
say, nghiêm túc, khắt khe với những sáng tác của chính mình. Thơ của ông luôn được định hình
theo một nét riêng, một lối đi riêng – kể cả khi ông viết về những đề tài rất nổi bật, quen thuộc
như tình yêu quê hương, đất nước và tinh thần dân tộc.

- Thơ của Nguyễn Khoa Điềm lấy chất liệu từ văn học Việt Nam và cảm hứng từ quê hương, con
người, từ tình thần chiến đấu của người chiến sĩ Việt Nam yêu nước… Trong kháng chiến chống
Mỹ, thơ của Nguyễn Khoa Điềm thể hiện rõ được những nét đẹp của người Việt và bản chất anh
hùng bất khuất của các chiến sĩ Việt Nam. Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Khoa Điềm có thể
kể đến như: “Đất ngoại ô”, “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm”, trường ca “Mặt đường khát vọng”, …

b) Thi phẩm ‘’ĐẤT NƯỚC’’:

- Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị - Thiên,
viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam về non sông, đất nước, về sứ
mệnh của thế hệ mình, khơi gợi tinh thần sẵn sàng xuống đường dấu tranh hòa nhịp với cuộc
chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược.

- “Đất Nước’’ được xem là đoạn trích thành công nhất của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm,
nằm ở phần đầu chương V của bản trường ca. Tuy đây là một đề tài không mấy mới lạ nhưng với
việc kết hợp tinh tế giữa ca dao và dân ca vào trong thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được
cảm nhận mới lạ của bản thân đối với đất nước; bộc lộ một tư tưởng mang tên: Đất Nước của
nhân dân.
c) Một số bài thơ, nhận định có thể liên hệ khi phân tích:

Việt Nam quê hương ta (Nguyễn Đình Thi)

‘’Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

Cánh cò bay lả rập rờn

Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều

Quê hương biết mấy thân yêu

Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau

Mặt người vất vả in sâu

Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn

Đất nghèo nuôi những anh hùng

Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên

Đạp quân thù xuống đất đen

Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa

Việt Nam đất nắng chan hoà

Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh

Mắt đen cô gái long lanh

Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung’’

‘’Đất nước đàn bầu’’ (Lưu Quang Vũ)

‘’Chữ “thương” liền với chữ “yêu”

Chữ “thương” đi cùng chữ “nhớ”

Dân tộc trải xót xa nhiều nỗi khổ


Phải thương nhau mới sống được trên đời’’

‘’Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi’’- ( Lưu Quang Vũ)

‘’gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi

Chưa xóm mạc đã bắt đầu ngọn gió

Thổi không yên suốt dọc dài lịch s

Qua đất đai và đời sống con người.’’

‘’Đất nước ta’’ (Chế Lan Viên)

Đất nước gì mà tuổi trong nôi đã phải nhảy lên mình ngựa thép đi đánh giặc

Đang cưỡi trâu, chơi cờ lau cũng phải bỏ chơi mà đánh giặc

Chiếc gối lông nga cũng có âm mưu của giặc trộn vào

Yêu mà bị chém rơi đầu vì Mỵ Châu hóa giặc!

Cho đến cùng phải hóa Sơn Tinh, Thủy Tinh

Đánh giặc cùng nhau huy động núi non, lũ lụt vào vòng chiến tình yêu

Mà cướp một cô Nàng

‘’Điều mà đứa trẻ cần hiểu biết trước nhất là Tổ quốc, mẹ nó.’’ - Jules Michelet

‘’Nước là ở lòng người, cái nguyên tố lập ra nước là tự trong lòng người, không phải ở đâu xa.’’
- Phạm Quỳnh

‘’Một Tổ quốc thường bao gồm những người chết đã gây dựng nên cũng như những người sống
đang tiếp tục. ‘’- Ernest Renan

2)Phân Tích Thi Phẩm:

a) 9 Câu Đầu: Nguồn gốc của đất nước:


Nếu như trước đây, các nhà thơ khi định nghĩa về Đất Nước thường gắn hai chữ thiêng liêng này
với những điều lớn lao, kì vĩ; với những trang sử vàng chói lọi; với tên tuổi của những
người anh hùng vang danh núi sông… thì Nguyễn Khoa Điềm lại bắt đầu hành trình tìm về
cội nguồn của Đất Nước bằng cách soi chiếu vào chính bản thân mỗi cá thể bé nhỏ.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể

- Lời thơ vang lên thật dịu dàng, trìu mến như lời kể của một câu chuyện cổ tích đã có từ ngàn
xưa: “Khi ta lớn lên, đã có rồi". Theo tác giả, Đất Nước ra đời từ rất xa xưa, từ lúc mà mỗi chúng
ta sinh ra thì đã có đất nước. Thi nhân đã đi trả lời cho câu hỏi ‘’đất nước có tự bao giờ’’ một
cách thật gần gũi và thân thương đến lạ thường – không một dấu mốc lịch sử hay một điểm thời
gian cụ thể, chỉ là chính câu chuyện của “ta” – của tôi, của bạn, của mọi người con đất Việt sinh
ra và lớn lên trên mảnh đất hình chữ S thân thương.

- Giọng điệu thủ thỉ của những trang chuyện cổ tích lại càng được khắc họa rõ ở câu thơ thứ hai,
khi Đất Nước có trong những “ngày xửa ngày xưa” qua lời kể dịu hiền của mẹ. Cụm từ mang
tính chất phiếm chỉ “ngày xửa ngày xưa” khiến ta bất giác nghĩ tới những câu chuyện ấu thơ đã

nuôi tâm hồn ta lớn, như bầu sữa mẹ dịu ngọt, như dòng nước mát tưới tắm cho trái tim. Trong

câu chuyện cổ ấy có cô Tấm bước ra từ quả thị, có chàng Thạch Sanh dũng cảm tốt bụng cứu
người, có những câu chuyện đạo lý tốt đẹp vẫn được lưu truyền từ ngàn đời nay. Khao khát về
một cuộc sống công bằng, tửtế đã được nhân dân đưa vào trong những câu chuyện truyền miệng
– và ta cũng thấm nhuần những triết lý bình dị ấy từ khi còn bé thơ. Những câu chuyện mang
theo bóng hình xứ sở ấy gắn liền với tình yêu thương của mẹ - với những gì dịu êm và gần gũi
nhất. Hóa ra, Đất Nước đâu phải những gì quá xa vời như ta từng hay nghĩ, Đất Nước ở trong trái
tim của ta tự lúc nào…

