You are on page 1of 114

ÔN VĂN & LUYỆN VIẾT

 Phân tích theo hướng Lí luận và bình sâu.


 Tư duy sáng tạo, mới mẻ & khác biệt trong Nghị luận xã hội.
 Nâng cao kỹ năng, cải thiện và định hướng văn phong.

Cô Trần Thùy Dương gửi lời chào thân thương đến các bạn!

Cô gửi các bạn TÀI LIỆU BÀI THƠ “ĐẤT NƯỚC”, các bạn in ra để ôn tập lại nội dung nhé!

Kết cấu tài liệu: (Chỗ nào không hiểu các bạn nhắn cô hướng dẫn thêm nhé!).

Phần 1. Thông tin về tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác và chủ đề Đất Nước.

Phần 2. Hệ thống luận điểm và luận cứ cho nội dung (cần thuộc và nhớ nội dung này sau
mỗi bài giảng).

Phần 3: Phân tích chi tiết nội dung và viết tham khảo.

Cột ý chính Cột văn tham khảo

Phần 4. Tổng kết.

- Đánh giá nghệ thuật.

- Khẳng định nội dung, tác phẩm.

Nhắc nhở!

Ebook này là tài liệu riêng của khóa “Phân tích chuyên sâu tác phẩm Văn 12” – khóa học mà
các bạn đã bỏ tiền ra để đăng kí học. Nên cô rất mong, bằng một chút “đạo đức”, lương tri của
một con người có tự trọng, các bạn vui lòng không chia sẻ ra ngoài, hay kiếm lời hoặc có mục
đích thương mại nào đó.

Chúng ta đến và cùng nhau học để hướng tới mục đích cao cả: “Đỗ Đại học và đặt nền tương
lai”, nên hãy nuôi dưỡng nó, chăm sóc nó, tưới tiêu cho nó bằng sự “tử tế” trong mình các bạn
nhé! Cảm ơn, yêu thương và trân trọng!
al
ci
ffi
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________

ĐOẠN TRÍCH “ĐẤT NƯỚC” – Nguyễn Khoa Điềm


1. Tác giả: Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ
trưởng thành trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người trí thức tham
gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ lớn một nhà chính trị của Việt Nam tiêu biểu cho các
nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Thơ ông lấy cảm hứng từ quê hương con người và tinh thần chiến
đấu của người chiến sĩ yêu nước. Những vần thơ chất chứa bầu máu nóng trong trái tim thi sĩ,
để rồi chúng kết đọng hòa quyện nên một hồn thơ giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén mang tâm
tư của người tri thức. Thơ Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng chất liệu văn hóa dân gian: “Câu thơ
dù ở thể thơ truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ.
Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng câu chữ” để “Những chữ ấy làm cho
rung động / Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”.
“Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người trí
thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân” – Có lẽ, đây chính là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến “Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân” mà nhà thơ gửi gắm vào đứa con tinh
thần của mình. Nếu những nhà thơ khác từ thời đại trước đến những năm tháng kháng chiến
hào hùng chống Pháp và chống Mĩ đều nhìn đất nước từ khía cạnh khách quan hay định nghĩa
đất nước thuộc quyền sở hữu của một triều đại vua chúa thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn đất
nước từ cái nhìn rất gần gũi, quen thuộc và gắn liền với những gì thuộc về nhân dân. Bởi lẽ,
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã trực tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân, cùng nhân
dân đứng lên bảo vệ Tổ quốc, cùng nhân dân cầm súng, cùng nhân dân đấu tranh nên ông thấu
hiểu những hi sinh mất mát nhà nhân dân hứng chịu, những khó khăn gian khổ, những mong
muốn của nhân dân. Chính vì vậy, đoạn trích “Đất Nước” nói riêng và trường ca “Mặt đường
khát vọng” nói chung đã tập trung thể hiện những gì thuộc về nhân dân. Và nó như một khúc
tráng ca để nhân dân hòa vang thể hiện niềm tự hào về những gì Nhân dân đã cống hiến, hóa
thân cho Đất Nước.
al
ci
ffi
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 2 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
2. Tác phẩm đoạn trích ĐẤT NƯỚC, Trích Trường ca “Mặt đường khát vọng”.
- Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V, của trường ca “Mặt đường khát
vọng” viết năm 1971, là một trong những đoạn thơ đặc sắc, thể hiện những cảm nhận riêng,
độc đáo của nhà thơ về Đất Nước. Ở đó, nguồn cảm hứng chi phối mạch thơ là “Tư tưởng
ĐấtNước của Nhân dân” về các phương diện: lịch sử, địa lý, văn hóa, đời sống tinh thần,...
- Trường ca “Mặt đường khát vọng” viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở thành thị các
vùng tạm chiếm miền Nam: Họ nhận thức rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ. Chính vì vậy,
văn học giai đoạn này nói chung và thơ Nguyễn Khoa Điềm nói riêng đã hướng về nhân dân,
đất nước, khi họ ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình và đứng dậy xuống đường đấu tranh
hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
∙ Định nghĩa đơn thuần về “Đất nước”:
+ Quan niệm về “Đất nước” trong các tác phẩm khác là toàn bộ vùng lãnh thổ bao gồm
vùng trời, vùng đất, vùng biển; là nơi cư trú của một cộng đồng dân tộc có ranh giới biên
cương, lãnh thổ phân chia.
+ Quan điểm “Đất Nước” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm đã được nâng lên, nó không đơn
thuần chỉ là lãnh thổ mà để đất nước tồn tại và phát triển là nhờ vào sự gắn kết sâu sắc giữa
các thế hệ về văn hóa, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, truyền thống lịch sử,…
3. Bố cục bài thơ
Phần 1. Cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về Đất Nước từ cội nguồn, định nghĩa đến nhận thức,
trách nhiệm trong mỗi cá nhân con người.
❖ Vấn đề 1. (9 câu thơ đầu): Lý giải cội nguồn của Đất nước có từ rất lâu đời và rất gần gũi,
thân thương đối với mỗi con người (từ huyền thoại, cổ tích đến truyền thống yêu nước, lao
động cần cù, thuần phong mĩ tục và lối sống tình nghĩa thủy chung...)
“Khi ta lớn lên....
..... có từ ngày đó....”
❖ Vấn đề 2. (20 câu thơ tiếp theo): Sự cắt nghĩa khái niệm Đất Nước của tác giả từ nhiều
phương diện (địa lý, lịch sử, văn hóa)
“Đất là nơi anh....
al

...... cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”


ci
ffi
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 3 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
❖ Vấn đề 3. (13 câu thơ tiếp theo): Đất nước là sự kết tinh, hóa thân trong mỗi con người,
chúng ta phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương,
xứ sở bằng những nhận thức và hành động cụ thể (gắn bó, san sẻ, hóa thân...)
“Trong anh và em hôm nay...
.... Đất Nước muôn đời”
Phần 2. Nhân dân chính là người làm ra Đất Nước: Nhân dân làm ra dáng hình Tổ quốc; làm
ra lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, đời sống tinh thần...; Nhân dân làm ra thần thoại, cổ tích, ca dao
dân ca...
❖ Vấn đề 4. (12 câu thơ tiếp theo): Dáng hình Đất nước được tạo dựng từ những địa danh,
thắng cảnh gắn với cuộc sống, số phận, tính cách, tâm hồn của nhân dân (từ tình nghĩa thủy
chung, thắm thiết đến sức mạnh bất khuất của con người; từ cội nguồn thiêng liêng cho đến
truyền thống hiếu học, non sông gấm vóc tươi đẹp vô ngần...)
“Những người vợ nhớ chồng....
....... đã hóa núi sông ta”
❖ Vấn đề 5. (18 câu thơ tiếp theo): Nhìn vào bốn nghìn năm lịch sử Đất nước, không ai khác
chính Nhân dân là người làm ra lịch sử dân tộc.
“Em ơi em....
.....đã làm ra Đất Nước”
❖Vấn đề 6. (17 câu thơ cuối): Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, bởi Nhân dân là người tạo
dựng và lưu truyền ngôn ngữ, văn hóa, tinh hoa cuộc sống cho đến ca dao thần thoại, cổ tích,
ca dao dân ca...
“Họ giữ và truyền cho ta.....
.....trên trăm dáng sông xuôi.”
4. Những nét độc đáo và đặc sắc nghệ thuật được thể hiện trong bài thơ “Đất Nước”
4.1. Thể thơ tự do
+ Thể thơ tự do gần như văn xuôi giúp từng ý thơ trong bài đều vận động bằng chiều
sâu trong triết lý trí tuệ; không véo von cầu kì, không bó buộc khuôn khổ, không ràng buộc
cảm xúc khi thể hiện.
al

+ Có những đoạn câu thơ chỉ có ba chữ, có những đoạn câu thơ giãn ra đến mười hai,
ci
ffi
42 O

mười bốn chữ; cách gieo vần, hợp âm biến tấu linh hoạt: khi vần chéo, vần lưng, không vần,...
06 T
80 LO

Cách ngắt nhịp theo ý thơ, nhạc điệu có nhiều âm sắc hiện đại...
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 4 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
4.2. Giọng thơ đậm chất trữ tình có sự đan xen giữa triết luận và chất chính luận.
+ Mượn hình thức tự sự trữ tình thông qua cuộc trò chuyện tâm tình giữa anh và em,
mang tính giãi bày, bộc bạch, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về tổ quốc, lồng vào đó suy nghĩ về
trách nhiệm và nghĩa vụ của thế hệ mình đối với đất nước. Chính chất tư duy logic và chất
thơ đã làm cho việc lý giải các vấn đề triết luận, gửi gắm tình cảm chung, tình cảm thiêng
liêng, lớn lao về đất nước trở nên sâu sắc.
+ Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và triết lý suy tư, giữa trữ tình và chính luận:
giúp giọng thơ thêm phần tha thiết, đằm thắm, thủ thỉ, nhẹ nhàng và sâu lắng; làm cho những
định nghĩa mang tầm triết học về đất nước trở nên dung dị, giản đơn, dễ hiểu, dễ nhớ mà
thấm thía, quen thuộc và gần gũi.
4.3. Sự cảm nhận về Đất Nước một cách toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều phương diện.
+ Trong chiều dài của lịch sử: Từ thời Lạc Long Quân và Âu Cơ đến thời các vua Hùng;
từ thời trung đại đến hiện đại; từ quá khứ, hiện tại đến tương lai...
+ Trong chiều rộng của không gian địa lý: từ Bắc – Trung – Nam đến vùng núi, đồng
bằng, vùng biển; từ không gian sinh hoạt đến không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa; từ
không gian hùng vĩ của núi cao, sông dài đến rừng vàng, biển bạc... Từ cụ thể đến khái quát,
từ gần gũi, thân thuộc đến cao cả, thiêng liêng...
+ Trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống, tâm hồn và tính cách dân tộc...
Khẳng định: Ba phương diện này được thể hiện trong sự gắn bó mật thiết với cuộc sống của
nhân dân. Bởi bất kì đâu, bất kì thời điểm nào, đất nước cũng hiện hữu ba phương diện trên
và nó từ nhân dân mà có. Vậy nên, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” chính là hệ quy chiếu
mọi cảm xúc và suy tưởng, là cốt lỗi trong quan niệm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn
nhắn gửi trong đứa con tinh thần của mình. Nhờ phát hiện mới mẻ này mà nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm đã làm sâu sắc hơn ý niệm về Đất Nước trong thơ ca kháng chiến thời chống Mĩ,
làm nổi bật sự quan trọng của tầng lớp nhân dân, tư tưởng “Đất nước của Nhân dân”: Bởi Đất
Nước có trong đời sống mọi mặt của Nhân dân, do Nhân dân làm ra, do Nhân dân gìn giữ, do
Nhân dân lưu truyền; Đất Nước sẽ trường tồn bất diệt cùng Nhân dân, được nói bằng tiếng
nói của Nhân dân, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ con cháu trong Nhân dân...
Khác với quan niệm của các nhà cách mạng, các nhà thơ thời đại trước khi họ tập trung
al
ci
ffi

nhấn mạnh vào quyền sở hữu, quyền làm chủ đất nước: coi đất nước là của Vua: “Nam quốc
42 O
06 T
80 LO

sơn hà Nam đế cư” (Sông núi nước Nam vua Nam ở) trong bản tuyên ngôn được coi là đầu tiên
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 5 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
khẳng định chủ quyền của người Việt trên lãnh thổ của mình. Hay Trần Quốc Tuấn trong
“Hịch tướng sĩ” cũng nói những vấn đề liên quan đến quyền sở hữu “thái ấp của ta, bổng lộc
các người”. Đến giai đoạn sau, có nhiều tiến bộ hơn về sự quan trọng của nhân dân nhưng
không khẳng định “Đất Nước là của Nhân dân”: Nguyễn Trãi nói “Có lật thuyền mới thấy dân
như nước”; Lênin nhận định “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”; Nguyễn Đình Chiểu
trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” cũng đề cao sức mạnh của nhân dân... Nhưng phải đến
“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm mới có cái nhìn nhận rõ ràng, chi tiết, mới mẻ là: Đất
Nước không của ai hết, không thuộc quyền sở hữu của thế lực cầm quyền nào mà “Đất Nước
của Nhân dân”.
4.4. Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian.
+ Vận dụng một cách sáng tạo, không trích nguyên văn những câu da dao dân ca hay
thành ngữ, tục ngữ, không kể lể dài dòng mà chỉ nắm bắt lấy cái hồn của văn hóa dân gian để
gợi liên tưởng, tạo suy ngẫm cho độc giả, tạo cảm giác vừa mới lạ vừa thân thuộc.
+ Chất liệu văn hóa lấy từ đời sống dân gian vừa gợi ra thế giới cổ tích vừa mang tính
chất trang trọng, thuyết phục phù hợp với mọi đối tượng: từ người trí thức, người có trình độ
văn hóa đến những người nông dân chân lấm tay bùn đều có thể hiểu, đều phải liên tưởng
tìm tòi, đồng sáng tạo cùng tác giả.
4.5. Tư duy nghệ thuật hiện đại.
+ Mượn những nghịch lí để diễn tả những khám phá, tư tưởng mới mẻ của mình. Không
vay mượn hay dùng những từ ngữ sáng tạo để thể hiện ý thơ mà dùng những từ ngữ rất quen
thuộc, dân dã, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày.
+ Trong một câu thơ thường hay xuất hiện hai đại lượng trái ngược: bên này cái nhỏ
bé, bên kia cái lớn lao: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”; “Đất Nước là nơi ta hò
hẹn”; “Đất là nơi Chim về”; “Nước là nơi Rồng ở”….
4.6. Ngôn ngữ
+ Tác giả viết hoa danh từ “Đất Nước” thể hiện sự trân trọng, thành kính, trang nghiêm
khi nói về Đất Nước của mình.
+ Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, chân thành, gần gũi như lời ăn tiếng nói hằng ngày nhưng
cũng đầy mãnh liệt gợi về nguồn cội xa xăm.
al
ci
ffi

+ Giọng thơ, nhịp điệu lúc tha thiết lúc trang nghiêm, sâu lắng; lúc trầm lặng, suy tư
42 O
06 T
80 LO

đậm chất chính luận; lúc lại như nhắn nhủ, thầm thì, thủ thỉ, tâm sự….
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 6 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Tư tưởng và Chủ đề yêu nước.
Tư tưởng yêu nước trong văn học Việt Nam không phải là một điều mới lạ. Nó như
hơi thở phả vào cuộc sống, nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta trong suốt chiều dài lịch sử
bao đời nay. Nhưng, mỗi giai đoạn, mỗi thời kì lại có những nét độc đáo, ấn tượng và
mới lạ riêng. Bởi trong nghệ thuật, “văn học là tấm gương lớn di chuyển dọc theo đường
biên của cuộc đời”. Thế nên, ở thời kì văn học trung đại, tình yêu nước được soi chiếu
bởi tinh thần trung quân ái quốc. Yêu nước tức là yêu vua, yêu nước là trung với vua,
hết lòng phụng sự vua như trong “Nam quốc Sơn Hà”, Lý Thường Kiệt khẳng định:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Và tinh thần trung quân ái quốc này được thể hiện và nêu cao trong suốt mười thế
kỉ Văn học Việt Nam. Ngoài ra, bên cạnh tư tưởng đất nước gắn với vua, thì đất nước
còn gắn với các dòng họ, các triều đại hay gắn với những người anh hùng của lịch sử,
những vĩ nhân của thời đại: “Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương”
Đất Nước trong “Bình Ngô đại cáo” của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi là đất nước
của các dòng họ: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn”
Còn thời Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán là Đất Nước gắn liền với hình ảnh người
anh hùng lịch sử Ngô Quyền; Thời vua Trần Hưng Đạo đánh đuổi quân Mông Nguyên,
đất nước gắn với hình ảnh Hưng Đạo Vương khéo tiến cử người giỏi cho đất nước hay
dưới thời Lý Thường Kiệt đánh thắng quân Tống trên dòng sông Như Nguyệt là Đất
Nước gắn với hình ảnh Thái úy đất Yên Phong:
“Nào đâu có trăng
Sao sông mang tên Như Nguyệt
Vẳng giọng hò nghe tha thiết
Tiếng quê hương – tiếng vọng ngàn xưa”
al
ci
ffi

(Trích “Bên dòng Như Nguyệt”)


42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 7 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Thế nhưng, khi chuyển sang giai đoạn văn học từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945, thì dất
nước đã khoác lên mình một “tấm áo mới”. Không còn gắn với tư tưởng “Trung quân ái
quốc” hay hiện diện dưới hình ảnh một vĩ nhân, một người anh hùng “áo vải” thời đại
nào, mà đất nước đã được soi chiếu bởi dáng hình của nhân dân, đất nước gắn với nhân
dân; Đất Nước hiện lên gắn với tư tưởng mang tính dân chủ. Và tư tưởng này được thể
hiện lần đầu tiên qua người trí thức yêu nước đến từ mảnh đất được mệnh danh là “Địa
linh Nhân kiệt” – Nhà cách mạng Phan Bội Châu với câu nói nổi tiếng: “Dân là dân nước,
còn nước là nước dân”. Không chỉ vậy, khi tiến bước sang làn gió của văn học kháng
chiến, tư tưởng Đất Nước Nhân dân lại tiếp tục được nổi bật với rất nhiều bài thơ ca
ngợi hình ảnh nhân dân gắn với đất nước: “Máu dân tuôn chảy đúc ngai vàng”, hay:
Nhân dân như cỏ ấy
Trải khắp thế gian này
Một màu xanh vĩnh cửu
Đến không bao giờ phai.
Và nhân dân cũng rạng ngời như trong “nhịp điệu tâm hồn” của Nguyễn Đình Thi viết:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về"
Như vậy, Nguyễn Khoa Điềm không phải là người đầu tiên và cũng không phải là người
duy nhất viết về tư tưởng Đất Nước Nhân dân. Thế nhưng, trước Nguyễn Khoa Điềm thì
chưa bao giờ tư tưởng Đất Nước Nhân dân lại trở nên tha thiết, nổi bật đến vậy; trước
Nguyễn Khoa Điềm chưa bao giờ tư tưởng: “Nhân dân – Đời nối đời sống mãi, Như màu
cỏ xanh tươi, Như vạn năng - lẽ phải” lại trở thành vấn đề mang tính trăn trở của cả
al
ci
ffi

thời đại như vậy. Người con của dòng mạch “trữ tình chính trị” ấy đã làm nên một bài
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 8 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
nghị luận về Đất Nước bằng thơ, và bài thơ “Đất Nước” đã thực sự trở thành một dòng
sông thơ ca về Đất Nước dạt dào và tha thiết, ngân vang mà mãnh liệt.

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


Phần 1: Cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về Đất Nước từ cội nguồn, định nghĩa đến nhận
thức, trách nhiệm trong mỗi cá nhân con người.
Vấn đề 1. (9 câu câu đầu): Nhà thơ lý giải cội nguồn của Đất Nước có từ rất lâu đời và rất
gần gũi, thân thương đối với mỗi con người: từ huyền thoại, cổ tích đến truyền thống
yêu nước, lao động cần cù, thuần phong mĩ tục và lối sống tình nghĩa thủy chung… Và
đó cũng là câu trả lời cho câu hỏi “Đất Nước là gì? Đất Nước có từ bao giờ?”.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
- Câu thơ đầu tiên: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”.
+ Đất Nước là một khái niệm to lớn, khi nói về Đất Nước là nói về điều thiêng liêng
nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại chọn một cách nói tự nhiên, nhẹ nhàng, sâu lắng đầy
chân thành.
+ Các tác phẩm nghệ thuật khác, khi nói về Đất Nước đều chọn một giọng điệu sử thi,
hào hùng, khí thế, trang trọng.
- Lời khẳng định về sự bắt đầu của Đất Nước (“Đất Nước có từ bao giờ?”): được thể hiện
qua câu thơ đầu “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”.
+ Đó là một lời khẳng định: thể hiện niềm tự hào về Đất Nước, bên cạnh đó Nguyễn
Khoa Điềm viết hoa danh từ Đất Nước để thể hiện sự thành kính, trao gửi thông điệp:
al

Đất Nước là Đất Nước chung của tất cả chúng ta, nhưng Đất Nước cũng là một phần
ci
ffi
42 O

riêng tư trong trái tim mỗi người.


06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 9 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Đất Nước được đo bằng thước đo của lịch sử gắn trực tiếp với mối quan hệ giữa TA
và ĐẤT NƯỚC. Tức rằng: Đất Nước có từ chính cuộc đời, số phận của ta – những con
người nhỏ bé, bình dị sống trên đất nước này. Và ngàn đời nay, dân gian ta cũng đã lấy
cuộc đời của chính mình, của bao thế hệ để nhận thức về Đất Nước và làm ra Đất Nước.
+ Cách nói: “Khi ta lớn lên...” là để chỉ sự trưởng thành của con người: Khi ta còn thơ
bé, có thể nhận thức về cuộc sống xung quanh, nhận thức về đất nước, về trách nhiệm
của mình đối với Tổ quốc vẫn còn non dại. Nhưng khi đã “lớn lên” nghĩa là khi đã trưởng
thành, đã biết suy nghĩ và nhận thức thì phải ý thức trách nhiệm được sứ mệnh của
mình đối với quê hương, đất nước, với nơi chôn rau cắt rốn của mình.
+ Ba chữ “đã có rồi” vừa là lời khẳng định vừa là lời bộc lộ niềm tự hào mãnh liệt về sự
trường tồn của đất nước. “Đã có” nghĩa là đất nước đã trường tồn qua mấy ngàn năm
lịch sử dựng nước và giữ nước, sẵn có trong mọi mặt, trong đời sống của người dân,
trong văn hóa, trong truyền thống hình thành và phát triển bao đời.
- 3 câu thơ tiếp theo: Lý giải về sự hình thành và phát triển của Đất Nước “có trong”
huyền thoại, cổ tích; Đất Nước “bắt đầu” với thuần phong mĩ tục và “lớn lên” với truyền
thống yêu nước của người dân nước Việt.
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
❖ Sự tồn tại của Đất Nước có trong huyền thoại, cổ tích: “Ngày xửa ngày xưa...” Để nói
về lịch sử trường tồn của Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không bắt đầu bằng
việc đưa các dữ liệu sử thi hay các mốc lịch sử vàng son mà gợi nhắc về những điều rất
gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống của nhân dân ta, đó là những chất liệu văn học dân
gian có trong huyền thoại, cổ tích:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
+ Cụm từ “ngày xửa ngày xưa…” thường được dùng trong câu mở đầu của những câu
chuyện cổ tích: “Ngày xửa ngày xưa, ở quận Cao - Bình có hai vợ chồng tuổi già mà chưa
có con. Nhà họ nghèo hàng ngày phải lên rừng chặt những bó củi về đổi lấy gạo nuôi thân.
al

Họ ham giúp người như đắp đường khơi cống, đỡ đần kẻ già người yếu mà không nề hà gì
ci
ffi

cả...” (Truyện cổ tích Thạch Sanh); “Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em cùng cha khác mẹ,
42 O
06 T
80 LO

chị tên là Tấm, em tên là Cám. Mẹ Tấm mất sớm, sau đó mấy năm cha Tấm cũng qua
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 10 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
đời,....” (Truyện cổ tích Tấm Cám); “Ngày xửa ngày xưa, trị vì cõi đất Âu - Lạc có một ông
vua tên là An Dương Vương. Vua có một nàng công chúa tên là Mị Châu...” (Truyền thuyết
về An Dương Vương)..., gợi ý niệm đất nước có từ rất lâu đời, rất xa xưa trong lịch sử.
“Đất Nước có trong...” truyện cổ tích, tức là Đất Nước có chất chứa mong mỏi, ước mơ,
khát vọng thiện lành, tốt đẹp của con người.
+ Cụm từ “ngày xửa ngày xưa...” còn như một bản nhạc du dương đưa ta về thế giới
với vầng trăng đưa nôi, với những câu hò điệu hát đong đầy trong lời ru của mẹ khi ta
còn thơ bé. Nó như dòng sữa mẹ ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn ta thêm trong sáng,
vun đắp cốt cách con người như những hạt giống xanh tốt vươn lên đón ánh nắng bình
minh của cuộc đời. Chính những bài học sâu sắc từ truyện cổ tích đã chăm bẵm cho ta
về cái “chân – thiện – mĩ” để ta biết yêu quê hương, đất nước, con người. Nói về ý nghĩa
của truyện cổ tích, nó không chỉ là lời ru, tiếng hát; là bài học, là sự giáo dục mà còn là
đời sống tinh thần trong mỗi con người.
+ Qua đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện niềm tự hào sâu sắc về truyền
thống cha ông, về bề dày lịch sử của một đất nước bốn ngàn năm văn hiến. Trong bốn
ngàn năm đó, không chỉ là công cuộc khai hoang bờ cõi, gìn giữ biên cương mà còn là
công cuộc giáo dục thế hệ con cháu đạo lý ân tình ân nghĩa, cái thiện cái ác, lịch sử
dân tộc thông qua các câu chuyện huyền thoại cổ tích.
❖ Sự khởi đầu của Đất Nước là bắt đầu từ thuần phong mĩ tục: “…bắt đầu miếng trầu
bây giờ bà ăn…” là nghĩa tình và là sự gắn kết, hội ngộ năm tháng.
Không chỉ định hình Đất Nước “...có trong cái ngày xửa ngày xưa...”, mà nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm còn xác định buổi ban đầu của Đất Nước qua một nét sống giản dị
nhưng đậm đà bản sắc dân tộc của những người bà, người mẹ Việt Nam. Đó là phong
tục “ăn trầu”:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
+ Hình ảnh “miếng trầu” gợi cho ta về nghĩa tình. Điều đó bắt nguồn từ “Sự tích trầu
cau”, một câu chuyện cổ tích mang ý nghĩa nhân văn nhân bản sâu sắc và được xem là
truyện xưa nhất trong những câu chuyện cổ. Tục lệ “ăn trầu” cũng từ câu chuyện này
al

mà nên – một phong tục rất riêng mang bản sắc của người Việt xưa nay, thấm vào
ci
ffi

miếng trầu dung dị ấy là bốn nghìn năm lịch sử, bốn nghìn năm ông bà ta gìn giữ phong
42 O
06 T
80 LO

tục ăn trầu.
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 11 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Hình ảnh miếng trầu gợi ra sự hội ngộ năm tháng, sự gắn kết giữa các thế hệ: Hình
ảnh “miếng trầu” thủy chung, chia sẻ mọi vui buồn, thăng trầm, sự kiện quan trọng
trong đời sống người dân, nó còn gợi về mối quan hệ tình nghĩa truyền thống tốt đẹp
của người Việt Nam: Trong tục cúng lễ, miếng trầu quả cau là biểu tượng cho tấm lòng
thành của con cháu dâng gửi đến ông bà, những bậc tiền bối đã khuất, là nhịp cầu giao
cảm với tiền nhân. “Miếng trầu” còn gợi ra huyền sử tình yêu, tượng trưng cho mối
quan hệ vợ chồng thủy chung, son sắt. Và cũng có lẽ vì thế mà “miếng trầu” đã trở
thành vật biểu tượng cho tình yêu, hôn nhân và gia đình.
+ Ý thơ đã đánh thức trong chúng ta một điều tưởng chừng như đơn giản nhưng lại
vô cùng thấm thía: Muốn có được những điều lớn lao (có được Đất Nước) đừng coi
thường những vật phẩm quen thuộc (hình ảnh “miếng trầu”), bởi trong mỗi vật phẩm
quen thuộc có thể chứa đựng những điều hết sức thiêng liêng (“miếng trầu” là văn hóa,
là phong tục, tập tục của người dân, từ đó hình thành văn hóa cho một đất nước). Điều
đó cho thấy, đất nước này sở dĩ có được ngày hôm nay, tồn tại đến tận bây giờ và mãi
mãi về sau là nhờ vào sự sống bền bỉ của nó với những vật tưởng như rất bình thường,
nhỏ nhoi và đơn giản.
❖ Sự trưởng thành của Đất Nước là từ truyền thống yêu nước thương nòi: “... lớn lên khi
dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Đó là hình ảnh gợi sự nỗ lực vươn lên của một
dân tộc chịu thương, chịu khó, luôn sẵn sàng “rũ bùn đứng lên sáng lòa”.
Nếu Đất Nước “tồn tại” từ trong những câu chuyện cổ tích “cái ngày xửa ngày xưa”,
“khởi đầu” từ lịch sử và là sự kết tinh từ tâm hồn văn hóa Việt thì để Đất Nước “trưởng
thành” được như ngày hôm nay chính là từ nhận thức của mỗi cá nhân mang trong
mình dòng máu Lạc Hồng với truyền thống yêu nước thương nòi, đánh giặc giữ nước:
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
+ Câu thơ còn gợi nhắc cho ta nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng – chàng trai làng
Phù Đổng Thiên Vương đã nhổ tre đôi bờ làng Ngà mà đánh giặc; chàng trai với tiếng
nói đầu đời là khao khát đánh đuổi giặc ngoại xâm. Điều đó gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn
của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất, anh dũng, hi sinh chỉ với mong muốn giữ
al

làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ nền độc lập,…
ci
ffi

+ Song song với những tấm gương hi sinh thân mình vì đất nước còn là hình ảnh cây
42 O
06 T
80 LO

tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê, gắn bó mật thiết với đời sống con
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 12 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
người, là sự đồng hiện cho những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật
thà chất phác, đôn hậu thủy chung, yêu chuộng hòa bình nhưng cũng rất kiên cường
bất khuất trong đấu tranh. Tre đứng thẳng, hiên ngang bất khuất, “tre giữ làng, giữ
nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín…”; tre cùng gánh vận mệnh chung của dân
tộc, chia sẻ khó khăn trong chiến đấu: “Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ” hay:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
⮚ Qua ba câu thơ, ta thấy: Sự hình thành, tồn tại và trưởng thành của Đất Nước
là dựa vào ba tài sản lớn về văn hóa tinh thần của người dân: Đó là những câu chuyện
cổ tích, ca dao dân ca, thành ngữ, tục ngữ; thói quen, tập tính, phong tục và truyền
thống đánh giặc của người dân nước Việt. Chính những điều nhỏ nhoi, bình dị không
thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày ấy lại làm nên bộ mặt văn hóa khi ta hô vang hai
tiếng Việt Nam.
- 4 câu thơ tiếp: Những yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục, lối sống thủy chung
son sắt, đức tính cần cù lao động, chịu thương chịu khó của con người Việt Nam đã gợi
lên bóng hình Đất Nước.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
+ Điểm chung của những ý thơ: Đều là sự đổ bóng, in hằn bóng hình của những người
bà, người mẹ. Vẻ đẹp của Đất Nước.
- Ý thơ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu”
+ Vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn
thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu). Không phải
ngẫu nhiên mà hình ảnh người phụ nữ lại được nhà thơ nhắc đến ngay đầu tiên với vẻ
đẹp giản dị này, bởi lẽ hình ảnh người bà, người mẹ tần tảo sớm hôm với mái tóc được
búi gọn đằng sau đã đi sâu từng ký ức của mỗi người con khi nhớ về quê hương, nhớ về
al

bà, về mẹ.
ci
ffi

+ Nét đẹp ấy cũng đi vào những câu ca dao dân ca một cách nhẹ nhàng, sâu lắng:
42 O
06 T
80 LO

Tóc ngang lưng vừa chừng em bới


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 13 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Để chi dài cho rối lòng anh

hay Tóc em dài em cài hoa lí


Miệng em cười có ý anh thương.

hoặc Em đi khắp bốn phương trời


Chẳng đâu lịch sự bằng người ở đây
Gặp người má đỏ hây hây
Răng đen rưng rức tóc mây rườm rà.
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
+ Cách nói của Nguyễn Khoa Điềm: Miêu tả một cách chân thực, gần gũi.
- Ý thơ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
+ Nét đẹp văn hóa tiếp theo mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn gửi đó là đạo
lí ân tình ân nghĩa, thủy chung son sắt ngàn đời của dân tộc, là sự gắn kết giữa các đấng
sinh thành, của cha, của mẹ. Chính tình nghĩa ấy đã tạo nên mái ấm gia đình cho con
khôn lớn, cho con trưởng thành từng ngày.
+ Thành ngữ “Gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách sâu sắc: Gừng càng già
càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau càng lâu càng tình
nghĩa càng đong đầy, càng thấu hiểu, càng dung hòa với nhau. Hình ảnh ấy gợi ta nhớ
tới câu ca:
Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
+ Tình cảm chân thành ấy là nguồn gốc của mọi tình yêu thương như suối nguồn chảy
qua bao thế hệ, đó là sự gắn kết giữa đời này với đời sau.
- Ý thơ: “Cái kèo, cái cột thành tên”.
+ Câu thơ gợi nhắc một nét văn hóa của người Việt, đó là truyền thống làm nhà “kèo
– cột” (Các “kèo” có hình tam giác cân, trong kiến trúc cổ là hệ thống gỗ kết nối các đầu
cột để đỡ hai mái dốc cho chắc chắn; Các “cột” đẩy mái nhà lên cao, kèo giữ cái cột lại
al

với nhau làm nên sự bền vững, kiên cố cho khung nhà).
ci
ffi
42 O

+ Cũng chính từ gian nhà tình nghĩa ấy, thói quen đặt tên con bằng những vật dụng
06 T
80 LO

quen thuộc cũng ra đời như cái Đục, cái Bè, cái Na, thằng Tít,…
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 14 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
- Ý thơ: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
+ Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp của người bà, người mẹ hay tình nghĩa thủy chung,
phong tục tập quán mà đất nước còn đẹp rạng ngời với truyền thống lao động cần cù,
chịu thương chịu khó của người dân sớm hôm tần tảo với nền văn minh lúa nước.
+ Thành ngữ “một nắng hai sương” lại một lần nữa được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
sử dụng một cách đầy tinh tế. “Một nắng hai sương” gợi lên sự tần tảo, lam lũ, cần cù,
chịu thương chịu khó của người nông dân chân lấm tay bùn.
+ Để có được hạt gạo trắng ngần ta trồng ngày hôm nay là quá trình gìn giữ nét văn
hóa từ đời cha ông để lại với nền văn minh trồng lúa nước. Và để có được bát cơm dẻo
thơm ta thưởng thức hàng ngày trong mỗi bữa cơm người nông dân phải trải qua bao
nắng sương vất vả gieo, cấy, xay, giã, giần, sàng… Thấm vào trong từng hạt gạo bé nhỏ
ấy là vị mặn của giọt mồ hôi với những nhọc nhằn của người dân.
+ Ý thơ cũng khéo léo nhắc nhở chúng ta về đạo lý ân tình ân nghĩa: Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây, Uống nước nhớ nguồn… Ăn hạt gạo dẻo thơm ngày hôm nay phải biết nhớ
đến công lao người làm ra nó.
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
- Câu thơ cuối khép lại như một lời khẳng định đầy tự hào “Đất Nước có từ ngày đó…”
+ “Ngày đó” là một khái niệm phiếm chỉ. Để cho chúng ta tự nhận thức.
+ Nhưng lại có sự nhấn mạnh và khẳng định: Ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn
đó là ngày ta nhận thức về truyền thống, phong tục tập quán, nền văn hóa mà có văn
hóa của Đất Nước.
⇨ Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm điểm lại các di sản văn hóa gần gũi, quen thuộc (huyền
thoại, cổ tích; truyền thống yêu nước; lối sống thủy chung, tình nghĩa; đức tính cần cù,
lao động…) của ông cha để lại chứ không phải là những công trình kì vĩ, những thi phẩm
văn hóa kiệt tác, những đền đài miếu mạo… Một kiểu tóc của bà, của mẹ cũng là một
giá trị văn hóa hay một cái tên thường nhật cũng là một giá trị văn hóa hoặc một cái
yêu nhau nên duyên vợ chồng cũng thuộc về phạm trù văn hóa; một đức tính cần cù
lao động cũng là một phương diện văn hóa. Hoặc đơn giản là những câu ca dao, dân
al
ci
ffi

ca, tục ngữ, thành ngữ, huyền thoại còn được lưu truyền trong kí ức cũng chính là tài
42 O
06 T
80 LO

sản về văn hóa.


