You are on page 1of 11

A History of Svalbard Lịch sử Svalbard

Svalbard is an archipelago in the Arctic Svalbard là một quần đảo ở Bắc Băng
Ocean on the northwest corner of the Barents Dương tại góc tây bắc của thềm Barents, cách
Shelf. It is 800 kilometres (497 mi) north of đất liền Na Uy 800 km (497 dặm) về phía bắc
mainland Norway and sits roughly midway và nằm gần giữa đỉnh Na Uy và Bắc Cực. Nó
between the top of Norway and the North giáp với Greenland (Đan Mạch) ở phía tây và
Pole. It is bordered by Greenland (Denmark) Franz Josef Land (Nga) ở phía đông. Svalbard
in the west and Franz Josef Land (Russia) in (tiếng Bắc Âu cổ có nghĩa là "Bờ biển lạnh")
the east. Svalbard (Old Norse for "Cold trước đây được biết đến với cái tên tiếng Hà
Coast") was formerly known by its Dutch Lan là Spitsbergen ("những ngọn núi lởm
name of Spitsbergen ("jagged mountains"). chởm").
Svalbard consists of nine main islands, Svalbard bao gồm chín hòn đảo chính,
with Spitsbergen (formerly West Spitsbergen) trong đó Spitsbergen (trước đây là Tây
being the largest with an area of 37,673 Spitsbergen) là hòn đảo lớn nhất với diện tích
square kilometres (14, 545 square miles). The 37.673 km2 (14.545 dặm vuông). Tổng diện
total area of the Svalbard archipelago is tích của quần đảo Svalbard là 62.700 km2
62,700 square kilometres (24,208 square (24.208 dặm vuông). Longyearbyen, trung
miles). Longyearbyen, the administrative tâm hành chính của Svalbard, là khu định cư
centre of Svalbard, is the world's có người ở vĩnh viễn tại cực bắc của thế giới,
northernmost permanently inhabited được đặt theo tên của John Munro Longyear
settlement, named after John Munro Longyear (1850-1922), người có Công ty Than Bắc Cực
(1850-1922), whose Arctic Coal Company bắt đầu các hoạt động khảo sát và khai thác
started coal mining and surveying operations than ở Svalbard vào năm 1906.
in Svalbard in 1906. Nhà thám hiểm và leo núi người Anh, Sir
British mountaineer and explorer, Sir Martin Conway (1856-1937), người dẫn đầu
Martin Conway (1856-1937), who led an đoàn thám hiểm tới Svalbard năm 1896, gọi
expedition to Svalbard in 1896, referred to the quần đảo này là 'vùng đất không có người'
archipelago as 'no man’s land' or terra hay vùng đất vô chủ do không biết quốc gia
nullius because several nations had been nào đã từng thám hiểm, săn bắn và khai phá
mining, hunting, and exploring the area since nơi này mãi đến năm 1596 thì Svalbard mới
the official discovery of Svalbard in 1596. được biết tới một cách chính thức. Quần đảo
The archipelago was international common này là vùng đất chung quốc tế, không được
land, unclaimed by any specific nation-state bất kỳ quốc gia-nhà nước cụ thể nào tuyên bố
until Norwegian sovereignty was recognised chủ quyền cho đến khi Na Uy được công
by the Versailles peace negotiations at the end nhận trong các cuộc đàm phán hòa bình
of World War I (1914-1918). Versailles vào cuối Thế chiến thứ nhất (1914-
1918).
On 9 February 9 1920, the Spitsbergen Vào ngày 9 tháng 2 năm 1920, Hiệp ước
Treaty was signed in Paris, and it came into Spitsbergen được ký kết tại Paris và có hiệu
force on 14 August 1925 when Svalbard came lực vào ngày 14 tháng 8 năm 1925 khi
under Norwegian administration and Svalbard nằm dưới sự quản lý và luật pháp
legislation. của Na Uy.
Despite this, the discovery of Svalbard and Mặc dù vậy, việc phát hiện ra Svalbard và
its early exploration have been debated. Due việc thăm dò ban đầu của nó vẫn còn gây
to a lack of historical sources and tranh cãi. Do thiếu các nguồn sử học và bằng
inconclusive evidence, several competing and chứng không thuyết phục, một số tuyên bố
controversial claims of discovery have been khám phá mang tính cạnh tranh và gây tranh
put forward, including that of Norway. cãi đã được đưa ra, bao gồm cả tuyên bố của
Na Uy.
Four Discovery Theories
The Dutch discovery of Svalbard in 1596 Bốn lý thuyết khám phá
is acknowledged as historical fact, but this is Việc Hà Lan phát hiện ra Svalbard vào
the western viewpoint and competes with an năm 1596 được thừa nhận là sự thật lịch sử,
earlier Russian claim. There is also a Norse nhưng đây là quan điểm của phương Tây và
claim and a suggestion that Svalbard was trái ngược với tuyên bố trước đó của Nga.
settled during the Stone Age, around 3000 Ngoài ra còn có một tuyên bố của người Bắc
BCE. The four theories are: Âu cho rằng Svalbard đã được định cư trong
Thời kỳ Đồ đá, khoảng năm 3000 TCN. Có
Stone Age settlement. bốn giả thuyết đó là:
In the 1970s, two Scandinavian Khu định cư Thời Đồ đá.
archaeologists put forward the theory that Vào những năm 1970, hai nhà khảo cổ học
Stone Age hunters may have formed a người Scandinavi đưa ra giả thuyết rằng
settlement on Spitsbergen. Flint objects were những người thợ săn Thời Đồ đá có thể đã
excavated at an 18th-century Russian whaling xây dựng một khu định cư trên Spitsbergen.