Hành trình trả lời cho câu hỏi về nguồn gốc của Đất Nước còn được khắc họa rõ ràng ở những
câu thơ sau, khi Nguyễn Khoa Điềm nói về quá trình sinh thành của Đất Nước với biết bao sự
kiện đáng nhớ:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

- Hình ảnh “miếng trầu": gợi ra phong tục ăn trầu của ông cha ta nhiều đời → đó là một tập tục
tốt đẹp được lưu giữ và truyền qua bao đời nay. Không những thế, hình ảnh ấy còn gợi nhớ sự
tích trầu cau khiến ta rung rưng nước mắt về tình cảm vợ chồng, về tình nghĩa anh em gắn bó.
Hình ảnh ấy còn khiến ta nhớ đến nét đẹp trong giao tiếp ứng xử: “miếng trầu là đầu câu
chuyện”, nhớ tới hình ảnh của một lễ cưới đằm thắm, thủy chung. Bên cạnh ấy mỗi dịp cúng giỗ,
lễ Tết, miếng trầu - quả cau luôn xuất hiện trên bàn thờ tổ tiên, linh thiêng, trân trọng, trở thành
biểu tượng cho tấm lòng thành con cháu gửi đến cha ông, hồn thiêng của tiền nhân.

Miếng trầu ấy cũng chính là vật chứng trong những tình yêu đôi lứa lắm đỗi ngọt ngào:

"Miếng trầu có bốn chữ tòng

Xin chàng cầm lấy vào trong thăm nhà

Nào là chào mẹ chào cha

Cậu cô chú bác... mời ra xơi trầu"

Đất Nước ta đã “bắt đầu” với miếng trầu bình dị ấy… Miếng trầu ấy gắn với hình ảnh người bà,
một chỗ dựa êm ái biết bao trong tuổi thơ, trong tâm hồn của mỗi người. Cũng vì vậy, mà hình
ảnh Tổ quốc càng thêm dịu dàng.

- Cuộc đời của mỗi cá nhân có “bắt đầu”, có “lớn lên” – và Đất Nước cũng như vậy. Đất Nước
“bắt đầu” với miếng trầu tình nghĩa, và lớn lên với truyền thống chống giặc ngoại xâm của ông
cha ta qua bao đời nay. Cụm từ "biết trồng tre mà đánh giặc" gợi nhớ truyền thuyết về người anh
hùng Thánh Gióng – vươn vai trở thành tráng sĩ, mặc lên mình bộ giáp sắt đánh đuổi giặc Ân,
mang lại khoảng trời bình yên cho đất nước.

→ Với Nguyễn Khoa Điềm, ông đã nhìn thấy sự trưởng thành của Đất Nước trong đau thương,
thử thách nhờ công cuộc đấu tranh và lòng yêu nước của dân tộc. Qua lịch sử, truyền thống ấy đã
trở thành truyền thống yêu nước thiêng liêng. Trải qua những gian truân như vậy, dân tộc ta mới
ngày càng lớn mạnh, vững bền.

Để rồi sau đó, lời thơ quay trở về với những điều giản dị trong cuộc sống thường nhật:

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…

- "Tóc mẹ bới sau đầu": hình ảnh khắc họa phong tục lâu đời của người Việt, người phụ nữ để
tóc dài và bới lên để thuận tiện trong sinh hoạt hàng ngày. Một hình ảnh thật gần gũi, thân quen
in sâu trong nếp nghĩ, gợi suy ngẫm về con người trong cuộc sống lam lũ nhưng vẫn duyên dáng,
tần tảo, đảm đang. Hình ảnh ấy qua bao năm tháng vẫn không thay đổi, vẫn gợi suy ngẫm về cái
đẹp giản dị mà thiêng liêng. Và hình ảnh Đất Nước hiện lên qua chính mỹ tục ấy, qua cả cách
con người thương nhau.

- “Cha mẹ thương nhau….”: Ý thơ giản dị mà ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Tình yêu được sinh ra và
nuôi dưỡng từ trong khó nghèo, từ trong những hoàn cảnh đầy th thách thật đáng trân trọng,
đáng quý. Đó là lối sống trọn nghĩa, trọn tình, thuỷ chung đã trở thành một truyền thống thiêng
liêng được lưu truyền qua bao đời. “Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau…”

- "Cái kèo, cái cột” là những vật quen thuộc trong đời sống hằng ngày của người Việt Nam
nhưng chính những thứ đơn sơ, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ấm gia đình, làng xóm, quê
hương, đất nước. Nói cách khác, nó chính là tế bào của đất nước. Đất Nước được hình thành
trong quá trình ta đặt tên cho thế giới xung quanh. Cũng có thể, câu thơ còn gợi lên truyền thống
đặt tên con một cách thật mộc mạc, chân phương biết mấy ... khi những đồ vật đó đã trở thành
cái tên bình dị của những đứa trẻ, cùng những đứa trẻ lớn lên.

- Bên cạnh đó, Đất Nước còn phát triển nhờ quá trình lao động bền bỉ của người dân: “Hạt gạo
phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Phải nói rằng sự hình thành và phát triển của Đất
Nước là một quá trình lâu dài, nhờ bàn tay lao động xây dựng của con người từ thuở sơ khai, khi
con người tạo dựng những cái đơn giản nhất với nỗ lực một nắng hai sương. Con người lao động
đã biết “xay, giã, giần, sàng” để tạo nên hạt gạo, tạo nên những giá trị vật chất để xây dựng Đất
Nước no ấm.