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 15 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Những nét dung dị, giản đơn quen thuộc mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nhắn
gửi qua 9 câu thơ đầu làm ta nhớ đến lời Bác dặn trước lúc đi xa: “Rằng muốn yêu tổ
quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Ca dao, dân ca là nét đặc trưng văn hóa của
người dân Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải thấm nhuần, phải yêu và quý
trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước.
Nghệ thuật: thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo
chất liệu văn hóa dân gian như tập tục ăn trầu, búi tóc, truyền thống đánh giặc, nền
văn minh lúa nước… Nhà thơ vận dụng linh hoạt các thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân ca
vào các ý thơ một cách sâu sắc. Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần và luôn
được viết hoa thể hiện sự trân trọng, nâng niu, tình cảm trân quý của nhà thơ đối với
Tổ quốc… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn
ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng mang âm hưởng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn
mang đậm tính triết lý sâu lắng.
- Đoạn dẫn dắt vào nội dung Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã từng trải lòng mình
phân tích: Cảm nhận mới mẻ trước câu hỏi: “Suy tư về Đất Nước của ông hiện nay so
của nhà thơ về Đất Nước từ cội với trước thế nào?” rằng: “Ở cái tuổi của ông bây giờ khó
nguồn, định nghĩa đến nhận có thể viết được những vần thơ như thế nữa, nhưng suy
thức, trách nhiệm trong mỗi nghĩ về Đất Nước của tôi vẫn vậy. Đất Nước là của nhân
cá nhân con người. dân chứ không phải của các triều đại, của các ông vua.
Nhân dân xây dựng lên Đất Nước, Đất Nước là của nhân
+ Đất Nước giản dị, gần gũi, dân nên phải chăm lo cho nhân dân. Trước nay tôi vẫn
quen thuộc với mỗi chúng ta. luôn nghĩ vậy!”. Điều đó cho thấy: Dù trong những năm
tháng oai hùng của dân tộc, hay, dù không còn sống
+ Đó là cảm nhận riêng biệt, trong không khí sôi nổi của thời đại, thì người con được
độc đáo của Nguyễn Khoa nuôi dưỡng bởi nguồn nước mát bắt từ dòng chảy sông
Điềm khi thể hiện tư tưởng, Hương xứ Huế vẫn luôn một lòng hướng về nhân dân,
cách nhìn về Đất Nước. yêu nhân dân và thấu hiểu nhân dân bằng cả bầu máu
nóng của mình. Thế nên, ông mới có thể “thay mặt thế
hệ mình để phát biểu tâm tư với tinh thần công dân, với
al
ci
ffi

nhiệt tình tuổi trẻ” về Đất Nước một cách sâu sắc mà
42 O
06 T
80 LO

thấm thía đến vậy.


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 16 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Nói đến “thơ” - nhịp cầu kết nối trái tim với trái tim,
nhà thơ Sóng Hồng từng khẳng định: “Thơ là sự thể hiện
thời đại một cách cao đẹp nhất”, và viết về hình ảnh Đất
Nước đổ bóng lên những trang thơ trong thời đại của
mình, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng những màu son của
chất liệu văn hóa quen thuộc, gần gũi mà thân thương
đối với tất cả mọi người để tô đậm dáng hình Đất Nước,
để mang tới cho chúng ta một câu trả lời sâu sắc về sự
tồn tại của Đất Nước, về điểm khởi đầu của nó. Có lẽ,
thẳm sâu trong trái tim đang đập của mỗi người con
nước Việt này, ai cũng đã từng hơn một lần tự vấn về
câu hỏi: “Đất Nước là gì? Đất Nước có từ bao giờ?”. Xét
theo phản xạ tự nhiên, chúng ta sẽ tìm đến những mốc
son của lịch sử, những năm tháng được ghi danh của
dân tộc, hay những con số trong nghiên cứu khoa học
để tìm đáp án. Thế nhưng, Nguyễn Khoa Điềm đã trả
lời câu hỏi đó theo cách riêng của mình. Riêng, nhưng
không hề lạc lõng, mà nó gợi tầng sâu trong cách nhìn
nhận, cách nghĩ và cách tư duy của thế hệ những lớp
người đã trưởng thành từ mái trường xã hội chủ nghĩa.
- Câu thơ đầu tiên: “Khi ta lớn Đến với chín câu thơ đầu trong nội dung soi chiếu
lên Đất Nước đã có rồi”. cảm nhận mới mẻ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về
Đất Nước từ định nghĩa cội nguồn đến nhận thức,
+ Đất Nước là một khái niệm trách nhiệm trong mỗi cá nhân chúng ta được dẫn vào
to lớn, khi nói về Đất Nước là với một giọng điệu thơ rất khác, rất đặc biệt. Nó gợi
nói về điều thiêng liêng, cao một cảm giác rất nhẹ nhàng, rất sâu lắng, âm vang
cả nhưng Nguyễn Khoa Điềm ngân lên như một bản nhạc đồng quê. Có lẽ, khi nói về
lại chọn một cách nói tự Đất Nước chúng ta đã quá quen thuộc với giọng thơ
nhiên, nhẹ nhàng, sâu lắng hùng tráng, sôi nổi, hào sảng mà thiêng liêng, trang
al
ci
ffi

đầy chân thành. trọng mà khí thế của các nhà thơ trước như Chế Lan
42 O
06 T
80 LO

Viên đã cất lên một tiếng gọi Đất Nước trong bài thơ
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 17 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Các tác phẩm nghệ thuật “Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” thay tiếng lòng
khác khi nói về Đất Nước đều của bao con người một cách đầy tự hào:
mang giọng điệu sử thi, hào "Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
hùng, khí thế, trang trọng. Tổ quốc ta bao giờ đẹp thế này chăng?”
Hay Lê Anh Xuân – vì sao đổi ngôi của văn học cách
mạng cũng chấp bút:
“Bốn ngàn năm dựng cơ đồ
Vạn năm từ thuở ấu thơ loài người
Ôi Việt Nam! Việt Nam ơi!
- Lời khẳng định về sự bắt đầu Việt Nam, ta gọi tên Người thiết tha”.
của Đất Nước (“Đất Nước có từ Đất Nước là một khái niệm thiêng liêng, khi nói về Đất
bao giờ?”): được thể hiện qua Nước ta cần thể hiện một sự thành kính, nghiêm trang.
câu thơ đầu “Khi ta lớn lên Đất Đặc biệt, trong những năm tháng đau thương và mất
Nước đã có rồi”. mát, nói về Đất Nước ta hay tìm đến giọng điệu sử thi
để ca ngợi. Vậy nên, những bản hùng ca đi cùng năm
+ Đó là một lời khẳng định: tháng gắn với Đất Nước là điều hoàn toàn dễ hiểu. Thế
thể hiện niềm tự hào về Đất nhưng, Nguyễn Khoa Điềm lại lựa chọn một giọng điệu
Nước, bên cạnh đó Nguyễn hết sức tâm tình, tự nhiên mà chân thành để thể hiện
Khoa Điềm viết hoa danh từ lòng mình, để nói về Đất Nước. Nó rưng rưng, nó làm
Đất Nước để thể hiện sự thành trái tim chúng ta như có điều gì đó lắng đọng. Hình
kính, trao gửi thông điệp: Đất như, Nguyễn Khoa Điềm không đơn thuần chỉ nói về
Nước là Đất Nước chung của Đất Nước, hay cố đưa ra một định nghĩa xét trên khái
tất cả chúng ta, nhưng Đất niệm, trên lý thuyết, mà ông như đang tâm sự, đang
Nước cũng là một phần riêng trút hết bầu tâm tình, đang chia sẻ, đang nhắn nhủ một
tư trong trái tim mỗi người. điều gì đó với chúng ta. Ngẫm sâu về giọng điệu trong
lời thơ kia, ta thấy nó là một sự trăn trở, một suy nghĩ
thực sự về Đất Nước cần được trao gửi: Đất Nước là
một phần gì đó, là một điều gì đó, là một lẽ gì đó hết
sức tự nhiên trong mỗi người. Với cách nói đầy tâm
al
ci
ffi

tình kia, ta hiểu rằng: Đất Nước từ một khái niệm lớn
42 O
06 T
80 LO

lao, cao cả đã trở thành một điều một lẽ hết sức tự


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 18 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
nhiên, chân thực thẳm sâu trong ta. Đất Nước như hơi
thở, như tế bào, như con người, như dòng máu đỏ chảy
nơi huyết mạch này. Ta tìm về với chính mình, tức là
tìm về cội nguồn của Đất Nước, ta tìm về phần sâu
thẳm trong mình cũng là lúc ta đang tìm về với linh hôn
của Đất Nước. Nguyễn Khoa Điềm đã trao chiếc chìa
khóa mở về cội nguồn Đất Nước một cách rất đặc biệt,
mới nhưng không hề xa lạ, ngược lại rất gần gũi, quen
thuộc, để lại sự thấm thía, tác động sâu đến tầng nhận
thức, suy tư trong ta. Có như thế ta mới thấm sâu lời
Tố Hữu giãi bày: “Cuộc bể dâu mà con người nhìn thấy
trong văn thơ dân tộc là máu trong trái tim người nghệ
sĩ”, là “những hạt ngọc ẩn trong bề sâu tâm hồn con
người”. Phải yêu Đất Nước, yêu con người, thấu hiểu
nhân dân mình lắm, thì Nguyễn Khoa Điềm mới bắt
+ Đất Nước được đo bằng nhịp bài thơ chan chứa được như thế!
thước đo của lịch sử gắn trực Chúng ta, mỗi người sẽ có một cách tìm về với Đất
tiếp với mối quan hệ giữa TA Nước theo nhiều cách thức khác nhau: Có thể hát về
và ĐẤT NƯỚC. Tức rằng: Đất Đất Nước với những ca từ rất đỗi thiêng liêng như
Nước có từ chính cuộc đời, số trong bài hát “Đất Nước ơi” của Phạm Minh Tân, qua
phận của ta – những con tiếng ca vang dội của Trọng Tấn:
người nhỏ bé, bình dị sống “Xin hát về Người - Đất Nước ơi
trên đất nước này. Và ngàn Xin hát về mẹ Tổ quốc ơi!”
đời nay, dân ta cũng đã lấy Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp cận Đất Nước dưới
cuộc đời của chính mình, của góc độ chính cuộc đời mình trong sự kết hợp giữa “ta”
bao thế hệ để nhận thức về với “Đất Nước”. Ta ở đây là anh, là em, là những người
Đất Nước và làm ra Đất Nước. con bình dị trên mảnh đất hình chữ S này; là những
con người hết sức cụ thể có mối quan hệ trực tiếp với
Đất Nước trên cây cầu của nhận thức. Số phận chúng
al
ci
ffi

ta sẽ song hành cùng số phận của Đất Nước, ta chính


42 O
06 T
80 LO

là Đất Nước và Đất Nước có trong chính cuộc đời của


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 19 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
chính chúng ta. Như vậy, ngay từ câu thơ mở đầu,
Nguyễn Khoa Diềm đã đưa mối quan hệ sóng đôi đối
ngẫu giữa “chúng ta” – những con người hết sức bé nhỏ
với “Đất Nước” – một khái niệm thiêng liêng, to lớn. Ta
nhận ra rằng, trước Nguyễn Khoa Điềm chưa một ai lấy
bản thân mình, số phận mình, cuộc đời mình để làm
thước đo lịch sử dân tộc, do chiều dài Đất Nước khác
lạ đến vậy. Nhưng với tư tưởng của thế hệ những người
con được nuôi dưỡng dưới mái trường xã hội chủ nghĩa
thì tinh thần dân tộc trong họ luôn sôi sục để họ hướng
về cội nguồn như một lẽ tự nhiên. Bởi, cách đo lấy
chiều dài cuộc đời mình để đo chiều dài Đất Nước là
cách đo của dân gian, nó vẫn hiện hữu trong cuộc sống
hàng ngày của chúng ta, như khi hỏi về cây cầu hay gốc
đa, ngôi đình nào đó có từ bao giờ, chúng ta vẫn lấy thời
gian đời người để hình dung: “Cây cầu này được xây từ
ngày bố mẹ tớ còn nhỏ”, hay “ngôi đình này có từ thuở
ông bà tôi”, “gốc đa ấy được trồng từ khi người dân còn
chưa biết thâm canh tăng vụ giống lúa mới”… Và cái hay
của Nguyễn Khoa Điềm là ông đã lấy cách đo, cách cảm
của dân gian, cách suy nghĩ của nhân dân để đo lịch sử
Đất Nước. Thế mới thấy, đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm
ta cảm thấy lạ nhưng thật quen, “quen như hương lúa,
hương mạ trên đồng; như lời bà lời mẹ hát bên tai” là bởi
lẽ vậy! Nó càng được nhấn mạnh hơn qua lời khẳng
định của Mai Bá Ấn: “Chính chiều sâu của những giá trị
văn hóa đã tạo nên nét phong cách riêng làm nên gương
mặt thơ Nguyễn Khoa Điềm”.
Nét nổi bật trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là “Tư tưởng
al
ci
ffi

Đất Nước của Nhân dân”, tư tưởng này không phải do


42 O
06 T
80 LO

Nguyễn Khoa Điểm sáng tạo ra, mà đó là tư tưởng được


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 20 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Cách nói: “Khi ta lớn lên...” kế thừa từ dòng chảy của văn học trước Cách mạng và
là để chỉ sự trưởng thành của được cất lên lần đầu tiên trong thơ của nhà yêu nước
con người: Khi ta còn thơ bé, Phan Bội Châu. Thế nhưng, Nguyễn Khoa Điềm là
có thể nhận thức về cuộc sống “người học trò xuất sắc nhất” khi đã lĩnh hội và biết cách
xung quanh, nhận thức về đất thể hiện, có cách tiếp cận rất riêng biệt. Chúng ta đến
nước, về trách nhiệm của với cuộc đời này có thể rõ tháng, rõ ngày nhưng không
mình đối với Tổ quốc vẫn còn rõ khi nào chúng ta sẽ biết nhận thức, và chính lúc ta
non dại. Nhưng khi đã “lớn nhận thức được “Khi ta lớn lên” tức là thời điểm ta biết
lên” nghĩa là khi đã trưởng nghĩ suy, khi ta biết ý thức về sự sống của mình, biết
thành, đã biết suy nghĩ và nhận thức về thế giới là lúc Đất Nước hiện diện trong
nhận thức thì phải ý thức ta một cách gần gũi, quen thuộc và gắn bó như thế một
trách nhiệm được sứ mệnh phần cuộc đời của ta, trong ta và là hơi thơ của ta. Giây
của mình đối với quê hương, phút ấy, khoảnh khắc ấy không thể xác định được rõ
đất nước, với nơi chôn rau cắt ràng, cụ thể mà nó đến một cách vô thức, lặng lẽ, âm
rốn của mình. thầm như những thế tế bào lớn dần theo năm tháng.
Nguyễn Khoa Điềm đã đánh thức ta, trao gửi đến ta
+ Ba chữ “đã có rồi” vừa là lời một tình yêu Đất Nước tự nhiên và nồng thắm như thế.
khẳng định vừa là lời bộc lộ Làm sao có thể xác định cụ thể được thời gian ta nhận
niềm tự hào về sự trường tồn thức về Đất Nước? Chỉ biết rằng, khi ta giật mình nhận
của đất nước. “Đã có” nghĩa là ra thì Đất Nước đã in sâu trong mình, tự nhiên mà nồng
đất nước đã trường tồn qua ấm! Cho nên, ngay sau câu thơ mở đầu, ngay sau ý mở
mấy ngàn năm lịch sử dựng “Khi ta lớn lên…” là lời khẳng định “Đất Nước đã có rồi”.
nước và giữ nước, sẵn có Đất Nước có rồi, ẩn sau dáng hình của bà, dưới lời ru
trong mọi mặt, trong đời sống của mẹ; Đất Nước có rồi ẩn trong truyền thống dân
của người dân, trong văn hóa, tộc, với những tập tục thân quen, với lối sống tình
trong truyền thống hình nghĩa của cha, của mẹ. Nếu trong thơ của Nguyễn Đình
thành và phát triển bao đời. Thi, hình ảnh đất nước hào hoa, kiêu hãnh, lãng mạn
và tràn đầy sức sống thì trong thơ Nguyễn Khoa Điềm
hình ảnh Đất Nước lại gần gũi, quen thuộc. Đất Nước
al
ci
ffi

tồn tại như một sinh mệnh độc lập, một số phận con
42 O
06 T
80 LO

người có đời sống tâm hồn, có tính cách, có tên gọi, có


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 21 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
sự hình thành trong ước mơ và hi vọng; có sự bắt đầu
từ với dáng hình sông núi; có sự lớn lên trong truyền
thống ông cha. Nên nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết
hoa danh từ chung “Đất Nước” như một sự thành kính
xuất phát tự tận sâu đáy lòng đến “Người” với hai chữ
“Đất Nước” viết hoa. Cách viết hoa ấy, cho chúng ta
một động lực đi tìm hiểu sâu hơn về một cuộc đời, một
con người mang tên “Đất Nước” in hằn trong sâu thẳm
trái tim của chính mình, chứ không đơn thuần chỉ đi
tìm về một đất nước chung chung trong tâm trí tất cả
mọi người.
Câu thơ: “Đất Nước có trong Và khi đã có lý do để đi tìm hiểu về cuộc đời của một
những cái “ngày xửa ngày ai đó, ta cần hiểu về nơi mà họ đã được sinh ra, quá
xưa…” mẹ thường hay kể”. trình lớn lên, khôn lớn và trưởng thành. Hiểu rõ điều
đó, nên khi viết về cuộc đời Đất Nước, nhà thơ Nguyễn
+ Sự tồn tại của Đất Nước có Khoa Điềm cũng cho ta ba thời điểm như ba cánh cửa,
trong huyền thoại, cổ tích: ba con đường bước vào cuộc đời của Đất Nước. Thời
“Ngày xửa ngày xưa...” Để nói điểm thứ nhất, là lúc “Đất Nước bắt đầu”: Đất Nước đã
về lịch sử trường tồn của Đất được sinh ra, đã được bắt đầu bởi những người bà,
Nước, nhà thơ không bắt đầu người mẹ, Đất Nước được sinh ra bởi những người phụ
bằng việc đưa các dữ liệu sử nữ Đất Việt nên “Đất Nước có trong những cái “ngày
thi hay các mốc lịch sử vàng xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”. Những cái “ngày
son mà gợi nhắc về những xửa ngày xưa” ấy chính là những câu chuyện cổ tích
điều rất gần gũi, quen thuộc thấm vào ta qua cánh võng đong đưa, qua “cánh nôi đôi
trong cuộc sống của nhân dân nhịp bắc cầu”. Những lời ru “À ơi” ấy đã cùng ta lớn lên,
ta, đó là những chất liệu văn đã in sâu vào tâm hồn, in đậm trong kí ức đến mức
học dân gian có trong huyền không cần thuộc cũng để nhớ, không cần nhắc cũng
thoại, cổ tích. đủ sức dội về, không cần nhìn cũng dư sức bắt lên câu
hát. Bởi bên chiếc nôi xinh kia, là:
al
ci
ffi

“Mẹ rũ cái lẽ ở đời


42 O
06 T
80 LO

Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”.


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 22 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Cụm từ “ngày xửa ngày Phần hồn của ta đã được nuôi dưỡng bởi những lời ru
xưa...” như dòng sữa mẹ ngọt chan chứa nghĩa tình, thấm đượm những ước mơ, hoài
ngào nuôi dưỡng tâm hồn ta bão và cả những khát vọng về cuộc sống tốt lành.
thêm trong sáng, vun đắp cốt Trong phần hồn của ta có ông Bụt dịu hiền, có cô Tấm
cách con người. Chính những thảo ngoan, có con chim biết nói điều kì diệu… Thế giới
bài học sâu sắc từ truyện cổ của những cái “ngày xửa ngày xưa” là sự kết đọng của
tích đã chăm bẵm cho ta về biết bao nhiêu thế hệ về cách nhìn nhận cuộc sống, về
cái “chân – thiện – mĩ” để ta cách con người đối xử với nhau. Nó chứa đựng niềm tin
biết yêu quê hương, đất nước, về một cuộc sống ấm no hơn, tốt đẹp hơn, thiện lành
con người. Nói về ý nghĩa của hơn. Tức rằng, khi chúng nhận ra những điều có trong
truyện cổ tích, nó không chỉ là cái “ngày xửa ngày xưa” cũng đồng nghĩa với việc
lời ru, tiếng hát; là bài học, là chúng ta nhận ra Đất Nước được sinh ra từ ước mơ và
sự giáo dục mà còn là đời sống khát vọng, mong mỏi và ước muốn nghìn đời nay của
tinh thần. nhân dân. Nhân dân ta là vậy, bao giờ cũng nhẹ nhàng
mà sâu sắc, âm thầm mà thấm thía để rồi ngân vang
như trong lời thơ “Truyện cổ nước mình” mà nhà thơ
Lâm Thị Mỹ Dạ viết:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì gặp người tiên độ trì
Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa”
❖ Sự khởi đầu của Đất Nước Và rồi trong dòng tâm tưởng ngào ngọt của hương

là bắt đầu từ thuần phong mĩ lúa đâm bông, quê mình thơm mùi gạo mới, ta say với
tục: “…bắt đầu miếng trầu bây tiếng gió chiều lồng lộng trên khắp các triền đê và lắng
nghe thêm một câu ca dao hòa cùng tiếng sáo. Đất
al

giờ bà ăn…”
ci
ffi

Nước hiện lên “tươi đẹp vô ngần”. Đất Nước trong ta lại
42 O
06 T
80 LO

càng lắng sâu hơn khi được sinh ra từ “miếng trầu” của
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 23 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Không chỉ định hình Đất bà: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”.
Nước “...có trong cái ngày xửa Hình ảnh miếng trầu bà ăn đưa chúng ta về câu chuyện
ngày xưa...”, mà nhà thơ nghĩa tình năm xưa – “Sự tích trầu cau” với sự hòa
Nguyễn Khoa Điềm còn xác quyện giữa vôi, lá trầu, và miếng cau tạo ra sắc đỏ như
định buổi ban đầu của Đất máu biểu trưng cho tình nghĩa thắm thiết anh em, vợ
Nước qua một nét sống giản chồng đã dạy chúng ta: Dù cuộc đời có cay đắng đến
dị nhưng đậm đà bản sắc dân đâu thì nghĩa tình vẫn thắm thiết, sâu đậm, “ăn vào cho
tộc của những người bà, người đỏ môi mình môi ta”. Thơ Nguyễn Khoa Điềm là thơ của
mẹ Việt Nam. Đó là phong tục “văn hóa, là sức mạnh của chân lý”, nên ta nhận ra rằng:
“ăn trầu”. Đất Nước đâu chỉ được sinh ra bởi ước mơ và khát
vọng, mà Đất Nước còn được sinh ra bởi nghĩa tình
+ Hình ảnh “miếng trầu” gợi trong miếng trầu của bà. Sâu sắc hơn thế, trong miếng
cho ta nhớ về “Sự tích trầu trầu của bà, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã đặt trạng
cau”, một câu chuyện cổ tích từ “bắt đầu” gắn với “bây giờ” như muốn nói: Miếng trầu
mang ý nghĩa nhân văn nhân bắt đầu từ quá khứ, từ xa xưa, từ thời của ngày xửa ngày
bản sâu sắc và được xem là xưa, và đến tận ngày nay nó vẫn còn hiện diện trong
truyện xưa nhất trong những cuộc sống đời thường của chúng ta thì miếng trầu đâu
câu chuyện cổ. chỉ đơn thuần là hình ảnh biểu trưng cho nghĩa tình,
mà nó còn là sự hội ngộ năm tháng, hội ngộ thế hệ một
+ Hình ảnh “miếng trầu” cách cụ thể trong những điều nhỏ bé bây giờ. Đất Nước
thủy chung, chia sẻ mọi vui cũng giống như con người, được sinh ra và gắn liền với
buồn, thăng trầm, sự kiện hình ảnh người phụ nữ Việt Nam, gắn liền với câu
quan trọng trong đời sống chuyện “ngày xửa ngày xưa” của mẹ, gắn bó với miếng
người dân, nó còn gợi về mối trầu bà ăn bây giờ. Đất Nước được sinh ra bởi nghĩa
quan hệ tình nghĩa truyền tình, bởi sự hội ngộ năm tháng giữa quá khứ và hiện tại
thống tốt đẹp. để hình thành sự sống bây giờ. Như sự hội ngộ của lớp
phì nhiêu bao đời kết thành với lớp phù sa hiện tại
trong một thớ đất cùng nhau vun xới cho cây trồng.
Vậy là Đất Nước bắt đầu và có trong những điều nhỏ
al
ci
ffi

bé, giản đơn như vậy, nhưng để Đất Nước vẹn tròn to
42 O
06 T
80 LO

lớn thì nó không chỉ được sinh ra mà còn phải lớn lên.
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 24 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Sự trưởng thành của Đất Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, “Đất Nước
Nước là từ truyền thống yêu lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Nghĩa
nước thương nòi: “... lớn lên khi là Đất Nước lớn lên nhờ vào truyền thống đánh giặc, ý
dân mình biết trồng tre mà thơ được gợi mở từ truyền thuyết Thánh Gióng nhổ bụi
đánh giặc”. tre ngà bên đường đánh đuổi giặc Ân khi roi sắt gãy.
Hình ảnh lũy tre đại ngàn chính là hình ảnh biểu trưng
+ Đất Nước lớn lên với cho sức mạnh của nhân dân. Trải qua biết bao thăng
truyền thống yêu nước trầm với sự nỗ lực tự khẳng định mình, tự vượt qua
thương nòi, đánh giặc giữ những gian khổ, tự vượt qua những khó khăn, thách
nước, bảo vệ quê hương. thức trong cuộc sống nhân dân ta đã sẵn sàng “rũ bùn
đứng lên sáng lòa”; từ một con người nhỏ bé nhưng với
+ Đất Nước “lớn lên” nghĩa là tình yêu quê hương, yêu đất nước mà dân ta trở nên
trưởng thành, mà con người phi thường, “tre giữ làng giữ nước, giữ mái nhà tranh”,
muốn trưởng thành phải có hình ảnh cây tre là hình ảnh đổ bóng cho tâm hồn của
nhận thức và nhận thức đó lại nhân dân:
là nhận thức về truyền thống “Loài tre đâu chịu mọc cong
dân tộc thì còn gì ý nghĩa, Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
thiêng liêng, cao cả hơn? Trong ý thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện, có một chữ,
một hư từ nhưng chứa đựng biết bao điều sâu lắng, đó
+ Câu thơ còn gợi nhắc cho là hư từ “mà”, ở trong chữ “mà” này là một khoảng lặng,
ta nhớ về truyền thuyết trong khoảng lặng ấy ta thấy hiện về không biết bao
Thánh Gióng – chàng trai làng nhiêu sự hi sinh, nhọc nhằn; không biết bao nhiêu thế
Phù Đổng Thiên Vương đã hệ những con người Việt Nam đã âm thầm nằm xuống
nhổ tre đôi bờ làng Ngà mà và dâng hiến để làm nên một Đất Nước to lớn như ngày
đánh giặc. Điều đó gợi lên vẻ hôm nay. Một nhà thơ nào đó đã từng nói: “Một bài thơ
đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ không thể tồn tại nếu không có khoảng trắng cho người
Việt Nam kiên cường, bất đọc đi về”, và ý thơ của Nguyễn Khoa Điểm đã góp phần
khuất, anh dũng, hi sinh chỉ làm nên thành công cho toàn bài thơ đa tạo cho chúng
với mong muốn giữ làng, giữ ta “một khoảng trắng đi về” khi ngẫm thấy, đây thực sự
al
ci
ffi

nước, giữ mái nhà tranh, giữ là một câu thơ được viết nên bởi thế hệ những con
42 O
06 T
80 LO

nền độc lập,…) người mà hình như họ đã yêu Đất Nước, họ đã hóa thân
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 25 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Hình ảnh cây tre hiền hậu cả cuộc đời mình cho Đất Nước đến mức độ họ hiểu
trên mỗi làng quê, gắn bó mật Đất Nước, họ thấm thía về sự trưởng thành của Đất
thiết với đời sống con người, Nước. Đồng thanh âm đó, làm ta nhớ lại bài thơ “Mùa
là sự đồng hiện cho những xuân nho nhỏ” của Thanh Hải với những câu thơ thấm
phẩm chất trong cốt cách con thía thế này:
người Việt Nam: thật thà chất “Đất Nước bốn ngàn năm
phác, đôn hậu thủy chung, Vất vả và gian lao”
yêu chuộng hòa bình nhưng Nói về Đất Nước như nói về một sinh thể sống, nói về
cũng rất kiên cường bất khuất Đất Nước như nói về một số phận; nói về Đất Nước một
trong đấu tranh. cách vừa tha thiết vừa trìu mến, lại vừa tự hào như nói
về một con người thì có lẽ chỉ có những thế hệ như
Nguyễn Khoa Điềm, như Thanh Hải – thế hệ những con
người đầy trăn trở, đầy ưu tú và đã hóa thân cho dáng
hình, cho xứ sở thì mới có thể viết được những câu thơ
giản dị mà thấm thía, đơn thuần mà tha thiết như thế!
Văn học giai đoạn những năm 1945 – 1975 được soi
chiếu bởi khuynh hướng sử thi cách mạng, Ở đó các
nhà thơ tạm thời gác đi cái tôi cá nhân rạo rực, say mê,
đầy lãng mạn của mình để thực hiện sứ mệnh lịch sử
với dân tộc, với Đất Nước. Đây là thời kì mà hình tượng
người chiến sĩ, hình tượng Đất Nước trở thành nhân
vật trung tâm nên có rất nhiều bài thơ viết về dáng
hình Đất Nước. Dưới mỗi ngòi bút Đất Nước lại được
hiện lên với những dáng hình khác nhau, từ đó ta thấy
Đất Nước Việt Nam thật tươi đẹp vô ngần. Nếu trong
thi phẩm “Việt Nam quê hương ta” của Nguyễn Đình Thi
ta say trong hương lúa mạ non với hình ảnh Đất Nước
được rung lên trong nắng mới với đồng lúa xanh thẳng
cánh cò bay:
al
ci
ffi

Việt Nam đất nước ta ơi


42 O
06 T
80 LO

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 26 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Thì đến với “Đường về quê mẹ” của Nguyễn Văn Cù,
ta được chứng kiến một dáng hình Đất Nước được đổ
vào dáng hình dòng sông, bãi mía, nương ngô thật nên
thơ, dịu nhẹ:
Những dòng sông trắng lượn ven đê.
- 4 câu thơ tiếp: Những yếu tố Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp.
mang vẻ đẹp thuần phong mỹ Điểm chung của những “nhịp cầu nối trái tim với trái
tục, lối sống thủy chung son tim” này, là dáng hình Đất Nước được in bóng trong
sắt, đức tính cần cù lao động, những hình ảnh quen thuộc, gắn liền với cuộc sống
chịu thương chịu khó của con thường ngày của chúng ta. Nhưng đối với Nguyễn Khoa
người Việt Nam. Điềm, ông lại chọn một điểm nhìn khác khi nói về dáng
hình Đất Nước, cũng quen thuộc nhưng rất thú vị và
Ý thơ: Tóc mẹ thì bới sau đầu. độc đáo. Đó là dáng hình Đất Nước được in trong dấu
ấn văn hóa qua dáng hình của mẹ, “Tóc mẹ thì bới sau
+ Nét văn hóa đầu tiên được đầu”. Một nhà văn người Nga đã từng nói: “Hình ảnh
nhắc đến trong bốn câu thơ Đất Nước đẹp nhất là hình ảnh được soi chiếu từ dáng
này là vẻ đẹp giản dị của người hình những người phụ nữ của nước đó”. Vì thế, khi nói
phụ nữ Việt Nam với phong về đất nước Nga chúng ta thường nhớ tới hình ảnh
tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn những cô gái với tấm vải voan choàng đầu cùng mái tóc
thành búi sau gáy tạo cho màu hạt dẻ; nói đến đất nước Hà Lan là gắn với hình
người phụ nữ một vẻ đẹp nữ ảnh người phụ nữ trên cánh đồng xanh non cùng
tính, thuần hậu). những chú bò đáng yêu, và chúng ta cũng không thể
quên một đất nước Tây Ban Nha với những cô gái Di-
+ Nét đẹp ấy cũng đi vào gan phóng khoáng và man dại. Để rồi quay trở lại với
những câu ca dao dân ca một mảnh đất hình chữ S thân yêu, ta bắt gặp dáng hình
al
ci
ffi

cách nhẹ nhàng, sâu lắng: Tóc Đất Nước được đặt trong dáng hình của mẹ, một dáng
42 O
06 T
80 LO

ngang lưng vừa chừng em bới hình tần tảo sớm hôm, chịu thương chịu khó; một dáng
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 27 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
hình đầy nhọc nhằn, lam lũ. Không phải “tóc mẹ thì búi
sau đầu” mà Nguyễn Khoa Điềm viết, “tóc mẹ thì bới sau
đầu”. “Bới sau đầu” là tóc bới ngay sau gáy, cái “bới” tóc
này xuất phát từ đặc trưng văn hóa gắn với công việc
lao động hàng ngày. Người Việt Nam thường làm đồng
trong điều kiện nắng chói chang, và công việc chính là
trồng lúa nên lúc nào cũng cúi xuống để cấy, nên bới
tóc trễ để có thể đội nón, quàng khăn tránh cái nắng
tháng Sáu “nước như ai nấu, chết cả cá cờ” mà giữ sức
khỏe làm việc nuôi chồng nuôi con. Còn búi tóc là mái
tóc được búi cao, yêu kiều duyên dáng nhưng ta không
yêu mái tóc búi cao, mà yêu cái dáng điệu bới trễ tóc.
Nó thể hiện một dáng điệu của con người Việt Nam,
một dáng điệu của dân tộc Việt Nam – một dân tộc
chịu thương chịu khó; một dân tộc chịu cơ chịu cực;
một dân tộc chịu nhọc chịu nhằn, chịu cay chịu đắng,
chịu đựng để vươn lên và mãnh liệt vươn lên. Ta thương
mẹ, thương cái vất vả của mẹ rồi từ đó thương Đất
Nước – một Đất Nước nhọc nhằn, vất vả, gian lao từ
ngay trong cái dáng hình của mẹ. Chính cái dáng hình
ấy mà sau này, nhà thơ Nguyễn Duy – nhà thơ trưởng
thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cũng đã bần
thần nhớ mẹ xa xưa để nhận ra cái cái nhọc nhằn lam
lũ của mẹ cùng nhân dân trong những câu thơ ngậm
ngùi rằng:
Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa”
al
ci
ffi

Mẹ Việt Nam của chúng ta là thế, cảm động như thế!