site at Russekeila. The archaeologists stated: Các vật thể bằng đá lửa được khai quật tại
It has for a long time been clear to một địa điểm săn cá voi của Nga thế kỷ XVIII
archaeologists that there should be tại Russekeila. Các nhà khảo cổ học cho biết:
possibilities for finds from the Stone Age on Từ lâu, các nhà khảo cổ đã nhận thấy rõ
the Spitsbergen Islands. In NorthEast ràng rằng có thể có những phát hiện từ Thời
Greenland people have lived for long periods Đồ đá trên Quần đảo Spitsbergen. Ở vùng
under much harder conditions; if man has not Đông Bắc Greenland, người dân đã sống
followed the reindeer to Franz Josefs Land trong thời gian dài dưới những điều kiện khó
and Svalbard it would be the only place in the khăn hơn nhiều; nếu con người không theo
world this has not happened. (quoted in đàn tuần lộc đến Franz Josefs Land và
Bjerck, 97) Svalbard thì đó sẽ là nơi duy nhất trên thế giới
Field surveys identified ten flint locations, điều này không xảy ra. (trích trong Bjerck,
dating to c. 4500-2500 years ago. 97)
Archaeologists have been divided over Các cuộc khảo sát thực địa đã xác định
whether the artefacts were human-made or được mười địa điểm đá lửa, có niên đại
naturally flaked stone. An analysis of the khoảng 4500-2500 năm trước. Các nhà khảo
lithic (stone) material in 1997 concluded they cổ học vẫn còn tranh cãi về việc liệu các tạo
were not Stone Age artefacts. tác cổ này là đá nhân tạo hay đá tự nhiên. Một
A branded Nenet (Russian arctic) reindeer phân tích về vật liệu thạch (đá) vào năm 1997
shot on Svalbard in 1911 led to the plausible đã kết luận rằng chúng không phải là tạo tác
explanation that the animal crossed the cổ từ Thời kỳ Đồ đá.
Barents Sea on drift ice, and Stone Age Một con tuần lộc tên Nenet (Bắc Cực của
hunters may have followed a prehistoric Nga) bị bắn ở Svalbard vào năm 1911 đã dẫn
reindeer's route. đến lời giải thích hợp lý rằng con vật này đã
The archaeological record is fragmentary vượt qua Biển Barents trên băng trôi và
at best, and the Stone Age settlement những người thợ săn thời đồ đá có thể đã đi
hypothesis has been largely dismissed. Yet, it theo lộ trình của tuần lộc thời tiền sử.
is conceivable there may have been a Hồ sơ khảo cổ học vô cùng rời rạc, và giả
prehistoric human presence on Svalbard, thuyết về việc định cư Thời kỳ Đồ đá phần
given climatic conditions were milder than lớn đã bị bác bỏ. Tuy nhiên, có thể hình dung
they are today. The Inuit peoples inhabiting rằng đã có sự hiện diện của con người thời
Greenland's Arctic and subarctic regions were tiền sử tại Svalbard do điều kiện khí hậu ôn
the first explorers and cartographers of the hòa hơn ngày nay. Người Inuit sinh sống ở
Arctic and may have had knowledge of the vùng Bắc Cực và cận Bắc Cực của Greenland
upper Arctic islands. là những nhà thám hiểm và người vẽ bản đồ
đầu tiên ở Bắc Cực và có thể đã có kiến thức
về các đảo phía trên Bắc Cực.

The Norse claim or Viking theory Tuyên bố của người Bắc Âu hay lý
The name 'Svalbard' was mentioned in the thuyết của người Viking
14th-century Islandske Annaler (Icelandic Cái tên 'Svalbard' đã được nhắc đến trong
Annals) and recorded that Svalbard was cuốn Islandske Annaler (Biên niên sử
discovered in 1194 by Norse sailors. In Annaler) thế kỷ 14 và ghi lại rằng Svalbard
the Landnámabók (Book of được phát hiện vào năm 1194 bởi các thủy thủ
Settlements, compiled in the early 12th Bắc Âu. Trong Landnámabók (Sách định cư,
century), there is a possible sailing được biên soạn vào đầu thế kỷ 12), có một
instruction: "from Langanes on the north side hướng dẫn chèo thuyền: "từ Langanes ở phía
of Iceland it is four doegrs sea to Svalbard on bắc Iceland, qua biển bốn doegrs đến
the north of Hafsbotn" (quoted in Rudmose Svalbard ở phía bắc Hafsbotn" (trích trong
Brown, 312). Rudmose Brown, 312).
The location of this 'Svalbard' is Vị trí của 'Svalbard' đang gây tranh cãi.
contentious. Hafsbotn was the ocean to the Hafsbotn là đại dương ở phía bắc Na Uy và
north of Norway and northeast of Greenland. phía đông bắc Greenland. Spitsbergen chỉ
Spitsbergen is only 1351 kilometres (840 mi) cách Langanes 1351 km (840 dặm), vì vậy nó
from Langanes, so it could refer to có thể ám chỉ bờ biển phía tây của
Spitsbergen's west coast, the island of Jan Spitsbergen, đảo Jan Mayen (một hòn đảo núi
Mayen (a small volcanic island in the North lửa nhỏ ở Bắc Đại Tây Dương, cách Na Uy
Atlantic Ocean, 965 kilometres (600 mi) west 965 km (600 dặm) về phía tây) hoặc thậm chí
of Norway) or even Greenland's east coast. In là bờ biển phía đông của Greenland. Trong
Old Icelandic, doegr can mean either a tiếng Iceland cổ, doegr có thể có nghĩa là
twelve- or 24-hour period. Using the twelve- khoảng thời gian 12 hoặc 24 giờ. Sử dụng
hour definition pinpoints Jan Mayen as the mốc thời gian mười hai giờ xác định chính
most likely location of the Svalbard xác Jan Mayen có khả năng nhất là vị trí của
mentioned in the annals. Svalbard được đề cập trong biên niên sử.