→ Cách sử dụng từ ngữ “một nắng hai sương” và phép liệt kê với nhịp ngắn các động tác liên
tiếp “xay, giã, giần, sàng” cùng nhịp điệu lan toả gợi sự suy ngẫm, liên tưởng, hình ảnh Đất
Nước hiện dần nhờ bàn tay lao động cần cù, sáng tạo của con người. Hình ảnh ấy đi vào trong
nhịp điệu gạo rơi trên sân, trong tiếng chày, trong máy xay với cuộc sống lao động bền bỉ dù vất
vả, lam lũ. → Qua đó ta nhận ra nét đặc trưng riêng của nền văn học Việt - văn hoá lúa nước.
Hình ảnh Đất Nước hiện lên trong cuộc sống sinh hoạt là một Đất Nước cần cù, sáng tạo trong
lao động.

- Để rồi, đoạn thơ khép lại với một câu thơ thật bình dị và êm ái: "Đất Nước có từ ngày đó" …
Đất Nước có từ khi dân mình biết yêu thương, sống tình nghĩa, từ ngày dân tộc có nền văn hóa
riêng, từ khi dân mình biết dựng nước và giữ nước, từ trong cuộc sống hằng ngày của con người.
Dấu “…” như mở ra một cuộc hành trình mênh mông về Đất Nước, nhưng đồng thời cũng thật
gần gũi và thiêng liêng biết bao trong trái tim của mỗi con người.

→ Khám phá Đất Nước ở phương diện văn hóa sinh hoạt, Nguyễn Khoa Điềm đã phát biểu nhận
thức của mình như lối định nghĩa độc đáo, một cách lí giải không hề mang tính áp đặt mà đầy
sức gợi, sức thuyết phục bằng những câu chuyện, chọn lọc chi tiết giàu ý nghĩa - từ đó giúp ta
nhận

ra Đất Nước bắt nguồn từ những điều giản dị nhất, gần gũi nhất, nhưng bền vững đến muôn đời.
Tác giả cảm nhận về chiều sâu của lịch sử của Đất Nước một cách thật gần gũi mà thân thương.
Đất Nước được hình thành từ những gì nhỏ bé, gần gũi trong cuộc sống của mỗi con người, từ bề
dày của truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.

➔ Ở 9 câu thơ trên tác giả sử dụng nhiều các yếu tố ca dao dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích
không chỉ đem đến sự gần gũi mà còn biểu hiện ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Thành công nghệ
thuật của 9 câu thơ ấy còn là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không gian nghệ thuật riêng đưa
ta vào thế giới gần gũi, mĩ lệ, giàu sức bay bổng của ca dao truyền thuyết, văn hóa dân gian. Đây
là điểm đặc sắc của hình thức nghệ thuật thống nhất với nội dung tư tưởng.

B)16 câu tiếp: Định nghĩa về Đất Nước:


CẢM NHẬN VỀ KHÔNG GIAN ĐỊA LÍ:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Tác giả tách riêng hai thành tố “đất’’ và “nước’’ để có cách giải thích rất đỗi chân thực và gần
gũi; sử dụng lối tư duy chiết tự vừa triết lý lại vô cùng giàu xúc cảm.

- “Đất’’: là thứ gắn liền với những kỉ niệm thời thơ ấu của anh, gắn liền với con đường hàng
ngày đến trường với bao trò chơi, bao lần đùa nghịch cùng bạn bè. Đấy cũng là nơi trau dồi thêm
tri thức, chuẩn bị thêm hành trang quan trọng cho anh vào đời để thực hiện những ước mơ hoài
bão của chính mình. Đó hẳn là những năm tháng thời học sinh đầy đáng quý, đáng nhớ của bao
thế hệ trẻ em Việt Nam.

- “Nước là nơi em tắm": nước là một thứ thiết yếu không thể thiếu trong cuộc sống mỗi ngày -
nó cũng gắn với kỉ niệm tuổi thơ em, một kỉ niệm êm dịu và nhẹ nhàng như những dòng sông em
thường tắm mát mỗi trưa hè lộng gió, là dòng sông đỏ nặng phù sa nuôi lớn những mầm non, cây
lúa cho bác nông dân. Không những thế, nước còn như một thứ nước thánh gột ra tâm hồn em
thủy chung, son sắc. Nhìn dưới nước, trong tim em hiện lên chỉ mỗi mình anh. Lòng em cũng
như nước, trong sáng và một lòng một dạ, mãi chẳng thay đổi.

Từ 2 ý thơ riêng biệt 2 cá thể, đến câu thơ sau, nhà thơ đã “tác hợp” anh và em một cách thật tự
nhiên mà rất đỗi ngọt ngào:

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

- “Nơi ta hò hẹn”: ở hai câu thơ này “đất’’ và ‘’nước’’ đã hòa nhập vào một, trở thành không
gian hẹn hò, nâng bước và minh chứng cho tình yêu của em và anh, tình yêu lứa đôi lắm đỗi ngọt
ngào, say đắm. Nơi chốn anh và em, nơi chúng mình hẹn hò hiện lên với không gian làng quê
thanh bình yên ả: những lũy tre rì rào gió thổi, những rặng râm bụt trước ngõ nở rộ làm lòng
người xuyến xao, hay đơn giản là những ánh trăng thanh đêm khuya thanh mát – nơi anh và em
đã trao nhau chữ thẹn, chữ yêu lắm đỗi ngọt ngào… tất cả đều đẹp đều hài hòa và nồng đượm
làm say đắm lòng người!
“nơi em đánh rơi chiếc khăn….’’: đất nước không chỉ là nơi để đôi mình hò hẹn mà còn là chốn
để em trao anh chữ nhớ, chữ thương tha thiết. Đất nước như một chứng nhân cho tình yêu của
đôi mình, mỗi một mảnh đất, nơi chốn trên dải đất hình chữ S hay nơi mà anh và em từng đi qua
đều chất chứa tình yêu của đôi ta. Nếu không có đất nước thì liệu rằng đôi mình có gặp gỡ mà
yêu nhau hay nên duyên vợ chồng? Bên cạnh ấy, hình ảnh chiếc khăn còn khiến ta nhớ tới câu ca
dao:

“Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt”.