42 O
06 T
80 LO

Dường như, đến một lúc nào đó, ta đủ trưởng thành để


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 28 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
nhận ra rằng: Vẻ đẹp đích thực không phải là vẻ đẹp
của sự lấp lánh trong nón quai thao, vẻ đẹp của yếm
đào, của váy “mớ ba mớ bẩy” mà vẻ đẹp đích thực là vẻ
đẹp của sự hi sinh từ những người phụ nữ đánh đổi để
có được miếng cơm cho con, sự ấm no cho mái ấm gia
đình và hơn hết là cái “thắt lưng buộc bụng” của cả một
dân tộc để có được một tư thế đi lên đầy kiêu hãnh thì
lúc đó ta đã trưởng thành. Và Đất Nước cũng đã được
bắt đầu, rồi Đất Nước lớn lên như thế. Đâu phải cứ
những điều to lớn, cứ những vẻ đẹp lấp lánh thì mới đủ
sức lay động một trái tim, mà chính những điều nhỏ
bé, chính những thứ giản đơn chân chất như hơi thở,
như cuộc đời mới vun đắp một tình yêu to lớn, bền
chặt. Và ta yêu Đất Nước hơn từ những điều nhỏ bé
như thế!
+ Nét đẹp văn hóa tiếp theo Nếu “Cái kết tinh của mỗi vần thơ là muối và bể - Muối
mà nhà thơ Nguyễn Khoa lắng ở ô nề, thơ đọng ở về sâu” thì cái kết tính trong vẻ
Điềm muốn nhắn gửi đó là đạo đẹp dân tộc Việt Nam là nghĩa tình, nghĩa tình ấy lắng
lí ân tình ân nghĩa, thủy chung ở con người và đọng sâu sau những lam lũ nhọc nhằn
son sắt ngàn đời của dân tộc, cuộc đời mà ta đến với nhau, mà ta yêu thương nhau:
là sự gắn kết giữa các đấng “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Những
sinh thành, của cha, của mẹ. chàng trai, cô gái yêu nhau giản dị, không hề có đàn
Chính tình nghĩa ấy đã tạo cũng chẳng hề có gương nguyền, không hề có trăng
nên mái ấm gia đình cho con thề hay kỉ vật. Họ chỉ có gừng cay với muối mặn, với tất
khôn lớn, cho con trưởng cả những gì nhọc nhằn, lấm láp của cuộc đời gom chắt
thành từng ngày. lại, thế nhưng chính những điều giản dị ấy lại viết nên
được những bản tình ca thấm đượm tình người, vang
dài cùng năm tháng. Và điều thú vị mà Nguyễn Khoa
Điềm kí thác trong thơ cho chúng ta suy ngẫm một
al
ci
ffi

cách sâu sắc về nghĩa tình nằm ở chỗ: Muối thì mặn,
42 O
06 T
80 LO

gừng thì cay, nhưng muối mặn kết với gừng cay lại ra
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 29 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Thành ngữ “Gừng cay nghĩa tình ngọt ngào, kết tủa thành một tình yêu chan
muối mặn” được vận dụng chứa. Thế mới thấy, chính những đắng cay, mặn mòi
một cách sâu sắc: Gừng càng trong cuộc đời đã làm nên sự gắn bó bền chặt, như sau
già càng cay, muối càng lâu muối mặn gừng cay có sự ngọt ngào giống như cha mẹ
năm càng mặn, con người mình:
sống với nhau càng lâu càng Muối ba năm muối đang còn mặn,
tình nghĩa càng đong đầy, Gừng chín tháng gừng hãy còn cay.
càng thấu hiểu, càng dung Đôi ta nghĩa nặng tình dày,
hòa với nhau. Còn xa nhau đi nữa,
cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.
Nghĩa tình vợ chồng thủy chung sắt son, keo sơn gắn
bó sóng đôi với hình ảnh muối mặn, gừng cay từ lâu đã
+ Tình cảm chân thành ấy là trở thành một đề tài phổ biến trong văn học Việt Nam,
nguồn gốc của mọi tình yêu đặc biệt là ca dao:
thương như suối nguồn chảy “Hạt muối mặn ba năm còn mặn
qua bao thế hế, đó là sự gắn Lát gừng cay chín tháng còn cay
kết giữa đời này với đời sau. Hai ta ơn trượng nghĩa dày
Chưa bao năm tháng dứt rày nghĩa hơn”
Hay:
“Tay bưng đĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Nhưng điều làm nên sức hút trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm là ông không đưa hay trích ca dao vào thơ một
cách nguyên bản, mà chỉ lấy hình ảnh, lấy chất liệu gợi
ra nghĩa từ ca dao để người đọc tự rung lên những xúc
cảm, những nghĩ suy trong mình.
Cái kèo cái cột thành tên. Thơ ca phản ánh cuộc sống bằng hình tượng văn học,
đến với thơ ca ta như được bước vào thế giới “đa hình
+ Câu thơ gợi nhắc một nét khối” với những hình tượng khác nhau. Và thơ Nguyễn
al
ci
ffi

văn hóa của người Việt, đó là Khoa Điềm cũng vậy! Đó không chỉ là hình ảnh Đất
42 O
06 T
80 LO

truyền thống làm nhà “kèo – Nước phổ trong mái tóc của mẹ, mà Đất Nước cũng
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 30 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
cột” (Cái “kèo” có hình tam được hiện lên với những tên gọi thật giản dị với hình
giác cân, trong kiến trúc cổ là tượng cái Kèo, cái Cột trong tập tục làm nhà kèo cột
hệ thống gỗ kết nối các đầu của người dân Việt Nam xưa: “Cái kèo cái cột thành
cột để đỡ hai mái dốc cho tên”. Một Đất Nước mà một cái kèo, một cái cột cũng
chắc chắn; Các “cột” đẩy mái thành tên người thì sao có thể kể hết sự giản dị, đời
nhà lên cao, kèo giữ cái cột lại thường, dân dã của nó! Nước Việt Nam là vậy, dân tộc
với nhau làm nên sự bền vững, Việt Nam là thế, bình dị như những con người “Đất
kiên cố cho khung nhà). nghèo nuôi những anh hùng – Chìm trong máu lửa lại
vùng đứng lên”. Phải là một Đất Nước được lặn lội từ
+ Cũng chính từ gian nhà gian khổ, phải là một Đất Nước vươn lên từ khó nhọc
tình nghĩa ấy, thói quen đặt để khẳng định mình mới có được những tính cách như
tên con bằng những vật dụng thế. Ngoài ra, với tập tục làm nhà kèo cột, cái kèo có
quen thuộc cũng ra đời. hình tam giác cân, trong kiến trúc cổ là hệ thống gỗ
kết nối với các đầu cột để đỡ hai mái dốc cho chắc
chắn; các cột đẩy mái nhà lên cao, kèo giữ cột tạo nên
sự vững chắc, kiên cố cho khung nhà. Dân ta quan
niệm, kèo giữ cột càng chắc thì khung nhà càng vững,
từ đó thói quen đặt tên con bằng kèo, cột cũng ra đời
để nhắn nhủ rằng: Anh, em trong cùng một nhà phải
yêu thương gắn bó, phải đùm bọc chở che nhau, phải
đoàn kết đồng lòng như cái kèo, cái cột. Lớn hơn, rộng
hơn là cả dân tộc cùng chung một bọc trứng, cùng
chung một cội nguồn cũng phải biết yêu thương đùm
bọc nhau. Tất cả được thể hiện trong từng chi tiết nhỏ
nhất, trong từng hơi thở khẽ nhất của cuộc sống.
Hạt gạo phải một nắng hai Trong bài thơ “Cây rơm” của Nguyễn Ngọc Phú ông
sương xay, giã, giần, sàng… đã thể hiện niềm xúc động của mình trước những
người con gái “lưng cong” với những vần thơ thế này:
+ Không chỉ dừng lại ở vẻ “Thương em lưng cúi trên đồng
al
ci
ffi

đẹp của người bà, người mẹ Run run tay mạ cho lòng tôi nao”
42 O
06 T
80 LO

hay tình nghĩa thủy chung,


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 31 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
phong tục tập quán mà đất Cõ lẽ hình ảnh quê hương gắn với những bông lúa
nước còn đẹp rạng ngời với vàng nặng trĩu được ngân lên từ luống ruộng cày đã
truyền thống lao động cần cù, không còn xa lạ với tất cả chúng ta.
chịu thương chịu khó của “Mồ hôi tìm dọc luống cày
người dân sớm hôm tần tảo Lẫn trong thớ đất bám dầy chân quê
với nền văn minh lúa nước. Cỏ may đếm dọc bờ đê
Mong manh níu bước ta về tuổi thơ”.
+ Thành ngữ “một nắng hai Bởi nước Việt Nam là đất nước gắn liền với nền nông
sương” được nhà thơ Nguyễn nghiệp lúa nước, gắn với cây lúa cây ngô, gắn liền với
Khoa Điềm sử dụng một cách ruộng đồng nên nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã không
đầy tinh tế. “Một nắng hai chỉ dừng lại ở vẻ đẹp truyền thống hay tình nghĩa thủy
sương” gợi lên sự tần tảo, lam chung son sắt Đất Nước còn đẹp rạng ngời với vẻ đẹp
lũ, cần cù, chịu thương chịu lao động cần cù, chịu thương chịu khó, tần tảo sớm
khó của người nông dân chân hôm của nhân dân trong công cuộc làm ra hạt lúa, hạt
lấm tay bùn. gạo: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần,
sàng…”. Để làm ra hạt gạo nhỏ bé, người Việt Nam đã
+ Để có được hạt gạo trắng phải trải qua biết bao công đoạn, con người Việt Nam
ngần ta trồng ngày hôm nay là đã phải chịu thương chịu khó biết bao nhiêu. Có bao
quá trình gìn giữ nét văn hóa giờ, chúng ta đọc một câu thơ giản dị mà thấy rưng
từ đời cha ông để lại với nền rưng đôi mắt, thấy lắng trên đầu môi vị mặn của giọt
văn minh trồng lúa nước. Và mồ hôi trầm sâu như thế không? Để làm ra một hạt gạo
để có được bát cơm dẻo thơm mà trải qua biết bao nhiêu công đoạn chất chứa nắng,
ta thưởng thức hàng ngày sương; làm ra một miếng ăn mà chất chứa biết bao
trong mỗi bữa cơm người nhọc nhằn, vất vả. Để hôm nay, ta bưng trên tay bát
nông dân phải trải qua bao cơm dẻo thơm là những “đắng cay muôn phần”. Có lẽ
nắng sương vất vả gieo, cấy, vì thế, mà dân ta mới mang trong mình tính cách của
xay, giã, giần, sàng… sự nỗ lực, luôn cố gắng chăm chỉ và cần mẫn; con người
Việt Nam biết nâng niu trân trọng những thứ dù cho
có nhỏ bé nhất.
al
ci
ffi

Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, khi viết về người


42 O
06 T
80 LO

nông dân lao động, khi thể hiện sự biết ơn, trân quý
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 32 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Ý thơ cũng khéo léo nhắc công sức của những con người đã đổ dáng hình mình
nhở chúng ta về đạo lý ân tình trên luống cày, các tác giả thường sử dụng thể thơ lục
ân nghĩa: Ăn quả nhớ kẻ trồng bát hay ca dao để diễn tả, bởi thơ lục bát vốn gần gũi
cây, Uống nước nhớ nguồn… với làng quê nông thôn, với người lao động chân phác
Ăn hạt gạo dẻo thơm ngày thật thà. Những làn sóng cảm xúc chân thực gặp nhau
hôm nay phải biết nhớ đến tạo nên vần thơ nhẹ nhàng mà thiết tha đến lạ:
công lao người làm ra nó. “Công em chín nắng mười mưa
Từ trong cằn cỗi bây giờ lên xanh”.
Thì Nguyễn Khoa Điềm lại đi riêng một dòng chảy,
ông tìm đến với thể thơ tự do, không ép theo niêm luật
để cảm xúc của mình có thể được rung lên một cách
tự nhiên nhất.
- Câu thơ cuối khép lại như lời “Thơ hay là hay cả xác lẫn hồn” (Xuân Diệu), nếu chỉ
khẳng định chắc nịch đầy tự có cảm xúc thôi chưa đủ, thơ cần có đôi cánh nghệ
hào “Đất Nước có từ ngày đó…” thuật để nâng đỡ sức mạnh của trái tim. Qua chín câu
thơ đầu, chúng ta nhận ra câu trả lời cho câu hỏi: “Đất
+ “Ngày đó” là ngày nào ta Nước có từ bao giờ” thật khác xa so với những gì chúng
không rõ nhưng chắc chắn đó ta trông đợi. Bởi chúng thường nghĩ rằng: Đất Nước
là ngày ta có truyền thống, có phải là mốc son cụ thể hay những sự kiện chính xác.
phong tục tập quán, có nền Vậy mà Nguyễn Khoa Điềm sau một đoạn thể hiện
văn hóa mà có văn hóa nghĩa những suy ngẫm, giải nghĩa, cắt nghĩa lại cho chúng ta
là có Đất Nước. một câu kết luận “Đất Nước có từ ngày đó…”. Ngày đó
là ngày nào, ta không rõ. “Ngày đó” là một khái niệm vô
⇨ Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cùng phiếm chỉ, nhưng cái phiếm chỉ này đã tự khơi
điểm lại các di sản văn hóa dậy trong chúng ta, đã tự vang lên trong chúng ta một
gần gũi, quen thuộc (huyền nỗ lực suy tư, một nỗ lực tự suy ngẫm về sự gắn bó của
thoại, cổ tích; truyền thống mình với Đất Nước, tự suy ngẫm về mối quan hệ chặt
yêu nước; lối sống thủy chẽ giữa mình và Đất Nước để rồi cho hiểu rằng, Đất
chung, tình nghĩa; đức tính Nước có tự bao giờ, chính là có từ truyền thống chúng
al
ci
ffi

cần cù, lao động…) của ông ta xuất hiện, gắn bó với những con người được sinh ra
42 O
06 T
80 LO

cha để lại chứ không phải là trên mảnh đất này. Chúng ta sống nghĩa là chúng ta
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 33 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
những công trình kì vĩ, những cũng làm ra Đất Nước, khi chúng ta ý thức về sự tồn tại
thi phẩm văn hóa kiệt tác, của mình, cũng đồng nghĩa với việc chúng ta khẳng
những đền đài miếu mạo… định sự tồn tại của Đất Nước. Dấu “…” kết thúc đoạn
Một kiểu tóc của bà, của mẹ thơ như tạo nên sự vang vọng trong tâm trí của chúng
cũng là một giá trị văn hóa ta, để ta hiểu rằng: Đất Nước có tự bao giờ là phụ thuộc
hay một cái tên thường nhật vào mỗi con người với trách nhiệm của mình, với cuộc
cũng là một giá trị văn hóa sống của mình, với cộng đồng, với Tổ quốc thân yêu.
hoặc một cái yêu nhau nên Bài thơ đã được bắt đầu một cách giản dị mà sâu lắng
duyên vợ chồng cũng thuộc như vậy. Và bài thơ cũng đã trao truyền, đã vang lên
về phạm trù văn hóa; một đức trong ta về một suy nghĩ, một cách nhìn mới mẻ về Đất
tính cần cù lao động cũng là Nước. Chỉ khi chúng ta trở về với lịch sử ông cha, với
một phương diện văn hóa. số phận thế hệ những con người đã phả mình vào Đất
Hoặc đơn giản là những câu Nước; ngày ông bà, tổ tiên chúng ta đã sống, đã ý thức
ca dao, dân ca, tục ngữ, thành về sự sống của mình để gửi đến thế hệ ngày hôm nay
ngữ, huyền thoại còn được lưu một sự sống qua một lời khẳng định sự tồn tại: “Khi ta
truyền trong kí ức cũng chính lớn lên Đất Nước đã có rồi. Đất Nước có từ ngày đó”.
là tài sản về văn hóa. Khi ta trầm mình trong “Đất Nước” của Nguyễn Đình
Thi với “hương cốm mới” thoang thoảng nơi đầu sống
mũi ta ngỡ đó là hình ảnh Đất Nước đẹp nhất, nhưng
cho đến khi đọc những dòng tâm tình đầy suy tư của
Nguyễn Khoa Điềm ta mới như được sống dậy một tình
yêu Đất Nước một cách trọn vẹn hơn bao giờ hết.
Không lớn lao, kì vĩ chỉ nhỏ bé, giản dị nhưng gần gũi,
chan chứa vô cùng. Quả thật: “Thế giới không chỉ được
tạo lập một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất
hiện là một lần thế giới được tạo lập” (Marxel Proust).
Để rồi những vần thơ không biết tự bao giờ cứ thế ngân
lên trong trái tim chúng ta và trở thành một điệu hồn
mang đậm dáng hình của quê hương xứ sở, nơi mà “Ai
al
ci
ffi

đi xa cũng phải nhớ về”.


42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 34 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Vấn đề 2. Sự cắt nghĩa khái niệm Đất Nước của tác giả từ nhiều phương diện: địa lý, lịch
sử, văn hóa qua các chiều không gian (kỉ niệm gắn với mỗi người, tình yêu đôi lứa; không
gian lao động, sinh tồn; không gian cội nguồn).
+ Không gian kỉ niệm gần gũi trong cuộc sống sinh hoạt đời thường của mỗi người:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
+ Không gian gắn với tình yêu đôi lứa:
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
+ Không gian lao động, sinh tồn tạo nên sự tráng lệ, rộng lớn, giàu đẹp của vùng lãnh
thổ đất nước.
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
+ Không gian gắn với cội nguồn: hạt nhận chính là gia đình trao truyền, tiếp nối.
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
- Luận điểm 1: Không gian kỉ niệm gắn với những điều gần gũi, quen thuộc trong cuộc
sống sinh hoạt đời thường của mỗi người:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
+ Đất Nước được tách ra thành hai thành tố: Đất và Nước. Đất Nước ở đây đã gắn với
al
ci
ffi

những kỉ niệm thân thuộc trong ký ức của mỗi người ngày còn thơ ấu cắp sách tới
42 O
06 T
80 LO

trường.
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 35 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Thành tố “Đất” – để chỉ con đường anh tới trường hàng ngày; là ngôi trường cung
cấp hành trang, tri thức cho chúng ta tự tin bước vào đời; là nơi những cánh chim non
thêm chắc đôi cánh vươn tới những chân trời mới; là nơi anh được tiếp xúc với đất mẹ
để chắp cánh bao nhiêu ước mơ, hoài mãi, khát vọng…
+ Thành tố “Nước” là dòng sông nơi em thả mình tắm mát mỗi trưa hè; dòng nước chở
nặng phù sa vun đắp những cánh đồng thơm ngát, những bãi mía, nương ngô… là nơi
in dấu, đổ bóng dáng hình của bà, của mẹ.
 Ý thơ thật lãng mạn và ngọt ngào: Cho ta nhận ra những gì thuộc về cuộc sống
hằng ngày đã trở thành một phần của Đất Nước.
- Luận điểm 2: Không gian Đất Nước của tình yêu đôi lứa:
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
+ Đất Nước chia tách cho anh và em có không gian riêng tư, nhưng khi ta hò hẹn Đất
Nước lại hòa nhập là một và trở thành không gian hẹn hò của đôi lứa yêu nhau. Không
gian ấy sẽ là nơi nâng bước và minh chứng cho tình yêu của hai đứa với những lời thề
nguyện thủy chung son sắt, những lời hẹn ước yêu đương…
+ “Nơi ta hò hẹn”: Chính ở mảnh đất yên bình đó đã gắn kết nhịp đập của hai trái tim
khi họ yêu nhau, là nơi khởi nguồn tình yêu trong anh với em, gắn kết hai trái tim hòa
quyện thành một. Anh yêu em cũng là lúc anh nhận ra sự nồng thắm của Đất Nước, em
yêu anh là khi em nhận ra mình sự nồng ấm của Đất Nước trong hơi thở của mình.
+ Hình ảnh “chiếc khăn” chính là biểu tượng tình yêu, của nỗi nhớ thương. Bởi chẳng
ai yêu mà không nhớ như Xuân Diệu đã từng viết: “Làm sao sống được mà không yêu -
Không nhớ không thương một kẻ nào” hay nữ hoàng thơ tình Xuân Quỳnh cũng viết
trong Sóng: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”. Ý thơ còn làm ta nhớ đến
những vần ca dao lay động lòng người, bồi hồi xao xuyến trước tình cảm chân thành
của những trái tim đương thời say đắm:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
al
ci
ffi

Khăn vắt lên vai


42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 36 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Tình yêu Đất Nước được gợi lên một cách thật thơ mộng, đáng yêu: Một chiếc khăn
bay qua cũng đủ làm nên một dáng hình, đủ khơi gợi một tình yêu Đất Nước to lớn:
Tình yêu nước được gợi từ những điều nhỏ bé, mỏng manh, đơn giản….
Luận điểm 3: Đất Nước gắn với không gian lao động sinh tồn và tạo nên sự tráng lệ, rộng
lớn, giàu đẹp của vùng lãnh thổ:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
+ Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mượn chất liệu dân ca là câu hò Bình Trị - Thiên để
cảm nhận Đất Nước trên phương diện không gian tráng lệ, rộng lớn, giàu đẹp của vùng
lãnh thổ. Nguyên văn câu hò: “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc – Con cá
ngư ông móng nước ngoài khơi – Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời – Kẻo mai kia con cá
về sông vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh”.
+ Không gian tráng lệ, rộng lớn ấy có thể hiểu là núi sông, bờ cõi; là ba miền Bắc –
Trung – Nam một dải nối liền. “Hòn núi bạc” như dãy Trường Sơn hùng vĩ, sừng sững,
hiên ngang; “Biển bạc” là biển Đông mênh mông sóng nước. Cách nói này, giúp ta hình
dung đất nước Việt Nam là một cường quốc giàu tài nguyên thiên nhiên – nhiều rừng
vàng, biển bạc, khoáng sản phong phú, đất đai màu mỡ.
+ Hình ảnh con chim phượng hoàng và con cá ngư ông chính là vẻ đẹp huyền thoại in
dấu trong những bài ca dao để mĩ hóa vẻ đẹp con người trong công cuộc khai mở, xây
dựng và bảo vệ Đất Nước.
+ Trong 4.000 năm lịch sử đằng đẵng, với non sông Đất Nước này dân mình đã tụ về
và tô điểm bằng cách mĩ hóa vẻ đẹp của chính mình để gắn kết với Đất Nước bằng
những giá trị và phẩm chất trong tâm hồn.
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
+ “Thời gian đằng đẵng” gợi ra quãng thời gian với bao lớp thế hệ cha ông thay nhau
nằm xuống để giữ gìn và bảo vệ Đất Nước, hòa dáng hình vào thế núi, hình sông để tạo
ra “Không gian mênh mông” kia chính là mảnh đất thiêng liêng chúng ta sinh sống và
al
ci
ffi

phát triển.
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 37 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Dù trải qua biết bao thăng trầm lúc chia cắt, khi hợp khi tan thì không gian sinh tồn
Bắc – Trung – Nam một dải vẫn là “nơi dân mình đoàn tụ”. Hai từ láy “đằng đẵng”, “mênh
mông” kết hợp cùng ý thơ “nơi dân mình đoàn tụ” đã lột tả được một đất nước có truyền
thống từ lâu đời với tinh thần đoàn kết, cùng nhau làm ăn sinh sống, gìn giữ và bảo vệ
Đất Nước.
+ Ý thơ làm ta nhớ đến những lời cuối trong bản “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cái để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Luận điểm 4: Đất Nước gắn với không gian cội nguồn (chiều dài, chiều sâu của lịch sử).
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
+ Không gian cội nguồn gắn với “Đất là nơi Chim về”, “Nước là nơi Rồng ở”, gắn với mẹ
Âu Cơ, cha Lạc Long Quân – Đó là khởi nguồn, là cội gốc của dân tộc Việt Nam.
+ Với tình yêu nồng nàn dành trọn cho Đất Nước thân yêu, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
thể hiện tình cảm của mình vào ý thơ một cách đầy tự hào khi ông gợi lại huyền sử lung
linh về dòng dõi Lạc Hồng – dòng dõi con Rồng cháu Tiên của người dân nước Việt. Đó
là truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên: Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong
bọc trăm trứng nở trăm con, 50 theo cha lên rừng, 50 theo mẹ xuống biển, khai thiên
lập địa – một truyền thuyết ra đời đã từ rất lâu, và cũng là truyền thuyết lý giải nguồn
gốc người Việt.
+ Từ truyền thuyết ấy, dân ta tự hào mình là con Rồng, cháu Tiên, là con cháu Vua
Hùng. Và cũng chính truyền thuyết ấy đã nhắc nhở chúng ta: Tất cả đều là anh em một
nhà, dù có lên rừng hay xuống biển, dù có ngoài đảo xa xôi hay đất liền thương mến thì
nguồn cội từ xa xưa vẫn được đẻ ra từ trong một bọc trứng, vì vậy hãy luôn biết yêu
thương, che chở, động viên, giúp đỡ lẫn nhau.
Nghệ thuật: Nghệ thuật chiết tự, tách Đất và Nước ra để định nghĩa. Đất Nước gắn
với mỗi cá nhân nhỏ bé để làm nên điều lớn lao; từ không gian kỉ niệm đến không gian
al
ci
ffi

cội nguồn. Nhấn mạnh: Đất Nước không phải là khái niệm to lớn, cao cả mà đơn thuần
42 O
06 T
80 LO

là những gì nhỏ bé phủ trên mọi không gian, nẻo đường và thời gian của ta.
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 38 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Đất Nước không ở đâu xa, mà Đất Nước tồn tại thân
thương quanh ta, trong cái cơi bà ăn trầu, trên dậu mồng
tơi trồng ngoài sân; Đất Nước là hương đồng lúa chín, như
bữa cơm rau chị nấu hàng ngày; trong lời kể của mẹ, trong
lời ru của bà… Ở chín câu thơ ở đầu với sự trả lời cho câu
hỏi: “Đất Nước có từ bao giờ?”, chúng ta nhận ra góc độ
tiếp cận rất riêng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về Đất
Nước. Đó là góc độ gắn ta, gắn cuộc đời ta trực tiếp với sự
tồn tại của Đất Nước. Lần đầu tiên, Đất Nước được hiện
diện một cách cụ thể, gần gũi, sâu lắng đến thế! Ai đó đã
từng nói: Trên đời này có những thứ, khoảng cách cũng
không thể ngăn nổi sự tương giao hòa hợp, và dường như
sự tâm giao, tương đồng ấy đã đến với hai trái tim cách
nhau nửa vòng trái đất nhưng vẫn chung một nhịp đập, là
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và nhà văn người Nga, I-li-a
Ê-Ren-Bua. Hai trái tim luôn thổn thức về dân tộc ấy đã
cùng rung một tần số khi nhìn về Đất Nước. Nếu “Lòng
yêu nước” của Ê-ren-bua được cất lên vào lúc người dân
nước Nga đang đối mặt với sức mạnh của phát xít Đức, và
chưa bao giờ người dân nước Nga cần một sự nỗ lực cao
độ đến như thế cho cuộc chiến đầy khốc liệt này. Và để
đánh thức sức mạnh dân tộc trước những thách thức lớn
của lịch sử, Ê-ren-bua đã viết những câu văn nổi tiếng thế
này: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm
thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ
đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu
hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh… Dòng suối đổ
vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông
Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê
al
ci
ffi

trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Để rồi sau đó Ê-ren-bua kết


42 O
06 T
80 LO

luận “Nếu mất nước Nga rồi thì ta còn sống để làm gì nữa?”.
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 39 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Còn Nguyễn Khoa Điềm, khi Đất Nước Việt Nam, dân tộc
Việt Nam đứng trước cuộc chiến không cân sức với đế
quốc Mĩ, ông cũng tìm về những điều nhỏ bé nhất: Từ “cái
ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể” đến miếng trầu bây
giờ bà ăn từ hạt gạo, nhánh gừng, từ hạt muối, hạt ngô
đến cái kèo, cái cột… Tất cả đều cấu thành hai tiếng “Đất
Nước” thiêng liêng. Hình như, khi đứng trước những thách
thức lớn của dân tộc thì con người đều có chung những
cảm nhận đẹp đến giản đơn như vậy. Và Đất Nước cũng
đẹp trong sự tồn tại nhỏ bé, giản đơn nhưng đầy kiêu
hãnh, để rồi ta hạnh phúc hiểu rằng, văn học nghệ thuật
“làm no nê trái tim người dân chẳng khác gì triệu triệu
những hạt nước li ti làm bão hòa không khí trên đai Đan
Mạch. Người nói vì thế mà không ở đâu có cầu vồng rộng
lớn và rạo rực như ở thơ”, như ở trong từng câu chữ.
- Luận điểm 1: Không gian Paustovsky đã nói về người nghệ sĩ, về công việc gom
kỉ niệm gắn với những điều chữ rằng: Họ đã lượm lặt những hạt thơ trên luống đất của
gần gũi, quen thuộc trong người dân cày, và ấp ủ chúng nơi trái tim rồi gieo vào
cuộc sống sinh hoạt đời những túp lều, từ đó lớn lên và nở ra những đóa hoa thơm
thường của mỗi người. thật đẹp. Và thế, nên đôi khi chúng ta hạnh phúc vì dưới
những trang thơ thơm thảo kia, ta phát hiện, ta nhìn thấy,
Đất là nơi anh đến trường ta cảm nhận được một thế giới mới với những điều tưởng
Nước là nơi em tắm chừng như không thể nhưng lại rất thú vị. Và Đất Nước
của Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, đặc biệt khi ông cho
+ Đất Nước được tách ra chúng ta một khái niệm mới, một định nghĩa mới, một
thành hai thành tố: Đất và cách chiết tự mới về Đất Nước. Thông thường, khái niệm
Nước. Đất Nước ở đây đã Đất Nước là không thể tách rời, bởi khái niệm Đất Nước
gắn với những kỉ niệm thân rộng lớn hơn rất nhiều so với khái niệm Đất, khái niệm
thuộc trong ký ức của mỗi Nước. Thế nhưng, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm cách chiết
al
ci
ffi

người ngày còn thơ ấu cắp tự Đất Nước ra thành hai thành tố Đất và Nước. Chính
42 O
06 T
80 LO

sách tới trường. cách bẻ chữ ấy đã vô tình cho chúng ta một cái nhìn mới
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 40 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
về Đất Nước mà chưa bao giờ chúng ta chạm tới, chúng
ta với tới. Nhỏ bé thôi, đơn giản thôi nhưng thật gần gũi
và thắm thiết.
Nếu chín câu thơ đầu, góc nhìn về thời gian và nét đẹp
văn hóa được hiện diện một cách cụ thể, thì đến với đoạn
thơ cắt nghĩa về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã cho
chúng ta một câu trả lời rõ ràng nhưng không kém phần
thú vị với ba lần tách Đất và Nước ra để soi chiếu gắn với
không gian kỉ niệm riêng tư, lớn lên thành không gian đôi
lứa; đó còn là không gian lao động sinh tồn của dân tộc
ta; chưa dừng lại ở đó, Đất Nước còn được gắn với không
gian cội nguồn dân tộc. Chúng ta bước qua giai đoạn văn
học 1930 – 1945 với sự nở rộ của phong trào Thơ Mới nên
đã quen thuộc với một cái tôi cá nhân đầy riêng tư: “Đời
chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề
+ Thành tố “Đất” – để chỉ sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng
con đường anh tới trường Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư,
hàng ngày; là ngôi trường ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say
cung cấp hành trang, tri cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không
thức cho chúng ta tự tin bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ
bước vào đời; là nơi những buồn trở về hồn ta cùng Huy cận. Cả trời thực, trời mộng
cánh chim non thêm chắc vẫn neo theo hồn ta” (trích “Một thời đại trong thi ca”, Hoài
đôi cánh vươn tới những Thanh), Và đến với ý thơ:
chân trời mới; là nơi anh Đất là nơi anh đến trường
được tiếp xúc với đất mẹ để Nước là nơi em tắm
chắp cánh bao nhiêu ước Đất Nước là nơi ta hò hẹn
mơ, hoài bão, khát vọng… Nguyễn Khoa Điềm đã đưa chúng ta trở về với không
gian của cá nhân riêng tư, nhưng không phải là cái tôi
+ Thành tố “Nước” là dòng “mất bề rộng ta đi tìm về sâu”, mà đó là một không gian
al
ci
ffi

sông nơi em thả mình tắm gắn với cá nhân cụ thể, sâu sắc để ta gắn kết cùng mọi
42 O
06 T
80 LO

mát mỗi trưa hè; dòng người. “Đất là nơi anh đến trường”, đó là Đất đã nâng cánh
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 41 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
nước chở nặng phù sa vun ước mơ cho anh, là con đường đã xây đắp biết bao nhiêu
đắp những cánh đồng thơm những hoài bão, mộng ước của anh. Anh đã được tiếp sức
ngát, những bãi mía, nương từ đất mẹ với biết bao nhiêu khát vọng. Đất là nơi anh đến
ngô… là nơi in dấu, đổ bóng trường, là con đường anh đi học. Còn “Nước là nơi em
dáng hình của bà, của mẹ. tắm”, Nước gắn với dáng hình của em, dáng hình nơi bến
sông mỗi lần em ra gánh nước; dánh hình em trong công
 Ý thơ thật lãng mạn việc lao động hàng ngày, tần tảo hôm sớm đã làm nên
và ngọt ngào: Cho ta nhận dáng hình Đất Nước. Dáng hình tần tảo, yêu thương, ngọt
ra những gì thuộc về cuộc ngào của em đã hòa vào Nước để rồi chảy vào mạch
sống hằng ngày đã trở nguồn Đất Nước. Một Đất Nước từ đó vô cùng e ấp, vô
thành một phần Đất Nước. cùng ngọt ngào. Có lẽ, cho đến bây giờ chúng ta đã cởi
mở hơn khi nói về những điều cá nhân thiêng liêng, dòng
chảy văn học hiện đại đã cởi mở hơn những thế kỉ trước
nhưng vẫn thật hiếm những câu thơ nói về điều riêng tư
một cách đằm thắm, mộng mơ, tươi mát đến thế. Điều đó
góp phần truyền tải cái nhìn trìu mến của Nguyễn Khoa
Điềm về những bến nước, bờ sông, con sông con suối xứ
sở; về những gì gắn với cuộc sống hàng ngày… Tất cả đã
trở thành một phần Đất Nước.
- Luận điểm 2: Không gian Tách ra rồi lại nhập vào, “Đất Nước là nơi ta hò hẹn”. Đất
Đất Nước gắn với tình yêu Nước là nơi chứng kiến thời điểm anh gặp em, Đất Nước
đôi lứa. là chứng kiến ta đã trao gửi đến nhau những cái nhìn đầu
tiên; là khi anh xúc động nhìn sâu vào đôi mắt em; là khi
+ Đất Nước chia tách cho em bối rối nhìn vào anh. Ta đã hò hẹn trên Đất và trên
anh và em có không gian Nước. Đất và Nước trở thành nơi chứng kiến tình yêu của
riêng tư, nhưng khi ta hò đôi ta. Một ý thơ vô cùng lãng mạn nhưng cũng đầy thú
hẹn Đất Nước lại hòa nhập vị làm cho Đất Nước giản dị thế thôi, nó đơn giản chỉ là
là một và trở thành không khoảnh khắc chúng ta gặp nhau khi anh nhận ra rằng: Anh
gian hẹn hò của đôi lứa. yêu em cũng là lúc anh yêu cái nồng thắm của Đất Nước.
al
ci
ffi