Norwegian historian Gustav Storm (1845- Nhà sử học Na Uy Gustav Storm (1845-
1903) was the first to suggest that the 1903) là người đầu tiên cho rằng 'Svalbard
'Svalbard found' recorded in the 1194 annals được tìm thấy' lưu lại trong biên niên sử năm
was evidence of early Norse visits to the 1194 là bằng chứng về những chuyến khám
archipelago. The suggestion gained popularity phá đầu tiên của người Bắc Âu tới quần đảo.
with the Norwegians, who were in the grip of Đề xuất này đã trở nên phổ biến với người Na
nationalistic fervour, leading to the Uy, những người bị ảnh hưởng bởi tinh thần
dissolution of the union between Norway and dân tộc, dẫn đến sự tan rã của liên minh giữa
Sweden in 1905. Na Uy và Thụy Điển vào năm 1905.
There was no exploration or surveying of Không có cuộc thăm dò hay khảo sát nào
the land said to be 'Svalbard,' and no further về vùng đất được cho là 'Svalbard' và không
written sources, but the Norse were bold có nguồn tài liệu nào viết thêm, nhưng người
navigators, having discovered Greenland in Bắc Âu là những nhà hàng hải dũng cảm, đã
986 and Iceland in 870, so it is possible that phát hiện ra Greenland vào năm 986 và
Norwegian Vikings did indeed discover Iceland vào năm 870, vì vậy có thể người
Svalbard. Viking Na Uy thực sự đã khám phá ra
The Russian or Pomor theory Svalbard.
By the late 1800s, an argument for the Lý thuyết Nga hay Pomor
Russian discovery of Svalbard had emerged. Vào cuối những năm 1800, người ta đưa ra
In 1901, a Danish royal letter from 1576 was một lập luận gây xôn xao về việc liệu người
translated, suggesting that the Pomors had Nga có phải là những người đầu tiên khám
regularly sailed to Grumant, which is the phá ra quần đảo Svalbard. Năm 1901, bức thư
Russian name for Spitsbergen. The Pomors – của hoàng gia Đan Mạch từ năm 1576 đã
the indigenous population of Pomomerie (the được dịch, hé lộ thông tin người Pomor
Arkhangelskaya Oblast region in northeastern thường xuyên dong thuyền đến Grumant, tên
Russia that lies south of the White Sea) – tiếng Nga của Spitsbergen. Vùng đất
were skilled sailors. They inhabited the coast Pomomerie thuộc Arkhangelskaya Oblast ở
of the White Sea and were already hunting on đông bắc nước Nga nằm gần Biển trắng là nơi
the nearby archipelago of Novaya Zemlya sinh sống của người Pomor, những thủy thủ
(also called Nova Zembla) in the early 16th lành nghề định cư trên bờ biển Biển trắng,
century and possibly earlier. kiếm sống bằng nghề săn bắn trên quần đảo
It is known that Russian Pomors went to Novaya Zemlya (còn gọi là Nova Zembla)
Spitsbergen between 1715 to 1850 to hunt gần đó từ đầu thế kỷ 16, thậm chí có thể sớm
polar bears, reindeers, foxes, walruses, and hơn.
seals and wintered over in hunting stations. Được biết, người Pomors-Nga đã đến
Russian archaeologists have discovered at Spitsbergen trong khoảng thời gian từ 1715
least six sites on Spitsbergen, with one đến 1850 để săn gấu bắc cực, tuần lộc, cáo,
possibly dating to 1545. As with the Norse hải mã, hải cẩu và trú đông trong các trạm săn
claim, archaeological evidence is bắn. Các nhà khảo cổ học Nga đã phát hiện ra
inconclusive. Western historians have ít nhất sáu địa điểm trên Spitsbergen, trong đó
objected to the argument for Russian một địa điểm có thể có niên đại từ năm 1545.
discovery because there is no mention of Giống như tuyên bố của người Bắc Âu, bằng
Pomors in whaling literature, nor are Pomor chứng khảo cổ học là không thuyết phục. Các
settlements marked on any maps before 1596. nhà sử học phương Tây đã phản đối lập luận
về phát hiện của người Nga vì không có đề
cập đến Pomors trong tài liệu săn bắt cá voi,
The Barentsz theory cũng như các khu định cư ở Pomor không
The Dutch discovery of Svalbard in 1596 được đánh dấu trên bất kỳ bản đồ nào trước
by Willem Barentsz (1550-1597) is the năm 1596.
commonly accepted historical narrative, Lý thuyết Barentsz
although the controversial question remains: Việc người Hà Lan phát hiện ra Svalbard
were there people on Svalbard before the vào năm 1596 bởi Willem Barentsz (1550-
Dutch reached it? 1597) là câu chuyện lịch sử được chấp nhận
Willem Barentsz’s Discovery of Svalbard phổ biến, mặc dù câu hỏi gây tranh cãi vẫn
Willem Barentsz (c. 1550-1597) – còn đó: Liệu đã có ai đặt chân đến Svalbard
anglicized as William Barents or Barentz – trước Hà Lan không?