Tuy đó chỉ là chiếc khăn bé nhỏ, giản dị nhưng nó cũng thật đáng yêu, nó cũng là vật chứng cho
tình yêu đôi lứa, cho chuyện tình em nhớ chàng, cho cuộc tình anh và em. Ý thơ ấy ta cũng bắt
gặp trong trang thơ của một nữ thi sĩ nổi bật trong phong trào chống Mỹ:

“Gói một chùm hoa

Trong chiếc khăn tay

Cô gái ngập ngừng

Sang nhà hàng xóm”

(Phan Thị Thanh Nhàn)

→ Có thể nói rằng khi tách ra thì Đất Nước gắn với kỷ niệm riêng tư của mỗi người nhưng khi
gộp lại - Đất Nước lại sống trong cái ta chung, của toàn con người Việt ta qua bao đời.

➔ Đất nước gắn liền với những sinh hoạt bình dị, là tình cảm lứa đôi của mỗi con người chúng
ta.
-ĐẤT NƯỚC CÒN LÀ NƠI TRỞ VỀ CỦA NHỮNG TÂM HỒN NẶNG LÒNG VỚI QUÊ
HƯƠNG:

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

- "Nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” cho đến biển bờ Thái Bình Dương vỗ sóng
mênh mang -nơi "Con cá ngư ông móng nước biển khơi" – đâu đâu cũng là dáng hình xứ sở. Lời
thơ lấy ý từ hình ảnh trong ca dao miền Trung, càng trở nên tha thiết, đắm say nhường nào.

- Những hình ảnh kì vĩ như “núi”, “biển” như mở rộng chiều kích đất nước trong không gian bao
la…

➔ Câu thơ bộc lộ rõ tình yêu quê hương, đất nước của tác giả. Không những thế, qua ý thơ ấy,
thi nhân còn ngợi ca sự trù phú mà thiên nhiên đã ban tặng cho dải đất hình chữ S với rừng vàng,
biển bạc bao la- đó là những nền tảng quý giá để phát triển, nuôi dưỡng con người Việt.

- Đất nước là một sinh thể thống nhất bao gồm nào là núi, là sông, là rừng, là bể không thể thiếu
hay mất đi dù là một tấc, một li. Ý thơ ấy khiến ta nhớ đến câu ‘’Tấc đất tấc vàng’’ – cũng mang
hàm nghĩa trân trọng từng giá trị thiêng liêng của tạo hóa ban tặng

➔ Đât nước trở nên kì vĩ, tráng lệ nhưng cũng bình dị và thân thương vô cùng trong mắt của
những người con đi xa, những kẻ phải rời xanơi chôn rau cắt rốn mà nương tựa nơi đất khách
quê người vốn xa lạ mà chẳng có chút gì thân quen như đất nước và quê hương mình.

ĐẤT NƯỚC TRƯỜNG TỒN TRONG KHÔNG GIAN, THỜI GIAN:

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

+ Với việc sử dụng các từ láy “đằng đẵng’’ và ‘’mênh mông’’ : tác giả đã mở ra không gian đa
chiều của ba miền Bắc – Trung – Nam mênh mông rộng lớn với dãy Trường Sơn hùng vĩ, với hai
hòn đảo ngoài khơi xa , với những đồng bằng màu mỡ cho đến miền núi cao ngút ngàn trên đỉnh
Phan xi păng lộng gió,…→ tất cả những điều đó đã làm nên một đất nước bao la, rộng lớn.
+ Đất nước tồn tại và hình thành trong một chặng đường thời gian dài đặng đẵng từ xa xưa, từ
lúc mà mỗi con người Việt đầu tiên khai hoang và lập quốc.

B) Đất nước theo chiều dài lịch sử:

-ĐẤT NƯỚC HIỆN LÊN TRONG QUÁ KHỨ HÀO HÙNG, LỪNG LẪY:

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

- Nguyễn Khoa Điềm gợi lại về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân Lạc Việt bằng một niềm
tự hào. Đó là truyền thuyết xưa:

“Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

- “Sự tích trăm trứng” qua lời kể của ông cha đã ra đời từ lâu nhằm lý giải nguồn gốc của người
Việt Nam ta. →Từ câu chuyện ấy, dân ta muôn đời ta tự hào mình là con rồng cháu tiên, con
cháu Vua Hùng. Câu chuyện vừa nhắc nhở vừa khơi gợi lòng tự tôn dân tộc trong mỗi trái tim –
và chắc hẳn đó cũng là điều nhà thơ xứ Huế đang mong muốn gửi gắm qua vần thơ của mình.

- Cũng vì thế, mà ta thêm thấm thía đất nước luôn tiềm tàng mối quan hệ giữa các thế hệ quá
khứ, hiện tại và tương lai:

“Những ai đã khuất

Những ai bây giờ”.

- “Những ai đã khuất’’ là những người trong quá khứ, những con người đã có công dựng nước từ
những buổi đầu thuở sơ khai, phát triển đất nước phồn hoa, giàu mạnh và bảo vệ đất nước sự lăm
le xâm chiếm của kẻ thù.
- “Những ai bây giờ’’ là những người trong hiện tại, đang sống và chiến đấu vì quê hương, vì
non sông gấm vóc chưa một giây phút dừng nghỉ. → Phép điệp ngữ “Những ai…Những ai…”
như tạo nên một sợi dây kết nối vô hình giữa những ngày đã qua và những tháng ngày của hiện
tại; để ta thấy dù ở bất cứ thời điểm nào, người dân đất Việt vẫn chung nhau ở lý tưởng, sứ mệnh
lớn lao vì Tổ quốc. Đó cũng là lý do mà từ tình yêu đôi lứa riêng tư, ta sẽ mở rộng thành tình yêu
cộng đồng; từ hiện tại của ba và mẹ - ta sẽ tạo nên những thế hệ tương lai viết tiếp những giấc
mơ dang dở:

“Yêu nhau và sinh con đẻ cái”

Đó là cách để ta bảo tồn nòi giống con dân Việt để góp vào một nhiệm vụ to lớn và thiêng liêng:
“Gánh vác phần người đi trước để lại”. Là con dân đất Việt, là thế hệ sau, ta phải nối tiếp bước đi
của cha ông ta ngày trước; không ngừng phát triển đất nước phồn hoa, vững mạnh và đề cao tinh
thần chống nội trong giặc ngoài, không lơ là, thiếu cảnh giác. Ý thơ ấy còn khiến ta nhớ đến câu
nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, cũng nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của “Bác cháu ta” –
của cả những người đi trước và thế hệ sau tiếp bước:

Các Vua Hùng đã có công dựng nước

Bác cháu ta phải có công giữ nước.’’