Khi chúng ta nhận ra chúng ta yêu nhau cũng là lúc ta


42 O
06 T
80 LO

nhận ta sự hiện diện của Đất Nước trong tình yêu đôi ta.
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 42 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ “Nơi ta hò hẹn”: Chính ở Để rồi “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi
mảnh đất yên bình đó đã nhớ thầm”. Câu thơ gợi đến câu ca dao:
gắn kết nhịp đập của hai Khăn thương nhớ ai,
trái tim khi họ yêu nhau, là Khăn rơi xuống đất.
nơi khởi nguồn tình yêu Khăn thương nhớ ai,
trong anh với em, gắn kết Khăn vắt lên vai.
hai trái tim hòa quyện Khăn thương nhớ ai,
thành một. Khăn chùi nước mắt.
Giây phút em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm,
+ Hình ảnh “chiếc khăn” cái khoảnh khắc tương tư, cái giây phút em nhớ đến anh
chính là biểu tượng tình cũng là lúc đất nước hiện diện một cách đầy đủ nhất, thơ
yêu, của nỗi nhớ thương. Ý mộng nhất, lãng mạn nhất. nhà báo Thúy Nga (nhà báo
thơ còn làm ta nhớ đến được mệnh danh là người con của cốt hồn đất Bình Định)
những vầng ca dao lay động đã nhận xét về những điều nhỏ bé trong thơ Nguyễn Khoa
lòng người, bồi hồi xao Điềm rằng: “Thơ Nguyễn Khoa Điềm nói đến những điều
xuyến trước tình cảm chân lớn lao một cách nhỏ nhẹ, nói về Đất Nước một cách dịu
thành của những trái tim dàng, ngay cả những cuộc hẹn hò lứa đôi trong thơ ông
đương thời say đắm: những ngày chiến tranh cũng mang tầm vóc của một dân
tộc…”. Có lẽ chính vì vậy, ta nhận ra thơ của người trí thức
Khăn thương nhớ ai cách mạng yêu nước đến từ mảnh đất cố đô này sâu sắc
Khăn rơi xuống đất ở chỗ: Một khoảnh khắc nhẹ như cái khăn bay qua nỗi nhớ
Khăn thương nhớ ai cũng đủ đọng lại một dáng hình Đất Nước. Một khoảnh
Khăn vắt lên vai khắc nhỏ bé, mỏng manh, giản đơn, nhẹ nhàng nhưng
cũng đủ sức làm nên một Đất Nước to lớn. Đất Nước đâu
phải điều gì đó xa lạ; Đất Nước đâu chỉ là những khái niệm
gắn với thiên thu, gắn với “đế cư”, hay gắn với hai vầng
nhật nguyệt chói lòa, mà Đất Nước đã hòa vào trong một
không gian của kỉ niệm, yêu thương, hòa vào trong những
điều cụ thể nhỏ bé nhất. Đất Nước như dòng máu hồng,
al
ci
ffi

chảy len lỏi vào từng tế bào, từng hơi thở trong từng góc
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 43 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
ngách cơ thể chúng ta. Tình yêu Đất Nước cũng từ nguồn
mạch ấy mà ra:
“Tôi yêu đất nước này áo rách
căn nhà dột phên không ngăn nổi gió
vẫn yêu nhau trong từng hơi thở
lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài
thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai
tôi yêu đất nước này như thế
như yêu cây cỏ trong vườn
như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương
nuôi tôi thành người hôm nay”
Nói đến một đất nước, là nói đến không gian lãnh thổ,
núi sông bờ cõi. Và trong những áng “thiên cổ hùng văn”,
ta cũng đã từng bắt gặp rất nhiều những câu thơ khẳng
định chủ quyền, khẳng định lãnh thổ:
“Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự
Sách trời định phận rõ non sông”
(Trích Bản dịch nhà nghiên cứu Ngô Linh Ngọc)
Hay trong “Đại cáo bình Ngô” cũng viết:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
…Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một
phương”.
Như vậy, có thể thấy rằng, không gian lãnh thổ, núi sông
bờ cõi là điều rất đỗi thiêng liêng và tự hào trong những
trang thơ truyền thống. Chúng ta lấy không gian lãnh thổ
tráng lệ, lấy không gian sinh tồn rộng lớn, lấy ranh giới
al
ci
ffi

núi sông bờ cõi nguy nga để nhìn về dân tộc mình. Thế
42 O
06 T
80 LO

nhưng, trên Đất, trên Nước, trên không gian sinh tồn của
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 44 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
bao lớp người dân lao động Nguyễn Khoa Điềm lại không
nhìn qua lăng kính của sự rộng lớn, cũng không nhìn qua
hệ quy chiếu của sự nguy nga tráng lệ mà ông nhìn Đất
Nước ở chính công cuộc chinh phục thiên nhiên, chinh
phục Đất, chinh phục Nước bằng mồ hôi, xương máu của
nhân dân. Nhân dân đã đổ mồ hôi công sức để oai hùng
trong tâm thế: “Bàn tay ta làm nên tất cả - Có sức người
sỏi đá cũng thành cơm”. Và cũng chính sức công sức của
nhân dân đã biến những mảnh đất khô cằn trở nên màu
mỡ, từ mảnh đất màu mỡ phì nhiêu ấy biết bao giá trị vật
chất đã sinh thành:
Luận điểm 3: Đất Nước gắn “Đất là nơi con chim phương hoàng bay về hòn núi bạc
với không gian lao động Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”.
sinh tồn và tạo nên sự tráng Nét đặc sắc trong ngòi bút của nhà thơ Nguyễn Khoa
lệ, rộng lớn, giàu đẹp của Điềm là đã mượn chất liệu dân ca để ghép thành tứ thơ
vùng lãnh thổ. mang sắc màu riêng cho mình. Nên hình ảnh “con chim
phượng hoàng” hay “hòn núi bạc”, hay “con cá ngư ông” ta
+ Nhà thơ Nguyễn Khoa không hề thấy lạ, bởi nó xuất phát từ câu hò Bình Trị -
Điềm đã mượn chất liệu Thiên: “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc –
dân ca là câu hò Bình Trị - Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi – Gặp nhau đây xin
Thiên để cảm nhận Đất phân tỏ đôi lời – Kẻo mai kia con cá về vịnh, con chim nọ
Nước trên phương diện đổi dời về non xanh”. Từ ý thơ, ta đều hiểu rằng: Hình ảnh
không gian tráng lệ, rộng con chim phượng hoàng hay con cá ngư ông chính là
lớn, giàu đẹp. những hình ảnh mang vẻ đẹp huyền thoại in vào những
bài ca dao. Đó là sự hiện diện của không gian tráng lệ của
núi sông, bờ cõi; là dải đất với ba miền Bắc – Trung – Nam
+ Không gian tráng lệ, nối liền; là dãy Trường Sơn hùng vĩ, sừng sững, hiên ngang
rộng lớn ấy có thể hiểu là cùng biển Đông mênh mông sóng nước. Nhưng với
núi sông, bờ cõi; là ba miền Nguyễn Khoa Điềm, với tư duy của một người trí thức làm
al
ci
ffi

Bắc – Trung – Nam một dải thơ, có lẽ sự nguy nga hùng tráng ấy xin nhường cho sự
42 O
06 T
80 LO

nối liền. “Hòn núi bạc” như nhiệm màu của tạo hóa đã ban tặng cho Đất Nước ta, cho
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 45 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
dãy Trường Sơn hùng vĩ, non sông ta. Còn linh hồn của hòn núi bạc, của con chim
sừng sững, hiên ngang; phượng hoàng lại nằm ở công cuộc lao động của nhân
“Biển bạc” là biển Đông dân. Nghĩa là trên Đất, trên Nước nhân dân không chỉ tạo
mênh mông sóng nước. ra giá trị vật chất mà còn tạo ra giá trị tinh thần. Con chim
Cách nói này, giúp ta hình phượng hoàng hay con cá ngư ông không phải là sự mĩ lệ
dung đất nước Việt Nam là hóa thiên nhiên theo dáng hình, mà đó chính là sự mĩ hóa
một cường quốc giàu tài công cuộc lao động của con người, của người dân lao
nguyên thiên nhiên – nhiều động. Con người đã mĩ lệ hóa vẻ đẹp của chính mình, đã
rừng vàng, biển bạc, tôn thờ vẻ đẹp của chính mình, đã khẳng định vẻ đẹp của
khoáng sản phong phú, đất chính mình để rồi nhân dân đủ sức để thủy chung với Đất,
đai màu mỡ. với Nước. Dù Đất có khô cằn cũng không chê Đất nghèo
khó, dù nước có nhiều mùa hạn hán ba canh cũng không
+ Hình ảnh con chim rời nước, bỏ non mà dùng bàn tay và khói óc của mình tạo
phượng hoàng và con cá nên rừng vàng, biển bạc, tạo nên non sông gấm vóc cho
ngư ông chính là vẻ đẹp dân tộc Việt Nam:
huyền thoại in dấu trong “Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa
những bài ca dao để mĩ hóa Hoa của đất, người trồng cây dựng cửa”
vẻ đẹp con người trong Từ đó ta thấm thía hơn lời thơ của Hải Như khi viết
công cuộc khai mở, xây những dòng thơ về không gian tráng lệ, rộng lớn, giàu đẹp
dựng và bảo vệ Đất Nước. của vùng lãnh thổ trong bài “Nghĩ về Tổ quốc”:
“Tổ quốc đâu phải chỉ là cái hữu hình
+ Trong 4.000 năm lịch sử ở ngoài ta - đất đai biên giới
đằng đẵng, với non sông Với cột mốc ngăn chia mà còn cả cảm thụ tâm hồn”.
Đất Nước này dân mình đã Và cứ thế “thời gian đằng đẵng” trôi, bao lớp người cứ
tụ về và tô điểm bằng cách như vậy nối tiếp nhau trên cái “không gian mênh mông”
mĩ hóa vẻ đẹp của chính ấy mà sinh tồn. Để ngày hôm nay, khi dân tộc đã trải qua
mình để gắn kết với Đất bồn nghìn năm lịch sử, thế hệ đi trước, thế hệ mai sau
Nước bằng những giá trị và cùng đoàn tụ trên núi sông có sự đổ của những khát vọng,
có sự đổ bóng của những ước mơ. Chúng ta hội ngộ trên
al
ci
ffi

+ “Thời gian đằng đẵng” mảnh đất đã có sự in dấu biết bao nhọc nhằn, biết bao
42 O
06 T
80 LO

gợi ra quãng thời gian với gian khó, biết bao giọt mồ rơi của từng lớp con người Việt
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 46 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
bao lớp thế hệ cha ông thay Nam chung tay làm nên một Đất Nước huyền thoại. Thế
nhau nằm xuống để giữ gìn mới hiểu, mới thấu: Nguyên do, tại sao khi nhắc Đất Nước,
và bảo vệ Đất Nước, hòa trong trái tim nhỏ bé của ta luôn nghẹn ngào hai chữ “Viết
dáng hình vào thế núi, hình Nam” ơi!
sông để tạo ra “Không gian Nhà thơ Xuân Diệu khi nói về vai trò của dân tộc trong
mênh mông”. sự phát triển của mỗi người đã từng có đôi lời: “Không
đứng vào dân tộc, như cây không đứng vào đất, làm gì có
sức chắc chắn để phát triển cho đến tận cùng”. Thế nên,
Luận điểm 4: Đất Nước gắn bất kì một dân tộc nào cũng đều có một không gian cội
với không gian cội nguồn nguồn, thẳm sâu trong chúng ta đều có một không gian
(chiều dài, chiều sâu của tâm linh để hướng về dân tộc, để tưởng nhớ thế hệ đi
lịch sử). trước. Và không gian tâm linh cội nguồn được Nguyễn
Khoa Điềm gợi lên gắn với cha Lạc Long Quân, mẹ Âu Cơ
+ Không gian cội nguồn trong truyền thuyết “Con Rồng cháu tiên” với bọc trăm
gắn với “Đất là nơi Chim trứng nở trăm con, năm mươi con theo cha lên rừng, năm
về”, “Nước là nơi Rồng ở”, mươi con theo mẹ xuống biển:
gắn với mẹ Âu Cơ, cha Lạc “Đất là nơi chim về
Long Quân – Đó là khởi Nước là nơi rồng ở
nguồn, là cội gốc của dân Lạc Long Quân và Âu Cơ
tộc Việt Nam. Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Đừng trước dòng chảy văn học kháng chiến, mạch nước
+ Với tình yêu nồng nàn được khơi từ cội nguồn đã giúp ta quay trở về với lòng “tự
dành trọn cho Đất Nước tình dân tộc” mà sống “thẳng bay như một cánh chim trời”.
thân yêu, nhà thơ Nguyễn Thế nhưng, quay trở về với lòng tự tình dân tộc mà nói
Khoa Điềm thể hiện tình một thiêng liêng, gợi một sự nghẹn ngào, xúc động như
cảm của mình vào ý thơ đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm thì có lẽ khó ai có thể vượt
một cách đầy tự hào khi qua được. Phải là một người trí thức làm thơ, mới có thể
ông gợi lại huyền sử lung có cảm nhận một cách sâu sắc đến như vậy. Và phải là
linh về dòng dõi Lạc Hồng một trí thức như Nguyễn Khoa Điềm mới có thể đưa
al
ci
ffi

– dòng dõi con Rồng cháu chúng ta trở về cội rễ của mình một cách thấm thía như
42 O
06 T
80 LO

Tiên của người dân nước thế. Để đưa Đất Nước trong không gian cội rễ vào không
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 47 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Việt. Đó là truyền thuyết gian hiện thực của ta ngày nay, hẳn Nguyễn Khoa Điềm
Con Rồng Cháu Tiên: Lạc phải thấu cốt hồn dân tộc lắm mới đưa câu chuyện “Con
Long Quân và Âu Cơ đẻ ra Rồng Cháu Tiên” phả vào và nâng lên từ không gian của
đồng bào ta trong bọc trăm anh, của em, của chúng ta và bây giờ là không gian của cả
trứng nở trăm con, 50 theo dân tộc. Và cũng từ cội nguồn âm dương, là Đất, là Nước
cha lên rừng, 50 theo mẹ mới có dân tộc ta, Đất Nước ta, mới có chúng ta; từ Đất
xuống biển, khai thiên lập mẹ, từ mạch Nước cha thì sự sống mới được sinh sôi và
địa – một truyền thuyết ra nảy nở muôn đời. Đúng thực, Nguyễn Khoa Điềm đã cho
đời đã từ rất lâu, và cũng là chúng ta một sự trở về với cội nguồn, một sự kết nối với
truyền thuyết lý giải nguồn dân tộc, một cách cảm thấm thía trong cách nhìn sự ra
gốc người Việt. đời của dân tộc mình thật tinh tế và xúc động.
Để rồi, từ không gian cội nguồn ấy, một gia đình huyền
+ Từ truyền thuyết ấy, dân thoại đã được tạo nên. Một gia đình lớn với bố Rồng, mẹ
ta tự hào mình là con Rồng, Tiên từ đó trăm con sinh nghĩa đồng bào, tách thành từng
cháu Tiên, là con cháu Vua gia đình nhỏ:
Hùng. Và cũng chính “Những ai đã khuất
truyền thuyết ấy đã nhắc Những ai bây giờ
nhở chúng ta: Tất cả đều là Yêu nhau và sinh con đẻ cái
anh em một nhà, dù có lên Gánh vác phần người đi trước để lại
rừng hay xuống biển, dù có Dặn dò con cháu chuyện mai sau”
ngoài đảo xa xôi hay đất Đất Nước chúng ta, một Đất Nước đã có không biết bao
liền thương mến thì nguồn nhiêu tấm bia ghi công những vị anh hùng dân tộc và
cội từ xa xưa vẫn được đẻ ra chúng ta cũng cần có một tấm bia để ghi công những vị
từ trong một bọc trứng, vì anh hùng vô danh này – những thế hệ, những lớp người
vậy hãy luôn biết yêu âm thầm lặng lẽ hiến mình cho Đất Nước. Câu chuyện về
thương, che chở, động lớp lớp những thế hệ người dân Việt với “Những ai đã
viên, giúp đỡ lẫn nhau. khuất” trong quá khứ - là những con người sống giản dị,
chết bình tâm, những người đã hi sinh thân mình để dựng
Nghệ thuật: Nghệ thuật nước và giữ nước, làm nên linh hồn của cuộc kháng chiến
al
ci
ffi

chiết tự, tách Đất và Nước dân tộc vĩ đại:


42 O
06 T
80 LO

ra để định nghĩa. Đất Nước Nhân dân bốn cõi một nhà,
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 48 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
gắn với mỗi cá nhân nhỏ bé Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới.
để làm nên điều lớn lao; từ (Bình ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
không gian kỉ niệm đến Và khi hòa bình, bằng bàn tay lao động chai sần của họ
không gian cội nguồn. mang lại màu xanh bất tận cho đất nước thân yêu. “Những
Nhấn mạnh: Đất Nước ai bây giờ” trong hiện tại và tương lai – những thế hệ người
không phải là khái niệm to dân cứ nối tiếp nhau từ đời này sang đời khác, là chúng
lớn, cao cả mà đơn thuần là ta. Tất cả đều phải ý thức sâu sắc về sứ mệnh của mình
những gì nhỏ bé phủ trên trong việc “Yêu nhau và sinh con đẻ cái” để duy trì nòi
mọi không gian, nẻo đường giống, từ đó góp vào một nhiệm vụ to lớn, thiêng liêng và
và thời gian của ta. cao quý. Đó là “Gánh vác phần người đi trước để lại”, thế
hệ sau nối tiếp thế hệ trước những tinh hoa dân tộc và:
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
Đây chính là nét văn hóa gắn với quan niệm, phong tục,
tập quán của người Việt. Đó là đạo lý “Ăn quả nhớ kẻ trồng
cây”, “Uống nước nhớ nguồn”… Sống ngày hôm nay, phải
nhớ ơn công lao sinh thành, dưỡng dục, khai thiên lập địa,
gìn giữ đất nước của cha ông ta. Hai chữ “cúi đầu” thể hiện
niềm thành kính thiêng liêng mà cũng rất đỗi tự hào về
nguồn gốc cha ông. Cúi đầu để hướng về lịch sử, hướng
về bao thế hệ đi qua đã góp công dựng nên Đất Nước này.
Ý thơ đã góp phần hương sắc dìu dịu mà len lỏi in sâu vào
trí óc thế hệ thanh niên trẻ miền Nam lúc bấy giờ, cũng
như toàn thể người dân Việt Nam, thức tỉnh họ sớm bước
đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, bảo vệ độc lập và tự do của
một dân tộc anh hùng. Nhà thơ khéo léo dặn dò thế hệ
sau phải ý thức về tổ tiên và cội nguồn dân tộc với ngày
lễ Quốc giỗ của người dân Việt Nam được tổ chức hàng
al
ci
ffi

năm vào ngày mồng 10 tháng 3 (âm lịch) tại đền Hùng,
42 O
06 T
80 LO

thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Như Bác Hồ đã từng nói:
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 49 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
“Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải
cùng nhau giữ lấy nước”. Người dân Việt Nam dù đi khắp
bốn phương nhưng trong tâm linh họ luôn có một mái nhà
chung để quay đầu nhớ cố hương, đó chính là quê cha đất
tổ Hùng Vương: “Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng
giật mình nhớ gốc cây đa lại về”. Người dân Việt Nam là
thế, lúc nào cũng thế, dù đi bốn bể năm châu thì cũng
luôn hướng về quê hương, hướng về cội nguồn, hướng về
nơi chôn rau cắt rốn của mình. Nguyễn Khoa Điềm từng
khẳng định rằng: “…Điều may mắn với tôi là được sống
trong những năm tháng hào hùng của dân tộc để hiểu
nước, hiểu người và hiểu cả mình hơn…”.
Thơ cần sự suy ngẫm, phát hiện và kiến giải. Thi sĩ phải
là người thực sự có phong cách ngòi bút độc đáo, mới có
thể mài giũa bút lực mình đến độ tinh luyện, viết những
vần thơ sáng ngời mà không pha tạp của bất kì nhà thơ
nào khác. Và Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự làm tròn
thiên chức của một người gom mật kết thành thơ, khi đã
cho chúng ta nhận ra thế nào là Tổ quốc. Tổ quốc là nơi
chúng ta, những con người cùng chung nghĩa đồng bào,
cùng chung nguồn gốc, cùng chung cội rễ. Ta có thể ở
miền ngược, miền xuôi, ở Nam hay ở Bắc, ở khắp mọi miền
trên dải đất hình chữ S này, nhưng ta vẫn yêu nhau,
thương nhau và đoàn kết bởi ta là người đồng bào, là
người cùng một gia đình, cùng tổ, cùng tông; ta đều là
con cháu của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Và để rồi từ từ con
cháu cùng bọc trứng dễ tiếp nối nhau tạo nên một chiều
dài lịch sử oai hùng.
Như vậy, đoạn thơ với nghệ thuật chiết tự tách Đất và
al
ci
ffi

Nước ra để định nghĩa gắn với không gian kỉ niệm của anh
42 O
06 T
80 LO

và em, gắn với tình yêu đôi ta; gắn với không gian sinh tồn
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 50 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
lao động và gắn với cội nguồn dân tộc đã một lần nữa cho
chúng ta nhận ra và thấu hiểu rằng: Đất Nước không phải
là khái niệm to lớn cao cả, mà Đất Nước đơn thuần chỉ là
những gì bao trùm mọi miền không gian, mọi nẻo thời
gian trong cuộc đời của chính chúng ta; là bờ sông ngoài
mương lúa, là đầm sen vàng với hương phả hồn quê; là bát
canh rau mà nấu trưa hè; là con đường đi học, là tiếng ve
ngoài sân; là hương thơm của nén nhang trầm ta thắp
kính dâng lên tổ tiên… Không một chiều không gian nào
ta đang sống mà không gắn kết với Đất Nước.
Vấn đề 3. (3 câu thơ tiếp theo): Đất Nước là sự kết tinh, hóa thân trong mỗi con người,
chúng ta phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê
hương, xứ sở bằng những nhận thức và hành động cụ thể (gắn bó, san sẻ. hóa thân...)
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
⇨ Nhận thức về trách nhiệm đối với Đất Nước trong mỗi cá nhân. Đó là mối quan hệ
giữa con người và Đất Nước, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái riêng và cái chung.
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
⇨ Trách nhiệm gìn giữ và phát triển Đất Nước đối với thế hệ tương lai.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
al
ci
ffi

⇨ Từ nhận thức dẫn đến từng hành động cụ thể: gắn bó, san sẻ, hóa thân cho dáng
42 O
06 T
80 LO

hình đất nước.


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 51 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________

❖ Nhận thức về trách nhiệm đối với Đất Nước trong mỗi cá nhân, cộng đồng.
Nhận thức trong cá nhân: anh và em
Nhận thức trong sự vẹn tròn của cộng đồng: cầm tay mọi người.
Nhận thức về thế hệ tương lai: những tháng ngày mơ mộng.
Sau những cảm nhận, suy ngẫm, đưa ra định nghĩa, tư duy mới mẻ trên nhiều phương
diện khác nhau thông qua cuộc đối thoại, trò chuyện tâm tình về Đất Nước. Nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa khẳng định một cách tinh tế của người tri thức đầy
suy tư:
- Đất Nước là một phần trong chúng ta:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
+ Vì sao “trong anh và em” lại có một phần Đất Nước? Vì Đất Nước là nơi ta sinh ra,
nơi ta lớn lên, sinh hoạt và học tập. Đất Nước là chủ quyền, là lãnh thổ, là núi sông bờ
cõi do biết bao con người đã hi sinh gây dựng nên. Đất Nước là hơi thở, là máu thịt
thiêng liêng, chúng ta sống trong Đất Nước đều được thừa hưởng những giá trị vật chất
và tinh thần mà cha ông để lại. Vậy nên, trong ta luôn có một phần Đất Nước.
+ Và “Hôm nay” chính là sự kết tinh của ngày hôm qua, là những chuỗi ngày có sự hi
sinh xương máu của biết bao thế hệ cha ông đã nằm xuống để bảo vệ từng tấc đất này.
Cho nên sự sống của mỗi cá nhân trong đó có anh và em là sự hiện thân, sinh động
hình ảnh của Đất Nước trong mọi giá trị, mỗi con người Việt Nam hôm nay đã thừa
hưởng, tiếp nối và cần phải phát triển những giá trị văn hóa, tinh thần, vật chất của Đất
Nước từ hạt gạo ta ăn hàng ngày, miếng trầu trong những tục lễ đến cây tre, giếng
nước, gốc đa đầu làng hay tình yêu thương giữa cha và mẹ, giữa đôi lứa, anh và em.
- Đất Nước hài hòa nồng ấm trong tình yêu đôi lứa:
Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
+ Hành động “cầm tay” là một nghĩa cử cao đẹp: Khi hai đứa cầm tay là khi trong anh
và em đã có sự thấu hiểu, yêu thương, chia sẻ với nhau và Đất Nước từ đó cũng trở nên
al

đẹp hơn, hài hòa hơn, nồng thắm hơn. Nói cách khác, khi anh và em cầm tay là đã có
ci
ffi

sự giao thoa cảm xúc, giao thoa tình yêu Đất Nước giữa hai trái tim.
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 52 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Ý thơ gợi cho ta về tinh thần đoàn kết giữa con người với con người: “Một cây làm
chẳng nên non – Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” hay đạo lý yêu thương, đùm bọc, che
chở lẫn nhau: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương – Người trong một nước phải thương nhau
cùng”.
- Đất Nước vẹn tròn to lớn khi chúng ta cầm tay mọi người:
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn
+ Trong những năm tháng Đất Nước bị chia cắt thì cái “cầm tay” giữa mọi người thật
ý nghĩa biết bao. Và điều đó giúp Đất Nước từ đó trở nên “vẹn tròn, to lớn” hơn. Đó sẽ
là nguồn sức mạnh vô cùng lớn lao để chúng ta vượt qua những năm tháng kháng chiến
trường kì đến với nền độc lập, tự do.
+ Đây chính là cảm hứng của văn học 1945 – 1975, hướng cá nhân hòa vào cộng đồng.
Cuộc đời ta ý nghĩa hơn khi gắn với Đất Nước.
- Đất Nước trong niềm tin của tương lai:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
+ “Những ngày tháng mơ mộng” ở đây có thể hiểu là ngày dân ta được sống trọn vẹn
trong nền hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó còn là ngày Đất Nước ta hiên ngang
sánh vai với các cường quốc năm châu. Như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai
các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của
các cháu”.
+ “Những ngày tháng mơ mộng” đó không chỉ là niềm mong mỏi của riêng nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm mà là niềm mong ước của hàng triệu, hàng chục triệu trái tim Việt
Nam. Điều đó chứng tỏ, dù sống trong bom đạn, trong chiến tranh ác liệt nhưng niềm
tin cũng như khát vọng, tinh thần “yêu hòa bình – chuộng tự do” trong chúng ta chưa
bao giờ dập tắt.
+ Qua đó, nhà trí thức yêu nước mang tên Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo nhắc nhở
al
ci
ffi

thế hệ trẻ hãy ý thức về sứ mệnh của mình để “mang Đất Nước đi xa”, kế tục truyền
42 O
06 T
80 LO

thống, làm rạng danh Đất Nước, rạng danh quê hương xứ sở.
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 53 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________

❖ Hành động thực hiện sứ mệnh của mình cho Đất Nước – Lời nhắn nhủ của thời đại.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
- Lời nhắn nhủ của thời đại: được cất lên bằng tiếng gọi “Em ơi em” đầy tha thiết.
+ Như một lời nhắn, lời trao gửi mãnh liệt và tha thiết đến thế hệ tương lai.
+ Cũng là lời nhắc nhở thế hệ hiện tại.
- Cụ thể lời nhắn hành động:
+ Bởi Đất Nước là sự kết tinh, hóa thân, là máu xương, là tinh thần trong mỗi con
người. Chính vì thế con người, đặc biệt là giới trẻ phải có tinh thần trách nhiệm đối với
sự trường tồn của quê hương, xứ sở. “Máu xương” là cụm từ ẩn dụ chỉ sự hi sinh, mất
mát của biết bai thế hệ cha anh đã ngã xuống trong công cuộc chống giặc ngoại xâm,
gìn giữ và bảo vệ Đất Nước; trong sự hình thành, phát triển và tồn tại Đất Nước.
+ Điệp từ “Phải biết” cùng các động từ “gắn bó” – “san sẻ” – “hóa thân” giàu sức, thể
hiện tinh thần tự nguyện của chúng ta đối với sứ mệnh Đất Nước. “Gắn bó” là sự yêu
thương, là mối quan hệ mật thiết, bền chặt với đất nước; “San sẻ” là tinh thần trách
nhiệm, yêu thương, san sẻ niềm vui, nỗi buồn với vận mệnh dân tộc; “Hóa thân” là dâng
hiến, cống hiến, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
+ Những lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm làm ta
nhớ đến những câu hát trong bài “Khát vọng tuổi trẻ”: “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho
ta, mà phải hỏi rằng ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”, rồi lại day dứt với những khát
vọng cống hiến trong bài “Tự nguyện”:
Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương”
- Liên hệ, bình: Được dâng hiến cho Đất Nước, cho quê hương; Được chết cho Tổ quốc
al

là niềm tự hào và luôn trong tâm thế sẵn sàng bởi bao thế hệ.
ci
ffi

+ Ở cái bài thơ khác được thể hiện một cách lẫm liệt, hào hùng.
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 54 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Thế nhưng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm lại được thể hiện một cách nhẹ nhàng với
từ “hóa thân”.
 Hóa thân không phải là chết, hay kết thúc mà hóa thân là chuyển dạng thức tồn
tại; là hòa vào Đất Nước để bất tử.
Nghệ thuật: Trong đoạn thơ thể hiện trách nhiệm của chúng ta đối với Đất Nước,
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã: tạo một nguồn mạch xuyên suốt là yếu tố hạt nhân gia
đình để tiếp nối các giá trị. Qua đó gửi nhắn lời nhắn của thời đại.
Tất cả đã tập trung trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ? Và chúng ta hình
dung được về Đất Nước qua 3 phương diện: Chiều dài của thời gian lịch sử; Chiều rộng
của không gian địa lý và Chiều sâu của văn hóa dân tộc.
Được thể hiện qua tư duy nghệ thuật mới mẻ, và cảm xúc nồng nàn sâu lắng cho ta
một cảm giác vừa lạ vừa quen, để cho ta cảm nhận về Đất Nước với một cái đầu ấm
nóng và một trái tim biết nghĩ suy.

❖ Nhận thức về trách Đọc những vần thơ viết về “Đất Nước” của Nguyễn Khoa

nhiệm đối với Đất Nước điềm ta không chỉ được say sưa với những vẻ đẹp văn hóa
trong mỗi cá nhân. của dân tộc thực, của một Đất Nước rất đời, mà còn tự đánh
thức trong chính mình một trách nhiệm thiêng liêng cao

Nhận thức trong cá nhân: cả, một sự gắn bó sâu sắc không thể tách rời với Đất Nước.
anh và em. Nếu đi qua chín câu thơ đầu, ta đã tự trả lời cho mình được
câu hỏi: “Đất Nước có từ bao giờ?”, cùng ba lần tác thành tố

Nhận thức trong sự vẹn Đất, thành tố Nước ra để định nghĩa, gắn bó với không gian
tròn của cộng đồng: cầm kỉ niệm, không gian lao động sinh tồn và không gian tâm
tay mọi người. linh cội nguồn thì đến với đoạn thơ tiếp theo, chúng ta
không khỏi ngậm ngùi trước mạch nhận thức về trách

Nhận thức về thế hệ nhiệm với Đất Nước. Trách nhiệm với Đất Nước là một lẽ
tương lai: những tháng sống, nó sinh ra như kim chỉ nam để soi đường chỉ lối cho
ngày mơ mộng. chúng ta bước đi trong đêm tối, là tia ánh sáng giúp ta “bừng
nắng hạ”, nên nhắc đến về trách nhiệm với Đất Nước có lẽ

Sau những cảm nhận, là điều “thôi cần chi nói nữa”. Thế nhưng, đứng trước những
al
ci
ffi

suy ngẫm, đưa ra định năm tháng đau thương của dân tộc, những trước những
42 O
06 T
80 LO

nghĩa, tư duy mới mẻ trên năm tháng oai hùng của Đất Nước thì tinh thần ấy càng
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 55 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
nhiều phương diện khác được trỗi dậy hơn bao giờ hết. Thế nên, là người con của lý
nhau thông qua cuộc đối tưởng cách mạng, Nguyễn Khoa Điềm cũng thấu rõ trách
thoại, trò chuyện tâm nhiệm của mình để gửi chúng vào những vần thơ chan chứa
tình về Đất Nước. Nhà để nhắn gửi đến tất cả chúng ta thời đại lúc bấy giờ và cả
thơ Nguyễn Khoa Điềm bây giờ, và mãi mãi về sau:
một lần nữa khẳng định “Trong anh và em hôm nay
một cách tinh tế của Đều có một phần Đất Nước
người tri thức đầy suy tư: Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hóa nồng thắm
- Đất Nước là một phần Khi chúng ta cầm tay mọi người
trong chúng ta: Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.
Một nhà văn đẫ từng đặt bút viết rằng: “Gia đình là nơi
+ Vì sao “trong anh và cuộc sống bắt đầu và là nơi tình yêu không bao giờ kết thúc”,
em” lại có một phần Đất mái ấm gia đình giúp chúng ta giao hòa, kết nối với con
Nước? Vì Đất Nước là nơi người, với cuộc sống, với xóm làng, quê hương, đất nước.
ta sinh ra, nơi ta lớn lên, Hay nói cách khác, gia đình chính là chiếc nôi êm bồi đắp
sinh hoạt và học tập. Đất thể chất, tâm hồn mỗi người và còn là nền tảng, là khởi đầu
Nước là chủ quyền, là của tình yêu con người, tình yêu quê hương, đất nước.
lãnh thổ, là núi sông bờ Chính vì thế, văn học giai đoạn 1945 – 1975, viết về dòng
cõi do biết bao con người tình cảm thiêng liêng, sâu nặng đó rất nhiều: Đó là tình cảm
đã hi sinh mà gây dựng bà cháu trong “Bếp lửa” của Bằng việt. Chính tình yêu của
nên. Đất Nước là hơi thở, bà đã hun đúc tình yêu nước trong cháu, để rồi cháu có thể
là máu thịt thiêng liêng dưng dưng mà viết:
của chúng ta, chúng ta “Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
sống trong Đất Nước đều Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
được thừa hưởng những Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
giá trị vật chất và tinh - Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...”
thần mà cha ông để lại. Hay tình yêu ba trong cô bé Thu năm nào dưới ngòi bút
Vậy nên, trong ta luôn có của Nguyễn Quang Sáng đã thắp lên trong cô bé một ngọn
al
ci
ffi

một phần Đất Nước. lửa yêu nước và trở thành một cô giao liên dũng cảm, tiếp
42 O
06 T
80 LO

bước cha bảo vệ dân tộc. Rồi sao ta quên được lời ru thấm
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 56 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Và “Hôm nay” chính là thía trong “Nói với con” của Y Phương hay “Khúc hát ru
sự kết tinh của ngày hôm những em bé lớn trên lưng mẹ” mà Nguyễn Khoa Điềm đã
qua, hôm qua là những từng chấp bút. Xuyên suốt sự nghiệp “gom mật ngọt thành
chuỗi ngày có sự hi sinh thơ” và thể hiện tình yêu Đất Nước nói chung, hay trong
xương máu của biết bao Trường ca “Mặt đường khát vọng”, “Khúc hát ru những em
thế hệ cha ông đã nằm bé lớn trên lưng mẹ” nói riêng thì Nguyễn Khoa Điềm luôn
xuống để bảo vệ từng tấc thể hiện cho chúng ta một cách đo thời gian, tìm về cội
đất này. Cho nên sự sống nguồn một cách rất đặc biệt. Khi nhìn về lịch sử bốn nghìn
của mỗi cá nhân trong đó năm, ông đã lọc ra một yếu tố mang tính chất hạt nhân, cốt
có anh và em là sự hiện lõi. Đó chính là gia đình. Gia đình ấy bắt đầu từ gia đình
thân, sinh động hình ảnh huyền thoại – nơi gặp gỡ của Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ
của Đất Nước trong mọi ra đồng bào ta trong bọc trứng, cho đến gia đình dưới thời
giá trị, mỗi con người Việt các vua Hùng mà dân gian vẫn hay gọi với bố Hùng mẹ Tiên.
Nam hôm nay đã thừa Và sau đó là hàng loạt các gia đình đời thường như ông bà,
hưởng, tiếp nối và cần cha mẹ của ta ra đời. Và yếu tố gia đình chính là yếu tố hạt
phải phát triển những giá nhân giúp trao truyền, tiếp nói dòng mạch thời gian một
trị văn hóa, tinh thần, vật cách vững chắc nhất. Và rồi, dòng mạch ấy đã kết tụ lại và
chất của Đất Nước từ hạt chảy vào thế hệ chúng ta:
gạo ta ăn hàng ngày, “Trong anh và em hôm nay
miếng trầu trong những Đều có một phần Đất Nước”
tục lễ đến cây tre, giếng Như vậy, anh và em sẽ tạo nên một gia đình và gia đình
nước, gốc đa đầu làng hay mang tính cốt lõi ấy sẽ hòa vào cùng làm nên dòng mạch
tình yêu thương giữa cha lịch sử dân tộc. Anh và em sẽ là khúc sông sau nối tiếp dòng
và mẹ, giữa đôi lứa, anh sông truyền thống từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông
và em. bà, cha mẹ,.. như trong lời Chú Năm đã nói: “Chuyện gia
đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc.
Rồi trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển, mà
biển thì rộng lắm…, rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước
ta” (Trích trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia
al
ci
ffi

đình”, Nguyễn Thi).