was a Dutch cartographer and navigator. He Khám phá Svalbard của Willem Barentsz
was born in Terschelling, an island in the Willem Barentsz (khoảng 1550-1597) –
northern Netherlands, and made three được Anh hóa là William Barents hoặc
voyages in search of the coveted Northern Sea Barentz – là một người vẽ bản đồ và thủy thủ
Route to Asia. The Dutch were already người Hà Lan. Ông sinh ra ở Terschelling,
engaged in commercial activities in the Arctic một hòn đảo ở phía bắc Hà Lan, thực hiện ba
and with northern Russia during the 16th and chuyến đi để tìm kiếm Con đường biển phía
17th centuries, particularly whaling and cod- Bắc đến châu Á mà nhiều người khao khát.
fishing as well as exploration. Người Hà Lan đã tham gia vào các hoạt động
Between 1584 and 1668, there were thương mại ở Bắc Cực và miền bắc nước Nga
attempts to find the Northeast Passage above trong thế kỷ XVI và XVII, đặc biệt là săn bắt
Norway so that trading ships could reach cá voi, đánh bắt cá tuyết cũng như thăm dò.
Cathay (China) and the Spice Islands (the Từ năm 1584 đến năm 1668, đã có những
Moluccas) faster, and this search was part of nỗ lực tìm kiếm Hành lang Đông Bắc phía
Dutch global expansion plans. Their rivals, trên Na Uy để các tàu buôn có thể đến Cathay
the British, had obtained a charter of (Trung Quốc) và Quần đảo Spice (Moluccas)
incorporation for the Company of Merchant nhanh hơn, và cuộc tìm kiếm này là một phần
Adventurers of London in 1555. Generally trong kế hoạch mở rộng toàn cầu của Hà Lan.
known as the Muscovy Company, in 1556, Đối thủ của họ, người Anh, đã thành lập
they sent the early Arctic explorer and Doanh nghiệp thám hiểm thương gia Luân
navigator Stephen Borough (1525-1584) in Đôn vào năm 1555. Thường được gọi là
search of a Northeast Passage. He discovered Doanh nghiệp Muscovy, vào năm 1556, họ cử
the Kara Strait between Novaya Zemlya and nhà thám hiểm và thủy thủ Stephen Borough
Vaygach Island but found it full of ice and (1525-1584) đi tìm kiếm Hành lang Đông
was forced to return to England. Bắc. Ông phát hiện ra eo biển Kara giữa
Barents' first expedition in 1594, Novaya Zemlya và đảo Vaygach nhưng nó
commissioned by a group of Amsterdam phủ đầy băng và buộc phải quay trở lại Anh.
merchants, reached Novaya Zemlya, Chuyến thám hiểm đầu tiên của Barents
discovering the Orange Islands off the coast vào năm 1594, do một nhóm thương gia
and mapping the archipelago before Amsterdam ủy quyền đã đến Novaya Zemlya,
encountering icebergs and turning back. His khám phá Quần đảo Orange ngoài khơi và lập
second expedition in 1595, financed by the bản đồ quần đảo trước khi gặp phải tảng băng
States General (Dutch parliamentary body), trôi và phải quay trở lại. Chuyến thám hiểm
reached no farther than the Kara Sea and thứ hai của ông vào năm 1595, được tài trợ
returned home after two crew members were bởi States General (cơ quan quốc hội Hà
attacked and killed by a polar bear. Lan), không đi xa hơn Biển Kara và quay trở
The two expeditions were regarded as về sau khi hai thành viên thủy thủ đoàn bị một
failures. Barents' third and final voyage was con gấu Bắc Cực tấn công và giết chết.
financed by the city of Amsterdam, and two Hai cuộc thám hiểm được coi là thất bại.
ships under Barents' command set off in May Chuyến đi thứ ba và cũng là chuyến đi cuối
1596. Jacob van Heemskerk (also given as cùng của Barents được tài trợ bởi thành phố
Heemskerck, 1567-1607) and Jan Cornelisz Amsterdam, và hai con tàu dưới sự chỉ huy
Rijp (d. 1613) captained the two ships, with của Barents khởi hành vào tháng 5 năm 1596.
Barents serving as pilot on De Witte Jacob van Heemskerk (còn được gọi là
Swaen (The White Swan). After discovering Heemskerck, 1567-1607) và Jan Cornelisz
Bear Island (the southernmost island of the Rijp (mất 1613) làm thuyền trưởng hai con
Svalbard archipelago), Spitsbergen was tàu, với Barents làm thủy thủ trên De Witte
sighted on 17 June 1596. Barents is given Swaen (Thiên nga trắng). Sau khi phát hiện ra
historical credit for the discovery of Svalbard, Đảo Bear (đảo cực nam của quần đảo
and the Barents Sea along the northern coasts Svalbard), người ta nhìn thấy Spitsbergen vào
of Norway and Russia is named after him. ngày 17 tháng 6 năm 1596. Barents được ghi
The northwest corner of Spitsbergen was nhận là người có công lịch sử vì đã phát hiện
mapped, and the Dutch coat of arms erected ra Svalbard, và Biển Barents dọc theo bờ biển
before the two ships sailed again to Bear phía bắc của Na Uy và Nga được đặt theo tên
Island. ông. Góc phía tây bắc của Spitsbergen đã
Barents and Rijp had a difference of được lập bản đồ và quốc huy Hà Lan được
opinion over the direction the ships should dựng lên trước khi hai con tàu khởi hành trở
take, with Rijp wanting to explore lại Đảo Bear.