- Không những vậy, Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc nhở những ai là con dân nước Viêt đều phải ý
thức về nguồn cội của chính mình và nguồn gốc tổ tiên, không bao giờ được quên cội nguồn dân
tộc:

“Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.

Câu thơ vận dụng sáng tạo câu ca dao:

“Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba”.

Đó là lời nhắc nhở về nguồn gốc, dòng giống Tổ tiên, về truyền thống ‘’uống nước nhớ nguồn’’,
‘’ăn quả nhớ kẻ trồng cây’’. Bên cạnh ấy, động tác “cúi đầu” cũng thể hiện niềm biết ơn, sự
thành kính thiêng liêng mà rất đỗi tự hào về nguồn gốc cha ông trong tâm tưởng mỗi con người
Việt dù cho họ có đi khắp năm châu bốn bể. Cúi đầu để hướng về lịch sử về những Tổ Hùng
Vương đã góp công dựng nên nước nhà Âu Lạc mà nay là nước Việt Nam hùng cường sánh vai
bốn bể năm châu. Cúi đầu để tôn kính quá khứ thủy chung đã cho ta một hiện tại bình yên, rực
rỡ… Người Việt mình dù đi khắp thế giới nhưng trong niềm tin tâm linh của họ luôn có một ngôi
nhà chung để quay về. Đó chính là quê cha đất Tổ Vua Hùng.

➔ Qua đoạn thơ trên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nêu những định nghĩa đa dạng, phong phú
về đất nước, từ chiều sâu của văn hóa văn tộc, chiều dài của thời gian lịch sử đến chiều rộng của
không gian đất nước.

➔ Nhà thơ cũng vận dụng rộng rãi các chất liêu văn hóa dân gian, từ truyền thuyết lịch sử,
phong tục, tập quán đến sinh hoạt, lao động của dân tộc ta, kết hợp với những hình ảnh, ngôn
ngữ nghệ thuật đậm đà tính dân tộc và giàu chất trí tuệ để giúp người đọc có cái nhìn gần gũi và
dễ hiểu hơn về Đất Nước Việt 4000 năm văn hiến. Từ đó, nhà thơ mở ra một cách hiểu sâu xa
hơn nữa về Đất Nước, khi Đất Nước không chỉ còn là những cái ngoài ta, mà còn ở nơi những
điều giản bị bên trong chính mỗi người:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

- Với hai câu thơ trên, thi nhân Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định rằng đất nước đã hóa thân vào
mỗi con người, bới chúng ta đều là con rồng cháu tiên, đều sinh ra và lớn lên trên dải đất hình
chữ S này. Mỗi người Việt Nma đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật chất, tinh thần của
đất nước thành máu thịt, tâm hồn, trái tim và suy nghĩ, nếp sống của mình. Hơi thở của Đất Nước
đã thấm nhuần trong cơ thể ta một cách tự nhiên và bản năng nhất. Đất nước đã hóa vào máu thịt,
đã hóa thành xương máu của con người vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là của riêng
mỗi người mà là của cả đất nước. Ta không chỉ sống cho mình mà còn luôn ý thức sống vì cộng
đồng.

- Nhà thơ nhấn mạnh hai chữ “hôm nay” – như để lan tỏa lời nhắn gửi ra xa mãi… vượt qua cả
những khoảng cách lớn lao về thời gian, chạm tới trái tim bạn đọc dù ở bất cứ thời điểm nào.

Đất nước kết tinh và hóa thân trong mỗi người – nhưng Đất Nước chỉ thực sự hình thành khi mỗi
người biết kết nối, biết cầm tay nhau:
Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn, to lớn

- Hành động bình dị “cầm tay’’’ là sự biểu trưng cho tinh thần đoàn kết, đồng sức đồng lòng của
toàn con dân nước Việt. Nó thể hiện sự kết nối một cách bình dị giữa những cá thể riêng biệt, đó
là tình yêu đôi lứa, đó cũng là tinh thần gắn bó đoàn kết giữa những người có

chung dòng máu đất Việt.

- Với việc sử dụng các từ ‘’hài hòa nồng thắm’’,’’ ven tròn, to lớn” đi liền nhau, tác giả đã nhấn
mạnh sức mạnh của hiện tại được xây dựng bới chính tình yêu nước của mỗi người. Chính tình
yêu ấy mới có khả năng tô thắm và làm tròn đầy hình hài về Tổ quốc.

- Kiểu câu cấu tạo theo kiểu hai cặp đôí xứng về ngôn từ (Khi/Khi; Đất nước/ Đất nước), kết hợp
với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu
và niềm tin, nhà thơ như muốn gửi đến người đọc thông điệp: Đất nước là sự thống nhất, hài hòa
giữa tình yêu lứa đôi và tình yêu tổ quốc, giữa cá nhân và cộng đồng. Nói như Paul Eluard, một
nhà thơ Pháp là: "Từ chân trời một người đến với chân trời của nhiều người". Từ sức mạnh của
hiện tại, nhà thơ bộc lộ niềm tin mạnh mẽ vào tương lai tươi sáng:

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang đất nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

- Nhà thơ đã thể hiện niềm tin mãnh liệt vào những mầm non tương lai hay nói cách khác là thế
hệ sau của đất nước. Rõ ràng, ý thơ nói đến chuyện mai sau – chuyện chưa tới, nhưng lời thơ
mạch lạc, dứt khoát như thể đó là viễn cảnh chắc chắn sẽ xảy ra, rằng Đất Nước sẽ ngày càng rực

rỡ.