42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 57 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Nhưng anh và em sẽ không chỉ dừng lại là hạt nhận của
tạo tác, và cũng không dừng lại ở khúc sông chỉ biết chảy
về biển cả, mà “trong anh và em hôm nay” còn chứa cả tâm
thế, dáng vóc, tư tưởng của ông cha; là dáng hình, tâm hồn,
và lối sống của bà, của mẹ. Chúng ta không tự dưng sinh ra
trong cuộc đời này, mà chúng ta là con của ba, của mẹ, là
cháu của ông, của bà. Chính vì thế, chúng ta đang mang
trong mình hình hài, số phận, dáng vóc, cuộc đời của Đất
Nước, của cộng đồng, của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã
để thơ của mình nói về mối quan hệ riêng chung, về số phận
cá nhân gắn với trách nhiệm cộng đồng một cách nhẹ
- Đất Nước hài hòa nồng nhàng mà sâu sắc đến thế. Mối quan hệ riêng – chung vốn
ấm trong tình yêu đôi lứa. rất quan trọng, và là linh hồn cho văn học giai đoạn 1945 –
1975 đã được người con của mảnh đất trầm tích nhìn và gắn
+ Hành động “cầm tay” vào cầu nối với mối quan hệ đôi lứa, lứa đôi thấm thía đến
là một nghĩa cử cao đẹp: lạ. Tình yêu đôi lứa vốn là một tình cảm rất quan trọng và
Khi hai đứa cầm tay là khi gần như không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người. Trong
trong anh và em đã có sự tình yêu đôi lứa, cảm xúc như trở nên mãnh liệt hơn, thăng
thấu hiểu, yêu thương, hoa hơn, dâng trào hơn. Và khi gắn cá nhân với tình yêu đôi
chia sẻ với nhau và Đất lứa, chúng ta thấy những giá trị bản thân như được khởi
Nước từ đó cũng trở nên sinh một cách mạnh mẽ nhất. Thế nên, Nguyễn Khoa Điềm
đẹp hơn, hài hòa hơn, đã khéo léo để để tình yêu riêng chung, cá nhân và cộng
nồng thắm hơn. Nói cách đồng được khúc xạ qua lăng kính của tình yêu đôi lứa. Cụ
khác, khi anh và em cầm thể, đó là tình cảm của anh và em, điều đó được thể hiện
tay là đã có sự giao thoa qua ý thơ rất cảm động:
cảm xúc, giao thoa tình “Khi hai đứa cầm tay
yêu Đất Nước giữa hai Đất Nước trong chúng ta hài hòa, nồng thắm”
trái tim. Tức là khi chúng ta gắn kết với nhau, khi anh gắn kết với
em, “Đất Nước trở nên hài hòa nồng thắm”, nghĩa rằng: Tình
al
ci
ffi

yêu đôi ta đã làm cho Đất Nước trở nên ngọt ngào. Sợi dây
42 O
06 T
80 LO

kết nối trong tình yêu đôi ta đã làm nên cái ngọt ngào của
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 58 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Ý thơ gợi cho ta về tinh Đất Nước. Để rồi, khi chúng ta cầm tay mọi người, thì tình
thần đoàn kết giữa con yêu đôi lứa lại trở thành nghĩa tình đồng bào, đồng chí và
người với con người. Đất Nước cũng từ sự ngọt ngào ấy mà trở nên vẹn tròn to
lớn. Từ vị ngọt ngào của tình yêu, chúng ta cầm tay mọi
- Đất Nước vẹn tròn to lớn người, gắn kết với mọi người đã trở thành tình nghĩa đồng
khi cầm tay mọi người: bào to lớn, Đất Nước từ đó không chỉ ngọt ngào và còn vẹn
tròn, to lớn hơn. Từ đó ta thấu rõ về mối quan hệ giữa ta và
+ Trong những năm Đất Nước: Ta làm nên cái to lớn của Đất Nước, và Đất Nước
tháng Đất Nước bị chia cũng làm nên cái thiêng liêng, bền vững, bất tử của tình yêu
cắt thì cái “cầm tay” giữa đôi ta. Chính đôi ta. Chính cái nồng thắm của tình yêu đôi
mọi người thật ý nghĩa lứa đã làm nên sự vẹn tròn của Đất Nước. Và chính Đất
biết bao. Và điều đó giúp Nước đã đổ bóng, soi chiếu cho tình yêu đôi lứa không còn
Đất Nước từ đó trở nên nhỏ bé, không còn hư vô, không còn tội nghiệp. Ta nhớ lại
“vẹn tròn, to lớn” hơn. Đó giai đoạn văn học trước năm 1945, khi cái tôi không thể hòa
sẽ là nguồn sức mạnh vô vào thành một dòng chảy, nên mới có những cái tôi bơ vơ,
cùng lớn lao để chúng ta lạc lõng giữa đất trời:
vượt qua những năm “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi.
tháng kháng chiến Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.
trường kì đến với nền độc Nhưng càng đi sâu ta càng lạnh”.
lập, tự do. Và đến với mảnh đất văn học 1945 – 1975, ta như đã được
sởi ấm bằng chính dòng nước mát của cái ta chung. Chúng
+ Đây chính là cảm hứng ta đã được ôm ấp khi đặt mình trong mối quan hệ cộng
của văn học 1945 – 1975, đồng, ta được “là con của vạn nhà, là anh của vạn đầu em
hướng cá nhân hòa vào nhỏ”. Thế nên, ta mới thấm sâu sự vẹn tròn to lớn của Đất
cộng đồng. Cuộc đời ta ý Nước trong tình yêu đôi lứa, trong cái nắm tay của anh và
nghĩa hơn khi gắn với Đất em. Có lẽ, chưa bao giờ, mối quan hệ riêng chung, cá nhân
Nước, gắn với mọi người. và cộng đồng lại được thể hiện một cách thú vị đến như thế,
nếu thiếu cái tên Nguyễn Khoa Điềm.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã từng trải lòng rằng: “Điều
al
ci
ffi

may mắn nhất với tôi là được sống trong những tháng năm
42 O
06 T
80 LO

hào hùng của dân tộc để hiểu nước, hiểu người và hiểu chính
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 59 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
mình”, và cũng chính vì hiểu nước, hiểu người và hiểu mong
muốn cũng như khao khát trong mình, nên người trí thức
làm thơ ấy đã không chỉ để cho quá khứ hiện diện trong
hiện tại mà với tầm nhìn của một thế hệ mang tâm hồn lãng
mạn và mộng mơ, một thế hệ đã được tiếp thêm sức mạnh
của lý tưởng Cách mạng nên tiếp nối mạch thơ, người con
- Đất Nước trong niềm tin đến từ mảnh đất Thừa Thiên đã tưởng tượng ra tương lai
của tương lai. Đất Nước với thế hệ con ta:
“Mai này con ta lớn lên
+ “Những ngày tháng Con sẽ đưa Đất Nước đi xa
mơ mộng” ở đây có thể Đến những tháng ngày mơ mộng”
hiểu là ngày dân ta được “Con ta” chính là tương lai của Đất Nước; còn ông bà, cha
sống trọn vẹn trong nền mẹ là quá khứ; anh và em là thế hệ hiện tại. “Trong anh và
hòa bình, độc lập, tự do, em hôm nay” là có sự đổ bóng của quá khứ vào hiện tại, là
hạnh phúc. Đó còn là sự hiện diện của quá khứ ở hiện tại. Và hiện tại ấy đang hài
ngày Đất Nước ta hiên hòa nồng thắm trong tình yêu đôi ta; là sự vẹn tròn to lớn
ngang sánh vai với các trong tình yêu cộng đồng. Nhưng Đất Nước đâu chỉ có quá
cường quốc năm châu. khứ, hiện tại mà Đất Nước còn cần có tương lai. Và tương
lai của Đất Nước nằm trong tương lai của con chúng ta. Có
+ Qua đó, nhà trí thức lẽ, nếu không yêu dân tộc mình, không hiểu nhân dân mình,
yêu nước mang tên không thấu tâm hồn người nước mình thì có lẽ Nguyễn
Nguyễn Khoa Điềm đã Khoa Điềm khó có thể có được một sự kho sánh thú vị đến
khéo léo nhắc nhở thế hệ vậy. Bởi Đất Nước Việt Nam chúng ta nói riêng, hay người
trẻ hãy ý thức về sứ mệnh Á Đông chúng ta nói chung vẫn luôn sống vì con, sống cho
của mình để “mang Đất con, và hết mình vì con, vì thế hệ mai sau. Khi ta có con,
Nước đi xa”, kế tục truyền cuộc đời ta đã được đặt vào cuộc đời con. Ta sống vì con,
thống, làm rạng danh Đất và ta sống cho con. Nên, với sự thấm thía về văn hóa dân
Nước, rạng danh quê tộc mình, Nguyễn Khoa Điềm đã đặt tương lai Đất Nước vào
hương xứ sở. tương lai con. Và khi tương lai Đất Nước, tương lai Tổ quốc
al
ci
ffi

được gắn vào tương lai con ta thì cũng đồng nghĩ ta sẵn
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 60 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
sàng hi sinh trọn vẹn cho Đất Nước để khởi sinh cho tương
lai con cháu có được “những tháng ngày mộng mơ”.
❖ Hành động thực hiện Nhà văn Lê Văn Huân đã dồn những sức lực cuối cùng

sứ mệnh của mình cho trên đầu bút hành văn của mình để nhận xét về thơ Nguyễn
Đất Nước – Lời nhắn nhủ Khoa Điềm rằng: “Nguyễn Khoa Điềm viết nên những câu
của thời đại. thơ này bằng tất cả sự trải nghiệm của một người lăn lộn
trong phong trào tranh đấu của thanh niên đô thị miền Nam.
Nhà thơ đã thay mặt thế hệ mình để phát biểu tâm tư với tinh
thần công dân, với nhiệt tình tuổi trẻ. Đó cũng là lời đáp cho
câu hỏi manh tính chính luận về sự trường tồn của Đất Nước.
Đất Nước bất tử chính nhờ tinh thần của những con người
sẵn sàng dâng bầu máu nóng của tuổi thanh xuân, biết sống
có trách nhiệm với thời đại và đầy khát vọng về tương lai
trong trường tồn của Đất Nước”. Chính vì thế, trong đoạn
cuối của phần viết về “Đất Nước có từ bao giờ?” ông đã cất
lên một lời nhắn nhủ, cũng như một lời dặn dò tha thiết:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Mở đầu bốn câu thơ là một tiếng gọi đầy tha thiết: “Em ơi
em”. Tiếng như một lời lay động, một sự nhắn nhủ để trao
truyền một điều gì đó rất thiêng liêng. Và lời gọi ấy càng ý

- Lời nhắn nhủ của thời nghĩa hơn khi gắn với anh và em. Theo mạch của dòng thơ,
đại: được cất lên bằng trước đó Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định sự lớn mạnh,
tiếng gọi “Em ơi em” đầy vẹn tròn của Đất Nước bắt nguồn từ tình yêu đôi lứa khi
tha thiết. chúng ta cầm tay nhau, cầm tay mọi người. Nên lời nhắn
nhủ, lời trao truyền này không đơn thuần là lời trao truyền

+ Như một lời nhắn, lời đến một cá nhân, mà đó là lời nhắn đến cả một thế hệ, cả
al
ci
ffi

trao gửi mãnh liệt và tha một lớp người. Hơn thế, nó không đơn thuần chỉ là một lời
42 O
06 T
80 LO

thiết đến thế hệ tương lai. nhắn của thời đại, mà những lời xuất phát từ đáy lòng của
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 61 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
một người yêu nước, một thế hệ nhận thức rõ về Đất Nước,
+ Cũng là lời nhắc nhở một thế hệ trách nhiệm với Đất Nước. Điều đó đã giúp tiếng
thế hệ hiện tại. thơ trở nên mãnh liệt hơn, tha thiết hơn, cháy bỏng hơn.
Thông thương, khi gọi để chuẩn bị gửi trao một lời nhắn
- Cụ thể lời nhắn nhắc chúng ta sẽ đưa luôn thông điệp hoặc nội dung cần nhắc
nhở hành động: nhở. Thế nhưng, Nguyễn Khoa Điềm không vội nói đến lời
cần gửi trao mà lại đưa cho chúng ta một định nghĩa về Đất
+ Bởi Đất Nước là sự kết Nước trước: “Đất Nước là máu xương của mình”. Phải chăng,
tinh, hóa thân, là máu Nguyễn Khoa điềm muốn trước khi chúng ta hành động cho
xương, là tinh thần trong Đất Nước thì cần nhận thức được Đất Nước là gì và chúng
mỗi con người. Chính vì ta là ai trong sứ mệnh, trong mối quan hệ với Đất Nước thì
thế con người, đặc biệt là lúc đó ta sẽ thấu rõ hơn việc làm của mình. Chính vì vậy,
giới trẻ phải có tinh thần ông mới viết: “Đất Nước là máu xương của mình”, chứ không
trách nhiệm đối với sự phải “Đất Nước như máu xương” hay “giống máu xương của
trường tồn của quê mình”. “Là” khác với “như”, khá với “giống”, bởi lẽ, nếu “Đất
hương, xứ sở. Nước như máu xương” thì mối quan hệ ở đây không chỉ là
so sánh, không có sự mật thiết, hòa quyện đến thế. Phải là
+ “Máu xương” là cụm từ “Đất Nước là máu xương của mình” thì mới không có tự tách
ẩn dụ chỉ sự hi sinh, mất rời giữa ta và Đất Nước. Ta và Đất Nước tuy hai nhưng đã
mát của biết bai thế hệ hòa vào thành một, cuộc đời ta là cuộc đời Đất Nước, cuộc
cha anh đã ngã xuống đời Đất Nước chính là cuộc đời ta. Đất Nước không chỉ là
trong công cuộc chống máu xương, Đất Nước còn là linh hồn, là tâm thức, là điệu
giặc ngoại xâm, gìn giữ và hồn, Đất Nước chính là chính bản thân mình. Và Nguyễn
bảo vệ Đất Nước; trong Khoa Điềm đã cất một tiếng gọi để lay thức trong ta một
sự hình thành, phát triển định nghĩa thật giản dị nhưng cũng thật thiêng liêng, đó là
và tồn tại Đất Nước. một định nghĩa về sự gắn bó máu thịt, không thể tách tời.
Sau đó, nhà thơ mới thể hiện lời khắc ghi của thời đại:
+ Điệp từ “Phải biết” “Phải biết gắn bó và san sẻ
cùng các động từ “gắn bó” Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”.
al
ci
ffi

– “san sẻ” – “hóa thân” Nói về hoàn cảnh sáng tác bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm cho
42 O
06 T
80 LO

giàu sức, thể hiện tinh biết: “Tôi viết chương này trong những ngày mưa triền miên
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 62 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
thần tự nguyện của sau Tết. Đó là thời kỳ máy bay Mĩ đánh phá dữ dội. B52 giội
chúng ta đối với sứ mệnh liên tục, làm cho mọi thứ tối tăm mù mịt. Chúng tôi ngồi
Đất Nước. “Gắn bó” là sự trong hầm và viết, cảm xúc được cộng hưởng bởi tiếng bom
yêu thương, là mối quan nổ, bởi khói bom và mưa rừng. Có khi viết xong, một trận
hệ mật thiết, bền chặt với bom làm cho bản thảo bay lung tung, lượm lại trang còn
đất nước; “San sẻ” là tinh trang mất, lại ngồi viết tiếp. Tôi viết rất nhanh, như cảm xúc
thần trách nhiệm, yêu đã dồn tụ lại một cách mãnh liệt, giờ chỉ việc tuôn chảy ra
thương, san sẻ niềm vui, thôi”. Thế mới thấu, lời nhắn nhủ mà Nguyễn Khoa Điềm
nỗi buồn với vận mệnh viết không đơn thuần chỉ là lời trao đi, truyền đi, mà đó còn
dân tộc; “Hóa thân” là là lời nhắn với chính mình. Tức rằng, đó là lời dặn dò với
dâng hiến, cống hiến, hi mọi người, đồng thời cũng là lời dặn dò với chính lòng mình,
sinh vì sự nghiệp giải tự nhủ với chính mình: “Phải biết gắn bó và san sẻ”, câu thơ
phóng dân tộc. mang theo hai lời mệnh lệnh “gắn bó và san sẻ”. Gắn bó với
Đất Nước là lấy niềm vui của Đất Nước là niềm vui của chính
+ Những lời nhắn nhủ mình, lấy niềm đau của Đất Nước là niềm đau của chính
chân thành, tha thiết của mình; ta gắn bó với Đất Nước khi ta yêu Đất Nước như yêu
nhà thơ Nguyễn Khoa chính bản thân mình; ta căm thù kẻ thù của Đất Nước như
Điềm làm ta nhớ đến ta căm ghét những gì sai trái đối với chính mình. Gắn bó với
những câu hát trong bài Đất Nước là đặt nhịp thở, đặt suy tư, đặt suy nghĩ của ta vào
“Khát vọng tuổi trẻ”: cuộc đời, vận mệnh của Đất Nước. Rồi từ đó, ta san sẻ gánh
“Đừng hỏi Tổ quốc đã làm nặng, san sẻ công việc, san sẻ những gì mà Đất Nước mong
gì cho ta, mà phải hỏi chờ ta gánh cùng. San sẻ là lấy vai của ta để gánh cùng gánh
rằng ta đã làm gì cho Tổ nặng Đất Nước đang phải oằn mình nâng lấy. Từ gắn bó đến
quốc hôm nay”, rồi lại day san sẻ là đi từ nhận thức đến hành động, và cộng hưởng lại
dứt với những khát vọng thành một hành động mãnh liệt hơn: “Phải biết hóa thân cho
cống hiến trong bài “Tự dáng hình xứ sở”. Hóa thân là hành động cao nhất trong các
nguyện”. cấp độ nhận thức, và cũng là hành động mạnh mẽ, quả
quyết nhất trong các cấp độ hành động. Hóa thân là hành
động mang tính chất nỗ lực và quyết tâm, nó là nhận thức
al
ci
ffi

sâu sắc, là đích đến cuối cùng, là mục tiêu lý tưởng nhất
42 O
06 T
80 LO

trong cuộc đời của những thế hệ con người đã gắn bó với
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 63 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Đất Nước, đã yêu, đẵ sẵn sàng hi sinh trọn vẹn cho Đất
- Liên hệ, bình: Được Nước. Vì thế, trong thơ ca kháng chiến nói chung đều viết
dâng hiến cho Đất Nước, và ca ngợi về những con người đã sẵn sàng hi sinh cho Đất
cho quê hương; Được Nước một cách cao đẹp như vậy. Ta quên sao được âm điệu
chết cho Tổ quốc là niềm hào hùng mà da diết vang lên trong bài “Tự nguyện” của
tự hào, hạnh phúc và luôn Trương Quốc Khánh:
trong tâm thế sẵn sàng “Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
bởi bao thế hệ. Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
+ Ở cái bài thơ khác Là người, tôi sẽ chết cho quê hương”
được thể hiện một cách Hay trong một bài thơ khác, bài thơ “Sao chiến thắng” của
lẫm liệt, hào hùng. Chế Lan Viên có những lời gan ruột rằng:
Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông...
Một thế hệ đã coi Đất Nước là xương máu của mình đã có
thể sẵn sàng chết cho quê hương, chết cho đất nước; sẵn
sàng nằm xuống bất cứ khi nào Đất Nước cần và luôn luôn
sẵn sàng Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Và đó cũng là
thông điệp của thời đại, là lời khắc ghi của những năm
tháng kháng chiến oai hùng. Thế nhưng, cũng nói về thông
điệp của thời đại, cùng nói về thông điệp của thế hệ, nhưng
Nguyễn Khoa Điềm lại không chọn cái chết làm lý tưởng,
không lấy sự hi sinh để miêu tả sự trần trụi, mãnh mẽ, quyết
liệt về sự tinh thần tự nguyện ấy. Trong “Tự nguyện” của
Trương Quốc Khánh, trọng tâm của câu thơ dồn đúng vào
chữ “chết”, từ “chết” thể hiện một cách gai góc, trần trịu như
để thể hiện một quyết tâm không gì có thể ngăn cản được
al
ci
ffi

của con người khi đã muốn được hóa thân cho dáng hình
42 O
06 T
80 LO

Đất Nước, cho non sông Tổ quốc. Thế nên, câu thơ của
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 64 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Trương Quốc Khánh một thời đã vang dậy núi sông bởi đã
thể hiện một cách rất lẫm liệt, rất đúng với tinh thần của
văn học thời kì này. Tuy hào hùng là vậy, lẫm liệt như thế
nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại không chọn từ chết, hay một
động từ khác có ý nghĩa và âm hưởng tương đồng như hi
sinh, hoặc nằm xuống như trong “Trăng trối”, Tố Hữu đã
viết:
Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng nhẹ khỏe anh dân quê vui sướng
Ngả mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh
Vui lại đến trên môi cười hi vọng.
Hay như trong “Dáng đứng Việt Nam”, Lê Anh Xuân đã
khắc ghi dáng đứng của thời đại:
“Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”.
Mà Nguyễn Khoa Điềm chọn từ “hóa thân”. Hóa thân khắc
chết hay hi sinh ở chỗ: Nếu chết thể hiện một sự kết thúc,
thể hiện một sự chấm dứt, chết là hết; là dành hết cuộc đời
mình, trọn vẹn sự sống này cho Đất Nước. Còn hóa thân lại
không phải là chết, không phải là một sự kết thúc, không
phải là một sự kết thúc mà là chuyển từ dạng thức tồn tại
này sang dạng thức tồn tại khác; là chuyển từ cuộc đời này,
sang cuộc đời khác. Mà dạng thức sau, cuộc đời sau còn ý
nghĩa hơn cuộc đời trước, giàu có hơn, thú vị hơn, tốt đẹp
hơn. Đó là cuộc đời bất tử cùng non sông, hòa vào cùng núi
sông để trường tồn mãi mãi. Nhưng thế hệ con người hóa
thân họ không mất đi, cũng không dừng lại, mà họ đã
chuyển từ cuộc đời nhỏ bé của ta sang cuộc đời bất tử của
al
ci
ffi

đất nước; chuyển từ một cuộc đời hữu hạn sang cuộc đời
42 O
06 T
80 LO

“Đất Nước muôn đời”. Cuộc đời, đi hết đường biên của nó
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 65 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
rồi cũng đến sự kết thúc, ai rồi cũng đi đến điểm cuối trong
sự hữu hạn của cuộc đời mình. Vậy tại sao ta lại không dám
đi từ cái hữu hạn của cuộc đời ta đến cái vô hạn của muôn
đời? Tại sao ta lại không dám đi từ sự nhỏ bé hư vô của một
nấm mồ đến với một Đất Nước lớn lao? Nguyễn Khoa Điềm
đã hỏi và trao cho chúng ta một khoảng lặng để tự đi về
bằng dấu “…” ở cuối đoạn thơ. Có lẽ hơn ai hết, với lồng
ngực của một trái tim biết nghĩ suy, chúng ta sẽ tự cho
mình một câu trả lời để làm sao cho cuộc đời bé nhỏ này
trở nên vĩ đại; làm sao để cuộc đời hữu hạn của ta cũng trở
nên bất tử. Đó là khi… chúng ta biết hoa thân cho dáng hình
xứ sở để làm nên Đất Nước muôn đời.
Không phải ngẫu nhiên mà đoạn thơ này lại được đặt để
kết lại nội dung cho phần: “Đất Nước có từ bao giờ?” của
đoạn trích “Đất Nước”, và cũng không phải ngẫu nhiên và
thơ Nguyễn Khoa Điềm lại gọi ba tiếng “Em ơi em…” một
cách tha thiết đến thế. Chúng ta quay trở lại với hoàn cảnh
sáng tác bài thơ, đó là khi Nguyễn Khoa Điềm đã ý thức sâu
sắc về trách nhiệm của những người tri thức như mình; đó
là lúc ông ý thức sâu sắc về nghĩa vụ của những người cầm
bút chiến đấu như mình trên tinh thần “Văn hóa nghệ thuật
cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận
ấy” (Chủ tịch Hồ Chí Minh). Ông rất ý thức được rằng: Có
rất nhiều những con người trẻ tuổi như ông, đang sống ở
vùng đô thị miền Nam bị địch tạm chiếm cần nhận thức
được vai trò và sứ mệnh của thế hệ mình; cần nhận thức
được để gắn bó, san sẻ và hóa thân cho xứ sở của mình, và
họ cần được có một vinh dự của những con người làm nên
Đất Nước muôn đời.
al
ci
ffi

Thơ sinh ra từ cuộc sống, là những cảm xúc chân thành


42 O
06 T
80 LO

về cuộc đời được bắt nhịp dưới ngòi bút của thi sĩ. Mỗi câu
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 66 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
thơ được tấu lên chính là sự hào điệu và cộng hưởng nhịp
nhàng giữa trái tim với những tiếng đời lăn náo nức. Nguyễn
Khoa Điềm chưng cất một tác phẩm nghệ thuật như một
dấu ấn, một mốc son khắc sâu trong trái tim mọi người, nó
ẩn chìm bao tầng ngữ nghĩa, bao lớp ngôn từ độc đáo mà
mỗi người đọc bằng sự tìm tòi riêng sẽ thấy hiện ra những
vĩ lấp lánh, những thứ ánh sáng kì diệu mà nó phát ra và lan
tỏa. Những dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã truyền cho
ta ánh sáng ấy, ánh sáng của tình yêu đất nước, con người.
Câu chuyện của Đất Nước chính là câu chuyện của trái tim,
vừa thiêng liêng cũng vừa cao cả nhưng ẩn sâu trong đáy
mắt là tình yêu tha thiết dành cho quê hương. Nguyễn Khoa
Điềm đã khéo léo truyền tải những ý tứ sâu sắc ấy qua ngôn
ngữ hết sức chân thực, giản dị, những câu thơ đậm chất duy
lí nhưng thuyết phục và “lo-gic” tạo cho người đọc những
dòng cảm xúc rất đỗi thân thương, trìu mến. Rồi cứ thế nhẹ
nhàng chở bao âm điệu, những câu thơ hòa vào dòng cát
bụi của thời gian, chảy dọc chảy mãi suốt đời thơ thi sĩ trở
thành bản hòa ca với đầu đủ những âm sắc về hai chữ “Đất
Nước” viết hoa.
Phần 2. Nhân dân chính là người làm ra Đất Nước: Nhân dân làm ra dáng hình Tổ quốc;
làm ra lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, đời sống tinh thần…; Nhân dân làm ra thần thoại, cổ
tích, ca dao dân ca…
Vấn đề 4. (12 câu thơ tiếp theo): Dáng hình Đất Nước được tạo dựng từ những địa danh,
thắng cảnh gắn với cuộc sống, số phận, tính cánh, tâm hồn của nhân dân (từ tình nghĩa
thủy chung, thắm thiết đến sức mạnh bất khuất của con người; từ cội nguồn thiêng
liêng cho đến truyền thống hiếu học, non sông gấm vóc tươi đẹp vô ngần…)
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
al

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái


ci
ffi

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
42 O
06 T
80 LO

Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 67 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
⇨ Phát hiện mới từ không gian địa lý: thiên nhiên đất nước trở nên thiêng liêng, gần
gũi hơn khi có sự hóa thân của nhân dân.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
⇨ Khái quát về đất nước, suy ngẫm về vẻ đẹp tâm hồn của con người, lịch sử Việt Nam.
Nội dung 1: Phát hiện mới từ không gian địa lý: thiên nhiên đất nước trở nên thiêng
liêng, gần gũi hơn khi có sự hóa thân của nhân dân.
Luận điểm 1: Sự xuất hiện của hàng loạt các địa danh gắn với vẻ đẹp non sông Đất Nước.
+ Những địa danh được liệt kê phủ rộng mọi miền Đất Nước: từ Bắc vào Nam, từ Đông
sang Tây, từ miền ngược đến miền xuôi.
+ Cho chúng ta cảm giác tự hào như được sống giữa một Đất Nước được dệt gấm thêu
hoa, và bồi đắp thêm tình yêu quê hương khi sở hữu một vẻ đẹp trù phú, đa dạng.
Luận điểm 2: Ẩn sau những địa danh đó là hình hài Đất Nước với sự đổ bóng tâm hồn
của Nhân dân.
+ Đó là sự thủy chung của những người vợ chờ chồng mà hóa đá; là tình yêu gắn kết
của những cặp vợ chồng; là huyền thoại, truyền thuyết về người anh hùng làng Gióng
phủ lên từng ao đầm; hay làng kiên trung của con người đã dựng thành đất tổ Hùng
Vương; tình yêu với thiên nhiên Đất Nước đã tạo thành Hạ Long thắng cảnh; tinh thần
hiếu học của những cậu học trò nghèo.
Luận điểm 3: Những người dân vô danh đã góp phần làm nên Đất Nước.
- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chọn những địa danh nổi tiếng gắn với những con
người vĩ đại, gắn với lịch sử oai hùng hay những con người kiệt xuất mà chọn những địa
danh gắn với những con người bình lặng, vô danh như biết bao người con gái, con trai
al
ci
ffi

giống ta lứa tuổi, trong 4000 năm Đất Nước.


42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 68 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
- Cụ thể của những địa danh đã được nhắc gắn với những người vô danh:
+ Núi Vọng Phu: có hình người vợ chờ chồng ở Đồng Đăng tỉnh Lạng Sơn và nhiều
nơi khác trên đất nước ta. Nó gắn liền với tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng mà hóa
đá. Nằng Tô Thị không phải là một cá nhân mang tên Tô Thị, mà đó là biểu trưng cho
biết bao người phụ nữ Việt Nam mòn mỏi chờ chồng.
+ Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa tương truyền do hai vợ chồng yêu nhau
hóa thân thành. Nó là sự kết thành từ hai tảng đá giống hình trống mái nằm trên một
ngọn núi và cũng xuất hiện ở nhiều nơi trên đất nước ta. Và soi dòng lịch sử dân tộc
Việt Nam ta, có biết bao câu chuyện về tình nghĩa vợ chồng đẹp. Càng gian khổ, càng
cùng cực tình nghĩa vợ chồng lại càng sâm đậm.
+ Đó là vẻ đẹp của người anh hùng làng Gióng, cả dân làng đã cùng nhau góp gạo,
góp sức nuôi Thánh Gióng lớn nhanh như thổi. Thánh Gióng làm nên một huyền thoại
từ bụi tre ngà mà dân làng trồng, vũ khí dân làng đã nuôi dưỡng qua năm tháng. Người
anh hùng làng Gióng là hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp nhân dân.
+ 99 con voi góp lên núi Nghĩa Lĩnh là câu chuyện của lòng trung hiếu của một dân
tộc mà trên dưới phải đồng lòng để đặt lịch sử dân tộc lên trên. Thế mới có quần thể
núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi” bao quanh núi Hi Cương (tỉnh Phú Thọ) nơi
đền thờ vua Hùng ngự trị, chính là đàn voi chín mươi chín con quây quần chầu phục
quanh đất Tổ.
+ Đó là tượng hình “con cóc, con gà quê hương” cùng góp mình cho Vịnh Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh trở “thành danh lam thắng cảnh” được UNESCO công nhận là Di sản
thế giới (năm 1994).
+ Là sự kiên trì, bền bỉ vì chí lớn của cả một dân tộc hiếu học, cả một dân tộc dù “đất
nghèo nuôi những anh hùng” thì đều hiểu: Phải có học mới có ngày mai. Vậy nên với có
đài Nghiên, tháp Bút.
+ Dòng sông Cửu Long hiền hòa, tươi đẹp với: “Những con rồng nằm im góp dòng sông
xanh thẳm”. Và chính từ dòng sông này biết bao tấn thóc, tấn gạo được gieo trồng và
được xuất khẩu đi khắp các quốc gia. Trên đó là biết bao giọt mồ hôi của bao thế hệ.
+ Đó là “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”, tên đất, tên làng đều mang bóng
al
ci
ffi

dáng của nhân dân đã tôn tạo nên nét đẹp văn hóa, truyền thống, để hôm nay và mai
42 O
06 T
80 LO

sau con cháu đời đời ngưỡng vọng biết ơn.


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 69 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
 Như vậy, từ Bắc vô Nam dọc khắp dải đất cong cong hình chữ S này, đâu dâu ta
cũng thấy sự hóa thân của nhân dân những con người bình dị, vô danh; mỗi cuộc đời đều
lặng lẽ góp phần mình làm nên vẻ kì thú của thiên nhiên và bề dày của truyền thống.
Nhưng điều đặc biệt và kì diệu trong thơ Nguyễn Khoa Điểm đó là có tên những danh
lam thắng cảnh cho ta hình dung chúng đang ở vị trí nào, ở miền Bắc hay miền Nam, ở
Hưng Yên hay Phú Thọ, ở Mũi Né hay Cà Mau nhưng tuyệt nhiên không có tên của một
người nào rõ ràng để chúng ta hồi tưởng. Điều đó đồng nghĩa với việc tất cả đều từ
Nhân dân mà ra. Trải qua biết bao năm tháng, họ đã lặng lẽ, bền bỉ, kiên cường, đã tạo
dựng nên Đất Nước, đã đặt tên, in dấu ấn sâu đậm trên dáng hình quê hương xứ sở.
Nội dung 2. (4 câu thơ sau): Sự khái quát về Đất Nước với những suy ngẫm có tính triết
lý sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
- Từ vẻ đẹp thiên nhiên đất nước, tác giả suy ngẫm về vẻ đẹp tâm hồn của con người,
của lịch sử truyền thống Việt Nam:
+ Hòn Trống Mái, Núi Vọng Phu gợi ra tình nghĩa thủy chung, son sắt của vợ chồng.
+ Từ dấu ấn “trăm ao đầm”, đất Tổ Hùng Vương gợi ra truyền thống đánh giặc chống
ngoại xâm, tình yêu quê hương đất nước, quyết tâm bảo vệ từng tấc đất.
+ Truyền thống hiếu học, mở mang tri thức luôn được khắc ghi thông qua hình ảnh
núi bút, non Nghiên.
+ Những tên xã, tên làng, tên đường, tên phố ngày nay… đều mang một câu chuyện
lịch sử gợi nhắc chúng ta phải ghi nhớ, đó là công ơn của những người đi trước đã hi
sinh cả cuộc đời vì vận mệnh dân tộc.
- Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên một tầm khái quát mới dưới nhận thức của nhà thơ:
Để có được một Đất Nước tươi đẹp vô ngần sau bốn nghìn năm là do Nhân dân đã hóa
thân vào dáng hình Đất Nước. Nhân dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt tên, đã ghi
dấu cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông trên khắp mọi miền đất nước.
al
ci
ffi

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi


42 O
06 T
80 LO

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 70 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Hai câu thơ đầu khẳng định dáng hình của Nhân dân trong không gian Đất Nước
“trên khắp ruộng đồng gò bãi”. Bóng hình ấy của nhân dân không chỉ làm cho đất nước
thêm phần tươi đẹp àm còn mang “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”…
Nghĩa là nhân dân không chỉ góp mình tạo danh lam thắng cảnh mà còn góp vào đó
những giá trị tinh thần, là phong tục, tập quán, là truyền thống văn hóa.
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
+ Hai câu thơ cuối: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”, “núi sông ta” sở dĩ có được là
nhờ “những cuộc đời” đã hóa thân để góp nên, mà cuộc đời đó không ai khác chính là
nhân dân. Nhân dân không chỉ góp tuổi, góp tên mà con góp cả cuộc đời và số phận
của mình.
- Thông qua đoạn thơ, chủ thể trữ tình bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của cảnh quan
thiên nhiên kì thú, về những truyền thóng quý báu của dân tộc; thể hiện niềm nâng
niu, trân trọng và ngưỡng mộ trước những đóng góp lớn lao của nhân dân.
Nét đặc sắc về nghệ thuật:
+ Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và trữ tình, giữa suy tưởng và cảm xúc;
là sự vận dụng sáng tạo thể thơ tự do với sự biến đổi linh hoạt của âm hưởng, nhịp điệu;
của các biện pháp liệt kê, trùng điệp…; động từ “góp” được sử dụng nhiều lần.
+ Nhà thơ đã khéo léo sử dụng linh hoạt chất liệu truyện kể dân gian, chất liệu văn
hóa dân tộc để sáng tạo hình ảnh và thể hiện cách cảm nhận độc đáo về đất nước; cách
triển khai ý thơ đi từ cụ thể đến khái quát phù hợp với các suy tưởng chính luận.
+ Ngôn ngữ gần gũi với đời sống mà vẫn mới mẻ; hình ảnh quen thuộc gợi mở nhiều
liên tưởng sâu sắc trong lòng độc giả.
Bielinxki từng nói: “Giá trị của một tác phẩm nằm ở giá trị
tư tưởng của nó”, song, tư tưởng ấy chính là ngọn nguồn tạo
nên những vầng sáng tỏa ra xung quanh tác phẩm. Đến với
Nội dung 1: Phát hiện những tiếng thơ của Nguyễn Khoa Điềm ta bắt gặp thứ ánh
mới từ không gian địa sáng lạ lẫm nhưng lung linh vẻ đẹp huyền diệu ấy được truyền
lý: thiên nhiên đất nước tải qua Tư tưởng “Đất Nước Nhân dân”. Nhà thơ đã kiến tạo
al
ci
ffi

trở nên thiêng liêng, nên tư tưởng bằng chính tâm hồn mình với tất cả sự biết ơn
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 71 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
gần gũi hơn khi có sự gửi đến những con người đã “góp” cả cuộc đời, tên tuổi, số
hóa thân của nhân dân. phận của mình để hóa thân vào dáng hình sông núi hôm nay.
Nếu chín câu thơ đầu mở ra cho chúng ta một không gian
Luận điểm 1: Sự xuất cổ tích để bước vào Đất Nước một cách gần gũi nhất, hay hai
hiện của hàng loạt các mươi câu thơ ngay sau đó là cả một không gian rộng lớn để
địa danh gắn với vẻ đẹp có thể hòa vào Đất Nước với những thứ vi mô nhất, thì đến
non sông Đất Nước. với đoạn thơ này, ta trở về với Đất Nước bằng một không gian
vĩ mô với những danh lam thắng cảnh được trải dài từ miền
+ Những địa danh được ngược đến miền xuôi, từ Đông sang Tây, từ Bắc vào Nam như
liệt kê phủ rộng mọi Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, đất tổ Hùng Vương, dòng sông
miền Đất Nước: từ Bắc Cửu Long, Núi Bút, Non Nghiên, Hạ Long thắng cảnh…. Chỉ
vào Nam, từ Đông sang với một phép liệt kê về những danh lam thắng cảnh của quê
Tây, từ miền ngược đến hương nhưng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã bao trọn được
miền xuôi. không gian Đất Nước to lớn phủ khắp non sông Đất Nước. Và
cũng nhờ phép liệt kê mà ta có cái nhìn bao quát về non sông
+ Cho chúng ta cảm xứ sở quê mình. Chưa bao giờ cảm giác tự hào trong ta lại trỗi
giác tự hào như được dậy một cách mạnh mẽ đến thế! Ta tự hào vì được sống trên
sống giữa một Đất một mảnh đất như được dệt gấm thêu hoa, một Đất Nước
Nước được dệt gấm tươi đẹp vô ngần, đi đến đâu cũng đều cảm nhận được vẻ đẹp
thêu hoa, và bồi đắp của non sông để rồi chỉ muốn cất lời:
thêm tình yêu quê Việt Nam đất nước ta ơi
hương khi sở hữu một Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
vẻ đẹp trù phú, đa dạng. Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau.
Luận điểm 2: Ẩn sau Tha thiết là thế, hùng vĩ là vậy, nhưng “giá trị của tác phẩm
những địa danh đó là nghệ thuật trước hết là giá trị tư tưởng của nó; Là tư tưởng đã
hình hài Đất Nước với được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải ở
al
ci
ffi

sự đổ bóng tâm hồn của tư tưởng thẳng đơ trên trang giấy”. Nên dường như mục đích
42 O
06 T
80 LO