Spitsbergen and Barents and Heemskerk Barents và Rijp có quan điểm khác nhau về
wishing to cross the Barents Sea to Novaya hướng đi của các con tàu, Rijp muốn khám
Zemlya to map its northern coast. They parted phá Spitsbergen còn Barents và Heemskerk
ways, and Barents sailed to Novaya Zemlya muốn băng qua Biển Barents đến Novaya
with the intention of reaching the Vaygach Zemlya để lập bản đồ bờ biển phía bắc của
Strait, but The White Swan became trapped in nó. Họ tách nhau và Barents đi thuyền đến
ice in August 1596, forcing Barents and his Novaya Zemlya với ý định đến eo biển
crew to overwinter there. Vaygach, nhưng con tàu Thiên nga trắng bị
Gerrit de Veer (c. 1570 to c. 1598), who mắc kẹt trong băng vào tháng 8 năm 1596,
was an officer on Barents' second and third buộc Barents và thủy thủ đoàn của ông phải
voyages, chronicled the expeditions and trải qua mùa đông ở đó.
captured the moment the ship was crushed by Vào khoảng năm 1570 đến năm 1598,
ice: Gerrit de Veer là sĩ quan trên chuyến đi thứ
Whereby all that was about and in it began hai và thứ ba của Barents, đã ghi lại những
to crack, so that it seemed to burst in a 100 chuyến thám hiểm của họ và khoảnh khắc con
peeces, which was most fearfull both to see tàu bị băng đè lên:
and heare, and made all the haire of our heads Theo đó, tất cả những gì xung quanh và
to rise upright with feare. (quoted in Conway, bên trong nó bắt đầu nứt ra, đến mức dường
15). như nó vỡ tan thành trăm mảnh, cảnh tượng
The crew used lumber from the ship to và âm thanh đó thật kinh hoàng, khiến tóc
build a hut to survive the gruelling conditions chúng tôi dựng đứng vì sợ hãi (theo như lời
that were so cold the men slept with warmed Conway, 15).
cannonballs under their bedding. The shelter
was named Het Behouden Huys ("safe Thủy thủ đoàn đã sử dụng gỗ từ con tàu
home"), and Barents and his crew lived there dựng một túp lều nhỏ để tồn tại trong điều
until June 1597. They fought off polar bears kiện khắc nghiệt, lạnh giá đến mức họ phải
and scurvy, which claimed many lives, ngủ với những viên đạn đại bác ấm áp dưới
including William Barents', who died on 20 gầm giường. Nơi trú ẩn được đặt tên là Het
June 1597. Behouden Huys (‘ngôi nhà an toàn”). Barents
và thủy thủ đoàn đã sống ở đó cho đến tháng
6 năm 1597. Họ chiến đấu với gấu Bắc Cực
Dutch attempts to discover the Northeast và bệnh scorbut, căn bệnh đã lấy đi rất nhiều
Passage ended with Barents' final voyage, and sinh mạng, trong đó có William Barents, mất
it was not successfully navigated until 1878- ngày 20 tháng 6 năm 1597.
1879, when Finnish-Swedish explorer, Adolf Những nỗ lực của người Hà Lan nhằm
Erik Nordenskiöld (1832-1901), sailed khám phá Hành lang Đông Bắc đã kết thúc
through it in the Vega. với chuyến đi cuối cùng của Barents và con
đường này không được định hướng thành
công cho đến năm 1878-1879, khi nhà thám
Booming Whaling Industry hiểm người Thụy Điển gốc Phần Lan, Adolf
Curiously, Barents did not seem to note Erik Nordenskiöld (1832-1901), đi thuyền
Svalbard's natural resources, such as oil and qua đó trên con tàu Vega.
fur. It was not until May 1607 that English Bùng nổ Ngành công nghiệp săn bắt Cá
navigator Henry Hudson (d. 1611) on Voi
the Hopewell found whales, walruses, and Điều kỳ lạ là Barents dường như không
seals in the waters around Spitsbergen. chú ý đến các nguồn tài nguyên thiên nhiên
Hudson was not aware of Barents' discovery của Svalbard, chẳng hạn như dầu mỏ và lông
of Svalbard, but it is possible that he thú. Mãi đến tháng 5 năm 1607, thủy thủ
discovered Jan Mayen, calling it Hudson's người Anh Henry Hudson (mất 1611) trên
Tutches (Touches). This gave rise to a claim tàu Hopewell mới tìm thấy cá voi, hải mã và
to Spitsbergen in 1614 by the Muscovy hải cẩu ở vùng biển xung quanh Spitsbergen.