- Niềm tin ấy tác giả đặt vào “con ta’’: chỉ thế hệ sau, những đứa con được sinh ra từ tình yêu
thủy chung ngọt ngào của tình cảm đôi lứa, bởi tinh thần đoàn kết, đồng sức, đồng lòng của con
người Việt. Thế hệ sẽ bước tiếp con đường của những người đi trước, “gánh vác” công lao của
thế hệ cha anh để tạo nên những thành quả mới, viết tiếp những ước mơ còn dang dở. Nguyễn
Khoa Điềm cũng thơ hóa đích đến bằng những cụm từ như “đi xa’’,’’đến những ngày tháng mơ
mộng’’. Với lối sử dụng từ ngữ bay bổng, mềm mại, tác giả bộc lộ niềm mơ ước cùng khao khát
hướng đến một đất nước phát triển giàu manh, phồn hoa. Lời thơ như khẳng định một niềm tin
mãnh liệt: những ngày tháng mơ mộng hiện tại sẽ là hiện thực trong tương lai.

Từ đó, nhà thơ cất lên một tiếng gọi thiết tha, như gợi nhắc về trách nhiệm của mỗi cá nhân với
Tổ quốc:

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời...

- Đoạn thơ mở đầu với tiếng gọi thân tình mà tha thiết: “Em ơi em…” – như lời thủ thỉ dặn dò
của người yêu dành cho người yêu, của một anh trai dành cho em gái, tâm tình về giá trị của Đất
Nước trong mỗi trái tim.

- Tác giả nâng giá trị Đất Nước bằng một so sánh: “Đất Nước là máu xương của mình”. Không
phải “như”, mà là “là”. Từ “là” ấy bình thản mà mạnh mẽ quá, nó như khẳng định chắc nịnh
vềgiá trị của Tổ quốc trong mỗi con người. Đất Nước không phải những gì kì vĩ đến xa vời…
Đất Nước là những gì bình dị nhất, bé nhỏ nhất. Đất Nước là một phần của cơ thể, của cuộc sống
chúng ta ngày hôm nay. Ta quý trọng cơ thể bao nhiêu, ta cũng cần đấu tranh để bảo vệ, giữ gìn
cho Đất Nước như thế. Không có xương có máu, ta sẽ trở về với cát bụi. Không có Đất Nước,
cuộc đời ta cũng sẽ hóa vô nghĩa mà thôi. Như Ilia Erenbua đã từng thốt lên: “Mất nước Nga thì
ta còn sống làm gì nữa?” Đối với những người con hướng về đất nước, đất nước chính là nguồn
sống, chính là cuộc đời.

- Bằng giọng thơ trữ tình kết hợp với chính luận kết hợp với câu cầu khiến và điệp ngữ “phải
biết’’ được nhắc đi nhắc lại hai lần; Nguyễn Khoa Điềm như dệt nên một khúc nhạc vừa hùng
tráng mà cũng thật da diết biết bao. Tác giả sử dụng những động từ mang tính kết nối như “gắn
bó” – chỉ sự gần gũi, thân thiết; “san sẻ” – chỉ sự chia sẻ đồng lòng; và cuối cùng là từ “hóa
thân” – nhấn mạnh khát vọng dâng hiến. Nguyễn Khoa Điềm đã nhắn nhủ với chính mình, nhắn
nhủ với mọi người dân nước Việt - đặc biệt là thế hệ trẻ về sứ mệnh, nghĩa vụ thiêng liêng của
mình

- Tác giả viết nên những vần thơ ấy bằng tất cả sự trải nghiệm, thấu hiểu của một người con đã
từng trải qua và chiến đấu bảo vệ khi tổ quốc lâm nguy; đã từng lăn lộn trong chiến trường và
thấu hiểu giá trị của hai chữ “Đất Nước” trên đôi vai mình

→ Điểm đặc biệt và cái hay trong những câu thơ trên là mặc dù mang tính chính luận nhưng
không toát lên sự khô khan, cứng nhắc như những lời giáo huấn mà những câu thơ ấy vẫn vô
cùng trữ tình, thiết tha. Nó như một lời thủ thỉ nhẹ nhàng, ngọt ngào của tác giả đến bạn đọc.

➔ Đoạn thơ với cấu trúc ngôn ngữ độc đáo: “Đất là…’’, “Nước là…’’, ‘’ Đất Nước là…’’, nhà
thơ đã định nghĩa bằng cách tư duy chiết tự, cắt nghĩa hai từ đất nước thiêng liêng bằng tinh thần
luận lí.

➔ Nếu tách ra làm những thành tố ngôn ngữ độc lập thì Đất nước chỉ là một sinh thể vật chất, là
một không gian sinh tồn của con người và cá thể. Tuy nhiên nếu hợp thành một danh từ đất nước
thì lại có nghĩa như một mái nhà chở che, nuôi nấng và bảo vệ những con người cùng chung
dòng máu Lạc Hồng, cùng chung nguồn cội, cùng chung quá khứ hào hùng.

3) Tư tưởng Đất Nước của nhân dân:

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục nối dài hành trình định nghĩa về Đất Nước trong trái tim
của mỗi người bằng cách khẳng định quan điểm Đất Nước của nhân dân:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

- Nhà thơ đã kể, liệt kê một loạt kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như
muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước. Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự
nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của
dân tộc. Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thương
thủy chung để ta có những “núi Vọng Phu”, những “hòn Trống mái” như những biểu tượng văn
hóa. Chính câu chuyện của con người đã tạo nên nét riêng cho các địa danh vốn vô tri, vô giác.

➔ Nói cách khác “núi Vọng Phu’’, “Hòn Trống Mái’’, “núi Bút’’, “non Nghiêng’’ không còn là
những cảnh thiên nhiên thuần túy nữa mà đã trở thành những cảnh vật, không gian phản ánh và
chất chứa số phận, đời sống tinh thần của nhân dân, là biểu trưng cho sự hóa thân của những con
người không tên không tuổi.

+ Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng đến hóa đá của
người phụ nữ.

+ Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng chung thủy. Dù ở bất cứ
nơi nào trên đất nước, bờ cõi này thì tình cảm yêu thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những tình
cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn vinh.

+ Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó
là vị anh hùng Thánh Gióng nhỏ tuổi nhưng khi có giặc anh dũng ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy
lại độc lập cho nước nhà.

+ Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần của đàn voi chín mươi
chín con.

→ Tất cả những câu chuyện, những sự tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ
con dân trên Đất nước này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta.

+ Đất nước Việt Nam còn là đất nước của những con người hiếu học. Biết bao tấm gương nghèo
vượt khó vươn kên trở thành nhân tài cho đất nước,đánh dấu công lao của mình bằng những núi
Bút, non Nghiên. →Dù họ là những người nổi tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ
cũng đáng để chúng ta biết ơn, học tập và noi theo.
→ Tác giả mượn tên những địa danh nổi tiếng để ca ngợi những phẩm chất đáng tự hào của
người Việt.

+ Đất nước còn được hình thành từ những điều hết sức nhỏ bé: những quả núi hình con cóc, con
gà quây quần cũng giúp cho Hạ Long trở thành di sản thế giới. Những ngọn núi khác cũng được
đặt theo tên của các vị anh hùng để con cháu mai sau không quên ơn họ và tôn vinh những giá trị
quý báu mà họ đã gây dựng cho nước nhà. Với lối hành văn quy nạp, từ tất cả những câu chuyện
đầy sống động ấy, tác giả đã khái quát lên thành một chân lý, một tư tưởng:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...

Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn,
máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, ghi dấu vết
cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này.

→ Từ những cuộc đời, những hóa thân cụ thể, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những
nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên và con người, giữa đất nước với
nhân dân. Cũng qua khổ thơ, tác giả đã bộc lộ được niềm tự hào khôn xiết trước vẻ đẹp của thiên
nhiên, vóc dáng, dáng hình của quê hương và những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Đó
còn là thái độ yêu thương, trân trọng, tự hào trước những đóng góp lớn lao của thế hệ cha ông đi
trước. Cũng từ ấy, tác giả thiết tha khẳng định và khơi dậy tình yêu đất nước trong trái tim mỗi
người đọc. Một lần nữa, lời gọi dịu dàng mà da diết lại vang lên: “Em ơi em ...”

Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn ngàn năm Đất Nước

- Tác giả đã nhìn về bốn nghìn năm lịch sử đằng đẵng đáng tự hào của dân tộc, nhưng ông không
chỉ ngợi ca các triều đại: Đinh, Lí, Trần như trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi; không nói
đến những anh hùng lưu danh s sách như Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung… trong
Tinh thần yêu nước của nhân dân ta của Hồ Chí Minh, mà tập trung nói đến những con người vô
danh, bình dị, hay nói cách khác là ngợi ca tất cả nhân dân:

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

- Với giọng điệu tha thiết, ngọt ngào Nguyễn Khoa Điềm hướng người đọc nhìn về chiều
sâu quá khứ bốn ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước của nhân dân. Năm tháng nào cũng
người người, lớp lớp đang ở lứa tuổi thanh xuân rực rỡ nhất, sẵn lòng ra đi để cống hiến cho một
khoảnh khắc rực rỡ của non sông

- Khi đất nước hòa bình, họ cần cù lao động để làm giàu nước, phát triển non sông phồn hoa. Khi
đất nước có chiến tranh, họ sẵn sàng xả thân, bất luận con trai hay con gái, già hay trẻ, mạnh hay
yếu, không kể tôn giáo hay dân tộc nào, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh.” Là con dân nước
Việt họ lên đường chiến đấu với tâm thế: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Nhưng em biết không

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước


Lời thơ như thủ thỉ tâm tình, như kể lại một câu chuyện cổ tích về bốn ngàn lớp người đã sống và
chết một cách bình thản, đã hy sinh cho đất nước như thể họ được sinh ra để làm điều đó, đã
cống hiến cuộc đời của mình mà không cần một sự công nhận… Cuộc đời họ đâu ồn ào hào
nhoáng, chỉ “sống và chết – giản dị và bình tâm”, thế nhưng đó lại là những sự hy sinh kiệt xuất
nhất… Họ “làm ra Đất Nước” bởi đó là điều trái tim mách bảo, là lý tưởng họ đã lựa chọn, là
niềm tin họ luôn hướng về. Họ đâu cần ai “nhớ mặt đặt tên”, vì niềm hạnh phúc khi được ngã
xuống vì Tổ quốc đã là một món quà vô giá… Như nhà thơ Thanh Thảo cũng từng có những
vần thơ đầy cảm động:

“Chúng con đi từng trận gió rừng

Cả thế hệ xoay trần đánh giặc”.

“Chúng tôi đi không tiếc đời mình

(Nhưng tuổi hai mươi thì làm sao không tiếc)

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ

quốc”

Hay nhà thơ Lê Anh Xuân cùng từng viết

‘’Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn

Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công’’


→Những con người thầm lặng ấy họ đã sống và chết, giản dị và bình tâm, họ đã trở thành anh
hùng, không ai nhớ mặt đặt tên chỉ giản đơn như người ta thường gọi: chiến sĩ vô danh nhưng họ
là những người bất tử, hoá thân cho dáng hình xứ sở trường tồn.

➔ Tác giả thể hiện lòng biết ơn, ngợi ca những con người hy sinh thầm lặng vì tổ quốc. Khi viết
về những con người bình dị ấy, dường như cảm xúc của tác giả thể hiện niềm tự hào ngưỡng mộ
về trách nhiệm của họ với núi sông đồng thời cũng đặt ra một vấn đề cho thế hệ trẻ lúc ấy (thời
kỳ chống Mỹ) là đã có bốn nghìn thế hệ truyền tay nhau giữ nước và giờ đây đến thế hệ chúng ta
khi Tổ quốc lâm nguy, liệu chúng ta có ngoảnh mặt làm ngơ được không.

NHÂN DÂN LÀM NÊN VĂN HÓA:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Những động từ “giữ’’, “chuyền’’ và ‘’ truyền’’ cho thấy nhân lưu giữ và lan tỏa những
giá trị văn hóa, tinh thần tốt đẹp của dân tộc Việt từ đời này sang đời khác, từ thế hệ trước sang
thế hệ sau.