Nhân dân. chính của đoạn thơ không đơn thuần dừng lại ở vẻ đẹp của
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 72 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
cảnh trí non sông, mặc dù ấn tượng đầu tiên và cảm xúc về
+ Đó là sự thủy chung non sông Đất Nước đã dâng trào khi bao danh lam thắng cảnh
của những người vợ chờ đã được gợi lên. Bởi chúng ta thấy rằng: Ẩn sau ngọn núi Vọng
chồng mà hóa đá; là Phu là một dáng hình, ẩn trong Hòn Trống Mái là một sự chờ
tình yêu gắn kết của mong, bên dưới những ao đầm vẫn thấy một dáng dấp, hay
những cặp vợ chồng; là trong Tháp Bút, non Nghiên vẫn có dáng ai ngồi đấy,… không
huyền thoại, truyền rõ nhưng lại rất sâu, không đậm nhưng lại rất gần. Phải chăng,
thuyết về người anh đó chính là hình linh hồn Đất Nước? Nếu hình sông thế núi
hùng làng Gióng phủ chỉ tồn tại ở những dáng hình thì đó là một sự ưu ái của tạo
lên từng ao đầm; hay hóa, tạo hóa đã khéo tay mà sắp đặt, ban tặng cho chúng ta
làng kiên trung của con một dáng hình Đất Nước thật phong phú, thật yêu kiều. Thế
người đã dựng thành nhưng, Nguyễn Khoa Điềm không bằng lòng với câu trả lời
đất tổ Hùng Vuơng; ấy, ông đi sâu vào những lớp trầm tích đằng sau, và trả lời cho
tình yêu dành cho thiên chúng ta rằng: Hình sông thế núi không chỉ được tạo nên bởi
nhiên Đất Nước đã tạo những hình hài rõ nét như thế, mà đó còn là sự tạo tác đến
thành Hạ Long thắng từ con người. Đó chính là sự đổ bóng, sự phả hồn của nhân
cảnh; tinh thần hiếu dân. Để làm nên một Hòn Trống Mái là sự đổ bóng của biết
học của những cậu học bao cặp vợ chồng yêu nhau; để có một Núi Vọng Phu là sự in
trò nghèo đã làm nên dấu của những người vợ nhớ chồng; để có đất Tổ Hùng Vương
Núi Bút, non Nghiên. là hình bóng của chín mươi chín con voi đã góp mình… Nếu
không có những con người lặng lẽ ấy, thì dáng núi hình sông
kia cũng chỉ là những khối đá vô tri vô giác, chúng không nói
lên điều gì nếu được đặt ở một đất nước khác. Thế nhưng, ở
tại Đất Nước ta, thì để có được một núi Vọng Phu hay Hòn
Trống Mái thì đó là sự kết tinh của tình yêu. Núi sông không
thể tự mà nhớ mà nỗi nhớ ấy là của những người con nước
Việt đã phả vào núi sông. Nếu không có người anh hùng làng
Gióng thì sẽ không có huyền thoại của trăm ao đầm này.
Những ao đầm ấy cũng như biết bao ao đầm khác, và cũng sẽ
al
ci
ffi

được giải thích theo cách gọi của khoa học là do nước mưa
42 O
06 T
80 LO

ngưng đọng lại ở những vùng đất trũng, nhưng chính người
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 73 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
anh hùng làng Gióng đã làm cho ao đầm trở nên có ý nghĩa,
có linh hồn. Nếu như không có lòng trung hiếu để từ đó con
người Việt Nam nhìn chín mươi chín con voi ra được câu
chuyện chầu về đất Tổ thì sẽ không bao giờ có núi Nghĩa Lĩnh
nơi đất thờ vua Hùng. Cũng như thế, với tình yêu thiên nhiên
đã làm nên dòng sông Cửu Long xanh thẳm với sự đổ bóng
của chín con rồng nằm im. Dân mình yêu quê, yêu thiên
nhiên từ những thứ nhỏ bé nhất đã thắp cho Hạ Long hình
ảnh con cóc, con gà trên Vịnh Hạ Long… Như vậy, nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một cái nhìn
rất thú vị về hình hài Đất Nước. Không ai khác, chính con
người đã phả cuộc sống của mình, đổ cuộc đời của mình để
làm nên linh hồn cho Đất Nước. Linh hồn Đất Nước chính là
cuộc đời phong phú, đa dạng với biết bao nhiêu cung bậc cảm
xúc từ tình yêu đôi lứa, nghĩa tình vợ chồng, đến lòng căm
thù giặc hay lòng trung hiếu, sự kiên trung… Tất cả đã hòa
quyện cùng nhau làm nên linh hồn cho Đất Nước, tạo nên bề
sâu cho hình hài Đất Nước.
Luận điểm 3: Những Nhà thơ Chế Lan Viên từng có đôi ý thơ viết về giá trị của
người dân vô danh đã mỗi vần thơ rằng:
góp đời mình để làm nên “Bài thơ anh anh làm một nửa mà thôi
Đất Nước. Còn một nửa anh cho mùa thu làm lấy
Cái xào xạc hồn anh chính là cào xạc lá
Nó không là anh nhưng nó là mùa”
- Nhà thơ Nguyễn Và nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng chỉ làm bài thơ với “một
Khoa Điềm không chọn nửa” ngữ nghĩa câu chữ, còn nửa còn lại để chúng ta góp
những địa danh nổi thành mùa. Bởi “Đất Nước” đã cho chúng ta phần xác, còn
tiếng gắn với những phần hồn là chiều sâu mà chúng ta gom nhặt lấy. Đoạn trích
con người vĩ đại, gắn với về dáng hình Đất Nước được đổ bóng từ sự hóa thân của
al
ci
ffi

lịch sử oai hùng hay người dân đã cho chúng ta xúc động về vẻ đẹp của hình hài
42 O
06 T
80 LO

những con người kiệt quê hương. Có lẽ, chỉ riêng điều ấy thôi cũng đã đủ để dấy
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 74 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
xuất mà chọn những lên trong chúng ta niềm tự hào về Đất Nước quê hương mình.
địa danh gắn với những Nhưng, với Nguyễn Khoa Điềm, thế là chưa đủ, nhà thơ buộc
con người bình lặng, vô chúng ta phải nhìn thêm một tầng lớp nữa, thêm một chiều
danh như biết bao kích nữa, thêm một chiều sâu nữa để chúng ta nhận ra phần
người con gái, con trai linh hồn nằm sâu trong dáng vẻ quê hương thân thuộc, yêu
giống ta lứa tuổi, trong dấu này. Đó là sự đổ bóng của con người với tất cả sự phong
4000 năm Đất Nước. phú, đa dạng thuộc về thế giới tâm hồn con người Việt Nam
qua bao thế hệ đã đổ bóng lên non sông này.
- Cụ thể của những địa Đi dọc đất nước Việt Nam cong cong hình chữ S, ta bắt gặp
danh đã được nhắc gắn biết bao điểm đến, biết bao danh lam, hàng ngàn thắng cảnh.
với người vô danh: Ta tự hào về dòng sông Bạch Đằng với ba trận thủy chiến làm
nên những trang sử hào hùng; ta ngơ ngẩn trước vẻ đẹp núi
+ Núi Vọng Phu: có Ba Vì xanh ngát một màu xanh; ta quên sao được dòng sông
hình người vợ chờ Lô “hò ô tiếng hát” phá tan cuộc tấn công mùa đông năm ấy
chồng ở Đồng Đăng của giặc Pháp trên mảnh đất chiến khu Việt Bắc… Thế nhưng,
tỉnh Lạng Sơn và nhiều điều thú vị nằm ở chỗ, trong biết bao nhiêu những vẻ đẹp quê
nơi khác trên đất nước hương nổi tiếng, “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” mà
ta. Nó gắn liền với tích nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại không chọn, ông chỉ chọn
nàng Tô Thị bồng con những Núi Vọng Phu, những Hòn Trống Mái, núi Bút, non
chờ chồng mà hóa đá. Nghiên, con cóc, con gà… Tất cả những danh lam thắng cảnh
Nàng Tô Thị không phải không gắn với bất kì một người anh hùng lịch sử hay những
là một cá nhân mang con người kiệt xuất, nổi bật nào, nó gắn với những con người
tên Tô Thị, mà đó là bình thường, lặng lẽ, vô danh như anh và em, như “bốn nghìn
biểu trưng cho biết bao lớp người giống ta lứa tuổi”. Hình ảnh “những người vợ nhớ
người phụ nữ Việt Nam chồng”, ai cũng biết đó là câu chuyện về nàng Tô Thị cõng
mòn mỏi chờ chồng. con chờ chồng – một nhân vật trong chuyện cổ dân gian Việt
Nam. Nàng Tô Thị không phải là hình ảnh cá nhân đích danh
một người vợ nào mà là hình ảnh biểu trưng cho biết bao
nhiêu người phụ nữ Việt Nam mòn mỏi chờ chồng đằng đẵng
al
ci
ffi

mà hóa đá. Nếu hòn núi Vòng Phu kia ở một đất nước khác,
42 O
06 T
80 LO

nằm trên một dân tộc khác có lẽ nó đã mang một cái tên
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 75 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
khác, với một tích chuyện khác và mang một ý nghĩa khác,
chứ đâu nghĩa tình như thế, son sắt đến vậy. Nhưng, ngọn núi
ấy lại được đặt ở đất nước Việt Nam này, một đất nước với
chiều dài lịch sử, một đất nước với biết bao cuộc chiến tranh
chiền miên nên mới có truyền thuyết những người vợ bồng
con chờ chồng trở về mà hóa đá. Ở cái đất nước xứ Nam này
đã có biết bao người vợ đằng đẵng chờ chồng trong một
chuyến đi biển mà biển khơi đã nuốt trọn cả người chồng,
người bố của đứa con bé bỏng mà họ vẫn ngóng chông đến
hóa đá. Những người phụ nữ Việt Nam đã phải chờ chồng
trong chiến tranh và cả trong lao động như thế mới có được
một linh hồn cho ngọn núi ngỡ vô tri mà cảm động đến vậy.
Thế mới thấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ yêu dân
mình, mà còn hiểu dân mình, thương dân mình, thấu suốt sự
hi sinh của những người phụ nữ, của những người bà, người
mẹ thì mới có thể cất lên được tiếng thơ cảm động đến vậy.
Trên đất nước Việt Nam này đã có biết bao hòn Vọng Phu
như thế, từ đất Lạng Sơn đến chấm mũi Hà Tiên đâu đâu cũng
có. Nó không phải là ngọn núi duy nhất, độc chỉ có một mà
rất nhiều hòn Vọng Phu. Có bao giờ, ta lắng lòng tự hỏi: Sao
Đất Nước mình nhiều hòn Vọng Phu đến thế không? Nếu như
không phải vì những người phụ nữ Đất Việt đã đằng đẵng chờ
chồng trong không biết bao nhiêu năm tháng, qua biết bao
thế hệ vẫn nối tiếp nhau chờ thì làm sao có được? Những
người vợ nhớ chồng cho dù đó là nàng Tô Thị được ghi lại
+ Hòn Trống Mái ở trong truyện cổ tích hay là những người phụ nữ vô danh thì
Sầm Sơn, tỉnh Thanh chắc hẳn trong đó cũng sẽ có dáng hình cả bà chúng ta, mẹ
Hóa tương truyền do chúng ta và cũng là chúng ta sau này – những người con gái
hai vợ chồng yêu nhau thủy chung một lòng, son sắt một dạ. Nếu không đến từ
al
ci
ffi

hóa thân thành. mảnh đất có nhiều người phụ nữ chờ chồng đến vậy thì đã
42 O
06 T
80 LO

không có một hòn Vọng Phu hiên ngang đến thế. Ta thấm
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 76 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Đó là vẻ đẹp của thía sau sắc hơn rằng, Đất Nước Việt Nam chúng ta, con
người anh hùng làng người nước Việt chúng mình trên mảnh đất khô cằn này, càng
Gióng, cả dân làng đã gian khổ, càng gian lao, càng cay đắng, càng cực nhọc ta lại
cùng nhau góp gạo, góp càng yêu nhau, càng tôn thờ tình yêu và lãnh mạn hóa tình
sức nuôi Thánh Gióng yêu. Thế nên, có biết bao nhiêu hòn Vọng Phu thì song song
lớn nhanh như thổi. với đó là có biết bao hòn Trống Mái được dựng lên. Chúng ta
yêu nhau ngay cả khi hòa bình, ngay cả khi chiến tranh đầy
+ 99 con voi góp lên gian khổ; chúng ta yêu nhau và trao cho nhau lời nguyền thủy
núi Nghĩa Lĩnh là câu chung để làm nên những hòn Trống Mái. Bởi hòn Trống Mái
chuyện của lòng trung là sự in dấu của biết bao câu chuyện tình yêu thật đẹp trong
hiếu của một dân tộc suốt một bề dày lịch sử dân tộc. Từ câu chuyện tình yêu của
mà trên dưới phải đồng gia đình huyền thoại cha Lạc Long Quân, mẹ Âu Cơ cho đến
lòng để đặt lịch sử dân câu chuyện tình yêu ngọt ngào của ông bà ta, cha mẹ chúng
tộc lên trên. ta, của anh và em và của con ta sau này. Những câu chuyện
tình yêu đẹp ấy sẽ mãi mãi nảy sinh và cho hoa ở trên mảnh
+ Đó là tượng hình đất này. Rồi người anh hùng làng Gióng là người anh hùng
“con cóc, con gà quê của cả một cộng đồng, người anh hùng lớn lên từ sự chung
hương” cùng góp mình tay đoàn kết của làng, của xã. Thánh Gióng là biểu trưng cho
cho Vịnh Hạ Long sức mạnh cộng đồng, sức mạnh của dân gian. Cậu bé Gióng
“thành danh lam thắng vốn không có tên riêng, tên của cậu bé chính là tên ngôi làng
cảnh” được UNESCO Gióng đã sinh ra – làng Gióng. Thánh Gióng cũng được sinh
công nhận là Di sản thế ra từ một người mẹ nông dân vô danh và Gióng lớn lên là nhờ
giới (năm 1994). sự chăm sóc của cả làng. Người mẹ nghèo ấy không đủ sức
nuôi người con trai thần kì của mình cho nên cả làng Gióng
+ Là sự kiên trì, bền bỉ đã góp gạo “bảy nong cà, ba nong gạo” mỗi bữa cho cậu bé ăn.
vì chí lớn của cả một Để rồi cậu bé ấy đã làm nên một huyền thoại. Trong chiến
dân tộc hiếu học, cả thắng của mình, Thánh Gióng không phải dùng gậy sắt, roi
một dân tộc dù “đất sắt, áo giáp sắt của vua, mà Gióng làm nên huyền thoại bởi
nghèo nuôi những anh bụi tre ngà bên đường, bụi tre mà dân làng đã trồng không
al
ci
ffi

hùng”: Phải có học mới biết bao nhiêu năm “đợi ngày thành gậy”. Gióng lớn lên với
42 O
06 T
80 LO

có ngày mai. sức mạnh của nhân dân, của dân làng; Gióng đánh giặc với vũ
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 77 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
khí của nhân dân để làm nên một huyền thoại. Như vậy, ngay
+ Đó là “Ông Đốc, Ông cả người anh hùng làng Gióng cũng tiêu biểu cho vẻ đẹp của
Trang, Bà Đen, Bà nhân dân, và những người dân ấy “không ai nhớ mặt đặt tên”,
Điểm”, tên đất, tên làng họ đều vô danh trên mảnh đất này. Đến câu chuyện chín
đều mang bóng dáng mươi chín con voi góp mình thành dãy núi Nghĩa Lĩnh cũng
của nhân dân đã tôn tạo là câu chuyện của lòng trung hiếu của cả một dân tộc mà tất
nên nét đẹp văn hóa, cả trên dưới phải đồng lòng thì mới có thể làm nên một huyền
truyền thống. thoại. Câu chuyện của chín mươi chín con voi góp mình nếu
không rơi vào một dân tộc mà chữ trung, chữ hiếu được đặt
lên đầu trong những lúc nguy nan của lịch sử thì có lẽ, nó
cũng chỉ là một ngọn núi để ta ngắm nhìn trên sự khắc tạc
của tạo hóa. Cũng như thế, chúng ta là một dân tộc hiếu học,
cả dân tộc dù có “đất nghèo nuôi những anh hùng” thì cũng
đều hiểu rằng, phải có học thì mới có ngày mai. Cho nên,
chúng ta mới có núi Bút, non Nghiên. Với một dân tộc yêu sự
học, kính con chữ thì mới có đài Nghiên, tháp Bút như thế.
Và với nguồn mạch ấy, chúng ta thấy sự đổ bóng của những
hình ảnh thân thương, gần gũi nhất của một dân tộc luôn
quây quần và gắn bó như con cóc con gà những góp cho Hạ
Long thành thắng cảnh. Nếu không yêu thiên nhiên, không
hòa mình vào thiên nhiên, không nâng niu và biết ơn thiên
nhiên thì có lẽ những hình ảnh nhỏ bé như vậy khó nằm được
trên những trang thơ.
Nội dung 2. (4 câu thơ Nhắc đến thơ của Nguyễn Khoa Điềm là nhắc đến “Những
sau): Sự khái quát về sợi ngang dọc dệt nên hình tượng thơ” nhưng lại vô cùng thấm
Đất Nước với những suy đấm, ngọt ngào. Đúng như lời của một nhà phê bình đã viết:
ngẫm có tính triết lý “Những sợi ngang dọc dệt nên hình tượng thơ Nguyễn Khoa
sâu sắc của nhà thơ Điềm đều óng ánh một màu sắc đặc biệt của chất liệu văn hóa
Nguyễn Khoa Điềm. dân gian - đó là một lực hút nữa của đoạn thơ Đất Nước… để
al
ci
ffi

rồi người đọc lặng đi xúc động trước một cách định nghĩa thật
42 O
06 T
80 LO

bất ngờ của Nguyễn Khoa Điềm…”. Thơ Nguyễn Khoa Điềm
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 78 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
- Bốn câu thơ cuối nâng giàu chất chiết luận, luôn gửi đến chúng ta những bức thông
ý thơ lên một tầm khái điệp rất sâu sắc. Thế nhưng, chất chiết luận mà Nguyễn Khoa
quát mới dưới nhận Điềm sử dụng nó không hề khô cứng. Nói như nhà văn Gớt:
thức của nhà thơ: Để có “nó không màu xám mà nó mãi xanh tươi”. Điều làm nên chất
được một Đất Nước xanh tươi ấy chính là những câu ca dao, những câu chuyện
tươi đẹp vô ngần sau cổ tích đã được Nguyễn Khoa Điềm khéo léo đan cài vào
bốn nghìn năm là do trong từng ý thơ của mình. Đó không phải là sự sao chép
Nhân dân đã hóa thân nguyên dạng mà ông chỉ mượn chất kiệu dân gian, mượn
vào dáng hình Đất những tiêu đề, ý nghĩa kí thác trong truyện cổ tích chúng ta
Nước. Nhân dân chính đã được nghe, đã được kể từ thuở tấm bé để đánh thức bề
là người đã tạo dựng, đã sâu, thôi thúc chúng ta một động lực để tìm về cội nguồn. Từ
đặt tên, đã ghi dấu cuộc chất làm thơ mãi xanh tươi ấy, chúng ta thấm hơn về mối
đời mình lên mỗi ngọn quan hệ giữa chúng ta đã phả vào hình hài Đất Nước mà yêu
núi, dòng sông trên dân tộc này hơn, yêu quê hương này hơn. Có lẽ, thế hệ của
khắp mọi miền. nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là thế hệ những con người đã
trưởng thành dưới cái nôi của mái trường Xã hội chủ nghĩa
nên thế hệ viết thơ không chỉ đơn thuần chỉ là làm thơ, mà
còn đánh thức trong chúng ta về “khoảng lặng đi về và thưởng
thức”. Thế hệ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, là thế hệ tìm
luôn luôn có nhu cầu trở về với cội rễ dân tộc để cảm nhận
rõ hơn mối quan hệ giữa người trí thức và mạch nguồn quê
hương. Điều đó đồng nghĩa rằng, Nguyễn Khoa Điềm không
phải là người đầu tiên hay là người duy nhất làm điều ấy,
nhưng thật hiếm ai quay trở về mà có được sự trọn vẹn như
Nguyễn Khoa Điềm.
+ Hai câu thơ đầu Trong một lần phỏng về tư tưởng Đất Nước Nhân dân, nhà
khẳng định dáng hình thơ Nguyễn Khoa Điềm đã trải lòng tâm sự về người dân nước
của Nhân dân trong mình thế này: “Vì làm nông nghiệp, số phận nhân dân đã gắn
không gian Đất Nước chặt với những dòng sông. Vậy thì, văn hóa ắt phải mang
al
ci
ffi

“trên khắp ruộng đồng gương mặt dòng sông”. Dòng sông, nơi đã cất lên bao nỗi niềm
42 O
06 T
80 LO

gò bãi”. Bóng hình ấy và cũng là nơi chất chứa rất nhiều kỉ niệm sâu trong mỗi
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 79 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
của nhân dân không chỉ chúng ta. Và cũng từ chất phù sa nơi dòng sông ấy mà cây cối
làm cho đất nước thêm lên bông, lúa chín nặng hạt, đất đai phì nhiêu màu mỡ. Với ý
phần tươi đẹp mà còn nghĩa đó, kết thúc đoạn thơ nói về sự đổ bóng của nhân dân
mang “một dáng hình, cho dáng hình Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã để
một ao ước, một lối lại bốn câu thơ nói về vai trò của những người dân trong việc
sống ông cha”… Nghĩa tạo nên Đất Nước:
là nhân dân không chỉ “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
góp mình tạo danh lam Chẳng mang một dáng hình, một ao ước một lối sống ông cha
thắng cảnh mà còn góp Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
vào đó những giá trị Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
tinh thần, là phong tục, Không chỉ dừng lại ở sự khơi gợi mà nhà thơ Nguyễn Khoa
tập quán, là truyền Điềm đã một lần nữa cho chúng ta thấy được mối quan hệ
thống văn hóa lưu dấu giữa núi sông ta và con người ở trên núi sông ta. Với việc liệt
tới mai sau. kê hàng loạt những danh từ như dáng hình, ao ước, lối sống,
nhà thơ đã cho thấy rõ, núi sông ta không chỉ có hình hài của
núi sông do tạo hóa tạo tác nên. Mà núi sông ta còn là sự đổ
bóng của biết bao nhiêu những con người từ dáng hình cho
đến ao ước, lối sống; từ cuộc sống bên ngoài cho đến tâm
+ Hai câu thơ cuối: hồn bên trong cuộc sống ấy. Tất cả đã tạo nên một sự trọn
“Những cuộc đời đã hóa vẹn của núi sông ta. Nguyễn Khoa Điềm đã nhận ra điều sâu
núi sông ta”, “núi sông sắc ấy, không bao giờ là sự đổ bóng hay đóng góp của một
ta” sở dĩ có được là nhờ con người cụ thể, của một thế hệ riêng biệt nào dẫu cho cá
“những cuộc đời” đã nhân ấy, thế hệ ấy có xuất sắc đến đâu, mà nó phải được đến
hóa thân để góp nên, từ hai tiếng nhân dân muôn đời, là sự đóng góp của nhân dân
mà cuộc đời đó không ngàn đời. Thế nên trong một đoạn thơ ngắn, đứng trước mỗi
ai khác chính là nhân hình sông thế núi đều là một động từ “góp” được cất lên. Động
dân. Nhân dân không từ “góp” giúp chúng ta hiểu rằng: Đó là sự quên mình, sự lặng
chỉ góp tuổi, góp tên lẽ, dâng hiến trọn vẹn của biết bao thế hệ, của biết bao nhiêu
mà còn góp cả cuộc đời con người, của biết bao nhiêu cá nhân. Tất cả đã tạo dựng
al
ci
ffi

và số phận của mình. nên hình hài đất nước. Đó là công sức của cả một tập thể, là
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 80 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
công quả của cả một cộng đồng. Và cộng đồng ấy đã tạo dựng
nên một Đất Nước cả bề rộng lẫn bề sâu.
- Thông qua đoạn thơ, Xúc động trước những điều tưởng chừng như bình dị mà vô
chủ thể trữ tình bộc lộ cùng thiêng liêng ấy, tác giả đã phải thốt lên tiếng lòng của
niềm tự hào về vẻ đẹp mình với thán từ “Ôi” chất chứa bao nỗi niềm. Nếu ở phần
của cảnh quan thiên đầu thi phẩm, chúng ta được đánh thức bởi tiếng gọi:
nhiên kì thú, về những “Em ơi em, Đất Nước là mái xương của mình.
truyền thống quý báu Phải biết gắn bó và san sẻ
của dân tộc; thể hiện Phải biết hoa thân cho dáng hình xứ sở
niềm nâng niu, trân Làm nên Đất Nước muôn đời…”
trọng và ngưỡng mộ Như một mệnh lệnh thức, một lời nhắn nhủ từ tâm can nhà
trước những đóng góp thơ thì đến ý thơ này, nó không đơn thuần chỉ là một lời xúc
lớn lao của nhân dân. động nữa, mà đã được chuyển hóa thành một nỗi niềm.
Không còn là hành động “hóa thân” nữa, mà tại ý thơ này, lời
ý nguyện đã được chuyển hóa thành kết quả. Chính sự hóa
thân kia đã làm nên “núi sông ta”. Nghĩa rằng, chính Việt Nam,
dân tộc Việt Nam, những con người Việt Nam đã hóa thân
cho dáng hình xứ sở với một ý niệm cao cả để hôm nay chúng
ta đi đâu cũng thấy “khắp ruộng đồng gò bãi”, nơi đâu cũng
có “dáng hình, ao ước, lối sống ông cha”. Bốn câu thơ đã tạo
dựng nên một bức tượng đài về nhân dân. Nhưng thú vị thay,
bức tượng đài ấy không mang một gương mặt cụ thể nào. Bức
tượng đài ấy được khắc tạc từ sự vô danh nhưng lại làm nổi
bật dáng hình, ao ước, lối sống; nó in hằn núi sông, bờ cõi dân
tộc ta. Và khi nhìn vào bức tượng đài ấy, ta tự hỏi lòng mình
rằng: Chính núi sông đã làm nhân dân bất tử, hay nhân nhân
đã làm cho núi sông bất tử? Thiết nghĩ, câu trả lời này không
cần một đáp án, và cũng không cần phải cất lên, bởi tất cả
chúng ta đều hiểu sâu sắc một điều: Chính ông cha ta với
al
ci
ffi

dáng hình, ao ước, lối sống đã làm nên sự bất tử cho Tổ quốc
42 O
06 T
80 LO

này, cho non sông đất nước này. Vì thế, trong những lời thơ
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 81 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
ta đọc, ta thầm cảm ơn nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã kết
cho ta một thông điệp sâu sắc về sự hóa thân cho dáng hình
xứ sở “làm nên Đất Nước muôn đời” về bức tượng đài nhân
dân bất tử.
Con người đã hòa mình vào trong dáng hình xứ sở, “làm nên
đất nước muôn đời”. Đất nước chính là ông cha là mảnh đất:
“Ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng”
Đất nước chính là sự hòa quyện, gắn bó san sẻ của những
cuộc đời. Như vậy, đất và người dường như đã hòa vào một
đã gắn kết trong một sinh thể, đã trầm mình dưới “Những
dòng sông đỏ đặng phù sa” và vươn lên tỏa sáng. Lịch sử của
một dân tộc chính là lịch sử tâm hồn của dân tộc ấy, chúng
ta sẽ mãi lưu giữ trong mình dáng hình đất nước, nghiêng
nghiêng trong những vần thơ, ngát hương giữa đời trong
những mảnh tâm hồn con người đã ngã xuống ra đi và cả
những con người như chúng ta hôm mai sau. Để ngàn năm
vẫn còn vang vang tiếng gọi “Đất nước ơi! Đất nước ơi! Đất
nước ơi!”.
Những dòng thơ viết về đất nước của nhân dân, đất nước
khai sinh từ bao đời và hóa thân vào trong cả thiên nhiên
cảnh vật đã làm sống dậy trong ta cả luồng sinh khí của thời
đại. Một đất nước hiện lên sống động và gần gũi, một quan
niệm về đất nước hòan toàn mới nhưng sâu sắc và thực tế,
mang trong mình một thế đứng hiên ngang của “Tinh hoa của
khí phách dân tộc”:
“Sống vững chãi bốn ngàn năm lịch sử
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng đôi bờ tư tưởng
al
ci
ffi

Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”


42 O
06 T
80 LO

(Huy Cận)
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 82 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Thiên nhiên đất nước trở nên thiêng liêng, gần gũi hơn khi
có sự hóa thân của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện
sâu sắc ý tưởng của mình xây dựng một Đất nước của nhân
dân, một đất nước gần gũi, sâu sắc “Đó là cách để đi vào lòng
người, cũng là cách tôi đi con đường riêng của tôi” (Nguyễn
Khoa Điềm tâm sự). Chạm khắc lên nội dung ấy, Nguyễn Khoa
Điềm đã sử dụng những thi liệu văn hóa dân gian, nhằm khơi
dậy những trầm tích văn hóa trong những truyền thuyết gợi
nhắc những truyền thuyết quý báu của dân tộc. Bút phá
huyền thoại hóa dáng núi, hình sông những địa danh không
đơn thuần là những cái tên mà là những số phận, cảnh ngộ
khát vọng của nhân dân gửi vào đó. Trên con đường thơ của
mình, Nguyễn Khoa Điềm đã “khai đường mở lối” cho chúng
ta đến những chân trời mới, với những ước vọng xa xôi của
quá khứ và thực tại đồng vọng hiện về làm nên “Đất Nước
muôn đời…”
Vấn đề 5. Nhìn vào bốn nghìn năm Đất Nước, tác giả khẳng định không ai khác, chính
Nhân dân là người làm ra lịch sử, truyền thống dân tộc, làm ra Đất Nước.
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
al
ci
ffi

⇨ Đất Nước trong bốn nghìn năm là lớp lớp thế hệ con trai, con gái tự hào xung phong
42 O
06 T
80 LO

gìn giữ, bảo vệ và phát huy truyền thống dân tộc.


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 83 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
⇨ Không ai khác, những người dân vô danh đã sống và chết để gìn giữ Đất Nước.
Mở đầu đoạn thơ là lời gọi đầy tha thiết, nồng nàn cất lên từ đáy lòng của nhà thơ:
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước.
Luận điểm 1: Nhân dân đã làm ra lịch sử Đất Nước.
+ Mở đầu bằng tiếng gọi đầy tha thiết: “Em ơi em”, như một lời khẩn khoản, sự trăn
trở, mong hỏi hãy nhìn về lịch sử dân tộc dưới sự đổ bóng của nhân dân. Đó là lời gọi
cùng nhau hướng cái nhìn về bốn nghìn năm lịch sử, nhìn vào dòng chảy xa xăm, sâu
thẳm của dân tộc trong bốn nghìn năm ông cha ta đã gìn giữ và bảo vệ Đất Nước.
+ Trong lịch sử 4.000 năm ấy, Nguyễn Khoa Điềm không gắn với những mốc son oai
hùng, không gắn với những người anh hùng mà gắn với những người con gái, con trai
như chúng ta, giống anh và em.
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái ở nhà nuôi cái cùng con
+ Trong bốn nghìn năm lịch sử ấy, chúng ta tự hào về những chàng trai, cô gái đã
xung phong ra mặt trận, tự hào về tuổi trẻ Việt Nam.
+ Cách dùng từ “năm tháng nào” kết hợp cùng điệp ngữ “người người lớp lớp” cho thấy
sự đông đảo thế hệ người dân trong lịch sử, họ đã cùng nhau, thay nhau, tiếp bước
al
ci
ffi

nhau làm nên Đất Nước. Mỗi lớp người là một thế hệ với vô vàn những người con gái,
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 84 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
con trai, tất cả đều đã từng “bằng tuổi chúng ta” bây giờ, đều đẹp đẽ, trẻ trung, đều cần
cù, chịu thương chịu khó nối tiếp nhau hết thời này đến thời khác.
+ Những phẩm chất tốt đẹp của người dân cũng được “lớp lớp” người “con gái con trai”
gợi lên qua những việc làm cụ thể của họ: Đó là truyền thống “cần cù lao động”, chịu
thương chịu khó. Bên cạnh đó còn là truyền thống yêu nước thương nòi. Khi Đất Nước
có ngoại xâm, họ mang trong mình truyền thống đánh giặc, người con trai trở thành
Thạch Sanh, Thánh Gióng, xông pha trận mạc; người con gái trở về “nuôi cái cùng con”,
đảm đang gánh vác tăng gia sản xuất, hậu phương vững vàng.
+ Không chỉ có “người con trai ra trận” mà những người mẹ Việt Nam anh hùng cũng
“giỏi việc nước, đảm việc nhà” với truyền thống “giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” làm
ta nhớ đến chị Út Tịch, chị Võ Thị Sáu...
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
+ Và cũng chính từ “lớp lớp người con gái con trai” đã xông pha mặt trận để trở thành
anh hùng, anh hùng trong công cuộc gìn giữ và bảo vệ Đất Nước.
+ Cả một đoạn thơ xuyên suốt chiều dài bốn nghìn năm lịch sử nhưng ta không hề
thấy xuất hiện một tên riêng của bất kì ai hay một thời đại nào, chỉ thấy điểm chung
các thế hệ. Phải chăng vì các triều đại oanh liệt, các anh hùng lừng lẫy đã có Tổ quốc
lưu danh, còn sự đóng góp của Nhân dân thì vô cùng vô hạn, là thầm lặng lớn lao, họ
đã lặng lẽ hiến dâng tất cả cho Đất Nước từ mồ hôi, xương máu đến tâm hồn, trí tuệ thì
làm sao có thể kể xiết!
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
+ Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh: Nhân dân – họ là những con người vô danh
tươi đẹp vô ngần. Đó là tuổi trẻ, điệp ngữ “con gái, con trai” được lặp đi lặp lại trong
mười tám dòng thơ như một cách nhấn mạnh vẻ đẹp của thế hệ trẻ đã xả thân vì non
sông đất nước.
Luận điểm 2: Suy ngẫm về sự hi sinh của Nhân dân.
al
ci
ffi

- Các tác phẩm cùng thời khi viết về chủ đề hi sinh thường mĩ lệ hóa, sử thi hóa tạo âm
42 O
06 T
80 LO

hưởng hào hùng, vang dội, ca ngợi sự hi sinh.