Company on behalf of James I of Hudson không biết về việc Barents phát hiện
England (r. 1603-1625). This claim was also ra Svalbard, nhưng có thể ông đã phát hiện ra
based on the false assumption that the English Jan Mayen và gọi nó là Hudson's Tutches
explorer, Hugh Willoughby (d. 1554), who (Touches). Điều này đã dẫn đến yêu sách đối
had attempted to find a northeastern route với Spitsbergen vào năm 1614 bởi Doanh
from Europe to the Far East, had discovered nghiệp Muscovy thay mặt cho James I của
the Svalbard archipelago in 1553. Anh (1603-1625). Tuyên bố này cũng dựa
trên giả định sai lầm rằng nhà thám hiểm
By 1612, the Dutch had started whaling người Anh, Hugh Willoughby (mất năm
activities in the Arctic, establishing the 1554), người đã cố gắng tìm kiếm con đường
settlement of Smeerenburg in 1619. The phía đông bắc từ Châu Âu đến vùng Viễn
Dutch Noordsche Compagnie, a whaling Đông, đã phát hiện ra quần đảo Svalbard vào
cartel, was established in 1614 and competed năm 1553.
with the Muscovy Company, both companies Đến năm 1612, người Hà Lan bắt đầu các
sending whaling vessels to Spitsbergen. hoạt động săn bắt cá voi ở Bắc Cực, thành lập
Europe needed oil for lamps and soaps, and khu định cư Smeerenburg vào năm 1619.
baleen (whalebone) for corsets, umbrellas, Noordsche Compagnie của Hà Lan, một
and hoop skirts. The Dutch dominated the nhóm săn bắt cá voi, được thành lập vào năm
whaling industry with the help of experienced 1614 và cạnh tranh với Doanh nghiệp
Basque harpooners, who boiled whale blubber Muscovy, cả hai đều gửi tàu săn cá voi đến
in large copper pots at shore stations. There Spitsbergen. Châu Âu cần dầu cho đèn và xà
were more than 10,000 whalers in Spitsbergen phòng, và tấm sừng hàm (xương cá voi) cho
and between 200-300 whaling ships by the áo corset, ô và váy vòng. Người Hà Lan thống
late 17th century, including the French, trị ngành đánh bắt cá voi với sự giúp đỡ của
Spanish, Hanseatic, and Danish. The Dutch những thợ săn cá voi xứ Basque giàu kinh
alone had killed 1,255 whales, which yielded nghiệm, những người luộc mỡ cá voi trong
41, 344 casks of blubber. By 1750, the những chiếc nồi đồng lớn tại các trạm trên
feverish hunting of the Greenland right whale bờ. Có hơn 10.000 người săn cá voi ở
resulted in a diminished population and the Spitsbergen và khoảng 200-300 tàu săn cá voi
abandonment of whaling stations, including vào cuối thế kỷ XVII, bao gồm cả người
Smeerenburg. Pháp, Tây Ban Nha, Hanseatic và Đan Mạch.
The Dutch had not demanded sovereignty Chỉ riêng người Hà Lan đã giết được 1.255
over Svalbard following Barents' discovery, con cá voi, thu được 41.344 thùng mỡ. Đến
due to the Mare Liberum principle of 1609 – năm 1750, nạn săn bắt cá voi đầu bò ở
the Dutch jurist and philosopher Hugo de Greenland gây sốt đã dẫn đến số lượng giảm
Groot (1583-1645) had declared the high seas sút và các trạm săn bắt cá voi bị bỏ hoang,
were open to all and paved the way for bao gồm cả Smeerenburg.
multiple nations' involvement in the Svalbard Người Hà Lan đã không yêu cầu chủ
whaling industry. The Danish, however, also quyền đối với Svalbard sau phát hiện của
tried to claim Svalbard when Christian IV of Barents, do nguyên tắc Mare Liberum năm
Denmark (r. 1588-1648) argued that 1609 - luật gia và triết gia người Hà Lan
Spitsbergen was part of Greenland. The Hugo de Groot (1583-1645) đã tuyên bố biển
English referred to Spitsbergen as Greenland cả mở cửa cho tất cả mọi người và mở đường
in an effort to deny the Dutch discovery and cho sự tham gia của các quốc gia vào ngành
annexed Svalbard in 1614 for King James I – đánh bắt cá voi ở Svalbard. Tuy nhiên, người
a claim ignored by the Dutch. Đan Mạch cũng cố gắng tuyên bố chủ quyền
với Svalbard khi Christian IV của Đan Mạch
(1588-1648) lập luận rằng Spitsbergen là một
phần của Greenland. Người Anh gọi
Spitsbergen là Greenland trong việc nỗ lực
Trappers & Sealers phủ nhận sự phát hiện của Hà Lan và sáp
As the whalers abandoned Svalbard for nhập Svalbard vào năm 1614 cho Vua James I
new hunting grounds on the open seas, the – một tuyên bố bị người Hà Lan phớt lờ.
next phase of Svalbard's history began with
fur trappers and sealers arriving. In 1697, Người đánh bẫy và săn hải cẩu
Russian vessels called lodyas with a crew of Khi những người săn cá voi rời bỏ
24 men were seen in Spitsbergen waters and Svalbard để đến những bãi săn mới trên biển
were sent by private companies such as the khơi, giai đoạn tiếp theo trong lịch sử của
White Sea Fishing Company, private Svalbard bắt đầu với những người đánh bẫy
adventurers, and even monasteries. Pomor và những người săn bắt hải cẩu. Năm 1697,
trappers came from Mezen, Archangel, Kola, các tàu Nga gọi là lodyas với thủy thủ đoàn
Kem, Onega, and Rala on the White Sea and 24 người đã được nhìn thấy ở vùng biển
hunted polar bears, reindeers, foxes, seals, Spitsbergen và được gửi bởi các doanh nghiệp
and walruses. tư nhân như Doanh nghiệp Đánh cá Biển
The first task of a Pomor hunting crew was Trắng, các nhà thám hiểm tư nhân và thậm
to build its isbuschka or headquarters, and chí cả các tu viện. Những người đánh bẫy
many of these stations, complete with Russian Pomor đến từ Mezen, Archangel, Kola, Kem,
Orthodox crosses, have been excavated on Onega và Rala trên Biển Trắng và săn gấu
Svalbard at Whales Point, Gotha Cove, and Bắc Cực, tuần lộc, cáo, hải cẩu và hải mã.