- Không những lao động, bảo vệ và xây dựng đất nước, nhân dân còn có trách nhiệm truyền lại
cho con cháu mai sau những giá trị văn hoá, tinh thần, vật chất của đất nước: từ hạt lúa, ngọn
la, tiếng nói, tên làng, tên đất; từ việc phải biết cấy trồng, đắp đập be bờ

→Họ xây dựng và chuẩn bị kĩ càng cho thế hệ mai sau. - Họ giữ gìn cuộc sống đến việc chống
thù trong, giặc ngoài. với các động từ ‘’chống’’, ‘’vùng lên đánh’’ tác giả đã nhấn mạnh và
khẳng định tinh thần kiên cường, bất khuất, sẵn sàng dẹp giặc để giữ yên non sông, gấm vóc. Từ
đó, nhà thơ đưa ta đến tư tưởng ngọn nguồn của vẻ đẹp văn hóa dân gian:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân

Đất Nước của ca dao, thần thoại”

- Với ý thơ trên tác giả đã khẳng định và nhấn mạnh tư tưởng đất nước của nhân dân. Đất nước
do nhân dân khai hoang, phát triển để phồn hoa và nhân dân cũng là người đứng lên cầm vũ khí
để bảo vệ từng tấc đất, con sông. Thế nên đất nước này là của nhân dân chứ không phải của riêng
bất kì một ai, một người có quyền lực hay triều đại nào như nhiều người thời trước vẫn quan
niệm.

- Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ lại một lần nữa khẳng định “Đất nước của nhân dân, Đất Nước của
ca dao thần thoại”. Điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nước của nhân dân” được lặp lại như thêm một
lần nữa nhấn mạnh về sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước.

- Vế thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Nhắc đến ca dao
thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì hơn ai hết, Nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo
ra ca dao thần thoại. Mà đất nước của “ca dao thần thoại” nghĩa là Đất Nước tươi đẹp vô ngần
như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như ca dao, như nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người. Và
không phải ngẫu nhiên tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu biểu nhất của văn học dân gian. “Thần
thoại” thể hiện cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ thế
giới tâm hồn của nhân dân với tình yêu thương, với sự lãng mạn cùng với tinh thần lạc quan.

→ Đó là những tác phẩm do nhân dân sáng tạo, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn,
bản sắc dân tộc một cách đậm nét nhất. Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

- Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt
Nam. Từ ý thơ trong ca dao:

“Yêu em từ thuở trong nôi

Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”


Thi nhân đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong
nôi”. Tình yêu của chàng trai ấy không phải là ngọn gió thoáng qua, không phải là lời của bướm
ong mà là lời nói là nghĩ suy chân thật. → Ý thơ đã khẳng định được một tình yêu thủy chung
bền vững không gì có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết yêu thương lãng mạn, đắm say
thủy chung với những câu ca dao ấy.

→ Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ, từ xưa đến nay, nói đến nhân dân,
người ta thường nghĩ đến những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn ở đây tác
giả lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thưở ấu thơ cho đến
lúc trưởng thành.

- Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp đẽ, sâu sắc, ca dao đã “dạy anh biết”
– Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”.
Câu thơ ấy lấy ý từ ca dao:

“Cầm vàng mà lội qua sông

Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng”.

→Nhân dân đã dạy ta rằng: ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc ngà… Đó là
tình nghĩa giữa con người với con người; là công sức và tâm huyết ta dành khi làm một việc gì
đó không cầu dành lợi. Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần giá trị vật chất.

- Không những thế nhân dân còn đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến đấu “Biết
trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Hai câu thơ đã gợi lại biết bao
cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong biết bao cuộc chiến vệ quốc vĩ đại. Từ
thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm. Cuộc chiến đấu giành độc
lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc
thuộc nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi đến 100 năm đô hộ giặc Tây… thử hỏi nếu
không có sự kiên trì bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt, dân tộc bé nhỏ này làm sao có thể vượt
qua bao nhiêu khó khăn gian khổ, mất mát hi sinh để đến ngày toàn thắng.

Để rồi, tình cảm thiết tha trìu mến dành cho nhân dân, cho đất nước lại càng trào dâng nơi đầu
ngọn bút:

Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu


Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi

- Bốn câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông không biết đến từ bến
bờ nào nhưng khi hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò.

- Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu
ca Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn ca tài
t tha thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam.

- Và “dòng sông” ấy vừa có ý nghĩa là dòng sông của quê hương đất nước nhưng vừa có ý nghĩa
là dòng sông Văn Hóa, dòng sông Lịch sử. Dân tộc ta có 54 dân tộc anh em, là 54 dòng chảy văn
hóa đa dạng “trăm màu, trăm dáng”.

→Và đó chính là sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun đắp phù sa qua bao
năm tháng thăng trầm để làm nên một đất nước đậm đà bản sắc dân tộc.

→ Qua đoạn thơ trên, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã để lại âm hưởng ca dao, dân ca đặc sắc
nhưng không lấy lại nguyên văn mà sáng tạo làm nên một ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu
tính triết lý. Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần cùng với việc nhà thơ luôn viết hoa
hai từ “Đất Nước” tạo nên một tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non sông gấm vóc Việt.
Dù chỉ một đoạn thơ ngắn nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã kết hợp các đặc sắc nghệ thuật như kho
tàng tri thức, sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, tư duy nghệ thuật đậm chất chính luận, giọng
thơ trữ tình đằm thắm… để tạo nên những lời ca in sâu trong trái tim mỗi bạn đọc. Khổ thơ cuối
cũng như toàn bộ bài thơ “Đất Nước” đã mang đến những cảm nhận riêng biệt, độc đáo và mãnh
liệt về đất nước cùng tư tưởng tiến bộ trong góc nhìn của người cầm bút. Bài thơ không chỉ có
giá trị thức tỉnh thời bấy giờ mà còn là lời nhắc cho hàng triệu lớp con cháu hôm nay và mai sau.

You might also like