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 85 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
- Nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại thể hiện sự hi sinh của Nhân dân một cách nhẹ nhàng,
sâu lắng, bình dị, lặng thầm như chính cuộc đời và con người họ.
+ “Họ” là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số nhiều, không mang tính chất xác định, và
đối với cách nhìn nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thì đó chính là lớp lớp thế hệ
“con gái, con trai” trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi, đó là nhân dân, những
lớp người thầm lặng, vô danh, lớn lao, đông đảo…
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
+ Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ đề cập đến cách sống, cách nghĩ và khẳng định
công lao to lớn của Nhân dân. Nhân dân trong cách sống “giản dị”, và cách nghĩ rất
“bình tâm”.
+ Bởi họ là những con người chân chất, thuần phác, đơn sơ, cần cù làm lụng trên
những mảnh ruộng cằn cỗi biến chúng thành hoa thơm; họ là những người khi đất nước
có ngoại xâm, họ xung phong ra trận mạc, chiến đấu bảo vệ Đất Nước. Khi hết giặc, họ
trở về với cuộc sống thường nhật, bình tâm, thanh thản, không đòi hỏi, không yêu cầu,
cứ lặng lẽ “gánh vác phần người đi trước để lại – dặn dò con cháu chuyện mai sau”.
+ Tất cả họ đều vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên – nhưng họ đã làm ra Đất Nước”,
mỗi người dân Việt trong quỹ thời gian hữu hạn của cuộc đời mình luôn có một phần
đóng góp dù là nhỏ bé để dựng nước hoặc giữ nước, hoặc phát triển hoặc để đất nước
trường tồn.
+ Chính những đóng góp giản đơn nhỏ bé của mỗi con người đã làm nên sự lớn lao,
vĩ đại của Đất Nước, và chính những cuộc đời ngắn ngủi, hữu hạn của mỗi con người
lại làm nên sự trường tồn vô hạn của Đất Nước.
Luận điểm 1: Chính Nhân Đã có bao giờ ta thử đi tìm cho ta một định nghĩa thật cụ
dân đã làm ra lịch sử Đất thể về Đất Nước hay chưa? Đối với ta, hai tiếng Đất Nước
Nước, lịch sử dân tộc. thật to lớn, thật thiêng liêng, có gì xa xôi mà trừu tượng quá.
Để rồi khi đến với đoạn trích Đất Nước trong trường ca “Mặt
al
ci
ffi

đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, ta chưa hết ngỡ
42 O
06 T
80 LO

ngàng và chợt hiểu ra rằng: hai tiếng ấy đâu có xa xôi như


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 86 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Mở đầu bằng tiếng ta tưởng mà ngược lại nó còn hàm chứa bao yêu thương,
gọi đầy tha thiết: “Em ơi biết bao gần gũi và thật nhiều ân tình trĩu nặng. Thế nên,
em”, như một lời khẩn mở đầu đoạn thơ, Nguyễn Khoa điềm đã bắt nhịp cho chúng
khoản, sự trăn trở, mong ta bằng một tiếng gọi “Em ơi em” đầy tha thiết. Cái tiếng gọi
hỏi hãy nhìn về lịch sử tha thiết ấy như một lời khẩn khoản, là một sự mong mỏi,
dân tộc dưới sự đổ bóng trăn trở gắn với một lời đề xuất nhìn về lịch sử dân tộc:
của nhân dân. Đó là lời “Hãy nhìn rất xa
gọi cùng nhau hướng cái Vào bốn nghìn năm Đất Nước”.
nhìn về bốn nghìn năm Dòng lịch sử được nhà thơ cảm nhận đã chảy dài trong
lịch sử, nhìn vào dòng suốt bốn nghìn năm Đất Nước. Có lẽ, nói đến lịch sử của bất
chảy xa xăm, sâu thẳm kì một dân tộc nào thì cũng sẽ có lúc thăng, lúc trầm. Nhưng
của dân tộc trong bốn trong bốn nghìn năm lịch sử Đất Nước của ta, có một điều
nghìn năm. không bao giờ thăng trầm, mà mãi mãi luôn sôi sục đó chính
là “những người anh hùng cả anh và em đều nhớ”. Họ là
+ Trong lịch sử 4.000 những mốc son lịch sử. Những mốc son mà trong những
năm ấy, Nguyễn Khoa trang sách của lịch sử chúng ta vẫn được học sẽ gắn với một
Điềm không gắn với người anh hùng lớn lao nào đó, một ánh hào quang rực rỡ
những mốc son oai hùng, sắc màu. Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại khác, ông không
không gắn với những phủ nhận cách nhìn về lịch sử thông thường, nhưng ông
người anh hùng mà gắn muốn nhấn mạnh, điều làm nên lịch sử bốn nghìn năm
với những người con gái, không phải đến từ những con người được ghi danh, mà đến
con trai như chúng ta, từ lớp trầm tích của “Những người con gái, con trai giống ta
giống anh và em. lứa tuổi… Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
Trong lửa đạn chiến tranh, trong sự anh dũng hi sinh của
+ Trong bốn nghìn năm đồng bào mình, trong sự tàn bạo của quân thù, con người ta
lịch sử ấy, chúng ta tự sẽ cảm nhận rõ hơn và sâu sắc hơn về Đất Nước, về truyền
hào về những chàng trai, thống cha ông... Nhìn vào bốn nghìn năm Đất Nước, tác giả
cô gái đã xung phong ra khẳng định không ai khác, chính Nhân dân là người làm ra
mặt trận, tự hào về tuổi lịch sử, truyền thống dân tộc, nhân dân là người đã làm ra
al
ci
ffi

trẻ Việt Nam. Đất Nước. Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã ca
42 O
06 T
80 LO

ngợi lòng yêu nước của nhân dân. Những con người góp
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 87 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Cách dùng từ “năm phần làm nên Đất Nước và bảo vệ Đất Nước chính là những
tháng nào” kết hợp cùng con người bình dị và vô danh. Họ là những người lao động
điệp ngữ “người người cần cù, chịu đựng, chịu khó nhưng khi có giặc ngoại xâm thì
lớp lớp” cho thấy sự đông họ đã trở thành những anh hùng yêu nước: con trai ra trận,
đảo thế hệ người dân chung sức chung lòng để cứu nước “ngày giặc đến nhà thì
trong lịch sử, họ đã cùng đàn bà cũng đánh”. Việc sử dụng cụm từ “năm tháng nào”
nhau, tiếp bước nhau làm kết hợp cùng điệp ngữ “người người lớp lớp” cho thấy sự
nên Đất Nước. đông đảo thế hệ người dân trong lịch sử, họ đã cùng nhau,
thay nhau, tiếp bước nhau làm nên Đất Nước. Mỗi lớp người
+ Những phẩm chất tốt là một thế hệ với vô vàn những người con gái, con trai, tất
đẹp của người dân cũng cả đều đã từng “bằng tuổi chúng ta” bây giờ, đều đẹp đẽ, trẻ
được “lớp lớp” người “con trung, đều cần cù, chịu thương chịu khó nối tiếp nhau hết
gái con trai” gợi lên qua thời này đến thời khác. Khi Đất Nước có ngoại xâm, họ mang
những việc làm cụ thể trong mình truyền thống đánh giặc, người con trai trở
của họ: Đó là truyền thành Thạch Sanh, Thánh Gióng, xông pha trận mạc; người
thống “cần cù lao động”, con gái trở về “nuôi cái cùng con”, đảm đang gánh vác tăng
chịu thương chịu khó. gia sản xuất, hậu phương vững vàng. Không chỉ có “người
Bên cạnh đó còn là con trai ra trận” mà những người mẹ Việt Nam anh hùng
truyền thống yêu nước cũng “giỏi việc nước, đảm việc nhà” với truyền thống “giặc
thương nòi. Khi Đất đến nhà thì đàn bà cũng đánh” làm ta nhớ đến chị Út Tịch,
Nước có ngoại xâm, họ chị Võ Thị Sáu... Để có được cuộc sống hôm nay là bốn nghìn
mang trong mình truyền năm dựng xây và bảo vệ Tổ quốc của biết bao thế hệ, biết
thống đánh giặc, người bao con người. Đất Nước vẹn toàn lãnh thổ bao giờ cũng đi
con trai trở thành Thạch cùng xương máu của nhân dân, vì họ là những chủ nhân của
Sanh, Thánh Gióng, xông Đất Nước, dân tộc ta đã có công trong việc dựng – giữ –
pha trận mạc; người con kiến tạo Tổ Quốc và điều đó sẽ bất diệt với thời gian. Một
gái trở về “nuôi cái cùng nhà thơ thực sự phải là nhà thơ viết về cuộc đời, viết cho
con”, đảm đang gánh vác cuộc đời, viết bằng những trải nghiệm, viết bằng đắng cay
tăng gia sản xuất, hậu ngọt bùi mà cuộc sống gửi tặng cho anh ta. Dù cho có viết
al
ci
ffi

phương vững vàng. về sự siêu nhiên, viết về thế giới thần thoại hay viết về điều
42 O
06 T
80 LO

gì đi chăng nữa, nhà thơ bao giờ cũng phải nếm được vị
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 88 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
“mặn” của cuộc đời. Để khẳng định nỗi niềm xúc động “Đất
Nước của Nhân dân”, hai lần lặp lại trong đoạn thơ như lời
+ Cả đoạn thơ xuyên ca tụng hân hoan về sự chống giặc hơn “bốn ngàn năm”, hơn
suốt chiều dài bốn nghìn hai trăm vạn người đã chôn vùi dưới đất cát nhưng ta đã
năm lịch sử nhưng ta không lùi bước, từng tầng đổ xuống lại từng lớp đứng lên.
không hề thấy xuất hiện Sự kiên cường bất khuất ấy làm ta kinh ngạc, dường như
một tên riêng của bất kì hiện thực quá đỗi mộng ảo như những câu chuyện “ca dao
ai hay một thời đại nào, thần thoại”, những tinh thần thép, những con người quả
chỉ thấy điểm chung các cảm ấy đã xé tan lớp màn ngăn cách giữa thần tiên và đời
thế hệ. thực, họ là những món quà mà trời cao trao tặng, vô cùng
hữu lực và đẹp đẽ. Cả một đoạn thơ xuyên suốt chiều dài
bốn nghìn năm lịch sử đất nước nhưng ta không hề thấy
xuất hiện một tên riêng của bất kì ai hay một thời đại nào,
chỉ thấy điểm chung các thế hệ. Phải chăng vì các triều đại
oanh liệt, các anh hùng lừng lẫy đã có Tổ quốc lưu danh,
còn sự đóng góp của Nhân dân thì vô cùng vô hạn, là thầm
lặng lớn lao? Họ đã lặng lẽ hiến dâng tất cả cho Đất Nước từ
mồ hôi, xương máu đến tâm hồn, trí tuệ thì làm sao có thể
kể xiết!
+ Nhà thơ Nguyễn Và nhân dân đã tạo nên, gìn giữ, truyền lại cho các thế hệ
Khoa Điềm nhấn mạnh: sau, mọi giá trị văn hóa, tinh thần và vật chất của đất nước
Nhân dân – họ là những như: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói,… Phần đất nước trong ta
con người vô danh tươi không ngừng lớn lên từ sự quan sát và cảm hiểu thiên nhiên,
đẹp vô ngần. Đó là tuổi lịch sử, truyền thống đất nước, từ sự rung động đẹp đẽ:
trẻ, điệp ngữ “con gái, Nhưng em biết không
con trai” được lặp đi lặp Có biết bao người con gái, con trai
lại trong mười tám dòng (...)
thơ như một cách nhấn Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
mạnh vẻ đẹp của thế hệ Chính nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã tự mình thú nhận
al
ci
ffi

trẻ đã xả thân vì non khi được hỏi về quan niệm Đất Nước trong trường ca “Mặt
42 O
06 T
80 LO

sông đất nước. đường khát vọng”, ông bảo: “Ý tưởng xuyên suốt của tôi trong
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 89 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
chương này là thể hiện một Đất nước của nhân dân, do đó, từ
ngữ, hình ảnh, chất liệu thơ được sử dụng đều nhằm làm rõ ý
Luận điểm 2: Suy ngẫm tưởng này”. Nhà thơ nhấn mạnh: Nhân dân – họ là những
về sự hi sinh quên mình con người vô danh tươi đẹp vô ngần. Đó là tuổi trẻ, điệp ngữ
của Nhân dân. “con gái, con trai” được lặp đi lặp lại trong mười tám dòng
thơ như một cách nhấn mạnh vẻ đẹp của thế hệ trẻ đã xả
- Các tác phẩm cùng thời thân vì non sông đất nước. “Họ” là đại từ nhân xưng ngôi thứ
khi viết về chủ đề hi sinh ba số nhiều, không mang tính chất xác định, và đối với cách
thường mĩ lệ hóa, sử thi nhìn nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thì đó chính là
hóa tạo âm hưởng hào lớp lớp thế hệ “con gái, con trai” trong bốn nghìn lớp người
hùng, vang dội, ca ngợi giống ta lứa tuổi, đó là nhân dân, những lớp người thầm lặng,
sự hi sinh. vô danh, lớn lao, đông đảo… Sử dụng phép nghệ thuật điệp
cấu trúc càng nhấn mạnh vai trò và truyền thống chống giặc
- Nhưng Nguyễn Khoa ngoại xâm, yêu nước, quyết chiến đấu bảo vệ đất nước. Bởi
Điềm lại thể hiện sự hi lẽ nếu không có Tổ Quốc, ắt hẳn cũng chẳng thể cho họ
sinh của Nhân dân một nhìn thấy ánh nắng ban mai, nếu không có Tổ Quốc, họ
cách nhẹ nhàng, sâu cũng chẳng thể cảm nhận được sự bất khuất và cường vĩ
lắng, bình dị, lặng thầm đang sôi sục trong tâm trí. Như Nguyễn Đình Thi đã từng
như chính cuộc đời và thốt lên trong bài thơ “Đất Nước”:
con người họ. “Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất”
+ “Họ” là đại từ nhân Hay câu thơ thể hiện tinh thần hi sinh vì đất nước rất
xưng ngôi thứ ba số dũng cảm của những chiến sĩ:
nhiều, không mang tính “Thế hệ chúng con ồn ào, dày dạn
chất xác định, và đối với Sống thì đi mà chết thì nằm
cách nhìn nhận của nhà Giọt lệ phần mình, nụ cười dành bạn
thơ Nguyễn Khoa Điềm Đất nước là một cuộc hành quân”
thì đó chính là lớp lớp thế (Đất nước hình tia chớp – Trần Mạnh Hảo)
hệ “con gái, con trai” Với Nguyễn Đình Thi là hình ảnh của một đất nước đau
al
ci
ffi

trong bốn nghìn lớp thương, căm hờn, quật khởi, vùng lên chiến đấu và chiến
42 O
06 T
80 LO

người giống ta lứa tuổi, thắng huy hoàng. Với Lê Anh Xuân là dáng đứng Tổ quốc
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 90 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
đó là nhân dân, những bay lên bát ngát mùa xuân. Với Xuân Diệu là vẻ đẹp của đất
lớp người thầm lặng, vô nước “Tổ quốc tôi như một con tàu, mũi tàu rẽ sóng Cà Mau”
danh, lớn lao, đông đảo… Nhưng đến với đất nước trong trường ca “Mặt đường khát
vọng” ta sẽ thấy được một bài ca yêu nước và niềm tự hào
+ Những câu thơ tiếp dân tộc sâu sắc, mới mẻ.
theo, nhà thơ đề cập đến Nguyễn Khoa Điềm tâm sự rằng: “Tôi viết rất nhanh, như
cách sống, cách nghĩ và cảm xúc đã dồn tụ một cách mãnh liệt giờ chỉ có việc tuôn
khẳng định công lao của chảy ra thôi. Tôi viết về những điều giản dị của chính tôi, về
Nhân dân. Nhân dân tuổi trẻ và các bạn bè đang đấu tranh ở thành phố”. Điều đó
trong cách sống “giản làm nên sự thành công của tác phẩm. Khi tình cảm chính là
dị”, và cách nghĩ rất “bình yếu tố sinh mệnh của thơ ca, “thiếu tình cảm thì trở thành
tâm”. người thợ làm những câu thơ có vần chứ không làm được nhà
thơ” (Jose Marti). Tình cảm mãnh liệt ở đây không phải là
+ Bởi họ là những con thứ tình cảm kêu gào, khóc cười ồn ào bên ngoài mà là sự
người chân chất, thuần rung động mãnh liệt ở bên trong, sự giày vò, chấn động
phác, đơn sơ, cần cù làm trong tâm hồn. Cảm xúc về những con người thầm lặng hi
lụng trên những mảnh sinh về Tổ quốc, có những con người được tri ân và gọi tên
ruộng cằn cỗi biến chung như Đoàn quân Tây Tiến, Tiểu đoàn 307 nhưng cũng
chúng thành hoa thơm; có những người ngã xuống và âm thầm như những vần thơ:
họ là những người khi đất Họ đã sống và chết
nước có ngoại xâm, họ Giản dị và bình tâm
xung phong ra trận mạc, Không ai nhớ mặt đặt tên
chiến đấu bảo vệ Đất Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Nước. Khi hết giặc, họ Cảm hứng về sự hi sinh là cảm hứng rất quen thuộc trong
trở về với cuộc sống thơ ca kháng chiến, thơ ca Cách mạng. Ta đã từng loạn nhịp
thường nhật, bình tâm, khi đọc nhưng câu thơ nói về sự hi sinh đạt đến mức độ điển
thanh thản, không đòi hình, mẫu mực như trong Tây Tiến của Quang Dũng:
hỏi, không yêu cầu, cứ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ
lặng lẽ “gánh vác phần Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
al
ci
ffi

người đi trước để lại – Áo bào thay chiếu anh về đất


42 O
06 T
80 LO

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 91 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
dặn dò con cháu chuyện Hay trong “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:
mai sau”. “Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
+ Tất cả họ đều vô danh Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
“không ai nhớ mặt đặt tên Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
– nhưng họ đã làm ra Đất Hay như khi Tố Hữu viết về người anh hùng Nguyễn Văn
Nước”. Trỗi rằng:
Anh bước lên, nhức nhói chân đau,
+ Chính những đóng Dáng hiên ngang vẫn ngẩng cao đầu
góp giản đơn nhỏ bé của Quần áo trắng một màu thanh khiết
mỗi con người đã làm Thân gầy yếu mạnh hơn cái chết.
nên sự lớn lao, vĩ đại của Thế nhưng, khi nói về sự hi sinh Nguyễn Khoa Điềm lại
Đất Nước, và chính nhìn ở một góc độ khác, cho chúng ta một điểm quay khác.
những cuộc đời ngắn Nếu ở những bài thơ trên, sự hi sinh đã có yếu tố mĩ lệ hóa,
ngủi, hữu hạn của mỗi đã được sử dụng yếu tố sử thi hóa, thẩm mĩ hóa thì thơ
con người lại làm nên sự Nguyễn Khoa Điềm không sử dụng, mà không muốn sự hi
trường tồn vô hạn của sinh ở những con người bình dị, vô danh phải được nhìn ở
Đất Nước. góc độ chân chất nhất, giản dị nhất. Chân chất như đôi chân
trần của họ, chân chất như con người họ trong cuộc đời này
vậy. Đại từ nhân xưng, “họ” – ngôi thứ ba số nhiều, đã nói về
những con người vô danh một cách giản đơn như thế. “Họ”
là ai? Họ là biết bao nhiêu con người giống anh và em, trong
bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi. Họ đã sống và chết,
một cuộc đời như biết bao cuộc đời, có bắt đầu và có chết
đi. Sự sống này đối với họ không có gì đặc biệt, không có gì
nổi trội, chẳng có gì phải ghi danh. Lặng thầm để rồi vùi
chôn vào đất, lặng lẽ dâng cho đời những bông hoa ngát
hương. Họ bình tâm và giản dị cả trong lúc sống và cả khi
chết đi, không có bia đá bảng vàng, không có ngòi bút của
al
ci
ffi

lịch sử vinh danh, và cũng không cần đến sự ngợi ca nhưng


42 O
06 T
80 LO

chính họ đã làm nên một điều kì diều, “nhưng họ đã làm ra


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 92 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Đất Nước”. Văn học 1945 – 1975 đã cho chúng ta một nhận
thức sâu sắc, cho chúng ta một cái nhìn bề sâu về những
điều diệu kì và thiêng liêng được bắt đầu từ những điều hết
sức bình thường, nhỏ bé. Và cũng chính như điều bình
thưởng, nhỏ bé lại có thể tạo nên những điều thiêng liêng
và diệu kì. Trong ý thơ của mình, tác giả đã khéo léo sử dụng
cấu trúc sóng đôi giữa “sống” và “chết”, giữa “giản dị” và
“bình tâm” gợi nên sự thanh thản, nhẹ nhàng của người nằm
xuống. Thế nhưng, người ra đi càng “bình tâm” thì người ở
lại càng cảm thấy xót xa và thương cảm. Bởi họ là những con
người chân chất, thuần phác, đơn sơ, cần cù làm lụng trên
những mảnh ruộng cằn cỗi biến chúng thành hoa thơm; họ
là những người khi đất nước có ngoại xâm, họ xung phong
ra trận mạc, chiến đấu bảo vệ Đất Nước. Khi hết giặc, họ trở
về với cuộc sống thường nhật, bình tâm, thanh thản, không
đòi hỏi, không yêu cầu, cứ lặng lẽ “gánh vác phần người đi
trước để lại – dặn dò con cháu chuyện mai sau”. Tất cả họ
đều vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên – nhưng họ đã làm ra
Đất Nước”, mỗi người dân Việt trong quỹ thời gian hữu hạn
của đời mình luôn có một phần đóng góp dù là nhỏ bé để
dựng nước hoặc giữ nước, hoặc phát triển hoặc để đất nước
trường tồn. “Làm thơ là cân một phần nghìn miligam quặng
chữ” (Maiacopxki), tác giả có lẽ cũng đã cân nhắc từ ngữ
theo tinh thần như thế! Dường như sinh ly tử biệt đối với
“họ” chẳng có ý nghĩa gì so với việc đánh mất đi chủ quyền
dân tộc, với xuất thân là những người dân chân lấm tay bùn,
họ chỉ biết mang theo những cử chỉ “giản dị”, đơn sơ nhất
và trao đi những tình cảm chân thành, mộc mạc nhất cho
đất nước. Chính những đóng góp giản đơn nhỏ bé của mỗi
al
ci
ffi

con người đã làm nên sự lớn lao, vĩ đại của Đất Nước, và
42 O
06 T
80 LO

chính những cuộc đời ngắn ngủi, hữu hạn của mỗi con
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 93 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
người lại làm nên sự trường tồn vô hạn của Đất Nước. Họ
chỉ có một trái tim yêu nước nồng nàn như Nguyễn Trãi đã
viết: “Bùi một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông.”
Nội dung 6: Đất Nước của Nhân dân – những người làm ra và lưu giữ ngôn ngữ, văn hóa,
đời sống tinh thần, ca dao thần thoại… = Cách Nhân dân làm ra Đất Nước.
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
⇨ Nhân dân chính là người tạo dựng và lưu truyền ngôn ngữ, văn hóa, những giá trị
trong đời sống tinh thần.
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
⇨ Nhân dân chính là người tạo dựng nên ca dao dân ca, ca dao thần thoại, cổ tích.
Không chỉ là những con người vô danh bình dị, cống hiến cả cuộc đời mình cho Đất
Nước, mà Nhân dân còn giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa,
văn minh, tinh thần và vật chất của Đất Nước.
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
+ Điệp đại từ “họ” mang đến cảm giác đông đảo, và đúng là như vậy vì quần chúng
al
ci
ffi

Nhân dân không thể và không bao giờ có thể là một cá nhân nào đó.
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 94 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Những câu thơ kết hợp với hệ thống các động từ mang tính chất lưu truyền “giữ…
truyền…” hơn một lần lặp lại trong đoạn thơ đã khẳng định sứ mệnh thiêng liêng của
mỗi con người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là “gánh vác” việc
thế hệ trước giao phó, gìn giữ, duy trì và phát triển để rồi “dặn dò con cháu” nối tiếp.
+ Sau những động từ “giữ… truyền… gánh… đắp… be…” là những hình ảnh hữu hình
như “hạt lúa… lửa… hòn than…” hoặc vô hình “giọng điệu… tiếng nói… tên xã… tên
làng…”, tất cả đều là những giá trị tinh thần hoặc vật chất để làm nên Đất Nước và gắn
bó mật thiết với cuộc sống hàng ngày của Nhân dân.
Nhân dân đã lưu truyền nền văn minh lúa nước:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Đất Nước Việt Nam nằm trong cái nôi của nền văn minh lúa nước, nhân dân ta bao đời
nay sống bằng nghề trồng lúa. “Hạt lúa” – chính là thứ hạt ngọc chắt chiu tinh hoa của
đất trời, là kết quả của quá trình “một nắng hai sương”, “dãi nắng dầm mưa” của bao thế
hệ. Nay nó đã trở thành biểu tượng văn hóa đầy tự hào, trở thành biểu tượng cho truyền
thống lao động cần cù của người nông dân.
Nhân dân đã lưu truyền đời sống tinh thần:
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
+ Lửa chính là nguồn sống, ánh lửa hướng ta đến cuộc sống thịnh vượng, ấm no, hạnh
phúc, sung túc sum vầy…
+ Trong cuộc sống hàng ngày của Nhân dân, trong sự vận động và phát triển theo
dòng lịch sử, là sự thay đổi nơi cư trú vì chiến tranh, vì cuộc sống mưu sinh hoặc khai
hoang bờ cõi… Trong những “chuyến di dân” như vậy, Nhân dân không chỉ mang theo
đồ đạc, lương thực mà còn “gánh” theo những giá trị tinh thần thiêng liêng, quí báu.
+ Động từ “gánh” làm cho tên xã, tên làng bỗng trở nên cụ thể và gợi cho ta nhớ về
những phong tục tập quán, những vùng đất với những cái tên mang thân thuộc.
Nhân dân còn xây dựng nền tảng vững chắc cho đời sau an cư lạc nghiệp:
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
+ Những cụm động từ “đắp đập”, “be bờ” gợi lên sự vun vén cho đầy đặn hơn, vững
al
ci
ffi

chắc hơn, đây là hình ảnh thể hiện sự chăm chút ân cần của những người đi trước dành
42 O
06 T
80 LO

cho con cháu đời sau.


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 95 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Câu thơ có cấu tứ tiểu vế giữa hai thế hệ “đời trước – đời sau” và tính chất công việc
“chuẩn bị - hưởng thụ” đã cho thấy đức hi sinh lớn lao, cao thượng của những người đi
trước: Họ sẵn sàng và chấp nhận vất vả, lo lắng, làm lụng không mong muốn hưởng
thụ nhưng vẫn rất thanh thản, bình dị, mãn nguyện trong công việc với niềm tin con
cháu hưởng phúc, sung sướng, âm no từ sự hi sinh của họ.
+ Từ đó, tác giả còn nhắc nhở chúng ta về đạo lý: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống
nước nhớ nguồn”… Hưởng thụ thành quả ngày hôm nay phải nhớ đến công sức những
con người đã hi sinh cả cuộc đời mình, đã dày công vun đắp trái thơm quả ngọt cho ta
hưởng thụ ngày hôm nay.
Nhân dân đã lưu truyền ngôn ngữ, giọng điệu:
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
+ Tiếng nói là của cải tinh thần cũng là vật chất vô giá, là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của cộng đồng xã hội, là một giá trị văn hóa phi vật thể góp phần làm nên
bản sắc văn hóa của một dân tộc.
+ Và có ngôn ngữ, có tiếng nói là có sự khẳng định văn hóa riêng. Tiếng nói, giọng
điệu, ngôn ngữ ấy trường tồn và phát triển cùng Đất Nước bất chấp hàng ngàn năm
Bắc thuộc, hàng trăm năm Pháp thuộc và bao nhiêu cuộc chiến tranh, bất chấp tất cả
những âm mưu đồng hóa của mọi kẻ thù xâm lược.
+ Giọng điệu, ngôn ngữ ta sử dụng ngày hôm nay, là tiếng nói của dân tộc là nhờ vào
công sức và tấm lòng của Nhân dân từ bao đời nay, qua những lời ru ngọt ngào của bà,
của mẹ, qua những lời ca, câu ví dân gian, trong thế giới của những câu truyện cổ tích…
Mạch cảm xúc đầy suy ngẫm mang tính triết lý của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nhắn
gửi cứ thế dồn tụ đến cuối đoạn trích khiến độc giả càng đọc càng thích thú, càng đọc
càng thấy thấm thía tư tưởng “Đất Nước Nhân Dân – Đất Nước của ca dao thần thoại”:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
+ Những danh từ chung “Đất Nước”, “Nhân dân” cũng trở thành danh từ riêng và được
viết hoa một cách trang trọng, và được lặp lại nhiều lần trong hai câu thơ cho thấy sự
gắn bó không thể tách rời giữa Nhân Dân và Đất Nước.
al
ci
ffi

+ Sau những vầng thơ ngọt ngào nêu rõ vai trò của Nhân dân, khẳng định công lao to
42 O
06 T
80 LO

lớn của Nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, câu thơ “Để Đất Nước này là
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 96 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Đất Nước Nhân dân” đã giúp nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lý giải sâu sắc và thấm thía
hơn tư tưởng chủ đạo xuyên suốt toàn bài.
+ Không phải ngẫu nhiên mà từ đầu đến cuối đoạn trích, rất nhiều lần nhà trí thức tài
hoa của chúng ta lại nhắc nhiều đến ca dao thần thoại gắn với Nhân dân như vậy. Phải
chăng, đó là lời gợi mở cho ý thơ: “Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần
thoại”.
+ “Ca dao thần thoại” có thể coi là hình ảnh hoán dụ cho văn hóa dân gian, mà văn
hóa dân gian là sản phẩm trực tiếp của trí tuệ dân gian, là nơi lưu giữ và tôn vinh vẻ
đẹp tâm hồn, tính cách của Nhân dân. Văn học dân gian do Nhân dân sáng tạo nên và
nó là sản phẩm phản ánh cuộc sống của Nhân dân.
Không chỉ những con người Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân - nhân dân chính là
vô danh bình dị, cống hiến người làm nên lịch sử đất nước đã trở thành sợi dây xuyên
cả cuộc đời mình cho Đất suốt cho mạch cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Không phải
Nước, mà Nhân dân còn giữ ngẫu nhiên mà nhà thơ gắn chặt hai hình ảnh tưởng như
gìn và truyền lại cho các bao trùm vào nhau, mà tư tưởng ấy xuất phát từ một đôi
thế hệ sau mọi giá trị văn mắt tinh tường, sự tinh tế khi cảm nhận Đất Nước trên
hóa, văn minh, tinh thần và nhiều phương diện không gian và thời gian. Nếu những
vật chất của Đất Nước. dòng thơ trên Nguyễn Khoa Điềm đã đem tới cho ta một
cái nhìn sâu sắc và mới mẻ về nguồn gốc hình thành cũng
+ Điệp đại từ “họ” mang như những định nghĩa mới mẻ về Đất Nước thì đến “chén
đến cảm giác đông đảo, và thơ” tiếp theo, thi thân tiếp tục chiêu đãi chúng ta mỹ vị
đúng là như vậy vì quần của nhân gian một hình ảnh của Đất Nước trên phương
chúng Nhân dân không thể diện văn hóa, đời sống cùng vẻ đẹp tinh thần và vật chất
và không bao giờ có thể là đồng hiện. Và chúng ta cũng sẽ góp được cho mình câu
một cá nhân nào đó. trả lời về cách nhân dân đã làm ra Đất Nước. Có ai đó đã
từng nói: “Lịch sử của một dân tộc là lịch sử tâm hồn của
dân tộc ấy”. Và trong sự kết tinh, kế thừa những nét đẹp
+ Những câu thơ kết hợp thuộc về truyền thống lịch sử, Đất Nước vẫn giữ cho mình
với hệ thống các động từ những ánh sáng riêng không trộn lẫn từ con người truyền
al
ci
ffi

mang tính chất lưu truyền đến thiên nhiên. Điều đó được thể hiện qua đoạn thơ:
42 O
06 T
80 LO

“giữ… truyền…” hơn một Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 97 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
lần lặp lại trong đoạn thơ Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
đã khẳng định sứ mệnh Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
thiêng liêng của mỗi con Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
người, mỗi thế hệ trong Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
công cuộc xây dựng đất Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
nước. Có nội thù thì vùng lên đánh bại.
Giá trị đầu tiên dẫn chúng ta bước vào mạch thơ, Nguyễn
Khoa Điềm đã đề cập đến giá trị gắn với hạt lúa. Hạt lúa,
cây lúa là một giá trị vật chất trong cuộc sống thường nhật
Nhân dân đã lưu truyền của người dân. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho con người Việt
nền văn minh lúa nước: Nam chịu thương chịu khó, tần tảo sớm hôm. Đối với
“Họ giữ và truyền cho ta người dân lao động thì miếng cơm, miếng ăn luôn là vấn
hạt lúa ta trồng” đề canh cánh hàng đầu. Bởi dù trong bất kì hoàn cành nào,
còn miếng cơm là tức còn sự sống, còn mưu sinh. Thế nên,
Đất Nước Việt Nam nằm trong biết bao nhiêu lựa chọn để viết về cách nhân dân
trong cái nôi của nền văn làm ra Đất Nước, người trí thức cầm bút đến từ mảnh đất
minh lúa nước, nhân dân ta Huế ấy vẫn chọn hình ảnh về hạt lúa, bông lúa để nhắc, để
bao đời nay sống bằng gợi. Cách chọn này, không đơn thuần chỉ là một lựa chọn,
nghề trồng lúa. “Hạt lúa” – mà đó còn là nỗi lòng, tình thương của nhà thơ gửi đến
chính là thứ hạt ngọc chắt người nông dân vất vả. Có lẽ, nếu không hiểu người dân,
chiu tinh hoa của đất trời, không thương người nông dân, không thấu suốt cuộc đời
là kết quả của quá trình người lao động thì hẳn Nguyễn Khoa Điềm khó có thể đặt
“một nắng hai sương”, “dãi ra một vấn đề mang tính cả đời người của người dân lên
nắng dầm mưa” của bao trước đến thế. Người dân họ quen với việc ăn bữa hôm lo
thế hệ. Nay nó đã trở thành bữa mai, ăn bữa sáng lo bữa tối nên dù có đói khổ, dù
biểu tượng văn hóa đầy tự nghèo túng thì họ cũng chưa bao giờ vì miếng ăn là đánh
hào, trở thành biểu tượng mất tự trọng, hay vì giá trị vật chất mà mất đi nền văn
cho truyền thống lao động minh của mình. Chính vì vậy, người dân đã “giữ và truyền
cần cù của người nông dân. cho ta hạt lúa ta trồng”, truyền hạt lúa là truyền sự sống,
al
ci
ffi

truyền cả một nền văn minh, giữ giá trị văn hóa ngàn đời.
42 O
06 T
80 LO

Người Việt Nam đã trải qua biết bao nhiêu nạn đói thảm
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 98 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
khốc, vượt qua bao thử thách về miếng ăn nhưng chưa bao
giờ người Việt Nam đánh mất “hạt thóc giống” của mình.
Họ vẫn giữ cho nguyên vẹn gốc rễ của mình, như câu tục
ngữ ông bà vẫn ngân: “Giấy rách phải giữ lấy lề”. Chúng ta
đã bắt gặp biết bao câu thơ nói về hạt lúa, hạt gạo nhưng
có lẽ, để cảm động như cách mà Nguyễn Khoa Điềm đã
bắt nhịp cho cả đoạn thơ thì ở đâu dạt dào được như thế?
Chỉ là củ sắn, củ khoai, chỉ là bông lúa, hạt gạo nhỏ bé,
Nhân dân đã lưu truyền nhưng cũng đủ cho chúng ta yêu những giá trị văn minh,
đời sống tinh thần: “Họ văn hóa của dân tộc đến lạ thường. Không chỉ vậy, Nguyễn
chuyền lửa qua mỗi nhà, từ Khoa Điềm còn nhắc đến cách người dân truyền hơn ấm,
hòn than qua con cúi”. truyền yêu thương qua ý thơ: “Họ truyền lửa qua mỗi nhà,
từ hòn than qua con cúi”. Truyền lửa tức là truyền sự sống,
+ Lửa chính là nguồn truyền hơi ấm, truyền yêu thương. Có lửa là đỏ đèn, đỏ
sống, ánh lửa hướng ta đến bếp; có lửa là có cơm ăn, có ấm no. Nói về hình ảnh bếp
cuộc sống thịnh vượng, ấm lửa, ngọn lửa sưởi ấm, ta quên sao được ngọn lửa được
no, hạnh phúc, sung túc thắp lên từ tình yêu của bà với cháu trong “Bếp lửa” của
sum vầy… Bằng Việt:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấm ưu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Năm bốn tuổi cháu đã quen mùi khói”.
Tha thiết là thế, nồng ấm là vậy. Thế nhưng, hình ảnh
ngọn lửa trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ có tình
yêu, không chỉ có hơi ấm mà đó còn là niềm tin, hi vọng,
là sự đoàn kết, chung lòng. Truyền lửa qua mỗi nhà là sự
sống được trao đi, là niềm tin được thắp sáng, là lan tỏa
tình yêu và sự sẻ chia. Thử hình dung, nếu trong cả hàng
ngàn năm Bắc thuộc, dân tộc ta không thắp trong mình
al
ci
ffi