Cape Lee. The Pomors would overwinter, Nhiệm vụ đầu tiên của đội săn Pomor là
being replaced by a fresh hunting party the xây dựng isbuschka hoặc trụ sở chính, và
following year. During the long polar night nhiều trạm trong số này, hoàn chỉnh với
(October-February), the Pomors faced the những cây thánh giá của Chính thống giáo
challenge of fighting off lethargy. Nga, đã được khai quật trên Svalbard tại
It will now be asked how the trappers Whales Point, Gotha Cove và Cape Lee.
employ themselves during the winter. Can Người Pomors sẽ trải qua mùa đông và được
you picture to yourselves pale, emaciated thay thế bằng một nhóm đi săn mới vào năm
men, with dull, unillumined eyes, sitting in a sau. Trong đêm dài vùng cực (tháng 10 đến
damp barrack, lighted by an oil-lamp? Such tháng 2), người Pomors phải đối mặt với thử
are Archangel trappers in Spitsbergen during thách chống chọi với tình trạng hôn mê.
the long, dark night of winter. Like automata, Người ta thắc mắc những người đánh bẫy
each one ties a rope into an endless number of làm việc như thế nào trong mùa đông. Có thể
knots, and again unties it, and thus, now tying hình dung được những người đàn ông xanh
the knots, now undoing them again, spends xao, hốc hác, đôi mắt lờ đờ, không sáng, ngồi
nearly half the winter. At first sight, this trong một doanh trại ẩm ướt, được thắp sáng
pastime must seem strange, even ludicrous, bằng ngọn đèn dầu. Đó là những người đánh
but for the trappers it is a serious occupation. bẫy Archangel ở Spitsbergen trong đêm dài
(quoted in Conway, 241). và tối tăm của mùa đông. Giống như máy tự
The large Pomor settlement at Russekeila động, mỗi người buộc một sợi dây thành vô
became known for its famous inhabitant, Ivan số nút thắt, rồi lại tháo nó ra, và do đó, lúc
Starostin, who spent 39 winters on Svalbard, thắt nút, lúc lại tháo nút, tốn gần nửa mùa
dying in 1826. Cape Starashchin is named đông. Thoạt nhìn, trò tiêu khiển này có vẻ kỳ
after him. lạ, thậm chí lố bịch, nhưng đối với những
người đánh bẫy thì đó là một nghề nghiêm
túc. (trích trong Conway, 241).
Khu định cư Pomor rộng lớn tại Russekeila
In the 1790s, 2,200 Russian hunters in 270 được biết đến với cư dân nổi tiếng, Ivan
ships were in Spitsbergen, but by the 1820s, Starostin, người đã trải qua 39 mùa đông ở
intense hunting had led to diminishing walrus Svalbard, qua đời vào năm 1826. Cape
herds in particular, and Russian trading Starashchin được đặt theo tên ông.
companies did not see a profitable return. The Vào những năm 1790, 2.200 thợ săn người
last mention of Pomor trappers in historical Nga trên 270 con tàu đã có mặt ở Spitsbergen,
sources was in the winter hunting season of nhưng đến những năm 1820, hoạt động săn
1851-1852. The Pomors also found it difficult bắn dữ dội đã khiến đàn hải mã nói riêng bị
to compete with the Norwegians who reached suy giảm và các doanh nghiệp thương mại
the hunting grounds earlier – it was a 50-day Nga không thu được lợi nhuận. Lần cuối cùng
voyage from the White Sea to Spitsbergen. đề cập đến những người đánh bẫy Pomor
The Norwegians took over, overwintering trong các nguồn lịch sử là vào mùa săn mùa
for the first time in 1795-1796 and often đông năm 1851-1852. Người Pomors cũng
occupying abandoned lodyas. They tended to gặp khó khăn khi cạnh tranh với những người
hunt in the previously unknown eastern parts Na Uy đã đến địa điểm săn bắn sớm hơn - đó
of Spitsbergen, and this led to some là chuyến hành trình kéo dài 50 ngày từ Biển
discoveries. Elling Carlsen (1819-1900), a Trắng đến Spitsbergen.
well-known Norwegian seal hunter and Người Na Uy tiếp quản, trải qua mùa đông
explorer, circumnavigated the whole lần đầu tiên vào năm 1795-1796 và thường
archipelago in 1861 and discovered Kong chiếm giữ các lodyas bị bỏ hoang. Họ có xu
Karls Land, an island group in the hướng săn bắn ở những vùng phía đông chưa
archipelago. In 1898, Norwegian hunters được biết đến trước đây của Spitsbergen, và
came across a new island midway between điều này dẫn đến một số khám phá. Elling
Svalbard and Franz Josef Land, which they Carlsen (1819-1900), một nhà thám hiểm và
named Victoria Island. săn hải cẩu nổi tiếng người Na Uy, đã đi vòng
The Arctic Coal Rush & the quanh toàn bộ quần đảo vào năm 1861 và
Industrialisation of Svalbard phát hiện ra Kong Karls Land, một nhóm đảo
Although polar bears were hunted until trong quần đảo. Năm 1898, các thợ săn Na Uy
being protected on Svalbard in 1973, coal tình cờ gặp một hòn đảo mới nằm giữa
exploitation in the early 1900s was the nextSvalbard và Franz Josef Land, được họ đặt
phase of Svalbard's history, particularly ontên là Đảo Victoria.