một ngọn lửa, không thổi lên một niềm tin thì liệu rằng
42 O
06 T
80 LO

dân tộc ta đến nay có anh dũng và kiên cường được như
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 99 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
thế? Và hơn giờ hết, khi viết bài thơ này cũng là lúc
Nguyễn Khoa Điềm cùng đồng đội của mình đứng dưới
“thời kì máy bay Mỹ đánh phá dữ dội”, nên cần lắm vùng
này tiếp lửa vùng kia, làng này thổi lửa vùng kia, miền này
trao lửa miền kia để bùng cháy ngọn lửa cho tương lai rực
sáng. Thế mới thấy, ngọn lửa trong trang thơ Nguyễn
Khoa Điềm thật ý nghĩa biết bao. Đúng là, “Những thứ đẹp
đẽ trên thế giới không thể được nhìn thấy hoặc chạm vào,
chúng phải được cảm nhận bằng trái tim” (Trích Hoàng tử
bé). Và văn chương nói chung hay thơ ca nói riêng cũng là
một thứ đẹp đẽ không thể chạm hay nói một cách trần
trụi, mà nó phải được cảm nhận bằng trái tim đến trái tim.
Nhân dân đã lưu truyền Trong bài thơ “Tiếng Việt”, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ
ngôn ngữ, giọng điệu: “Họ đã có đoạn nghẹn ngào thế này:
truyền giọng điệu cho con “Ôi! Tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
mình tập nói”. Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
+ Tiếng nói là của cải tinh Tiếng Việt ơi, tiếng Việt xót xa mình…”
thần cũng là vật chất vô Một dân tộc muốn tồn tại thì phải có ngôn ngữ, có tiếng
giá, là phương tiện giao nói riêng. Và Tiếng Việt chính là biểu tượng của linh hồn
tiếp quan trọng nhất của Việt, “Tiếng Việt còn trong mỗi người/ Người Việt còn thì
cộng đồng xã hội, là một còn nước non” (Thương ca Tiếng Việt). Và nhân dân ta đã
giá trị văn hóa phi vật thể truyền ngôn ngữ của mình bằng cách “Họ truyền giọng
góp phần làm nên bản sắc điệu cho con mình tập nói”, truyền giọng điệu tức là truyền
văn hóa của một dân tộc. điệu hồn của dân tộc, truyền tâm hồn của thế hệ đi trước,
truyền mong mỏi, truyền khát vọng, truyền ước mơ,
+ Tiếng nói là có sự khẳng truyền hoài bão. Ai đã đã từng nói, đại ý rằng: “Có những
định văn hóa riêng. Tiếng giấc mơ không thể cất được thành lời, không phải nó khó để
nói, giọng điệu, ngôn ngữ. thực hiện; mà giấc mơ ấy là cả cuộc đời nên làm sao ngôn
al
ci
ffi

từ có thể thấu đạt nổi”. Và nhân dân đã đổ cả tâm hồn mình


42 O
06 T
80 LO

qua giọng điệu một cách giản dị nhưng sâu sắc đến thế.
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 100 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Giọng điệu, ngôn ngữ ta Ai bảo nhân dân là “Vô số anh răng đen, mắt toét, gọi lựu
sử dụng ngày hôm nay, là đạn là "nựu đạn", hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu
tiếng nói của dân tộc là kinh”, “lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm” mà họ còn
nhờ vào công sức và tấm sâu sắc, ý nhị đến từng hơi thở, từng thói quen, nếp sống
lòng của Nhân dân. của mình. Nên suốt đời này ta mãi ngân khúc ca: “Tôi yêu
người Việt Nam này, mẹ ơi con mãi không quên”.
Nhân dân mang theo cội Suốt chiều dài lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ
nguồn: “Họ gánh theo tên nước, nếu đếm những cuộc nhân dân phải di dời có lẽ, tự
xã, tên làng trong mỗi như đếm những vì sao trên trời. Biết bao cuộc khai hoang
chuyến di dân”. mở mang bờ cõi, rồi đến những chuyến di dân cực nhọc.
Thế nhưng, trong cuộc đời phiêu linh đi tìm sự sống của
+ Trong cuộc sống hàng mình, những người dân không quên cõng theo cội nguồn,
ngày của Nhân dân, trong theo gốc rễ. Họ có thể lang bạt kì hồ, có thể vất vả nhọc
sự vận động và phát triển nhằn nhưng họ không bao giờ quên cội nguồn, quên gốc
theo dòng lịch sử, là sự rễ thế nên dù trong bất kì hoàn cảnh nào, họ vẫn gánh
thay đổi nơi cư trú vì chiến theo tình yêu với quê hương xử sở. Hiểu và thấu điều đó,
tranh, vì cuộc sống mưu Nguyễn Khoa Điềm đã kí thác hành trình ấy qua câu thơ:
sinh hoặc khai hoang bờ “Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân”.
cõi… Trong những “chuyến Động từ “gánh” cho chúng ta hình dung về cuộc đời đầy
di dân” như vậy, Nhân dân vất vả đau thương, đầy lầm than, cơ cực. Những con người
không chỉ mang theo đồ cả đời phải “gánh đầy một quang gánh nặng” không biết
đạc, lương thực mà còn đến hai từ “an cư”, nay đây mai đó, không được yên bình
“gánh” theo những giá trị nơi “chôn rau cắt rốn” của mình. Thế nhưng, dù gánh nặng
tinh thần thiêng liêng. cuộc đời có nặng đến đâu thì họ vẫn gánh theo tình yêu
với cội rễ dân tộc, gánh trong tim mình tên xã, tên làng
+ Động từ “gánh” làm cho để nhớ về cội nguồn. Vậy nên, cả đất nước Việt Nam hình
tên xã, tên làng bỗng trở chữ S với ba miền cắt chia nhưng chẳng ai trong số chúng
nên cụ thể và gợi cho ta ta quên cội nguồn, “nước chảy về nguồn” là bởi lẽ như vậy.
nhớ về những phong tục Người dân, họ tìm về gốc rễ của mình một cách lặng lẽ
al
ci
ffi

tập quán, những vùng đất như thế, họ thể hiện tình yêu quê của mình cũng bằng
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 101 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
với những cái tên mang cách âm thầm như vậy. Có lẽ, chính vì âm thầm và lặng lẽ
thân thuộc. nên nó mới cho những cơn sóng dữ dội đến vậy.
“Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”
Nhân dân còn xây dựng (Trích “Những người đi tới biển”, Thanh Thảo).
nền tảng vững chắc cho đời Và cũng vì lặng lẽ nên, nhân dân đã “Họ đắp đập be bờ cho
sau an cư lạc nghiệp: “Họ người sau trồng cây hái trái”. Đắp đập, be bờ là cộng việc
đắp đập be bờ cho người sau vô cùng khó khăn; là công cuộc lao động vô cùng nặng
trồng cây hái trái” nhọc, một khung cảnh lao động đầy vất vả, cơ cực. Nó làm
ta yêu hơn, trân trọng những giọt mồ hôi của biết bao
+ Những cụm động từ người. Ấy thế nhưng, ý thơ hay ở chỗ, nhân dân đắp đập
“đắp đập”, “be bờ” gợi lên sự be bờ không phải cho họ trồng cây hái trái, mà nhân dân
vun vén cho đầy đặn hơn, đắp đập be bờ cho “người sau trồng cây hái trái”. Nhân
vững chắc hơn, đầy là hình dân sống không chỉ nhìn những giá trị trước mắt, mà luôn
ảnh thể hiện sự chăm chút có ý thức tạo dựng tương lai muôn đời cho con cháu. Thế
ân cần của những người đi mới thấy, nhân dân ta, con người Việt Nam ta tình nghĩa
trước dành cho con cháu trước sau đến mức nào. Họ làm ra Đất Nước với tất cả
đời sau. những giá trị vật chất và tinh thần; họ làm ra miếng cơm,
ngọn lửa, tạo ra ngôn ngữ; gánh theo tên xã, tên làng,
+ Câu thơ có cấu tứ tiểu mang theo dấu ấn quê hương không phải vì cuộc đời họ,
vế giữa hai thế hệ “đời mà vì thế hệ mai sau. Tương lai của Đất Nước luôn là điểm
trước – đời sau” và tính tựa của thế hệ hiện tại, con cháu đời sau luôn là điểm tựa
chất công việc “chuẩn bị - của thế hệ cha ông đi trước. Và khi thế hệ đi trước họ đã
hưởng thụ” đã cho thấy đức trải qua muôn trùng thách thức để làm ra giá trị vật chất
hi sinh lớn lao, cao thượng và giữ gìn giá trị tinh thần một cách mãnh liệt như vậy, thì
của người đi trước. đứng trước những thử thách của lịch sử thì họ cũng sẵn
sàng hi sinh, sẵn sàng dâng hiến một cách hết sức tự
al
ci
ffi

nhiên như hơi thở, như con người, như cuộc đời bình tâm
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 102 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
của họ vậy. Cho nên, kết thúc đoạn thơ với hai câu như
một chân lý thời đại:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Đã được thể hiện một cách hết sức giản dị, tự nhiên mà
rất đỗi hào hùng. Bởi Đất Nước là cuộc đời của nhân dân.
Họ đã kiến tạo ra cuộc đời của mình thì khi có kẻ thù xâm
lược họ cũng sẽ bảo vệ những điều mình làm ra như bảo
vệ chính cuộc đời mình. Nhà nghiên cứu Hoài Anh cho
rằng: “Thơ Nguyễn Khoa Điềm phát sáng chủ đề sóng đôi:
Đất Nước và Khát vọng. Cảm hứng Đất Nước ôm trùm chi
phối những nguồn cảm hứng khác” có lẽ cũng bởi vì, bằng
tất cả tư duy trí tuệ, sự thấu suốt về dân tộc, sự thấu hiểu
về nhân dân và bằng cả một nghệ thuật thơ trìu mến, tha
thiết, gần gũi, Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải cho chúng ta
một cách đầy đủ về việc nhân dân đã làm ra Đất Nước như
thế nào thật giản đơn nhưng cũng thật ngọt ngào. Điều
đó góp phần góp nhà thơ thăng hoa khi khẳng định lớp bề
Mạch cảm xúc đầy suy sâu trầm tích ấy qua ý kết luận mang tính thời đại:
ngẫm mang tính triết lý “Để Đất Nước này là Đấy Nước Nhân dân
của nhà thơ Nguyễn Khoa Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Điềm cứ thế dồn tụ đến cuối Tư tương Đất Nước của Nhân dân là tư tưởng nổi bật thời
đoạn trích khiến độc giả đại Hồ Chí Minh, là tư tưởng nổi bật của văn học thời kì
càng đọc càng thích thú, này. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, đó không phải là tư
càng đọc càng thấy thấm tưởng “nằm thẳng đơ trên trang giấy” mà là tư tưởng được
thía tư tưởng “Đất Nước rung lên bằng cuộc đời của nhân dân thấm trong từng lời
Nhân Dân – Đất Nước của ca dao, từng sử thi thần thoại. Người con của mảnh đất
ca dao thần thoại”. Thừa Thiên, đã đặt Đất Nước Nhân dân gắn với ca dao
thần thoại, bởi lẽ, thơ ca là điệu hồn muôn điệu của dân
al
ci
ffi

tộc và thần thoại là nơi kết tinh những ước mơ và hoài


42 O
06 T
80 LO

bão, những khát vọng và mong mỏi của triệu triệu con
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 103 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ Những danh từ chung người. Và trong từng lời ca dao, trong mỗi hình tượng thần
“Đất Nước”, “Nhân dân” thoại đều là những bài học do nhân dân kết tinh, kí thác
cũng trở thành danh từ và giữ truyền. Trong thế giới của ca dao thần thoại, mọi
riêng và được viết hoa một thứ đều trở nên sinh động như nhịp rung của con tim, như
cách trang trọng, và được nhịp đập của biết bao thổn thức vang vọng mà thấm thía.
lặp lại nhiều lần trong hai Hơn thế, Nguyễn Khoa Điềm vốn là nhà thơ có tư duy
câu thơ cho thấy sự gắn bó nghệ thuật mang tính chính luận cao, nên ông muốn tư
không thể tách rời giữa tưởng của mình không rung theo một bản khuôn cố định
Nhân dân và Đất Nước. sẵn, mà ông muốn mỗi người chúng ta sẽ nhập một mã
khóa riêng để mở khuông nhạc ấy. Và tư tưởng “Đất Nước
+ “Ca dao thần thoại” có của Nhân dân” ở đây cũng chính là một chiếc chìa khóa,
thể coi là hình ảnh hoán dụ mà Nguyễn Khoa Điềm trao gửi đến chúng ta, để mỗi
cho văn hóa dân gian, mà người có thể tự bước vào và làm nên cuộc đời của riêng
văn hóa dân gian là sản mình, thắp tình yêu Đất Nước theo cách của riêng mình.
phẩm trực tiếp của trí tuệ Có thể nói, bằng tuổi trẻ và đôi mắt tinh tường của mình
dân gian, là nơi lưu giữ và Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức sâu sắc và mới mẻ vai
tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn, trò của nhân dân trong việc xây dựng đất nước. Ta không
tính cách của Nhân dân. thấy trong tiếng thơ ấy vai trò của người thiên tử như
Văn học dân gian do Nhân trong văn học hay lịch sử cổ đại, mà chỉ thấy xuất hiện vai
dân sáng tạo nên và nó là trò của từng cái nhân trong cái ta chung của dân tộc.
sản phẩm phản ánh cuộc Nguyễn Khoa Điềm đã xuất sắc kế thừa tư tưởng anh hùng
sống của Nhân dân. sách lược của Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu… lấy
dân làm gốc, để tự đó nhận thức vai trò của nhân dân
trong lịch sử nước nhà. Thi nhân đã chọn lọc tiếp thu và
tạo nên một tác phẩm có giá trị “vượt lên trên tất cả bờ cõi
và giới hạn” nó ngợi ca những vẻ đẹp tinh túy của đất nước
bằng tất cả sự say mê, tình yêu với Tổ quốc của nhà thơ
một “Tổ quốc ta yêu như máu thịt”. Chính vì thế, cả một
đoạn thơ, hàng loạt các động từ: “giữ”; “truyền”; “gánh”;
al
ci
ffi

“đắp”; “be”; “dạy”… được sử dụng ngay sau từ “họ” – ngôi


42 O
06 T
80 LO

thứ ba số nhiều đan dày trong đoạn thơ như ghi nhận sự
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 104 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
đóng góp lớn lao của nhân dân trong sự nghiệp kiến quốc,
dựng quốc, vệ quốc. Từ sự chắt chiu, gom nhặt mà những
hành động bình dị nhỏ bé mà thiết thực đã thể hiện sự
khám phá mới mẻ hình ảnh Đất Nước trong bề rộng của
không gian địa lí, tầng sâu của giá trị văn hóa nhân văn
trong bến đỗ tâm hồn con người.
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
- Khúc vĩ thanh bóng hình Nhân dân qua “ca dao thần thoại”: Nhân dân đã đem đến
và lưu truyền cho biết bao thế hệ những bài học đạo lí sâu sắc nhằm răn dạy chúng ta
phải biết yêu thương, che chở, đùm bọc, cưu mang lẫn nhau; biết trân trọng công sức
nghĩa tình, biết ở hiền gặp lành, tránh xa cái ác, hướng tới điều thiện; biết kiên nhẫn
phục thù, biết học cách làm người sao cho phải đạo….
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
+ Đây là phương diện đầu tiên nhà thơ muốn chúng ta khắc ghi, đó là tình cảm
thủy chung son sắt giữa con người với con người trong mọi mối quan hệ; “biết yêu” thì
mới biết dũng cảm đứng lên, biết yêu mới biết cầm súng bảo vệ quê hương.
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
+ Phương diện thứ hai nhà thơ đề cập đến là tình nghĩa giữa con người với con người,
bởi nó là thứ nặng hơn nhiều lần mọi giá trị vật chất. Quan niệm này được lấy từ ý ca
dao: “Cầm vàng mà lội qua sông – Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”. Ở đây chính
là quan niệm sống đẹp mà Nhân dân muốn gửi gắm thông qua những câu ca dao ngọt
ngào, sâu lắng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bởi ca dao đã “dạy anh biết”:
Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, biết phân biệt các giá trị.
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
+ Ý thơ lấy từ câu ca dao: “Thù này ắt hẳn còn lâu – Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh
al
ci
ffi

què”, lại một lần nữa ta bắt gặp hình ảnh cây tre Việt Nam không chỉ mang cốt cách
42 O
06 T
80 LO

tâm hồn người dân Việt mà còn luôn gắn bó với công cuộc gìn giữ đất nước. Đánh giặc
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 105 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
ngoại xâm bảo vệ non sông đất nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta, và với một
người sâu sắc như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thì ông không thể quên thể hiện điều
đó trong ý thơ của mình. Và đó cũng là phương diện thứ ba mà Nhân dân đã dạy ta phải
biết quyết liệt trong căm thù và chiến đấu.
+ Ý thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của Nhân dân trong
công cuộc gìn giữ Đất Nước. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với
nạn ngoại xâm, cuộc chiến nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm,
hàng nghìn năm… Thử hỏi nếu không có kiên trì, bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt
thì dân tộc ta có thể vượt qua bao khó khăn, gian khổ, mất mát hi sinh đến ngày toàn
thắng không?
- Hình ảnh Đất Nước đẹp tươi vô ngần:
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
+ Ý thơ gợi cho ta hình ảnh về những dòng sông, những dòng sông không biết bắt đầu
từ đâu, từ bến bờ nào nhưng khi đã chảy vào mảnh đất cong cong hình chữ S này sẽ
hòa chung một câu hát, một điệu hò.
+ Ý thơ này làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt
ngào trên sông Hương hay những âm thanh tha thiết của những câu hò ví dặm trên
sông Lam và cả những tiếng hò sâu lắng của những người “chèo đò, kéo thuyền vượt
thác” trên dòng sông khúc thượng nguồn vùng núi Tây Bắc… Đó là tiếng hát được lưu
truyền từ đời này sang đời khác, nó thể hiện tình yêu cuộc sống trong lao động, tình
yêu quê hương đất nước sâu đậm, cùng với đó là tinh thần lạc quan giúp chúng ta vững
tin vào ngày mai.
+ “Dòng sông” ở đây có thể hiểu là dòng sông văn hóa, dòng chảy lịch sử. Và đó cũng
là sự hợp thành của dòng máu 54 dân tộc anh em. Dòng sông đó “trăm màu, trăm dáng”
như sự đa dạng và phong phú trong văn hóa của người người dân Việt Nam đã vun đắp
phù sa qua năm tháng thăng trầm để làm nên một Đất Nước đậm đà bản sắc dân tộc.
al
ci
ffi

+ “Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác”: vẻ đẹp của lao động sáng ngời
42 O
06 T
80 LO

dưới dáng hình quê hương.


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 106 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
- Khúc vĩ thanh bóng Có ai yêu những áng thơ mòn cũ, quen nhàm; có ai nhớ
hình Nhân dân qua “ca những vần điệu nhạt nhẽo, sáo rỗng? Hẳn, nếu không đi theo
dao thần thoại”: Nhân con đường sáng tạo, nhà thơ sẽ chỉ còn lại một mình giữa sự
dân đã đem đến và lưu thờ ơ, quên lãng của người đọc. Chính vì vậy, nhà thơ Nguyễn
truyền cho biết bao thế Khoa Điềm thể hiện tư tưởng “Đất Nước Nhân dân” là hoàn
hệ những bài học đạo lí toàn có căn cứ và là căn cứ không thể tranh cãi được bởi Đất
sâu sắc. Nước được tạo dựng, được gìn giữ, bảo vệ, tồn tại và phát
triển… là từ tình yêu và nỗi đau, từ mồ hôi, nước mắt, từ tính
mạng và máu xương của vô vàn những con người thầm lặng
dâng hiến. Tất cả những điều ấy, một lần nữa được ngân lên
trong khúc vĩ thanh dành cho nhân dân dưới ngòi thơ bay
bổng và lãng mạn được kết động trong ca dao:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Dạy anh biết “yêu em từ Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo nhấn mạnh tình
thuở trong nôi”. cảm của chàng trai không phải là làn gió thoáng qua mà là
lời nói, suy nghĩ từ những tình cảm chân thực nhất. Đây là
+ Đây là phương diện phát hiện mới mẻ từ ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm, bởi lẽ
đầu tiên nhà thơ muốn từ xưa đến nay nói tới nhân dân người ta thường nghĩa tới
chúng ta khắc ghi, đó là những phẩm chất chuyên cần chịu thương, chịu khó, kiên
tình cảm thủy chung cường. Bằng sự khám phá riêng, nhà thơ phát hiện và ngợi
son sắt giữa con người ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình
với con người trong mọi từ thuở trẻ đến lúc trưởng thành. Ở đây chính là quan niệm
mối quan hệ; “biết yêu” sống đẹp mà Nhân dân muốn gửi gắm thông qua những câu
thì mới biết dũng cảm ca dao ngọt ngào, sâu lắng được truyền từ thế hệ này sang
đứng lên, biết yêu mới thế hệ khác. Ở phương diện thứ hai, nhà thơ đề cập đến là
biết cầm súng bảo vệ tình nghĩa giữa con người với con người, bởi nó là thứ nặng
al
ci
ffi

quê hương. hơn nhiều lần mọi giá trị vật chất. Ý thơ chính là lời khẳng
42 O
06 T
80 LO

định từ phương diện đầu tiên nhà thơ muốn chúng ta khắc
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 107 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
ghi, đó là tình cảm thủy chung son sắt giữa con người với
“Biết quý công cầm vàng con người trong mọi mối quan hệ. Thi sĩ đã viết nên lời chân
những ngày lặn lội”. tình của chàng trai đang yêu từ ý ca dao: “Cầm vàng mà lội
qua sông – Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”. Qua “ca
+ Phương diện thứ hai dao thần thoại”, Nhân dân đã đem đến và lưu truyền cho biết
nhà thơ đề cập đến là bao thế hệ những bài học đạo lí sâu sắc nhằm răn dạy chúng
tình nghĩa giữa con ta phải biết yêu thương, che chở, đùm bọc, cưu mang lẫn
người với con người nhau; biết trân trọng công sức nghĩa tình, biết ở hiền gặp
nặng hơn nhiều lần mọi lành, biết tránh xa cái ác để hướng tới điều thiện; biết kiên
giá trị vật chất. nhẫn phục thù, biết học cách làm người sao cho phải đạo….
Bởi ca dao đã “dạy anh biết”: Sống trên đời cần quý trọng
tình nghĩa.
“Biết trồng tre đợi ngày Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
thành gậy - Đi trả thù Đi trả thù mà không sợ dài lâu
mà không sợ dài lâu” Quan niệm này được hình thành từ ý tưởng chính của câu
ca dao: “Thù này ắt hẳn còn lâu – Trồng tre thành gậy, gặp
+ Nhân dân đã dạy ta đâu đánh què”, lại một lần nữa ta bắt gặp hình ảnh cây tre
phải biết kiên cường và Việt Nam không chỉ mang cốt cách tâm hồn người dân Việt
bền chí; căm thù và mà còn luôn gắn bó với công cuộc gìn giữ đất nước. Việc
chiến đấu. đánh giặc ngoại xâm bảo vệ non sông đất nước là truyền
thống quý báu của dân tộc ta, và với một người sâu sắc như
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thì ông không thể quên thể hiện
điều đó trong ý thơ của mình. Tựa như thiên ngôn vạn ngữ
được cất tiếng thành lời, xúc cảm của thi sĩ bỗng vỡ òa. Nhà
thơ Liên Xô hiện đại Ti-khô-nôp cho rằng: “Thơ là sự nén
chặt của năng lượng”, năng lượng tư tưởng và cảm xúc. Phải
chăng đó là bởi vì những công lao mà nhân dân đã cống hiến
trong âm thầm cho Tổ Quốc? Và đó cũng là phương diện thứ
ba mà Nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù
al
ci
ffi

và chiến đấu. Ý thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh
42 O
06 T
80 LO

liệt, trường kì của Nhân dân trong công cuộc gìn giữ Đất
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 108 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Nước. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu
với nạn ngoại xâm, cuộc chiến nào cũng kéo dài hàng chục
năm, thậm chí hàng trăm năm, hàng nghìn năm… Thử hỏi
nếu không có kiên trì, bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt
thì dân tộc ta có thể vượt qua bao khó khăn, gian khổ, mất
mát hi sinh đến ngày toàn thắng không?
- Hình ảnh Đất Nước Ta bắt gặp một “Chiều Matxcova” thanh bình và tươi đẹp,
đẹp tươi vô ngần: một “Dòng Danube xanh” êm đềm và dạt dào sóng, một
Surriento trong “trở về Surriento” lãng mạn đẹp đến nao
+ Ý thơ gợi cho ta hình lòng. Chính tình yêu quê hương bằng những cái rất riêng là
ảnh về những dòng khởi nguồn của tình yêu Tổ quốc với tư tưởng đẹp “Đất nước
sông, những dòng sông của Nhân dân”. Nói như một nhà văn Nga: “Con suối đổ vào
không biết bắt đầu từ sông, con sông đổvào đại trường giang Volga, lòng yêu quê
đâu, từ bến bờ nào hương bắt đầu lòng yêu tổ quốc”. Và trong trang thơ của
nhưng khi đã chảy vào Nguyễn Khoa Điềm, lòng yêu nước cũng bắt nguồn từ những
mảnh đất cong cong điều gì thân thuộc, bình dị nhất.
hình chữ S này sẽ hòa Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
chung một câu hát, một Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
điệu hò. Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
+ Thể hiện sự lạc quan, Ý thơ gợi cho ta hình ảnh những dòng sông, những dòng
yêu đời, tinh thần “tiếng sông không biết bắt đầu từ đâu, từ bến bờ nào nhưng khi đã
hát át tiếng bom”. chảy vào mảnh đất cong cong hình chữ S này sẽ hòa chung
một câu hát, một điệu hò. Những tình cảm đó sẽ là nét bút
+ “Dòng sông” ở đây có để ghi mãi không phải một bức tranh đẹp của đất nước trong
thể hiểu là dòng sông tâm hồn ta. Nguyễn Khoa Điềm tâm sự rằng: “Tôi viết rất
văn hóa, dòng chảy lịch nhanh, như cảm xúc đã dồn tụ một cách mãnh liệt giờ chỉ có
sử. Và đó cũng là sự hợp việc tuôn chảy ra thôi. Tôi viết về những điều giản dị của
thành của dòng máu 54 chính tôi, về tuổi trẻ và các bạn bè đang đấu tranh ở thành
al
ci
ffi

dân tộc anh em. phố”, và chính điều đó đã làm nên sự thành công cho thi
42 O
06 T
80 LO

phẩm. Khi tình cảm chính là yếu tố sinh mệnh của thơ ca,
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 109 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
+ “Người đến hát khi “thiếu tình cảm thì trở thành người thợ làm những câu thơ có
chèo đò, kéo thuyền vượt vần chứ không làm được nhà thơ” (Jose Marti). Tình cảm
thác”: vẻ đẹp của lao mãnh liệt ở đây không phải là thứ tình cảm kêu gào, khóc
động sáng ngời dưới cười ồn ào bên ngoài mà là sự rung động mãnh liệt ở bên
dáng hình quê hương. trong, sự giày vò, chấn động trong tâm hồn. Ý thơ còn gợi
cho ta nhớ về những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu
ca Huế ngọt ngào trên sông Hương hay những âm thanh tha
thiết của những câu hò ví dặm trên sông Lam và cả những
tiếng hò sâu lắng của những người “chèo đò, kéo thuyền vượt
thác” trên dòng sông khúc thượng nguồn vùng núi Tây Bắc…
Đó là tiếng hát được lưu truyền từ đời này sang đời khác, nó
thể hiện tình yêu cuộc sống trong lao động, tình yêu quê
hương đất nước sâu đậm, cùng với đó là tinh thần lạc quan
giúp chúng ta vững tin vào ngày mai. Hình tượng dòng sông
được đan cài xuyên suốt bài thơ chính là biểu tượng của
dòng sông văn hóa, dòng chảy lịch sử. Và đó cũng là sự hợp
thành của dòng máu 54 dân tộc anh em. Dòng sông đó “trăm
màu, trăm dáng” như sự đa dạng và phong phú trong văn hóa
của người dân Việt Nam đã vun đắp phù sa qua bao năm
tháng thăng trầm để làm nên một Đất Nước đậm đà bản sắc
dân tộc. Trong tác phẩm Tiếng Việt của nhà thơ Lưu Quang
Vũ, có những câu thơ cảm xúc:
Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời
Chính tình yêu với tinh thần dân tộc ấy sẽ giúp tôi, thúc
đẩy tôi rất nhiều để tôi tự hoàn thiện mình, nâng cao hiểu
biết của tôi về đất nước hay nói cách khác là làm phong phú
hơn phần đất nước trong tôi. Đó là một trong những sức
mạnh giúp con người ta luôn có ý thức học hỏi, tìm tòi ở
al
ci
ffi

cuộc sống, ở bạn bè, ở những trang sách, để làm một phần
42 O
06 T
80 LO

ta đẹp hơn, trong sáng hơn.


33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 110 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Tổng quát nghệ thuật:
1. Sử dụng rộng rãi, đa dạng và sáng tạo chất liệu dân gian
a) Chất liệu dân gian.
- Văn hoá dân gian
+ Phong tục, tập quán: miếng trầu, tóc búi sau đầu...
+ Các vật dụng quen thuộc: cái kèo; cái cột; hạt gạo xay, giã, giần, sàng; hòn than;
con cúi…
- Văn học dân gian:
+ Truyền thuyết: Hùng Vương, Thánh Gióng, truyện cổ tích: Trầu cau, Sự tích hòn
Vọng Phu, Sự tích hòn Trống Mái...
+ Tục ngữ, ca dao, dân ca (đã dẫn ở trên).
b) Sự vận dụng sáng tạo.
Thường chỉ gợi ra bằng một vài chữ của câu ca dao, một hình ảnh, một chi tiết
trong truyền thuyết, truyện cổ tích.
2. Kết hợp giữa chính luận và trữ tình, suy tưởng và cảm xúc
a) Chất chính luận, suy tưởng
- Kết cấu đoạn trích được xây dựng theo cách lập luận, như để trả lời cho hai câu
hỏi: “Đất nước là gì?” (phần đầu của đoạn trích), “Đất nước do ai sáng tạo ra?” (phần
hai của đoạn trích).
- Nhiều câu thơ mang tính chất khẳng định như những chân lí “Đất Nước này là
Đất Nước Nhân dân/ Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”...
- Những suy tưởng, những phát hiện mới về những điều gần gũi, quen thuộc (những
truyền thuyết, truyện cổ tích, câu ca dao, địa danh, thắng cảnh quen thuộc, gần gũi
lại chứa đựng những suy tưởng, những phát hiện mới về đất nước trong sự gắn bó với
nhân dân).
b) Chất trữ tình, cảm xúc.
- Những câu thơ bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của tác giả.
- Thể hiện cái nhìn, thái độ trân trọng, yêu quý với mỗi hình ảnh, chi tiết về đất nước
gắn liền với nhân dân.
al
ci
ffi
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 111 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
Tổng kết, đánh giá nghệ thuật.
Một trong những yếu tố để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng bạn đọc khi tiếp cận
thi phẩm “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là những chất liệu văn hóa dân
gian được vận dụng sáng tạo xuyên suốt cả đoạn thơ. Có thể nói việc kết hợp linh hoạt
chất liệu dân gian phong phú trong một chủ đề lớn rộng như Đất Nước đã làm cho
từng câu thơ trở nên sống động, hấp dẫn và dễ dàng tiếp cận đến bạn đọc hơn về mặt
tư tưởng, tình cảm. Nhà thơ đã vận dụng thành công những chất liệu vừa quen thuộc,
gần gũi với đời sống con người vừa mới lạ trong những sáng tạo độc đáo. Khai thác từ
phong tục, tập quán sinh hoạt và những truyền thống quý báu của nhân dân, tác giả
đã đem đến một hơi thở sống động trên trang viết giúp cho những tư tưởng, tình cảm
về đất nước không còn là vấn đề quá lớn lao mà trở nên đồng điệu với tâm hồn bạn
đọc. Từ những miếng trầu, tóc bới, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn
than, con cúi,... có thể nói Nguyễn Khoa Điềm như vẽ ra trước mắt bạn đọc một thế
giới tuổi thơ với những hình ảnh dân gian gần gũi, thân thuộc nhất. Nhiều bài ca dao,
truyện cổ tích, những câu thành ngữ, tục ngữ cũng đã được khéo léo huy động, điển
hình như câu thơ: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" được lấy ý từ bài ca
dao "Tay nâng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" hay
"Muối ba năm muối hãy còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta tình nặng
nghĩa dày/ Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa". Vận dụng ca dao,
tục ngữ tái hiện lại hình ảnh đất nước nhưng ngòi bút Nguyễn Khoa Điềm không bê
nguyên cả tổng thể mà lựa chọn cách dẫn dắt linh hoạt, chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng
định, tôn vinh những nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con người Việt Nam. Đó là
sự chăm chỉ, chịu thương chịu khó; là tấm lòng thủy chung son sắt trong tình yêu, ân
nghĩa với đồng bào; là sự duyên dáng, ý nhị trong từng lời ăn tiếng nói và trong cả đời
sống hằng ngày... Bên cạnh đó, việc liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa
trong truyền thuyết, cổ tích dân tộc đã góp phần làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của đất
nước và những truyền thống quý báu của nhân dân ta, đồng thời khẳng định vai trò
to lớn của nhân dân trong việc "làm ra Đất Nước". Chất liệu văn hóa, văn học dân gian
được sử dụng đậm đặc chính là một phương tiện độc đáo giúp cho nhà thơ tạo nên
al
ci
ffi

được một không gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực,
42 O
06 T
80 LO

lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn thế nữa, có thể nói chất dân gian
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 112 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy
nghệ thuật ở đoạn trích này, đồng thời làm nổi bật một tư tưởng mới mẻ:
"Đất Nước của nhân dân
Đất Nước của ca dao thần thoại".
Mang sứ mệnh là sự cảnh tỉnh cho những người trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền
Nam về trách nhiệm với non sông đất nước, để xuống đường đấu tranh, hòa nhịp với
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ lúc bấy giờ, đoạn trích “Đất Nước” nói riêng hay
trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung đều được thể hiện bằng một giọng thơ
nồng nàn, da diết, thể hiện được trọn vẹn phong cách nghệ thuật của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm. Đó là một phong cách độc đáo, có sự kết hợp hoàn hảo giữa cảm xúc nồng
nàn và suy tư sâu lắng, giữa chất liệu văn hóa dân gian và nét hiện đại đầy sáng tạo.
Có thể nói, tình yêu tha thiết nhất, thiêng liêng nhất trong tâm hồn thi nhân đã cất
cánh bay lên “trang giấy trước đèn” và tạo nên một “Đất nước” để thương để nhớ. Bắt
nguồn từ sự cảm nhận tinh tế, sâu sắc hình ảnh đất nước, về những hi sinh to lớn của
nhân dân, tư tưởng chủ đạo của bài thơ là tư tưởng “Đất nước của nhân dân/ Đất nước
của ca dao thần thoại”, bởi vậy mà những gì tác giả thể hiện trên trang viết đều rất đỗi
quen thuộc, gần gũi và gắn liền với đời sống sinh hoạt, với phong tục tập quán của
nhân dân. Không phải tìm kiếm ở đâu xa, ngay trong chính những miếng trầu, câu
chuyện, ngay trong chính những cái kèo, cái cột của tuổi thơ, đất nước đã được hình
thành và thấm đượm trên những luống đất tình cảm mộc mạc nhất. Chính nhân dân
đã làm nên đất nước, gây dựng đất nước bằng những giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp, bằng những chất liệu văn học dân gian, bằng phong tục tập quán lâu đời. Từ hình
tượng đất nước, Nguyễn Khoa Điềm làm nổi bật hình tượng nhân dân một cách vừa
cụ thể vừa khái quát hóa, đặt nhân dân vào trung tâm của Đất Nước bằng giọng thơ
tha thiết, thấm đẫm phong vị của nền văn hóa truyền thống dân tộc. Có thể nói lòng
yêu nước sâu sắc, nồng nàn đã trở thành cảm hứng chính chi phối toàn bộ nhịp thơ,
là cơ sở để Nguyễn Khoa Điềm tìm về tận cội nguồn, dốc hết sức liên tưởng, triết luận
để phác họa ra một Đất Nước hoàn chỉnh từ văn hóa đến lịch sử và cả nhân tố cốt lõi
nhất là con người. Nhà thơ đã dùng giọng điệu căng tràn niềm tự hào và trân trọng
al
ci
ffi

khôn xiết khi nhắc đến những chiến công hào hùng của lịch sử dân tộc, khi nhắc đến
42 O
06 T
80 LO

quá trình dựng nước và giữ nước của cha ông. Để từ đó, tấm lòng biết ơn sâu sắc, luôn
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 113 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za
 Tài liệu khóa học 2K6 – PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU TÁC PHẨM 12 (Cô Trần Thùy Dương)
_________________________________________________________________________________________
hướng về cội nguồn đã khiến tâm hồn thi nhân cuộn trào một nỗi trăn trở là phải nêu
cao tinh thần trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay đối với sứ mệnh tiếp bước người đi
trước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.

al
ci
ffi
42 O
06 T
80 LO
33 T
03 Trợ

⮞ Chinh phục mục tiêu 9+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 114 | 114

H

INBOX ANH ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN TÀI LIỆU ÔN THI OFFICIAL


lo

VÀ ĐĂNG KÍ HỌC! HỖ TRỢ HỌC TẬP VỚI CHI PHÍ TIẾT KIỆM NHẤT
Za

You might also like