the west coast. Coal had been discovered in Cơn sốt than Bắc Cực và quá trình công
Kings Bay by English sealer Jonas Poole nghiệp hóa Svalbard
(1566-1612) in 1610, but its economic Mặc dù gấu Bắc cực bị săn bắt cho đến khi
potential was not fully realised until the được bảo vệ ở Svalbard vào năm 1973, việc
Arctic Coal Company of Boston,
khai thác than vào đầu những năm 1900 là
Massachusetts, was established by American giai đoạn tiếp theo trong lịch sử của Svalbard,
businessman John Munroe Longyear. He đặc biệt là ở bờ biển phía tây. Than đã được
founded Long Year City (since 1926, phát hiện ở Vịnh Kings bởi thợ săn hải cẩu
Longyearbyen) in 1906, which
người Anh Jonas Poole (1566-1612) vào năm
accommodated miners working for the 1610, nhưng tiềm năng kinh tế của nó chưa
company (mostly Norwegian). By 1912, the được phát huy tối đa cho đến khi Doanh
Arctic Coal Company was extracting 40,000 nghiệp Than Bắc Cực ở Boston,
tons. Massachusetts, được thành lập bởi doanh
No rules governed who could claim land, nhân người Mỹ John Munroe Longyear. Ông
and between 1898 and 1920, over 100 land thành lập Thành phố Long Year (từ năm
claims were made. The Swedes set 1926, Longyearbyen) vào năm 1906, nơi tiếp
themselves up in Svea and the Russians in nhận các thợ mỏ làm việc cho doanh nghiệp
Barentsburg and Pyramiden (closed in 1988 (chủ yếu là người Na Uy). Đến năm 1912,
and now a preserved Soviet-era ghost town Doanh nghiệp Than Bắc Cực đã khai thác
that can be visited). The two British miningđược 40.000 tấn.
companies were the Scottish Spitsbergen Không có quy định nào quy định ai có thể
Syndicate and the Northern Exploration yêu cầu bồi thường đất đai, và từ năm 1898
Company. đến năm 1920, hơn 100 yêu cầu bồi thường
As the coal rush intensified, permanent đất đai đã được đưa ra. Người Thụy Điển tự
settlements increased. The first school in lập ở Svea và người Nga ở Barentsburg và
Longyearbyen was built in 1920 by the Pyramiden (đóng cửa vào năm 1988 và hiện
Church of Norway and the Norwegian state- là thị trấn ma thời Liên Xô được bảo tồn có
owned coal company, Store Norske thể đến tham quan). Hai doanh nghiệp khai
Spitsbergen Kulkompani, Svalbard radio thác mỏ của Anh là Tập đoàn Spitsbergen của
started broadcasting in 1911, and a Scotland và Doanh nghiệp thám hiểm phương
prefabricated hotel (Hotellneset) was erected
Bắc.
as early as 1896 (later used by the Arctic CoalKhi cơn sốt than ngày càng gia tăng, các
Company). khu định cư lâu dài cũng tăng lên. Ngôi
trường đầu tiên ở Longyearbyen được xây
dựng vào năm 1920 bởi Nhà thờ Na Uy và
Doanh nghiệp than quốc doanh Na Uy, Store
Norske Spitsbergen Kulkompani, đài phát
In January 1920, Spitsbergen's largest thanh Svalbard bắt đầu phát sóng vào năm
mining disaster in the American mine (known 1911, và một khách sạn đúc sẵn (Hotellneset)
as Mine 1) killed 26 miners, and over the được xây dựng vào đầu năm 1896 (sau này
decades since, mining operations have closed được sử dụng bởi Doanh nghiệp Than Bắc
due to safety and environmental concerns. Cực).
Store Norske will close its last mine in the Vào tháng 1 năm 1920, thảm họa khai thác
Svalbard archipelago in 2023. mỏ lớn nhất Spitsbergen tại mỏ của người Mỹ
The Global Seed Vault (được gọi là Mỏ 1) đã giết chết 26 thợ mỏ và
Svalbard is best known today as a remote trong nhiều thập kỷ kể từ đó, các hoạt động
place in the high Arctic where khai thác mỏ đã phải đóng cửa do lo ngại về
Norwegian law requires residents to carry an toàn và môi trường. Store Norske sẽ đóng
guns to protect themselves against polar bears cửa mỏ cuối cùng ở quần đảo Svalbard vào
and where no burials or cats are allowed (due năm 2023.
to the permafrost and birdlife). Hầm hạt giống toàn cầu
Svalbard's future may be to save humanity. Svalbard ngày nay được biết đến nhiều
The Global Seed Vault (also called the nhất như một nơi xa xôi ở vùng cao Bắc Cực,
Doomsday Vault), situated deep inside a nơi luật pháp Na Uy yêu cầu cư dân phải
former Norwegian coal mine above mang theo súng để tự bảo vệ mình trước gấu
Longyearbyen airport, was built in 2008 to Bắc Cực và là nơi không được phép chôn cất
secure millions of seed samples from the hoặc nuôi mèo (do lớp băng vĩnh cửu và đời
world's crop collections. sống loài chim).
Tương lai của Svalbard có thể cứu nhân
loại. Hầm hạt giống toàn cầu (còn gọi là Hầm
ngày tận thế), nằm sâu bên trong một mỏ than
cũ của Na Uy phía trên sân bay
Longyearbyen, được xây dựng vào năm 2008
để bảo đảm hàng triệu mẫu hạt giống từ các
bộ sưu tập cây trồng trên thế giới.

You might also like